BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------
DƯƠNG DUY KHÁNH
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH CHỨNG CHỈ RỪNG
THEO NHÓM CÁC HỘ GIA ĐÌNH TRỒNG RỪNG SẢN XUẤT
TẠI XÃ TRUNG SƠN, HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
HÀ NỘI, 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -----------------
DƯƠNG DUY KHÁNH
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH CHỨNG CHỈ RỪNG THEO NHÓM CÁC HỘ GIA ĐÌNH TRỒNG RỪNG SẢN XUẤT TẠI XÃ TRUNG SƠN, HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ
Chuyên ngành: LÂM HỌC
Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH. NGUYỄN NGỌC LUNG HÀ NỘI, 2011
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ của mình, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Lâm học và
các Giảng viên trường đại học Lâm nghiệp Việt Nam đã nhiệt tình truyền đạt
những kiến thức quý báu cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
Luận văn Thạc sĩ.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Giáo sư, Tiến sỹ khoa
học Nguyễn Ngọc Lung - Người hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ thuộc Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu để hoàn thành Luận văn này.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến gia
đình; các anh, chị em và bạn bè trong lớp học, các đồng nghiệp, những người đã
đóng góp, giúp đỡ, động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ,
hướng dẫn và chỉ bảo từ GS.TSKH. Nguyễn Ngọc Lung. Các nội dung nghiên
cứu trong đề tài này là trung thực, các số liệu tham khảo có trích dẫn rõ ràng, các
kết quả nghiên cứu chưa từng được ai công bố trong bất cứ các công trình nghiên
cứu nào trước đây.
Nếu có phát hiện bất kỳ gian lận nào, tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội
đồng cũng như kết quả luận văn của mình.
Xin trân trọng cảm ơn,
Tác giả
Dương Duy Khánh
ii
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ i
MỤC LỤC ............................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................... v
DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................. vi
DANH MỤC HÌNH ẢNH .................................................................................. vii
ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................. 5
1.1. Tổng quan về chứng chỉ rừng ...................................................................... 5
1.1.1. Hội đồng quản trị rừng-FSC ............................................................. 5
1.1.2. Chứng chỉ rừng và sự phát triển ....................................................... 6
1.1.2.1. Trên thế giới: .................................................................................. 6
1.1.2.2. Tại Việt Nam .................................................................................. 9
1.1.3. Cơ chế hoạt động của CCR: ............................................................ 11
1.1.3.1. Cơ sở đánh giá CCR ..................................................................... 11
1.1.3.2.Chuỗi hành trình sản phẩm (CoC) ................................................. 15
1.1.3.3. Đơn vị cấp chứng chỉ .................................................................... 16
1.2. Tình hình xuất, nhập khẩu gỗ có CCR tại Việt Nam ................................ 19
1.2.1. Tình hình xuất khẩu gỗ: ................................................................... 19
1.2.2. Tình hình nhập khẩu gỗ: ................................................................. 25
1.3. Tiếp cận với cấp chứng chỉ rừng tại Việt Nam ......................................... 29
1.4. Các khó khăn trong quản lý rừng ở cấp quy mô nhỏ, lẻ khi tiếp cận với
chứng chỉ rừng và quản lý rừng bền vững ........................................................ 32
Chương 2: MỤC TIÊU, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................... 36
2.1. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................. 36
2.2. Cơ sở khoa học .......................................................................................... 36
iii
2.3. Tính khả thi của đề tài ............................................................................... 37
2.4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 37
2.5. Nội dung nghiên cứu ................................................................................. 37
2.6. Phương pháp nghiên cứu: .......................................................................... 38
Chương 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU ................. 39
3.1. Tổng quan về khu vực nghiên cứu ............................................................ 39
3.1.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................... 39
3.1.1.1.Vị trí địa lý ..................................................................................... 39
3.1.1.2. Địa hình ........................................................................................ 39
3.1.1.3. Khí hậu - Thủy văn ....................................................................... 40
3.1.1.4.Tài nguyên đất ............................................................................... 42
3.1.1.5. Tình hình sử dụng đất toàn huyện ................................................ 44
3.1.2. Tình hình kinh tế xã hội ................................................................... 44
3.1.2.1. Dân số huyện Gio Linh................................................................. 44
3.1.2.2. Thành phần dân tộc ...................................................................... 45
3.1.2.3. Lao động ....................................................................................... 45
3.1.2.4. Cơ sở hạ tầng ................................................................................ 45
3.1.3. Tài nguyên rừng .............................................................................. 47
3.1.3.1. Hệ thực vật.................................................................................... 48
3.1.3.2. Hệ động vật ................................................................................... 48
3.2. Tổng quan về xã Trung Sơn [16] ............................................................... 49
3.2.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................... 49
3.2.2. Các nguồn tài nguyên, khoáng sản .................................................. 50
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 52
4.1. Tình trạng trồng, chăm sóc, bán sản phẩm gỗ keo tại địa phương ............ 52
4.2. Diện tích rừng trồng đã được cấp chứng chỉ và quy trình cấp chứng chỉ FSC ... 54
4.3. Tổng quan mô hình CCR nhóm hộ gia đình thành công tại Gio Linh ...... 59
4.3.1. Tổng quan về nhóm CCR ................................................................. 59
iv
4.3.2. Cơ cấu tổ chức nhóm: ..................................................................... 59
4.3.3. Hoạt động nhóm: ............................................................................. 61
4.3.4. Quỹ phát triển nhóm:....................................................................... 65
4.3.5. Một số khó khăn trong công tác quản lý nhóm ............................... 66
4.4. Các khó khăn hiện các hộ trồng rừng đang gặp phải và các giải pháp thông
qua cấp CCR ..................................................................................................... 67
4.5. Đánh giá các lợi ích của người dân và của xã hội khi nhóm hộ tham gia
được cấp CCR ................................................................................................... 70
4.5.1. Đánh giá về lợi ích kinh tế .............................................................. 70
4.5.2. Đánh giá lợi ích về mặt xã hội ........................................................ 76
4.5.3. Đánh giá về lợi ích môi trường và quản lý rừng bền vững ............. 78
4.6. Các đề xuất bổ sung về chính sách và hướng dẫn thực hiện CCR theo
nhóm hộ phù hợp với điều kiện thực tế tại vùng nghiên cứu. .......................... 80
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................. 89
5.1. Kết luận ...................................................................................................... 89
5.1.1. Kết quả chính của đề tài .................................................................. 89
5.1.2. Các điểm mới của đề tài .................................................................. 90
5.2. Khuyến nghị............................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Hợp tác xã HTX
Quản lý rừng QLR
QLRBV Quản lý rừng bền vững
Tổng cục lâm nghiệp TCLN
Chứng chỉ rừng CCR
Hội đồng quản trị rừng FSC
Rừng quản lý theo quy mô nhỏ đầu tư thấp SLIMF
Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật hoang dã CITES
Tổ chức gỗ nhiệt đới Quốc Tế ITTO
Thực thi luật lâm nghiệp và thương mại FLEGT
Tên 1 đạo luật của Mỹ về nguồn gốc gỗ LACEY
Ngân hàng tái thiết Đức KfW
Cục kinh tế liên bang Thụy Sỹ SECO
Mạng lưới thương mại lâm sản toàn cầu GFTN
Cộng đồng các nước châu Âu EU
VIFORES Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam
Chuỗi hành trình sản phẩm CoC
Ban quản lý BQL
Công ty tư vấn cấp chứng chỉ của Đức GFA
Tổ chức phát triển Hà Lan SNV
Ủy ban nhân dân UBND
Chi cục lâm nghiệp CCLN
Nhóm chứng chỉ rừng cấp thôn VCG
Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên WWF
vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Tên bảng Trang
Thị trường xuất khẩu gỗ và sản phầm gỗ 6 tháng đầu năm 2011 24 1.1
Thị trường nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 6 tháng đầu năm 2011 28 1.2
Số liệu bình quân 5 năm các chỉ tiêu nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa 42 3.1
Hiện trạng sử dụng đất của huyện Gio Linh 44 3.2
Hiện trạng rừng huyện Gio Linh phân theo chức năng 47 3.3
Tổng diện tích rừng trồng keo có sổ đỏ xã Trung Sơn 52 4.1
Tổng hợp diện tích và lượng gỗ khai thác rừng có chứng chỉ 4.2
tại xã Trung Sơn (thôn Kinh Môn và Giang Xuân Hải) 71
Các chi phí cho cấp chứng chỉ (áp dụng cho diện tích dưới 2000ha) 72 4.3
Kinh phí thực hiện dự án cho nhóm Kinh Môn và Giang Xuân Hải 76 4.4
Phân tích SWOT 82 4.5
Đánh giá sai số trước và sau khai thác tại thôn Kinh Môn Áp 4.6
dụng công thức (1) 86
4.7 Tính sai số trước và sau khai thác tại thôn Kinh Môn
Áp dụng công thức (2) 87
vii
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Tên hình ảnh Trang STT
Sơ đồ địa giới hành chính tỉnh Quảng Trị 40 3.1
Sơ đồ tổng quát địa giới hành chính xã Trung Sơn 50 3.2
Sơ đồ diện tích các lô rừng được cấp chứng chỉ năm 2010 56 4.1
Phân tích chi phí khi đầu tư cho 3 loại rừng có và không có FSC 73 4.2
Phân tích thu nhập với loại gỗ tròn và gỗ dăm có và không có FSC 75 4.3
1
Như chúng ta đã biết, luật Bảo vệ và phát triển rừng cũng như Chiến lược
ĐẶT VẤN ĐỀ
lâm nghiệp Quốc Gia đã có những định hướng rõ ràng về quản lý rừng bền vững,
tuy nhiên nó vẫn chưa xây dựng được chính sách quản lý rừng (QLR) bền vững
cho nhiều loại rừng hiện có của nước ta hiện nay, đặc biệt là rừng trồng do các
hộ gia đình, các tổ chức cá nhân quản lý, khai thác và sử dụng. Trong chiến lược
phát triển lâm nghiệp Quốc Gia năm 2006 -2020, nhiệm vụ của ngành lâm
nghiệp cần phải quản lý bền vững 8,4 triệu ha rừng sản xuất trong đó có 4,15
triệu ha rừng trồng bao gồm rừng nguyên liệu công nghiệp tập trung, lâm sản
ngoài gỗ..., 3,36 triệu ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên và 0,62 ha rừng tự nhiên
phục hồi sản xuất nông lâm kết hợp. Bên cạnh đó, ngành lâm nghiệp còn quản lý
bền vững 5,6 triệu ha rừng phòng hộ và 2,16 triệu ha rừng đặc dụng [12].
Chứng chỉ rừng là một công cụ quan trọng trong việc quản lý bền vững
rừng, đặc biệt là rừng kinh doanh, thực chất đây là chứng chỉ ISO cung cấp cho
các đơn vị kinh doanh rừng, kinh doanh gỗ và lâm sản. Cho đến nay, đối tượng
rừng được cấp chứng chỉ tương đối rộng bao gồm cả chứng chỉ cho rừng tự
nhiên và rừng trồng. Trên thế giới, có khá nhiều nước áp dụng mô hình chứng
chỉ rừng và đã góp phần lớn trong việc quản lý rừng bền vững, đặc biệt là các
khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn và rừng đặc dụng, bên cạnh đó chứng chỉ
rừng còn mang lại các lợi ích về mặt kinh tế, xã hội và môi trường cho con
người. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, khái niệm về chứng chỉ rừng còn rất
mới mẻ, có rất ít các công ty lâm nghiệp, các tổ chức, cá nhân quan tâm đến nó,
có khi có quan tâm nhưng thực tế chưa biết bắt đầu từ đâu.
Vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá mô hình chứng chỉ rừng (CCR) thành
công để đề xuất các giải pháp, thậm chí bổ sung để hoàn thiên các tiêu chí đã và
được nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước quan tâm. Nó góp phần không
nhỏ trong việc cải thiện các chính sách quản lý rừng bền vững và hỗ trợ người
dân trong việc kinh doanh rừng đảm bảo được các yêu cầu về môi trường, kinh
tế và xã hội.
2
Trong vài thập kỷ qua, cảnh quan rừng tự nhiên nguyên sinh tại Việt Nam
nói chung và khu vực miền Trung Việt Nam nói riêng đang có chiều hướng suy
thoái nghiêm trọng. Hiện tại tại khu vực miền Trung Việt Nam có diện tích khoảng 7.300 km2, đã suy thoái và phân mảnh nghiêm trọng do các nguyên nhân
như hậu quả chiến tranh, khai thác gỗ bất hợp pháp, các tập quán canh tác lâm
nghiệp không bền vững và sự bành trướng của các giống cây ngoại lai. Việc độc
canh cây Keo và các loài cây khác tạo ra sự phân mảnh hơn là tái kết nối cảnh
quan rừng. Các khu rừng tự nhiên có giá trị bảo tồn cao suy thoái đang liên tục
được chuyển đổi thành các khu vực trồng cây rừng cho kinh tế với các chu kỳ
kinh doanh ngắn hạn. Nếu sự việc này vẫn được tiếp tục diễn ra với tốc độ ngày
càng tăng và tính nguyên vẹn của hệ sinh thái không được phục hồi, nhiều loài
đặc hữu tại khu vực sẽ đối mặt với sự tuyệt chủng trong tương lai gần. Việc quản
lý các khu vực rừng trồng cũng chưa được trú trọng, các khu rừng mang tính
phòng hộ vẫn được khai thác bừa bãi tùy vào điều kiện kinh tế của từng hộ làm
ảnh hưởng không nhỏ đến công tác phòng hộ của rừng.
Trên thế giới cũng như ở Viêt Nam, sự thành công của việc chứng chỉ cho
các đơn vị QLR (forest management unit) rộng lớn như Cty lâm nghiệp, lâm
trường quốc doanh, liên hiệp sản xuất, HTX lâm nghiệp... đã được khẳng định
trong 15 năm nay, ví dụ ở Viêt Nam Công ty trồng rừng QFPL Quy Nhơn, lâm
trường Đoan Hùng, lâm trường Vân Đài (Phú Thọ) đã được cấp chứng chỉ QLR
bền vững, nhưng chứng chỉ QLR bền vững cho cá nhân hay hộ gia đình với quy
mô nhỏ từ vài ba ha tới vài ba chục ha (gọi là SLIMF) gộp lại thành nhóm thì
đây là mô hình đầu tiên, nếu có kinh nghiệm tốt sẽ có tác động lớn đến diện tích
rừng phân tán nhưng diện tích rừng rất rộng lớn của người dân nông thôn, vùng
sâu, vùng xa. Có thể nói „Chứng chỉ rừng (Forest Certification) chính là sự xác
nhận bằng văn bản rằng một đơn vị quản lý rừng đã đạt được các tiêu chuẩn
quản lý rừng của tổ chức cấp chứng chỉ“ [12].
Hiện nay, nhiều người tiêu dùng đã nhận thức được tầm quan trọng của
các mặt hàng đồ gỗ được cấp chứng chỉ rừng, thậm chí hội người tiêu dùng tại
Anh, Hà Lan còn có xu hướng tẩy chay sử dụng các loại hàng không có nguồn
3
gốc xuất xứ. Nhu cầu đối với gỗ nhiệt đới đã được chứng chỉ ở thị trường châu
Âu và Mỹ đã vượt quá cung. Hiện có hơn 8.000 sản phẩm trên khắp thế giới có
mang biểu trưng của chứng chỉ rừng FSC (Hội đồng quản trị rừng thế giới) từ
cửa gỗ đến lược chải đầu, từ văn phòng phẩm đến giấy vệ sinh. Ngày nay, mạng
lưới lâm sản toàn cầu, một nhóm các tổ chức và công ty cam kết sản xuất và
buôn bán gỗ và lâm sản đã được chứng chỉ, đã có mạng lưới ở 18 quốc gia khác
nhau trên khắp thế giới với hơn 600 thành viên. Theo kết quả thống kê nhu cầu
sử dụng hàng có chứng chỉ rừng đã gia tăng với tỉ lệ 2-3% mỗi năm ở Anh. Ở Hà
Lan có 500 công ty cùng với nhà nhập khẩu gỗ nhiệt đới lớn nhất ở châu Âu và lớn
thứ 2 trên toàn thế giới, hiện đã cam kết chỉ mua sản phẩm đã có GSC. Các mạng
lưới bán lẻ rất lớn từ Anh và Mỹ cũng hoạt động với vai trò xúc tác cho những thay
đổi bởi họ đang gia tăng yêu cầu cung cấp gỗ đã được chứng chỉ. [41].
FSC gọi phương pháp này là CCR theo nhóm, phương pháp này có điều
kiện mở rộng vì nhà nước Viêt Nam đã giao quyền quản lý sử dụng tới 3,287
triệu ha rừng trồng và rừng tự nhiên cho hộ gia đình và cá nhân (TCLN, 2010),
và đề tài luận văn này sẽ cố gắng nghiên cứu để bổ sung đóng góp cho mô hình
này sao cho ngày càng phù hợp với thể chế chính sách , luật tục và truyền thống
canh tác, quản lý của địa phương. Mặc dù chứng chỉ rừng vừa có thể tăng khả
năng tiếp cận thị trường, vừa đem lại lợi ích về mặt kinh tế, môi trường và xã hội
cho người dân nhưng nó cũng đòi hỏi khung chính sách có tính chất hỗ trợ từ các
cấp chính quyền địa phương, trung ương đến các cộng đồng quốc tế để nó có thể
thực tế hóa các tính năng đó. Quá trình áp dụng chứng chỉ rừng tại nước ta cần
phải xem xét đánh giá lại một cách có hệ thống đảm bảo giảm thiểu các tác động
tiêu cực và đẩy mạnh công tác quản lý rừng có trách nhiệm. Trên cơ sở đó đúc
rút kinh nghiệm để có thể áp dụng đảm bảo chứng chỉ rừng là một trong những
công cụ quan trọng trong việc quản lý rừng bền vững và có trách nhiệm.
Tiêu chuẩn QLRBV là mức độ cao chung cho toàn thế giới, thể chế và
các chính sách QLR ở mỗi vùng, mỗi quốc gia lại khác nhau, vì vậy thông qua
việc đánh giá của tổ chức cấp CCR, ta có điều kiện xem xét sự chênh lêch của
các quy định đó không những chỉ nhằm đưa năng lực QLR của ta dần dần đạt tới
4
trình độ quốc tế, mà còn tạo điều kiện dễ dàng cho các chủ rừng Việt Nam thuận
lợi trong việc xin cấp CCR, đó cũng chính là mục đích, là nội dung đóng góp của
công trình này vào việc thực hiện tiến trình QLRBV trong chiến lược phát triển
lâm nghiệp 1996-2020[12].
Với mục tiêu nhằm chuyển hướng lại xu thế này cũng như để giảm thiểu
các tác động tiêu cực, quản lý rừng có trách nhiệm đảm bảo không ảnh hưởng
đến công tác phòng hộ của rừng được nhiều cơ quan, tổ chức trong và ngoài
nước quan tâm. Hiện tại trên địa bàn tỉnh Quảng Trị cũng có nhiều các tổ chức,
cá nhân khác nhau tham gia vào hoạt động hỗ trợ các hộ gia đình cấp chứng chỉ
rừng nhằm đảm bảo được chu kỳ kinh doanh dài hơn cho rừng và tăng cường thu
nhập cho người dân thông qua việc bán gỗ có chứng chỉ. Tuy nhiên hoạt động
này mới thực hiện được một số ít các điểm trên địa bàn của tỉnh. Trên cơ sở đó,
việc nghiên cứu đánh giá mô hình Chứng chỉ rừng theo hướng quản lý từng bền
vững theo nhóm hộ gia đình tại xã Trung Sơn, huyện Gio Linh nhằm bổ sung
hướng dẫn chứng chỉ rừng theo nhóm phù hợp với điều kiện Miền Trung Việt
Nam là vấn đề cấp thiết, cần thiết phải thực hiện để nhân rộng, đảm bảo cho việc
duy trì và phát triển hệ sinh thái, cảnh quan rừng một cách bền vững hơn.
5
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về chứng chỉ rừng
1.1.1. Hội đồng quản trị rừng-FSC
Hội đồng quản trị rừng (FSC) là một mạng lưới toàn cầu, được thành lập
vào tháng 10 năm 1993 tại Toronto, Canada với 130 thành viên đến từ 26 quốc
gia. Trong những ngày đầu, tổ chức đặt trụ sở tại Oaxaca, Mehico, sau này
chuyển đến thành phố Bonn của CHLB Đức. Sau khi được thành lập, tổ chức
này được đông đảo các tổ chức về kinh tế, xã hội và môi trường quan tâm, tín
nhiệm. Họ cũng đã đưa ra được 10 nguyên tắc và nhiều các tiêu chí về quản lý
rừng bền vững, có trách nhiệm làm căn cứ đánh giá thẩm định chứng chỉ rừng,
các tiêu chí chi tiết dựa vào từng nguyên tắc cụ thể. Trên thực tế, hội đồng quản
trị rừng không trực tiếp cấp chứng chỉ cho các đơn vị tập thể hoặc cá nhân mà họ
ủy quyền cho các đơn vị cấp chứng chỉ có uy tín trên thế giới thực hiện các hoạt
động đánh giá, thẩm định và cấp chứng chỉ. Cho đến nay có đến 27 tổ chức được
ủy quyền cấp chứng chỉ rừng trong đó có các tổ chức lớn, có tên tuổi và uy tín
như Smartwood, GFA, SCS...[29].
Tại Thụy Điển hàng năm có lớp đạo tạo quốc tế SSC Forestry (Svensk
Skogscertifiering AB) về Chứng Chỉ Rừng (CCR) để giúp các nước trên thế giới
đào tạo nguồn nhân lực cho các quốc gia có nhu cầu thành lập các tổ chức sáng
kiến quốc gia hay CCR Quốc gia để thực hiện quản lý bảo vệ rừng bền vững.
Ở Việt nam, năm 1998 đã thành lập Tổ công tác Quốc Gia về QLRBV và
CCR.(NWG), từ năm 2006 đổi tên là Viện QLRBV & CCR (SFMI), được FSC
gọi chung là sáng kiến quốc gia
Mục tiêu của Hội đồng quản trị rừng (FSC) là thúc đẩy quản lý rừng trên
thế giới một cách hợp lý về mặt môi trường, có ích lợi về mặt xã hội và có thể
6
thực hiện được về mặt kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu này, FSC đã đưa ra
các tiêu chí thực hiện là:
- Đẩy mạnh việc áp dụng các nguyên tắc và tiêu chí về quán lý rừng đối
với tất cả các loại rừng trên toàn thế giới thông qua một chương trình ủy nhiệm
tình nguyện cho các cơ quan cấp chứng chỉ.
- Tiến hành các hoạt động giáo dục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng
của việc tăng cường quản lý rừng
- Hướng dẫn và giúp đỡ các đơn vị, tổ chức, cá nhân, các nhà hoạch định
chính sách, các cơ quan quản lý rừng, các cơ quan lập phápvề lĩnh vực quản lý rừng.
FSC cũng khuyễn khích và hỗ trợ các sáng kiến quốc gia và khu vực nhằm
phi tập trung công việc và thúc đẩy sự tham gia của địa phương như: người liên hệ
với FSC, nhóm làm việc FSC, Văn phòng FSC cấp quốc gia, vùng...
Vấn đề cấp chứng chỉ rừng như là một biện pháp đảm bảo quản lý rừng
bền vững và hợp lý về mặt môi trường. Vấn đề này có thể sẽ gây ra nhiều mối lo
ngại hơn là đóng góp một phần vào việc bảo tồn nguồn tài nguyên rừng đang bị
cạn kiệt. Tình hình ngày càng căng thẳng khi việc cấp CCR gây nhiều tranh cãi
và lộn xộn như hiện nay. Tuy nhiên FSC cũng đã chứng minh được tính khách
quan và thực tế của mình trong việc đánh giá, cấp chứng chỉ và đặc biệt nó nhấn
mạnh nhiều được về các điểm môi trường, kinh tế và xã hội, do vậy nó được
nhìn nhận một cách đúng đắn hơn trong việc đánh giá và cấp chứng chỉ hiện tại.
1.1.2. Chứng chỉ rừng và sự phát triển
1.1.2.1. Trên thế giới:
Trên thế giới chứng chỉ rừng được xem xét từ nhiều khía cạnh nhưng thường
thì được coi là một công cụ hỗ trợ chính sách đồng thời đó cũng làm một quá
trình giúp cho công tác quản lý rừng tại địa phương được tốt hơn. Trong cả hai
trường hợp nêu trên thì chứng chỉ rừng có 02 mục tiêu chính là: (1) Cải thiện
thực tiễn quản lý rừng và (2) tạo ra những thuận lợi về mặt thị trường cho người
sản xuất và các sản phẩm được cấp chứng chỉ. Việc sử dụng các công cụ kinh tế
7
để bảo vệ môi trường được các chuyên gia về kinh kế và các tổ chức quốc tế lớn
trên thế giới (OECD-Tổ chức phát triển kinh tế hoặc WB-ngân hàng thế giới)
khuyến khích trong gần hai thập kỷ qua. Trong một đánh giá gần đây, tổ chức
phát triển quốc tế (OECD) đã coi chứng chỉ làm một khuyến khích kinh tế gián
tiếp với định nghĩa là: “Bất kỳ một cơ chế nào tạo ra hoặc cải thiện các tín hiệu
thị trường và giá cả đối với tài nguyên sinh học, khuyến khích bảo tồn và sử
dụng bền vững tính đa dạng sinh học”.
Tại Đức, chính phủ thông báo chỉ mua gỗ có nguồn gốc hợp pháp trên cơ
sở quản lý rừng bền vững. Hệ thống cấp chứng chỉ PEFC được sử dụng như một
công cụ chứng minh tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ. Chính phủ
liên bang đã xây dựng bộ quy chế nhằm chống lại việc khai thác gỗ bất hợp pháp
và khẳng định để ngăn chặn sự suy thoái của rừng thì việc áp dụng các phương
pháp quản lý rừng bền vững là một việc làm bắt buộc và rất cần thiết.
Tại Phần Lan, lâm nghiệp được quản lý ở quy mô nhỏ với cấp hộ gia đình
là chính. Tại đây hiện tại có hơn 400 nghìn chủ sở hữu rừng quy mô nhỏ cung
cấp tới hơn 80% tổng số gỗ cho cả nước với quy mô hơn 60% sở hữu với diện
tích nhỏ hơn 20ha. Việc cấp chứng chỉ ở đây được thực hiện từ những năm 1990
theo hình thức tự nguyện, các chủ rừng có thể làm đơn xin cấp chứng chỉ cho cá
nhân hoặc theo nhóm. Việc thanh tra kiểm tra sẽ được tiến hành hàng năm áp
dụng cho các chủ rừng được lựa chọn bất kỳ, kết quả thanh tra do một cơ quan
độc lập thẩm định. Hiện tại hệ thống cấp chứng chỉ rừng của Phần lan có 37 tiêu
chuẩn áp dụng trên toàn quốc.
Tại Thụy Điển, FSC thành lập một nhóm xây dựng bộ chứng chỉ từ năm
1996, thành phần của nhóm xây dựng bao gồm đại diện các doanh nghiệp lâm
nghiệp, chính quyền, các viện nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ... và đến
năm 1998 nội dung cơ bản của bộ công cụ đã được hoàn thành. Hệ thống chứng
chỉ rừng ở đây có thể được đánh giá là nghiêm khắc nhất trong tất các các hệ
thống đang áp dụng cấp chứng chỉ hiện nay trên thế giới. Nó được xây dựng với
8
mục tiêu bảo tồn thiên nhiên trong cả các khu vực rừng sản xuất vì vậy những
chủ rừng lớn và các cơ quan trong chính phủ phải lồng ghép những quy định bắt
buộc đó vào các văn bản hướng dẫn. Cũng tại nước này, các tiêu chuẩn cấp
chứng chỉ rừng của FSC là điều kiện bắt buộc phải thực hiện do vậy sản lượng
rừng của nước này tăng lên đáng kể. Hiệp hội liên minh các chủ rừng ban đầu rất
tích cực tham gia đàm phán về hệ thống các tiêu chuẩn của FSC, tuy nhiên nhiều
tiêu chuẩn trong hệ thống không được họ đồng tình và hệ thống cấp chứng chỉ
của Thụy Điển bị chỉ trích dữ dội từ phí các chủ rừng. Một trong những nguyên
nhân chủ yếu là tiêu chuẩn ở đây không phù hợp với các chủ rừng quy mô nhỏ
với diện tích nhỏ là các cá nhân hộ gia đình. FSC cũng có đề nghị cấp chững chỉ
cho một nhóm các hộ gia đình chủ rừng nhỏ nhưng hiệp hội liên minh rừng
không đồng ý, họ cho rằng không thể cấp chứng chỉ cho hàng ngàn chủ hộ có
diện tích rừng quy mô nhỏ trong khi các hoạt động buôn bán lâm sản của họ diễn
ra ở khắp nơi, như vậy khó có thể truy xuất ra nguồn gốc nguyên liệu gỗ để sản
xuất ra sản phầm. Các chủ rừng giữ quan điểm cho rằng hệ thống cấp chứng chỉ
phải được hài hòa cấp quốc tế và là quy tắc tương đồng với tiêu chuẩn của các
nước khác. Như vậy có thể đánh giá bộ tiêu chuẩn FSC tại đây đã gây ra thiệt hại
về kinh tế với chủ rừng là tư nhân hoặc các hộ gia đình cá nhân vì theo ước tính
của FSC nếu áp dụng tiêu chuẩn đó thì sẽ có tới 14% diện tích rừng không được
khai thác để dùng cho mục tiêu bảo tồn.
Tại Canada, chính phủ nước này chính thức cam kết quản lý rừng bền
vững bằng việc xây dựng và phê duyệt chiến lược lâm nghiệp quốc gia và quản
lý rừng bền vững vào năm 1992. Hiện nay Canada có tới hơn 20triệu ha rừng đã
được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững lớn nhất trên thế giới
Tại Châu Á, từ những năm 1990, khi thảo luận về các vấn đề về rừng thì
việc quản lý rừng bền vững và cấp CCR luôn được thảo luận sôi nổi hơn cả, việc
đưa ra các tiêu chuẩn cũng được cân nhắc để đảm bảo tính hợp lý và phù hợp với
chính sách của từng nước khác nhau. Tuy nhiên do ở Châu Á có nhiều kiểu rừng
9
khác nhau nên việc đưa ra một bộ tiêu chuẩn để áp dụng chung vẫn chưa thực
hiện được. Cấp CCR được khẳng định là công cụ quan trọng và là công cụ chính
sách mạnh mẽ nhất trong quản lý rừng được các nước trong khu vực Châu Á
khẳng định. Để tham gia vào các hoạt động cấp CCR theo các nước trên thế giới,
Châu Á cũng dần dần tham gia vào các hoạt động cho việc cấp CCR như: tham
gia vào các cuộc họp thượng đỉnh Trái đất năm 1992 và là thành viên của tổ
chức ITTO, xây dựng các bảng tiêu chuẩn quốc gia dựa trên các nguyên tắc và
tiêu chí của FSC và đã có một số diện tích rừng tự nhiên, rừng trồng được cấp CCR.
Tuy nhiên thành tựu của các nước Châu Á còn bị hạn chế nhiều do gặp nhiều khó
khăn trong việc cấp chứng chỉ rừng do tính bền vững chưa có, các khó khăn về chính
sách đất đai, nạn khai thác và buôn bán gỗ bất hợp pháp vẫn là vấn đề ảnh hưởng lớn
đến quản lý rừng và cấp CCR.
Trên thực tế trên thế giới tới tháng 9 năm 2011 có tới 79 Quốc gia được
cấp chứng chỉ với 1062 chứng chỉ FM cho tổng diện tích là 143,91 triệu ha, tổng
cộng có 107 Quốc gia được cấp chứng CoC với tổng số chứng chỉ là 21.439[28].
Thực tế này chứng minh sự phổ biến và tuân thủ của các đơn vị/cá nhân đối với
bộ tiêu chuẩn của FSC[29].
1.1.2.2. Tại Việt Nam
Việt Nam đã tham gia hoạt động cấp CCR từ những năm 1998 cho tới
nay, tuy nhiên việc cấp chứng chỉ chỉ áp dụng cho các khu vực rừng trồng chứ
chưa cấp cho bất cứ một khu vực rừng tự nhiên nào. Việc cấp chứng chỉ rừng tại
Việt Nam ban đầu đã nhận được sự ủng hộ của các cấp chính quyền địa phương,
sự hăng hái và tự nguyện của các chủ rừng và tiến trình đi đến quản lý rừng bền
vững để đạt được chứng chỉ rừng đã đạt được một số tiến bộ nhất định, nhất là
tại các khu vực khai thác chế biến xuất khẩu gỗ hoặc các công ty lâm nghiệp có
liên quan đến xuất khẩu gỗ. Việc áp dụng chứng chỉ rừng như một công cụ để
quản lý bền vững rừng và tài nguyên thiên nhiên thực sự đang là vấn đề cần thiết
ở các cấp độ chính quyền địa phương, các công ty lâm nghiệp, các đơn vị cá
10
nhân là các chủ rừng quy mô nhỏ lẻ. Đặc biệt trong bối cảnh chung hiện nay trên
toàn thế giới, nếu chúng ta không năng động hội nhập thị trường thế giới thì sẽ bị
bỏ xa, chẳng hạn như sản phẩm lâm sản của chúng ta sản xuất từ các sản phẩm
gỗ không có chứng chỉ thì chúng ta không thể xuất sang các thị trường “béo bở”
trên thế giới được. Do vậy việc áp dụng công cụ hoặc phương pháp/tiêu chuẩn
trong quản lý rừng để đạt được đến cấp chứng chỉ rừng là mục tiêu hàng đầu của
các công ty lâm nghiệp của cả khối nhà nước và khối tư nhân .
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, các trở ngại dần dần cũng xuất hiện, đó
là quá trình chuyển đổi các chủ rừng quan lý theo cơ chế bao cấp nhà nước như
một đơn vị sự nghiệp lâm nghiệp sang hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
theo pháp luật hiện hành, các lâm trường quốc doanh đổi tên thành các công ty
lâm nghiệp ngoài việc quản lý rừng, khai thác gỗ họ còn được cấp kinh phí cho
việc giữ gìn an ninh trật tự, vận động người dân thực hiện các chính sách giáo
dục, y tế, văn hóa, xã hội... Trước đây các kế hoạch trồng rừng, khai thác gỗ đều
do nhà nước cấp chỉ tiêu và hầu hết có ít các lâm trường có thể tự điều tra trữ
lương, sản lượng khai thác, thiết kế khai thác... mà hầu hết họ phải thuê hoặc
khoán cho các tổ chức/cá nhân khác từ bên ngoài vào làm, do đó động lực để cho
các chủ rừng tiến hành làm chứng chỉ rừng ngày càng giảm đi rõ rệt, có những chủ
rừng không quan tâm đến CCR hoặc có quan tâm thì chỉ ở mức độ biết, để đấy.
Năm 2004, chính phủ ra nghị định số 200/2004/NĐ-CP về đổi mới các
lâm trường quốc doanh, giao quyền tự chủ kế hoạch và tự chủ về tài chính cho
các lâm trường và đổi mới các lâm trường thành các doanh nghiệp sản xuất lâm
nghiệp. Ngược lại với các chủ rừng, các đơn vị kinh doanh rừng và lâm trường,
các cơ sở chế biến lâm sản lại phát triển manh mẽ và vươn tới các thị trường có
lợi nhuận cao trên thế giới mà yêu cầu của các thị trường này là gỗ phải có
nguồn gỗ hợp pháp và được quản lý bền vững, có nghĩa là gỗ phải có CCR. Do
vậy các doanh nghiệp này cần phải có một hệ thống quản lý chặt chẽ để có thể
truy được nguồn gốc gỗ mà họ sử dụng và cần nguồn nguyên liệu được cấp
11
chứng chỉ rừng theo các nguyên tắc mà FSC đã quy định được áp dụng tại khu
vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng [13]. Kết quả của Nghị định số
200/2004/NĐ-CP là đổi được tên tất cả các "Lâm trường" (2 từ) thành
"CTTNHHMTVLN" (11 từ), và các Lâm trường trả lại tổng diện tích khoảng 1,2
triệu ha rừng tự nhiên cho UBND các xã quản lý. Cho đến nay các rừng tự nhiên
này từ có người quản lý thành không có người quản lý[11].
Kết quả kiểm kê rừng (Viện điều tra rừng, 2000) cho thấy, tổng trữ lượng
gỗ cây đứng toàn quốc là 721 triệu m2. Nếu tổ chức quản lý kinh doanh hợp lý
hàng năm có thể khai thác tối thiểu là 1 %, tương đương 7 triệu m2, như vậy sau
chương trình hạn chế khai thác rừng tự nhiên nghèo kiệt (1997-2010), thường
gọi là “đóng cửa rừng tự nhiên” trong 15 năm, sẽ không chỉ có 105 lâm trường
khai thác gỗ hiện nay mà sẽ lại tăng lên gấp 2-3 lần với tổng trữ lượng cây đứng
7 triệu m3/năm còn năm dưới lượng tăng trưởng hàng năm 1% của rừng.
(Nguyễn Ngọc Lung, 2001)[10].
Hiện tại, nước ta là một trong năm nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu
hàng hóa đồ gỗ nhưng thị trường cung cấp nguồn nguyên liệu có chứng chỉ rừng
hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu. Do vậy việc tìm kiếm các nguồn
gỗ có chứng chỉ với giá thành đáp ứng được yêu cầu ngày càng được các đơn vị
kinh doanh về lâm sản quan tâm hàng đầu. Đây cũng có thể được đánh giá là
một động cơ để khuyến khích các cơ sở kinh doanh, các công ty lâm nghiệp phối
hợp với các chủ rừng để tiến hành thực hiện các hoạt động cấp chứng chỉ rừng,
đáp ứng được yêu cầu của các nước nhập khẩu đề ra và cải thiện được tình trạng
quản lý rừng hiện tại của nước ta cũng như tăng được các lợi ích về môi trường,
kinh tế, xã hội cho các chủ rừng, các cấp chính quyền địa phương và người dân.
1.1.3. Cơ chế hoạt động của CCR:
1.1.3.1. Cơ sở đánh giá CCR
Các nước trên thế giới hiện nay đang nỗ lực thể hiện các chính sách, pháp
luật và các hành động liên quan đến bảo vệ rừng, quản lý rừng bền vững và có
12
trách nhiệm thông qua tiến trình xây dựng những tiêu chí và chỉ tiêu để cụ thể
hóa hoạt động quản lý rừng và giám sát chặt chẽ các hoạt động này. Mỗi quan hệ
giữa CCR và các tiến trình liên chính phủ nhằm xây dựng các tiêu chí và chỉ thị
cho quản lý rừng bền vững có tính bổ sung, hỗ trợ. Những sáng kiến như tins
trình liên Âu tại Châu Âu, tiến trình Tarapota tại Châu Mỹ Latinh, tiến trình
Montreal tại những nước vùng ôn đới và hàn đới nhằm mục tiêu cải thiện chất
lượng thông tin cấp quốc gia và hiện trạng rừng. Chứng chỉ rừng thì hoàn toàn
khác vì nó mang tính chuẩn mực chứ không manh tính miêu tả và hoạt động ở
cấp quản lý với vai trò là một khuyến khích thị trường. Nhưng ở đây lại có sự bổ
sung và tương hỗ lẫn nhau là vì vcác số liệu có được từ các tiến trình xây dựng
các tiêu chí, chỉ thị có thể giúp xây dựng các tiêu chuẩn chững chỉ và ngược lại
thông tìn về các khu rừng đã được cấp chứng chỉ có thể sử dụng trong các tiến
trình xây dựng tiêu chí và chỉ thị.
Tại châu Âu có 32 quốc gia tham gia tiến trình Pan European -Helsinki
vào năm 1994. Tiến trình này đã xây dựng các tiêu chuẩn và chỉ số theo nguyên
tắc quản lý rừng vền vững ở châu Âu. Kết quả có 6 tiêu chí và 20 chỉ số (C&I)
định lượng được xác định (FAO) 2001)[32]. Tổ chức gỗ nhiệt đới (ITTO) có 52
quốc gia trong đó có 33 quốc gia sản xuất gỗ nhiệt đới và 27 quốc gia tiêu thụ
sản phẩm (ITTO member page)[30]. Trong những năm 90, ITTO đã đi tiên
phong trong việc xây dựng tiêu chuẩn để đo lường quản lý rừng nhiệt đới bền
vững và đã xác định được 7 tiêu chí và 27 chỉ số tập trung trước hết vào cơ sở
pháp luật và thể chế quản lý rừng bền vững và tập trung vào đối tượng là rừng
khai thác gỗ, chưa có cho rừng đa mục tiêu. Sau đó bảng chỉ số này được điều
chỉnh vào lần 2 năm 1998 và lần 3 vào năm 2005[31]. Trung tâm nghiên cứ lâm
nghiệp quốc tế (CIFOR) cũng đưa ra bộ tiêu chuẩn QLRBV với 8 tiêu chí trong
khi đó tiến trình Montréal được nhiều nước ôn đới đề xuất bộ tiêu chuẩn 7 tiêu
chí ra đời lần đầu vào tháng 2 năm 1995 tại Santiago, Chile và đã được sửa đối
lần 3 vào tháng 12 năm 2007. (Website về Tiến trình Montreal)[34].
13
Tương tự như vậy, FAO năm 1995 và tổ chức Môi trường Liên hiệp quốc
đã hỗ trợ các nước châu Phi và vùng Cận Đông tổ chức hội thảo tại Nairobi,
Kenya và đưa ra 7 tiêu chí với 47 chỉ số cho vùng rừng khô hạn châu Phi và 7
tiêu chí, 65 chỉ số cho vùng Cận Đông[35]. Năm 1997, tổ chức FAO và Môi
trường và Phát triển Trung Mỹ cũng họp đề xây dựng tiêu chuẩn và chỉ tiêu cho
các nước thành viên. Kết quả là có 8 tiêu chí và 52 chỉ số cho cấp quốc gia và 4
tiêu chí cùng 40 chỉ số cho cấp vùng. (FAO, 2001)[26].
Tùy điều kiện mỗi quốc gia khác nhau trên thế giới mà việc xây dựng tiêu
chuẩn quốc gia về quản lý rừng bền vững trên cơ sở thảo luận và nhất trí giữa
các tổ chức môi trường, kinh tế và xã hội phù hợp với công ước quốc tế về môi
trường và đao dạng sinh học như CITES, TFAP... có thể dựa trên các nguyên tắc
quản lý bảo vệ rừng của hội đồng quản trị rừng. Tiêu chuẩn phải bao gồm các
tiêu chí cụ thể về môi trường, kinh tế, xã hội phù hợp với đối tượng được chứng
chỉ rừng (CCR cho rừng tự nhiên hoặc rừng trồng) và với điều kiện của từng
vùng sinh thái hoặc trên phạm vi cả nước. Trong tài liệu hướng dẫn của ITTO về
quản lý bền vững rừng tự nhiên nhiệt đới[37] thì những quy định tập trung vào
41 nguyên tắc cụ thể với 03 mục lớn như: (1) Chính sách pháp luật; (2) Quản lý
rừng và (3) là những vấn đề kinh tế xã hội và tài chính. Trong mỗi nguyên tắc lại
có các hoạt động cụ thể quy định các công việc cần làm để đảm bảo tuân thủ các
nguyên tắc đề ra.
Trong tài liệu những nguyên tắc và tiêu chí quản lý rừng của FSC đưa ra
gồm có 10 nguyên tắc áp dụng cho tất các các loại rừng tự nhiên và rừng trồng
kể cả rừng sản xuất gỗ và các loại rừng cho ra các sản phẩm khác ngoài gỗ [17].
Các nguyên tắc và tiêu chí phải bao gồm tất cả các khía cạnh liên quan đến quản
lý kinh doanh rừng và tuân thủ các chính sách pháp luật, quyền và trách nhiệm
sử dụng đất, quyền của các cộng đồng địa phương, phân chia lợi nhuận, khuyến
khích đa dạng hóa sản phẩm, chống ô nhiễm môi trường, kiểm tra đánh giá,
chăm sóc bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường, xã hội... Tuy nhiên các chủ rừng
14
không nhất thiếp phải đáp ứng được toàn bộ các tiêu chí trên thì mới được cấp
chứng chỉ, việc này còn tùy thuộc vào việc tổ chức thực hiện chứng chỉ nhưng
phải đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc quan trọng nhất liên quan đến các yếu
tố môi trường, xã hội.
Chứng chỉ rừng không thể thay thế những biện pháp quản lý bảo vệ rừng
truyền thống như chính sách pháp luật, công ước, chương trình hay kế hoạch
hành động của địa phương, nước sở tại. Tuy nhiên tùy theo điều kiện thì chứng
chỉ rừng là một công cụ hữu hiệu khuyến khích áp dụng quản lý rừng bền vững
và thu hút các tầng lớp xã hộ tham gia trong quá trình hội nhập và phát triển.
Nhiệm vụ chính của FSC là thúc đẩy việc quản lý rừng trên thế giới một
cách hợp lý về mặt môi trường, có lợi ích về mặt xã hội và kinh tế.
a) Lợi ích về môi trường:
Đảm bảo cho tất cả mọi người tham gia vào thương mại lâm sản rằng các
đóng góp của họ sẽ giúp đỡ việc bảo tồn hơn là hủy diệt rừng, con người và cuộc
sống thông qua các hoạt động.
Bảo tồn đa dạng sinh học và các giá trị khác như nước, đất…
Duy trì các chức năng sinh thái và thể thống nhất của rừng.
Bảo vệ các loại động, thực vật quý hiếm và môi trường sống của chúng.
b) Lợi ích về xã hội:
Đảm bảo quyền con người được tôn trọng. Nhiệm vụ chính là yêu cầu có
sự tham gia của nhiều thành phần có liên quan khi xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc
gia hay khu vực. Điều này có nghĩa rằng tất cả các hoạt động laâ nghiệp phải
được sự đồng thuận cảu các nhóm dân tộc thiểu số hoặc cộng đồng địa phương.
Ví dụ: các phương thức sử dụng rừng truyền thống như thu lượm hoa, quả, củi, vật
liệu xây dựng hoặc cây thuốc phải được cân nhắc để đảm bảo cuộc sống của họ.
c) Lợi ích về kinh tế:
Đó là chủ rừng cần phải cố gắng đạt được cách sử dụng tối ưu và chế biến
tại chỗ các sản phẩm đa dạng của rừng, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi
15
trường nơi khai thác và chế biến. FSC xây dựng 10 nguyên tắc và tiêu chuẩn cho
quản lý rừng bền vững. Các nguyên tắc và tiêu chuẩn này phù hợp với tất cả các
loại rừng: ôn đới, nhiệt đới, rừng tự nhiên và rừng trồng.
Từ các nguyên tắc và tiêu chuẩn đó, các quốc gia, khu vực tham gia vào
tiến trình quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng sẽ xây dựng các bộ tiêu
chuẩn quốc gia riêng để đánh giá và phù hợp với các điều kiện cụ thể của mình.
Các bộ tiêu chuẩn này cần phải được sự phê chuẩn của FSC trước khi được sử
dụng để đánh giá cấp chứng chỉ tại quốc gia hoặc khu vực đó.
1.1.3.2.Chuỗi hành trình sản phẩm (CoC)
Từ một cây gỗ, để có thể trở thành một thành phẩm gỗ, cần phải trải qua
nhiều bước, bao gồm từ khai thác, chế biến và sản xuất sơ cấp và thứ cấp, phân
phối và tiêu thu. Quá trình này được gọi là chuỗi-hành-trình-sản-phẩm. Bằng
cách kiểm định từng bước trong quá trình này, chứng chỉ chuỗi hành trình sản
phẩm (CoC) đảm bảo với khách hàng rằng các sản phẩm đã được chứng chỉ mà
họ mua thực sự có nguồn gốc từ một khu rừng đã được chứng chỉ. Sản phẩm của
các công ty đã được chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm có thể được mang
nhãn FSC.
Bước đầu tiên cho một công ty muốn thực hiện chững chỉ chuỗi hành trình
sản phẩm là phải xác định tất cả điểm kiểm soát gỗ tập kết (CCP’s). Điểm kiểm
soát gỗ tập kết là điểm mà gỗ nguyên liệu đã được chứng chỉ và chưa được
chứng chỉ có khả năng bị trộn lẫn với nhau. Ở mỗi điểm đã xác định sẽ cần sự
kiểm soát để đảm bảo rằng gỗ sẽ không bị trộn lẫn. Trong hầu hết các trường
hợp, CCP’s sẽ bao gồm:
- Việc thu mua nguyên liệu gỗ
- Đầu vào tốt
- Kiểm tra trong sản xuất
- Hàng hóa thành phẩm và lưu kho
- Việc bán hàng
16
Cách thức mà CCP’s có thể ngăn cản được việc trộn lẫn gỗ đã được chứng
chỉ và chưa được chứng chỉ là thông qua việc kết hợp xác nhận và xác minh gỗ,
phân loại gỗ và chứng từ phù hợp, cùng với việc đào tạo chuyên môn đầy đủ.
Hướng dẫn chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm thay đổi tùy theo các cơ quan
cấp chứng chỉ khác nhau và các chi tiết cần dẫn chiếu đến các cơ quan cấp chứng
chỉ có liên quan. Do đó, mục tiêu của việc chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm
là cung cấp bằng chứng rằng sản phẩm được chứng chỉ có nguồn gốc từ các khu
rừng đã được cấp chứng chỉ và quản lý tốt và xác minh rằng các sản phẩm đó
không lẫn lộn với các sản phẩm từ các khu rừng chưa được chứng chỉ ở bất kỳ
điểm nào của chuỗi cung cấp, trừ phi dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của cơ chế
nhãn sinh thái tỷ lệ (%) mà sản phẩm đang được áp dụng. Nhãn sinh thái dựa
trên tỷ lệ là một cơ chế mà lâm sản chỉ chừa một tỷ lệ nhỏ nguyên liệu gỗ được
chứng chỉ vẫn có thể được dán nhãn nêu lên rằng chúng có nguồn gốc từ các khu
rừng được quản lý tốt. Cơ quan chứng chỉ được ủy nhiệm đang tiến hành hoặc
quản lý chương trình chứng chỉ này sẽ đưa ra hướng dẫn và giới hạn về các
tuyên bố này trên nhãn sinh thái.
Chi phí trực tiếp của việc được chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm
(CoC) bao gồm chi phí đánh giá ban đầu và hàng năm. Chi phí gián tiếp có thể
bao gồm khoản tăng thêm để phân loại sản phẩm, trang bị lại nhà xưởng và đào
tạo nhân viên để đảm bảo tính riêng rẽ của sản phẩm.
1.1.3.3. Đơn vị cấp chứng chỉ
Như đã nói ở trên, FSC không trực tiếp cấp chứng chỉ mà ủy quyền cho
các đơn vị khác có đủ điều kiện để cấp chứng chỉ cho các tổ chức, đơn vị và cá
nhân trên toàn thế giới[29]. Hiện nay có 27 tổ chức được FSC ủy quyền cấp cấp
chứng chỉ rừng chính trên phạm vi toàn cầu là[25]:
(1) BM TRADA Certification Ltd (TT) – Anh
Email: amcgregor@bmtrada.com Website: www.bmtrada.com
(2) Bureau Veritas Certification UK (BV) - Anh
17
Email: rebecca.paine@uk.bureauveritas.com
(3) Control Union Certifications UK (CU) - Anh
Email: cuuk@controlunion.co.uk Website: www.controlunion.com
(4) Rainforest Alliance, SmartWood Program UK (SW)- Anh
Email: uk@nepcon.net Website: www.nepcon.net
(5) SGS Qualifor UK (SGS) Chain of Custody - Anh
Email: gb.forestry@sgs.com Website: www.forestry.sgs.com
(6) SGS Qualifor UK (SGS) Forest Management - Anh
Email: douglasorr@btinternet.com
(7) Woodmark, Soil Association (SA) - Anh
Email: wm@soilassociation.org Website:
www.soilassociation.org/forestry
(8) Bureau Veritas Certification - Eurocertifor (BV) (former BVQI) - Pháp
Email: heloise.dhuart@fr.bureauveritas.com Website:
www.certification.bureauveritas.fr/com
(9) Certiquality (CQ) - Italia
Email: a.napolitano@certiquality.it Website: www.certiquality.it
(10) Control Union Certifications (CU) (formerly SKAL Onternational) – Hà Lan
Email: certification@controlunion.com Website: www.controlunion.com
(11) CTIB-TCHN Belgian Institute for Wood Technology (CTIB) – Bỉ
Email: alain.grosfils@ctib-tchn.be Website: www.ctib-tchn.be
(12) Det Norske Veritas Certification AB (DNV) – Thụy Điển
Email: anders.wingqvist@dnv.com Website: www.detnorskeveritas.se
(13) Forest Certification LLC (FC) – Cộng hòa liên bang Nga
Email: iso-bratsk@yandex.ru Website: www.fcert.ru
(14) Technological Institute FCBA (earlier called CTBA) - Pháp
Email: philippe.ferro@fcba.fr Website: www.fcba.fr
(15) GFA Consulting Group GmbH (GFA) – Đức
18
Email: certification@gfa-group.de Website: www.gfa-certification.de
(16) HolzCert Austria (HCA) – Ôx- trây-lia
E-mail: hca@holzcert.at Website: www.holzcert.at
(17) Institut fur Marktokologie (IMO) – Thụy Sỹ
Email: forest@imo.ch Website: www.imo.ch
(18) Istituto per la Certificazione e i Servizi per Imprese
dell’Arrendemento e del Legno (ICILA) – I-ta-li-a
Email: fmcoc@icila.org Website: www.icila.org
(19) KPMG FCSI (Forest Certification Services Inc.) (KF) – Ca-na-đa
Email: gmacintosh@kpmg.ca Website: www.kpmg.ca
(20) LGA InterCert GMbH (IC) – Đức
Email: klaus.schatt@intercert.lga.de Website: www.lga-intercert.com
(21) QMI-SAI Global Assurance Services (QMI) – Ca-na-đa
E-mail: Guillaume.Gignac@qmi-saiglobal.com Website:
www.qmi.com
(22) Scientific Certification Systems (SCS) – Mỹ
Email: rhrubes@scscertified.com Website: www.scscertified.com
(23) SGS Qualifor South Africa (SGS) – Nam Phi
Email: gerrit.marais@sgs.com Website: www.qualifor.sgs.com
(24) SmartWood, Rainforest Alliance (SW) – Mỹ
Email: info@ra.org Website: www.smartwood.org
(25) Stichting Keuringsbureau Hout (SKH)-Hà Lan
E-mail: mail@skh.org Website: www.skh.org
(26) Swiss Association for Quality and Management Systems (SQS)- Thụy Sỹ
Email: alfred.urfer@sqs.ch Website: www.sqs.ch
(27) TÜV Nord Cert GmbH (TÜV) – Đức
E-mail: whirtz@tuev-nord.de Website: www.tuev-nord-cert.com
19
FSC được chính phủ các nước như Áo, Hà Lan, Úc tài trợ kinh phí để
giúp các nước đang phát triển xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về quản lý rừng bền
vững, đào tạo cán bộ và thực hiện CCR. Hiện tại trên thế giới có nhiều nước đã
thành lập Chứng chỉ FSC quốc gia để xúc tiến quản lý bảo vệ rừng và cấp chứng
chỉ rừng.
1.2. Tình hình xuất, nhập khẩu gỗ có CCR tại Việt Nam
1.2.1. Tình hình xuất khẩu gỗ:
Hiện đồ gỗ đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực đứng thứ 5 của Việt
Nam sau dầu thô, dệt may, giày dép và thủy sản. Sự phát triển này đã đưa Việt
Nam vượt Indonesia và Thái Lan trở thành một trong hai nước xuất khẩu đồ gỗ
đứng đầu Đông Nam Á. Chất lượng sản phẩm đồ gỗ Việt Nam luôn được nâng
cao, có khả năng cạnh tranh được với các nước trong khu vực.
Trong khi thị trường đang được mở rộng và kim ngạch tăng nhanh thì
nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực đồ gỗ nhất là các doanh nghiệp tại TP. Hồ
Chí Minh, Đồng Nai, Gia Lai, Đắk Lắk, Bình Định cho biết họ đang rất khó
khăn trong tìm kiếm gỗ nguyên liệu để duy trì sản xuất. Theo Bộ Công Thương,
nguồn nguyên liệu cho ngành gỗ xuất khẩu đang thiếu trầm trọng. Hàng năm
chúng ta phải nhập 80% gỗ nguyên liệu, chiếm tới 37% giá thành sản phẩm. Hơn
nữa 90% gỗ nhập khẩu từ Lào và Campuchia thì nguồn này đang cạn kiệt. Kể từ
năm 2005 đến nay, 2 nước Malaysia và Indonesia đã đóng cửa mặt hàng gỗ xẻ,
gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Giá nhiều loại gỗ đã tăng
bình quân từ 5% - 7%, đặc biệt gỗ cứng đã tăng từ 30% - 40%, làm cho nhiều
doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng có đơn hàng nhưng không có lợi
nhuận hoặc lợi nhuận rất thấp.
Đối với nguồn gỗ trong nước, công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, các
dự án phát triển rừng nguyên liệu chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến sản
lượng gỗ phục vụ cho chế biến xuất khẩu không được cải thiện. Chiến lược lâm
nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 - 2020 đặt mục tiêu phát triển 825.000 ha rừng
20
nguyên liệu cho ngành gỗ Việt Nam, trong đó có sự kết hợp giữa các loại cây có
chu kỳ kinh doanh ngắn 7-10 năm và chu kỳ kinh doanh dài từ 15 năm trở
lên[12]. Sản lượng dự kiến khai thác để phục vụ ngành gỗ vào năm 2020 sẽ đạt
20 triệu m3/năm (trong đó có 10 triệu m3 gỗ lớn), mới đáp ứng được khoảng
70% nhu cầu. Theo tính toán của Hiệp hội gỗ, còn phải chờ ít nhất 10 năm nữa
mới hy vọng chủ động được một phần nguyên liệu trong nước khi các khu rừng
trồng gỗ lớn do các doanh nghiệp phát triển bắt đầu cho khai thác. Còn trong
tương lai gần, không có cách nào khác là phải tiếp tục nhập khẩu gỗ nguyên liệu.
Hiện tại phần lớn đất rừng (gần 5 triệu ha) là do các lâm trường quốc
doanh và chính quyền địa phương quản lý, trong khi khoảng 3,1 triệu ha đã được
giao cho hơn một triệu hộ gia đình và cá nhân, nhưng có 20-30% diện tích được
sử dụng đúng mục đích, 70% còn lại chưa đem lại hiệu quả như mong muốn[14].
Trong khi đó, nhiều nhà đầu tư lớn muốn đầu tư vào rừng trồng thì lại không có
đất trồng rừng. Tuy nhiên, đến nay cũng đã xuất hiện một số mô hình hợp tác,
liên kết giữa doanh nghiệp và các chủ rừng (hộ dân, nông lâm trường) để trồng
rừng sản xuất. Có doanh nghiệp chọn hình thức đầu tư tiền, giống, kỹ thuật cho
các hộ dân trồng rừng, khi đến kỳ khai thác, hộ dân sẽ hoàn trả cho doanh nghiệp
sản lượng gỗ nhất định, phần sản lượng tăng thêm sẽ thuộc về người trồng rừng.
Công tác xây dựng mạng lưới chế biến gỗ trên toàn quốc chưa có sự
thống nhất để sử dụng nguồn nguyên liệu vốn đang rất khan hiếm. Cùng với hạn
chế trên, công nghệ chế biến hiện nay cũng còn thô sơ và mang nặng tính thủ
công, các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam chỉ mới dừng lại ở việc gia công
nguyên liệu là chính, máy móc vẫn ở mức trung bình và lạc hậu. Phần lớn dây
chuyền thiết bị, máy móc được sản xuất từ Đài Loan, Trung Quốc, chỉ một số ít
sản xuất tại Đức, Italy, Nhật, không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng lớn
và khách hàng đòi hỏi chất lượng cao. Các doanh nghiệp chế biến gỗ chủ yếu là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, yếu về năng lực quản lý, thiếu công nhân kỹ thuật,
21
thiếu vốn. Những yếu tố này khiến giá trị gia tăng của sản phẩm gỗ Việt Nam đạt
ở mức thấp và làm giảm tính cạnh tranh về giá thành.
Là một mặt hàng mới phát triển mạnh khoảng nửa thập kỷ gần đây nên
việc phát triển thương hiệu đồ gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế còn hạn chế
và chưa được chú trọng. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đều có
quy mô nhỏ, nguồn lực hạn chế nên chưa có nhiều kinh phí để thực hiện việc
này. Tuy nhiên, Bộ Công Thương thừa nhận: công tác xúc tiến thương mại chưa
có sự liên kết tốt giữa các tổ chức hỗ trợ thương mại và doanh nghiệp. Một thực
trạng nữa là các doanh nghiệp chủ yếu vẫn bán hàng qua khâu trung gian (chiếm
90% lượng sản phẩm). Hơn nữa, việc nhận làm gia công và nhận mẫu mã thiết
kế, hợp đồng đặt hàng của nước ngoài ngày càng nhiều đã biến các doanh nghiệp
của chúng ta thành người làm thuê, gia công cho thương hiệu nước ngoài. Và tất
cả những điều này đang làm ảnh hưởng lớn đến thương hiệu gỗ Việt Nam trên
thị trường thế giới.
Một vấn đề khác phát sinh khi chúng ta hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới đối với mặt hàng đồ gỗ là các chứng chỉ về nguồn gốc hợp pháp nguyên
liệu, đây không phải là chứng chỉ đạt chất lượng QLRBV, nhưng lại là cơ sở đầu
tiên để buôn bán gỗ cho dù đã đạt hay chưa đạt CCR của FSC . Mỹ có đạo luật
LACEY được bổ sung có hiệu lực từ 15/12/2008, quy định kiểm soát nguồn gốc
gỗ nguyên liệu. Từ 1/4/2009 tất cả doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp
tờ khai về sản phẩm nhằm đảm bảo tính hợp pháp. Bên cạnh đó luật lâm nghiệp
và quản trị rừng (FLEGT) đang được triển khai ở tất cả các quốc gia. EU còn
phát động "Bản thỏa thuận đối tác tự nguyện" (VTA). Đây là những rào cản rất
lớn cho ngành gỗ của chúng ta. Phân tích của Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Công
Thương mới đây cho biết, nhu cầu về gỗ có chứng chỉ đang gia tăng, nhưng Việt
Nam vẫn chưa có hệ thống chứng chỉ thích hợp. Các khách hàng (chủ yếu là EU)
ngày càng đòi hỏi các sản phẩm được làm từ nguồn gỗ nguyên liệu có chứng chỉ
của một tổ chức như Hội đồng các nhà quản lý rừng (FSC). Hiện ở nước ta chưa
22
nơi nào có chứng chỉ như vậy. Hậu quả là, để đáp ứng các yêu cầu có chứng chỉ
FSC, các nhà sản xuất phải nhập khẩu gỗ có chứng chỉ FSC, giá thành sản phẩm
đội lên, nên khó cạnh tranh được và giá trị gia tăng của ngành đồ gỗ bị giảm sụt
quá nhiều so với những quốc gia có hệ thống chứng chỉ, cho dù đồ gỗ chế biến
củaViệt Nam đang được ưa chuộng tại nhiều nước, cùng với những khách hàng
chiến lược, thông qua những sản phẩm có chất lượng và sức cạnh tranh cao.
Ngoài ra, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng đã gây ra nhiều khó
khăn cho ngành chế biến gỗ Việt Nam như thị trường xuất khẩu trọng điểm bị
thu hẹp, hàng hóa tồn đọng, giá đầu ra giảm, dẫn tới các đơn hàng vừa giảm, vừa
khó thực hiện. Còn giải pháp kích cầu của Chính phủ hiện nay với những điều
kiện cho vay chặt chẽ, khó khăn, thời gian cho vay ngắn, khó đưa đồng vốn với
lãi suất vay ưu đãi đến với với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, đây
cũng có thể là cơ hội lớn cho ngành chế biến gỗ tái cấu trúc lại để có thể đủ năng
lực cạnh tranh, đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất, đào tạo đội ngũ quản lý,
lao động...
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và
sản phẩm của cả nước tính đến hết tháng 7/2011 đạt trên 2 tỷ USD, tăng 14,64%
so với cùng kỳ năm 2010, tính riêng tháng 7 Việt Nam đã thu về trên 314 triệu
USD từ gỗ và sản phẩm gỗ, giảm 1,44% so với tháng liền kề trước đó, nhưng
tăng 1,72% so với tháng 7/2010.
Về thị trường xuất khẩu, 7 tháng đầu năm 2011 Việt Nam đã xuất khẩu gỗ
và sản phẩm sang 39 thị trường, số thị trường tăng trưởng trong thời gian này chỉ
chiếm 15,6%.
Hoa Kỳ là thị trường chính xuất khẩu gỗ và sản phẩm của Việt Nam, tuy
nhiên kim ngạch xuất sang thị trường này lại giảm. Tháng 7/2011, Việt Nam đã
xuất khẩu 117,8 triệu USD hàng gỗ và sản phẩm sang Hoa Kỳ, giảm 3,73% so
với tháng liền kề trước đó, giảm 11,87% so với tháng 7/2010. Tính chung 7
23
tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu 744,8 triệu USD mặt hàng này sang Hoa
Kỳ, chiếm 35,4%, giảm 1,19% so với 7 tháng năm 2010.
Đứng thứ hai là thị trường Trung Quốc với kim ngạch đạt từ đầu năm đến
hết tháng 7 là 344,2 triệu USD, tăng 63,02% so với cùng kỳ năm trước. Tính
riêng tháng 7, Trung Quốc đã nhập khẩu 55,4 triệu USD gỗ và sản phẩm từ Việt
Nam, giảm 11,9% so với tháng 6, nhưng tăng 12,73% so với tháng 7/2010[7].
24
Bảng 1.1. Thị trường xuất khẩu gỗ và sản phầm gỗ 6 tháng đầu năm 2011
ĐVT: USD
%
% tăng,
% tăng
tăng
Thị
KNXK
KNXK
KNXK
giảm
giảm
giảm
trường
T7/2011
7T/2011
7T/2010
KN so
KN so
KN so
T6/2011
T7/2010
cùng
kỳ
314.016.922
2.098.699.478
1.830.676.734
-1,44
1,72
14,64
Tổng KN
Hoa Kỳ
117.862.596
744.894.939
753.877.416
-3,73
-11,87
-1,19
Trung Quốc
55.414.799
344.285.163
211.195.225
-11,90
12,73
63,02
Nhật Bản
50.879.511
305.945.220
229.851.825
14,89
26,52
33,11
Hàn Quốc
17.237.412
105.188.520
71.807.305
17,74
88,35
46,49
Anh
10.292.411
96.012.376
107.059.676
-2,61
-22,62
-10,32
Đức
5.865.289
64.393.145
63.069.386
-12,83
-28,10
2,10
Úc
10.986.875
49.478.507
39.817.984
25,52
21,33
24,26
Ca-na-đa
7.871.361
46.991.982
46.044.273
-27,86
-5,48
2,06
Pháp
3.877.434
37.160.834
42.641.690
-7,30
27,46
-12,85
Hà Lan
2.960.359
35.408.014
37.545.699
-11,28
-35,28
-5,69
Đài Loan
3.671.491
28.998.331
24.065.325
-13,97
26,24
20,50
Hồng kông
3.739.459
27.798.623
15.254.168
-24,45
154,69
82,24
I-ta-li-a
984.496
21.192.342
21.066.949
-24,63
-14,03
0,60
Bỉ
1.537.297
20.096.638
19.292.660
-36,79
9,69
4,17
Ma-lai-xi-a
3.736.857
19.770.450
12.857.569
-11,95
45,92
53,77
Ấn Độ
2.161.730
15.432.494
8.621.095
-4,24
133,16
79,01
Thuỵ Điển
851.775
14.224.398
14.548.712
-12,47
4,70
-2,23
Sinh-ga-po
732.217
11.743.081
4.542.851
-31,27
43,27 158,50
Tây Ban Nha
527.563
11.302.878
12.442.692
8,29
-10,11
-9,16
Đan Mạch
640.772
9.275.414
9.692.323
-33,46
16,54
-4,30
Niu Di Lân
1.771.550
6.024.326
Na uy
522.654
5.259.394
3.389.488
11,43
118,82
55,17
Thổ Nhĩ Kỳ
286.366
5.073.432
4.681.807
57,07
-6,09
8,36
Ba Lan
388.441
4.186.674
6.007.636
116,99
290,07
-30,31
Phần Lan
3.970.060
5.401.526
-26,50
86.059
3.910.473
4.719.094
62,24
-9,15
-17,14
Hy Lạp
Áo
137.467
3.228.838
2.829.539
-74,06
-69,33
14,11
Nga
131.112
2.997.400
1.163.141
-64,35
-57,42 157,70
Thuỵ Sỹ
2.421.223
1.424.442
69,98
Bồ Đào Nha
177.412
1.881.791
1.937.817
693,22
-4,80
-2,89
Nam Phi
415.894
1.578.006
1.472.453
24,20
31,50
7,17
TháiLan
355.405
1.560.580
4.672.529
36,92
-50,68
-66,60
CH Séc
129.531
1.167.969
1.141.653
73,65
36,22
2,31
Mê-hi-cô
150.297
859.202
803.502
189,99
-6,65
6,93
Căm-puchia
89.462
726.769
1.215.430
21,56
-81,26
-40,20
U-c-rai-na
151.348
538.466
782.018
1,32
-31,14
25
Trích nguồn Vinanet
1.2.2. Tình hình nhập khẩu gỗ:
Nguồn nguyên liệu cho sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam từ
chỗ dựa vào rừng tự nhiên là chính đã chuyển sang dựa vào nguồn gỗ nhập khẩu
và gỗ rừng trồng. Nếu như năm 1990 Việt Nam khai thác bình quan 1,8 triệu m3
khối gỗ một năm thì từ năm 2000 đến nay khai thác bình quân 300.000 m3 gỗ
rừng tự nhiên. Để bù đắp lại mức thiếu hụt nguyên liệu, hàng năm Việt Nam
nhập khoảng trên 1.000.000 m3 gỗ các loại để sản xuất hàng xuất khẩu.
Cho đến nay, nguồn gỗ nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là từ Malaysia
(60 triệu USD), Lào (36 triệu USD), Campuchia (29 triệu USD), Indonesia (18
triệu USD). Song thực tiễn nhiều năm qua đã chỉ ra: các quốc gia có rừng tự
nhiên trong khu vực như Indonesia, Myanmar, Lào, Campuchia… ngày càng hạn
chế tối đa việc khai thác xuất khẩu gỗ do nguồn tai nguyên rừng ngày càng cạn
kiệt và do tác động từ các khuyến cáo của các tổ chức quốc tế. Hơn thế nữa, thế
26
giới trong xu thế quản lý rừng thương mại đã có hàng loạt biện pháp, trong đó
biện pháp hữu hiệu nhất là quản lý bằng hệ thống chứng chỉ được cấp với rừng
trồng và được thế giới công nhận như hệ thống FSC (Forest Stewardship
Council) với 28 triệu ha; hệ thống quản lý môi trường ISO 14001 với 103 triệu
ha và Hội đồng chứng nhận rừng Châu Âu Pan (Pan European Forest
Certification Council) với 43 triệu ha.
Sử dụng phổ biến nhất là hệ thống chứng chỉ của tổ chức FSC bởi các tiêu
chí của tổ chức phi phủ này là: quản lý tài nguyên thế giới bền vững, vì những
lợi ích lâu dài các mặt: xã hội, môi trường, kinh tế nhằm đảm bảo rừng trên thế
giới được bảo vệ cho các thế hệ sau. Để vào được các thị trường lớn như EU,
Mỹ, khối liên hiệp Anh, các sản phẩm gỗ xuất khẩu của các nước – trong đó có
Việt Nam phải có một trong những chứng chỉ trên và thuận lợi nhất là sử dụng
chứng chỉ FSC. Do đó, việc cân nhắc nhập khẩu hàng gỗ từ các quốc gia có rừng
FSC là một trong những tiêu chí lựa chọn thị trường nguyên liệu gỗ của Việt
Nam. Thị trường gỗ của Malaysia, New zealand, Nam Phi và Mỹ chính là các thị
trường Việt Nam đang hướng tới. Bên cạnh đó, tiềm năng thị trường nguyên liệu
gỗ của một số quốc gia khác như Brazil cũng nên được định hướng.
Theo Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt nam (Vifores), hiện doanh nghiệp chế
biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam đang phải nhập nhẩu từ 70-80% nguyên liệu từ
nước ngoài. Số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan(TCHQ) cho thấy, tháng hai
quý đầu năm 2011 Việt Nam đã nhập 606,8 triệu USD gỗ và sản phẩm gỗ, tăng
20,2% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này
nhập trong tháng 6 là 121,1 triệu USD, tăng 3,2% so với tháng liền kề và tăng
12,68% so với tháng 6/2010. Trong khi đó nhiều loại gỗ nguyên liệu của các
doanh nghiệp trong nước hiện được bán với giá rẻ bằng một nửa so với gỗ nhập
khẩu. Ví dụ, gỗ keo nguyên liệu trong nước có giá từ 0,8- 1,1 triệu đồng/m3.
Trong khi đó, gỗ nhập khẩu cho cùng một loại lại chỉ có giá khoảng 3 triệu đồng/
m3. Giải thích nguyên nhân này, theo một thành viên của Hiệp hội gỗ và lâm sản
27
cho hay, Việt Nam phải chịu giá bán rẻ và mua đắt như hiện nay là do chưa có
sự kết nối giữa doanh nghiệp chế biến xuất khẩu và người trồng rừng. Hầu hết
các cơ sở trồng rừng và chế biến xuất khẩu gỗ hoạt động độc lập, không có liên kết
thông tin với nhau. Tuy nhiên, cũng không thể đổ hết lỗi cho doanh nghiệp chế biến
gỗ xuất khẩu là "bỏ ngỏ" thị trường nội địa bởi trên thực tế Việt Nam chưa có công
nghệ đạt chuẩn trong kỹ thuật xẻ gỗ, khiến chất lượng gỗ bị ảnh hưởng.
Các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu đồ gỗ chê gỗ nội còn bởi lý do, gỗ
nội không có chứng chỉ quản lý rừng do Hội đồng quản trị rừng quốc tế cấp. Mặt
khác, nếu gỗ nước ngoài được trồng trong thời gian 18 năm thì gỗ Việt Nam
thường chỉ được trồng 6-7 năm. Vì vậy, khi chế biến rất dễ xảy ra tình trạng gỗ
bị co ngót, sản phẩm không đẹp. Bên cạnh đó, chi phí thuê nhân công, giá
nguyên vật liệu trong nước liên tục tăng, lãi suất vốn vay ngân hàng cao cùng
nhiều tác động khác làm lợi nhuận xuất khẩu các sản phẩm gỗ trong nước đạt tối
đa khoảng 5% so với giá trị xuất khẩu.
Hai quý đầu năm nay, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Malaixia, Thái Lan là những
thị trường chính cung cấp gỗ và sản phẩm gỗ cho Việt Nam, chiếm lần lượt
12,4%, 11,3%, 7,5% và 5,6% thị phần. Qua đó ta thấy, Trung Quốc chiếm thị
phần lớn nhất với kim ngạch đạt trong tháng là 17,1 triệu USD, tăng 14,19% so
với tháng 5 và tăng 12,68% so với tháng 6/2010, nâng kim ngạch nhập khẩu gỗ
và sản phẩm từ thị trường Trung Quốc 6 tháng đầu năm lên 75,6% nhưng nếu so
với cùng kỳ năm trước thì nhập khẩu mặt hàng này từ thị trường Trung quốc lại
giảm 1,21% [7].
28
Bảng 1.2. Thị trường nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 6 tháng đầu năm 2011
ĐVT: USD
%
% tăng % tăng tăng
giảm giảm giảm KNNK KNNK KNNK KNNK KN so KN so KN so Thị trường T6/2011 6T/2011 T6/2010 6T2010 với với với
T5/2011 T6/2010 cùng
kỳ
Tổng KN 121997205 606819238 108269648 504846476 3,29 12,68 20,20
Trung Quốc 17.167.182 75.670.470 15368452 76.598.268 14,19 11,70 -1,21
Hoa Kỳ 14.634.828 69.092.024 12.893.153 68.533.423 3,16 13,51 0,82
Malaixia 9.159.795 46.076.202 10.428.937 5.955.641 4,74 -12,17 673,66
Thái Lan 7.935.081 34.438.622 8.237.622 44.130.619 0,16 -3,67 -21,96
Niu Di Lân 6.740.562 28.205.113 6.410.481 32.573.190 -1,53 5,15 -13,41
Căm puchia 4.015.289 20.037.069 3.561.196 19.057.966 -15,24 12,75 5,14
B-ra-xin 2.091.911 12.828.456 3.448.500 12.271.617 24,78 -39,34 4,54
In-đô-nê-xi-a 1.739.245 9.841.829 1.993.582 10.063.758 -20,55 -12,76 -2,21
Chi Lê 1.710.130 9.426.302 1.283.843 8.212.010 * 33,20 14,79
Phần Lan 1.973.622 6.019.168 1.183.601 5.033.125 62,43 66,75 19,59
Đức 853.425 4.460.441 1.077.058 4.993.699 -4,63 -20,76 -10,68
Thuỵ Điển 405.133 3.640.220 550.485 3.349.840 -52,87 -26,40 8,67
Ca-na-đa 577.832 3.238.940 625.523 3.165.102 -5,65 -7,62 2,33
Pháp 309.003 2.877.141 609.968 2.108.260 -59,31 -49,34 36,47
Nhật Bản 318.443 2.849.460 656.846 2.448.653 -59,78 -51,52 16,37
I-ta-lia 739.544 2.827.247 202.423 2.261.264 72,88 265,35 25,03
Đài Loan 540.914 2.821.134 904.016 3.846.723 88,79 -40,17 -26,66
29
Hàn Quốc 435.692 2.314.810 510.338 1.523.109 116,72 -14,63 51,98
Ôx-trây-lia 367.049 1.385.129 888.192 4.988.024 28,54 -58,67 -72,23
Ac-hen-ti-na 483.744 1.289.524 127.362 1.002.015 737,68 279,82 28,69
Nam Phi 23.221 708.785 119.536 868.602 -91,89 -80,57 -18,40
Nga 184.363 557.954 225.637 757.271 289,48 -18,29 -26,32
Anh 78.988 391.555 74.601 379.277 -45,53 5,88 3,24
Trích nguồn Vinanet
1.3. Tiếp cận với cấp chứng chỉ rừng tại Việt Nam
Đối với các doanh nghiệp lâm nghiệp, một trong những động lực quan
trọng của chứng chỉ rừng là tham nhập thị trường tiêu thụ sản phẩm rừng đòi hỏi
có chứng chỉ (FM), vì vậy chứng chỉ rừng thường gắn với chứng chỉ chuỗi hành
trình (CoC) xác nhận sản phẩm có nguồn gốc từ rừng được chứng chỉ.
Chứng chỉ rừng cần thiết để xác nhận quản lý bảo vệ của chủ rừng cũng
giống như chứng chỉ ISO để xác nhận quản lý chất lượng sản xuất công nghiệp.
Chứng chỉ rừng được áp dụng cho tất cả các đơn vị quản lý rừng với các quy mô
lớn nhỏ bất kể là sở hữu nhà nước hay tư nhân đang quản lý rừng sản xuất và
đang hoạt động quản lý kinh doanh. Đây là một quá trình hoàn toàn tự
nguyện của các chủ rừng.
FSC là tổ chức quản lý rừng uy tín và có phạm vi rộng nhất toàn thế giới,
có những nguyên tắc và tiêu chí áp dụng cả cho rừng tự nhiên, rừng trồng, cả cho
rừng ôn đới, nhiệt đới ... Khi doanh nghiệp được cấp chứng chỉ rừng của FSC thì
được hưởng các lợi ích gồm: Gỗ được cấp nhãn FSC sẽ bán được giá cao hơn so
với cùng loại không được cấp nhãn (thông thường giá cao hơn khoảng 30%); Có
điều kiện tiếp cận với thị trường mới; Các đánh giá định kỳ của cơ quan cấp
chứng chỉ sẽ giúp tìm ra các điểm mạnh, yếu trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
30
Trên cơ sở Bộ tiêu chuẩn FSC quốc tế, Tiêu chuẩn FSC Việt Nam được
biên soạn áp dụng để xin cấp chứng chỉ rừng sản xuất là rừng tự nhiên và rừng
trồng. FSC Việt Nam không đòi hỏi phải đáp ứng đầy đủ và hoàn chỉnh bộ tiêu
chuẩn này, tuy nhiên nếu chủ rừng có những vi phạm đối với bất kỳ tiêu chuẩn
nào thường không được cấp chứng chỉ hoặc bị thu hồi giấy chứng chỉ đã cấp. 10
tiêu chuẩn FSC Việt Nam bao gồm:
1) Tuân theo pháp luật và Tiêu chuẩn FSC Việt Nam
2) Quyền và trách nhiệm sử dụng đất
3) Quyền của người dân sở tại
4) Quan hệ cộng đồng và quyền của công nhân
5) Những lợi ích từ rừng
6) Tác động môi trường
7) Kế hoạch quản lý
8) Giám sát và đánh giá
9) Duy trì những rừng có giá trị bảo tồn cao
10) Rừng trồng
Trong tương lai gần, khi những đơn vị đạt được chứng chỉ quản lý rừng
của FSC, họ sẽ có cơ hội thâm nhập thị trường toàn cầu với sản phẩm đã có
chứng chỉ FSC. Hiện tại các doanh nghiệp chế biến gỗ trong nước sản xuất hàng
mộc xuất khẩu vẫn đang phải nhập khẩu gỗ có chứng chỉ từ nước ngoài. Các
doanh nghiệp này đã đạt được 259 chứng chỉ CoC. Việc am hiểu và thực thi
những tiêu chí và nguyên tắc của FSC, cũng như đáp ứng những đạo luật khắt
khe của thị trường Mỹ và Châu Âu là công việc được ưu tiên hàng đầu đối với
các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các mặt hàng về gỗ khi muốn gia nhập
vào thị trường quốc tế[20].
Quy trình đánh giá cấp chứng chỉ rừng (Theo chương trình Smartwood -
cơ quan được FSC uỷ quyền cấp chứng chỉ rừng), gồm 10 bước cơ bản như sau:
1) Đơn vị quản lý rừng làm đơn yêu cầu cho cơ quan đánh giá;
31
2) Cơ quan đánh giá xây dựng dự toán, chi phí và đàm phán với đơn vị
quản lý rừng;
3) Khách hàng ký thỏa thuận với cơ quan đánh giá. Cơ quan đánh giá sẽ
yêu cầu khách hàng ứng trước 60% chi phí cho dự toán để triển khai công tác
đánh giá. Khi nhận được tiền, quá trình thực hiện bắt đầu;
4) Cơ quan đánh giá cử chuyên gia lãnh đạo đoàn đánh giá. Chuyên gia
này sẽ được cung cấp toàn bộ tài liệu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng và bộ tiêu chuẩn đánh giá đã được chấp nhận;
5) Đoàn chuyên gia triển khai các hoạt động đánh giá tại hiện trường;
6) Thảo luận và thông báo kết quả đánh giá sơ bộ với khách hàng;
7) Gửi báo cáo sơ bộ cho cơ quan đánh giá;
8) Cơ quan đánh giá sẽ tổng hợp thành báo cáo và sẽ gửi cho khách hàng
để tham gia ý kiến, đồng thời cũng gửi cho các chuyên gia độc lập đánh giá và
cho ý kiến;
9) Chuyên gia chính sẽ tổng hợp, xây dựng báo cáo cuối cùng từ ý kiến
của khách hàng và chuyên gia độc lập;
10) Trình bày báo cáo cho Giám đốc cơ quan chứng chỉ ra quyết định cấp
chứng chỉ.
Về giá thành chứng chỉ rừng: bao gồm giá thành trực tiếp và giá thành
gián tiếp. Giá thành trực tiếp là số tiền chủ rừng phải trả cho quá trình chứng chỉ
rừng. Rừng càng lớn, càng tập trung, điều kiện càng thuận lợi cho đánh giá cấp
chứng chỉ thì giá thành càng thấp. Giá thành gián tiếp là chi phí cho cải thiện
quản lý rừng để đạt tiêu chuẩn chứng chỉ, có thể là: chi phí điều tra rừng để xây
dựng kế hoạch quản lý, xác lập và bảo vệ các khu bảo tồn, điều tra đánh giá tác
động môi trường về kinh tế - xã hội, xác lập hệ thống thông tin tư liệu,v.v… Đối
với những vùng có quản lý rừng còn thấp, cách xa tiêu chuẩn thì chi phí này
tương đối cao. Giải pháp chứng chỉ rừng theo nhóm sẽ giảm được giá thành.
32
Chứng chỉ quản lý rừng bền vững có giá trị trong 5 năm. Tuy nhiên, hàng
năm cơ quan đánh giá thường tổ chức một đợt kiểm tra xem đơn vị quản lý rừng
có tuân thủ liên tục các yêu cầu của tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững hay
không. Trong trường hợp khách hàng không tuân thủ các tiêu chuẩn quy định,
chứng chỉ có thể bị thu hồi. Vì vậy khi tham gia chứng chỉ rừng, doanh nghiệp
cần xác định mục tiêu rõ ràng và kế hoạch quản lý thích hợp, đảm bảo các tiêu
chuẩn quốc gia quản lý rừng bền vững.
1.4. Các khó khăn trong quản lý rừng ở cấp quy mô nhỏ, lẻ khi tiếp cận với
chứng chỉ rừng và quản lý rừng bền vững
Theo thống kế của Tổ chức nông lương của Liên hợp Quốc (FAO) trong
báo cáo của UNEP thì trong mấy chục năm gần đây trên thế giới đã có trên 200
triệu ha rừng tự nhiên bị mất, trong khi phần lớn những diện tích rừng hiện còn
đã bị thóai hóa nghiêm trọng cả về mặt đa dạng sinh học và những chức năng
sinh thái. Mặc dù đã có nhiều biện pháp bảo vệ rừng, những hiện nay sự mất và
suy thoái rừng, nhất là rừng nhiệt đới, mỗi năm vẫn còn ở mức rất cao. Những
năm 90, diện tích rừng tự nhiên bị mất là 16.1 triệu ha/ năm; trong đó 15.2 triệu
hecta là rừng nhiệt đới (FAO, 2001). Nói theo cách khác trong những năm 90 thế
giới mất 4.2% diện tích rừng tự nhiên, nhưng tăng lên 1.8% diện tích do tái trồng
rừng, và mở rộng diện tích rừng tự nhiên [28]. Do vậy có thể nói diện tích rừng
mất đi hàng năm là 2.4% trong vòng 10 năm. Như vậy, diện tích rừng toàn cầu bị
thay đổi từ 1990-2000 là 9.4 triệu hecta/năm với tổng mất đi là 14.6 triệu hecta
do phá rừng và tăng thêm 5.2 triệu hecta do trồng rừng. Nhu vậy, trên toàn cầu
diện tích rừng mất đi mỗi năm bằng diện tích của Portugal và diện tích mất trong
những năm 90 bằng diện tích của Venezuela. Đặc biệt, khu vực Đông Nam Á có
tỷ lệ mất rừng cao nhất là 1,6% mỗi năm, trong khi ở Bắc Mỹ chỉ là 0,1% (tỷ lệ
chung của thế giới là 0.8%). Rừng tự nhiên vùng ôn đới phần lớn đã bị thay thế
bởi rừng nửa tự nhiên hoặc rừng trồng. Tính đến 1995 diện tích rừng của toàn
thế giới, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng, chỉ còn 3.454 triệu ha; tỷ kệ che phủ
33
chỉ khoảng 35%. Hiện nay mỗi tuần trên thế giới có khoảng 500 nghìn ha rừng
tự nhiên bị biến mất hoặc bị thoái hóa (FAO, 1997; UNEP, Earth Watch
webpage)[23].
Ở Việt Nam, trong khoảng 50 năm qua cũng đã có tới trên 5 triệu ha rừng
tự nhiên bị mất. Hiện nay tổng diện tích đất rừng của cả nước la 19,08 triệu ha,
trong khi đó chỉ có 8,25 triệu ha rừng tự nhiên và 1,05 triệu ha rừng trồng, tỷ lệ
che phủ chỉ khoảng 28% còn lại 9,87 triệu ha là đất trống đồi trọc. Hiện nay diện
tích rừng tự nhiên bị mất hàng năm ở Việt nam ước tính vẫn còn ở mức 60-70
nghìn ha. Rừng tự nhiên tập trung chủ yếu ở Tây nguyên, Đông Nam Bộ và
Miền Trung. Trong số rừng tự nhiên còn lại chỉ có 9% là rừng giàu (trữ lượng
trên 150m3/ha), 33% là rừng trung bình (80-150 m3/ha), còn lại 58% là rừng
nghèo kiệt (dưới 80 m3/ha). (NWG, Tiêu chuẩn FSC Việt Nam)[17].
Việc chuyển đổi phương thức quản lý rừng từ quản lý rừng thông thường,
không có kế hoạch và chiến lược quản lý, kinh doanh dài hạn sang quản lý rừng
bền vững đòi hỏi hàng loạt các thay đổi về khuôn khổ, chính sách từ cấp trung
ương đến các quan điểm, sự đồng thuận của các cấp chính quyền địa phương,
các cơ sở sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp và đặc biệt là người dân địa phương.
Đây cũng là vấn đề lớn cần phải giải quyết kịp thời để đảm bảo được các chính
sách vận hành và thực hiện theo đúng yêu cầu đề ra. Do tính phức tạp như vậy
nên trong quá trình chuyển đổi từ việc quản lý rừng đơn thuần sang quản lý rừng
bền vững, có trách nhiệm để hướng tới cấp CCR thường gặp những khó khăn,
trở ngại[6]. Các yếu tố đó thường được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Về chính sách và công nghệ: hiện tại ở nước ta các khuôn khổ về chính
sách cũng như công nghệ đối với ngành lâm nghiệp thường không theo kịp các
nước trên thế giới do vậy để có thể hướng dẫn chi tiết cho các chủ rừng quy mô
nhỏ lẻ về các tiêu chí, tiêu chuẩn để áp dụng các biện pháp, phương pháp quản lý
rừng đến khi cấp chứng chỉ còn gặp nhiều khó khăn và chưa đồng bộ. Bên cạnh
đó việc tiếp cận các công nghệ cao của các chủ rừng quy mô nhỏ, lẻ còn ít hoặc
34
hầu như không có do điều kiện kinh tế, điều kiện tiếp cận thị trường, điều kiện
của từng quốc gia. Đây cũng là trở ngại không nhỏ trong việc tiếp cận với CCR.
Về mặt sinh thái: chúng ta đã biết rừng ở Việt Nam có tính đa dạng và phức
tạp rất cao của hệ sinh thái, do vậy việc xây dựng, xác định các tiêu chuẩn để áp dụng
chung cho tất cả các hệ sinh thái đang là vấn đề khó khăn, chưa thể thực hiện được.
Về mặt kinh tế: nguồn vốn hỗ trợ cho việc xây dựng các kế hoạch, chính
sách quản lý rừng bền vững hướng tới cấp chứng chỉ rừng còn thiếu. Trên thực
tế các chủ hộ quản lý rừng quy mô nhỏ, lẻ chưa nhận thức được các lợi ích của
quản lý rừng bền vững cũng như chứng chỉ rừng mang lại cho họ do đó việc thiết
tha tham gia vào các hoạt động này còn hạn chế. Hiện nay vẫn chưa xác định
được nguồn vốn cụ thể để hỗ trợ cho các chủ rừng quy mô nhỏ, lẻ hướng tới cấp
chứng chỉ rừng do với diện tích nhỏ, sản phẩm bán ra được ít nhưng chi phí đánh
giá cấp chứng chỉ lại quá cao. Sự hỗ trợ kinh phí từ các đơn vị thu mua hay các
công ty lâm nghiệp hiện nay vẫn chưa có do chưa có chính sách chia sẻ lợi ích
nào phù hợp được đưa ra bàn bạc, thảo luận và đi đến thống nhất. Bên cạnh đó
các điều kiện về thị trường, các nhu cầu về sản phẩm cần có chứng chỉ vẫn chưa
rõ ràng để các doanh nghiệp hoặc các chủ rừng có thể dựa vào đó mà tính toán
rồi đi đến quyết định trong việc chia sẻ lợi ích của họ.
Về mặt xã hội: Tuy rằng quyền sở hữu sử dụng đất và sử dụng rừng cho
các chủ rừng quy mô nhỏ, lẻ đã được thể hiện rõ ràng trong các chính sách hiện
hành nhưng lợi ích đem lại từ quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng cho
họ chưa thực sự rõ ràng và hấp dẫn họ.Thực tế các chủ rừng và người dân địa
phương hiện tại chưa có quyền quyết định liên quan đến môi trường sống của họ
trong khi họ là người quản lý, sử dụng các nguồn đó. Chính sách về đất đai trong
Luật đất đai (1993) và luật sửa đổi bổ sung một số điều luật của Luật đất đai
(1998; 2000) quy định doanh nghiệp nhà nước được cấp quyền sử dụng đất trong
kinh doanh. Nhưng trong thực tiễn sản xuất đa số các lâm trường chưa được cấp
quyền này (sổ đỏ), ngoại trừ số ít các lâm trường như Con Cuông ở Nghệ An,
35
Hương Sơn ở Hà Tĩnh thì đa số chỉ là phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc dự
án đầu tư trong đó có ranh giới diện tích đất đai của Bộ hoặc UBND tỉnh[8].
Về chứng chỉ rừng: Mặc dù chứng chỉ rừng là công cụ hữu hiệu để thực
hiện quản lý rừng bền vững, có trách nhiệm nhưng những điều kiện để một chủ
rừng đạt được đến cấp chứng chỉ rừng lại rất khắt khe, khó khăn, đôi khi không
phù hợp với từng quốc gia, từng địa phương của từng vùng khác nhau. Bên cạnh
đó chi phí cấp chứng chỉ lại rất lớn so với một chủ rừng quy mô nhỏ lẻ do vậy
tuy các chủ rừng có biết là lợi ích nếu có CCR nhưng họ vẫn bàng quang vì bản
thân họ không thể giải quyết được vấn đề về kinh phí.
36
Chương 2
MỤC TIÊU, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu đánh giá và đề xuất các bổ sung hướng dẫn thực hiện quy
trình CCR theo nhóm đối với mô hình quản lý rừng bền vững theo nhóm hộ gia
đình quản lý rừng cường độ thấp và nhỏ (SLIMF) .
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá hiệu quả mô hình Quản lý rừng bền vững thông qua hoạt động
cấp chứng chỉ nhóm tại xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
- Xác định các khó khăn, thách thức của việc cấp chứng chỉ rừng tại mô
hình trên, các bất cập khi quản lý và sử dụng lợi thế của CCR đã được cấp
- Nghiên cứu và đề xuất các bổ sung hướng dẫn thực hiện chứng chỉ rừng cho
các nhóm hộ tham gia chứng chỉ rừng phù hợp với điều kiện miền Trung Việt Nam
2.2. Cơ sở khoa học
Như chúng ta đã biết, diện tích đất rừng của nước ta hiện nay là khá lớn,
tính đến hết năm 2010 thì tổng diện tích đất rừng của chiếm diện tích tới 13,4
triệu ha trong đó rừng trồng chiếm tới 2,77 triệu ha, chiếm tới 20% tổng diện tích
rừng của nước ta hiện nay. Trong đó diện tích rừng do người dân quản lý hiện
nay là khoảng 1,25 triệu ha, xấp xỉ 45,5% tổng diện tích rừng trồng[1.
Đối với khu vực nghiên cứu tại các huyện Hải Lăng, Gio Linh, Vĩnh Linh
và Cam lộ thì loài cây trồng chủ yếu là cây keo lai, keo lá tràm và keo tai tượng
do các dự án khác nhau hỗ trợ thực hiện hoặc do các công ty lâm nghiệp tiến
hành trồng. Trong đó huyện Hải Lăng trồng 8.657ha, huyện Vĩnh Linh 4.785ha,
huyện Gio Linh 2.343ha và huyện Cam Lộ 8.158ha. Trong đó diện tích rừng
phòng hộ chiếm một số lượng khá lớn như: Rừng phòng hộ đầu nguồn sông
37
Thạch Hãn chiếm hơn 4.485ha, rừng phòng hộ Hồ Trúc Kinh 3.800ha, rừng
phòng hộ vùng cát 995ha[5].
Một trong những khó khăn hiện nay là diện tích rừng trồng nói chung và
rừng keo nói riêng nằm trong khu vực quy hoạch là rừng phòng hộ tương đối
lớn. Do vậy nếu chu kì kinh doanh của cây ngắn lại hoặc khi khai thác chúng ta
tiến hành khai thác trắng sau đó trồng lại mà không trồng xen kẽ các cây bản địa
thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phòng hộ của rừng. Do vậy trách nhiệm
của người dân trong việc quản lý rừng, khai thác bền vững và không làm ảnh
hưởng đến việc phòng hộ của rừng là một trong những vấn đề cần giải quyết
hiện nay.
2.3. Tính khả thi của đề tài
Việc nghiên cứu và áp dụng đề tài vào thực tế mang tính khả thi cao do
đây là một trong những mô hình mang lợi ích kinh tế đến cho người dân. Bên
cạnh đó, đề tài cũng chỉ ra được tầm quan trọng của công tác quản lý bảo vệ
rừng một cách khoa học thông qua các phương pháp khai thác, các chu kỳ kinh
doanh hợp lý để đảm bảo rừng được phát triển một cách bền vững và không ảnh
hưởng đến môi trường và xã hội.
2.4. Phạm vi nghiên cứu
2.4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Nhóm CCR tại xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
- Các hộ gia đình tham gia và không tham gia vào nhóm CCR tại xã.
- Diện tích rừng keo đã khai thác và chưa khai thác tại xã
2.4.2. Địa điểm nghiên cứu:
- Xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
2.5. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá hiệuquả của việc cấp chứng chỉ rừng tại xã Trung sơn, huyện
Gio linh dựa trên các yếu tố về Kinh Tế, Môi Trường và Xã Hội
38
- Các yêu cầu của chứng chỉ rừng và các đáp ứng yêu cầu từ các nhóm hộ
(yêu cầu về chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu về nguồn gốc đất, các yêu
cầu về quản lý và trách nhiệm của cộng đồng về môi trường....)
- Xác định các hạn chế/khó khăn về môi trường, kinh tế, xã hội, đặc biệt là
các chính sách hiện hành liên quan đến người dân tham gia và hoạt động cấp
chứng chỉ rừng nhằm thúc đẩy quản lý rừng bền vững
- Các đề xuất nhằm bổ sung cho hướng dẫn chứng chỉ rừng theo nhóm
phù hợp với điều kiện Miền Trung Việt Nam
2.6. Phương pháp nghiên cứu:
2.6.1. Điều tra, nghiên cứu ngoài thực địa
- Xác định diện tích rừng trồng keo của các hộ gia đình thông qua các
thông tin tại hiện trường, phỏng vấn hộ gia đình tham gia vào nhóm. Đây là cơ
sở để xây dựng bản đồ hiện trạng diện tích rừng của nhóm
- Sử dụng các công cụ của phương pháp đánh giá nông thôn có người dân
tham gia (PRA), để thảo luận với người dân về các vấn đề liên quan đến tình
hình trồng, chăm sóc, khai thác, sử dụng cây keo trong khu vực nghiên cứu.
- Các kinh nghiệm đưa ra từ mô hình đã thực hiện thành công
- Các đề xuất của thành viên nhóm, BQL nhóm về mô hình, các hạn chế
và khắc phục
- Phân tích SWOT để tìm các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
trong việc thực hiện thành công mô hình và nhân rộng mô hình
2.6.2. Xử lý số liệu
+ Sử dụng phần mềm Mapinfor cập nhật số liệu về diện tích, loài cây, có
sổ đỏ hay chưa.... vào diện tích rừng trồng của nhóm
+ Các phân tích các lợi ích khi tham gia vào chứng chỉ rừng
+ Các đánh giá dựa trên tiêu chí của CCR đáp ứng được điều kiện hiện tại
của các hộ gia đình.
+ Các đề xuất phù hợp với điều kiện miền trung Việt Nam được lựa chọn
39
Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Tổng quan về khu vực nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1.Vị trí địa lý
Vị trí huyện Gio Linh nằm phía Bắc của tỉnh Quảng Trị
+ Phía Nam giáp huyện Triệu Phong, huyện Cam Lộ.
+ Phía Tây giáp huyện Đakrông, huyện Hướng Hóa.
+ Phía Bắc giáp huyện Vĩnh Linh.
+ Phía Đông giáp biển đông.
Toạ độ địa lý được giới hạn như sau :
+ 16018' đến 17010' Vĩ độ Bắc
+ 106024' đến 1070' 24' Kinh độ Đông
3.1.1.2. Địa hình
Địa hình huyện Gio Linh có nét đặc trưng cao dần từ Đông sang Tây,
vùng đồi, núi càng lên cao, địa hình càng phức tạp, khe suối nhiều, độ dốc khá
cao, có nơi độ dốc từ 35 - 400. Do đó, việc tổ chức sản xuất cũng như việc phát
triển các hệ thống giao thông, công trình thuỷ lợi, thuỷ điện gặp nhiều khó khăn.
Tổng diện tích tự nhiên 47.299,0 ha được chia thành 4 tiểu vùng chính như sau:
- Địa hình vùng đồi núi: Có diện tích tự nhiên 20.949,4 ha (chiếm 44,30 %
diện tích tự nhiên toàn huyện), dạng địa hình này nằm phía Tây của huyện, được
phân bố ở xã Linh Thượng, Vĩnh Trường, Hải Thái.
- Địa hình vùng đồi: Dạng địa hình này tập trung ở các xã phía Tây huyện
và dọc theo Quốc lộ 1A, có diện tích tự nhiên 13.923,4 ha (chiếm 29,44 % diện
tích tự nhiên toàn huyện), phân bố ở các xã: Gio An, Gio Bình, Gio Sơn, Linh
Hải, Gio Châu, Gio Phong, Gio Hoà, Trung Sơn, thị trấn Gio Linh.
40
- Địa hình vùng đồng bằng: Có diện tích tự nhiên 9.326,6 ha (chiếm
19,71% diện tích tự nhiên toàn huyện), phân bố ở các xã: Trung Hải, Gio Mỹ,
Gio Thành, Gio Mai, Gio Quang.
- Địa hình vùng ven biển: Có diện tích tự nhiên 3.099,6 ha (chiếm 6,55%
diện tích tự nhiên toàn huyện), phân bố ở các xã: Trung Giang, Gio Hải, Gio
Việt, thị trấn Cửa Việt.
SƠ ĐỒ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG TRỊ
NHÓM CHỨNG CHỈ RỪNG QUẢNG TRỊ
Hình 3.1. Sơ đồ địa giới hành chính tỉnh Quảng Trị
3.1.1.3. Khí hậu - Thủy văn
a) Khí hậu:
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa tương đối điển hình. Mùa hè,
gió Tây Nam khô nóng từ tháng 4 đến tháng 9 nhiệt độ có khi lên đến 40oC,
41
lượng nước bốc hơi lớn làm cho thảm thực bì dưới tán rừng khô kiệt dễ gây ra
cháy rừng, mùa đông lạnh, ẩm ướt do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, từ
tháng 11 đến tháng 3 năm sau (theo số liệu của trạm thủy văn Vĩnh Tường và
trạm thủy văn Gio Việt, huyện Gio Linh)[3].
b) Nhiệt độ:
Nhiệt độ bình quân hàng năm khoảng 24-25oC. Nhiệt độ tháng cao nhất
(tháng 5 -7) khoảng 33- 35oC , có khi lên tới 40oC làm cho thảm thực bì dưới tán
rừng khô kiệt dể gây ra cháy rừng khi có lửa. Tháng 1 và 2 có nhiệt độ thấp nhất,
khoảng 18oC.
c) Ẩm độ:
Độ ẩm không khí bình quân cả năm 85 - 90%, kéo dài từ tháng 9 đến
tháng 4 năm sau. Trái lại, thời kỳ tháng 5 đến tháng 8 gió mùa Tây - Nam thổi
thường xuyên, khô nóng, nên độ ẩm thường xuyên dưới 50%.
d) Chế độ mưa:
Lượng mưa bình quân hàng năm từ 2500 - 2700 mm, lượng mưa phân bố
không đều, từ tháng 9 - 11 chiếm 70 - 75% lượng mưa hàng năm, mưa thường
xảy ra từng đợt từ 3 - 6 ngày, cường độ mưa lớn, tháng 10 có lượng mưa cao
nhất, thường đạt trên 600 mm/ tháng. Số ngày mưa phân bố không đều, trong các
tháng cao điểm, trung bình mỗi tháng có 19 - 20 ngày mưa, mưa lớn gây lũ, lụt
làm ảnh hưởng đến việc bố trí mùa vụ sản xuất nông lâm nghiệp và đời sống dân
sinh, phá hỏng các hệ thống đường lâm nghiệp.
e) Chế độ gió:
Gió Tây Nam khô nóng từ tháng 4 đến tháng 9 nhiệt độ có khi lên đến 40oC,
lượng nước bốc hơi lớn làm cho thảm thực bì dưới tán rừng khô kiệt dễ gây ra cháy
rừng, mùa đông lạnh, ẩm ướt do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, từ tháng 11
đến tháng 3 năm sau (theo số liệu của trạm thủy văn Vĩnh Trường, huyện Gio Linh)
42
Bảng 3.1. Số liệu bình quân 5 năm các chỉ tiêu nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa [3]
Năm 2005 2007 2008 2009 2010
BQ ( o C)
To 25,1 25,1 24,5 24,5 25,9
Độ ẩm BQ (%) 83 84 83 83 83
Lượng mưa (mm) 3.032,3 2.674,6 2.391,7 2.414,3 2.473,1
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị 2010
f) Thủy văn:
Trên địa bàn huyện có các hệ thống lưu vực sông ngòi đó là:
+ Lưu vực sông Bến Hải, con sông này cũng là ranh giới giữa huyện Gio
Linh với huyện Vĩnh Linh.
+ Một nhánh Sông Ngân là ranh giới giữa vùng Tây Nam của xã Linh
Thượng giáp với huyện Cam Lộ.
+ Một nhánh của Sông Hiếu là ranh giới giữa các xã Gio Mai, Gio Việt
giáp với huyện Triệu Phong.
+ Sông Cánh Hòm chảy qua địa bàn các xã Trung Hải, Gio Mỹ, Gio
Thành, Gio Mai nối đoạn giữa của sông Bến Hải và Sông Hiếu.
- Một số khe suối như Khe Lòn chảy về hồ Trúc Kinh; Khe Me, Khe
Mướp chảy về sông Bến Hải.
Ngoài ra còn có một số hồ đập thủy lợi nhỏ của các Dự án, luôn có nước
trong mùa khô thuận lợi cho việc tiếp nước phục vụ chữa cháy rừng.
3.1.1.4.Tài nguyên đất
Hiện tại trên địa bàn huyện Gio Linh có 8 nhóm đất chính (diện tích điều
tra 42.635,5 ha, diện tích không điều tra 4.601,1 ha (diện tích sông, suối, hồ, núi
đá...) [3], cụ thể:
- Nhóm bãi cát, cồn cát và đất cát ven biển (arenosols) : Nhóm này có
diện tích 9.242 ha được phân bố chủ yếu ở các xã: Trung Giang, Gio Mỹ, Gio
43
hải, Gio Mai, Gio Việt, Gio Quang. Nhóm đất này được sử dụng để trồng Phi
Lao và cây hoa màu.
- Nhóm Đất mặn – Salic fluvisols (fsl): Nhóm này có diện tích 544 ha,
được phân bố ở ven sông Bến Hải, xã Gio Quang, Trung Giang, Gio Mỹ. Nhóm
đất này có thể được sử dụng để trồng lúa 1 vụ, nuôi trồng thuỷ sản.
- Nhóm đất Phèn (Chionic Fluvisols): Với diện tích 388 ha, được phân bố
ở địa hình trũng xã Gio Mỹ, đất này được sử dụng để trồng lúa một vụ, để sử
dụng có hiệu quả có thể chuyển sang nuôi tôm, cá.
- Nhóm đất phù sa (Fluvisol): Nhóm đất này có diện tích 4.270 ha, được phân
bố ven sông Bến Hải, xã Gio Quang, xã Trung Hải, Gio Thành. Nhóm đất này được
sử dụng để trồng lúa, các loại hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày.
- Đất than bùn – T (Fibric Histosols): nhóm đất này có diện tích 26 ha,
được phân bố ở vùng trũng xã Gio Quang, được khai thác để sản xuất phân hữu
cơ và làm chất đốt.
- Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ – D (Dystric Gleysol): Với diện tích
90 ha, phân bố ở vùng địa hình trũng trên địa bàn xa Gio Bình, Hải Thái, đất
được sử dụng để trồng lúa 2 vụ, cần chú ý khử chua cho đất.
- Nhóm đất đỏ vàng - Acrisol: Nhóm đất này có diện tích 27.650,51 ha,
được phân bố ở các xã: Gio Bình, Gio An, Gio Châu, Gio Sơn, Gio Phong, Gio
Hoà, Linh Hải, Hải Thái, Linh Thượng, Vĩnh Trường. Nhóm đất này được sử
dụng để trồng Cao Su, Hồ Tiêu, trồng rừng, khoanh nuôi BVR, trồng cây ăn quả,
công nghiệp ngắn ngày.
- Đất xói mòn trơ sỏi đá - E (Hapli Dystric Leptosols): Đất này có diện
tích 425 ha, phân bố chủ yếu ở xã Trung Sơn, nên trồng rừng để bảo vệ đất.
44
3.1.1.5. Tình hình sử dụng đất toàn huyện
Bảng 3.2. Hiện trạng sử dụng đất của huyện Gio Linh
Loại đất Diện tích (ha)
Tổng diện tích tự nhiên 47.299
Đất có rừng 17.053,3
Rừng tự nhiên 5.221,0
Rừng trồng 11.832,35
Đất trống quy hoạch cho LN 8.019,15
Đất khác 22.226,55
(Nguồn:Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị năm 2010)
Cơ cấu sử dụng đất: Hiện trạng sử dụng đất của huyện như sau:
Tổng diện tích tự nhiên: 47.299,0 ha. Trong đó:
- Đất nông nghiệp: 12.231,5 ha, chiếm 25, 86% diện tích tự nhiên.
- Đất lúa màu có diện tích lớn nhất: 4.326,99 ha, chiếm 35,37% đất nông
nghiệp và 64,63 % diện tích cây hàng năm.
- Đất lâm nghiệp: 25.072,5 ha, chiếm 53,01% diện tích tự nhiên.
- Đất chuyên dùng: 2.767,7 ha, chiếm 5,85% diện tích tự nhiên.
- Đất ở: 318,18 ha, chiếm 0,67% diện tích tự nhiên.
- Đất chưa sử dụng: 6.909,12 chiếm 14,61% diện tích tự nhiên.
Diện tích đất quy hoạch cho lâm nhiệp chưa trồng rừng và đất chưa sử
dụng nhiều phần lớn phân bố ở vùng đồi, xa dân cư, vùng dân tộc ít người sinh
sống, đây là tiềm năng để phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp.
3.1.2. Tình hình kinh tế xã hội
3.1.2.1. Dân số huyện Gio Linh
Huyện Gio Linh hiện có 21 xã, thị trấn, dân số toàn huyện tính đến
31/12/2010 theo số liệu thống kê là 77.888 người
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1.07 %.
- Tổng số lao động 35.289 người
45
- Mật độ dân cư trung bình 164,7 người/km2
3.1.2.2. Thành phần dân tộc
Dân tộc Kinh chiếm đa số dân cư trong toàn huyện với 97% và Dân tộc ít
người chủ yếu là dân tộc Vân Kiều chiếm khoảng 3% tập trung sinh sống ở 02
xã Vĩnh Trường và Linh Thượng.
3.1.2.3. Lao động
Về lao động có trên 90% số hộ sản xuất nông - lâm nghiệp, còn lại là
trong các ngành nghề, dịch vụ khác.
Nhìn chung mật độ dân số phân bố khụng đồng đếu trên toàn địa bàn, cơ
cấu lao động chưa phự hợp với tình hình địa phương, tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao.
Đây cũng là những thách thức trong việc tổ chức phát triển kinh tế, quản lý bảo
vệ rừng, nhất là bảo vệ rừng và PCCCR
3.1.2.4. Cơ sở hạ tầng
a) Về Giáo dục:
Năm 2008-2009, trên địa bàn có 41 trường tiểu học, trung học cơ sở, 3
trường trung học phổ thông với 620 lớp học. Số giáo viên trực tiếp giảng dạy
phổ thông 1032 người, số học sinh trong toàn huyện là 20.766 em. Những năm
qua, ngành giáo dục, đào tạo huyện Gio Linh đã thu được những kết quả khích
lệ. Tỷ lệ học sinh tăng hàng năm 0,6-0,9%, nhiều em đã đoạt giải trong các kỳ
thi học sinh giỏi và Quốc gia kết quả thi tốt nghiệp phổ thông các lớp luôn đạt
cao, trên 95%.
b) Y tế:
Toàn huyện có 1 bệnh viện, 01 trung tâm y tế dự phòng, 02 phòng khám
đa khoa khu vực, 21 trạm y tế xã với 130 giường bệnh; 17 bác sỹ, 47 y sỹ, 33 y
tá, 36 hộ sinh. Năm 2009 có 99.600 lượt người được khám, chữa bệnh, số ngày
sử dụng bình quân giường bệnh trong tháng 47,1 ngày. Các chương trình tiêm
chủng mở rộng, như phòng lao, sởi ...đạt 96,5% kế hoạch.
46
Nhìn chung, ngành y tế huyện đã đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh
của người dân trên địa bàn
c) Giao thông:
Huyện Gio Linh có tuyến đường bộ dài 434,4 km, với Quốc lộ 1A, Quốc
lộ 9 kéo dài, đường Hồ Chí Minh dài 39,5 km, 5 tuyến tỉnh lộ dài 61,9 km, còn
lại là đường huyện, đường liên thôn dài 347 km. Ngoài ra, trên địa bàn có 13 km
đường sắt đi qua và có Ga Hà Thanh, tổng diện tích đất 3,9 ha.
Đường thủy có 2 tuyến, tuyến sông Hiếu dài 14 km, qua địa phận Gio
Linh 7,8 km với Cảng Cửa Việt, tuyến sông Bến Hải dài 13 km, đây là tuyến
đường chủ yếu được dùng để vận chuyển gỗ khai thác trái phép từ rừng tự nhiên
trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, hệ thống đường Lâm nghiệp chưa phát triển, gây
khó khăn cho công tác BVR, PCCCR.
Nhìn chung, mạng lưới giao thông trong huyện đã phát triển ở mức khá,
đáp ứng sự phát triển kinh tế, xã hội hiện tại
d) Hệ thống điện, nước và thông tin liên lạc :
- Điện lưới: Hầu hết các xã trên địa bàn huyện đều có điện lưới và phần lớn
người dân đó được sử dụng điện lưới để sinh hoạt phục vụ sản xuất phát triển kinh tế.
- Nước: Phần lớn người dân nông thôn đồng bằng và gò đồi đều sử dụng
nước ngầm (Nước giếng, giếng khoan) , một phần nhỏ người dân tộc thiểu số
Vân kiều vẫn sử dụng nước khe, suối để phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Nhìn
chung theo đánh giá của các cơ quan chức năng thì nguồn nước trên địa bàn
huyện có chất lượng tương đối tốt.
- Hệ thống thông tin liên lạc: Trên địa bàn huyện có Bưu điện huyện. Hầu
hết các xã đều có trung tâm Văn hóa xã; Mạng lưới sóng thông tin di động, hiện
trên toàn huyện đó phủ súng di động và đang phát triển mạnh mẽ công nghệ 3G,
tạo điều kiện cho phấn lớn người dân được tiếp cận với những tiến bộ khoa học
kỷ thuật mới của nhân loại, đây là một động lực thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng nông nghiệp - công nghiệp tiên tiến và hiện đại.
47
Giao thông, điện sáng, nước sinh hoạt và thông tin liên lạc là nhu cầu thiết
yếu của con người. Tuy nhiên, một số vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số
người dân chưa được sử dụng. Vấn đề này đó phần nào ảnh hưởng đến việc sinh
hoạt của cộng đồng dân cư và công tác bảo vệ rừng trên địa bàn huyện.
3.1.3. Tài nguyên rừng
Theo số liệu cập nhật diễn biến rừng và đất lâm nghiệp đến 31/12/2010
diện tích rừng của toàn huyện là 17.053,35 ha[2], hiện trạng rừng như sau :
Bảng 3.3. Hiện trạng rừng huyện Gio Linh phân theo chức năng
Phân theo chức năng
Loại rừng Diện tích (ha) Rừng đặc Rừng Rừng sản
dụng phòng hộ xuất
Rừng trồng 11.832,35 0 4.172,15 7.660,20
Rừng tự nhiên 5.221,00 0 5.215,00 5,00
Tổng cộng 17.053,35 0 9.387,15 7.665,20
(Nguồn : CCKL Quảng Trị)
- Rừng trồng: Với diện tích 11.832,35 ha, chiếm 25,01% tổng diện tích tự
nhiên, rừng trồng chủ yếu được trồng theo các dự án Việt - Đức, rừng phòng hộ
hồ Trúc Kinh, 327, 661 ... ngoài ra một số tổ chức, cá nhân trồng theo vốn tự có.
Các loài cây trồng chủ yếu là Thông nhựa, keo các loại. Rừng trồng có trữ lượng
10.051,0 ha (2.756 ha rừng phòng hộ, 7.295,0 ha rừng sản xuất), rừng chưa có
trữ lượng 1.781,35 ha (1.416,15 ha rừng phòng hộ, 365,20 ha rừng sản xuất). Từ
kết quả này ta thấy rằng, tiềm năng rừng trồng trên địa bàn là nguồn thu nhập lớn
đối với đời sống của cộng đồng dân cư thôn, bản.
- Rừng tự nhiên: Với diện tích 5.221,0 ha, chiếm 11,03% tổng diện tích
tự nhiên. Rừng tự nhiên trên địa bàn huyện bao gồm các trạng thái rừng IIIa1,
IIIa2, IIIa3, IIb, IIa, đều thuộc kiểu rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, ở độ
cao 500m.
48
Rừng tự nhiên ở huyện Gio Linh đã chịu nhiều tác động của việc chặt phá
khai thác trái phép, cấu trúc rừng thay đổi, chất lượng rừng bị giảm sút và đuợc
phân bố chủ yếu trên 23 tiểu khu, phần lớn là rừng phòng hộ do ban quản lý rừng
phòng hộ lưu vực sông Bến Hải và một phần do UBND xã quản lý, bảo vệ theo
Quyết định 245/1998/QĐ-TTg. Hiện tại, rừng tự nhiên không được khai thác gỗ
theo kế hoạch của Nhà nước.
3.1.3.1. Hệ thực vật
Trên địa bàn huyện Gio Linh khá đa dạng về thành phần loài, là nơi giao
lưu của nhiều luồng thực vật [31], bao gồm:
+ Khu hệ thực vật Bắc Việt Nam- Trung Hoa: Tiêu biểu là các loài cây
thuộc họ Dẻ( Fagaceae), họ Re( Lau raceae), họ Ngọc lan ( Mangnoliaceare), họ
Dâu tằm ( Moraceae) ...
+ Luồng thực vật từ phía Tây Bắc xuống, mang các yếu tố Vân Nam -
Quý Châu và chân dãy Hymalaya: Tiêu biểu là các loài cây thuộc họ Hoàng đàn
(Podocapaceae), họ Re( Lauraceae )...
+ Luồng thực vật di cư từ phía Nam lên, mang các yếu tố Malaysia-
Indonêsia: Tiêu biểu là các loài cây thuộc họ Dầu ( Diterocarpaceae )....
Trong thành phần loài có những loài cây bản địa có giá trị nhiều mặt như
Lim xanh, Gụ lau, Huỷnh, Sến, Thị rừng, Cà ổi, Cồng, Dẻ rừng, Gie... hoặc có
giá trị xuất khẩu, làm thuốc: Trầm hương, Ngũ gia bì, Khổ sâm nam, Re
hương…
3.1.3.2. Hệ động vật
Động vật rừng trong vùng là một phần của khu hệ động vật Bắc Bộ, là
khu vực đặc trưng cho hai khu hệ động vật Hymalia và Indonesia [32].
Động vật rừng có các loài như: Gấu, Bò tót, Nai, Hươu, Mang, Lợn rừng,
Kỳ đà, Trăn, các loài Rắn, Chồn, Sóc, Thỏ, Nhím, Gà lôi lam mào trắng, Công,
Khỉ đuôi dài, Tê tê ..
49
3.2. Tổng quan về xã Trung Sơn [16]
3.2.1. Điều kiện tự nhiên
a) Vị trí địa lý:
Xã Trung Sơn là một xã nằm về phía Bắc huyện Gio Linh. Có vị trí địa lý
nằm trong khoảng :
16030’ 30” đến 160 46’ 22” độ vĩ Bắc.
1060 52’ 40” đến 1070 05’ 15” độ kinh Đông.
Có ranh giới hành chính tiết giáp với các xã:
Phía đông giáp: Xã Trung Hải.
Phía tây giáp: Xã Vĩnh Trường.
Phía nam giáp: Xã Gio An, Gio Bình, Gio Phong.
Phía bắc giáp: Xã Vĩnh Sơn - Huyện Vĩnh Linh.
b) Địa hình: Xã Trung Sơn có địa hình bán sơn địa có khoảng 1/3 diện
tích tự nhiên là đất đồng bằng có độ cao dưới 5m, còn lại 2/3 diện tích là đất đồi
với độ cao khoảng 6 - 35m.
c) Địa mạo: Xã Trung Sơn có độ cao giảm dần từ Tây sang Đông, càng
lên cao địa mạo càng thay đổi do địa hình đồi núi lồi lõm, khe suối nhiều.
d) Khí hậu: Khí hậu gió mùa rất khắc nghiệt, có 2 mùa rõ rệt, mùa khô từ
tháng 4 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 cho đến tháng 3 năm sau. Mùa khô gió
Tây nam nắng hạn gay gắt còn về mùa mưa thì thường xuyên lũ lụt gây khó khăn
cho việc gieo trồng và đi lại.
e) Thuỷ văn: Xã Trung Sơn có phía Bắc tiết giáp với sông Bến Hải do đó khe
suối có nhiều diện tích mặt nước khá lớn 256 ha kể cả diện tích hồ chứa nước.
50
SƠ ĐỒ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH XÃ TRUNG SƠN HUYỆN GIO LINH TỈNH QUẢNG TRỊ
Hình 3.2. Sơ đồ tổng quát địa giới hành chính xã Trung Sơn
3.2.2. Các nguồn tài nguyên, khoáng sản
Tài nguyên chủ yếu là nguồn tài nguyên đất với nhiều loại đất phù hợp
với nhiều loại cây trồng. Ngoài ra còn một số tài nguyên khoáng sản khác như tài
nguyên về rừng trồng, khai thác đá, khai thác cát sạn.
3.2.3.3. Thực trạng môi trường:
Tổng diện tích tự nhiên theo bản đồ đo đạc địa chính chính quy là
2.979,84 ha chiếm 6,2% diện tích tự nhiên của huyện. Riêng diện tích rừng trồng là
1.328,63 ha. Độ che phủ chiếm 55,5%, Xã có chiều dài 12 km, rộng 3,8 km[15].
Dân số năm 2010 là 5.225 người/1.131 hộ, trong đó, nữ là 2.742 người.
Tổng số lao động 2.475 người. Toàn xã có 6 thôn, 1 tập đoàn và 5 hợp tác xã
(HTX) dịch vụ nông nghiệp. Thu nhập chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, chủ yếu
51
là trồng trọt và chăn nuôi với các loại cây trồng chính như rừng Keo, rừng Cao
su, tiêu, lạc, lúa, rau dưa các loại.
Diện tích canh tác của địa phương phần lớn nằm trong vùng dể ngập lụt, hệ thống
mương tiêu không đảm bảo, gây khó khăn trong công tác sản xuất nông nghiệp.
Địa bàn xã Trung Sơn nằm dọc theo sông Bến Hải. Do đó hàng năm về
mùa mưa lũ thường xảy ra lũ quét và ngập úng.
52
Chương 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tình trạng trồng, chăm sóc, bán sản phẩm gỗ keo tại địa phương
Rừng keo tại địa bàn xã Trung Sơn chủ yếu do dự án Việt –Đức (KfW 2)
trồng từ những năm 1999 đến 2000, một số trồng sau này nhưng việc quy hoạch
và diện tích, sổ đỏ đều được dự án KfW2 Đức thực hiện nên các tiêu chí liên
quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp... đều đáp ứng được các yêu cầu về quản
lý địa chính của địa phương. Việc chăm sóc rừng cũng được người dân trú trọng
trong thời gian dự án còn hoạt động, tuy nhiên sau khi dự án kết thúc việc chăm
sóc rừng theo đúng quy trình diễn ra ở một số ít hộ gia đình.
Trước khi rừng được cấp chứng chỉ, hầu hết các hộ gia đình trồng rừng
bằng phương pháp cày ủi sau đó đào hố trồng. Do tham gia với dự án KFW nên
kinh phí trồng rừng được hỗ trợ và người dân phải bỏ công sức ra để tham gia dự
án. Dưới đây là bảng tổng hợp diện tích rừng trồng đã được cấp sổ đỏ của các hộ
gia đình xã Trung Sơn:
Diện tích đã
Số hộ có sổ
Loài cây/diện tích (ha)
trồng (ha)
đỏ (hộ)
T
Ngoà
Ngoà
Thôn
T
KfW
i
KfW
i
Tổn
200
200
1998
1999
2003
2
KfW
2
KfW
g
0
1
2
2
Gian
K+S
Bảng 4.1. Tổng diện tích rừng trồng keo có sổ đỏ xã Trung Sơn[38]
g
137.
1
Xuân
7
137.7
Hải
K+S
Kinh
219.
2
137. 90.0 7
Môn
5
141.9
219. 34.0 147. 5.0
Diện tích đã
Số hộ có sổ
Loài cây/diện tích (ha)
trồng (ha)
đỏ (hộ)
T
Ngoà
Ngoà
Thôn
T
KfW
i
KfW
i
Tổn
200
200
1998
1999
2003
2
KfW
2
KfW
g
0
1
2
2
K+T
53
77.5
34.0
Kl
34.0
An
36.4
K+T
Xá –
3
5 0
Đồng
36.4
Kl
1.0
Thị
1.0
37.4
Kinh
4
36.4 1.0 30.0 1.0
Thị
K+T
37.4
34.6
Võ
5
37.4 23.0
Xá
K+T
34.6
34.6 23.0
279,6
151,3
35,0
Tổng 465,5 35,00
313
6
5
0
0
K+S =Keo lá tràm + Sến; Keo lá tràm + Thông = K+T; Keo lai = Kl; Keo lá tràm = Kt
KFW2
Loài cây/diện tích trồng rừng KFW2
Ngoài
Loài cây/diện tích trồng rừng ngoài dự án KFW2 dân đã trồng
KFW2
Như vậy có thể thấy toàn xã Trung Sơn, diện tích rừng có sổ đỏ chiếm khá
lớn, chủ yếu tham gia dự án KFW2 trồng rừng Việt Đức. Tuy nhiên diện tích
54
tham gia chứng chỉ rừng chủ yếu tập trung vào 2 thôn Kinh Môn và Giang Xuân
Hải. Hầu hết các hộ gia đình đăng ký để xác nhận nhóm đã tham gia vào các dự
án KfW2 với mô hình trồng rừng keo lá tràm chủ yếu là trồng trong giai đoạn
1998 - 2001. Bảng trên cho thấy rằng diện tích rừng trồng Keo lá tràm hiện tại
của xã 500.5 ha trong đó có 319 hộ có sổ đỏ. Riêng hai thôn Kinh Môn và Giang
Xuân Hải, tổng diện tích rừng keo là 391.2ha trong đó số hộ có sổ đỏ là 242 hộ.
Cũng có nhiều diện tích rừng người dân đã khai thác nhưng chưa trồng cây gì
hoặc đã chuyển đổi sang trồng sắn, cao su.
4.2. Diện tích rừng trồng đã được cấp chứng chỉ và quy trình cấp chứng chỉ FSC
Là một trong những tỉnh nghèo nhất của Việt Nam, quản lý rừng bền vững
là một cách mới để thúc đẩy đời sống của các cộng đồng địa phương. Giấy
chứng nhận FSC là một thương hiệu đáng tin cậy liên kết sản xuất nhỏ rừng cơ
sở cho khách hàng, cả hai thị trường trong nước và quốc tế. Với sự hỗ trợ của
WWF Việt Nam, 5 nhóm hộ sản xuất nhỏ rừng cấp giấy chứng nhận trong 5 thôn
thuộc Trung Sơn và Vĩnh Thủy trong đó xã Trung Sơn có 02 thôn là Kinh Môn
và Giang Xuân Hải đã được thành lập. Tổng diện tích rừng của các 5 nhóm là
356.5 ha, trong đó có gần 320 ha rừng trồng keo và còn lại là đất trống cho các
mục đích trồng các loại cây khác nhau[39]. Riêng xã Trung Sơn, tổng diện tích
tham gia chứng chỉ là 165,8ha với 66 hộ gia đình tham gia. Trong năm 2010 họ
đã được trao chứng nhận quản lý rừng (FSC) Hội đồng quản trị rừng cấp và trở
thành nhóm nhóm hộ gia đình đầu tiên của các chủ rừng nhỏ ở Việt Nam được
nhận chứng chỉ rừng đối với các tiêu chuẩn của FSC đã được quốc tế công nhận
có trách nhiệm với môi trường, quản lý lâm nghiệp xã hội mang lại lợi ích và
hiệu quả kinh tế.
Quy trình cấp chứng chỉ được hỗ trợ từ chi cục lâm nghiệp Quảng Trị và
tổ chức WWF Việt Nam áp dụng theo tiêu chuẩn FSC tại Việt Nam với 10
nguyên tắc và 56 tiêu chí được đưa ra áp dụng cho rừng keo tại xã Trung Sơn.
Cụ thể để thực hiện được việc cấp chứng chỉ này, đơn vị hỗ trợ (CCLN và
55
WWF) đã tiến hành họp thôn, xã xác định các diện tích rừng đáp ứng các yêu
cầu có thể cấp chứng chỉ, tiến hành thành lập nhóm, tập huấn cho nhóm... sau đó
đơn vị hỗ trợ sẽ liên hệ với các cơ quan đánh giá, bao gồm các bước sau:
- Giới thiệu chứng chỉ rừng tới các hộ gia đình (đơn vị hỗ trợ)
- Xác định các diện tích đáp ứng được yêu cầu có thể tham gia chứng chỉ
rừng, bao gồm cả việc đáp ứng các nguyên tắc và tiêu chí mà FSC quy định.
Hiện tại ở Việt Nam có áp dụng 10 nguyên tắc và 56 tiêu chí (phụ lục:.....)
- Họp thôn/xã/hợp tác xã để thành lập nhóm, bình bầu trưởng nhóm, các
thành viên hỗ trợ và tham gia nhóm
- UBND xã ra quyết định thành lập nhóm
- Tập huấn hỗ trợ các nhóm về quản lý hành chính và kỹ thuật
- Tiến hành đánh giá ban đầu về các diện tích rừng (đơn vị hỗ trợ và trưởng nhóm)
- Lập danh sách các thành viên nhóm, diện tích ban đầu và hồ sơ nhóm
- Hoàn thiện các thiếu sót trước khi tiến hành mới đánh giá ban đầu
Để được cấp chứng chỉ, các nhóm đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu đáp
ứng 10 nguyên tắc và 56 tiêu chí, tuy nhiên các hoạt động của nhóm không nhất
thiết phải đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc và tiêu chí này. Bên cạnh đó, tổ chức
WWF đưa ra các danh mục đơn giản nhưng đảm bảo việc tuân thủ theo các
nguyên tắc và tiêu chí của FSC đưa ra[19], cụ thể như sau:
(1) Điều kiện để xin gia nhập nhóm :
Quyền sử dụng đất được đảm bảo cho diện tích rừng trồng cho ít nhất chu kỳ
kinh doanh hiện tại cộng thêm 10 năm. Thời gian thuê đất phải được nêu rõ trong
giấy chứng nhận chước bạ. Các ví dụ cho quyền sử dụng đất được đảm bảo:
- Có sổ đỏ mang tên người sử dụng
- Hợp đồng thuê đất cho những sổ đỏ được cấp với tên khác- có chữ ký
của người lúc đầu được cấp sổ
- Quyết định cấp phép của cơ quan chức năng huyện trong đó nêu rõ tên
và thời gian được sử dụng đất
56
- Rừng trồng được thành lập trên đất trống (diện tích không có rừng tự
nhiên trước năm 1994).
- Kế hoạch trồng rừng của chủ rừng phù hợp với kế hoạch sử dụng đất
được các cơ quan chức năng phê duyệt.
- Rừng trồng không được làm giảm an toàn lương thực của các hộ dân
khác, đặc biệt là cho việc du canh hay chăn thả gia súc
(2) Các điều bắt buộc đối với quản lý rừng:
SƠ ĐỒ HIỆN TRẠNG RỪNG CẤP CHỨNG CHỈ (FSC) XÃ TRUNG SƠN – HUYỆN GIO LINH – TỈNH QUẢNG TRỊ
Hình 4.1. Sơ đồ diện tích các lô rừng được cấp chứng chỉ năm 2010
- Ranh giới với các sử dụng đất khác phải được thể hiện tại hiện trường
bằng các cây ăn quả hay các cây bản địa chu kỳ lâu năm
Nguồn gốc xuất xứ của vật liệu trồng (cây con, giâm hom) cần được tài
liệu hóa cho tất cả các rừng được trồng sau khi gia nhập nhóm
- Các loài cây ngoại lai chỉ có thể sử du ̣ng khi loài cây đó cho thu nhâ ̣p tố t
hơn các loài cây bản đi ̣a
- Không sử dụng các chất hóa học và phân bón đã bị cấm bởi FSC.
57
- Toàn bộ kế hoạch quản lý cấp tỉnh phải được lập chi tiết và có sự đồng ý
của quản lý nhóm
- Các hoạt động chăm sóc và tỉa thưa nhằm tăng giá trị lâm phần phải
đuợc xây dựng trong kế hoạch quản lý
- Trong trường hợp đất bị xói mòn, các hoạt động nhằm phục hồi đất cần
được chú trọng
- Động vật và thực vật nguy cấp và có nguy cơ, không phân biệt là ở trong
hay ngoài diện tích quản lý, không được phép săn bắt và sưu tầm bởi các thành
viên nhóm
- Xử lý chất thải và làm sạch thùng đựng phải phù hợp với qui định của
Việt Nam và qui định bảo vệ môi trường
- Việc đổ dầu cần phải được ngăn chặn, đặc biệt nơi gần vùng nước. Theo
đó, máy cưa và máy cắt cỏ phải được đổ dầu bên ngoài vùng đệm.
- Một vùng đệm khoảng 30 m dọc theo nguồn nước cố định cần phải được
quản lý không cho khai thác trắng và làm tăng tầng tán thực vật với các loài cây
bản địa
- Chiều rô ̣ng củ a hành lang này ít nhất là 30 m ở cả hai bên sông vớ i chiều
rô ̣ng củ a lò ng sông >10m
- Chiều rô ̣ng củ a hành lang này ít nhất là 15 m ở cả hai bên suố i vớ i chiều
rô ̣ng củ a lò ng suố i 5-10 m
- Chiều rộng của hành lang này ít nhất là 10 m đối với những hồ thủy lợi
với mực nước thay đổi theo mùa
- Chiều rô ̣ng củ a hành lang này ít nhất là 5m ở cả hai bên suố i vớ i chiều
rô ̣ng củ a suố i <5m
(3) Nhân công và điều lệ an toàn lao động:
- Phải đảm bảo đú ng quy trình về an toàn trong lao đô ̣ng và sử dụng thiết bị an toàn lao động ; đă ̣c biê ̣t trong trườ ng hơ ̣p sử du ̣ng cưa máy, ngườ i khai thác phải mă ̣c bảo hô ̣ lao đô ̣ng và mang theo đồ sơ cứ u bên ca ̣nh[22].
58
- Không sử dung lao động đang bị quản thúc hay ở dạng khác của tổ chức
bán lao động
- Trẻ em dưới 15 tuổi chỉ có thể làm việc nhà hoặc vườn nhà. Việc làm
không đuợc gây ảnh hưởng đến kỳ học của trẻ ở trường.
- Chủ rừ ng phải thông báo và giải thích cho những ngườ i làm thuê những
yêu cầu liên quan FSC.
- Nam và nữ giới phải có bình đẳng giớ i về thu nhâ ̣p (4) Qui định về tài liệu:
- Tất cả hóa đơn cho bán gỗ và mua hạt giống cần phải được chuyển cho
Quản lý nhóm.
- Trong trường hợp sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, tên các loại
hóa chất này cần được báo cáo cho Quản lý nhóm, cụ thể về ngày dùng, liều
lượng được sử dụng
- Các vụ tai nạn cần được thông báo cho Trưởng nhóm thôn
Khai thác rừ ng phải báo cáo trước cho Trưởng nhóm thôn. Sau khai thác,kế hoa ̣ch sử du ̣ng đất phải đươ ̣c báo cáo cho nhó m trưở ng nhó m hô ̣ nông dân trồ ng rừ ng châ ̣m nhất 30 ngày
- Khai thác trắng lớn hơn 10 ha phải được thống nhất bằng văn bản với
Quản lý nhóm (liên quan đến các điều luật bảo vệ môi trường)
- Như vậy có thể thấy việc đảm bảo có thể tham gia đáp ứng được các yêu
cầu của FSC tập trung vào các điểm liên quan nhiều đến các thủ tục hành chính
như đơn tư gia nhập nhóm, quản lý tài liệu nhóm, các công việc này liên quan
nhiều đến tính tự nguyên tham gia của các thành viên nhóm. Các điều kiện bắt
buộc trong quản lý rừng cũng được đưa ra đảm bảo sự tham gia để đạt được
chứng chỉ FSC thì bắt buộc họ phải tham gia tất cả các hoạt động liên quan đến
quản lý rừng bền vững và bảo vệ môi trường. Các điều lệ an toàn lao động cũng
được đề cập trong các tiêu chí xác định đảm bảo không có ảnh hưởng đến sức
khỏe con người trong suốt quá trình tham gia chứng chỉ rừng.
59
4.3. Tổng quan mô hình CCR nhóm hộ gia đình thành công tại Gio Linh
4.3.1. Tổng quan về nhóm CCR
Nhóm chứng chỉ rừng thôn (VCG) là nhóm nông dân có cùng mối quan
tâm chung là phát triển rừng trồng của họ một cách bền vững. Các nhóm chứng
chỉ rừng thôn có thể tổ chức cùng tham gia mua cây giống, cùng khai thác, cùng
vận chuyển, cùng tiếp thị và bán gỗ, cùng tham gia việc sắp xếp và các thủ tục
chứng chỉ rừng FSC. Ý tưởng chung là các nhóm chứng chỉ rừng thôn có thể có
lợi ích lớn hơn khi hợp tác ở quy mô lớn hơn[18].
Tại Quảng Trị, nhóm Chứng chỉ rừng được hỗ trợ xây dựng bởi Dự án
kinh doanh lâm sản và quản lý rừng bền vững do tổ chức WWF-GTFN Việt
Nam thực hiện. Đây là dự án do WWF quản lý và kết thúc vào tháng 12/2010,
sau đó công tác quản lý nhóm sẽ được chuyển giao cho một cơ quan khác mà ở
đây Chi cục lâm nghiệp của tỉnh Quảng Trị. Hiện nay, tên nhóm SLIMF này là
“Nhóm chứng chỉ rừng Quảng Trị”. Các đơn vị quản lý rừng là các hộ gia đình,
họ tập hợp lại thành các nhóm hộ trong xã. Những hộ này cùng trồng ba loại cây
chính với cùng độ tuổi. Công tác quản lý được thực hiện thông qua các nhóm
quản lý rừng thôn. Có 5 thôn (thôn Kinh Môn và thôn Giang Xuân Thủy thuộc
xã Trung Sơn, huyện Gio Linh; các thôn Linh Hải, Thủy Ba Đông, Thủy Ba Tây
thuộc xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh). Mỗi thôn đều có trưởng thôn/chủ nhiệm
hợp tác xã làm trưởng nhóm cấp thôn. Cả 5 thôn thuộc về 2 xã: xã Trung Sơn
(huyện Gio Linh) và xã Vĩnh Thủy (huyện Vĩnh Linh) và mỗi xã đều có một chủ
tịch xã/phó chủ tịch xã làm trưởng nhóm cấp xã. Ở cấp tỉnh hiện nay là Chi cục lâm
nghiệp tỉnh với vai trò quản lý nhóm.
4.3.2. Cơ cấu tổ chức nhóm:
Cơ cấu tổ chức nhóm của nhóm chứng chỉ rừng tại Gio Linh được tổ chức
theo cơ cấu quản lý từ trên xuống có sự tham gia của các cấp chính quyền địa
phương theo sơ đồ quản lý như sau [22]:
Đơn vị quản lý nhóm cấp Tỉnh (CCLN QT+WWF)
Đơn vị quản lý nhóm cấp xã (UBND xã-Phan Thanh Tí)
Trưởng nhóm G.Xuân Hải (1 người-Lê Văn Cường)
Trưởng nhóm Kinh Môn (1 người-Lê Biên Hòa)
Nông dân chủ chốt (1-3 người)
Nông dân chủ chốt (1-3 người)
Hộ dân
Hộ dân
Hộ dân
Hộ dân
Hộ dân
Hộ dân
60
Theo sơ đồ phân bố cơ cấu tổ chức nhóm thì vai trò của người trưởng
nhóm và nông dân chủ chốt rất quan trọng trong việc vận hành hoạt động của các
nhóm. Việc này đảm bảo tính sát thực và theo dõi, đôn đốc các thành viên trong
nhóm thực hiện các hoạt động nhóm một cách chủ động và nâng cao vai trò về
quyền lực cho người trưởng nhóm và thành viên chủ chốt. Tuy nhiên việc lựa
chọn người trưởng nhóm cấp thôn cũng đang gặp nhiều khó khăn vì người
trưởng nhóm đòi hỏi phải có năng lực về quản lý, có uy tín trong nhóm và phải
biết lập kế hoạch duy trì và phát triển hoạt động của nhóm.
Theo đánh giá về cá nhân của tác giả thì hai nhóm tại Trung Sơn thì chỉ có
01 nhóm là có người trưởng nhóm có thể gánh vác được công việc của nhóm,
đảm bảo nhóm phát triển theo đúng mục đích, đạt được các kế hoạch đề ra.
Nhóm còn lại thì người trưởng nhóm hơi yếu, không biết quản lý dẫn đến việc
huy động các nông dân chủ chốt tham gia các hoạt động của nhóm không được,
từ đó các công việc của nhóm này đều ứ đọng hoặc không thực hiện được. Nhiều
61
lúc cần nhiều sự hỗ trợ của các cán bộ quản lý nhóm cấp tỉnh mà cụ thể ở đây là
cán bộ Chi cục Lâm nghiệp tỉnh.
Cơ cấu tổ chức của các nhóm này được hình thành trên cở sở tự nguyện
bình bầu có sự tham gia của các cấp chính quyền địa phương, tuy nhiên cho đến
nay vai trò của các ban ngành đoàn thể và cấp chính quyền địa phương ở cấp xã
còn chưa thể hiện rõ nét. Cụ thể như việc các thủ tục khai thác gỗ khi đến làm
việc với ban quản lý nhóm cấp xã còn gặp nhiều trở ngại về thời gian, việc phê
duyệt hoặc đồng ý cho khai thác còn mang nặng tính chính quyền quản lý hơn là
nhóm quản lý nhóm ở cấp xã và thôn. Vì vậy việc thúc đẩy sự tham gia và trao
trách nhiệm cho quản lý nhóm cấp xã cũng rất quan trọng để đảm bảo được sự
thông suốt trong quá trình vận hành của các nhóm trong tương lai.
4.3.3. Hoạt động nhóm:
Nhóm được thành lập dựa tinh thần tự nguyện của các hộ gia đình và
quyết định thành lập của UBND xã. Việc bầu chọn trưởng nhóm cũng được các
thành viên trong nhóm đứng ra bình bầu, lựa chọn. Trưởng nhóm chịu trách
nhiệm quản lý và duy trì hoạt động của nhóm, đảm bảo việc vận hành nhóm
được thuận lợi và không gây xung đột giữa các thành viên nhóm. Để đảm bảo
được yếu tố này việc họp nhóm, phân công nhiệm vụ nhóm và công khai tài
chính quỹ là các yếu tố đặt lên hàng đầu mà người trưởng nhóm cũng như các thành
viên hỗ trợ cần phải quan tâm.
Do đây là nhóm thí điểm, các thành viên lần đầu tiên tham gia hoạt động
CCR và cũng là nhóm đầu tiên được cấp chứng chỉ rừng nên các hoạt động của
nhóm hiện nay còn yếu, chưa chủ động nên cần rất nhiều từ sự hỗ trợ bên ngoài
trong đó có CCLN Quảng Trị và tổ chức WWF Việt Nam. Việc tổ chức các hoạt
động sinh hoạt nhóm vẫn chưa được tổ chức theo đúng quy định hoặc có tổ chức
thì nội dung không được phong phú. Bên cạnh đó, do việc khai thác cũng phải
tuân thủ theo FSC, đây là hoạt động mới, các yêu cầu của hoạt động cần tỉ mỉ và
chặt chẽ. Việc này ảnh hưởng không nhỏ đến sự tham gia của trưởng nhóm cũng
62
như các hộ gia đình khai thác sản phẩm, một trong các lý do được đưa ra là khi
khai thác gỗ có CCR thì yêu cầu nhiều liên quan đến ghi chép hành chính, tính
toán, nhiều khi còn phải vận chuyển gỗ tới nơi tập kết bằng các phương tiên thô
sơ do đường xá đi lại khó khăn. Trong khi đó người dân thông thường khai thác
thì bán cả rừng cho đơn vị thu mua và đơn vị thu mua sẽ chịu trách nhiệm vận
chuyển ra ngoài.
Với trách nhiệm là tham gia các hoạt động liên quan đến chứng chỉ rừng
và quản lý rừng bền vững, các thành viên của Nhóm phải giúp đỡ lẫn nhau và
tìm kiếm các giải pháp mà tất cả đều chấp nhận và có tính khả thi. Đặc biệt, các
thành viên phải tuân theo các quy định dưới đây:
- Tuân thủ các qui định cho thành viên về tham gia, rời bỏ và khai trừ khỏi nhóm.
- Cam kết quản lý rừng của họ theo các nguyên tắc và tiêu chí của FSC được tóm
tắt trong danh mục kiểm tra FSC các hộ dân, đặc biệt đối với các yêu cầu cho quản lý
rừng tốt liên quan đến các khía cạnh xã hội, môi trường và kinh tế.
- Thông báo trưởng nhóm thôn về các hoạt động lâm nghiệp ít nhất 10
ngày trước khi thực hiện.
- Thành viên nhóm chứng chỉ rừng thôn sẽ chọn Trưởng nhóm cấp thôn
trong cuộc họp thường niên với 2/3 phiếu thuận đa số các thành viên hiện tại của
nhóm cho kỳ hạn 5 năm. Kỳ hạn này có thể được gia hạn không hạn chế.
Việc phân công nhiệm vụ cho các cấp quản lý nhóm cũng được đưa ra cụ
thể và chi tiết nhằm đảm bảo được trách nhiệm và quyền lợi của từng cấp quản
lý nhóm. Cụ thể nhiệm vụ của các cấp quản lý nhóm như sau[21]:
a) Trưởng nhóm cấp thôn: dự kiến sẽ đại diện cho lợi ích của nhóm và
thực hiện lập kế hoạch quản lý rừng cùng tham gia cho các thành viên trong
nhóm. Họ sẽ cung cấp các dịch vụ sau đây cho các thành viên:
- Giải thích các lợi ích các chủ rừng cùng tham gia nhóm
- Phổ biến và giải thích nội dung của tác tài liệu chính cho thành viên
- Hướng dẫn cách điền đơn gia nhập nhóm
63
- Thực hiện kiểm tra điều kiện ban đầu gia nhập nhóm và điền vào mẫu kiểm tra
- Thực hiện giám sát hàng năm
- Lưu giữ đăng ký của các thành viên và số liệu lô rừng của họ
- Lưu giữ các đăng ký về các tai nạn lao động, bao gồm cả các tai nạn đối
với công nhân làm thuê.
- Tổ chức và chủ trì các cuộc họp thường niên, ít nhất một lần trong năm
- Ghi chép và giữ các biên bản ghi nhớ các cuộc họp và thông báo đến tất
cả các bên liên quan
- Thu thập và đối chiếu điều quan tâm, các câu hỏi, đề nghị, cơ hội của các thành
viên, nêu các điều quan tâm đó cho thảo luận trong các cuộc họp thành viên
- Thường xuyên trao đổi thông tin với quản lý nhóm cấp xã
- Trưởng nhóm thôn lựa chọn những người nông chủ chốt để trợ lý trưởng
nhóm trong lập kế hoạch quản lý rừng, kiểm tra và giám sát và hỗ trợ kỹ thuật
cho các thành viên nhóm.
- Trưởng nhóm thôn sẽ trợ lý Quản lý nhóm xã hoàn thiện và câp nhật Kế
hoạch quản lý rừng xã, đặc biệt liên quan đến “Danh sách các hoạt động của
nhóm chứng chỉ rừng thôn” và “Đăng lý các lô rừng “
b) Trưởng nhóm cấp xã: với sự trợ giúp của Trưởng nhóm thôn sẽ hoàn
thành danh sách đăng ký của nhóm thôn, bao gồm các thành viên và lâm phần
của họ trong xã. Ngoài ra, họ cũng có nhiệm vụ:
- Phổ biến các thông tin thị trường về giá cả và khách hàng cho các lâm sản
- Hoàn thành kế hoạch quản lý rừng cấp xã dựa trên kế hoạch quản lý
rừng cấp thôn cùng các bên liên quan
- Quản lý danh sách khiếu nại, có thể bao gồm những khiếu nại kiện thành
viên nhóm thôn hay các nhóm trưởng nhóm thôn.
- Thu thập các tài liệu sau: Qui hoạch sử dụng đất cấp xã, giao đất cho
trồng rừng, điều lệ an toàn lao động.
64
- Thu thập số liệu kinh tế xã hội hàng năm từ thành viên nhóm thôn trong
các cuộc họp thường niên của nhóm.
- Trưởng nhóm xã sẽ giúp Quản lý nhóm hoàn thiện và cập nhật danh sách
số hóa của thành viên nhóm thôn và các lô rừng của hộ ở cấp huyện.
c) Quản lý nhóm: Chi cục Lâm nghiệp là quản lý nhóm và sẽ nắm toàn bộ
trách nhiệm cho vận hành nhóm chứng chỉ rừng. Họ sẽ là người giữ chứng nhận
chính thức của các nhóm và:
- Chính thức chấp nhận thành viên mới cho nhóm chứng chỉ dựa trên tài
liệu do Trưởng nhóm thôn cung cấp
- Tổ chức đấu thầu cạnh tranh và sau đó ký hợp đồng với tổ chức cấp
chứng chỉ và quản lý toàn bộ việc liên lạc với tổ chức cấp chứng chỉ
- Tập hợp các đóng góp của thành viên cho chi phí đánh giá và các chi phí
hoạt động khác cho việc quản lý nhóm, thực hiện và báo cáo các khoản chi liên
quan cho nhóm
- Thông báo với tổ chức cấp chứng chỉ trong trường hợp có thay đổi về
thành viên (kết nạp mới hoặc khai trừ) trong cập nhật hàng quí
- Đảm bảo hoàn thành tất cả các yêu cầu cho các hoạt động cần được khắc
phục do tổ chức cấp chứng chỉ nêu ra
- Đảm bảo rằng các lâm phần mới và các hộ dân mới tham gia nhóm
chứng chỉ tuân thủ các yêu cầu của FSC
- Đưa ra các chỉ dẫn cho các trưởng nhóm thuộc nhóm chứng chỉ nếu cần thiết,
như khi kiểm tra điều kiện gia nhập nhóm ban đầu và khi tập huấn cho các hộ dân
- Tổ chức các lần giám sát nội bộ hàng năm đối với các lâm phần
- Lưu trữ, cập nhật đăng ký số hóa
- Hoàn thiện bản đồ cho các lâm phần với tỷ lệ 1:10 000, chỉ ra số hiệu lô
rừng, nhóm quản lý hiện tại, năm trồng và đường, cầu, cầu vượt, vùng đệm và
các sử dụng đất liền kề
- Hoàn thiện một kế hoạch quản lý rừng cấp tỉnh qua sự kết hợp kế hoạch các xã
65
- Hoàn thiện một kế hoạch kinh doanh cấp tỉnh từ kế hoạch kinh doanh cấp thôn
- Lập mối quan hệ kinh doanh giữa nhóm chứng chỉ và các khách hàng
mua gỗ trong và ngoài nước
- Tổ chức cuộc họp với các trưởng nhóm chứng chỉ cấp thôn và cấp xã hai
lần trong năm
- Quản lý nhóm phải có các bản Copy trên giấy hoặc mềm trên máy của
tất cả các luật lệ và qui định liên quan đến lâm nghiệp của nhà nước, và lưu giữ
tài liệu cập nhật. Quản lý nhóm đảm bảo sự hiểu biết của các cấp trong nhóm về
tất cả các yêu cầu quan trọng nêu trong các tài liệu này.
- Trong trường hợp cần phát sinh để sửa đổi Nội Qui và Điều luật thành
viên, Quản Lý Nhóm sẽ tổ chức một quá trình sửa đổi một cách minh bạch. Các
sửa đổi cần được sự hỗ trợ và đồng thuận của ít nhất 2/3 đa số các thành viên
4.3.4. Quỹ phát triển nhóm:
Được sự hỗ trợ của dự án SECO (WWF Việt Nam) các nhóm thành lập
mỗi nhóm nhận được một khoản kinh phí nhất định phục vụ cho việc duy trì và
phát triển hoạt động của các nhóm. Bên cạnh đó, các hộ gia đình tham gia nhóm
cũng tiến hành đóng góp dựa trên diện tích (ha) hoặc sản lượng khai thác. Tính
đến hết tháng 7/2011, tổng kinh phí hoạt động của 02 nhóm cụ thể như sau[4]:
Nhóm thôn Kinh Môn:
- Tổng nguồn kinh phí cả dự án và dân đóng góp là 55.817.000 VNĐ.
- Năm 2010 tồn sang: 9.275.000 VNĐ.
- Năm 2011 đến nay dân đóng góp thêm: 1.800.000 VNĐ.
- Đến hết tháng 7/2001 tổng tồn quỹ còn 11.075.000 VNĐ
Nhóm thôn Giang Xuân Hải:
- Tổng nguồn kinh phí cả dự án và dân đóng góp là 25.750.000 VNĐ
- Năm 2010 tồn sang 2011: 6.990.000 VNĐ
- Năm 2011 đã chi: 2.045.000 VNĐ
- Tính đến hết tháng 07/2011 tổng tồn quỹ còn 4.954.000 VNĐ
66
Các khoản chi của nhóm tập trung nhiều vào các hoạt động như sau:
- Họp nhóm: đảm bảo thông tin về tình hình nhóm đến được từng thành
viên nhóm thông qua các hoạt động họp nhóm định kỳ, họp nhóm khẩn cấp, họp
nhóm trước và sau khai thác.
- Hoạt động của thành viên ban quản lý nhóm: chi cho các hoạt động đi lại
tại hiện trường, hoạt động sổ sách, chi ăn uống khi tham gia họp hành hoặc đi
ngân hàng giao dịch
- Hoạt động tuần tra bảo vệ rừng: Hoạt động này được thực hiện thường
xuyên, đặc biệt trong các mùa nắng hạn, rừng có khả năng cháy lớn. Thông
thường nhóm tiến hành thuê người ngoài hoặc thành viên nhóm tiến hành tuần
tra bảo vệ rừng theo tháng, cũng có thời gian cao điểm việc tuần tra bảo vệ rừng
được tiến hành theo tuần.
4.3.5. Một số khó khăn trong công tác quản lý nhóm
Với yêu cầu của dự án đất rừng sau khi khai thác không được san ủi, đốt.
Nhưng do đặc thù ở địa phương, đất rừng ở các khu vực tham gia dự án có nhiều
phế liệu chiến tranh còn sót lại. Lợi dụng rừng tham gia dự án khai thác xong đã
có nhiều đối tượng ở địa phương khác đến đốt các sản phẩm còn lại sau khai thác
rừng để tìm kiếm phế liệu chiến tranh. Mặc dù cán bộ Quản lý nhóm đôn đốc các
hộ gia đình sau khi khai thác rừng ngăn ngừa, bảo vệ nhưng đã xảy ra 2 vụ cháy
tại khu vực các hộ ông Lê Biên Hòa thôn Kinh Môn, ông Trần Hữu Lân, Trần Văn
Phương, bà Đào Thị Thi thôn Giang Xuân Hải, xã Trung Sơn diện tích cháy 6,5 ha.
Một số hộ dân còn cho rằng tuy bán rừng có FSC giá cao hơn nhiều so với
rừng không FSC nhưng bắt buộc phải đầu tư thời gian và công sức tham gia từ
khi chặt cây cho đến khi vận chuyển tới nơi tiêu thụ. Và theo họ thì cứ bán theo
kiểu truyền thống kia sẽ dễ dàng hơn và đỡ mất nhiều thời gian dù kinh phí bán
được có ít hơn. Việc này ảnh hưởng không nhỏ tới việc quản lý nhóm của người
trưởng nhóm và các thành viên hỗ trợ vì thiếu sự tham gia nhiệt tình của các chủ
hộ. Đối với các hộ đã khai thác, hầu hết người trưởng nhóm và thành viên hỗ trợ
67
tham gia khai thác cùng với các thành viên nhóm để đảm bảo việc giám sát chất
lượng và nguồn gỗ gỗ. Trong khi đó việc tham gia này lại không có kinh phí, do
đó sự nhiệt tình của người nhóm trưởng cũng dần dần giảm đi.
Việc quản lý hồ sơ, tài liệu khai thác rừng theo các tiêu chuẩn FSC là vấn
đề mới, đòi hỏi có trình độ về kế toán, tin học nên vượt quá khả năng của các
nhóm. Cần có sự hỗ trợ cho việc quản lý và lập hồ sơ khai thác rừng. Nếu không
việc lập và quản lý hồ sơ của các nhóm sau khi khai thác rừng sẽ gặp nhiều khó
khăn. Như trưởng nhóm Giang Xuân Hải, dù đã đi tập huấn nhiều về quản lý
hành chính, tài liệu của nhóm nhưng không thể làm nổi do số lượng giấy tờ ghi
chép quá nhiều, nội dung thì phức tạp, ghi chép nhiều lần vẫn có sự nhầm lẫn.
Đây là sự khó khăn về hành chính cần phải được cải cách đảm bảo việc đầy đủ
thông tin nhưng không quúa phức tạp gây khó khăn cho những người quản lý nhóm,
đặc biệt là những người dân chưa có kiến thức và trình độ về quản lý hành chính.
Thời tiết, địa hình là các yếu tố khách quan nhưng ảnh hưởng không nhỏ
đến việc quản lý nhóm, bằng chứng là khi đến thời kỳ khai thác hoặc trồng rừng
thông thường vào mùa mưa, đi lại vận chuyển khó khăn, tốn kém và mất nhiều
thời gian. Việc này ảnh hưởng đến tiến độ khai thác, chất lượng gỗ khai thác và
chất lượng cây con khi trồng.
4.4. Các khó khăn hiện các hộ trồng rừng đang gặp phải và các giải pháp
thông qua cấp CCR
Ngoài ra, sự phát triển trồng rừng công nghiệp với các loài cây mọc nhanh
cũng gây tranh cãi. Những người đề xướng cho rằng rừng trồng loại này đạt
được giá trị kinh tế cao hơn và nhanh hơn so với rừng tự nhiên, tạo ra nhiều cơ
hội việc làm, thu nhập ngoại tệ cao, giảm sức ép vào rừng tự nhiên, có tác động
tốt cho môi trường sinh thái và có vai trò quan trọng trong việc hấp thụ khí thải
các bon nhưng những người chỉ trích lại cho rằng, trong quá trình này, quyền lợi
của cộng đồng địa phương thường bị các chủ rừng lờ đi, đồng thời diện tích rừng
68
tự nhiên bị khai thác thay thế bằng rừng trồng, giá trị đa dạng sinh học, lượng
nước bị giảm, đất bị thoái hóa, và gây ra các loài sâu bệnh ngoại lai
Việc yêu cầu cấp chứng chỉ đối với nguyên liệu gỗ kéo theo nhiều thủ tục
phiền phức mà trước hết đối với các đơn vị thực hiện chức năng khai thác và
cung ứng gỗ, còn đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ thực ra cũng không chịu
ảnh hưởng gì lớn nếu như tất cả các công việc liên quan đến việc cấp chứng chỉ
rừng/gỗ được thực hiện một cách thuận lợi và nhanh chóng. Sự thiếu hụt về
nguồn gỗ hợp pháp và sự chậm trễ trong việc cung ứng các nguồn gỗ đó mới
thực sự là mối đe dọa lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp chế biến gỗ.
Các khó khăn thông qua các yếu tố cấu thành chính như sau:
- Kinh tế: Gỗ không có chứng chỉ thường được bán cho thương lái địa
phương với giá cả thấp hoặc giá cả do người mua đưa ra, người bán không có
quyền lựa chọn hoặc mặc cả. Có những khu vực gỗ có thể bán được với giá gỗ
xẻ nhưng người mua vẫn mua với giá gỗ dăm, điều này ảnh hưởng lớn đến lợi
ích của người trồng rừng. Giải pháp đưa ra là tham gia vào chứng chỉ rừng, gỗ sẽ
được bán với giá cao hơn, có nhiều nhà cung cấp sẵn sàng thương lượng và mua
gỗ. Gỗ khi bán có CCR sẽ được phân loại ra rõ rệt áp dụng đối với gỗ xẻ, như
vậy giá cũng cao hơn nhiều. Tuy nhiên việc cấp chứng chỉ quản lý rừng bền
vững cũng gây ra một số trở ngại, mối quan ngại chung của những nhà sản xuất gỗ là
tiêu chuẩn cấp chứng chỉ rừng bền vững của FSC quá cao. Chi phí để đạt được tiêu
chuẩn này thường cao hơn nhiều so với giá bán gỗ đã được cấp chứng chỉ.
Bên cạnh đó, do yếu tố kinh tế rừng chi phối toàn bộ cuộc sống của gia
đình nên nhiều khi các hộ gia đình quyết định khai thác rừng khi rừng chưa đạt
yêu cầu về khai thác, ở đây có thể nói là rừng non. Việc hỗ trợ người dân vượt
qua được khó khăn này để giữ rừng cũng là vấn đề nan giải của các nhóm. Một
số nhóm người dân tham gia nhưng do nhu cầu về kinh tế, nếu tham gia nhóm
thì rừng chưa đủ điều kiện khai thác, họ liền xin ra khỏi nhóm để khai thác.
69
- Kiến thức: Các kiến thức để trồng và phát triển rừng của người dân còn
hạn chế và mang tính truyền thống là nhiều. Trong quá trình phỏng vấn, nhiều hộ
gia đình vẫn cho rằng việc trồng, chăm sóc rừng theo cách truyền thống thì cây
sẽ mọc nhanh và tốt hơn so với các phương pháp mới như không phát thực bì,
chỉ đào hố, không san ủi và không đốt sau khai thác... Thực tế cho thấy trong
vòng 3 năm đầu nếu trồng và chăm sóc rừng theo phương pháp truyền thống
(đốt, cày, đào hố, trồng) thì cây sẽ phát triển nhanh hơn nhưng từ các năm sau
trở đi cây phát triển chậm hơn do lượng đất mùn đã được xới trộn, cây không có
nền tảng và dinh dưỡng vững chắc, dễ đổ khi có gió do nền đã bị cày xới và thực
bì không có. Như vậy giải pháp khi tham gia chứng chỉ rừng sẽ đáp ứng đầy đủ
các kiến thức về trồng, chăm sóc và quản lý rừng một cách bền vững hơn
- Về mặt kỹ thuật: Khi không tham gia chứng chỉ rừng, các thành viên
nhóm quản lý và chăm sóc rừng, tuy nhiên khi tham gia chứng chỉ rừng thì phải
tuân thủ về mặt kỹ thuật đảm bảo theo tiêu chuẩn của FSC. Việc này đòi hỏi thực
sự về kỹ thuật, trong khi đó người dân ở khu vực thì việc tiếp cận với kỹ thuật và
công nghệ mới còn hạn chế, việc này ảnh hưởng không nhỏ đến việc tham gia
cấp chứng chỉ. Tuy nhiên nếu tham gia được thì rừng cấp chứng chỉ sẻ đảm bảo
được trồng, chăm sóc, khai thác đúng kỹ thuật, rừng sẽ đạt được chất lượng tốt
hơn, giảm thiểu thiệt hại về kinh tế, tăng lợi nhuận.
- Yếu tố môi trường: hầu hết các hộ gia đình trồng rừng thường khai thác
trắng sau đó trồng lại, các loại cây bản địa không được trú trọng trồng xen hoặc
việc khai thác luân phiên không được trú trọng làm ảnh hưởng lớn đến môi
trường xung quanh khu vực khai thác. Các hiện tượng sạt lở, sụt lún hoặc khô
hạn cũng từ một trong các nguyên nhân này mà ra. Nếu tham gia vào các nhóm
CCR, hoạt động khai thác sẽ được đưa vào kế hoạch và việc khai thác sẽ tránh
được hiện tượng khai thác trắng. Bên cạnh đó việc trồng cây bản địa xen kẽ đảm
bảo khi khai thác sẽ vẫn còn lại cây bản địa trong khu vực, như vậy giảm thiểu
được việc xói mòn, sạt lở đất và bảo vệ nguồn nước một cách bền vững.
70
- Về chính sách: Thực tế hiện nay các chính sách hỗ trợ cho các hộ gia
đình trong việc trồng rừng của nước ta còn nhiều hạn chế. Hoặc một phần do
người dân chưa có đủ điều kiện để tiếp cận với các chính sách như vay vốn trồng
rừng, thuê hoặc mượn đất trồng rừng... hoặc do nhà nước chưa có các chính sách
và có các hướng dẫn cụ thể cho vấn đề này. Trong khi đó yêu cầu từ CCR bắt
buộc phải minh bạch trong quản lý đất, minh bạch trong quản lý tài chính kinh
doanh rừng và đặc biệt phải có quyền sử dụng đất. Nếu tham gia vào CCR, đáp
ứng được các yêu cầu trên thì ngoài việc đảm bảo chứng minh quyền sử dụng đất
của mình, các hộ gia đình còn chủ động hơn trong công việc xây dựng kế hoạch
phát triển rừng của chính mình trong tương lai.
- Tính bền vững: Một trong những yếu tố then chốt ở đây là tính bền vững
khi tham gia trồng rừng. Hầu hết người dân trong khu vực trồng cây theo yêu
cầu của thị trường, ví dụ thị trường mua cây keo giá cao họ sẽ trồng keo, nhưng
nếu thị trường mua cây sắn giá cao, họ sẽ trồng sắn và tương tự như vậy cho các
loài cây khác. Như vậy việc chặt phá rừng hàng loạt để chuyển đổi mục đích
trồng theo yêu cầu của thị trường sẽ ảnh hưởng lớn đến tính bền vững của một
khu vực rừng trồng, có thể là rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng bảo vệ nguồn
nước. Khi tham gia vào chứng chỉ, việc chặt rừng để bán và trồng cây trồng khác
theo hướng thị trường sẽ không xảy ra. Các thành viên nhóm cũng đuợc hỗ trợ
các kiến thức quản lý rừng bền vững, rừng có giá trị bảo tồn cao để họ có cơ sở
quyết định có tham gia trồng cây theo thị trường hay không.
4.5. Đánh giá các lợi ích của người dân và của xã hội khi nhóm hộ tham gia
được cấp CCR
4.5.1. Đánh giá về lợi ích kinh tế
Tất cả các tổng diện tích rừng trồng keo hơn 316.11ha của 118 hộ gia đình
trồng rừng trong 5 thôn đã có chứng nhận FSC FM/CoC do GFA cấp thì hai thôn
thuộc xã Trung Sơn rừng đã đến tuổi khai thác, hai nhóm này đã ký một hợp
đồng với công ty Thanh Hòa, đây là công ty tham gia mạng lưới lâm sản toàn
71
cầu (GFTN) Việt Nam. Hợp đồng cung cấp gỗ này được thực hiện với một mức
giá cao đến kinh ngạc, cao hơn 20% so với giá cả thị trường hiện tại. Ngoài ra,
gỗ có chứng chỉ FSC người mua cũng chấp nhận các cây gỗ tròn với đường kính
thấp hơn mà trước đây được bán như gỗ dăm công nghiệp giá rẻ. Vào cuối năm
2010 và trong quý đầu tiên năm 2011, 27 ha rừng trồng keo chứng nhận được
thu hoạch cho vòng quay đầu tiên của 7 năm, và tất cả gỗ khai thác đã được mua
lại bằng gỗ tròn, xẻ bởi công ty Thanh Hòa theo giá đã cam kết.
Bảng 4.2. Tổng hợp diện tích và lượng gỗ khai thác rừng có chứng chỉ tại xã
Trung Sơn (thôn Kinh Môn và Giang Xuân Hải)
Khối lượng Sau KT
Khối lượng (gỗ xẻ)
TT Họ và tên
Diện tích (ha) 10-13 14-19,5 > 19,5
Tổng cộng (m3) Gỗ nhỏ < 10cm (m3) (Gỗ dăm)
Thôn Kinh Môn 14,35 933,019 184,971 475,603 272,445 18,549 94.372 1 Lê Hữu Vinh 30,461 45,362 2,0 401,9 40,2
2 Nguyễn Thọ Vinh 1,1 51.719 21,364 16,39 13,965 21,1
3 Lê Hữu Chiến 1,95 93.542 30,223 39,009 24,310 40,4
4 Lê Biên Hòa 2,2 135.288 24,632 74,886 35,770 63,8
5 Trịnh Thị Huế 2,2 166.598 20,891 98,756 46,951 61,1
6 Trịnh Văn Quảng 4,9 391.5 57,4 201,2 132,9 175,3
Giang Xuân Hải 12,8 269,207 77,834 129,035 62,338 429,2
7 Trần Thị Gái 41,498 13,584 11,766 4,57 1,7 70,3
8 Đào Thị Thi 29,920 13,753 17,421 10,324 2,0 60
9 Trần Văn Phương 44,158 17,315 17,853 8,99 2,0 68,1
10 Trần Hữu Lân 26,033 12,502 10,149 3,382 2,0 70,2
8,822 38,421 8,493 21,106 11 Lê Ngọc 1,7 46,6
68,835 7,346 38,521 22,968 12 Lê Ngà 1,7 64
20,342 4,841 12,219 3,282 13 Trần Hữu Sinh 1,7 50
72
Do diện tích khai thác rừng ở độ tuổi từ 10-11 tuổi nên tỉ lệ gỗ tròn có
đường kính từ 14-19,5cm và trên 19,5cm đạt được khối lượng lớn, với giá cả cao
khi bán với giá gỗ xẻ có chứng chỉ rừng, các chủ rừng thu được lợi nhuận trên
20% so với rừng không có chứng chỉ cho lấy gỗ tròn và gỗ dăm. Đối với rừng từ
7-8 tuổi, trữ lượng gỗ tròn có đường kính từ 19,5cm trở lên sẽ ít hơn, cái này
cũng ảnh hưởng nhiều đến thu nhập của các hộ gia đình, tuy nhiên trên thực tế và
các phân tích chứng minh rằng việc duy trì các diện tích rừng đến 10-11 tuổi thì
tổng thu nhập sẽ tăng gấp đôi so với việc khai thác rừng từ những năm 6-7 tuổi
do: (1) Gỗ có đường kính trên 19,5cm sẽ nhiều hơn; (2) giá gỗ có đường kính
trên 19,5cm cao hơn vì là gỗ xẻ; (3) Chi phí vận chuyển ít hơn do gỗ được bán
tại địa phương, đặc biệt gỗ có chứng chỉ FSC thì các công ty sẽ mua tại rừng và
chịu trách nhiệm chi phí vận chuyển. Về chi phí đầu tư, hầu hết các khu rừng
việc chăn sóc sẽ hoàn thành sau năm thứ 6, có nghĩa là việc tỉa thưa sau năm thứ
6 hoàn thành thì rừng không cần phải đầu tư thêm gì nữa. Do vậy nếu chúng ta
khai thác vào năm thứ 7 thì thu nhập sẽ thấp hơn nhiều so với chúng ta khai thác
vào năm thứ 10 hoặc 11 như đã phân tích ở trên.
Kinh phí cho cấp CCR, theo đánh giá của tổ chức WWF sau khi dự án
thành công thì tổng kinh phí chi cho các hoạt động cấp chứng chỉ cụ thể như sau:
Bảng 4.3. Các chi phí cho cấp chứng chỉ (áp dụng cho diện tích dưới 2000ha)
Chi phí VNĐ/ha/năm
Chi phí đánh giá cấp chứng chỉ ban đầu (5 năm cấp 1 lần) 380.000 VNĐ
Chi phí đánh giá hàng năm 30.000 VNĐ
Đóng góp cho tổ chức nhóm Tự nguyên
73
Như vậy có thể kết luận nếu diện tích càng lớn thì kinh phí phải chi cho việc
đóng góp để mời các đơn vị đánh giá sẽ giảm nhiều cho từng hec-ta. Tuy nhiên
tại Trung Sơn, điều kiện các hộ gia đình hiện nay nói riêng cũng như các hộ gia
đình tham gia trồng rừng nói chung ở Việt Nam thì việc bỏ ra một khoản chi phí
này không phải là nhỏ để có thể làm được chứng chỉ rừng, bán gỗ có nguồn gốc
với giá cao và đảm bảo được việc quản lý rừng bền vững. Tuy nhiên nếu tham
gia vào chứng chỉ rừng thì sẽ có lợi rất nhiều về mặt kinh tế, theo một số nghiên
cứu tại Việt Nam, nếu rừng có chứng chỉ rừng khai thác ở độ tuổi 10-11 thì sẽ
thu được lợi nhuận rất cao. Bên cạnh đó việc tuân thủ theo các quy tắc của FSC
sẽ đảm bảo việc tiết kiệm đầu tư theo phân tích dưới đây:
35,871.1 0.3%
29,489.7 0.4%
26,065
0.4%
53.6%
45.4%
24.3%
33.5%
33.5%
21.5%
4.0%
37.9%
24.6%
33.9%
Hình 4.2. Phân tích chi phí khi đầu tư cho 3 loại rừng có và không có FSC[40]
74
Theo biểu đồ trên cho thấy việc đầu tư theo phương pháp truyền thống
không có chứng chỉ của người dân, sau 7 năm đầu tư thì tổng mức đầu tư cao
hơn nhiều so với gỗ có chứng chỉ và đầu tư theo đúng quy trình, tuân thủ theo
đúng các nguyên tắc mà FSC đưa ra. Bảng phân tích cũng chỉ ra rằng, các chi
phí ban đầu khi tuân thủ theo quy trình của FSC cao hơn so với không tuân thủ
áp dụng cho cả lấy gỗ tròn và gỗ dăm, cụ thể như chi phí đầu tư gỗ có chứng chỉ
là 9.880.000 VNĐ cho 1 ha, trong khi đó gỗ không có chứng chỉ chỉ phải đầu tư
có 8.840.000 VND cho 1 ha bao gồm cả công chăm sóc. Chênh lệch này chủ yếu
do việc trồng và chăm sóc của gỗ có chứng chỉ yêu cầu cao hơn, áp dụng kỹ
thuật tỉ mỉ hơn người dân trồng theo cách truyền thống là cày bừa, đốt rồi trồng.
Tuy nhiên chi phí này chỉ là một phần nhỏ không đáng kể so với các chi phí về
sau này mà gỗ không có FSC phải chịu, đặc biệt là chi phí vận chuyển cho gỗ
dăm cao hơn nhiều so với gỗ tròn, đặc biệt là gỗ tròn có chứng chỉ. Thực tế phân
tích, đánh giá cho thấy chi phí cho làm chứng chỉ rất ít và không đáng kể tuy
nhiên nếu nhìn trên phương diện thực tế của từng hecta và thu nhập của người
dân thì chi phí cho hoạt động cấp chứng chỉ là khá cao.
Thu nhập sau khi đầu tư cũng thể hiện rõ các lợi thế khi tham gia vào
chứng chỉ rừng và bán gỗ FSC cho công ty thu mua có chứng chỉ CoC. Có thể
đánh giá rằng nếu tham gia vào chứng chỉ rừng, thời gian bán .
Theo biểu đồ trên ta có thể đánh giá, nếu rừng khai thác với gỗ ván tổng
thu nhập chỉ bằng 56.21% so với tổng thu nhập từ gỗ có chứng chỉ rừng là gỗ
tròn. Nếu so với gỗ không có chứng chỉ rừng là gỗ tròn thì tỉ lệ này chênh lệch cũng
cao, nếu gỗ tròn không có chứng chỉ rừng thì thu nhập chỉ đạt 75% so với thu nhập từ
gỗ tròn có chứng chỉ rừng. Như vậy có thể nói thu nhập từ gỗ tròn không có chứng
chỉ rừng chỉ bằng ¾ tổng thu nhập gỗ có chứng chỉ rừng là gỗ tròn.
75
123,202
92,581
69,252
Hình 4.3. Phân tích thu nhập với loại gỗ tròn và gỗ dăm có và không có FSC[40]
Dựa trên phân tích ở trên, có thể kết luận rằng việc tham gia chứng chỉ
rừng sẽ giảm thiểu được các chi phí đầu tư nếu tuân thủ theo đúng 10 nguyên tắc
và 56 tiêu chí FSC áp dụng cho Việt Nam, các chi phí giảm thiểu ở đây bắt đầu
từ khâu trồng, chăm sóc cho đến khai thác, vận chuyển đều ít hơn nhiều so với
đầu tư truyền thống không tuân theo chứng chỉ rừng. Đối với thu nhập cũng
tương tự như vậy, nếu so sánh với gỗ không có chứng chỉ rừng là gỗ tròn và gỗ
có chứng chỉ rừng là gỗ tròn thì thu nhập từ bán gỗ có chứng chỉ rừng sẽ tăng
hơn tới 25% so với gỗ tròn không có chứng chỉ rừng.
Tuy nhiên đối với nhóm chứng chỉ rừng tại xã Trung Sơn, do đây là mô
hình thí điểm có sự hỗ trợ từ dự án nên tổng diện tích được cấp chứng chỉ chỉ có
hơn 300ha, và như vậy thì kinh phí chi cho việc hoàn thiện để đạt được chứng
chỉ là tương đối cao. Cụ thể đối với nhóm Trung Sơn, tổng chi phí dự án hỗ trợ
cho các hoạt động để đi đến cấp chứng chỉ rừng chi tiết như sau:
76
Bảng 4.4. Kinh phí thực hiện dự án cho nhóm Kinh Môn và Giang Xuân Hải
TT Hạng mục Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Tổng
Truyền thông, họp thôn, xã, huyện,
1 tham quan (bao gồm cả tư vấn) 1,744 1,744 2,496 5,984
Tập huấn, đào tạo kiến thức
2 (bao gồm cả tư vấn) 3,776 3,776 5,400 12,952
3 Đánh giá nội bộ (bao gồm cả tư vấn) 2,520 2,520 3,600 8,640
Tủ tài liệu, máy tính, máy ảnh, máy 4 quay phim, quần áo bảo hộ… 1,600 336 480 2,416
5 Đánh giá cấp chứng chỉ 7,000 7,000 14,000
Tổng cộng (USD) 9,640 15,376 18,976 43,992
(Ghi chú: Bảng tính toán trên được tác giả tính toán sơ lược dựa trên các
thực chi của dự án SECO cho các hoạt động của các nhóm tại Trung Sơn)
Như vậy tổng chi phí để cấp chứng chỉ rừng cho 1ha chia bình quân sẽ
mất khoảng 141 USD (tương đương 2.800.000 VNĐ). Nếu áp dụng mức kinh
phí này để nhân rộng mô hình chứng chỉ rừng thì chắc sẽ không thể thực hiện
được nếu không có sự hỗ trợ từ bên ngoài và không có sự hậu thuẫn từ các công
ty lâm sản cho các diện tích từ 2000ha trở lên.
4.5.2. Đánh giá lợi ích về mặt xã hội
Về mặt xã hội, khi tham gia và chứng chỉ rừng, các hộ gia đình phải tuân
thủ theo các nguyên tắc đã đề ra của FSC, trong đó có nhiều nguyên tắc liên
quan đến yếu tố xác hội như nguyên tắc 1 là tuân theo pháp luật, nhưng quy định
hiện hành của nhà nước sở tại, hoặc tuân theo nguyên tắc 2 về quyền và trách
nhiệm sử dụng đất, nguyên tắc 3 về quyền hợp pháp của người dân sở tại về
quản lý sử dụng đất, các nguyên tắc liên quan đến quan hệ xã hội như nguyên tắc 4
về quan hệ cộng đồng và quyền công dân, nguyên tắc 7 là kế hoạch quản lý cũng
được nhấn mạnh trong việc tham gia chứng chỉ rừng theo nhóm hộ. Ở đây tác giả chỉ
77
phân tích nhấn mạnh đến quyền sử dụng đất và kế hoạch quản lý của nhóm và các
thành viên trong nhóm.
Chứng nhận quyền sử dụng đất là yêu cầu bắt buộc khi muốn tham gia
vào nhóm chứng chỉ rừng. Nó cũng là yếu tố then chốt để xác định được quyền
sử dụng của thành viên và tranh chấp có hay không có. Ở các nhóm tại Trung
Sơn, hầu hết các hộ gia đình có chứng nhận quyền sử dụng đất trong vòng 50
năm do trước đây họ tham gia chương trình trồng rừng KFW2. Bản đồ diện tích
các khu vực đất rừng cũng được đưa ra và phân định rõ ràng, điều này tránh
được các rủi ro trong tranh chấp đất đai.
Quyết định giao đất rừng, hợp đồng thuê đất rừng có căn cứ pháp lý hoặc
hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp cũng được đề cập trong nguyên tắc và tiêu
chí của FSC. Việc này quyền định được hộ gia đình có chính thức có quyền sử
dụng trên khu vực đất đó không, và nó cũng sẽ quyết định là khu đất mà hộ gia
đình đang sử dụng có hợp pháp không. Do tham gia vào chương trình KFW nên
hầu hết các hộ gia đình tham gia nhóm CCR tại xã Trung Sơn đều có sổ đỏ, đây
cũng là một lợi thế trong việc tiến hành hoạt động cấp chứng chỉ cho nhóm. Việc
duy trì hoạt động nhóm sau khi nhóm được cấp chứng chỉ cũng là một vấn đề
khó khăn do khi tham gia vào chứng chỉ rừng thì các hộ gia đình trong nhóm
phải có kế hoạch khai thác. Kế hoạch này đảm bảo các chu kỳ khai thác đan xen
nhau, tránh khai thác trắng và khai thác ồ ạt bừa bãi. Việc này ảnh hưởng nhiều
đến các hộ, có nhiều hộ chưa đến chu kỳ khai thác nhưng do cần tiền, họ xin ra
khỏi nhóm rồi bán rừng. Tuy số các hộ xin ra khỏi nhóm ít nhưng ảnh hưởng
không nhỏ đến việc quản lý nhóm.
Quản lý hoạt động, sinh hoạt theo nhóm cộng đồng cùng chung lợi ích
đảm bảo được việc chia sẻ lợi ích tới từng thành viên nhóm và duy trì các hoạt
động tiếp theo trong suốt quá trình vận hành nhóm. Cũng có nhiều khó khăn gặp
phải khi hai nhóm ở xã Trung Sơn hoạt động, vấn đề thường gặp phải ở chỗ chia
sẻ lợi ích như thế nào để đảm bảo công bằng. Tuy nhiên đây là mô hình đầu tiên
78
thành công tại Việt Nam do đó việc đóng góp và chia sẻ lợi ích vẫn còn có sự chi
phối nhiều từ các đơn vị hỗ trợ như chi cục lâm nghiệp hay tổ chức WWF. Các
nhóm hoạt động chưa thực sự chủ động, đặc biệt là các hoạt động mang tính chất
thường niên hoặc các hoạt động có gắn đến chia sẻ lợi ích. Tại nhóm Kinh Môn,
hoạt động đóng góp của các hộ tính theo hecta cho quỹ nhóm hoạt động được
thực hiện tốt, các hộ tham gia đóng góp tương đối đầy đủ. Tuy nhiên ở Giang
Xuân Hải thì hoạt động đóng góp hiện tại chưa có. Việc đó nhấn mạnh được tầm
quan trọng của người trưởng nhóm nhưng hơn thế nữa nó khẳng định được vai
trò và trách nhiệm của các thành viên khi tham gia vào nhóm và từ đó có thể kết
luận trách nhiệm của các thành viên trong nhóm Giang Xuân Hải vẫn chưa cao.
4.5.3. Đánh giá về lợi ích môi trường và quản lý rừng bền vững
Một số các nguyên tắc và tiêu chí của FSC đưa ra rõ ràng vấn đề bảo tồn
đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường. Như nguyên tắc số 6 về tác động môi
trường, nguyên tắc số 9 về rừng có giá trị bảo tồn cao hoặc nguyên tắc 10 về
rừng trồng. Trong các nguyên tắc này các yếu tố bảo vệ môi trường, các yếu tố
bảo tồn đa dạng sinh học, duy trì cảnh quan, bảo vệ nguồn nước được đưa ra và
nó mang tính chất bắt buộc. Kể cả khi chúng ta tham gia CCR cho rừng trồng
nhưng đất trồng của chúng ta không rõ nguồn gốc, không có gì để chứng minh
nguồn gốc hoặc theo tiêu chí của FSC rừng trồng trên đất chuyển hóa từ rừng tự
nhiên sau tháng 11/1994 thì sẽ không được tham gia chứng chỉ rừng. Điều này
rất quan trọng, nó đảm bảo tính pháp lý về nguồn gốc của rừng, điều này được
nhấn mạnh rất nhiều và đặc biệt quan trọng trong các nguyên tắc và tiêu chí của
CCR. Tại xã Trung Sơn, tác giả tập trung vào phân tích các hoạt động có tác
động tích cực và tiêu cực đến môi trường. Hạn chế các tác hại về môi trường ảnh
hưởng đến cuộc sống của người dân, đây là yếu tố đầu tiên cần phải đạt trước khi
chứng chỉ rừng được cấp cho các nhóm hộ. Các hạn chế tác hại về môi trường ở
đây tập trung vào:
79
- Trồng xen cây bản địa: đảm bảo việc chống sói mòn, sạt lở đất do cây
bản địa được trồng xen với cây khai thác, không bị khai thác khi đến chu kỳ khai
thác, đảm bảo việc giữ đất và nước trong suốt quá trình chờ cây con chu kỳ kinh
doanh sau mọc lên. Việc trồng xen cây bản địa cũng đảm bảo cả về mặt kinh tế
sau một vài chu kỳ kinh doanh thì giá trị của cây bản địa sẽ rất cao.
- Việc khai thác theo kế hoạch: như đã nói ở trên, việc khai thác theo kế
hoạch đảm bảo trách được việc khai thác ồ ạt, khai thác trắng. Trong yêu cầu của
khai thác, bắt buộc không được khai thác trắng với diện tích 10ha. Bên cạnh đó
khuyến khích sử dụng các loài cây có khả năng tổng hợp Ni-tơ để cải thiện độ
phì nhiêu của đất, trong quá trình tỉa thân tỉa cành xem xét các cách để kết hợp
đưa chất hữu cơ trở lại đất, vỏ cây bóc để lại lâm phần nhằm giữ chất hữu cơ lại
cho đất. Điều này sẽ góp phần rất lớn trong việc bảo vệ nguồn nước, chống xói
mòn đất và đảm bảo độ phì nhiêu của đất trong một khu vực diện tích rộng. Nó
cũng đảm bảo về mặt cảnh quan trong suốt quá trình kinh doanh rừng của nhóm
hộ gia đình.
- Các phương pháp khai thác giảm thiểu rủi ro môi trường: không cày xới,
không đốt thực bì sau khai thác và trồng mới đảm bảo giảm thiểu các rủi ro về
môi trường. Đốt thực bì sau khai thác sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc xói mòn
đất và giữ độ mùn của đất, với các phương pháp trồng truyền thống, rừng sau
khai thác sẽ đốt toàn bộ thực bì, việc này ảnh hưởng nhiều đến chất lượng rừng
trồng của luân kỳ sau. Cày xới trước khi trồng cũng ảnh hưởng lớn đến rừng
trồng sau này do đất bị cày xới sẽ không giữ được độ chắc, cây sẽ bị ảnh hưởng
khi có gió lớn hoặc bão, tỉ lệ đổ cao dẫn đến thiệt hại về kinh tế và môi trường.
Khi tham gia chứng chỉ rừng, một trong những yếu tố hàng đầu trong việc khai
thác và trồng mới được đưa ra và phải tuân thủ theo nguyên tắc số 10 với các
tiêu chí đã được nêu. Nó sẽ giúp cho khu vực rừng trồng không còn hiện tượng
xói mòn và bạc hóa đất, bên cạnh đó cảnh quan của khu vực cũng được giữ do
thực bì không bị đốt và đảm bảo được đa dạng sinh học trong khu vực.
80
- Giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ việc sử dụng các hóa chất: Không sử
dụng các thuốc trừ sâu và diệt cỏ bị cấm, hạn chế tối đa việc sử dụng hóa chất
được cho phép và kiểm soát chặt chẽ theo hướng dẫn của các nhà sản xuất sản
phẩm , cấm sử dụng các loại hóa chất nông nghiệp có phép trong vòng 10 m từ
mép sông suối và 30 m quanh vòng hồ, khu chứa nước. Nước rửa, thuốc trừ sâu
không sử dụng và các thùng chứa cũ phải được xử lý cẩn thận và không làm tổn
hại đến môi trường, sử dụng nhiều tối đa các loại dầu nhờn thân thiện với môi
trường cho máy cưa, máy móc nếu có, duy trì các kho trữ nhiên liệu và ngăn
ngừa việc rơi đổ, cung cấp phương tiện để xử lý dầu thải... là những yêu cầu bắt
buộc trong bảo vệ môi trường mà FSC đưa ra. Hoạt động này được áp dụng
trong toàn bộ khu vực rừng được cấp chứng chỉ và các khu vực xung quanh.
4.6. Các đề xuất bổ sung về chính sách và hướng dẫn thực hiện CCR theo
nhóm hộ phù hợp với điều kiện thực tế tại vùng nghiên cứu.
Quá trình đi đến nhận thức về ý nghĩa của việc cấp chứng chỉ rừng và
chứng chỉ gỗ là vô cùng khó khăn, nhất là trong điều kiện kinh tế nước ta chưa
phát triển và ý thức cũng như trình độ dân trí còn thấp, chưa ngang tầm với yêu
cầu nhiệm vụ đề ra. Đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam, nhất là
doanh nghiệp đã và đang sản xuất hàng xuất khẩu, nếu trong lúc này thị trường
yêu cầu chứng chỉ gỗ FSC thì là một đòi hỏi quá sớm và chắc chắn sẽ gây ra
không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Sự ngừng trệ trong tiêu thụ sản phẩm gỗ
nếu chỉ vì lý do xuất phát từ yêu cầu chứng chỉ FSC tại thời điểm này sẽ gây ảnh
hưởng xấu đến quan hệ thương mại của doanh nghiệp và cuối cùng sẽ đưa doanh
nghiệp lâm vào tình trạng tài chính khó khăn, thậm chí có thể phải ngừng sản xuất.
+ Việc cấp chứng chỉ rừng là việc làm còn rất mới mẻ và đòi hỏi phải có
thời gian nhất định mới thực hiện được. Quá trình thực hiện chứng chỉ rừng và
chứng chỉ rừng phải là một quá trình tổng thể, mà công việc đầu tiên cần phải
làm là tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường cho mọi
công dân đi đôi với việc cây dựng các tiêu chuẩn chứng chỉ của quốc gia và sau
81
đó hướng dẫn thực hiện ở các cấp. Một vấn đề rất quan trọng là cần thiết lập một
hệ thống kiểm tra, kiểm soát để bảo đảm tính công bằng đối với tất cả các thành
phần kinh tế, đồng thời áp dụng tất cả các văn bản pháp luật hiện hành về quản
lý bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và trừng phạt nghiêm khắc đối với các đối
tượng khai thác, vận chuyển và sử dụng nguồn gỗ không hợp pháp.
+ Xác nhận vai trò và giúp đỡ cộng đồng: Như một nguyên tắc cơ bản,
quản lý rừng bền vững đòi hỏi những người và các tổ chức tham gia quản lý
rừng cần xác nhận vai trò và quyên lợi của cộng đồng trong quản lý rừng nhiệt
đới, chia sẽ kiến thức chuyên môn và lợi ích với người dân địa phương, nhằm hỗ
trợ họ phát triển cuộc sống. Quản lý rừng dựa vào cộng đồng cũng là cách cải
thiện sinh kế cho người dân, đặc biệt cho những người có cuộc sống gần rừng và
phụ thuộc vào rừng. Như vậy, cộng đồng dân cư địa phương và các chủ rừng là
những người đầu tiên hưởng lợi trong các hoạt động quản lý rừng bền vững. Đối
thoại giữa đại diện của cộng đồng và các chủ rừng đóng vai trò cực kỳ quan
trọng trong quán trình thương thảo, hiểu biết lẫn nhau, tìm hiểu nguyện vọng của
mỗi bên trong việc quản lý và sử dụng rừng
Việc thiết lập và hỗ trợ các nhóm công tác địa phương nhằm xây dựng các
tiêu chuẩn chứng chỉ có thể giúp cho việc chính thức hòa những đối tượng bị
lãng quên, tập trung thảo luận những nội dung mà các đối tượng liên quan mong
muốn hơn là những điều mà học không muốn và giúp xác định những vấn đề cần
được bàn tiếp (thí dụ như lập kế hoạch vùng cảnh quan) hoặc những vấn đề cần
được giải quyết thông qua những công cụ chính sách khác. Bằng việc nhận thức
ngày một tăng về sự tham gia của các đối tượng liên quan như là một yếu tố cơ
bản của công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên, các nhóm công tác này có thể
đóng một vai trò then chốt. Trên thực tế, các nhóm này với mục tiêu là xây dựng
các tiêu chuẩn tự nguyện hơn là sửa đổi văn bản pháp lý, có thể làm giảm bớt
mối lo của chính phủ về việc mất khả năng kiểm soát quá trình lập chính sách.
82
+ Từ việc kinh doanh gỗ rừng không có chứng chỉ rừng chuyển sang kinh
doanh gỗ rừng có chứng chỉ đòi hỏi sự thay đổi mọi mặt, từ thay đổi nhận thức
tới thay đổi hành vi và các yếu tố liên quan đến chính sách. Tại Việt Nam, tham
gia chứng chỉ rừng đã được đưa vào trong chiến lược phát triển lâm nghiệp quốc
gia đến năm 2020, đây là một lợi thế. Tuy nhiên để sử dụng lợi thế như thế nào
và áp dụng một cách triệt để nó ra làm sao thì đòi hỏi một sự phối hợp đồng đều
từ trên xuống. Dưới đây là một phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
thách thức của các nhóm chứng chỉ rừng đã được thành lập, trên cơ sở đó chứng
ta sẽ dần dần giải quyết các vấn đề còn tồn đọng, cần giải quyết để đạt được một
mục đích và thành quả chung trong suốt một quá trình từ kinh doanh rừng không
có chứng chỉ sang kinh doanh rừng có chứng chỉ.
Bảng 4.5. Phân tích SWOT
Điểm mạnh Điểm yếu
- Rừng trồng keo đã đến tuổi khai thác - Kinh tế hộ gia đình trong nhóm còn
- Các hộ gia đình có quyền sử dụng đất khó khăn, không đáp ứng được yêu cầu
trong 50 năm, không có xung đột của FSC về gỗ xẻ đường kính >20cm
- Nhận được sự ủng hộ từ các cấp - Điều kiện vận chuyển khó khăn dẫn
chính quyền địa phương đến khi khai thác giá thành vận chuyển
- Các nhóm đã có kinh nghiệm hoạt tăng cao và giá thành gỗ giảm xuống.
động đáp ứng các yêu cầu về chứng chỉ - Năng lực tổ chức của các nhóm
rừng của FSC trưởng còn hạn chế.
- Đã được cấp chứng chỉ rừng 5 năm từ - Các hộ gia đình trong nhóm chưa có
năm 2010-2015 mục tiêu quản lý rừng rõ ràng và không
- Chiến lược lâm nghiệp quốc gia tới có kế hoạch kinh doanh dài hạn
năm 2020 có nhiều hoạt động liên quan
trực tiếp đến chứng chỉ rừng.
Cơ hội Thách thức
- Được hỗ trợ cấp chứng chỉ rừng từ tổ - Nhu cầu cần gỗ keo có chứng chỉ
83
chức nước ngoài (WWF, SNV) đường kính lớn hơn 20cm nhiều
- CCR là cũng là một phần trong chiến - Sự cam kết lâu dài thực hiện FSC của
lược lâm nghiệp của Việt Nam các hộ gia đình còn hạn chế
- Keo là thị trường tiềm năng trong - Các loài cây trồng khác với chu kì
xuất khẩu đồ mộc gia dụng kinh doanh ngắn, cho thu thập cao
- Các nhà cung cấp gỗ có FSC ở trong đang đang được người dân quan tâm
nước hạn chế, đảm bảo được giá cả của dẫn đến việc phá bỏ rừng keo non để
mặt hàng gỗ có chứng chỉ chuyển đổi mục đích cây trồng tăng thu
- Sản phẩm làm từ gỗ có chứng chỉ rừng nhập
được nhiều thị trường nước ngoài chấp - Thiếu thông tin về thị trường và tiếp
nhận. cận với thị trường
- Có nhiều công ty gỗ trong nước đã có - Kinh phí đánh giá cấp chứng chỉ cao,
mối liên hệ với các nhóm trong việc các hộ hiện nay không đáp ứng được.
bán gỗ có CCR - Các thủ tục tham gia CCR còn khó
khăn (bảng biểu, sổ sách , lưu trữ...)
Như vậy có thể thấy chứng chỉ rừng đã và đang nhận được sự ủng hộ từ
các cấp chính quyền địa phương, nó cũng được ủng hộ thông qua các chính sách
pháp luật của nhà nước, đặc biệt nó nhận được sự đồng thuận cùng tham gia từ
các công ty lâm nghiệp trong và ngoài nước. Đối với các nhóm tại xã Trung Sơn,
do được sự hỗ trợ nhiều từ bên ngoài nên hoạt động của các nhóm hội tụ đủ các
yếu tố để đáp ứng các yêu cầu mà FSC đưa ra. Tuy nhiên cũng gặp không ít khó
khăn do các yêu cầu từ các nguyên tắc và các tiêu chí của FSC là quá cao đối với
những người nông dân chưa bao giờ biết đến quản lý, chưa bao giờ quản lý và
chưa hiểu hết được từ quản lý. Ở đây các khó khăn tập trung nhiều vào năng lực
nhóm và thành viên nhóm, thủ tục hành chính dài và rườm ra, tính bền vững
trong việc duy trì hoạt động nhóm và cuối cùng là vấn đề kinh phí.
Từ các yếu tố phân tích ở trên ta có thể nói rằng các nông dân địa phương
đang thực sự sẵn sàng để thực hành chứng nhận FSC vì thế lợi nhuận có thể cao
84
từ việc bán các sản phẩm được chứng nhận. Tuy nhiên, họ bày tỏ mối quan tâm
của họ về không chắc chắn của giá phí bảo hiểm và thị trường cho các sản phẩm
được chứng nhận của họ. Hơn nữa, thiếu nguồn tài chính để trả tiền cho các chi
phí FSC trực tiếp và kinh nghiệm trong việc cấp giấy chứng nhận FSC có thể
được khó khăn chính của họ.
+ Có thể nói nhu cầu nguyên liệu có chứng chỉ rất cao, thị trường phong
phú, rừng được chứng chứng chỉ thì quá ít, sự quan tâm của các bên liên quan
chưa thực sự đầy đủ, chính sách và các văn bản pháp luật chưa được đưa vào các
hoạt động sản suất thực tiễn và chưa thực sự là động cơ thúc đẩy chủ rừng thực
hiện CCR. Những nghiên cứu về chính sách, thể chế khuyến khích CCR hay giải
pháp cho CCR chở thành một công cụ quản lý tốt tài nguyên rừng; một công cụ có
tính kinh tế và chở nên dễ dàng và phổ biến đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh
rừng trong nước.
Đối với các địa phương (cấp tỉnh và cấp huyện) bộ phận phát triển rừng,
các cơ quan chính phủ là thiếu nguồn tài chính để thực hiện các chương trình
chứng chỉ rừng bởi vì vẫn còn không phân bổ của chính phủ tài chính cho các
hoạt động này, ngoại trừ phần kinh phí từ các nhà tài trợ quốc tế (như WWF). Vì
vậy, họ có thể không có động lực mạnh mẽ và sẽ gặp nhiều khó khăn khi phát
triển chứng nhận FSC cho nhóm hộ với quy mô lớn mà không nhận được kinh
phí từ các nhà tài trợ. Đối với những lý do này, tất cả những người tham gia
đồng ý rằng gia hạn chứng nhận FSC cho các nhóm hộ trong tương lai phải đáp
ứng các yêu cầu sau đây:
- Có một quỹ tài chính và cơ chế có thể đảm bảo thanh toán ít nhất là cho
bao gồm chi phí trực tiếp FSC (đánh giá và giám sát) của kiểm toán viên là hộ
gia đình địa phương có năng lực tài chính thấp để trang trải các loại chi phí vào
những năm đầu tiên quay trồng của họ mặc dù họ có thể bao gồm tất cả các chi
phí sau khi bán sản phẩm của họ.
85
- Giảm thiểu các yêu cầu trong cấp chứng chỉ rừng vì thực tế nếu áp dụng
tất cả các nguyên tắc và tiêu chí của FSC đưa ra sẽ rất khó có thể áp dụng đối với
các nhóm hộ gia đình, đặc biệt các nhóm hộ gia đình ở các khu vực vùng sâu
vùng xa. Các hoạt động liên quan đến các thủ tục hành chính, hoạt động này là
cần thiết nhưng yêu cầu tỉ mỉ và chi tiết. Một trong những minh chứng cụ thể là
02 nhóm tại Trung Sơn, nhóm thôn Kinh Môn do trưởng nhóm có nhiều kinh
nghiệm trong quản lý (vì trước đây là chủ nhiệm HTX) nên các vấn đề liên quan
đến hành chính và quản lý nhóm được làm rất tốt. Các tài liệu, giấy tờ được ghi
chép và lưu trữ rất tốt. Trong khi đó nhóm Giang Xuân Hải, việc lưu trữ hồ sơ
gặp nhiều khó khăn, trưởng nhóm và các thành viên trong nhóm còn rất nhiều lúng
túng trong việc lưu trữ các hồ sơ của nhóm. Các thủ tục giấy tờ liên quan đến bảng
biểu tính toán hoặc ghi chép số lượng, điều tra đánh giá rừng nên chăng hạn chế bớt
để dễ hiểu và người đọc có khả năng nhận thức được cho dù kiến thức về văn hóa của
họ còn hạn chế.
- Phần thủ tục hành chính trong khai thác rừng cũng gặp nhiều khó khăn
do yêu cầu quá phức tạp. Đối với một người dân thì thực sự quá sức, đặc biệt đây
là lần đầu tiên tham gia khai thác gỗ có chứng chỉ, nhiều yêu cầu bắt buộc trong
suốt quá trình khai thác đã vượt quá khả năng của họ. Một ví dụ dưới đây là ghi
chép vận chuyển gỗ, theo yêu cầu của CCR và chuỗi hành trình sản phẩm CoC
thì gỗ sẽ được đánh dấu từ khúc, đo đếm từng khúc, vận chuyển từng xe có ghi
chép và ký nhận. Việc khai thác này so với khai thác thông thường của người
dân thì quá phức tạp, dẫn đến tình trạng chán nản của người dân khi tham gia
nhóm và tuân thủ theo các quy tắc của nhóm. Tại Trung Sơn, trong thời gian
khai thác vừa qua, hầu hết các bảng biểu khai thác được hỗ trợ thực hiện từ Chi
cục Lâm nghiệp, hiện tại các trưởng nhóm và các hộ gia đình chưa đủ trình độ để
có thể hoàn thành các bảng biểu này. Trong khi đó, bảng biểu này bắt buộc phải
hoàn thành để phục vụ cho các đợt đánh giá thường niên của đơn vị cấp chứng
chỉ. Bảng biểu này cũng bắt buộc phải có trong suốt quá trình khai thác để đảm
86
bảo hợp pháp cho các công ty thu mua gỗ theo chuỗi hành trình sản phẩm CoC.
Vấn đề được đưa ra ở đây là làm thế nào để các nhóm có thể tiếp cận và sử dụng
thành thạo các bảng biểu này hay chúng ta giảm thiểu các thủ tục bảng biểu phức
tạp bằng các loại bảng biểu khác đơn giản hơn, dễ sử dụng hơn và áp dụng được
cho các nhóm vùng sâu vùng xa, trình độ dân trí thấp. Trên cơ sở đó, tác giả đề
xuất nên áp dụng chứng chỉ FM cho các hộ gia đình bán gỗ cây đứng, đảm bảo
không phải sử dụng đến các thủ tục giấy tờ. Đơn vị mua sẽ chịu trách nhiệm liên
quan đến CoC và sẽ hoàn thành các thủ tục liên quan đến giấy tờ ghi chép khai thác.
+ Các đánh giá trữ lượng trước và sau khai thác thực tế chênh lệch nhau
khá lớn, đặc biệt với gỗ nhỏ hoặc gỗ dăm. Hiện tại việc đánh giá trữ lượng trước
khai thác được áp dụng theo công thức Vkhai thác Vgỗ đứng *0.75 (1) sau khi tiến
hành thực hiện tại thôn Kinh Môn, xã Trung Sơn thì trữ lượng này chênh lệch
khá nhiều so với thực tế.
Bảng 4.6. Đánh giá sai số trước và sau khai thác tại thôn Kinh Môn
Áp dụng công thức (1)
MSai số (m3) M Trước KT MSau KT
(m3) (m3) Gỗ xẻ TT Họ và tên
Gỗ xẻ Gỗ xẻ m3 %
1 Lê Hữu Vinh 96.6 94.3 -2.3 -1.20%
2 Nguyễn Thọ Vinh 50.9 51.7 0.8 0.78%
3 Lê Hữu Chiến 85.0 93.5 8.5 4.76%
4 Lê Biên Hòa 113.3 135.3 22.0 8.85%
5 Trịnh Thị Huế 139.9 166.6 26.7 8.71%
6 Trịnh Văn Quảng 331.0 391.5 60.5 8.37%
Tổng cộng 816.7 933.9 116.2 6.64%
87
Như vậy một trong những thay đổi cần thiết là đưa tỉ lệ vào công thức như
nào cho hợp lý. Theo tác giả, sau khi nghiên cứu kỹ các tỉ lệ và độ chênh lệch
trước và sau khai thác thì nếu có thể ta thay hệ số sử dụng 0,85 thay vì 0,75, như
vậy công thức sẽ là:
Vkhai thác Vgỗ đứng *0.85 (2)
Khi áp dụng công thức này, sai số đánh giá trước và sau khai thác sẽ rất
thấp, đảm bảo tính chính xác cho khối lượng gỗ cho người dân trước khi tiến
hành bán rừng của mình. Đặc biệt đối với gỗ tròn, tỉ lệ sai số không đáng kể và
có thể áp dụng trong suốt quá trình tham gia chứng chỉ rừng với sai số trên dưới
20m3 áp dụng cho khối lượng gỗ xẻ với tỉ lệ sai số không quá 8%, chi tiết tính
toán được thể hiện theo công thức 2 của bảng dưới đây.
Bảng 4.7. Tính sai số trước và sau khai thác tại thôn Kinh Môn
áp dụng công thức (2)
MSai số (m3) M Trước KT MSau KT TT Họ và tên (m3) (m3) Gỗ xẻ %
1 Lê Hữu Vinh 109.5 94.3 -15.2 -7.46%
2 Nguyễn Thọ Vinh 57.7 51.7 -6.0 -5.48%
3 Lê Hữu Chiến 96.3 93.5 -2.8 -1.48%
4 Lê Biên Hòa 128.4 135.3 6.9 2.62%
5 Trịnh Thị Huế 158.6 166.6 8.0 2.46%
6 Trịnh Văn Quảng 375.1 391.5 16.4 2.14%
Tổng cộng 925.6 932.9 7.3 0.39%
- Tính bền vững của CCR áp dụng rộng rãi đối với các nhóm hộ là chưa
có. Đây là vấn đề cần phải được đưa ra bàn bạc, thống nhất để các nhóm có thể
có những cam kết lâu dài thực hiện chứng chỉ rừng. Nó thực sự là cần thiết để
thiết lập và duy trì các cơ quan hỗ trợ (nhà tài trợ và các cơ quan chính quyền địa
phương, các công ty lâm nghiệp) là "bà đỡ" cho các hộ gia đình địa phương
88
trong kỹ thuật và tiếp thị hỗ trợ bán sản phẩm. Bên cạnh đó các cơ quan hỗ trợ
này có thể có những cam kết hỗ trợ kinh phí cấp chứng chỉ và thu hồi thông qua
hưởng chênh lệch từ bán các sản phẩm gỗ chứng chỉ của người dân. Một trong
những giải pháp hữu hiệu được bàn đến là hợp đồng với các công ty lâm nghiệp,
các công ty chịu trách nhiệm kinh phí cấp chứng chỉ, các thành viên nhóm chịu
trách nhiệm tuân thủ theo quy tắc của FSC.Khi bán sản phẩm, phần trăm sẽ được
trích ra trả lại cho công ty. Thực tế mô hình này đã thực hiện từ lâu và ở nhiều
nơi tại Việt Nam cho nhiều sản phẩm khác nhau, tuy nhiên đối với CCR thì chưa
được áp dụng bởi nhiều lý do, trong đó có lý do mà các công ty lâm nghiệp vẫn
còn băn khoăn là hiệu lực cam kết và cam kết thời gian tham gia chứng chỉ rừng
của người dân như thế nào, liệu khi gỗ có chứng chỉ rồi họ không tham gia vào
nhóm nữa thì sao? Ai chịu trách nhiệm về vấn đề này? Vì thực tế tham gia nhóm
CCR là tự nguyện và khi họ không có nhu cầu ở lại nhóm thì họ có quyền xin ra
khỏi nhóm. Như vậy để cam kết tham gia nhóm và thời gian tham gia nhóm đảm
bảo cho các công ty hỗ trợ việc cấp CCR thì cần thiết phải có sự tham gia của
một bên thứ ba đó là các cấp chính quyền địa phương và mô hình cam kết sẽ có
3 đơn vị tham gia, một là các thành viên nhóm, hai là công ty lâm nghiệp và ba
là chính quyền địa phương. Công thức áp dụng tính toán gỗ đứng mong muốn áp
dụng theo công thức 2 mà tác giá đưa ra với tỉ lệ % thể tích gỗ thương phẩm và
gỗ đứng không vượt quá 8%.
89
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
5.1.1. Kết quả chính của đề tài
Như vậy có thể kết luận rằng khi tham gia chương trình chứng chỉ rừng
thì gỗ sẽ có nguồn gốc hợp pháp, giá cả cao hơn đến 25% so với giá cả gỗ không
có chứng chỉ trên thị trường hiện tại. Bên cạnh đó nếu gỗ rừng có chứng chỉ sẽ đáp ứng
được yêu cầu của nhiều thị trường trên thế giới, trong đó có nhiều thị trường bền vững.
Có thể thấy chứng chỉ rừng được coi là một công cụ chính sách và nó
cũng là một quá trình giúp cho công tác quản lý rừng được tốt hơn, bền vững
hơn. Việc quản lý rừng tốt hơn và bền vững hơn thể hiện qua việc tuân thủ các
nguyên tắc và tiêu chỉ quản lý rừng của FSC. Quản lý rừng bền vững cũng thể hiện
rõ nét thông qua các chu kỳ khai thác dài hơn, trồng xen cây bản địa, khai thác có kế
hoạch, không khai thác trắng, không đốt thực bì sau khai thác hoặc không cày ủi để
trồng mới.
Các khó khăn trong quản lý nhóm được đưa ra phân tích và tìm ra được
các khó khăn chung có thể giải quyết từ đó khuyến khích đưa ra các điểm cần
giải quyết đơn giản hơn, đáp ứng được các yêu cầu về trình độ của các nhóm.
Việc khuyến khích người dân bảo vệ và phát triển rừng của mình đáp ứng yêu
cầu của chứng chỉ rừng về mặt thời gian và chất lượng sản phẩm gỗ còn nhiều
khó khăn, điều này phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế của từng hộ và phụ
thuộc nhiều vào sản phẩm mà thị trường nội địa cần. Vì vậy vai trò của trưởng nhóm
và các cấp chính quyền địa phương rất quan trọng, đảm bảo việc quản lý nhóm được
theo đúng yêu cầu cũng như duy trì và phát triển nhóm một cách bền vững.
Duy trì và phát triển nhóm là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo
được đủ sản phẩm gỗ có chứng chỉ cho sản xuất tại nước ta.Tuy nhiên việc này
đòi hỏi nhiều đến sự quan tâm của các cấp chính quyền, các văn bản pháp quy
cũng như các hỗ trợ từ các công ty lâm nghiệp. Đối với khu vực nghiên cứu, địa
90
hình khó khăn, thời tiết khắc nghiệt, trình độ dân trí còn thấp thì đòi hỏi nhiều
đến sự quan tâm của các cấp để cải thiện mọi mặt trong quá trình hội nhập. Tuy
nhiên chỉ đánh giá riêng về nhóm chứng chỉ rừng thì cho thấy hiện nay lợi nhuận
về mặt kinh tế đã áp đặt và chi phối toàn bộ các lợi ích về mặt môi trường và xã
hội. Có rất nhiều hộ đã chuyển từ trồng rừng keo sang trồng sắn vì thị trường
hiện tại sắn cho thu nhập cao hơn, chu kỳ kinh doanh ngắn hơn. Nhưng trên thực
tế việc chuyển đổi mục đích cây trồng sang trồng sắn sẽ mang một hậu quả to
lớn về môi trường mà người dân không thể ngờ tới được.
Sự quan tâm của chính phủ liên quan đến các chính sách trong quản lý
rừng bền vững và chứng chỉ rừng về các mặt kinh tế, môi trường và xã hội sẽ là
động cơ để thúc đẩy sự tham gia của các nhóm hộ ngày càng nhiều hơn, càng
mạnh mẽ hơn. Các chính sách ban đầu cần quan tâm tập trung vào việc hỗ trợ
quyền sử dụng đất, hỗ trợ về kinh phí trồng hoặc hỗ trợ các chính sách để các
công ty LN có thể có những hợp đồng hoặc cam kết với các nhóm hộ từ đầu cho
đến khi được cấp chứng chỉ... Khi giải quyết được các vấn đề này, việc tham gia
cấp chứng chỉ rừng sẽ đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu về gỗ hợp pháp mà
các thị trường trong và ngoài nước đang quan tâm.
5.1.2. Các điểm mới của đề tài
Việc đánh giá mô hình chứng chỉ nhóm thành công tại Trung Sơn, Gio
Linh, Quảng Trị đưa ra được các điểm mạnh và cơ hội cho chứng chỉ rừng cấp
nhóm trong tương lai. Tuy nhiên nó cũng chỉ ra được các điểm yếu và thách thức
hiện tại mà các nhóm gặp phải. Trên cơ sở các khó khăn, thách thức đó, tác giả
cũng đã đưa ra được các giải pháp hữu ích để giải quyết triệt để các khó khăn
thách thức, mang lại các thành công tốt hơn trong việc tham gia chứng chỉ rừng
theo nhóm hộ.
Một số khuyến cáo thay đổi để việc tham gia chứng chỉ được dễ dàng hơn
và áp dụng cho các nhóm với điều kiện năng lực kém hơn cũng được tác giả đưa
ra và khuyến khích sử dụng. Môt trong những khó khăn hiện nay của các nhóm
91
là về tài chính, kinh phí cho mỗi lần đánh giá cấp chứng chỉ rất cao do phải mời
chuyên giá đánh giá từ nước ngoài về. Giải pháp đơn giản nhất là chính phủ nên
liên kết với FSC và các cơ quan liên quan thành lập một tổ chức có quyền cấp
CCR tại Việt Nam. Việc này giảm thiểu các chi phí đánh giá tuy rằng việc thành
lập một đơn vị có quyền hạn cấp chứng chỉ đòi hỏi sự tham gia rất nhiều các nhà
khoa học, các chuyên gia cũng như sự hậu thuẫn lớn của chính phủ.
Một khó khăn nữa đề cập tới là các thủ tục hành chính cho quản lý nhóm,
hầu hết cho đến nay, các nhóm đã tham gia chứng chỉ rừng còn rất mơ hồ về các
thủ tục hành chính, có những thủ tục thực tế vẫn không biết làm như thế nào, đặc
biệt là thủ tục trong suốt quá trình khai thác và bán sản phẩm theo chuỗi hành
trình sản phẩm CoC. Nên chăng có những cải biến để đơn giản hóa các thủ tục
này nhưng vẫn đảm bảo được các quy định của FSC trong quá trình khai thác và
bán sản phẩm.
Tóm lại, điểm mới của luận văn, sau khi tổng kết 1 mô hình CCR thành
công, đã có những phân tích, biện luận trên cơ sở kinh tế, môi trường, xã hội, và
thêm các chính sách QLR, các tập quán sản xuất của vùng Quảng Trị, tác giả đã
có các phát hiện và đề xuất trên 3 khía cạnh sau đây :
- Tiêu chuẩn QLRBV của thế giới gồm 10 nguyên tắc, 56 tiêu chí là tiến
bộ mới của loài người để khỏi mất rừng, khi áp dụng cho đối tượng chủ rừng là
hộ nông dân Việt Nam , còn rất hạn chế về kỹ thuật, quản lý, và nguồn lực đầu
tư đã khẳng định 1 bước đi nâng cao nhận thức, năng lực quản lý của từng thành
viên và cả nhóm, nhưng nhất thiết phải có sự hỗ trợ của 1 tổ chức tư vấn
(WWF), và của cơ quan lâm nghiêp địa phương .
- Đã phát hiện và chỉ ra các điểm chưa hợp lý, có thể cải tiến cho quy
trình cấp CCR theo nhóm chủ rừng là hộ gia đình cường độ đầu tư thấp quy mô
nhỏ (SLIMF) ở Quảng Trị ( Quy hoạch sử dụng đất, thành lập và quản lý nhóm,
quản lý gỗ đã được cấp CCR, vay vốn trồng rừng.....)
92
- Nêu vấn đề “tính bền vững” của nhóm CCR theo dự án hỗ trợ của 1 tổ
chức tư vấn . Sau khi kết thúc dự án, giải pháp nào bù đắp cho các thiêu hụt về :
(1) không có kinh phí duy trì, vận hành nhóm; (2) thiếu người quản lý có chuyên
môn và năng lực và (3) hết rừng đến tuổi khai thác, các thành viên nhóm sẽ
không tham gia vào nhóm, có thể sẽ chuyển đổi mục đích cây trồng. Liệu có thể
mời các công ty mua gỗ cam kết hỗ trợ hoạt động nhóm và thu mua sản phẩm,
đảm bảo các tiêu chí đôi bên cùng có lợi ? .
5.2. Khuyến nghị
Qua các phân tích đánh giá ở trên, tác giả có đưa ra một số các khuyến nghị
mang tính tổng thể, đảm bảo tính bền vững, duy trì và mở rộng các nhóm mới với mục
tiêu bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế hộ và công bằng xã hội, cụ thể như sau:
- Quyền sử dụng đất là tiêu chí đầu tiên để quyết định có tham gia được
chứng chỉ rừng hay không, do đó việc xây dựng, thay đổi các chính sách liên quan
đến giao đất giao rừng, thuê đất hoặc quyền sử dụng đất nhưng không có sổ đỏ ...
cũng cần thực hiện sớm đảm bảo mọi người dân có thể biết, hiểu và tham gia.
- Việc quy hoạch sử dụng đất, giao đất cần phải có chiến lược lâu dài, phù hợp
với điều kiện địa phương, đáp ứng được các yêu cầu tham gia chứng chỉ rừng của các
nhóm hộ. Song song với việc đó, quy hoạch và định hướng cho các sản phẩm trên đất
rừng cũng nên được đưa ra và khuyến cáo người dân, tránh trường hợp đang trồng
cây với mục đích này, chưa thu hoach phá đi trồng cây mục đích khác.
- Khi thiết lập các nhóm chứng chỉ rừng cần có cái nhìn lâu dài, cân bằng
được giữa các mục tiêu lấy gỗ, bảo vệ môi trường và xã hội nhưng phải mang
tính bền vững. Ở đây, tính bền vững của các nhóm còn phụ thuộc nhiều vào sự
tham gia của các bên liên quan tuy rằng sự cam kết cần phải có tính chất tự
nguyện và ràng buộc về kinh tế.
- Giảm thiểu các thủ tục hành chính để phù hợp với yêu cầu sử dụng của
người dân, đặc biệt là khu vực có người dân tộc thiểu số sinh sống.
93
- Tăng cường tập huấn kiến thức kỹ thuật và nhân rộng mô hình trên các
phương tiện thông tin đại chúng để người dân có thể tiếp cận và hiểu hơn về
chứng chỉ rừng và lợi ích của nó mang lại
- Đơn giản hóa các thủ tục khai thác phù hợp với điều kiện của người dân
và đáp ứng được các yêu cầu của FSC đưa ra.
- Nhà nước có những chính sách về tài chính, vay vốn tín dụng cho các hộ
gia đình tham gia trồng rừng, đảm bảo đáp ứng được yêu cầu về thời gian của
các chu kỳ trồng rừng và kinh phí trồng, chăm sóc, khai thác.
- Để đạt được mục tiêu năm 2020 về chứng chỉ rừng của Chiến lược phát
triển Lâm Nghiệp Việt nam, chính phủ cần phải có các chính sách hỗ trợ các hộ
gia đình, các nhóm CCR cấp thôn các vấn đề liên quan đến thuế, cấp phép....
đảm bảo giảm thiểu các chi phí khi tham gia mua bán, vận chuyển, khai thác các
sản phẩm rừng có chứng chỉ.
- Hướng tới phát triển chứng chỉ rừng bền vững, cần có các chính sách và
cam kết hỗ trợ giúp đỡ các nhóm cộng đồng từ các công ty lâm nghiệp, các cấp chính
quyền địa phương để phát triển mô hình hợp tác sản xuất, các bên đều có lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. Bộ NN&PTNT (2009), Quyết đinh số 1267/QĐ-BNN-KL ngày 05/5/2009 về
việc công bố hiện trạng rừng toàn quốc tính đến năm 2008, Hà Nội.
2. Chi cục kiểm lâm Quảng Trị (2011), Báo cáo kết quả cập nhật diễn biến rừng
năm 2010, Quảng Trị.
3. Cục thống kê tỉnh Quảng Trị (2011), Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị năm
2010, NXB Thống kê, Hà Nội.
4. Đoàn Viết Công (2011), Báo cáo Kết quả hoạt động của các Nhóm chứng chỉ
rừng tại Quảng Trị (FSC), Quảng Trị.
5. Hồ Sỹ Huy và Đoàn Viết Công (2011), Báo cáo kết quả khảo sát tiềm năng rừng
và đất lâm nghiệp thuộc đối tượng rừng quy hoạch sản xuất đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, Quảng Trị.
6. Hội KHKT Lâm nghiệp Việt Nam (2002), Hội thảo quốc gia về đẩy mạnh
quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng ở Việt nam, Hà Nội
7. http://agro.gov.vn/news/tID20364_Hai-quy-dau-nam-kim-ngach-xuat-khau-
go-va-san-pham-tang-nhe-so-voi-cung-ky.htm
8. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật đất đai số
13/2003/QH11, Hà Nội.
9. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật Bảo vệ và
phát triển rừng số 29/2004/QH11, Hà Nội.
10. Nguyễn Ngọc Lung (2001), Báo cáo kết quả khảo sát đánh giá tại tỉnh Đăk
Lăk, 1999, Smartwood (bản tiếng việt), Partnership, Task Force II, Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Lung (2011), Những chính sách thúc đẩy quá trình QLRBV và
CCR, Diễn đàn LSVN lần thứ 1 (2), Hà Nội
12. Thủ tướng chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007),
Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược phát triển Lâm
nghiệp của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020, Hà Nội.
13. Trần Văn Con và đồng nghiệp (2006), Cẩm nang ngành lâm nghiệp, Chương
Quản lý rừng bền vững, GTZ Việt Nam, Tr 45, Hà Nội
14. Trần Văn Con và đồng nghiệp (2006), Cẩm nang ngành lâm nghiệp, Chương
Lâm nghiệp Cộng đồng, GTZ, Hà Nội
15. UBND huyện Gio Linh (2010), Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội huyện Gio
Linh giai đoạn 2010-2015, Quảng Trị
16. UBND xã Trung Sơn (2010), Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội xã Trung
Sơn giai đoạn 2011-2014, Quảng Trị
17. Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng (2011), Tiêu chuẩn Quốc gia
về Quản lý rừng bền vững “ Tiêu chuẩn FSC Việt Nam”, Dự thảo 9c, Hà Nội.
18. WWF Việt Nam (2002), Bản Ghi nhớ Hội nghị thượng đỉnh về Phát triển
bền vững, “Ghi nhớ Jo’burg”, Hà Nội
19. WWF Việt Nam & Cục Lâm nghiệp Việt nam (2004), Kỷ yếu hội thảo
“Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng”, Hà Nội.
20. WWF Việt Nam (2005), Báo cáo dự án SECO về tình hình thực hiện của
các Lâm trường quốc doanh trước và sau Nghị định 200/CP, Hà Nội
21. WWF Việt Nam (2008), Bộ công cụ xác định rừng có giá trị bảo tồn cao -
Giấy phép xuất bản số: 1097-2008/CXB/12-382/LĐXH, Hà Nội
22. WWF Việt Nam (2011), Sổ tay quản lý rừng cho các thành viên nhóm CCR,
quyển 1 và quyển 2, Hà Nội
Tài liệu tiếng Anh:
23. Auld G. and G. Q. Bull (2003), The institutional design of forest certification
standards initiatives and its influence on the role of science: the case of forest
genetic resources. Journal of Environmental Management 69:47–62.
24. Barthod, C. (1998), Criteria and Indicators for Sustainable Temperate
Forest Management – 1992 to 1996. Unasylva, 192. 49: 53-56.
25. Certification Bodies updated 2011
http://www.fsc-uk.org/?page_id=60
26. FAO (2001), Deforestation continues at a high rate in tropical areas, FAO
calls upon contries to fight forest crime & corruption.
27. FAO (2007), State of the world’s forest 2007, Food and Agriculture
Oganisation of United Nation, Rome.
28. FSC ® Weekly News Update - 9 September 2011
http://www.fsc.org/1994.html
29. http://www.fsc.org
30. ITTO (1992), ITTO guide for sustainable forest management of natural
tropical forst, Malaysia
31. IGES (2005), Sustainable Asia 2005 and beyond; in the pursuit of innovative
policy, IGES White Paper, chapter 3.
32. Montreal Process webpage
http://www.rinya.maff.go.jp/mpci/criteria_e.html
http://www.iges.or.jp/en/pub/pdf/whitepaper/text.pdf
33. Nguyen Cu, Le Manh Hung (2008), Technical report of a review of the Flora
of central Annamites: a literature review- BCI project, Quảng Trị
34. Shimako Takahashi (2008), Challenges for Local Communities and
Livelihoods to Seek Sustainable Forest Management in Indonesia. The
Journal of Environment Development, Vol. 17, No. 2, 192-211.
35. Tinna Vahenen (2003), Criteria and Indicators for Sustainable Forest
Management and Trade in Forest Products and Service, GCP/INT/775/JPN
36. Tran Te Bac (2008), Technical report of a review of the Fauna of central
Annamites: a literature review, Hà Nội
37. UNEP, Earth Watch/Forest lost
http://earthwatch.unep.ch/emergingissues/forests/forestloss.php
38. WWF (2008), Report on results of red book survey in Vinh Linh and Gio
Linh district, Quang Tri province, Viet Nam, Quảng Trị
39. WWF (2008), Report on Plantation survey results in Vinh Linh and Gio Linh
district, Quang tri province, Viet nam, Quảng Trị.
40. WWF (2011). Report of Development a revenue sharing system for Small
holder Forest Certification Group in Quang Tri province, Hà Nội.
41. www.itto.or.jp/live/PageDisplayHandler?pageId=233&id=224
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng tính toán chi phí đầu tư trồng và chăm sóc rừng sau 7 năm
cho 3 loại hình gỗ rừng trồng
% Gỗ % Gỗ Gỗ tròn Gỗ dăm % Gỗ Gỗ tròn tròn dăm không không tròn có FSC không không FSC FSC có FSC FSC FSC
Trồng và chăm
9880.0 8840.0 8840.0 37.9% 33.9% 24.6% sóc
Chi phí làm
chứng chỉ FSC 1040.0 0.0 0.0 4.0% 0.0% 0.0%
Khai thác 8720.0 8720.0 7694.6 33.5% 33.5% 21.5%
Vận chuyển 6325.0 11829.7 19236.5 24.3% 45.4% 53.6%
Các chi phí khác 100.0 100.0 100.0 0.4% 0.4% 0.3%
Tổng cộng 26065.0 29489.7 35871.1 100.0% 113.1% 100.0%
Phụ lục 2: Bảng tính toán bán sản phẩm cho 3 loại hình gỗ rừng trồng (có
FSC, không FSC lấy gỗ và không FSC gỗ dăm)
% Gỗ % Gỗ Gỗ tròn Gỗ dăm % Gỗ Gỗ tròn tròn dăm không không tròn có FSC không không FSC FSC có FSC FSC FSC
Gỗ tròn 100432.2 59956.0 0.0 81.5% 64.8% 0.0%
Gỗ dăm 22770.0 32625.0 69251.4 18.5% 35.2% 100.0%
Tổng
cộng 100.0% 100.0% 100.0% 123202.2 92581.0 69251.4
Phụ lục 3: 10 nguyên tắc FSC
1. Nguyên tắc 1: Tuân thủ theo pháp luật và các nguyên tắc của FSC.
2. Nguyên tắc 2: Quyền và trách nhiệm đối với với việc sử dụng và sở hữu.
3. Nguyên tắc 3: Quyền của người bản xứ.
4. Nguyên tắc 4: Mối quan hệ cộng đồng và quyền của người lao động.
5. Nguyên tắc 5: Các lợi ích từ rừng.
6. Nguyên tắc 6: Tác động về môi trường.
7. Nguyên tắc 7: Kế hoạch quản lý.
8. Nguyên tắc 8: Giám sát và đánh giá.
9. Nguyên tắc 9: Duy trì các khu rừng có giá trị bảo tồn cao.
10. Nguyên tắc 10: Các khu rừng trồng.
Phụ lục 4:
Bảng tính toán % chênh lệch áp dụng công thức 1: Vkhai thác Vgỗ đứng *0.75
Thứ tự Gỗ
HGĐ Gỗ xẻ Tổng trước xẻ
trước sau Chênh và sau % trước % sau % Chênh
KT KT lệch khai thác khai thác khai thác lệch
1 96.6 94.3 -2.3 190.9 50.60% 49.40% -1.20%
2 50.9 51.7 0.8 102.6 49.61% 50.39% 0.78%
3 85 93.5 8.5 178.5 47.62% 52.38% 4.76%
4 113.3 135.3 22 248.6 45.58% 54.42% 8.85%
5 139.9 166.6 26.7 306.5 45.64% 54.36% 8.71%
6 331 391.5 60.5 722.5 45.81% 54.19% 8.37%
1749.6 46.68% 53.32% 6.64% Tổng 816.7 932.9 116.2
Phụ lục 5:
Bảng tính toán % chênh lệch áp dụng công thức 2: Vkhai thác Vgỗ đứng *0.85
Thứ Gỗ xẻ Tổng trước Gỗ xẻ tự trước Chênh và sau % trước % sau % Chênh sau KT HGĐ KT lệch khai thác khai thác khai thác lệch
1 109.5 94.3 -15.2 203.8 53.73% 46.27% -7.46%
2 57.7 51.7 109.4 52.74% 47.26% -5.48% -6
3 96.3 93.5 189.8 50.74% 49.26% -1.48% -2.8
4 128.4 135.3 263.7 48.69% 51.31% 2.62% 6.9
5 158.6 166.6 325.2 48.77% 51.23% 2.46% 8
6 375.1 391.5 16.4 766.6 48.93% 51.07% 2.14%
1858.5 49.80% 50.20% 0.39% Tổng 925.6 932.9 7.3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU