ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
********
TRƢƠNG HỒNG THÚY
DẤU ẤN FOLKLORE TÀY - NÙNG
TRONG THƠ DƢƠNG THUẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian
HÀ NỘI – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
********
TRƢƠNG HỒNG THÚY
DẤU ẤN FOLKLORE TÀY - NÙNG
TRONG THƠ DƢƠNG THUẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25
Người hướng dẫn: GS.TS. Lê Chí Quế
HÀ NỘI – 2015
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
GS.TS Lê Chí Quế. Các kết quả và số liệu nghiên cứu
trong luận văn là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ
một công trình khoa học nào.
Những luận điểm sử dụng của tác giả khác, tác
giả luận văn đều có ghi chú rõ ràng nguồn gốc. Tác giả
hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên
bản của luận văn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn
Trương Hồng Thúy
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới GS.TS Lê
Chí Quế - người thầy đã tận tình hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Văn học, khoa Sau
đại học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội đã nhiệt
tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại
trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn nhà thơ Dương Thuấn – đã tạo điều kiện và
chỉ bảo cho tôi rất nhiều.
Tác giả luận văn chân thành biết ơn những người thân trong gia đình
và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt
thời gian qua.
Hà Nội, ngày 25 thág 10 năm 2015
Tác giả
Trương Hồng Thúy
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
I. Lý do chọn đề tài. ................................................................................................... 1
II. Mục đích nghiên cứu. ........................................................................................... 2
III. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ................................................................................ 2
IV. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu. ......................................................................... 3
V. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4
VI. Bố cục. .................................................................................................................. 4
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY – NÙNG VÀ FOLKLORE
TÀY – NÙNG. ............................................................................................................ 5
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên – xã hội, cảnh quan thiên nhiên và lịch
sử tộc người. ...................................................................................................... 5
1.1. Tổng quan về tộc ngƣời Tày – Nùng ở Việt Nam. ........................................... 5
1.1.2. Nghệ thuật tạo hình dân gian. ........................................................................... 9
1.1.3. Nghệ thuật biểu diễn dân gian. ........................................................................ 15
1.1.4. Tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán. ...................................... 20
1.1.5. Văn học dân gian. ............................................................................................ 24
1.2. Folklore dân tộc Tày – Nùng. ......................................................................... 35
1.2.1. Khái niệm Folklore. ........................................................................................ 35
1.2.2. Folklore dân tộc Tày – Nùng. ......................................................................... 40
Tiểu kết. .................................................................................................................... 41
CHƢƠNG 2. DẤU ẤN VĂN HÓA DÂN GIAN TÀY – NÙNG TRONG THƠ
DƢƠNG THUẤN. ................................................................................................... 43
2.1. Khái quát thơ ca Tày – Nùng thời kì hiện đại. .............................................. 43
2.2. Dƣơng Thuấn – cuộc đời và sự nghiệp. ......................................................... 48
2.3. Khái niệm văn hóa. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. ........................ 51
2.3.1. Khái niệm văn hóa. ......................................................................................... 51
2.3.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học ....................................................................... 52
2.4. Dấu ấn văn hóa dân gian Tày Nùng trong thơ Dƣơng Thuấn. .................... 54
2.4.1. Hình ảnh núi rừng và con người miền núi trong thơ Dương Thuấn ............... 54
2.4.2. Những yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc Tày – Nùng trong thơ Dương
Thuấn. ........................................................................................................................ 68
Tiểu kết………...……………………………………………………………82 CHƢƠNG 3. DẤU ẤN NGỮ VĂN DÂN TỘC TÀY – NÙNG TRONG THƠ
DƢƠNG THUẤN...................................................................................................... 83
3.1. Ngôn ngữ diễn đạt ............................................................................................ 83
3.2. Thể thơ .............................................................................................................. 92
3.3. Dấu ấn của các loại thể văn học dân gian Tày – Nùng trong thơ Dƣơng
Thuấn........................................................................................................................ 93
3.3.1. Cao dao – thành ngữ - tục ngữ . ...................................................................... 94
3.3.2. Dân ca dân gian dân tộc Tày Nùng. .............................................................. 100
3.3.3. Truyện cổ tích – Sự tích – Truyền thuyết – Huyền thoại. ............................. 108
3.3.4. Các thể loại khác. .......................................................................................... 111
Tiểu kết…………………………………………………………………….114 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ............................................................ 119
PHỤ LỤC.
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Dương Thuấn đã trở thành một cái tên quen thuộc và ấn tượng trên thi đàn
Việt Nam bởi ông có một hồn thơ độc đáo, khỏe khoắn và dung dị, nhưng trên hết,
bởi ông là một nhà thơ dắn bó, thủy chung với dân tộc và quê hương mình. Thơ của
Dương Thuấn có bản sắc độc đáo, được rất nhiều độc giả yêu mến.
Thật may mắn là chúng ta đã và đang có một đội ngũ các nhà thơ thật sự gắn
bó và tâm huyết với bản sắc văn hóa dân tộc mình, họ luôn trăn trở, day dứt trong
việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy và giới thiệu với các dân tộc anh em trong nước,
cũng như với thế giới những cái hay, cái đẹp của dân tộc mình. Bằng tất cả sự tài
năng và nhiệt huyết, họ đã có những đóng góp lớn lao đối với văn học dân tộc thiểu
số nói riêng và đối với thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Dương Thuấn là một
nhà thơ tiêu biểu như thế. Bên cạnh tên tuổi của các nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu
số đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc như Nông Quốc Chấn, Hoàng Văn
Thụ, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Triều Ân, Ma Trường Nguyên, Y Phương,
thì Dương Thuấn đã khẳng định được chỗ đứng của mình bằng những đóng góp
quan trọng vào sự phát triển chung của văn học dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca
Việt Nam hiện đại nói chung.
Nhà thơ Dương Thuấn sinh năm 1959, tại Bắc Kạn. Ông là người dân tộc
Tày, hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Dương Thuấn từng được trao Giải A
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1992 và hàng chục giải thưởng của các
cuộc thi thơ trên các báo, tạp chí, nhà xuất bản của trung ương, các tổ chức quốc
tế... Ông đã có hơn 20 tác phẩm được in và chủ biên khoảng 30 đầu sách. Đáng chú
ý, tuyển tập Dương Thuấn vừa được tổ chức Guiness Việt Nam công nhận 2 kỷ lục:
Bộ sách song ngữ Tày – Việt đầu tiên và Bộ Tuyển tập thơ dày nhất Việt Nam (hơn
2000 trang, gồm 3 tập). Thuộc thế hệ kế tiếp đội ngũ các nhà thơ dân tộc có tên tuổi
vững chắc, Dương Thuấn đã tiến thêm một bước đến gần hơn với độc giả trẻ, bởi
thơ Dương Thuấn rất gần gũi, thân thuộc, đồng cảm với những người trẻ tuổi, do đó
1
mà thơ ông được đông đảo bạn đọc trẻ yêu mến.
Dấu ấn folklore Tày – Nùng in đậm tạo nên phong cách riêng cho thơ Dương
Thuấn, vừa dồi dào chất liệu văn hóa dân gian, vừa đậm đà hương vị văn học dân
gian dân tộc. Thơ ông như chính con người ông, đối với quê hương như bát nước
đầy, thủy chung đầu cuối, gắn bó sắt son, chân thành, đằm thắm. Đọc thơ Dương
Thuấn mà ngỡ như tìm lại được lời ru của bà của mẹ vương vít trên nương hay văng
vẳng đâu đây trong nhà sàn những đêm cả nhà quây quần bên bếp lửa. Nhịp thơ như
nhịp cây đàn tính quê hương, tiếng thơ như tiếng Lượn, tiếng Sli, hồn thơ như hồn
dân tộc, càng đi xa càng muốn về gần. Trong thời đại hội nhập ngày nay, cùng với
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự phát triển vượt bậc của kinh
tế - xã hội và những đổi thay lớn lao của thời cuộc đã tác động mạnh mẽ và làm
biến đổi nhiều mặt của đời sống xã hội cũng như đời sống văn hóa truyền thống, thì
những gì thơ Dương Thuấn đã đem lại càng trở nên đáng trân quý, nâng niu.
Là một đứa con dân tộc Tày – Nùng của núi rừng Việt Bắc, lớn lên và chứng
kiến nhiều giá trị truyền thống của dân tộc mà mình hằng yêu mến, tự hào đang dần
mai một, đang dần mất đi, thì đối với cá nhân tôi, những thứ mà nhà thơ Dương
Thuấn đang cố gắng, nỗ lực giữ gìn, bảo tồn cũng chính là những điều tôi muốn làm
nhưng khả năng của bản thân còn hạn chế, bằng sự ngưỡng mộ và kính trọng sâu
sắc, tôi đã chọn “Dấu ấn folklore Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn” làm đề tài
cho luận văn thạc sĩ của mình.
II. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu thơ Dương Thuấn, chúng tôi muốn làm
rõ những dấu ấn của folklore Tày – Nùng trong thơ ông để thấy được sự ảnh hưởng
sâu sắc của văn hóa và văn học truyền thống dân tộc trong quá trình sáng tác của tác
giả, qua đó khẳng định những đóng góp của Dương Thuấn trong việc bảo lưu, giữ
gìn những nét đẹp của folklore dân tộc.
III. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Lịch sử nghiên cứu ảnh hưởng Folklore trong văn học viết: Folklore trong
văn học viết đã được khá nhiều nhà nghiên cứu trong nước chú ý đến. Tuy chưa có
một công trình nào thật sự vĩ mô, nhưng cũng đã có một số lượng khá phong phú
2
những bài nghiên cứu trên các tạp chí có đề cập đến folklore trong văn học viết, tiêu
biểu có thể kể ra như Lê Kinh Khiêm với bài viết nghiên cứu về quan hệ giữa văn
học dân gian và văn hóa, in trên tạp chí Văn học, số 1, năm 1980; Chu Xuân Diên
với bài viết Nhà văn và sáng tác dân gian trên Tạp chí Văn học, số 1, năm 1981; Bùi
Nguyên với bài viết Âm vang tục ngữ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi trên
Tạp chí văn học; hay Đặng Thanh Lê với bài viết Văn hóa dân tộc qua bài thơ Mời
Trầu – Hồ Xuân Hương; Nguyễn Thế Việt với bài viết Từ kiệt tác Truyện Kiều nghĩ
về quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết… Và một số sách như cuốn tự sự
dân gian trong văn xuôi Việt Nam hiện đại của Vũ Quang Trọng, Nxb Khoa học xã
hội, 1990; Cuốn M.Gorki và văn nghệ dân gian của Hồ Sĩ Vịnh, Nxb Văn hóa
Thông tin… Nhìn chung, các bài nghiên cứu đều tập trung làm bật lên yếu tố
folklore trong các tác phẩm văn học viết, qua đó khẳng định sức sống bền bỉ, mãnh
liệt của folklore trong văn học thành văn.
Lịch sử nghiên cứu ảnh hưởng của Floklore Tày – Nùng trong thơ Dương
Thuấn: Dương Thuấn là một nhà thơ dân tộc Tày có dấu ấn riêng biệt trong văn học
các dân tộc thiểu số nói riêng và văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Cho đến
nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các thi phẩm của Dương Thuấn. Trong
đó có giá trị hơn cả là các bài viết trong cuốn “ Dương Thuấn - Hành trình từ Bản
Hon” do thạc sĩ Đỗ Thị Thu Huyền tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Hội Nhà văn ấn
hành năm 2009. Cuốn sách này đã tập hợp gần 50 bài viết của các nhà phê bình. Cái
tên Dương Thuấn còn được nhắc đến nhiều trong những công trình nghiên cứu về
văn học các dân tộc thiểu số và là đối tượng trong một số bài viết của nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở việc nhìn nhận, đánh giá, đề
cập đến một vài tác phẩm, vài khía cạnh cụ thể chứ chưa có một công trình nào đi
sâu khảo sát, nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về những ảnh hưởng
của folklore Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn.
IV. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là toàn bộ những sáng tác của
Dương Thuấn, nhưng do khuôn khổ hạn chế của bài viết, chúng tôi tập trung đi sâu
vào khai thác những tác phẩm mang đậm dấu ấn folklore Tày – Nùng trong thơ
3
Dương Thuấn.
V. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tài liệu: kế thừa những công trình nghiên cứu, những
bài viết, luận văn, các bài báo, tạp chí và các tài liệu online, chúng tôi tiến hành tra
cứu và phân tích tài liệu, sàng lọc những vấn đề có liên quan và những tài liệu này
cũng chính là tiền đề khoa học gợi mở, tạo điều kiện cho chúng tôi thực hiện
nghiên cứu đề tài này.
Phương pháp liên ngành: Nghiên cứu văn học không thể nào tách rời với
nghiên cứu văn hóa, đặc biệt là dấu ấn văn học dân gian lại mang dấu ấn văn hóa
dân gian sâu sắc. Vì vậy, bài viết soi chiếu các vấn đề văn học dưới góc nhìn văn
hóa dân tộc để thấy được đầy đủ toàn diện các khía cạnh của vấn đề ở các phương
diện khác nhau.
Phương pháp thi pháp học: Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu nhằm
khám phá những nét đẹp về hình tượng nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, không gian
nghệ thuật cũng như làm bật lên những ảnh hưởng của thi pháp văn học dân gian
truyền thống dân tộc Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp khác như phân tích, so
sánh, thống kê, tổng hợp… với các mức độ khác nhau trong bài viết này.
VI. Bố cục.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục tham khảo và phụ lục thì luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về dân tộc Tày –Nùng và Folklore Tày – Nùng.
Chương 2. Dấu ấn văn hóa dân gian Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn.
4
Chương 3. Dấu ấn ngữ văn dân tộc Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn.
PHẦN NỘI DUNG.
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY – NÙNG VÀ FOLKLORE
TÀY – NÙNG.
1.1. Tổng quan về tộc ngƣời Tày – Nùng ở Việt Nam.
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên – xã hội, cảnh quan thiên nhiên và
lịch sử tộc người.
1.1.1.1 Về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên – xã hội và cảnh quan thiên nhiên.
Người Tày – Nùng ở Việt Nam hiện có khoảng 2.333.926 người (theo số liệu
Tổng điều tra dân số năm 1999, trong đó người Tày chiếm 1.477.514 người, người
Nùng chiếm 867.412 người), là dân tộc thiểu số có số dân đông đảo nhất, cư trú rải
rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, nhưng tập trung nhiều ở khu vực miền núi phía
Bắc, đặc biệt là Đông Bắc, mật độ dày đặc nhất ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Lạng Sơn… Đây là nơi có địa hình dạng cánh cung với những dãy núi đá vôi
trung bình và thấp, đan xen vào đó là các thung lũng hẹp, khí hậu mát mẻ, có mùa
đông lạnh, sinh giới phong phú, đa dạng về chủng loại. Cảnh quan gắn liền với đồi
núi, cỏ cây, thiên nhiên còn nhiều nét hoang sơ dẫu nhiều nơi đã bị tàn phá, khai
thác phục vụ cho những mục đích khác nhau của con người.
Người Tày – Nùng tụ cư chủ yếu ở các thung lũng quanh chân núi - nơi đất
đai thổ nhưỡng tương đối màu mỡ, có nguồn nước dồi dào, khí hậu nóng ẩm thích
hợp cho trồng trọt và chăn nuôi, còn phía trên sườn núi hay đỉnh núi cao là nơi sinh
sống của đồng bào Dao, H’mông. Đặc trưng sinh thái tộc người này đã được hình
thành và ổn định từ rất lâu, trải qua nhiều thế hệ, tạo nên truyền thống ứng xử với
môi trường và những tri thức bản địa hết sức phong phú, đa dạng. Người Tày, Nùng
là các tộc người thung lũng, phân biệt với các tộc người sinh sống ở rẻo giữa và rẻo
cao. [41] .Sau 1975, một bộ phận đồng bào Tày, Nùng tới hơn mấy chục ngàn
người di cư vào phía Nam, trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên như Đắc Lắc, Lâm
Đồng, Đồng Nai, Gia Lai, Kon Tum… đây là sự kiện mang tính bước ngoặt trong
việc mở rộng địa bàn cư trú của người Tày, Nùng từ vùng thung lũng miền núi phía
5
Bắc đến miền sơn nguyên đất đỏ phía Nam.
Thiên nhiên núi rừng có nhiều ưu đãi, đem đến những tiềm năng kinh tế to
lớn về cả nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp nặng và tiểu thủ công nghiệp, trong
đó nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo và quan trọng nhất. Người Tày - Nùng đã biết
cách thích ứng, và phát triển trong điều kiện tự nhiên như vậy, tuy nhiên, do còn
nhiều hạn chế về phương pháp và trình độ nên chưa khai thác một cách triệt để và
có hiệu quả nhất những lợi thế ở địa bàn cư trú và đôi khi có những tác động tiêu
cực đến môi trường tự nhiên.
Bên cạnh những ưu đãi, thuận lợi thì thiên nhiên cũng là một thử thách với
đời sống của họ. Các thiên tai tự nhiên do hệ quả xấu của những hành động tàn phá
môi trường của con người như xói mòn đất đai, lũ lụt, hạn hán, sương giá, cùng với
địa hình không bằng phẳng nhiều dốc đứng làm hạn chế về giao thông… đã tạo ra
rất nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế của đồng bào Tày - Nùng.
1.1.1.2. Về nguồn gốc, lịch sử dân tộc Tày – Nùng.
Tày, Nùng là hai tộc người có nhiều nét tương đồng do có sự giao thoa, ảnh
hưởng văn hóa rất mạnh mẽ, sâu sắc lẫn nhau, đồng thời, lại có tác động lan tỏa
mạnh mẽ đến văn hóa của cộng đồng các dân tộc cùng cộng cư.
Trong suốt chiều dài lịch sử, hai tộc người Tày – Nùng chia sẻ với nhau địa
bàn sinh sống, họ sống đan cài xen lẫn nhau, có tác động qua lại lẫn nhau trong
nhiều mặt của đời sống lao động và đời sống văn hóa. Người Tày – Nùng tuy về
ngôn ngữ có đôi chút khác biệt, nhưng họ đều có thể dễ dàng nghe hiểu được nhau,
thậm chí, họ còn cùng nhau sáng tạo ra nhiều giá trị chung mang đậm bản sắc của
cả hai dân tộc.
Người Tày – Thái cổ có mặt ở vùng Đông Bắc Việt Nam từ rất sớm, có thể
từ cuối thiên niên kỉ I trước Công nguyên. Các truyền thuyết Pú Lương Quân, Cẩu
Chủa Cheng Vùa nói về sự có mặt của họ từ những thời kỳ xa xưa ở Việt Nam và
những công tích của họ trong xây dựng đất nước. Trải qua lịch sử hàng nghìn năm,
do chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác, họ đã dần dần bị phân hóa, trở thành
những bộ phận cư dân khác nhau. Trong cộng đồng người Tày hiện nay, còn bao
gồm cả một bộ phận người Việt từ vùng đồng bằng lên miền núi (quan lại triều đình
6
lên trấn ải biên cương, theo chế độ lưu quan…) qua nhiều thế hệ đã bị Tày hóa.
Người Tày cổ đã cùng với người Việt cổ dựng nên nhà nước Âu Lạc và theo truyền
thuyết của người Tày ở vùng Cao Bằng thì An Dương Vương Thục Phán chính là
người Tày cổ.
Trong cuốn Văn hóa dân gian Tày Nùng ở Việt Nam, nhóm các nhà nghiên
cứu do Hà Đình Thành chủ biên [41] có giải thích về nguồn gốc tên gọi dân tộc Tày
Nùng như sau: Tày là tên gọi có từ lâu đời, có nguồn gốc chung với tên gọi của
nhiều dân tộc thuộc nhóm Thái – Choang ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á như
Tai, Tay, Táy, Thai… đều có nghĩa chung là “người”. Người Tày ở Việt Nam còn
có tên gọi khác là Thổ, có nghĩa là người vốn ở đất này từ lâu, nên những người tới
sau gọi họ là Thổ (thổ trước), tuy nhiên, tộc danh này không chỉ có ở người Tày mà
còn là tên gọi của một số cư dân bản địa khác.
Tộc danh Nùng có thể có nguồn gốc từ tên dòng họ Nùng, một dòng họ có thể
lực ở Tả Giang và Hữu Giang tỉnh Quảng Tây thời nhà Đường. Nếu ở người Tày
hầu như không có sự phân biệt rõ rệt giữa các nhóm địa phương thì ở người Nùng
điều này là nét nổi bật. Hiện tại nếu căn cứ vào tên gọi của các nhóm người Nùng
có thể phân chia thành 2 loại: a/ Loại tên gọi căn cứ vào đặc trưng trang phục
thường do những người láng giềng của họ gọi, như Nùng Khen Lài (người Nùng
mặc áo có các khoanh vải màu), Nùng Hu Lài (người Nùng đội khăn chàm có đốm
trắng), Nùng Slử Tỉn (người Nùng mặc áo ngắn chấm mông)… b/ Loại tên gọi theo
địa danh, nơi họ sinh sống trước khi di cư tới Việt Nam, như: Nùng An (từ châu An
Kết), Nùng Inh (từ châu Long Anh), Nùng Phàn Slình (từ châu Vạn Thành), Nùng
Cháo (từ Long Châu), Nùng Quý Rịn (từ Quy Thuận), Nùng Lòi (từ châu Hạ Lôi)…
Ngoài ra còn có các tên gọi khác mà giới khoa học chưa xác định được nguồn gốc,
như: Nùng Dín, Nùng Xuồng, Nùng Tùng Xin, Nùng Viền, Nùng Chủ…
Rõ ràng, các tên gọi kể trên hình thành trong quá trình phân hóa cộng đồng
người Nùng (nằm trong khối Nam Choang), khi họ di cư theo những con đường
khác nhau, vào các thời điểm khác nhau tới Việt Nam. Khi tới Việt Nam, họ lại sống
tách biệt, xen cài với các tộc bản địa, nên được các cư dân bản địa gọi với các tên
7
gọi khác nhau.(…)
Mặc dù có cùng nguồn gốc từ xa xưa, nhưng trong quá trình phát triển đã
tách thành hai tộc người riêng. Tuy nhiên, ít nhất từ hai trăm năm này, hai tộc
người này đã cùng sống chung xen cài ở vùng Việt Bắc, nên đã và đang diễn ra quá
trình tiếp xúc, giao lưu ảnh hưởng qua lại. Không kể những bộ phận người Nùng
hóa Tày hay ngược lại thì giữa Tày và Nùng cũng đang hình thành những yếu tố
văn hóa chung Tày – Nùng, thể hiện trong ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng, văn
học nghệ thuật… khiến nhiều nhà nghiên cứu ngày nay lúng túng khi phân biệt văn
hóa Tày hay Nùng.
Người Nùng di cư sang Việt Nam trong khoảng vài trăm năm trở lại đây,
trong quá trình sinh sống đan xen với người Tày, đã bị người Tày đồng hóa bởi
người Tày có một nền văn hóa bản địa rất mạnh, họ thậm chí còn đồng hóa những
quan lại người Kinh lên vùng Cao Bằng theo triều nhà Mạc, nên mới có câu “Kinh
già hóa thổ” là như vậy. Như vậy, từ gốc chung là Thái – Choang, cộng đồng Tày –
Nùng đã diễn ra quá trình phân ly cách đây 2, 3 ngàn năm, nay lại hội nhập trở lại.
Hôn nhân hỗn tạp giữa người Tày và người Nùng đã trở nên phổ biến, là một nhân
tố thúc đẩy quá trình hội nhập của cộng đồng người Tày, Nùng với nhau.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập, đồng bào
Tày - Nùng đã có những đóng góp hết sức to lớn trong việc bảo toàn sự toàn vẹn
lãnh thổ vùng biên cương phía Bắc của Tổ quốc, chống lại sự bành trướng của các
thế lực phong kiến ngoại bang.
Từ khi Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời (1930), các cơ sở Cách mạng lần
lượt được xây dựng tại các tỉnh Việt Bắc. Nhiều người con ưu tú của dân tộc Tày,
Nùng đã sớm giác ngộ cách mạng, trở thành những Đảng viên Cộng sản lớp đầu
tiên, tiêu biểu như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Dong… Đến khi Bác Hồ về nước
(1941), vùng Việt Bắc trở thành quê hương Cách Mạng, là căn cứ địa vững chắc
cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 lịch sử, dựng nên nhà nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Việt Bắc lại được
8
vinh dự chọn làm thủ đô gió ngàn, là nơi đóng trụ sở của các cơ quan trung ương và
cũng là nơi làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều vị lãnh đạo cao cấp khác
của Đảng và Nhà nước.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nhiều con em người Tày Nùng đã gia
nhập các lực lượng vũ trang, trực tiếp cầm súng chiến đấu hoặc tham gia thanh niên
xung phong, làm nhiệm vụ mở đường, vận tải vũ khí, khí tài, lương thực, thực phẩm
phục vụ cho các chiến dịch. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt là trong
thời kì đổi mới, người Tày – Nùng lại ra sức phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội,
góp phần to lớn vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, làm
giàu cho bản thân mình và quê hương, đất nước.
1.1.2. Nghệ thuật tạo hình dân gian.
1.1.2.1. Ẩm thực
Cơm là thực phẩm chính trong bữa cơm hàng ngày của người Tày – Nùng.
Cây ngô đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt của đồng bào Tày
Nùng. Ngô là thức ăn cho gia cầm, thân ngô, là ngô là thức ăn cho gia súc, những
ngày giáp hạt, ngô trở thành nguồn lương thực quan trọng, đồng bào Tày Nùng xay
nhỏ ngô để nấu cháo (cháo bẹ), hoặc giã nhỏ để nấu độn với cơm, cháo…
Người Tày Nùng có vườn để trồng rau và cây ăn quả. Các loại rau chính
thường là khoai lang, khoai sọ, các loại rau, đậu…
Gia súc và gia cầm chủ yếu được nuôi để lấy phân bón, sức kéo, thịt…
Một số nơi phát triển nghề nuôi ong lấy mật để ăn hoặc làm thuốc.
Nhiều nơi vùng thấp còn có ao cá hoặc thả cá ruộng, vừa làm sạch ruộng,
vừa cải thiện bữa ăn.
Xôi là một nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực của người Tày Nùng. Xôi ngũ
sắc hay còn gọi là xôi đăm đeng (xôi đỏ đen), được làm từ gạo nếp và các loại lá
rừng. Xôi thường có 5 màu cơ bản: đỏ, đen, trắng, vàng, tím, ngoài ra còn có màu
xanh cốm, màu xanh cổ vịt…. Tùy vào các loại lá và cách chế biến khác nhau mà
khi ngâm với gạo sẽ có những màu sắc khác nhau… Những lá cây thường được
dùng để nhuộm xôi gồm là cẩm (màu tím và màu đỏ, màu xanh), là cây sâu sâu
(màu đen), hoa Bjóc phón… (màu vàng…) tất cả đều có nguồn gốc từ lá cây rừng
9
vừa có màu đẹp tự nhiên, vừa có tác dụng làm thuốc chữa bệnh. Đồng bào Tày
Nùng quan niệm ăn xôi ngũ sắc vào những dịp lễ Tết sẽ đem lại nhiều may mắn.
Ngoài xôi ngũ sắc, người Tày Nùng còn có xôi trám, xôi trứng kiến, xôi rau ngót,
xôi bảy màu…
Người Tày Nùng có truyền thống làm các loại bánh từ bột gạo nếp. Đặc sắc
như bánh dày, bánh gai, bánh dợm… Và các loại bánh khác như coóc mò, bánh sắn,
bánh mật, bánh củ chuối, bánh trứng kiến và cơm lam…
Người Tày Nùng từ rất xa xưa đã biết lấy măng rừng, ớt, tỏi, quả mác mật
đem chế biến thành măng ớt dùng làm gia vị trong các bữa ăn. Măng ớt hiện nay đã
trở thành đặc sản và được giới thiệu rộng rãi ra nhiều vùng lân cận.
Sinh hoạt gắn với thiên nhiên nên người Tày Nùng biết cách nhận biết các
loại rau rừng. Các loại rau tiêu biểu như bò khai, khỉ cáy, thau ca, rau ngót rừng…
vừa có giá trị về ẩm thực, vừa là thuốc chữa bệnh.
Trong lễ hội của người Tày Nùng luôn có trứng màu (trứng gà nhuộm xanh
đỏ), khẩu sli, một số vùng còn có bánh khảo, bành chè lam…
Người Tày Nùng nói chung, về cách chế biến thức ăn, thường chuộng xào
nấu, chiên nướng, nhiều dầu mỡ, bởi lẽ địa hình núi cao, mùa đông lạnh, cơ thể cần
dung nạp nhiều chất béo để có đủ năng lượng chống chọi với cái lạnh giá mùa đông.
Người Tày Nùng trong quá trình chế biến thức, cũng ít quan trọng về bày vẽ
trang trí, hình thức, màu sắc mà chú trọng nhiều đến mùi vị món ăn. Các món ăn
cũng thường cầu kì về gia vị, sử dụng tương đối nhiều các gia vị của núi rừng như
bột khinh phja (gừng núi), bột hạt mác mật, hung lìu…
1.1.2.2. Trang phục
Theo phó giáo sư – tiến sĩ Lê Bá Nam trong lời giới thiệu cuốn Văn hóa các
dân tộc Việt Nam của thạc sĩ Đỗ Thị Hòa (NXB Văn hóa dân tộc -2004) thì “Trang
phục là một trong những thành tố quan trọng của văn hóa tộc người và là một trong
những sáng tạo lớn của nhân loại. Chính vì thế có thể coi trang phục là bức thông
điệp của các cộng đồng dân cư về quá trình lịch sử và giao lưu văn hóa. Thông qua
trang phục, chúng ta có thể giải mã về quá trình tộc người, các tri thức bản địa,
quan niệm của tộc người về thẩm mĩ, về nhân sinh quan và thế giới quan trong môi
10
trường tự nhiên và xã hội.”[13, tr.5]
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, sắc thái văn hóa Việt Nam vừa thống nhất
vừa đa dạng. Trang phục các tộc người là một hiện tượng văn hóa đặc sắc, nó
không chỉ là thành tố quan trọng góp phần tạo nên những giá trị văn hóa truyền
thống của các tộc người mà nó còn tạo nên sắc thái văn hóa riêng độc đáo cho từng
dân tộc, từng nhóm ngôn ngữ và từng vùng văn hóa.”[13, tr.7]
Người Tày Nùng sinh sống và canh tác hòa hợp với thiên nhiên, trang phục
của họ cũng phù hợp với điều kiện thiên nhiên và canh tác ấy. Trang phục của
người Tày Nùng ăn mặc chân phương, giản dị, theo phương châm “ăn chắc mặc
bền”, quần áo được cắt may đơn giản, thường là tối màu, được làm bằng sợi tơ tằm
hoặc vải bông nhuộm chàm do họ tự trồng bông, kéo sợi, dệt và nhuộm vải. Áo
chàm có tác dụng chống nắng vào mùa hè, giữ ấm vào mùa đông, màu áo làm cho
con người trở nên hài hòa hơn với thiên nhiên núi rừng. Trang phục của họ có sự
phân biệt theo giới tính và lứa tuổi.
Trang phục nam giới người Tày Nùng cũng như nhiều dân tộc miền núi
khác, gồm áo cánh ngắn, áo dài, quần, khăn và giầy. Bộ nữ phục Tày Nùng thì
tương đối phức tạp hơn, có nhiều bộ phận và chi tiết khác nhau, nhưng tựu chung
lại thì gồm có: áo cánh ngắn, áo dài, váy, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, tạp dề, xà
cạp, giày vải và các đồ trang sức khác. Quần áo trẻ em Tày Nùng về cơ bản cũng
giống như quần áo của người lớn nhưng được giản tiện hơn, thường được cắt may
lại từ quần áo cũ của người lớn.
Đồ trang sức: Đồ trang sức của người Tày và Nùng thường được làm từ bạc
trắng. Nam giới thường đeo vòng tay, vòng cổ, nhẫn bạc, phụ nữ cũng vậy nhưng có
thêm khuyên tai và bộ xà tích bằng bạc ở ngang lưng. Dây xà tích là thứ trang sức
không thể thiếu được khi mặc áo dài truyền thống, một đầu dắt vào thắt lưng, đầu
kia buông thõng tự nhiên, khi người phụ nữ di chuyển, bộ xà tích ánh lên màu trắng
bạc, uyển chuyển nhịp nhàng theo từng cử động của người phụ nữ, tô điểm thêm
cho nét duyên dáng của họ.
Người Tày – Nùng quan niệm, bạc trắng không chỉ làm tôn thêm vẻ đẹp, phô
trương sự giàu có, đầy đủ, sung túc mà còn có tác dụng bảo vệ sức khỏe, giúp họ
11
tránh được gió máy, thậm chí ma tà… Người Tày Nùng cho rằng người khỏe đeo
bạc thì bạc sẽ giữ được màu trắng sáng, còn nếu cơ thể yếu hay khi bị ốm, bạc sẽ bị
sạm, xỉn màu, vì thế, mỗi khi bị ốm đau, trúng gió, đồng bào Tày Nùng vẫn thường
lấy bạc trắng để đánh gió giải cảm.
Hoa văn, họa tiết trang trí trên sản phẩm may mặc: Trên các sản phẩm
may mặc của người Tày Nùng, tuy không diêm dúa, cầu kì với các họa tiết thêu
thùa bắt mắt như trang phục của người Dao, người Mông… nhưng các hoa văn họa
tiết trang trí của người Tày Nùng lại rất nhã nhặn, tinh xảo, và thanh thoát. Có thể
phân thành các dạng cơ bản sau: Một là, hoa văn hoa, lá, quả; Hai là, hoa văn hình
động vật; Ba là, hoa văn hình người; Bốn là, hoa văn hình học.
Thật đáng tiếc là ngày nay, cùng với xu thế hội nhập và hiện đại hóa, sự phát
triển của giao thông và các phương tiện truyền thông đại chúng đã thúc đẩy sự giao
lưu kinh tế, văn hóa giũa các vùng miền, các dân tộc, kéo theo những hệ quả không
mong muốn là những nét văn hóa truyền thống của dân tộc đang dần đứng trước
nguy cơ bị mai một. Những bộ quần áo truyền thống của người Tày Nùng hiện tại
chỉ còn có thể nhìn thấy ở những nơi vùng sâu, vùng xa, và chỉ còn những người lớn
tuổi mặc vào những ngày lễ tết hay cưới xin, còn đại đa số nam nữ thanh thiếu niên
người Tày, Nùng đã bị ảnh hưởng và tiếp thu sâu sắc lối ăn mặc hiện đại của người
Kinh.
1.1.2.3. Kiến trúc nhà ở.
Nhà sàn (rườn chạn), là kiểu nhà truyền thống của người Tày Nùng. Nhà sàn
của người Tày và người Nùng nhìn chung giống nhau, chỉ khác ở một số tiểu tiết.
Người Tày Nùng có câu tục ngữ “Nhìn đàn ông thì nhìn ngôi nhà, nhìn đàn bà thì
nhìn bếp lửa” (Ngòi vỏ chài lẻ ngòi ăn rườn, ngòi mẻ nhình lẻ ngòi kiềng phầy), thể
hiện tầm quan trọng của ngôi nhà mà đại gia đình cùng chung sống.
Nếu có dịp đến với nơi Việt Bắc của Tổ quốc, có lẽ hình ảnh mái nhà sàn
bình yên nép mình bên những chân đồi, chân núi sẽ để lại cho chúng ta những ấn
tượng đẹp. Những ngôi nhà lẻ hay những chòm bản lấp ló đâu đó dưới những tán
cây, làn khói chiều mềm mại len qua những kẽ hở của mái ngói âm dương vờn bay
trong tiếng mõ trâu về bản, tiếng trẻ con nô đùa, tiếng gà giục nhau vào ổ gợi nhắc
12
nét gì đó hoang sơ và thanh thản, gợi nhắc về một cuộc sống giản dị và ấm áp tình
người… Mỗi ngôi nhà nằm trong một khuôn viên riêng với hàng rào bao bọc xung
quanh. Bên cạnh nhà chính còn có một vài công trình kiến trúc khác như nhà phụ,
sàn phơi, chuồng lợn, chuồng trâu, chuồng gà, am thờ Thổ công… Nhà gồm 3 loại
hình chính là nhà sàn (3 gian, diện tích sàn khoảng 100 – 120m2, là kiểu truyền
thống, đã có từ rất lâu đời), nhà đất (mới xuất hiện trong vài thập kỉ gần đây do chịu
ảnh hưởng của người Việt) và nhà phòng thủ. Tuy nhiên, mỗi vùng, mỗi địa
phương, kiểu dáng ngôi nhà, nguyên vật liệu làm nhà có khác nhau…
Nhà sàn là kiểu kiến trúc nhà ở đặc biệt, phù hợp với điều kiện thiên nhiên
núi rừng. Nhà sàn được làm bằng gỗ, xung quanh ghép ván, dưới các cột gỗ chân
nhà sàn thường kê bằng cối đá, rất chắc chắn. Nhà có gầm sàn cao vừa khô thoáng,
vừa để tránh thú dữ, trước đây gầm sàn còn là nơi nuôi nhốt gia súc, gia cầm. Nhà
có gác để tích trữ lương thực và được coi là kho cất đồ. Nhà sàn của người Tày
Nùng thường có sàn phơi lộ thiên để phơi phóng quần áo, lúa, ngô, khoai, sắn và là
nơi nghỉ ngơi, hóng mát, nơi cán bông, kéo sợi, may vá... Sàn phơi thường được
ghép từ thân những cây vầu già, bốn góc có trụ chống chắc chắn, cao bằng hoặc
thấp hơn một chút so với sàn nhà.
Nhà sàn bao giờ cũng có hai cầu thang lên nhà, cầu thang dành riêng cho
nam giới và khách đặt ở đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía, cầu thang dành cho
nữ giới đặt ở hông nhà, thường thông vào bếp. Dưới chân cầu thang nhà sàn của
người Tày Nùng bao giờ cũng có các ống nước hoặc bắc các máng nước để khách
rửa chân trước khi lên nhà.
Nhà sàn là nơi diễn ra mọi sinh hoạt hàng ngày của người Tày Nùng. Trong
nhà sàn, nơi tôn nghiêm nhất là nơi đối diện cửa chính – nơi đặt bàn thờ thờ cúng tổ
tiên. Bếp cũng là nơi quan trọng trong nhà sàn, đó là nơi chế biến thức ăn, nơi cả
nhà quây quần đoàn tụ sưởi ấm. Người Tày – Nùng kiêng gõ bát đĩa xoong chảo,
kiêng nhổ bọt vào tro bếp vì tin rằng có vua bếp trú ngụ và trông nom, chứng kiến
mọi việc làm trong nhà. Vì thế nhiều nơi còn đặt bàn thờ vua bếp.
1.1.2.4. Các nghề thủ công truyền thống
Nghề mộc: Cuộc sống của đồng bào Tày – Nùng gắn liền với núi rừng cây
13
cỏ, các vật dụng sinh hoạt hằng ngày của họ vì thế mà cũng đều được làm từ gỗ.
Không giống như miền xuôi, hầu như đồng bào Tày – Nùng không có người nào
chuyên làm gỗ mộc, mà phàm là đàn ông của núi rừng, ai cũng đều giỏi đi rừng,
đốn gỗ làm đồ mộc, các đồ dùng trong nhà hầu hết là do họ tự chế tác ra. Từ cây gỗ
tươi hoặc ngâm nhiều ngày dưới ao, người Tày Nùng chế ra các công cụ phục vụ
lao động sản xuất như cái cày, bừa, máng gỗ, cối nước giã gạo (chộc nặm), cối xay
thóc, dụng cụ ép mía, cán bông, bật bông, guồng sợi, khung cửi, đóng xe trâu, xe
ngựa… các công cụ phục vụ sinh hoạt như chõ đồ xôi, khuôn ép bún, nồi nấu rượu,
chạn bát, chậu gỗ, máng gỗ, bàn ghế giường tủ, rương hòm… Nhìn chung các sản
phẩm mộc của người Tày Nùng đều giản dị chân phương, không cầu kì trang trí, chỉ
thiên về chắc chắn, tiện dụng.
Nghề đan lát: Đan lát là một nghề phụ của đồng bào Tày Nùng gắn với cuộc
sống sinh hoạt tự cấp tự túc, trong những lúc rảnh rỗi nông nhàn họ thường vót
mây, tre, nứa, đan lát thành các vật dụng phục vụ cho lao sộng sản xuất và sinh hoạt
của gia đình, cũng có khi làm được nhiều, người ta có thể đem ra chợ bán hoặc trao
đổi. Các sản phẩm đan lát chủ yếu bao gồm các đồ dùng để đựng và mang vác như
bồ thóc, sọt, giỏ, làn, thạ, dậu… các dụng cụ để phơi phóng như chiếu nong, chiếu
cót, giần, sàng, mẹt… đan lát hàng rào, phên liếp, đan gianh lợp mái nhà. Các sản
phẩm đan lát của người Tày Nùng rất bền, chắc, tinh tế, thể hiện sự khéo léo, tỉ mỉ
của đồng bào trong thủ công.
Nghề rèn: Các làng nghề rèn của đồng bào Tày Nùng tuy không nhiều
nhưng khá nổi tiếng, nhất là làng rèn Phúc Sen của người Nùng An ở Cao Bằng.
Các sản phẩm rèn khá phong phú, có thể cung ứng đầy đủ nhu cầu về dụng cụ sản
xuất và đồ gia dụng cho các gia đình. Các sản phẩm rèn của người Tày Nùng đạt
đến sự đồng bộ về sản phẩm của trọng lượng cùng chủng loại và kiểu dáng. Ngoài
ra các đường nét trên sản phẩm được tỉa, chạm, đánh bóng khá cẩn thận. Các sản
phẩm rèn là những sản phẩm cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt thường ngày như: dao,
liềm, kéo cắt vải.
Nghề đục đá: Các sản phẩm chính của nghề đục đá của người Tày Nùng
14
gồm các dụng cụ gia dụng như cối xay, cối giã, trục lăn, đá tảng kê chân cột nhà và
đá xếp cầu thang. Ngoài ra ở một sô vùng có nhiều núi đá vôi, đồng bào còn đục đá
để rào vườn, rào nương và rào làng.
Nghề làm ngói: Cũng là một nghề thủ công truyền thống thể hiện tính tự
cung tự cấp trong sinh hoạt của người Tày Nùng. Nguyên liệu chính để làm ngói là
đất sét mịn và củi hoặc than để đun ngói. Ở cộng đồng người Tày Nùng không hình
thành lớp người chuyên làm nghề gạch ngói như ở miền xuôi, thường thì người ta tự
sản tự tiêu, chỉ dựng lò làm ngói khi nào cần có ngói để lợp nhà. Ngói của người
Nùng An thường to bản, dày đều và được nung chín kỹ nên ngói lợp rất dôi, bền
lâu, khi vận chuyển ít bị bể vỡ.
Nhìn chung, nghệ thuật tạo hình dân gian Tày Nùng khá giản dị, chân
phương, mộc mạc, hài hòa với cảnh quan môi trường tự nhiên, thể hiện sự thích
nghi và hòa nhập của con người đối với môi trường sinh hoạt. Nghệ thuật tạo hình
dân gian Tày Nùng có tính hữu dụng cao thể hiện nhận thức thẩm mỹ hài hòa, khả
năng thích nghi với môi trường linh hoạt, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa tự nhiên
với con người. Bên cạnh những nét tương đồng, nghệ thuật tạo hình dân gian Tày
Nùng cũng có những nét dị biệt, điều này thể hiện đặc trưng riêng của dân tộc trong
hệ thống tạo hình nói chung.
Nghệ thuật tạo hình dân gian Tày Nùng cũng có sự tiếp thu và ảnh hưởng
của các yếu tố bên ngoài, tiếp thu khoa học kỹ thuật để có những thay đổi phù hợp
với xu thế phát triển chung của thời đại, nhưng vẫn tiếp tục bảo lưu những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình, đưa các sản phẩm đặc trưng của dân tộc trở
thành hàng hóa được ưa chuộng trên thị trường như sản phẩm rèn của người Nùng
An, thổ cẩm của người Tày…
1.1.3. Nghệ thuật biểu diễn dân gian.
Biểu diễn hay còn gọi là là hình thức diễn xướng dân gian, là môi trường tạo
dựng và tồn tại của văn hoá dân gian. Diễn xướng là "có diễn (có hành động, có sự
việc) và có xướng (nói năng ca hát) nhưng thông thường người ta vẫn hiểu hai yếu
tố đó gắn bó với nhau. Diễn tuy không có lời nhưng lời câu vẫn là một cách thông
báo. Xướng tuy không có hành động nhưng vẫn gây cảm giác về một hành động"
15
[25,tr.13]. Các hình thức biểu diễn dân gian của dân tộc Tày – Nùng gồm có:
1.1.3.1. Âm nhạc và ca hát dân gian.
Âm nhạc chính là cánh cửa bước và thế giới tinh thần của tộc người. Cũng
như các dân tộc khác, âm nhạc dân gian Tày Nùng là những vốn quý mang bản sắc
riêng độc đáo, góp phần làm phong phú, giàu đẹp thêm chi kho tàng âm nhạc dân
gian Việt Nam.
Người Tày Nùng biết thổi kèn, sáo, đánh trống, la thanh, não bạt, kéo nhị,
gẩy đàn, nhất là đàn tính – một loại đàn có tính chất dân tộc độc đáo
Người Tày Nùng có nhiều bài hát ru con, ru em với mục đích dỗ cho trẻ con
ngủ ngoan, không khóc quấy. Nội dung các bài hát ru gắn liền với những hoạt động
lao động và cuộc sống sinh hoạt thường ngày của đồng bào như lên nương, ra
ruộng, lấy củi, chăn trâu, ra suối bắt cá…
Trẻ em Tày Nùng cũng có những bài hát đồng dao gắn liền với các trò chơi
của riêng mình. Các bài đồng dao này thường hồn nhiên, ngộ nghĩnh, phản ánh thế
giới quan của trẻ nhỏ hết sức phong phú, mộc mạc, đáng yêu. Các em có những bài
đồng dao bắt chuồn chuồn, gọi kiến, gọi gió, gọi mưa, gọi trăng, gọi sao, gọi đom
đóm bay ra khỏi bụi cây… Các bài đồng dao của trẻ em Tày Nùng thường được hát
lên với những giai điệu đơn giản, khác với đồng dao của trẻ em người Kinh chỉ bao
gồm lời thơ và trò chơi.
Trong thể loại dân ca giao duyên, các làn điệu Sli, Hà Lều (Nùng), Lượn,
Nàng ới (Tày) là phong phú hơn cả, phổ biến khắp các địa phương, hấp dẫn đối với
tất cả mọi người thuộc các giới, các lứa tuổi khác nhau.
Lượn là hình thức hát giao duyên trực tiếp bằng cách nam nữ đối đáp (lượn
cuộc). Người Tày Nùng, vì thế, gọi là Hắt lượn (làm lượn), nghĩa là trong quá trình
đối đáp, nam nữ không chỉ đơn giản là hát một bài mà còn là chủ thể sáng tạo, phải
ghi nhớ nhiều bài lượn và vận dụng chúng thật linh hoạt, phù hợp trong cuộc giao
duyên. Lượn giữa các vùng của người Tày là không giống nhau. Xét theo thể thơ
dùng làm ca từ người ta chia Lượn ra làm ba loại: Lượn Cọi (thể thơ thất ngôn),
Lượn Khắp (thể thơ tự do), Lượn Sương (thể thơ tứ tuyệt), trong đó Lượn Cọi là
16
phổ biến hơn cả.
Ngoài ra còn phải kể đến phong slư. Có thể ví như các điệu hát ngâm của
người Việt. Được gọi là phong slư vì đó thường là những bài thơ tình được viết và
gửi cho nhau giữa thanh niên nam nữ. Lối hát thường chậm rãi, dàn trải theo kiểu
ngâm vịnh. Phong Slư là một làn điệu hát thơ riêng biệt, có kết cấu nhất định bằng
thể thơ thất ngôn gieo vần lưng triệt để với phong cách ngâm vịnh riêng biệt độc
đáo. Nam nữ thanh niên Tày - Nùng trước kia rất ít người biết chữ, nên trai gái
muốn viết thư tỏ tình với nhau thì phải thông qua một người trung gian chuyên viết
thư gọi là slấy cá. Bởi thế, các lá thư tình này thường được đem ra đọc chung và
dùng làn điệu phong slư để ngâm hát theo nhịp thơ cho mọi người cùng nghe.
Ngoài ra còn có các điệu then, những bài văn than (những bài con ca), ca
cúng trong đám ma, những bài ca trong đám cưới (gọi là cò lẩu).
Thiên nhiên rừng núi Việt Bắc hùng vĩ, hoang sơ, đồng bào Tày Nùng sống
chan hòa, bình dị, những điệu Sli, điệu Lượn vừa là bầu bạn, vừa gợi nhắc một cảm
giác tha thiết với cuộc sống và quê hương. Sli lượn là tài sản văn hóa tinh thần quý
báu của người Tày Nùng, nó là nghệ thuật diễn xướng dân gian có tính nghệ thuật
cao.
Nói đến âm nhạc dân gian dân tộc Tày, không thể không nhắc đên cây đàn
tính. Nếu như cây đàn bầu là biểu trưng cho hồn dân tộc Việt thì cây đàn tính chính
là lời của núi rừng chim muôn cây cỏ, là nỗi lòng ghét thương, là tâm sự của đồng
bào Tày – Nùng đời đời kiếp kiếp.
Tiếng đàn tính không thể thiếu trong các dịp hội hè, lễ tết, trai gái giao
duyên. Người ta còn dùng tiếng đàn tính vỗ về, xoa dịu một ngày lao động vất vả,
tiếng đàn tính giúp trút bỏ những mệt mỏi, muộn phiền lo âu, và là nơi giãi bày gửi
gắm tâm tình. Qua thời gian, dọc theo chiều dài lịch sử và bề sâu văn hóa, nó trở
thành tiếng lòng, tiếng quê hương, trở thành thứ âm thanh thấm thía hồn dân tộc, mà
những người con xa xứ khắc khoải nhớ về.
Ngày nay, mặc dù các phương tiện truyền thông đại chúng đã phát triển
nhưng cây đàn tính dân tộc với sức sống bền lâu vẫn là một món ăn tinh thần không
thể thiếu của đồng bào Tày – Nùng. Và trước cơn lốc dữ dội của thời đại mới - thời
17
đại kinh tế thị trường, thì cây đàn tính vẫn được các nghệ nhân dân tộc giữ gìn và
bảo tồn, truyền lại niềm đam mê và vốn quý của dân tộc cho các thế hệ đi sau tiếp
thu và phát triển.
1.1.3.2. Múa dân gian.
Tày và Nùng là hai tộc người có tính cộng đồng cao, vì vậy các sinh hoạt văn
hóa tập thể rất phổ biến, đó là dịp để đồng bào sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật.
Trong những ngày lễ tết, hội hè hàng năm, người Tày Nùng thường múa các điệu
múa dân gian đặc sắc như múa chầu, múa quạt, múa giã cốm, múa tung còn, múa
hạc, múa xòe chiêng, múa lân, múa rồng, múa võ… Đây là những điệu múa truyền
thống chứa đựng những cảm xúc thẩm mỹ và cấu trúc nghệ thuật của đồng bào Tày
Nùng, đồng thời phản ảnh chân thực sâu sắc những khía cạnh sinh hoạt tinh thần
trong đời sống lao động và chiến đấu của đồng bào. Chúng hình thành và phát triển
trong môi trường tự nhiên, văn hóa, kinh tế - xã hội của cộng đồng người Tày Nùng
và rất được nhân dân yêu thích.
1.1.3.3. Sân khấu và trò diễn dân gian.
Trong kho tàng diễn xướng dân gian Tày Nùng, chúng ta dễ dàng chọn lựa
được đầy đủ các yếu tố cơ bản của nghệ thuật sân khấu đích thực như diễn viên và
nghệ thuật biểu diễn, nhân vật và hành động sân khấu, người xe và sự thưởng thức.
Các yếu tố này bộc lộ không đồng đều và tập trung, mà rải rác nơi nhiều nơi ít, nơi
có nơi không. Đáng chú ý hơn cả là các diễn xướng lớn, các lễ hội mang tính chất
tiền sân khấu hay có thể gọi là nghệ thuật sân khấu dân gian. [41]
Nếu như người Kinh có múa rối nước thì người Tày Nùng lại có múa rối cạn
không kém phần đặc sắc. Trong một số lễ hội, trò múa rối cạn thu hút được sự chú ý
và yêu thích của đông đảo khán giả, bất kể người lớn hay trẻ em. Các con rối được
làm từ nguyên liệu chủ yếu là gỗ và giấy, được các nghệ nhân không chuyên tái
hiện lại những tích truyện cổ, thổi vào những con rối vô tri một linh hồn sinh động,
với những hành trình hấp dẫn.
Then là một diễn xưỡng tín ngưỡng phổ cập của đồng bào Tày Nùng, thể
hiện bài bản, quy mô bao gồm ca hát nhảy múa và các động tác cách điệu do đội
ngũ các ông bà Then đảm nhiệm trong các dịp cụ thể như lễ Kỳ yên, Cấp sắc, Cầu
18
mùa, Chữa bệnh… Trong đó tiêu biểu nhất là đại lễ Cấp sắc cho Then, phải trình
bày một bản trường ca khoảng vài nghìn câu văn vần mô tả hành trình của đoàn
binh mã Then từ trần gian lên thiên giới thỉnh cầu Ngọc hoàng phong chức cấp sắc
cho một thầy Then. Cuộc hành quân này được chia thành nhiều mốc, chặng với nội
dung và tình tiết khác nhau do thầy Then có cấp sắc cao nhất chủ trì nghi lễ, kéo dài
trong suốt ba ngày đêm. Nội dung của trò diễn này nói lên công việc mang lễ vật lên
dâng cúng qua nhiều chặng đường gian nan, khổ ải, nguy hiểm mà đội quân Then
phải dùng nhiều mưu mẹo, pháp thuật mới vượt qua được. Hành trình bao gồm 25
chặng theo những trình tự nghiêm ngặt, trong đó có nhiều màn trò diễn có thể xếp
vào loại hình sân khấu dân gian đích thực như gọi ông chở đò, tìm thợ rèn thợ đúc ở
chợ Tam Quang, đánh thức ông khổng lồ, trò bắt phu gánh lễ đi tạ ơn các pháp sư…
Bên cạnh Then, Phướng cũng là một hình thức biểu diễn âm nhạc và hát
xướng. Phướng bắt buộc phải có trong các đám ma xưa ở vùng đồng bào Tày Bắc
Kạn, Thái Nguyên. Phướng được tổ chức thành phường ban chuyên, gồm khoảng
tám người để phục vụ các nghi lễ như tế, lễ mại xe, tiến hương, tiến hoa, diễn trò.
Nhạc cụ trong Phướng thường có pí lè, đàn, tiêu, sáo, ngoài ra còn có các dụng cụ
phụ trợ như cây hoa, giấy màu, một số loại bánh chay, vòng cổ, vòng tay, xà tích
bằng bạc, đôi khi còn có mặt nạ khỉ, mặt nạ chim, đười ươi chồng và đười ươi vợ để
phục vụ trong trò diễn.
Có thể thấy nghệ thuật biểu diễn dân gian của dân tộc Tày – Nùng là một di
sản quý báu, vùa thể hiện sự phong phú trong đời sống tinh thần, vừa bộc lộ một
cảm quan nghệ thuật hết sức độc đáo, riêng biệt của đồng bào Tày Nùng. Trong đời
sống tinh thần của đồng bào Tày Nùng, âm nhạc múa và sân khấu dân gian giữ một
vai trò quan trọng.
Về nội dung, âm nhạc dân gian đã phản ảnh một cách chân thực sống động
những tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của người Tày Nùng. Âm nhạc dân gian vừa
mang chất trữ tình, tự sự trong các làn điệu hát ru lượn Then của người Tày có khi
lại mang sắc thái sôi nổi, vui tươi của các điệu Cò lẩu, sự trong sáng khỏe khoắn
19
trong các làn điệu Si của người Nùng.
Về phương diện nghệ thuật âm nhạc, có thể thấy âm nhạc dân gian Tày Nùng
mang đậm bản sắc dân tộc, vừa mang tính thống nhất, vừa đậm đà sắc thái địa
phương, tộc người.
Múa dân gian Tày Nùng thường có các động tác vận động cổ tay, chân, các
động tác thường khỏe mạnh, dứt khoát, phóng khoáng, ít gò bó.
Nghệ thuật sân khấu, trò diễn dân gian Tày Nùng gắn bó chặt chẽ với tín
ngưỡng, là một biểu hiện của nghi thức tín ngưỡng dân gian.
1.1.4. Tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán.
1.1.4.1. Tín ngưỡng, tôn giáo.
Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng tiêu biểu nhất của người Tày – Nùng. Theo
quan niệm dân gian, ông bà cha mẹ sau khi chết thì linh hồn vẫn tồn tại ở trên trời
(Mường phạ), do đó con cháu phải lập bàn thờ để thờ cúng trong nhà, vào những
dịp nhất định trong năm phải làm cúng giỗ mời tổ tiên về chứng giám và phù hộ cho
gia đình mạnh khỏe, bình an, làm ăn phát đạt. Bàn thờ tổ tiên được đặt ở chỗ trang
trọng, trung tâm nhất trong nhà, được trang hoàng đẹp nhất và thường để trên cao,
ngang xà nhà. Thờ cúng tổ tiên là nhiệm vụ của gia trưởng. Ngoài các dịp lễ tết, mỗi
tháng hai lần vào ngày mùng 1 và ngày rằm, người Tày – Nùng phải cúng hương
hoa, lễ vật. Bàn thờ được quét dọn sạch sẽ, thắp hương, cúng chè, rượu. Trước khi
cúng, gia chủ thường phải tắm gội, mặc quần áo chỉnh tề. Mỗi khi gia đình có việc
như làm nhà mới, sinh đẻ, cưới hỏi hoặc có người chết thì phải cúng bái, mời tổ tiên
về chứng giám, cầu tổ tiên phù hộ. Do tính chất trang trọng này, nên người Tày -
Nùng có những điều kiêng kị riêng như cấm phụ nữ, nhất là con dâu, cháu dâu tới
gần bàn thờ. Chiếc giường trước bàn thờ để không, khách lạ không được ngồi, nằm
lên đó. Phụ nữ mới sinh con hay đang hành kinh không được đến gần chỗ thờ tổ
tiên.
Trong phạm vi thôn bản còn thờ cúng thần thổ công (cốc bản), thổ địa, thờ
các vị thánh ở trong rừng.
Cũng như nhiều dân tộc miền núi anh em, ở người Tày Nùng, các tàn dư của
tín ngưỡng sơ khai vẫn còn đậm nét. Đồng bào Tày Nùng là những người nông dân
20
canh tác lúa nước ở các thung lũng và lúa khô trên các nương rẫy. Do đó, nhịp điệu
thời tiết chi phối nhịp điệu sản xuất nông nghiệp, nên trong cộng đồng người Tày
Nùng tồn tại những tín ngưỡng, nghi lễ liên quan đến sản xuất như: tục lệ mừng
sấm đầu mùa, các lễ cầu mưa, nghi thức cúng Khoăn Vài (vía trâu), lễ cơm mới, hội
cốm…
Trong tín ngưỡng xa xưa của người phương Đông nói chung, vẫn tin tưởng ở
những mức độ khác nhau sự tồn tại của các hình thức ma thuật, xã hội của người
Tày Nùng cũng không phải là cá biệt. Người Tày Nùng tin rằng có những loại ma
thuật có khả năng làm hại người khác bằng biện pháp vô hình, cũng có các loại ma
thuật kết hợp với thuốc Nam dùng để chữa bệnh, có các loại Phi Cáy (ma gà) gây ra
những điều tai hại, xui xẻo.
Người Tày Nùng cũng chịu những ảnh hưởng nhất định của Tam giáo từ
Trung Quốc, mà đặc biệt là Đạo giáo, với quan niệm về thế giới ba tầng, hệ thống
thần linh. Có thể coi các hình thức thờ cúng của Tào, Mo, Then, Pựt là các biến
dạng của Đạo giáo dân gian
Cũng như ở hầu hết các tộc người khác, đối với người Tày Nùng, tín ngưỡng
tôn giáo đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và tồn tại của các
phong tục và lễ hội. Các hình thức tín ngưỡng tiêu biểu như thờ cúng tổ tiên, các
nghi lễ nông nghiệp, quan niệm về linh hồn, các nghi thức Mo, Then, Tào, Pựt… đã
tạo nên biết bao phong tục, nghi lễ, kiêng cữ, hội hè của người Tày Nùng trong
phạm vi gia đình, dòng họ, thôn bản. Trong hệ thống các phong tục lễ hội ngày nay
đã có những biến đổi nhất định cho phù hợp bởi có những phong tục đã trở nên lạc
hậu, lỗi thời, nhưng nhìn chung nó vẫn giữ được những nét đẹp, tính nhân bản, sự
độc đáo, góp phần tạo nên nền văn hóa đặc sắc của hai tộc người này.
1.1.4.2. Lễ hội dân gian
Ngày tết lớn nhất của đồng bào Tày Nùng là Tết Nguyên Đán và rằm tháng
bảy, ngoài ra còn có các dịp khác như Tết Thanh Minh, tết Đoan Ngọ, Tết Thần
Ruộng, Thần Trâu, Tết cúng tổ tiên và vong linh cô hồn, Tết Trung Thu, Tết Cốm
mới, Cơm mới, Tết Đông chí… và nhiều lễ hội lớn trong năm, nhất là vào dịp đầu
xuân. Các lễ hội lớn như hội Lồng Tồng, hội pháo hoa, lễ hội Nàng Hai… là những
21
lễ hội cổ xưa của cư dân nông nghiệp, với ý nghĩa là cầu mưa thuận gió hòa, cây cối
sinh sối, vạn vật phát triển. Trong dịp lễ hội thường tổ chức các trò chơi dân gian
như múa lân mua rồng, dấu vật, đẩy gậy, đánh đu, tung còn… được mọi người rất
yêu thích. Lễ hội còn là nơi thanh niên nam nữ trao đổi, gặp gỡ, tâm tình, nơi thể
hiện các điệu hát múa truyền thống của dân tộc.
1.1.4.3. Phong tục tập quán.
Người Tày Nùng có những phong tục tập quán truyền thống rất đặc sắc.
Về cƣới hỏi: Là một việc vô cùng trọng đại nên có rất nhiều thủ tục, nghi
thức kèm theo, với những trình tự khắt khe buộc phải tuân thủ. Đám cưới của người
Tày Nùng nhìn chung khá long trọng và tốn kém, với nhiều sính lễ, lễ vật. Lễ vật có
thể nhiều ít khác nhau nhưng số lượng mỗi loại bao giờ cũng là một con số chẵn với
ý nghĩa cầu mong cho con cái của họ “thành cặp, thành đôi” và sống bên nhau cho
đến trọn đời, mãn kiếp. Những lễ vật đặt lên bàn thờ tổ tiên nhà gái được “gắn mác
đỏ” với mong ước cuộc tình duyên của đôi trẻ sẽ bền lâu và luôn gặp vận đỏ. Trong
số đó không thể thiếu một tấm vải sợi bông, một nửa nhuộm màu hồng còn nửa kia
giữ nguyên màu trắng, gọi là “lằm khấư” có nghĩa là vải phần ướt, phần khô (người
mẹ khi nuôi con còn nhỏ, con tè dầm ra giường, mẹ sẽ nằm chỗ ướt, nhường lại
phần khô để con nằm) tặng cho mẹ đẻ cô dâu. Đây là món quà quý giá, có ý nghĩa
sâu sắc, mang tính nhân văn cao và là một nét đẹp trong phong tục cưới xin của
người Tày Nùng; thể hiện lòng biết ơn đối với bà mẹ đã chịu bao vất vả, khó nhọc,
hi sinh trong việc nuôi dạy con cái.
Về sinh con: Người Tày Nùng muốn có nhiều con, cho nên khi kén dâu bao
giờ họ cũng chú ý tới những cô gái được sinh ra trong gia đình đông con, người mẹ
khỏe mạnh, dễ sinh nở và dễ nuôi con. Tính chất phụ quyền thể hiện rất rõ nét trong
cộng đồng người Tày – Nùng nên họ quý con trai hơn. Quan niệm của họ là con trai
duy trì tôn thống (tế tự tổ tiên, lưu truyền huyết thống). Vì vậy, trong cộng động
người Tày Nùng có thành ngữ “nhình đại, chài ớ” (gái thôi, trai đấy).
Mừng thọ: Lễ mừng thọ người cao tuổi là một trong những sinh hoạt văn
hóa tâm linh hết sức nhân văn của dân tộc Tày Nùng với mong muốn là người già
trong nhà được khỏe mạnh, sống lâu cùng con cháu. Theo tiếng Tày Nùng, lễ mừng
22
thọ gọi là Pủ Liềng hoặc Pủ Lường, nghĩa là “bổ” thêm lương vào bịch gạo
mệnh”… Thông thường, khoảng trên 60 tuổi là con người đã có biểu hiện của tuổi
già như mắt kém tinh, răng kém chắc, tóc điểm bạc… Sỡ dĩ có những biểu hiện về
sức khỏe trên người ta cho rằng bịch gạo mệnh đã úa vàng, nên phải tổ chức lễ Pủ
Liềng, bổ thêm lương cho bịch gạo mệnh được đầy, bắc lại cây cầu cho vững chắc,
trồng lại cây mệnh xanh tươi… Vì vậy người Tày – Nùng tổ chức lễ mừng thọ cho
người già cả trong gia đình để cầu mong họ được sống lấu hơn.
Về tang ma: Tang lễ của người Tày – Nùng khá long trọng với nhiều nghi
thức. Thường khi có người mất, gia đình sẽ xem giờ để phát tang, nếu không được
giờ phát tang (người mất vào giờ kiêng, giờ không lành…) thì sẽ đắp chăn, buông
màn nằm như đang ngủ, con cháu cũng chưa được phép khóc than mà phải đợi đến
giờ lành. Tang gia phải mời thầy mo, thầy pựt đến để chủ trì các nghi lễ trong đám
ma, đôi khi đám ma diễn ra trong vài ngày thậm chí là cả tuần lễ nếu không chọn
được giờ ra cửa, ngày nay tang lễ của người Tày Nùng đã được giản tiện đi rất
nhiều để phù hợp với thời đại. Trong lễ tang, con cháu của người đã khuất đem tới
rất nhiều lễ vật, gồm gạo, rượu, một con lợn, cây tiền và những bức trướng… để thể
hiện lòng hiếu thảo, ghi nhớ công ơn của người đã khuất.
Mối quan hệ gia đình, cộng đồng, xã hội: Xung quanh việc sinh hoạt trong
gia đình, người Tày Nùng xưa có quy định rất nghiêm ngặt như: khi con gái và con
dâu đi vào buồng ngủ thì không được đi qua phần trên trước bàn thờ mà phải đi dọc
theo gian phần dưới nhà, cho tới khi có một, hai đứa con rồi người con dâu mới
được đi qua mé trên. Con dâu cũng không được phép ngồi chung mâm với bố chồng
hoặc anh chồng và người cao tuổi, khi nhà có khách là phụ nữ đến chơi thì khách
không được vượt qua bếp vào trên nhà – nơi tiếp khách của đàn ông. Do việc có
nhiều thế hệ cùng sinh sống dưới một mái nhà nên người Tày Nùng có khá nhiều
quy định vừa nghiêm ngặt vừa tế nhị trong cách ứng xử giữa các thành viên trong
gia đình, nhất là giữa bố chồng và con dâu. Thậm chí, trong gia đình người Nùng,
bố chồng nàng dâu còn tránh ngồi lẫn vị trí chỗ ngồi của nhau, hoặc nếu có ngồi thì
cũng phải là khi vắng mặt một trong hai người.
Tày Nùng là hai tộc người có sự kết cấu cộng đồng rất cao. Do lịch sử từ xa
23
xưa, đồng bào Tày Nùng vốn là cư dân nông nghiệp, cuộc sống lao động sản xuất
phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, trong cuộc đấu tranh chống lại và cải tạo tự
nhiên để sinh tồn ấy, họ cần phải liên hệ, đoàn kết với nhau, tạo nên sức mạnh tập
thể, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong mọi mặt của đời sống. Cho đến ngày nay, bản
làng người Tày Nùng vẫn giữ được sự cố kết bền chặt này. Cá nhân chan hòa, nhiệt
thành với cộng đồng, không tách khỏi mối quan hệ mật thiết với cộng đồng. Người
Tày Nùng nhìn chung rất thật thà, hiếu khách, suy nghĩ phóng khoáng, giản đơn, đối
với làng xóm thân tình, gắn bó. Mỗi khi một gia đình có việc lớn như dựng nhà hay
tang ma hiếu hỷ, bà con trong làng bản sẽ tự giác đến phụ giúp gia đình, không
màng công cán. Mùa gặt, khi lúa nhà nào chín trước, cả làng sẽ cử một người trong
gia đình mình đến nhà đó hộ gặt, khi tới lượt mình cũng sẽ có nhiều người đến giúp.
Trong vườn nhà có loại hoa trái nào, khi trẻ con hàng xóm đến xin thì sẽ vui vẻ
đồng ý, hầu như không có chuyện mua bán giữa những người cùng làng với nhau…
Đây chỉ là một số ví dụ đơn cử để thể hiện tinh thần cộng đồng sâu sắc và ý thức
đoàn kết của đồng bào Tày Nùng.
Có thể thấy đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt Bắc nói chung và dân
tộc Tày – Nùng nói riêng, có những nét cơ bản giống các khu vực khác. Về tín
ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian của cư dân Tày- Nùng hướng niềm tin của
con người đến thần bản mệnh, trời đất, tổ tiên. Họ thờ nhiều thần linh như thần
sông, thần núi, thần đất. Ngoài ra, còn có các ông vua, Giàng Then cũng được đồng
bào nơi đây kính cẩn thờ phụng.
1.1.5. Văn học dân gian.
“Văn học dân gian là thuật ngữ dùng để chỉ những thể loại sáng tác dân gian
trong đó thành phần nghệ thuật ngôn từ (tức thành phần văn học) chiếm vị trí quan
trọng, song bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ với các thành phần nghệ thuật và
phi nghệ thuật khác” [18, tr.8] Như đã biết, văn học dân gian có nhiều chức năng
như chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mĩ và chức năng
sinh hoạt, chúng hợp thành một thể thống nhất [23,tr.15], qua đó thể hiện nhận thức
của người dân về tất cả những lĩnh vực đó. Nói cách khác, văn học dân gian của
một dân tộc là toàn bộ những kết tinh, tinh hoa về đời sống tinh thần và mang bản
24
sắc rất đặc trưng của dân tộc đó.
Văn học dân gian Tày Nùng rất phong phú, đa dạng và độc đáo, là một bộ
quan trọng trong văn hóa dân gian Tày Nùng, nó phản ánh chân thực, sinh động
cuộc sống sinh hoạt, lao động và đấu tranh của đồng bào, là tâm tư, tình cảm, ước
mơ, khát vọng, là sự nhận thức và trí tuệ dân gian từ thuở xa xưa.
Văn học dân gian của dân tộc Tày Nùng là một kho tàng có khối lượng đồ sộ
với rất nhiều các thể loại. Nhìn chung, có thể chia thành hai mảng chính là văn học
truyền miệng và văn học thành văn. Theo cuốn Các dân tộc Tày – Nùng ở Việt
Nam, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học, 1992, do Giáo sư Bế
Viết Đằng chủ nhiệm [7] thì có thể phân loại 2 mảng này như sau:
Mảng văn chương truyền miệng gồm các thể loại chính là:
1. Thành ngữ - tục ngữ.
2. Truyện cổ tích.
3. Phuối pác, rọi (nói ví).
4. Câu đố và đồng dao.
5. Dân ca.
Mảng văn học thành văn gồm có:
1. Lời ca nghi lễ: thể loại này lại bao gồm
- Lời ca đám cưới và có lẩu.
- Mo, then, pụt.
- Mại xe, văn tế, văn than, lòan.
2. Lời ca giao duyên: thể loại này bao gồm
- Lượn: phổ biến hai làn điệu: lượn cọi (khắp) và lượn slương.
- Phong slư.
3. Truyện thơ và thơ ca xã hội. Thể loại này gồm có:
- Truyện thơ.
- Thơ ca chính trị xã hội , gồm: Bách giáo và Thơ Hoàng Đức Hậu.
Trong luận văn này, chúng tôi có tham khảo cách phân loại trên.
Về mảng văn chương truyền miệng:
Thành ngữ - tục ngữ: Tục ngữ là những câu vần vè, ngắn gọn, chính xác,
25
có ý nghĩa sâu sắc hoặc là những phán đoán của đồng bào về các hiện tượng của
cuộc sống, của tự nhiên, được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật. Tục ngữ có
nguồn gốc rất cổ xưa, và người sáng tạo ra nó phải là những người không những
chỉ biết nhận thức mà còn hiểu thấu được ý nghĩa thực tại bao quanh. Một tiền đề
nữa không thể thiếu được để tục ngữ có thể xuất hiện, là một trình độ phát triển
nhất định của ngôn ngữ và khả năng của con người sử dụng nó nhằm tái hiện thực
tại một cách khái quát, logic và mang tính nghệ thuật. Lịch sử tồn tại của tục ngữ
và sự phát triển không ngừng của nó liên quan chặt chẽ với sự hình thành xã hội
loài người [ 41]
Người Tày – Nùng rất ưa chuộng kiểu nói vần, nói văn vẻ ví von và sử dụng
vốn thành ngữ, tục ngữ của dân tộc mình một cách rất linh hoạt vào lời ăn tiếng nói
hằng ngày. Có thể thấy không một lĩnh vực nào của cuộc sống xã hội con người là
không được phản ánh, đúc rút thành kinh nghiệm truyền đời trong thành ngữ tục
ngữ.
Tục ngữ, thành ngữ nói chung và tục ngữ, thành ngữ của người Tày – Nùng
nói riêng đều là tấm gương phản ánh những quan niệm, những tình cảm và thể hiện
thế giới quan của nhân dân về mọi mặt của đời sống, từ lao động sản xuất, đến tâm
tư tình cảm hay các vẫn đề xã hội lớn lao khác. Vì vậy, thông qua tục ngữ thành
ngữ, ta có thể nhận dạng đặc điểm lao động sản xuất, xu hướng tình cảm, đời sống
sinh hoạt của dân tộc đó như thế nào. Thành ngữ, tục ngữ của người Tày Nùng, bởi
thế, chính là sự khái quát về những kinh nghiệm sản xuất, lao động, kinh nghiệm
ứng xử, lối tư duy, cách nghĩ, tâm tư tình cảm của đồng bào Tày – Nùng. Trong giai
đoạn phát trển đầu tiên của lịch sử loài người, cũng như mọi hoạt động tinh thần
khác, nghệ thuật không tồn tại dưới dạng độc lập mà gắn bó và hầu như hòa làm
một với hoạt động thực tiễn của con người [23,tr.10] Bởi thế, thành ngữ - tục ngữ
đều có dấu ấn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống [7 ,tr.268], và người Tày – Nùng
đã để lại những thông điệp riêng của mình về thế giới quan, nhân sinh quan của họ
trong những câu thành ngữ, tục ngữ của dân tộc mình như thế.
Truyện cổ tích: Truyện cổ tích thể hiện tư tưởng và ước mơ của người xưa,
nó được bổ sung qua các thế hệ [7,tr.268], ngoài ra, truyện cổ tích còn thể hiện
26
những nhận thức dẫu còn mang những nét ngây thơ và đơn giản về thế giới và các
hiện tương tự nhiên xung quanh con người, thể hiện trình độ và mơ ước của người
xưa trong việc cải biến, chinh phục và lí giải các hiện tượng tự nhiên. Đáng kể nhất
có cuốn Truyện cổ Tày Nùng gồm 25 truyện, được Hoàng Quyết biên soạn, nhà
xuất bản Văn hóa in năm 1986 [36]. Ngoài ra, năm 1988 Hội văn nghệ Lạng Sơn in
tập truyện do Mã Thế Vinh soạn gồm 10 truyện và trước đó Sở Văn hóa Bắc Thái
cũng cho in một cuốn có khoảng 10 truyện khác. Tới nay còn rất nhiều truyện tiêu
biểu loại này chưa được sưu tầm và giới thiệu… Một số huyền thoại rất phổ biến ở
các dân tộc Tày Nùng, đã để lại những dấu ấn về quê hương xứ sở của họ. Truyền
thuyết “Chín chúa tranh vua” nói tới nhiều địa danh không chỉ ở Việt Nam như Hà
Giang, Cao Bằng, Bắc Thái mà còn nói đến cả Thin Tẳng (Trịnh Tây), Thái Ninh
(Thái Bình phủ)…thuộc Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay. Truyền thuyết Pú
Lương Quân cũng gắn chặt với các địa danh Cao Bằng như “lốc chả Phiêng Pha,
đăm nà Tổng Chúp” (nhổ mạ Phiêng Pha, cấy lúa Tổng Chúp), nà Tổng Lằn (ruộng
trống lăn)… Còn truyền thuyết Va Thái Hà chinh phục Hồ Ba Bể thì kể: nhà vua đã
có công đục núi đá Bó Lù hạ thủy cho vùng Nhu Viễn có đất làm ruộng. Truyền
thuyết Tải Ngào (ông khổng lồ) mỗi bước đi hàng vạn dặm, được kể ở nhiều nơi mà
đặc biệt biệt là ở Bắc Kạn có nhiều ý nghĩa lớn… Ngoài ra còn có những truyền
thuyết khác có thể có cùng gốc với nhiều dân tộc khác ở Đông Nam Á với nạn hồng
thủy làm loài người chết hết chỉ còn lại hai anh em ruột chui vào quả bầu sống sót,
sau phải lấy nhau để duy trì nòi giống. Những truyền thuyết này đã mang dấu ấn rõ
nét trong nền văn học dân gian của hai dân tộc Tày – Nùng. [7,tr.268]
Đời sống tinh thần của người Tày Nùng khá phong phú, đa dạng và điều này
được thể hiện rõ trong hệ thống các truyện cổ tích và thần thoại. Trong kho tàng
truyện thần thoại, cổ tích của người Tày, có một số đã ra đời từ thời cổ như truyện
Quả bầu, Pú Luông – Già Cải, Cẩu Chủa Cheng Vùa, vừa nói về sự có mặt của họ
từ những thời kì xa xưa ở Việt Nam, còn phần nhiều xuất hiện trong xã hội có giai
cấp, mâu thuẫn đã gay gắt, đấu tranh trở nên quyết liệt như truyện Cẩu Khây, Thạch
Sanh, Tổng lằn, truyện Nùng Trí Cao… Bên cạnh nền thơ ca cổ truyền phong phú
27
hơn cả, cũng có hàng trăm truyện thơ khuyết danh bằng chữ Nôm Tày.
Phuối pác, phuối rọi (ví): Phuối pác là một nét đặc sắc trong giao tiếp của
người Tày. Đó là cách nói có ví von, có vần điệu, nghe mềm mại, xuôi tai, rất dễ
nhớ, dễ vận dụng. Phuối pác là lời nói nên còn có các tên: “cảng pác” (nói miệng),
“phuối tói” (nói đôi), “rọi” (nói thành vần). Trai gái mới gặp nhau, dùng lối nói
này để làm quen. Từ đấy nhiều khi đi đến hôn nhân. [7,tr.207]
Phuối pác rất giàu hình ảnh ví non ẩn dụ, nội dung rất phong phú, câu từ đơn
gản nhưng ý nghĩa thâm thúy sâu xa. Trai gái khi làm quen hoặc thăm dò ý tứ nhau
thường dùng lối nói rất khiêm nhường, đề cao đối phương và tự hạ mình xuống để
gây thiện cảm. Được thời gian gọt giũa những lời phuối pác, phuối rọi ngày càng cô
đọng bóng bẩy và mềm mại một chất thơ lãng mạn. Nội dung chính của các bài hát
này là lòng yêu lao động, tình yêu trai gái, tùy tài năng và cảm xúc của người hát
mà làn điệu bài bản các thể hát đó được biến hoá, sáng tạo không ngừng. Phuối pác
là thể dân ca hát đối đáp, có làn điệu nhưng không ngân nga như lượn, thường được
dùng nhiều nhất trong hai trường hợp: khi mới gặp nhau và lúc tạm biệt nhau
Câu đố và đồng dao: Câu đố và dồng dao là 2 loại hình văn chương truyền
miệng, song cái chung là đều dùng cho đối tượng thiếu niên nhi đồng nhằm mục
đích giáo dục theo lối giải trí. Tác dụng của nó rất đa diện, góp phần đắc lực vào
việc hình thành nhân cách và bản sắc tộc người.[7,tr.272]
Câu đố là một hình thức nhận thức và miêu tả sự vật, sự việc. Thông thường
theo logic, sự vật được nhận thức qua thuộc tính cơ bản. Thuộc tính đó trong câu
đó cũng được nêu lên nhưng lại được ngụy trang bằng những biện pháp mỹ từ như
nhân hóa, động vật hóa, thực vật hóa, chơi chữ… Thuộc tính, sau khi được ngụy
trang, được diễn ra thành ngôn ngữ có vần điệu, hình ảnh, ngôn ngữ nghệ thuật
[41, tr.137]
Toàn bộ câu đố Tày Nùng nhìn chung được chia thành 5 nhóm đề tài chính:
thế giới động vật; thế giới thực vật; đồ vật, con người và thân thể con người; vũ trụ
và các hiện tượng thiên nhiên. Về căn bản, đồng dao Tày Nùng là những câu nói có
vần vè, sao cho con trẻ dễ nhớ, nhớ dễ thuộc. Đồng dao được chia làm ba loại:
- Đồng dao kèm theo trò chơi.
28
- Đồng dao hát lên để nhử động vật
- Đồng dao kể về một tích truyện nào đó một cách ngắn gọn.
Đồng dao là niềm vui bất tận của thuở thiếu thời. Trong đó có trò giúp các
em mở rộng sự hiểu biết, bổ sung kiến thức trong nhà trường. Ngoài ra đồng dao
còn là vườn ươm cho các thể loại thơ ca dân gian như ngũ ngôn, thất ngôn… mà
các em sẽ tiếp cận khi lớn lên.[7,tr.276]
Ca dao - Dân ca: Người Tày Nùng có một kho tàng ca dao rất phong phú,
giàu đẹp. Ca dao là một phận chủ yếu và quan trọng nhất của thơ ca dân gian, là
loại thơ ca dân gian truyền thống có phong cách riêng, được các tác giả dân gian
sáng tác, lưu truyền phổ biến trong quảng đại quần chúng nhân dân nhằm diễn tả
nhận thức, tình cảm, tâm lý của họ đối với môi trường thiên nhiên hùng vĩ, đối với
đời sống tình cảm cha con, mẹ con, vợ chồng, nhất là tình yêu đôi lứa.[7]
Về cấu tứ, nghệ thuật ca dao Tày Nùng có ba lối: phú (miêu tả, trình bày, kể
lại, thuật lại), ti (so sánh, ví von, có thể trực tiếp, có thể gián tiếp), hứng (cảm hứng,
hứng khởi được nảy sinh từ sự vật hiện tượng khách quan).
Về nghệ thuật biểu hiện, ca dao Tày Nùng sử dụng nhiều biện pháp tu từ như
nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, thậm xưng….
Dân ca có vị trí quan trọng trong đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng của người
Tày – Nùng nhất so với các thể loại văn học khác. Dân ca giao duyên phong phú
về thể loại, có phong slư, lượn, phuối pác (hát đối đáp)… thường được các đôi
trai gái sử dụng khi tìm hiểu nhau, do đó làn điệu thường ngân nga nhấn nhá
vang xa trong không gian thể hiện tâm trạng, tình cảm, nỗi nhớ nhung. Phong slư
là những bức thư tình, một thể thơ hết sức đặc sắc của trai gái Tày. Bức thư này
viết bằng chữ Nôm Tày trên nền vải sa tanh đỏ. Phong slư nói về cung bậc tình
cảm của những người đang yêu. Khi là tiếng nói thủ thỉ tâm tình, lúc hóa thành
dòng thác nhớ nhung tha thiết. Tình yêu nam, nữ thể hiện trong phong slư
thường là tình yêu trong xa cách, trắc trở, tan vỡ. Bởi vậy tiếng hát, giai điệu
phong slư thường buồn da diết. Tuy nhiên nó không hề bi lụy mà nỗi buồn ấy lấp
lánh những ước mơ lãng mạn, nhân văn.
Lượn là một bộ phận thuộc loại hình nghệ thuật dân ca sinh hoạt của người
29
Tày. Lượn có nhiều tiểu loại, ngoài hai loại cơ bản là lượn cọi và lượn slương,
người Tày còn có lượn Then, lượn nàng Hai, lượn khắp,… Trong cái nhìn đối sánh
với văn hóa dân tộc Kinh, lượn là lối hát giao duyên có thể tương tự như lối hát
quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa tha thiết, lay động lòng
người, gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Có thể nói lượn đã trở thành một
thực thể trong đời sống tinh thần, một thành phần có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc đáp ứng nhu cầu bộc lộ tình cảm của những người dân Tày yêu thích ca
hát. Thông qua lượn mà tiếng hát, lời ca ngân lên mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài
mường, trở thành một phần không thể thiếu được trong đời sống tinh thần người
Tày.
Dân ca là một thể loại được phổ biến rộng rãi và có một vị trí quan trọng
trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của đồng bào Tày – Nùng. Dân ca có nội dung
phản ánh một giai đoạn lịch sử, phê phán một hiện tượng xã hội nào đó, qua đấy
bày tỏ nỗi lòng, bộc lộ tâm tư tình cảm, thái độ của nhân dân về những hiện tượng
xã hội đương thời.
Về mảng văn học thành văn:
Lời ca nghi lễ: là loại thứ nhất được ghi chép lại bằng chữ nôm. Nhờ đó mà
có thể tìm hiểu những văn phẩm hàng thế kỉ trước [7,tr.278], nổi bật nhất là hình
thức quan làng trong các đám cưới. Các quan làng (đại diện nhà trai) thường hát đối
đáp với các pả mẻ (đại diện cho nhà gái) phục vụ cho tiến trình nghi thức của một đám
cưới. Dân ca tín ngưỡng là lời xướng, giọng ca của những người hành nghề mang tính
tâm linh… Ngay từ tên gọi đã có thể thấy rằng loại dân ca này được phụng vụ cho
việc tiến hành các nghi lễ cúng bái, cho nên nếu muốn tìm hiểu văn hóa dân tộc Tày
thông qua dân ca nghi lễ thì không thể thoát li hoàn toàn các hình thái ý thức tinh
thần ra khỏi phần lời hay văn bản bài dân ca được. Qua việc tìm hiểu dân ca nghi lễ
ta có thể thấy chính các nghi lễ tín ngưỡng (nguyên sơ và hiện đại) đã sử dụng các
thành quả văn học dân tộc để vận hành và tồn tại [7,tr.278]. Dân ca nghi lễ được
chia thành 3 loại:
- Dân ca đám cƣới và cỏ lẩu: trong đó dân ca đám cưới phổ biến ở người
Tày còn cỏ lẩu lại phố biến ở người Nùng. Dân ca đám cưới nhằm phục vụ cho hôn
30
lễ, do những người thuộc nhiều thơ, có khả năng đối đáp linh hoạt khéo léo và có
chất giọng tốt trong đoàn đón đưa dâu đảm nhận. Các bài ca nghi lễ trong hôn lễ có
một ý nghĩa rất quan trọng, nó vừa theo sát vừa tham gia vào mọi thủ tục của lễ
thành hôn, nó tuân thủ theo một trình tự có nhưng cũng đòi hỏi sự linh hoạt ứng đối
và phụ thuộc vào trình độ của người hát. Dân ca đám cưới gồm 8 mục tương ứng
với các trình tự trong lễ cưới: hát căng dây, hát giữ cửa, hát trải chiếu, mời uống
nước ăn trầu, hát mời cơm, hát trình tổ, hát bái tổ, hát nộp dâu, rể. Trong hệ thống
bài hát này, mỗi mục riêng có hàng loạt bài, mà việc vận dụng nó thế nào hoàn toàn
phụ thuộc và trình độ và sự linh hoạt ứng biến của người hát. Nội dung của thơ đám
cưới gồm thơ kể về phong tục, thơ lịch sử, thơ giao duyên.
- Mo, then, pụt (pựt), tào: Then, pựt là một hình thức cúng bái mang tính
chất saman giáo bản địa của người Tày – Nùng. [53, tr.31] Nó là những nghi thức
cúng dân gian tồn tại từ rất lâu đời. Mo là cấp thấp nhất, trải qua các cấp sắc mới
được lên các bậc trên là then, pụt. Chức sắc cao nhất là tào. Hầu hết các cung đoạn
của pụt, then đều có những cách diễn xướng tương ứng còn mo chỉ diễn như cách
nói thông thường mà dân gian gọi là tàm pẹc (nói trơn). Mo, then, pụt, tào có ý
nghĩa cúng quỷ, trừ tà cho người ốm, nhiều nơi, then, pụt còn tham gia trong đám
tang để đưa linh hồn người đã khuất lên trời hay lễ kì yên vào đầu xuân để cầu cho
một năm yên ổn. Đội ngũ mo, then, pựt, tào được cho là có khả năng truyền đạt
nguyện vọng, ước mơ của người trần lên với Ngọc Hoàng hay dẫn dắt linh hồn
người chết, xua đuổi được tà ma. Nói cách khác, mo, then, pụt, tào được coi là “loại
người có khả năng môi giới giữa thế giới siêu nhiên và con người” [35]. Ngoài ra
pụt và then còn cụ thể hóa một số truyền thuyết và huyền thoại về quá khứ xa xưa
của loài người, một số bài còn thuyết minh về phong tục của dân tộc mình hay thể
hiện sự áp bức bất công trong xã hội. Nó không chỉ chi phối đời sống tâm linh của
người dân mà còn để lại những dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa nghệ thuật
của dân tộc. [44,tr.19] Nói tóm lại, then, pụt là hình thức cúng bái trong tín ngưỡng
dân gian có thể có hàng ngàn năm lịch sử, được hình thành trên cơ sở bổ sung,
hoàn thiện dần của biết bao thế hệ, và có sức hấp dẫn với các thế hệ Tày
31
Nùng.[7,tr.284]
- Mại xe, Văn tế, Văn than, Loàn: trong đó, mại xe, văn tế, văn than chỉ
dùng trong đám tang, còn Loàn dùng trong lễ hội Lồng tồng. Mại xe nghĩa khúc hát
chia tay người chết. Văn tế và văn than dùng để đọc trước vong linh người quá cố,
lời ca thống thiết, đau thương, có sức tác động lớn lao đến cảm xúc của người nghe,
gây xúc động mạnh, đôi khi không cầm được nước mắt. Lồng tồng là một trong
những lễ hội lớn của cư dân nông nghiệp. Loàn là bài văn trong nghi lễ chúc thánh
của lễ hội này, nội dung chính là mời thần thánh về dự lễ hội cầu mùa, tạ ơn các
thánh, tiễn các thánh và khách thập phương đã về dự lễ.
Lời ca giao duyên: Những bài hát giao duyên là một bộ phận quan trọng của
thơ ca thành văn dân tộc Tày – Nùng. Nổi bật nhất trong số đó là Sli, Lượn (có lượn
cọi, lượn slương) và phong slư. Rất nhiều bài trong số đó đã được sưu tầm, ghi chép
lại từ rất sớm bởi đội ngũ tri thức bản địa dân tộc Tày – Nùng.
- Sli là dân ca giao duyên của người Nùng. Tương tự như các hình thức hát
giao duyên của các dân tộc khác, sli là những bài ca nói về tình cảm lứa đôi, tình
yêu trai gái, về nỗi nhớ nhung buồn khổ, về sự hi vọng, chờ mong khi hẹn hò, làm
quen, tán tỉnh, khi bày tỏ, thổ lộ tâm tình… được các thế hệ thanh niên nam nữ
người Nùng hết sức yêu thích
- Lượn: Lượn không phải là cách trình diễn nhằm để mọi người nghe hoặc
xem, mà trong bản chất nó là hình thức giao duyên của tuổi trẻ. [7,tr.288]. Lượn
nói chung, chính là sự phác họa thế giới thực tại và tinh thần trong quá khứ của
người Tày, nên nội dung của nó rất phong phú, từ những chuyện của tuổi thơ,
những cuộc tình duyên trong lịch sử, đến gắn liền với các sự kiện như mừng ruộng
đồng làng bản, mừng nhà cửa cây cối, đi chợ, đi đường… đều được đề cập tới.
- Phong slư: là những bức thư tình đặc sắc của các thế hệ trẻ người Tày –
Nùng được viết trên nền giấy vải rất công phu. Vải viết thư thường là vải khổ to,
rộng trên dưới một mét vuông, được vẽ hoa biên là hai con rồng miệng há to chầu
mặt trời, hoặc là chim muôn hoa lá, được trang trí rất ngoạn mục. Phong slư có một
thể loại riêng biệt, có kết cấu nhất định bằng thơ thất ngôn gieo vần lưng triệt để
với phong cách ngâm vịnh riêng. Trước 1945, gần 100% phụ nữ Tày mù chữ,
32
nhưng phong slư vẫn phát triển, nên một lớp người có nho học làm thơ cho cả đôi
trai gái gọi là “slấy cá” được hình thành. Những phong slư nay còn gặp được, ít
nhất cũng do những trí thức dân tộc sáng tạo nên. Mở đầu của phong slư bao giờ
cũng xác định thời điểm của 4 mùa, tiếp đó mới nói đến hoàn cảnh tâm tư của
mình.[7,tr.291] Trung bình, mỗi bài phong slư dài khoảng trăm câu, nhưng cũng có
những bài cá biệt dài đến cả nghìn câu. Các bài phong slư giàu hình ảnh, giàu xúc
cảm và thường rất lâm li, tha thiết…
Truyện thơ và thơ ca xã hội.
- Truyện thơ (Hay truyện thơ Nôm Tày): là những truyện dân gian truyền
miệng thể hiện bằng văn vần mà hình thức là thơ bảy chữ trường thiên, gieo vần ở
từ thứ năm và thứ bảy mỗi câu.[37,tr.187] Có thể nói truyện thơ Tày Nùng là cái
khung của nền văn học thành văn nơi đây. Chính nó mới là tác phẩm văn học đúng
với nghĩa thực của nó. Truyện thơ ở đây đều là những tác phẩm khuyết danh, công
tác văn bản học chưa được tiến hành, lại là những tác phẩm viết tay nên có nhiều dị
bản... Truyện thơ Tày Nùng phản ánh cuộc sống hiện thực và tâm tư nguyện vọng
của dân tộc… là sản phẩm của trí thức dân tộc nên có kết cấu chặt chẽ, nội dung tư
tưởng mạch lạc…[7 ,tr.293-294] Nội dung chủ yếu của truyện thơ là phản ánh hiện
thực xã hội, đề cao tinh thần dũng cảm, hi sinh chống giặc, giành lại cuộc sống yên
bình cho đồng bào, bênh vực kẻ yếu, lên án các thế lực cường quyền tàn bạo.
Các truyện thơ Tày – Nùng khá phong phú về số lượng, có thể kể tên nhiều
truyện thơ tiếu biểu: Bjóc lả, Chiêu Đức – Kim Nữ, Đính Quân, Lý Thế Khanh,
Nam Kim – Thị Đan, Nàng Quế, Chim Sáo (Nộc Kéo), Nàng Hán, Slam Péc – Anh
Tài, Xuân Lan, Khảm Hải…
- Thơ ca xã hội: Bách giáo (nghĩa là răn dạy trăm điều), nó không phải là
loại tác phẩm mang thuần chất văn học nhưng lại là những bài học đạo đức truyền
thống đã và đang giáo dưỡng những thế hệ người bản tộc. [7, tr.296]. Bách giáo
gồm 673 câu, trong đó không chỉ chứa đựng những tư tưởng Khổng Nho mà còn là
những chuẩn mực cơ bản của cuộc sống hàng ngày. Hoàn toàn có lí để nghĩ rằng hệ
thống đạo đức vốn có của dân tộc từng tồn tại trong lịch sử đã được đan ghép vào
những quan niệm nổi tiếng của Khổng Nho nhằm hoàn thiện nền kỉ cương của cộng
33
đồng.[7,tr.297].
- Thơ ca Hoàng Đức Hậu (1980 – 1945): trước Hoàng Đức Hậu có Bế Văn
Phủng và Nông Quỳnh Văn, đây là ba đại diện tiêu biểu có vị trí khá rõ trong nền
thơ ca truyền thống có tác giả cụ thể từ cổ đại đến cận đại của dân tộc Tày. Hoàng
Đức Hậu quê ở vùng đồng Hòa An thuộc Cao Bằng, ông có vốn kiến thức và văn
hóa dân tộc phong phú, lại rất ham học hỏi, thường đi khắp nơi dạy học nên được
nhân dân yêu mến gọi là “Đồ Hậu”. Trong khi đi bôn ba nhiều nơi để dạy học, ông
đã làm nhiều bài thơ được nhân dân yêu thích, học thuộc và truyền miệng. Trên
những nẻo đường kiếm sống bằng nghề dạy học, ông đã gần gũi và thấu hiểu cuộc
sống sinh hoạt, lao động của những người dân, những làng bản, ông cũng được
chứng kiến những bất công, những cay đắng, những hủ tục chướng tai gai mắt… tất
cả những điều ấy đi vào thơ ông với những trăn trở âu lo. Có thể nói, ông là nhà thơ
Tày duy nhất đúng với nghĩa của nó trước 1945. [7,tr.300].
Có thể nhận xét rằng di sản văn học dân gian Tày Nùng là một vốn quý của
cộng đồng Tày Nùng nói riêng và kho tàng văn học dân gian Việt Nam nói chung.
Hệ thống văn học dân gian Tày Nùng vừa phong phú đa dạng, vừa đặc sắc ấn
tượng, vừa phản ánh sự hòa hợp giữa con người và môi trường tự nhiên, vừa thể
hiện mối quan hệ gắn kết của con người giữa cộng đồng. Trong văn học dân gian
Tày Nùng, phong tục tập quán tín ngưỡng tôn giáo… được biểu hiện ở nhiều mức
độ và khía cạnh khác nhau.
Văn học dân gian là một bộ phận cấu thành của văn hóa dân gian, nó có mối
liên hệ chặt chẽ và mật thiết với các thành tố dân gian khác. Phần lời của các làn
điệu dân ca Tày Nùng, phần ngữ văn trong các bài cúng tế của mo, then, pựt cũng
chính là một bộ phận của văn học dân gian Tày – Nùng.
Văn học dân gian chính là tấm gương phản chiếu mọi mặt đời sống của con
người dân gian. Văn học dân gian Tày Nùng, bởi thế, là sự khúc xạ đời sống của
đồng bào Tày Nùng, với một cảm quan nghệ thuật độc đáo, với một phong vị miền
núi không sao trộn lẫn. Đời sống tinh thần phong phú, lối sống lối nghĩ phóng
khoáng, thật thà, mộc mạc hồn nhiên không cầu kì rào đón của đồng bào đã làm cho
34
văn học dân gian Tày Nùng giản dị, gần gũi như lời ăn tiếng nói của đồng bào,
nhưng đồng thời cũng thể hiện được tâm hồn tinh tế, nhạy cảm với cái đẹp và sự
nhân ái, bao dung, vị tha giữa con người với con người.
1.2. Folklore dân tộc Tày – Nùng.
1.2.1. Khái niệm Folklore.
Hiểu một cách thông dụng và đơn giản, Folklore (hay còn gọi là văn hóa dân
gian) là tri thức, trí tuệ, nhận thức, là khoa học, tình cảm và nghệ thuật của dân gian.
Nó là tất cả những giá trị trong toàn bộ các lĩnh vực sáng tạo văn hóa được chắt ra
từ thực tiễn sinh hoạt, lao động, sản xuất, đấu tranh… trong suốt chiều dài thời gian
và chiều rộng không gian của đại chúng nhân dân.
Folklore là một khái niệm mang tính quốc tế, được hiểu theo nhiều nghĩa rộng
hẹp khác nhau. Nó có tác giả đầu tiên đề xuất, có thời gian ra đời, trở thành một
môn học thuộc khoa học xã hội và nhân văn.
Khái niệm này được nhà nhân chủng học người Anh Wiliam John Thomp (bút
danh Merton) đề xuất năm 1846 trong một bài báo trên tạp chí Atheneum có tên là
FOLKLORE với chú thích Folklore = Folk + lore; Folk là thuộc về nhân dân, là dân
gian, Lore là tri thức, sự hiểu biết, là tinh thần, thậm chí là câu chuyện… Tác giả
đưa ra quan niệm chung về Folklore: là khái niệm dùng để chỉ những di tích văn
hóa vật chất, nhưng chủ yếu là văn hóa tinh thần có liên quan đến văn hóa vật chất
đó như phong tục, đạo đức, việc cúng tế, mê tín, dị đoan, các phong tục tập quán, ca
dao, cách ngôn… của cư dân thời xưa. Từ một thuật ngữ xã hội trên tạp chí, khái
niệm Folklore đã phát triển rộng nó có sự ảnh hưởng tới các trường phái nghiên cứu
khoa học ở Cựu lục địa và lan tỏa khắp thế giới trên thế giới. Năm 1872, Hiệp hội
Folklore quốc tế hình thành. Cũng như nhiều lí thuyết, nhiều tôn giáo, nhiều môn
học khác trên thế giới, khi đã lan tỏa trong không gian, trong thời gian, qua nhiều
thực tế khác nhau thì nó cũng được hiểu và vận dụng rất phong phú, nhưng chủ yếu
theo hai khuynh hướng: khuynh hướng thứ nhất muốn hiểu Folklore là tất cả các
hiện tượng của nền văn tinh thần và thậm chí cả một số hình thức của văn hóa vật
chất của nhân dân; khuynh hướng thứ hai lại muốn giới hạn thuật ngữ Folklore chỉ
là các sáng tác ngôn từ truyền miệng (sáng tác văn học) của nhân dân mà thôi. Như
35
vậy là có hai cách hiểu phổ biến: rộng và hẹp. Hiểu hẹp là coi nó như Nghệ thuật
dân gian hoặc Văn học dân gian. Hiểu rộng thì trung thành với quan điểm của
Merton: tương tự toàn bộ Văn hóa dân gian quá khứ. Tuy nhiên, dù hiểu khác nhau,
thì người nghiên cứu theo kiểu Folklore cũng giống nhau ở một số cung cách tiếp
cận như Tính quá khứ , Tính phi chính thống, Tính tổng thể .
Do được ghép bới 2 từ: folk (dân chúng, dân gian) và lore (trí tuệ) nên khi thuật
ngữ này lan toả ra khỏi biên giới nước Anh, nó được các nhà khoa học của những
ngành tiệm cận như dân tộc học, văn hoá học, văn học dân gian... sử dụng và giải
thích theo quan điểm riêng của mình. Theo GS. Đinh Gia Khánh, cho tới nay, có 3
khuynh hướng giải thích thuật ngữ này với những nội hàm khác nhau:
Khuynh hướng xã hội học phương Tây (Pháp): Đây là một khuynh hướng
hiểu khái niệm Folklore theo nghĩa rộng. Tuy nhiên khuynh hướng này đã nhấn mạnh
sự khác nhau giữa dân tộc học và Foklore khi khu biệt rằng: trong xã hội có giai cấp,
dân tộc học nghiên cứu mọi hiện tượng được lưu truyền qua chữ viết, còn Foklore
nghiên cứu mọi hiện tượng văn hoá lưu truyền qua cửa miệng (truyền khẩu) của các
giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau. Các nhà nghiên cứu ở Tây Âu quan niệm
folklore là toàn bộ các giá trị sáng tạo về tinh thần và các giá trị sáng tạo về vật
chất, đó là những giá trị truyền thống. Các nhà nghiên cứu ở VIệt Nam chịu ảnh
hưởng của quan niệm này đưa ra cách hiểu folklore là những sáng tác dân gian,
ngoài những loại hình văn học dân gian và nghệ thuật dân gian (âm nhạc, hội hoạ,
điêu khắc…), nó còn bao hàm cả những hình thức sáng tạo không đơn thuần có tính
nghệ thuật, như các nghệ thuật thực dụng (nghệ thuật gốm, nghệ thuật trang trí các
vật dụng sinh hoạt…), và các hình thức hội lễ, các tục lệ gia đình và xã hội. Lí giải
cách quan niệm này có nhà nghiên cứu khẳng định, vì hiểu theo nghĩa rộng trong
văn hoá dân gian có văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể. Cũng theo xu hướng này,
Folklore là sản phẩm của số đông, tức là tầng lớp nhân dân lao động để phân biệt với
số ít, là tầng lớp thượng lưu phong kiến. Các học giả tiêu biểu cho khuynh hướng này
là: Saintyves, Marinus, Espinoza... Nhược điểm của quan niệm rất rộng này là
không phân định được ranh giới rõ rệt giữa các ngành khoa học gần gũi nhau.
Khuynh hướng nhân loại học Anh- Mỹ: Ở Anh – Mỹ, các nhà nghiên cứu
36
đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ folklore với thực tại. Các nhà nghiên cứu tập
trung nghiên cứu các tác phẩm folklore và sức sống của nó trong đời sống đương
đại. Khuynh hướng này hiểu Folklore theo nghĩa rộng và không phân biệt rạch ròi
giữa nghiên cứu Folkore với dân tộc học hoặc nhân học. Các đại diện như:
Harthland, Lang, Frazer, Botkin... đều cho rằng: Folklore là một khoa học về truyền
thống nói chung của nhân loại ở khắp nơi trên thế giới. Cách hiểu này cho thấy khái
niệm Foklore sẽ bao gồm toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp
dân chúng, tương đương với thuật ngữ Folk - culture.
Khuynh hướng ngữ văn học Nga: các nhà nghiên cứu Nga – Xô viết cho
rằng folklore không phải là biểu thị toàn bộ nền nghệ thuật dân gian mà chỉ là văn
học dân gian truyền miệng (trường phái chịu ảnh hưởng ngữ văn học). Khuynh
hướng này đi theo hướng đối lập với các khuynh hướng khác khi thu rất hẹp nội
hàm khái niệm Folklore, coi Folklore là nghệ thuật ngôn ngữ của dân chúng. Quan
điểm này có cơ sở từ thực tế nghiên cứu văn bản những tác phẩm Folklore nổi tiếng
của những quốc gia có chữ viết ra đời sớm. Khi được văn bản hoá, những tác phẩm
Folklore bị tách khỏi phần diễn xướng của nó để chỉ còn là ngôn ngữ thuần tuý.
Tuy nhiên, vào cuối những năm 60, nhiều học giả Liên xô đã vượt lên quan điểm
ngữ văn học truyền thống để gắn ngôn ngữ với các thành tố khác trong một chỉnh
thể văn hoá dân gian. Cho dù nặng về nghiên cứu ngôn ngữ song rõ ràng khuynh
hướng này đã khắc phục được nhược điểm của hai khuynh hướng trên khi khẳng
định Folklore là một nghệ thuật. Khẳng định đặc trưng này, Folklore đã không
giống với dân tộc học song cũng không thể hoàn toàn giống với nghệ thuật ngữ văn.
Sách Bách khoa toàn thư Xô - viết xuất bản năm 1971 nhận định: "Folklore
là sáng tác dân gian, là hoạt động nghệ thuật của nhân dân lao động. Đó là thơ ca,
âm nhạc, múa hát, kiến trúc, nghệ thuật trang trí thực hành, hội hoạ, được nhân
dân sáng tạo ra và sống trong nhân dân".
Đinh Gia Khánh trong cuốn Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian đã nhận
định: “Quan điểm này thực sự đã khắc phục được sự khu biệt quá hẹp và quá khô
cứng của trường phái ngữ văn học, đồng thời phân định đựơc đối tượng độc lập
của Folklore qua việc kh ng định tính nghệ thuật như một đặc trưng tiêu biểu.”
37
[24]
Như vậy, thuật ngữ Folklore đã từng được dịch sang tiếng Việt là văn học dân
gian (mang dấu ấn của trường phái nghiên cứu ngữ văn học Nga), văn nghệ dân
gian (mang dấu ấn của trường phái xã hội học Tây Âu), và hiện nay là văn hoá dân
gian (theo cách quan niệm của khuynh hướng nhân loại học Anh - Mỹ). Thực tế,
khái niệm văn học dân gian có liên hệ mật thiết với thuật ngữ folklore nhưng không
phải là đồng nhất. Nhưng bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng folklore là những
sáng tác dân gian, hoạt động nghệ thuật của nhân dân lao động, là toàn bộ các giá trị
sáng tạo về tinh thần. Những nhà nghiên cứu theo quan niệm này cho rằng folklore
là thuật ngữ dùng để chỉ các tác phẩm thuộc các loại hình nghệ thuật như âm nhạc
dân gian (gồm cả thanh nhạc, khí nhạc), múa dân gian, nghệ thuật tạo hình dân gian
(tranh, tượng dân gian), nghệ thuật biểu diễn dân gian (múa rối, trò diễn, chèo,
tuồng dân gian). Như vậy folklore có ba thành tố tạo thành: nghệ thuật ngữ văn dân
gian, nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian.
Theo định nghĩa của UNESCO, folklore được hình thành theo truyền thống
của các nhóm người, các thành viên, phản ánh sự chờ đợi, niềm hi vọng của cộng
đồng trong những biểu hiện tương ứng với nó về nhận thức xã hội và văn hoá. Các
quy tắc, giá trị của folklore được truyền đạt qua truyền miệng, mô phỏng hoặc bằng
những con đường khác. Hình thức của nó là ngôn từ, âm nhạc, vũ đạo, trò chơi, thần
thoại, phong tục, nghi lễ, nghề thủ công, kiến trúc và các loại nghệ thuật khác. Đây
cũng là một quan niệm về folklore mang nội hàm khá rộng. Folklore được hiểu là
văn hoá truyền thống, bao gồm cả những giá trị truyền thống về tinh thần và giá trị
truyền thống về vật chất của nhân dân.
Ở Việt Nam quan niệm Folklore được nhập vào cùng với việc thành lập Viễn
Đông bác cổ đầu thế kỉ XX. Từ đó cho đến 1945, nó được hiểu theo nghĩa rộng. Sau
1954, nó được hiểu rất hẹp, gần như chỉ nói đến Folklore ngôn từ, cuối những năm
1970, hiểu rộng ra là Nghệ thuật dân gian và hiện nay hiểu tương đương với Văn
hóa dân gian. Việc quan niệm rộng hẹp và chuyển ngữ sang tiếng Việt khác nhau
như vậy là do sự thay đổi nhận thức của chúng ta về văn hoá dân gian và cũng do sự
38
tiếp thu ảnh hưởng của các quan niệm folklore từ các trường phái khác nhau trên thế giới.
Theo Đinh Gia Khánh, văn hoá dân gian (folklore) được quan niệm rất khác
nhau trong giới nghiên cứu văn hoá dân gian quốc tế, bao gồm toàn bộ văn hoá tinh
thần của nhân dân được tiếp cận dưới góc độ thẩm mỹ. Như vậy văn hoá dân gian
bao gồm chủ yếu là văn nghệ dân gian được nhận thức trong mối quan hệ hữu cơ và
nguyên hợp với toàn bộ hoạt động thực tiễn của nhân dân và mặt khác lại bao gồm
cả mọi hiện tượng trong hoạt động thực tiễn này mà còn chứa đựng cảm xúc thẩm
mỹ.
Theo Chu Xuân Diên, folklore thuật ngữ phiên âm từ tiếng Anh (folklore = sự
hiểu biết của nhân dân, trí tuệ của nhân dân) thường được dùng song song với thuật
ngữ văn học dân gian….
Theo Trần Quốc Vượng, nói folklore Việt Nam là nói tổng thế mọi sáng tạo,
mọi thành tựu văn hóa của dân gian ở mọi nơi trong mọi thời của mọi thành phần
dân tộc đang hiện tồn trên lãnh thổ Việt Nam.
Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển
thuật ngữ văn học [12] đưa ra hai quan niệm chính:
+ Folklore là sáng tác dân gian, trong đó có những sáng tác nghệ thuật (như
thơ ca, âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc, vũ đạo…) và những sáng tác không phải nghệ
thuật (như lễ hội, tập quán, tín ngưỡng…). Quan niệm này đang thịnh hành ở một số
nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ…
+ Folklore là sáng tác văn học dân gian truyền miệng. Quan niệm này thịnh
hành ở Liên Xô (trước đây), chú trọng tới các sáng tác nghệ thuật của nhân dân có
mang yếu tố ngôn từ ( truyện kể dân gian, bài ca dân gian…)
Ở ta, các thuật ngữ “văn chương truyền miệng”, “văn chương bình dân”, “văn
học dân gian” có nội dung gần gũi với quan niệm thứ hai trên đây về folklore.
Như vậy, các quan niệm về folklore ở Việt Nam cũng rất phong phú. Điểm
qua những quan niệm trên, ta thấy, có một số nhà nghiên cứu cho rằng folklore cần
được hiểu là toàn bộ các sáng tác của dân gian, bao gồm toàn bộ những giá trị sáng
tạo về tinh thần và vật chất… mang hồn dân gian. Những nhà nghiên cứu theo xu
hướng này, tiêu biểu là GS Trần Quốc Vượng, coi folklore là tổng thể mọi sáng tạo,
39
mọi thành tựu văn hóa của dân gian ở mọi nơi trong mọi thời của mọi thành phần
dân tộc đang hiện tồn. Nó thậm chí có thể là một ngôi đền, một cái đình mà cũng có
thể là một mẩu huyền thoại hay một câu chuyện thần kỳ… Đây là cách quan niệm
ảnh hưởng của cách quan niệm ở Tây – Âu (chịu ảnh hưởng xã hội học).
Đỗ Bình Trị trong cuốn văn học dân gian Việt Nam tập 1 NXB giáo dục
1991 có viết: “Ở một số nước, từ Folklore được hiểu theo nghĩa gốc của nó, dùng để
chỉ các loại hình nghệ thuật dân gian và cả tín ngưỡng dân gian” [50, tr.4] (trong
trường hợp này Folklore trùng với “ văn hóa dân gian” ở việt Nam).
Bên cạnh đó, có một số nhà nghiên cứu lại cho rằng folklore cần được hiểu
là toàn bộ những tác phẩm văn hoá tinh thần của nhân dân được tiếp cận dưới giác
độ thẩm mỹ. Những nhà nghiên cứu theo xu hướng này, tiêu biểu là GS Đinh Gia
Khánh cho rằng văn hoá dân gian chủ yếu là văn nghệ dân gian, bao gồm ngữ văn
dân gian và thành phần ngoài ngữ văn (tạo hình, vũ nhạc, phong tục tập quán, lễ
hội, tín ngưỡng…). Đây là cách quan niệm ảnh hưởng của cách quan niệm ở Nga.
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu khác lại muốn thu hẹp hơn nữa nội hàm
của thuật ngữ folklore, coi thuật ngữ folklore tương đương với thuật ngữ văn học
dân gian.
Cách quan niệm, theo các nhà nghiên cứu, thoả đáng hơn cả là cách quan
niệm của Đinh Gia Khánh: Folklore bao gồm toàn bộ văn hóa tinh thần của nhân
dân được tiếp cận dưới giác độ thẩm mĩ. Như vậy, văn hoá dân gian bao gồm chủ
yếu là văn nghệ dân gian được nhận thức trong mối quan hệ hữu cơ và nguyên hợp
với toàn bộ hoạt động thực tiễn của nhân dân và mặt khác lại bao gồm cả mọi hiện
tượng trong hoạt động thực tiễn này mà còn chứa đựng cảm xúc thẩm mỹ.
Trong bài luận văn này, chúng tôi đồng ý với quan niệm Folklore là một khái
niệm bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần dân gian. Văn học dân gian,
văn nghệ dân gian… tựu chung lại đều là thành tố của văn hóa dân gian, là bộ phận
tạo nên tổng thể diện mạo của văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian có ảnh hưởng
trực tiếp đến văn học dân gian, văn nghệ dân gian và ngược lại, bởi vậy, sẽ thật là
thiếu sót nếu như nghiên cứu ảnh hưởng của văn học dân gian đến một đối tượng
40
nào đó mà bỏ qua tác động tương ứng của văn hóa dân gian đến đối tượng đó.
1.2.2. Folklore dân tộc Tày – Nùng.
Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa nào cụ thể về khái niệm Folklore Tày –
Nùng, nhưng dựa trên khái niệm chung về Folklore thì có thể đưa ra khái niệm như
sau: Folklore dân tộc Tày – Nùng là toàn bộ những giá trị văn hóa dân gian bao
gồm những giá trị tinh thần và giá trị vật chất của đồng bào Tày – Nùng.
Folklore (hay văn hóa) của một tộc người chính là toàn bộ những giá trị tinh
hoa, những bản sắc đậm nét mang đậm dấu ấn của tộc người đó. Chính vì vậy
Folklore Tày Nùng là bản sắc của cộng đồng người Tày Nùng. Nói như vậy không
có nghĩa là Folklore của dân tộc Tày và Folklore của dân tộc Nùng là một, mỗi tộc
người tất yếu phải có những đặc sắc, cá tính riêng dị biệt. Nhưng xét về mặt tổng
quan chúng ta tạm thời bỏ qua thiểu số những dị biệt để nhìn vào những điểm tương
đồng lớn của hai dân tộc Tày, Nùng. Trong lịch sử hình thành và phát triển của
mình, bên cạnh những cố gắng nỗ lực giữ gìn bảo tồn những bản sắc riêng của dân
tộc mình thì người Tày Nùng vẫn có sự giao thoa, ảnh hưởng mạnh mẽ lẫn nhau và
mở rộng sự tác động với cả những dân tộc anh em khác.
Phải khẳng định Folklore Tày Nùng giàu và đẹp, nó cho chúng ta có được
một cái nhìn khách quan, toàn diện về hai tộc người có nhiều nét độc đáo ở miền
Việt Bắc Việt Nam.
Tiểu kết.
Việt Bắc là một vùng văn hóa có nhiều đặc thù. Tộc người chủ thể: Tày -
Nùng với lịch sử và văn hóa của họ tạo ra nét đặc thù này. Tuy nhiên, những đặc thù
này không phá vỡ tính thống nhất của văn hóa Việt Bắc và văn hoá cả nước.
Tày - Nùng là hai dân tộc có bề dày văn hóa ấn tượng, trong suốt quá trình
phát triển của mình, họ đã tạo nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc. Những thành
tựu của họ về mặt văn hóa không hề thua kém bất cứ dân tộc anh em nào khác. Với
sự phong phú về các loại hình nghệ thuật (tạo hình, biểu diễn, văn học dân gian), sự
đa dạng, độc đáo về tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán... người Tày
– Nùng đã tự khẳng định một nền văn hóa giàu đẹp, đậm đà bản sắc.
Ngày nay mặc dù trải qua nhiều biến động của lịch sử, xã hội, nhưng cũng
41
như nhiều dân tộc khác sinh sống trên đất nước Việt Nam, bên cạnh sự giao lưu,
tiếp thu các yếu tố văn hóa của các dân tộc láng giềng, dân tộc Tày vẫn bảo tồn
được bản sắc văn hóa truyền thống của riêng mình. Bên cạnh đó, đời sống của họ
cũng có nhiều thay đổi, xóa bỏ được nhiều tập tục lạc hậu, nạn mù chữ được xóa bỏ
hoàn toàn, đời sống của người dân ngày một nâng lên, cơ sở hạ tầng ngày càng ổn
định và phát triển. Và cùng với sự phát triển của xã hội, người Tày – Nùng đã và
đang đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới,
xã hội mới, góp phần xây dựng quê hương đất nước ngày càng một văn minh, giàu
42
đẹp.
CHƢƠNG 2. DẤU ẤN VĂN HÓA DÂN GIAN TÀY – NÙNG TRONG THƠ
DƢƠNG THUẤN.
2.1. Khái quát thơ ca Tày – Nùng thời kì hiện đại.
Người Tày Nùng theo chiều dài thời gian đã phát triển nền văn hóa của dân
tộc mình trở thành một nền văn hóa đậm đà bản sắc. Nền văn học dân gian của họ
cũng từ đó mà có điều kiện để phát triển nở rộ với những nét phong phú và đặc sắc
riêng, nhưng không chỉ dừng lại ở đó, trải theo dòng thời gian, văn học Tày Nùng
vẫn không ngừng phát triển, và từ đầu thế kỉ XX đến nay, văn học Tày Nùng đã tạo
nên một diện mạo mới - một nền văn học hiện đại với một đội ngũ tác giả khá đông
đảo, một khối lượng tác phẩm phong phú ở tất cả các thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu
thuyết và cả lí luận – phê bình văn học…[51, tr.139 – 140]
Khi nhận xét về thơ ca Tày Nùng hiện đại, Xuân Diệu đã từng phải thốt lên:
“mở ra trước tâm trí ta có thể nói là một kho châu báu chưa bao giờ ngờ tới… thơ
ca miền núi tuôn những ngọn suối trẻ trung tươi mát vào con sông lớn văn học Việt
Nam – những ngọn suối trẻ hiện nay và cũng như là bắt nguồn từ những tuổi đầu
mơ mộng của nhân loại”.
Có thể thấy trong lĩnh vực thơ ca, thi đàn Việt Nam trong hơn nửa thế kỉ qua
đã ghi nhận nhiều tên tuổi của những tác giả người dân tộc thiểu số nói chung và
dân tộc Tày Nùng nói riêng như: Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Nông Viết
Toại, Nông Minh Châu, Ma Trường Nguyên, Y Phương, Mai Liễu, Dương Thuấn…
Tuy ngoài Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn và Dương Thuấn có nhiều tác phẩm
sáng tác bằng cả tiếng Tày và tiếng Việt, còn lại nhiều nhà thơ khác thì chủ yếu
sáng tác bằng tiếng Việt nhưng trong các tác phẩm của họ vẫn mang dấu ấn sâu sắc
về nguồn cội văn hóa dân tộc. Trong tình hình hiện nay, xu hướng trở về với những
giá trị dân gian, tôn vinh những nét văn hóa đặc sắc của tộc người và nhất là với
mục tiêu xây dựng một nền Văn học Việt Nam phong phú, đa dạng, cùng với nhu
cầu tìm hiểu lẫn nhau giữa các dân tộc đang trở thành một nhu cầu bức thiết thì
những tác phẩm ấy không chỉ đáp ứng cho nhu cầu văn hóa, văn học của dân tộc
mình mà còn đáp ứng nhu cầu của đời sống văn học nước nhà trong thời kì hiện đại.
Nói đến khái niệm thơ ca Tày Nùng hiện đại, ta phải giải quyết vấn đề rằng
43
thơ ca Tày Nùng bắt đầu từ đâu thì được gọi là hiện đại? Bàn về vấn đề này, thì
trước năm 1945, thơ ca Tày Nùng hầu như chưa mang dáng dấp của một nền thơ ca
hiện đại. Hoàng Đức Hậu (1890 – 1945) có thể coi là người bắc cầu cho thơ ca Tày
Nùng từ thơ ca dân gian sang thơ ca hiện đại. Tuy thơ ông chưa phải là thơ hiện đại
nhưng phải nói rằng ông đã đặt nền móng cho thơ ca Tày Nùng hiện đại với một số
lượng tác phẩm tương đối đồ sộ được sáng tác bằng cả 3 thứ tiếng: tiếng Tày, tiếng
Việt và tiếng Hán. Các tác phẩm của ông được đồng bào Tày – Nùng rất yêu thích
và được truyền khẩu rộng rãi trong dân gian. Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại,
Nông Minh Châu và một số nhà thơ trưởng thành sau 1945 đã chịu ảnh hưởng khá
sâu sắc nghệ thuật thơ của Hoàng Đức Hậu.
Cách mạng tháng Tám thành công đã thật sự mở ra một trang mới đối với
quá trình phát triển của các dân tộc thiểu số đang sinh sống trên đất nước Việt
Nam, trong đó có dân tộc Tày… Và đối với văn học nói chung, thể loại thơ nói
riêng – bối cảnh lịch sử mới chính là điều kiện rất thuận lợi tác động trực tiếp vào
sự phát triển của văn học (trong đó có thơ ca) dân tộc Tày.[51,tr.143] Hoàng Văn
Thụ với bài thơ Nhắn bạn (1944) vẫn được nhiều người coi là tác phẩm bắt đầu thời
kì hiện đại của thơ ca Tày Nùng. Sau đó mười năm, Nông Quốc Chấn với bài thơ
Dọn về làng chính là sự kế tiếp mới về tinh thần và nghệ thuật của các nhà thơ Tày
trong thời đại mới”.[51 ,tr.146] Sau những cột mốc đầu tiên đó, cho đến ngày hôm
nay, trải qua hơn nửa thế kỉ, thơ ca Tày Nùng hiện đại đã nở rộ với nhiều tên tuổi và
tác phẩm xuất sắc được nghi nhận yêu thích. Những nhà thơ ấy đã xây dựng và phát
triển thơ ca Tày Nùng lên một tầm cao mới mà ở đó, thơ ca Tày Nùng có một vị trí
quan trọng, hòa nhập với nền thơ ca Việt Nam hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc
riêng đặc sắc của dân tộc mình, góp phần làm nên một nên thơ ca Việt Nam phong
phú, đa dạng trong thống nhất, như PGS.TS Trần Ngọc Vương từng nói “Sáng tạo
của các thế hệ nhà thơ Tày hiện đại đã làm cho thơ Tày hiện đại trở thành một ví dụ
điển hình của mối quan hệ “dòng riêng giữa nguồn chung”.
Nhìn chung, nội dung bao trùm lên thơ ca Tày thời kì hiện đại là một tình
yêu quê hương tha thiết, lòng tự hào sâu sắc về quê hương, về con người và dân tộc
44
mình – một dân tộc có nền văn hóa, văn minh lâu đời và giàu bản sắc. [51 ,tr.142]
Đồng bào Tày Nùng sống gần gũi chan hòa với thiên nhiên, con người chân
thật, cởi mở, trọng nghĩa trọng tình, dễ tin, mến khách, có tinh thần cố kết cộng
đồng bền chặt, và hơn hết, họ có lòng tự hào, tự tôn dân tộc rất cao. Người Tày
Nùng gắn bó với núi non, với cỏ cây muông thú. Làn gió mới của lịch sử và thời đại
thổi vào đã phần nào làm đổi thay cuộc sống của họ, nhưng người Tày Nùng nói
chung và các nhà thơ Tày Nùng nói riêng vẫn luôn ý thức về quê hương nguồn cội
nơi họ sinh ra và lớn lên, nơi nuôi dưỡng đắp bồi tâm hồn cho họ. Bởi lẽ đó, trong
các sáng tác của họ, hình ảnh quê hương và những nét đẹp trong văn hóa của dân
tộc mình đã trở thành đề tài chủ đạo. Quê hương ấy hiện lên với sự phát triển, với
những thay da đổi thịt, những chuyển biến lớn lao và kì diệu nhưng vẫn mang đậm
nét đặc sắc vốn có của xứ sở mình.
Núi rừng việt Bắc với những dãy núi, những ngọn đồi, những rừng cây, con
suối, những nương ngô, những bản làng yên ả, những bóng áo chàm, tiếng lượn
nàng ới và âm vang đàn tính… đã đi vào thơ ca Tày Nùng hiện đại một cách bình dị
và tự nhiên, làm cho những bài thơ hiện đại vẫn gần gũi, quen thuộc với hơi thở, với
linh hồn dân tộc. Qua thơ Tày Nùng, những người con xa xứ vẫn tìm thấy hình
bóng quê hương mình, và những ai chưa từng đặt chân đến nơi đây cũng có thể
phần nào hình dung về một miền quê biên cương nơi địa đầu Tổ quốc, về những
đồng bào dân tộc với một bản sắc văn hóa rất riêng: “Ơi cái làng của mẹ sinh con/
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc/ Có con đường trâu bò đi vàng đen kìn kịt/ Có niềm
vui lúa chín tràn trề/ Có tình yêu tan tành tiếng thác/ Vang lên trời/ Vọng xuống
đất/ Cái tên làng Hiếu Lễ của con” (Tên làng – Y phƣơng); “Hoa cháy đỏ miền
rừng Phja Bjóc/ Dòng Khuổi Slao con gái tắm cùng trăng/ Hút thuốc lá Cao Bằng/
Mới thấy đất quê mình thơm lâu đến thế/ Đất sinh ra em/ Đất hiền hòa như mẹ/ Đất
Hòa An nghe giọng nói mềm sao/ Đất Trùng Khánh, giọng miền cao…” ( Lên Cao
Bằng – Y phƣơng)
Qua những trích dẫn tiêu biểu trên đây, chúng ta phần nào có thể thấy được
hình ảnh quê hương trong lòng những người con dân tộc đẹp đẽ, thân thương, gần
gũi và gắn bó làm sao… Mỗi miền quê đều mang những nét riêng không lẫn vào
45
đâu được, đồng bằng với ruộng lúa mênh mông, với những con sông lớn lững lờ trôi
trầm mặc, trung du với rừng cọ đồi chè, miền biển mênh mông sóng nước, Tây
nguyên ám ảnh sắc đỏ ba-zan, miền Trung cát trắng và nắng gió, niền nam trù phú
miệt vườn… Mỗi miền quê đều đặc trưng với những nét riêng của xứ sở mình.
Người dân tộc Tày Nùng yêu quê hương từ tình yêu những cánh rừng con suối, từ
mái nhà sàn, từ những viên đá nhỏ, những thứ tưởng chừng như vô tri vô giác ấy
với họ là điều thiêng liêng, là một phần máu thịt, gắn chặt họ với cộng đồng, nguồn
cội. Họ yêu đồng bào mình, yêu những con người cần lao ngay thẳng, chăm chỉ,
hiền lành như cỏ cây con suối, và chứa chan tình người, tình yêu: “Sáng tinh mơ ra
suối gánh sáu bắng nước/ Tối nhọ mặt người mới rời ruộng rời nương/ Tay ai cũng
khéo/ Chái bếp giậu hoa xếp hàng/ Khung cửi đêm đêm rộn rang thổ cẩm…” (Con
gái bản tôi – Mai Liễu); “Mẹ còm cõi như quê nghèo ven núi/ Sớm tối ra vào góc
bếp lui cui…” ( Gọi vía – Mai Liễu).
Người Tày Nùng không những yêu thương mà còn tự hào về quê hương và
nguồn cội của mình. Các nhà thơ Tày - Nùng đã nói giúp đồng bào họ, đã thay mặt
những người con của rừng núi nói lên tình yêu sâu sắc với nơi họ sinh ra và gắn bó.
Nếu cắt rời khỏi quá khứ, cách li khỏi không gian văn hóa đã khai sinh ra con
người và tâm hồn mình ấy thì nhà thơ như đã tự cắt rời khỏi cội rễ văn hóa, cắt rời
khỏi cộng đồng, đã trở thành kẻ lạc lõng, không có quá khứ và ch ng có tương
lai.[51,tr.156] Qua thơ họ, ta thấy lòng tự tôn và ý thức dân tộc sâu sắc: “Tôi – đứa
con của bản Hon/ Đứa con của dân tộc Tày/ Tôi - người con của tự do/ Công dân
của nước Việt Nam độc lập/ Tôi – nhà thơ của hai thế kỉ…” (Từ bản Hon đến
Washington – Dƣơng Thuấn).
Họ biết quê hương mình, đồng bào mình còn nghèo, còn nhiều khó khăn,
thiệt thòi, nhưng cũng chính vì thế mà họ yêu quê hơn, gắn bó với quê hơn và tìm
cách thích nghi, cải tạo miền quê ấy: “Dẫu có làm sao thì cha vẫn muốn/ Sống trên
đá (đừng chê đá gập ghềnh)/ Ở trong thung (không chê thung nghèo đói)/ Ta như
sông như suối/ Lên thác xuống ghềnh không kêu cực nhọc/ Người đồng mình thô sơ
da thị/ Ch ng mấy ai nhỏ bé đâu con…” ( Nói với con –Y phƣơng) ; “Con ơi con/
Làm người trai lũng núi/ Khi đi rừng/ Nhớ mang theo dao/ Lối trong rừng/ Không
ai mở sẵn/ Bằng con dao sắc của mình/ Con tự mở lối đi” (Lời ngƣời cha lũng núi
46
– Lƣơng Định).
Người Tày Nùng ngoài lòng tự tôn dân tộc thì vẫn luôn ý thức được mình là
một bộ phận của một cộng đồng lớn hơn – họ còn là dân của đất nước Việt Nam, là
một trong 54 dân tộc anh em gắn bó. Thơ ca Tày – Nùng hiện đại có một số lượng
tương đối lớn những bài thơ viết về truyền thống đấu tranh chống kẻ thù bảo vệ quê
hương, bảo vệ biên cương của Tổ Quốc, đi theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ
đứng lên giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, đồng bào mình: “Chúng tôi
người Việt Bắc/ Không một lúc nào quên/ Giành Nam Bắc nối liền/ Giành lấy ngày
thống nhất” (Tiếng ca người Việt Bắc – Nông Quốc Chấn); “Chúng con là lính
Bác Hồ/ Sinh ra từ trăm miền phù sa đỏ/ Có người xinh tươi câu quan họ/ Có người
cao to Sli, lượn, Nàng ơi/ Nhận khẩu súng, đeo ngôi sao/ Đi dép lốp đạp bao thằng
xâm lược…” (Thưa mẹ con đã lớn – Y Phương).
Trong ý thức tự hào về quê hương nguồn cội, các nhà thơ Tày Nùng luôn thể
hiện sự tự hào của mình về một nền văn hóa lâu đời đậm đàm bản sắc của dân tộc
mình. Nền văn hóa giàu đẹp ấy thể hiện qua những phong tục tập quán, những nét
đẹp truyền thống của lao động và sinh hoạt thường ngày: “Câu lượn nào của quê
hương tôi cũng ấm/ Điệu then nào của quê hương tôi cũng thương” (Thổ cẩm –
Dương Khau Luông); “Sáng mồng hai tết/ Con gái và con rể/ Đưa cháu về bên
ngoại/ Mang theo con gà thiến béo tròn/ Và chai rượu thật ngon/ Con cháu vào
cửa/ Tiếng cười lại đầy nhà”. (Tục lệ - Hữu Tiến)
Như vây, có thể nói tình yêu quê hương, xứ sở, lòng tự tôn và tự hào về một
dân tộc giàu bản sắc văn hóa đã làm nên nối bật về nội dung của thơ Tày hiện đại,
góp phần làm nên sự phong phú, đa sắc của thơ Việt Nam thời kì hiện đại.
[51,tr.170]
Về nghệ thuật, các nhà thơ Tày Nùng hiện đại vẫn chịu sự ảnh hưởng tương
đối sâu sắc và đã có sự kế thừa các thi pháp truyền thống của dân tộc về hệ thống
thể loại, ngôn ngữ và hình tượng thơ.
Thực chất dân ca Tày Nùng, tức là các bài Sli, Lượn, bài Then, hay Phong
slư nếu bỏ đi phần nhạc thì phần lời chính là những bài thơ dù cho chưa đạt đến sự
nghiêm ngặt và chuẩn mực trong các yếu tố như vần điệu, niêm luật. Các nhà thơ
47
Tày Nùng hiện đại, dù vô tình hay hữu ý, đã kế thừa những thể thơ như thơ 5 chữ,
thơ 7 chữ và thơ tự do truyền thống của dân tộc vào các sáng tác của mình, và phát
triển những thể thơ truyền thống đó lên một nấc thang mới hiện đại hơn.
Về ngôn ngữ thơ, được nuôi dưỡng trong một cộng đồng mà từ lời ăn tiếng
nói hàng ngày đã có chất thơ, nên các nhà thơ Tày Nùng đã có sự ảnh hưởng khá rõ
rệt của lối diễn ngôn dân gian. Những lối nói trùng điệp, ẩn dụ, ví von, bóng bẩy,
vần điệu mượt mà giàu sắc thái thẩm mĩ của các thể loại dân gian như Sli, Lượn,
Then, Phuối pác, Phong slư và những câu tục ngữ, thành ngữ dân tộc được các nhà
thơ Tày – Nùng sử dụng hết sức tự nhiên và linh hoạt trong các tác phẩm của mình.
Một số nhà thơ tâm huyết và thiết tha với tiếng nói của dân tộc mình như Nông
Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại và Dương Thuấn còn sáng tác thơ
song ngữ để thể hiện được một cách chân thực tính dân tộc và bản sắc dân tộc mình.
Điều này quả thật là đáng nghi nhận và trân trọng.
Về hình tượng thơ, các nhà thơ Tày Nùng hiện đại đã có ý thức đi tìm những
hình tượng mới lạ, giàu tính biểu cảm mà gần gũi, gắn liền với cách nghĩ, cách cảm
của dân tộc mình.
Có thể nói rằng, ảnh hưởng của thi pháp thơ ca truyền thống đã có tác động tích
cực vào sự phát triển của thơ ca Tày thời kì hiện đại. Chúng đã gớp phần làm giàu có
thêm cho hệ thống thể loại, làm phong phú thêm vốn ngôn ngữ thơ và tạo ra những nét
riêng biệt trong hệ thống hình tượng thơ. Và điều quan trọng nhất là chúng góp phần giữ
gìn bản sắc dân tộc trong thơ ca Tày thời kì hiện đại. [51 ,tr.189]
Bên cạnh những thành tựu và đóng góp lớn không thể phủ nhận của các nhà
thơ Tày Nùng hiện đại trong việc giới thiệu bản sắc dân tộc mình đến với rộng rãi
độc giả trong cả nước, vẫn còn tồn tại một số hạn chế như nhiều cây bút trẻ còn
thiếu kiến thức văn hóa cộng đồng mình, và một số còn chưa thật thiết tha, mặn mà
với bản sắc văn hóa dân tộc mình. Vốn quý văn hóa dân tộc, vì vậy chưa được khai
thác và phát triển xứng đáng, thơ ca Tày Nùng hiện đại chưa thật sự trở thành món
ăn tinh thần của đồng bào dân tộc.
2.2. Dƣơng Thuấn – cuộc đời và sự nghiệp.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, mảng sáng tác về miền núi chiếm vị trí quan
48
trọng. Những nhà văn, nhà thơ vùng cao đã góp phần không nhỏ trong việc mang lại
những âm điệu mới cho nền văn học dân tộc. Thơ ca Việt Nam đã ghi dấu nhiều
gương mặt thơ ấn tượng là người dân tộc thiểu số tiêu biểu như Nông Quốc Chấn,
Bài Tài Đoàn, Y Điêng, Lương Quy Nhân, Y Phương, Lò Ngân Sủn, Inrasara, và
Dương Thuấn…
Dương Thuấn là một người con của dân tộc Tày, của núi rừng Việt Bắc, ông
sinh ngày 7 tháng 7 năm 1959 tại bản Hon, xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, Bắc Kạn.
Cùng với nhiều nhà thơ dân tộc thế hệ thứ ba, Dương Thuấn đã tiếp nối các thế hệ
cha anh đi trước và hình thành cho mình một phong cách tài hoa, độc đáo, đóng góp
vào sự phát triển của văn học các dân tộc thiểu số nói riêng và văn học hiện đại Việt
Nam nói chung.
Dương Thuấn là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca các dân tộc
thiểu số trong nền thơ Việt Nam đương đại. Khi còn ngồi trên giảng đường trường
Đại học Sư phạm Việt Bắc, Dương Thuấn đã tham gia viết văn. Truyện ngắn đầu
tay của ông với tựa đề Mùa hoa mạ thứ 3 - xuất bản năm 1981 đã đưa ông đến với
con đường văn chương. Chục năm sau, tập thơ đầu tay Cưỡi ngựa đi săn viết cho
thiếu nhi năm 1991 đã được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải A. Từ đó đến nay ông
đã lần lượt cho ra đời hơn 20 tập thơ: Đi tìm bóng núi (1993), Đi ngược mặt trời
(1995), Bà lão và chích chòe (1997), Hát với sông Năng (2001), Đêm bên sông yên
lặng (2004), Thơ với tuổi thơ (2005), Chia trứng công (2006), Lính Trường Sa thích
đùa (2006), Soi bóng vào tôi (2009), trường ca Mười bảy khúc đảo ca (2002) và các
tập thơ tiếng Tày: Lục pjạ hết lúa (1995), Slíp nhỉ tua khoăn (2002)… Hai lần liên
tiếp ông được nhận giải B của Hội Văn nghệ dân tộc thiểu số năm 2000 và 2006 với
tập thơ Mười bảy khúc đảo ca và Chia trứng công. Không chỉ có thế, ông còn được
Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam trao giải B cho tập thơ Đêm bên dòng
sông yên lặng vào năm 2005. Ngoài ra, ông còn được trao tặng hàng chục giải
thưởng khác của các tổ chức chính trị, xã hội, các cuộc thi thơ do các báo và nhà
xuất bản Trung ương tổ chức. Đặc biệt, trong những tập thơ của ông đã xuất bản,
trong những tập thơ anh đã xuất bản, có những bài thơ đã được nhạc sĩ An Thuyên
và nhạc sĩ Cầm Phương phổ nhạc như Khúc ca cao nguyên, Đi tìm bóng núi, Tình
49
ca bên suối, Lá trầu… Đặc biệt là bộ tuyển tập thơ song ngữ Tày - Kinh công phu
trên 2000 trang mới đây đã được ghi vào sách Giness Kỷ lục Việt Nam khiến không
ít người thán phục. Ngoài sáng tác thơ, Dương Thuấn còn nghiên cứu văn hóa. Ông
vừa cổ súy việc bảo tồn và phát triển trong xu hướng hội nhập vừa trăn trở đối với
từng bước đi của văn học dân tộc thiểu số.
Dương Thuấn được rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, đánh giá cao. Nhà thơ
Triệu Lam Châu tâm sự: “Cảm giác đầu tiên của tôi là choáng ngợp trước thành
công của người bạn thơ Tày ở miền Việt Bắc quê hương. Nó như một làn gió thu se
lạnh mang nét thần diệu của tâm hồn Tày quê mình, phả vào cái nóng miền Trung,
làm cho cả đất trời nơi đây trở nên mát rượi và nhuốm cái lâng lâng của núi rừng
sâu th m xa xôi mà xiết bao gần gũi”[4]. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mới đầu còn
“hơi lo anh không làm nổi”. “ Ấy vậy mà chàng trai núi ấy đã vượt qua trái núi lớn
để đem thơ về với bản Hon dưới dạng nguyên chất của anh. Thật đáng qúy!”
[8,tr.13]. Nhà thơ Trần Anh Thái thì công nhận: “Tôi rất bất ngờ và kính trọng, tôi
cho rằng Dương Thuấn thực sự là một gương mặt thi ca quan trọng và đồ sộ trong
các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam”. Diệu Hường Mimmi Begstrom thì khẳng
định: “Bộ tuyển tập sáng tác bằng song ngữ đồ sộ của Dương Thuấn không chỉ là
trường hợp hiếm có đối với văn học trong nước mà cả văn học thế giới cũng rất
hiếm. Đây là kết quả của quá trình lao động nghiêm túc, là sản phẩm quý báu mà
nhà thơ Dương Thuấn dành tặng cho độc giả trong nước và hải ngoại”...[19]
Là người con của xứ Tày – Bắc Kạn, những vần thơ của Dương Thuấn luôn
mang đậm hơi thở cuộc sống vùng cao từ khung cảnh thiên nhiên, đời sống sinh
hoạt đến tâm hồn nếp suy nghĩ của con người qua giọng thơ bình dị, đầy sức lôi
cuốn đặc biệt ở cách sử dụng ngôn từ ví von, so sánh đầy tính trực cảm và rất giàu
biểu tượng – nét đặc trưng trong tư duy người dân tộc thiểu số. Dương Thuấn bộc
bạch: “Tôi làm thơ bằng cả hai thứ tiếng: Tày và Kinh. Khi viết tiếng Tày, tôi không
nghĩ chỉ viết cho người Tày đọc, hoặc khi viết bằng tiếng Kinh, tôi cũng không nghĩ
chỉ viết cho người Kinh đọc. Tôi chỉ nghĩ đến đối tượng đọc của tôi là con người.
Theo tôi nhà thơ phải đứng trên sự vật, trên cả thời đại mình đại để đem tiếng nói
yêu thương tâm huyết nhất của mình đến với mọi người. Tôi luôn luôn muốn kh ng
50
định với mọi người rằng: Tôi là như thế! Dân tộc tôi là như thế![10] Là người con
của dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên từ quê hương Việt Bắc, ông đã kế tục và
phát huy truyền thống những cây bút tiêu biểu viết về đề tài miền núi như Nông
Minh Châu, Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Triệu Kim Văn… Hình ảnh núi
rừng, cuộc sống nơi rẻo cao, phong tục tập quán của người dân miền núi đã đi vào
thơ văn của anh một cách tự nhiên, chân thực, mộc mạc trong từng cái nhìn, cách
nghĩ. Dù hiện nay sinh sống và làm việc ở thành phố nhưng Dương Thuấn – nhà
thơ của núi rừng Việt Bắc, người con của dân tộc Tày vẫn luôn gắn bó máu thịt với
quê hương, chung thủy với nguồn cội, luôn khẳng định bản chất “chàng trai của
núi” trong thơ mình. Không chỉ ý thức được trọng trách “sứ giả văn hóa” cho dân
tộc của một người nghệ sĩ mà Dương Thuấn còn luôn nêu cao trách nhiệm, nghĩa vụ
truyền tải văn hóa dân tộc đến độc giả: “Người nghệ sĩ sẽ có tội lớn với dân tộc
mình nếu không nắm bắt được hồn của dân tộc mình, đem bó đuốc của hồn dân tộc
mình thắp sáng thêm hồn nhân loại” [10].
2.3. Khái niệm văn hóa. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học.
2.3.1. Khái niệm văn hóa.
Văn hóa là một khái niệm rộng về phạm vi, phong phú về nội hàm. Một số
định nghĩa dựa vào chuẩn mực bằng cách nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị
như “Văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội như các thiết chế, tập tục, phản ứng cư
xử,... của một nhóm người” hay các đặc điểm tâm lý qua việc nhấn mạnh vào quá trình
thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con
người như “Văn hoá là tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện sinh
sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh... Những sự thích nghi này được bảo đảm
bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế
thừa.” Văn hóa vừa là cái phổ quát, thống nhất của toàn nhân loại, vừa là cái riêng,
cái đặc thù, cái đa dạng của mỗi tộc người, địa phương. Văn hóa vừa là cái bền vững,
trường tồn, vừa là cái biến đổi liên tục [43]. Chính vì sự đa dạng, muôn vẻ của khái
niệm “văn hoá”, tổ chức UNESCO (năm 2002) chỉ đưa ra một định nghĩa mang tính
gợi ý rằng: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng
51
về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong
xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.”
Ở Việt Nam và trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái
niệm văn hóa. Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc cho rằng: “Văn hóa là mối quan
hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới
thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình
tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là
văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiến thức lựa chọn riêng
của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay các tộc người
khác”[34, tr.17]. Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm xác định cụ thể: “Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” [42, tr.10]. Nhà nhân loại học phương Tây E.B.Taylo lại
định nghĩa: “Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con
người có được với tư cách là một thành viên của xã hội” [52, tr.8].
Cần phải nhấn mạnh văn hóa là sản phẩm của con người, là kết quả của sự
tiến hóa nhân loại trong suốt chiều rộng không gian và chiều dài thời gian. Nhờ có
văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với
những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên để hiểu về khái niệm “văn
hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó có những định nghĩa khác nhau
về văn hóa. Ngay trong bản thân khái niệm văn hoá cho đến nay vẫn còn nhiều
tranh cãi do đứng ở nhiều lập trường, góc độ khoa học và các mục đích khác nhau
để nghiên cứu.
2.3.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học
Văn học là một thành tố của văn hóa, nằm trong văn hóa vì thế nó chịu sự chi
phối của văn hóa như M. Bakhtin xác định: “Văn học là một bộ phận không thể tách
rời của văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn
hoá của một thời đại trong đó nó tồn tại”[9]. Mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm
của mình đều phải dựa trên một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và văn hóa
52
nhân loại. Có thể coi văn học là một tấm gương vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ mặt
văn hóa của từng thời đại vào trong đó. Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các
phương diện của văn hóa vào trong thế giới nghệ thuật của mình.
Những nhân tố như: ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, lao động, sản xuất, ăn mặc,
ở, đi lại, sự phát triển của khoa học kĩ thuật… đều là điều kiện quan trọng trong môi
trường nảy sinh, hình thành những tác phẩm văn học. Những thành tựu của văn hóa
học ngày nay cho phép chúng ta có thể nhìn nhận văn hóa như một tổng thể, một hệ
thống gồm nhiều yếu tố như: ngôn ngữ, phong tục tập quán, pháp luật, tín ngưỡng,
nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn, văn học…
Trong hệ thống văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam, yếu tố chủ đạo thường là
văn học. Trong quan hệ với chuyên ngành nghiên cứu văn học, văn hoá học xem xét
văn học từ góc độ văn hoá học nghệ thuật có tính bao quát hơn là chỉ đi sâu vào văn
học. Trong mối quan hệ với văn hóa học, nghiên cứu văn học và văn hoá học có
nhiều điểm tương đồng về quan điểm phương pháp luận, nhưng vẫn khác nhau về
cơ bản như: tính giá trị, tính nhân sinh, tính lịch sử, tính dân tộc… của đối tượng
đều được hai ngành quan tâm xem xét.
Nghiên cứu văn học ngày càng ý thức hơn về mối quan hệ giữa văn học với
văn hoá, đặc biệt là nghiên cứu văn học tiếp nhận ở văn hoá học quan điểm về tính
tương tác của các hệ thống văn hoá, về góc nhìn văn hoá trong nghiên cứu đối
tượng đặc thù. Lý luận về sự giao thoa giữa văn học và văn hoá trong lý luận văn
học thế giới được giới thiệu khá phong phú ở nước ta cũng là một trong những cơ
sở giúp nghiên cứu văn học ngày càng khám phá những chiều kích văn hoá trong
đời sống năng động của văn học nước nhà.
Nhìn chung, mọi người đều đồng ý rằng nước ta có 5 thời kỳ văn hóa chính,
tương ứng với 5 kỳ đất nước có những biến động lịch sử lớn lao: Thời kỳ văn hóa
Tiền Đại Việt (thời đại Vua Hùng) trước thế kỷ X: được coi là thời kỳ Bắc thuộc,
nền văn hóa chịu những ảnh hưởng sâu đậm của thống trị phương Bắc; Thời kỳ văn
hóa Đại Việt (thế kỳ X – XIX): là thời kỳ văn hóa tự chủ, đất nước ta thoát khỏi
nghìn năm Bắc thuộc, kiến tạo nên một nền văn hóa riêng đậm đà bản sắc dân tộc;
Thời kỳ đứt gãy văn hóa những năm đầu thế kỳ XX – đầu 1945: bắt đầu bằng sự
53
xâm lược của thực dân Pháp, văn hóa phương Tây du nhập vào làm thay đổi mạnh
mẽ nền văn hóa truyền thống của nước ta; Thời kỳ văn hóa chống Pháp – Mỹ (1945
- 1975), còn gọi là thời kỳ văn hóa Việt Nam dân chủ cộng hòa; Thời kỳ 1975 –
nay: Là văn hóa thời kỳ thống nhất đất nước, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Vào mỗi thời kỳ văn hóa, nước ta lại có một nền văn học
tương ứng, phản ánh chân thực và sống động tất cả những thay đổi của thời cuộc.
Từ văn học dân gian, đến văn học thành văn trung đại, văn học thời kháng chiến,
văn học thời kỳ xây dựng cuộc sống mới… và đến thời kỳ văn học hiện đại như
hiện nay. Nói cách khác, văn học có tính đại diện của văn hóa. Trong văn hóa có
nhiều thành tố nhưng văn học là biểu hiện nổi bật nhất của văn hóa.
Văn hóa Tày – Nùng, như vậy, cũng tất yếu chi phối văn học Tày Nùng.
Cùng với quá trình hình thành và phát triển của văn hóa Tày - Nùng, văn học Tày –
Nùng cũng vận động, biến đổi không ngừng để trở thành tấm gương chân thực phản
ảnh toàn diện bộ mặt của đời sống văn hóa dân tộc.
2.4. Dấu ấn văn hóa dân gian Tày Nùng trong thơ Dƣơng Thuấn.
2.4.1. Hình ảnh núi rừng và con người miền núi trong thơ Dương Thuấn
2.4.1.1. Hình ảnh núi rừng Việt Bắc trong thơ Dương Thuấn.
Từ xưa đến nay, chưa có nhà văn tài năng nào mà lại không từ dân tộc đi
lên. Vì họ đều sinh ra từ một mái nhà, một dòng sông quê hương. Các nhà văn
thành danh trước hết là thành danh từ mảnh đất sinh ra họ. [22]. Dương Thuấn là
một nhà thơ dân tộc rất hiện đại, rất tiến bộ, ông hiện đang sinh sống và làm việc tại
Hà Nội – thủ đô của nước Việt Nam, ông cũng đi đến rất nhiều nơi trong và ngoài
nước, làm thơ về rất nhiều những miền đất ông từng đặt chân tới, nhưng có thể dễ
dàng nhận thấy không gian nghệ thuật chủ yếu trong thơ Dương Thuấn vẫn là
không gian núi rừng, mà cụ thể ở đây là không gian núi rừng Việt Bắc.
Không gian chính là tất cả những gì xung quanh và bao trùm lên mọi sự vật,
hiện tượng. Nói theo triết học Mác - Lê nin thì không gian chỉ hình thức tồn tại của
khách thể vật chất ở ví trí nhất định, kích thước nhất định và ở một khung cảnh nhất
định trong tương quan với những khách thể khác.
Đó là không gian vật lý. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, đều bắt
54
nguồn và phát triển từ hiện thực cuộc sống, vì vậy, nó buộc phải xây dựng dựa trên
một khoảng không gian thời gian cụ thể, nhưng không gian thời gian ấy là sự khúc
xạ của không gian thời gian thực tế qua lăng kính mang tính chủ quan của người
nghệ sĩ. Chúng ta gọi đó là không gian và thời gian nghệ thuật.
Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học [12] cũng nêu ra định nghĩa
về không gian nghệ thuật trong văn học như sau: “Không gian nghệ thuật là hình
thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”. Không
gian trong văn học nói chung đã được Trần Đình Sửu khái quát rằng: “Nếu hiểu thơ
ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời gian, không gian chính là hình
thức để con người cảm nhận thế giới và con người”. Ông còn lí giải thêm: “không
gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật”; “không có hình tượng
nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào không nào không
có một nền cảnh nào đó” và “không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc
sống.” [39] Như vậy, không gian, không đơn thuần chỉ là nơi tái hiện, là hình thức
tồn tại của hình tượng nghệ thuật, mà nó còn mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật,
thông qua việc lý giải các kết cấu không gian, ta có thể thấy được cấu trúc nội tại
của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng và những quan niệm về thế giới,
chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nghiên cứu về không gian
sẽ cung cấp cơ sở khách quan để khám phá những lớp ý nghĩa ẩn sâu dưới các hình
tượng nghệ thuật, nên không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.
Con người, như một lẽ tất nhiên, sinh ra, lớn lên và gắn bó ở đâu thì tiềm
thức sẽ luôn hướng về nơi ấy và nơi ấy cũng ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy, đến
thẩm mĩ của con người. Nhà thơ Tố Hữu có những bài thơ rất hay về Huế - quê mẹ
êm đềm với tuổi thơ phảng phất buồn, Tế Hanh thì hoài niệm mãi về con sông quê
hương với những người dân cần lao bình dị… các nhà thơ miền núi thì đem vào
trong cái ghồ ghề của đá, cái thẫm xanh của rừng, cái trắng mờ của sương như một
nét độc đáo riêng biệt của quê hương mình.
Quê hương chính là cái phông nền để từ đó, người ta vẽ nên mọi hình hài của
cuộc sống thường ngày và cũng là nơi in dấu những miền thẳm sâu kí ức. Con
55
người tạo ra văn hóa trong quá trình tìm cách thích nghi và phát triển trong không
gian sống, không gian sinh tồn, nói trong phạm vi hẹp hơn, không gian sống và
không gian sinh tồn có tác động rất lớn đến cảm quan và thẩm mĩ, ảnh hưởng đến
tính cách cá nhân và từ đó định hình nên tính cách chung của một cộng đồng người.
Nếu muốn tìm hiểu nét đặc sắc của một dân tộc, thì thiên nhiên nơi cư trú là một
yếu tố quan trọng không thể bỏ qua.
Trong cổ thi hay thơ hiện đại cũng vậy, thiên nhiên đóng một vai trò hết sức
quan trọng, nó vừa là đối tượng của nghệ thuật, vừa được khái quát lên thành một
biện pháp nghệ thuật, thông qua thiên nhiên để giãi bày, bộc lộ tâm trạng của chủ
thể trữ tình. Thiên nhiên còn là dấu hiệu, là tiêu chí để phân biệt giữa các vùng miền
khác nhau.
Không gian nghệ thuật trong ca dao của người Kinh, họ cả đời gắn bó với
cây đa, giếng nước, mái đình, với ruộng đồng, bãi mía, nương dâu, với bờ sông, ao
cá… Họ sáng tác ra những bài ca dao khi đang cấy cày gặt hái, khi đang trồng dâu
nuôi tằm, hoặc khi nghỉ ngơi bên giếng làng trong vắt... Vì vậy, họ luôn mang
những hình ảnh quen thuộc, gắn bó ấy vào trong ca dao, làm bối cảnh của ca dao
một cách có ý thức hay vô thức.
Người Tày Nùng cũng có không gian sinh tồn và không gian nghệ thuật rất
riêng của họ. Nói đến Việt Bắc, ta liên tưởng ngay đến những ngọn núi hùng vĩ,
những cánh rừng thâm u, thiên nhiên vừa kì bí, hoang dã, vừa hiền hòa, gần gụi.
Đây là nơi con người và tự nhiên có sự tác động qua lại lẫn nhau hết sức sâu sắc.
Con người sống trong vòng tay của bà mẹ thiên nhiên và dù hữu ý hay vô thức cũng
tác động ngược lại đến thiên nhiên, cả tích cực và tiêu cực.
Dương Thuấn sinh ra và lớn lên ở núi rừng, tình yêu ông dành cho núi rừng
không giấu diếm, ông thể hiện tình yêu ấy một cách say sưa, nồng nhiệt. Dương
Thuấn có nhiều câu thơ giàu hình ảnh và rất miền núi về quê hương mình: Quê tôi
núi ngàn cao vời và lớn rộng/ Sáng sớm sương trời bay trắng lòng thung/ Chiều về
từng đàn mây vờn nhau quanh cỏ/ Xuân đến hoa đào nở đỏ, hoa lê trắng ngần./ …/
Quê tôi núi ngàn mênh mông là thế/ Ngồi bếp nấu cơm nghe vượn hú trên non/
Tiếng gọi trâu về chuồng vọng vách đá dập dồn/ Bao năm tháng đi qua đứng ch ng
56
mỏi mòn. (Quê tôi núi ngàn)
Đối với thiên nhiên quê hương, Dương Thuấn có một sự mến yêu và tự hào
sâu sắc. Ông luôn trân trọng, trìu mến gọi mảnh đất đã sinh ra và nuôi lớn mình là
“quê hương”, “quê tôi”, và yêu mảnh đất ấy dẫu cho: “Quê hương không đủ chỗ để
đánh rơi đồng xu/ Ba bước chân gặp núi/ Ra khỏi cửa là leo là lội…” (Quê hƣơng)
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nhận xét:“Ít có nhà thơ viết về quê hương vừa
ngồn ngộn phong phú vừa thắm thiết như anh”[8,tr.7 ] “Anh như người đi câu, lặng
lẽ tự họa chân dung mình và chân dung quê hương, dân tộc mình bằng những nét vẽ
mộc mạc, giản dị mà sâu sắc” [17] Dương Thuấn dành cho quê hương mình – Bản
Hon, một tình yêu sâu nặng. Trong tuyển tập Dương Thuấn tập I Bản Hon và những
nơi khác, ông đã dành để viết về Bản Hon tới gần ba trăm bài thơ, và hình ảnh Bản
Hon, hình ảnh núi rừng Việt Bắc chiếm đại đa số trong thơ ông: “ Bản Hon ngồi
trên mây/ Những ngôi nhà sàn bốn mái/ Ngói máng lên rêu xanh thẫm/ Bên non đón
khách xa thăm…/ Bản Hon muốn đi đâu cũng xa/ Con đường nào cũng leo qua núi”
(Bản Hon)
Cảnh thiên nhiên đậm nét hoang sơ với cỏ cây muôn thú đặc trưng của miền
núi, thiên nhiên ấy tự do phóng khoáng, không tù túng gò bó: Mỗi ngày tôi hay
đứng nhìn về quê núi/ Xa xa kia là bầu trời cao vòi või/ Hàng nghiến xanh đứng
th ng bên trời/ Trên non ấy là xứ sở của tự do/ Đại bàng bay dọc ngang tung cánh/
Hổ vằn cao to dáng đi lừng lững/ Cuối đêm dài ra bờ suối gầm vang (Nhớ núi)
Thiên nhiên còn rất hoang sơ với nhiều loài động vật đặc trưng của núi rừng,
cuộc sống của các loài động vật cũng sinh động, nhộn nhịp như cuộc sống của con
người: Lợn lòi dậy gõ nanh tìm bầy/ Góc núi nào cũng rộn tiếng kêu/ Con cái gào
tiếng con cái/ Con đực gào tiếng con đực/ Đi thành đôi so lưng nhau qua dốc/ Giẫm
đất đá lở ầm ào/ Giẫm rừng nứa gãy kêu răng rắc (Sương giáng)
Thiên nhiên có hồn hơn, ấm áp hơn khi có sự có mặt của con người, gắn liền
với cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất đầy thanh sắc của con người. Những gì
thuộc về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào đều hồn nhiên đi vào thơ ông
một cách dung dị, tự nhiên: “Trên khóm mai tiếng gà rừng thôi gáy/ Người dắt trâu
lộc cộc bước ra chuồng/ Tiếng cối giã lên mặt sông rộn rịp/ Mịt mù trôi đi dòng
57
nước khói sương/ Mặt trời hồng vén mây sang từng lớp/ Hiện lên núi Pù Lọ giống
một con rồng/ Nhả xuống giữa lòng thung viên ngọc biếc/ Thành quả núi tròn rực
rỡ dưới bình minh.” (Buổi sớm bản Hon)
Dương Thuấn có những bài thơ giản dị không màu mè nhưng đã lột tả được
sự gắn bó chan hòa giữa thiên nhiên và con người. Tiếng nước reo lẫn với những
âm thanh gà lợn gợi nên cuộc sống sinh hoạt ấm áp, khỏe khoắn của đồng bào Tày
Nùng, vẽ nên những buổi chiều vùng cao thanh bình yên ả: “Mỗi buổi chiều Bản
Hon/ Lặng nghe tiếng cối nước/ Toóng loóng, toóng loóng/ Nhịp chày vỗ vào vách
núi/ Mỗi buổi chiều Bản Hon/ Biết bao âm thanh rộn rã/ Có tiếng gọi lợn… ệc ệc
mà…./Gọi bầy vịt choai… lí lì lí lị…/Gọi bầy gà… cúc cúc cúc…/Tiếng gọi trâu gọi
bò gọi chó/ Gọi con gì nghe cũng yêu ghê” (Tiếng buổi chiều Bản Hon).
Thiên nhiên gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của con người. Con người nhỏ bé
và chìm hút giữa núi rừng bao la lớn rộng, đôi khi không nhìn thấy bóng dáng con
người, chỉ có những âm thanh rộn ràng đây đó là tín hiệu duy nhất để nhận biết rằng
con người vẫn luôn hiện hữu nơi đây, vẫn sinh hoạt, lao động với những việc lặp đi
lặp lại mỗi ngày. Những âm thanh của miền quê sơn cước không sao trộn lẫn: Bản
nhỏ vẫn như mọi ngày/ Tiếng búa chặt cây chan chat/ Tiếng gọi lợn ban chiều… dúi
ệc…/ Tiếng gà rừng trên núi gáy te te. (Vẫn nhƣ đêm, vẫn nhƣ ngày)
Thiên nhiên, tùy từng hoàn cảnh, lúc là bạn, lúc là thù, lúc là nơi trú chân ẩn
náu, lúc lại là nơi đầy thử thách gian truân. Thiên nhiên miền núi trước cơn bão lớn
mang một không khí không nơi nào có được, nó vừa chứa đựng sức mạnh ghê gớm
khủng khiếp, dữ dội của tự nhiên, vừa hứa hẹn những sự đổi thay, những luồng sinh
khí mới sau cơn bão… tất cả làm nên một vẻ vừa ngoạn mục thâm u, hùng vĩ, vừa
đầy thử thách của thiên nhiên núi rừng: “Bỗng bất chợt bầu trời xanh trở gió/ Tre
níu tay nhau kêu kẽo kẹt, kẽo cà/ Cành phay cao gãy phăng xuống suối/ Hươu giật
mình kê một tiếng thật to…/ Cơn gió mạnh trời xa nào thổi đến/ Quét sạch ngàn
muôn cánh lá ung/ Trám đen rụng ngập đầy triền dốc/ Ôi tuyệt hay trận gió gối
mùa rừng/…/ Trời trở gió!Chiều nay trời trở gió!/ Chèo bẻo bay cao vút giữa tầng
không/ Nghe ầm ào bốn phương đang giông tố/ Náo nức cánh rừng, bao nỗi chờ
58
mong…”(Trở gió)
Thiên nhiên ấy còn xuất hiện với tư cách là những trở ngại, những gian nan,
thử thách mà con người cần chinh phục, cần vượt qua: “Gà gáy sáng dậy trèo non
đi học/ Có những hôm mưa phùn gió bấc/ Bứa rơi trúng đầu sưng thành cục/ Cầm
gậy đập sương để tìm lối đi/ Căng gối lên để nghe tiếng hổ tru…” (Tuổi thơ tôi
ngày ấy )
Không gian núi rừng đôi khi cũng mở rộng ra thành không gian của một phố
huyện vùng cao, tuy nó không sôi nổi, đông đúc, náo nhiệt như thị thành, nhưng nó
là một bức tranh tương đối khác với cảnh quan núi rừng thôn bản. Sự đối lập giữa
đứa trẻ hồn nhiên ngơ ngác với bà mẹ mệt nhoài quãng đường gập ghềnh vác nặng,
giữa những dãy nhà san sát ở phố với bản trên núi xa mờ càng nhấn mạnh thêm nỗi
vất vả, khổ nhọc của con người: Có chú bé con đi theo mẹ/ Qua phố đếm xem phố
mấy nhà/ Bà mẹ còng lưng gùi muối nặng/ Đếm bước chân về núi mờ xa… (Phố
huyện)
Rồi những nẻo đường đá nhọn khúc khuỷu dốc đèo vắt ngang sườn núi mà ta
sẽ không thể thấy được ở đồng bằng: “Đường lên bản như đi lên trời/ Đá nhọn răng
mèo/ Gập ghềnh dốc núi/ Muốn lên bám đá mà leo” (Cõng trâu)
Thiên nhiên hung dữ, khắc nghiệt, đầy khó khăn thư thách, tước đoạt đi của
con người nhiều thứ quý giá, thậm chí là cả tính mạng và người thân. Đối với đồng
bào Tày Nùng, nền kinh tế nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, thì tất
yếu, thiên nhiên và con người có sự gắn bó khăng khít, tác động qua lại chặt chẽ.
Thiên nhiên nuôi sống con người, nhưng thiên nhiên đôi khi cũng tiêu cực và khắc
nghiệt, bạo tàn và hung hãn như một kẻ máu lạnh, điên cuồng trút cơn thịnh nộ của
mình vào những kẻ mình từng cưu mang: Băng băng dòng nước đục ngầu/ Cuốn
hết lợn gà, trâu bò, nhà cửa…/ Ruộng lúa đang tươi tốt ch ng còn/ Cánh đồng màu
mỡ sỏi đá vùi lớp lớp/ Chỉ trong thời gian chớp mắt/ Ai cũng đều trở thành tay
không/ Người cả nhà bị trôi không tìm thấy xác/ Người còn sống bảo may mà thoát
chết… (Đừng buồn lũ quét)
Với con mắt nhân đạo và trái tim nhạy cảm của mình, Dương Thuấn lặng
người không cất nên lời trước những tai họa của tự nhiên đã để lại hậu quả hết sức
59
nặng nề đối với con người: Buổi chiều nước cạn/ Ruộng trắng xóa cát sỏi/ Lúa đang
ra đòng/ Ngô đang vào hạt/ Bị lấp dưới tầng đất đá/ Không có lời để tả trận lũ đêm
qua…(Trận lũ đêm qua )
Núi đồi là hình ảnh mang tính đặc thù khi nói về thiên nhiên Việt Bắc. Nó
cũng xuất hiện với mật độ rất dày đặc trong những câu thơ tả cảnh thiên nhiên của
Dương Thuấn. Có đôi khi, ông đã thử lý giải nguồn gốc những cái tên của núi đồi
theo logic rất riêng của đồng bào ông: Núi Cơm Chiều – Cái tên mà như thế!/ Hay
là ngày xưa chưa có đồng hồ/ Ông bà nhìn bóng núi để thổi cơm/ (Núi Cơm
Chiều); Quê tôi có núi Thuyền Đồng/ Trận hồng thủy nào đã ngập đỉnh núi?/ Hay
một trận lũ từ trong lòng người/ Đã lật thuyền lên núi để đời trông? (Núi Thuyền
Đồng); Có một lần con hỏi/ - Ơ cha, sao gọi núi Rồng trước cửa/ - Ơ mẹ, sao gọi
núi Phượng sau nhà/ Cha cười xòa/ Mẹ đang buồn bỗng hát:/ “Ông bà ước bay
xa…” (Núi Rồng Núi Phƣợng)
Đi nhiều nơi, qua nhiều miền quê, nhiều vùng đất, qua rồi cái tuổi xông pha,
hăm hở khám phá những miền đất mới, ở cái tuổi bốn mươi “biết hết mọi đường”,
ông nhận thấy rằng: Tuổi bốn mươi biết hết mọi đường/ Ch ng thể còn ai dối lừa
được nữa/ Không đường nào vui như về bản ta. (Đƣờng về)
Quê hương Bản Hon đã cho Dương Thuấn một tuổi thơ tuyệt đẹp bên dòng
sông Năng êm đềm ôm vào lòng mình và gìn giữ cho con người bao nhiêu kỉ niệm,
để rồi sau bao ngày xa cách trở về bên sông, tất cả lại ùa về nguyên vẹn: Có gì vui
bằng thuở bé ngày xưa/ Sông ngàn năm trôi, vực vẫn còn kỷ niệm/ Vốc nước lên soi
thấy bạn bè ùa đến/ Bao nhớ thương tôi uống hết vào lòng… (Ngày còn bé)
Và nỗi nhớ dòng sông cũng da diết, ám ảnh như tình yêu lứa đôi: Những tối
trăng vàng tôi và em cùng tắm/ Nước sông Năng làm da thịt em trắng thơm tho/ Tôi
và em yêu nhau rồi đi xa quê/ Bây giờ mỗi đêm nằm lại nghe tiếng song/ Tiếng thác
réo chui vào trong chăn thành giấc mơ… (Hát với sông Năng).
Trong hành trình nghệ thuật của mình, Dương Thuấn luôn tự nâng cao ý thức
cội nguồn, nghệ thuật, theo ông, phải bắt đầu và gắn liền với nơi đã sinh ra và nuôi
nấng, nâng đỡ tâm hồn mình, nghệ thuật phải có nền móng vững chắc từ quê hương:
“Tôi biết người lớn lên không có quê hương/ Nên viết những bài thơ không kỷ
60
niệm/…/ Rất lắm vị nhưng không vị nào rõ rệt…/Thương người làm thơ không có
quê hương/ Bố mẹ sinh ra và lớn lên ở quê người xa lắc/ Ch ng biết mùa ngâu mưa
rừng rơi lắc thắc/ Ch ng biết con suối thâu đêm kêu róc rách/ Ch ng bao giờ bị vắt
xanh bò cổ, cắn đầu/ Ch ng biết lời nói hay nhất là của lão nông/ Không có quê
thơ, người có buồn không?/ Cuộc đời cứ trôi cùng những đêm lắm mộng/ Bao hàng
chữ viết ra không hồn lạnh cóng.” (Tặng ngƣời không có quê)
Đôi khi ý thức nguồn cội và tình yêu quê hương ấy được nói có chút khoa
trương, thiên vị, nhưng lại hết sức chân thành: Tiếng ếch đồng buồn lắm/ Một tiếng
kêu nghe ốm ba ngày/ Trên núi cao gió reo đã thích/ Trăng ở rừng mới say/ (Với
Bàn Tài Đoàn)
Thiên nhiên, cây cỏ nơi mảnh đất quê hương đi vào thơ ông với một tình yêu
tha thiết, ông cảm nhận thiên nhiên như không phải chỉ là một đối tượng của nghệ
thuật, mà thiên nhiên ở đây là một thực thể sống, hiện hữu và gắn bó những người
bạn tri kỉ tri âm: Sau nhà tôi có một cây sui cổ thụ tán rợp trời/ Mỗi lần về thăm
quê, tôi lại đến sờ tay vào gốc/ Tôi trò chuyện với cây những lời yêu thương nhất/
Rằng đi xa lâu ngày trong lòng rất nhớ nhung/ Tôi mường tượng cây đang mở
miệng nói cùng… ( Cổ thụ không sợ bão )
Nhà thơ đã dành cho thiên nhiên quê hương một tình yêu sâu nặng và một sự
gắn bó máu thịt khăng khít lạ lùng, để rồi nhớ thương da diết mỗi khi xa: Ngọn núi
ngày ngày chăn trâu/ Mùa nào cũng lên hái quả/ Đứng trong tim như một người
than/ Hễ đi đâu xa là nhớ… (Núi Cơm Chiều)
Không gian nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với không gian
vật lý. Không gian vật lý được tác giả cảm nhận qua con mắt nghệ thuật của mình,
thông qua đó thể hiện, gửi gắm một tinh thần, quan niệm, suy nghĩ, tình cảm và thái
độ của mình đối với một vấn đề, một sự vật nào đó. Nghĩa là từ không gian vật chất,
người nghệ sĩ đã nâng nó lên thành không gian nghệ thuật thông qua quá trình sáng
tác để thể hiện quan điểm, thẩm mĩ của mình… Mà quan điểm, thẩm mĩ của các tác
giả lại luôn biến đổi theo thời đại, nó tuyệt nhiên không đứng im, không phải là
hằng số mà nó vận động, biến thiên sao cho phù hợp với thời đại mới, hoàn cảnh
mới. Vì vậy mà việc tổ chức không gian nghệ thuật trong tác phẩm luôn chịu sự chi
61
phối và tác động trực tiếp từ quan niệm thời đại và yếu tố thể loại. Những hình ảnh
núi đồi, cỏ cây, muông thú, khe suối, nhà sàn… trong thơ ca dân gian dân tộc vẫn là
chất liệu tạo cảm hứng cho các nhà thơ, nhà văn thế hệ sau, nhưng trong cách thể
hiện đã có nhiều thay đổi. Những hình ảnh ấy khiến cho các tác phẩm thơ ca dân
gian mang một nét đặc trưng của thời đại, và đồng thời cũng đem đến cho các tác
phẩm hiện đại một sự quen thuộc mang dáng dấp dân gian khi các nhà thơ hiện đại
sử dụng chúng làm thi liệu. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Phạm Vĩnh Cư đã
phát biểu trong buổi giới thiệu bộ ba Tuyển tập thơ Dương Thuấn: “Đọc thơ Dương
Thuấn sẽ biết Dương Thuấn là ai? Dương Thuấn là bản Hon! Dương Thuấn là sông
Năng! Dương Thuấn là Bắc Kạn! Dương Thuấn là miền núi! Và tôi cho rằng,
Dương Thuấn chính là người Tày của người Tày! Là miền núi của miền núi!(…)
Bởi vì đọc thơ Dương Thuấn người ta thấy anh yêu dân tộc anh, anh yêu quê hương
anh một cách thấm đẫm, tự nhiên, chân thật, mộc mạc nhưng với đầy niềm tự
hào”[1].
2.4.1.2. Hình ảnh con người miền núi trong thơ Dương Thuấn.
Trong thơ Dương Thuấn, con người chính là cái hồn, là đối tượng chính
trong bức tranh về núi rừng Việt Bắc. Ông tự hào về nguồn cội của mình bằng lời
khẳng định:
“Ta là chàng trai của núi
Ta chỉ biết nói lời cho quả sai…”
Câu thơ giản dị mà chứa đựng biết bao nhiêu ý nghĩa. Dương Thuấn là thế.
Con người của núi rừng cũng là thế.
Sinh ra và lớn lên, gắn bó với núi rừng, con người miền núi mang một nét
đẹp khỏe khoắn. Các chàng trai cô gái của núi rừng được Dương Thuấn miêu tả
căng tràn năng lượng và sức thanh xuân: Có cô gái chiều chiều ra gánh nước/ Đôi
vai tròn quẩy sáu ống bương/ Đêm sông vắng cô khỏa mình xuống tắm/ Ngực căng
đầy dòng nước cũng thơm/ (Trƣờng ca Bi phẫn) ; Sáng sáng tôi ngồi cầu thang/
Ngắm đôi bắp chân tròn của chị/ Chị gánh trên vai năm ống nước/ Những tảng đá
xếp đường ra suối/ Dấu chân nào cũng đẹp đến mê. (Nhớ chị Thìn) ; Cô gái Núi
Hoa/ Mái tóc trời xanh về ở/ Bắp chân thon mây trắng quây quần/ Ngôi sao đậu
62
vào con mắt. (Bài ca Núi Hoa)
Các cô gái dân tộc gủi giỏ xuống chợ là hình ảnh đặc trưng của núi rừng Việt
Bắc: Này em gái đang xuống chợ/ Em gánh trên vai những thứ gì/ Sa nhân hay là
thảo quả/ Quế hồi hay là đương quy… (Xuống chợ bán hàng)
Các chàng trai Tày khỏe mạnh, giỏi giang, trọng tình nặng nghĩa, có chí khí,
tự tôn, si tình, yêu thương mãnh liệt: “Chàng trai tóc dày/ Cõng trâu mộng qua cầu
làm rẫy/ Con mắt bắn tin từng lá sậy/ Hát câu ca trăng ướt đầm đìa/ Yêu người yêu
đi quên bản không về/ Quý bè bạn chặt sừng trâu đựng rượu/ Với anh em không
bao giờ quên hẹn/ Lên đường nhớ một câu/ Không có chỗ cho người Tày quỳ gối”
Con người miền núi được khắc họa trong thơ Dương Thuấn luôn gắn liền với
cuộc sống sinh hoạt thường ngày, với những công việc, sự kiện thân quen lặp đi lặp
lại, cuộc sống giản đơn mà ấm cúng: Con gái chiều hôm rủ nhau tắm suối/ Lũ đàn
ông lên núi săn lợn lòi/ Tối ngồi quây xung quanh bêp lửa/ Đàn bà quay xa, đàn
ông uống rượu/ Chuyện bản mường già trẻ lại đem bàn… (Vẫn nhƣ đêm, vẫn nhƣ
ngày) ; Khi ra khỏi nhà mình/ Quần xắn lên gối/ Xuống suối bắt cá…/ Quần buông
chạm đất/ Lên non hái quả… (Khi ra khỏi nhà mình )
Đồng bào dân tộc miền núi gắn bó quanh năm với núi rừng, với vườn ruộng,
sông suối. Họ không có một công việc gì cụ thể, nhưng một tháng ba mươi ngày, họ
làm đủ những công việc không tên không tuổi, luôn tay luôn chân, chăm chỉ chịu
khó, vừa để sinh nhai, vừa là thú vui hàng ngày của họ: “Mồng một đan dàn lỉ bắt
cá/ Mồng hai dẫn bầy chó đuổi hươu/ Mồng ba đặt bẫy chồn, bẫy sóc/ Mồng bốn
mồi chim chóc, gà rừng/ Mồng năm bẻ măng mai sườn dốc/ Mồng sáu bắt rắn
thuốc về ngâm/ Mồng bảy thảo quả thơm tìm hái/ Mồng tám tù và thổi sơn dương/
Mồng chín bỏ vào chum ớt chín/ Mồng mười nhốt gà thiến vào lồng/ Mười một bắt
rái cá con về ngắm/ Mười hai xuống thăm anh bản dưới/ Mười ba đảo bống rượu,
đan chài/ Mười bốn thì đóng xe thắng ngựa/ Mười năm mua muối ở chợ phiên/
Mười sáu dậy sớm hơn giúp bản/ Mười bảy ngắm sừng hươu đọc sừng chiều/ Mười
tám đem ra phơi thóc giống/ Mười chín chúc đầy tháng cháu trai/ Hai mươi trăng
không sáng, đi soi/ Hai mốt đào nhím hang đặt giọ/ Hai hai đi đổi công uống rượu/
Hai ba xem khỉ độc mò cua/ Hai bốn cửa ngồi chờ khách/ Hai lăm mò bắt lẻp, ba
63
ba/ Hai sáu quấn chăn bắt ong vò vẽ/ Hai bảy khơi máng nước tận nguồn/ Hai tám
xuống đãi vàng bên suối/ Hai chín cạo mặt nhẵn hết râu/ Ba mươi gặp gái xinh
đường vắng/ Một tháng ba mươi ngày đằn đán/ Ba mươi ngày không chán ngày
nào…” (Không ngày nào chán)
Cuộc sống lao động của đồng bào vất vả, nhất là những người đàn ông,
những người cha, người chủ gia đình, phải gánh vác những công việc nặng
nhọc:“Đêm đông cha đeo súng kíp đi săn/ Chụp đèn đất lên đầu rọi khắp rừng/
Sáng về đeo về cầy hương và nhím/ Mùa nước lớn cha vác chài ra sông/ Lặn xuống
vực sâu quây tìm hang cá/…/ Cha làm nương hai bàn tay trầy xước/ Đẽo cột, ngả
cây, xẻ ván, xuyên rừng/ Dựng ngôi nhà sàn cao thoáng mát/ Cho chúng con chơi,
học hành, múa hát/ Cả khi cha buồn con vẫn thấy cha vui/ Chưa lúc nào cha kêu dù
nửa lời thôi/ Mười mấy đứa con cha nay đã thành người.” (Bài thơ tặng cha)
Và những người mẹ vùng cao cả đời lam lũ, hi sinh, vất vả, bàn tay gầy của
họ đã tạo dựng nên những điều kì diệu, lớn lao: “Bàn tay bà me người Tày/ Sần sùi
những nốt chai/ Dính nhựa cây đen nhẻm/ Đừng tưởng đó không là gì/ Bàn tay đu
đưa chiếc nôi mây/ Cho đứa con khôn lớn từng ngày/ Thành một chàng trai dũng
mãnh/ Bàn tay mềm nhuộm chàm khâu áo/ Bàn tay đó sẽ làm thế giới đổi
thay.”(Bàn tay vƣơn dài)
Chiến tranh đã đi qua, biết bao chàng trai của núi rừng đã đóng góp tuổi
thanh xuân của mình cho Tổ quốc, các anh không về, để lại bà mé già hằng đêm
ngóng cửa nhà sàn chờ con: Có bà mẹ vẫn trồng trầu chờ con về hỏi vợ/ Có bà mẹ
vẫn trông đất chờ con về dựng nhà, dựng cửa/ Có bà mẹ đêm đêm ngóng ra sân/ Có
bà mẹ đêm đêm ngồi bên ngọn lửa… ( Bà mẹ sau chiến tranh ) Các mẹ cũng là
những anh hùng thầm lặng, biết nén nỗi đau vào trong, ít lời than thở, hi sinh lớn
lao mà không kể công gì.
Và những cô con dâu vùng cao thảo hiền, phép tắc, tuân thủ cả trăm điều
kiêng cấm, giữ nếp nhà chồng: Cô dâu mới mỗi ngày thường dậy sớm/ Nắm cơm,
pha trà, rót nước mời chồng/ Thì thầm hát bài ca thuộc từ năm ngoái/ Rồi quẩy ống
bương ra gánh nước sông… (Buổi sớm bản Hon) ; …Con dâu nhà sàn dậy sớm
nhất mùa đông/ Gánh nước, quét nhà, nắm cơm đi rẫy/ Nhớ bao việc được làm, bao
64
điều kiêng cấm/ Học nói, học đi, gìn giữ nếp gia đình… (Con dâu nhà sàn)
Lao động vất vả, cực nhọc, nhưng con người sống thanh thản, yên bình: “Khi
đốt rẫy mặt lấm lem thì ra suối rửa/ Khi làm mệt thì ngủ dưới gốc cây” (Ông già
gieo hạt)
Con người miền núi có những nét đặc trưng và những tính cách đáng yêu,
đáng quý, sống hiền lành, chan hòa với nhau: Ở Bản Hon ai cũng hiền lành/ Như lá,
như cây, như cỏ…/ Cùng mặt trời thức ngủ làm ăn/ Nghe tiếng chim kêu đắp phai,
gieo hạt/ Chưa có điện, đêm nằm gối lên trăng/ (Chiều Bản Hon)
Họ coi trọng tình cảm, mến khách: Có người đi xa mới lại trở về/ Đến bản ai
đang bận gì cũng mặc/ Bỏ ngang công việc chạy ra chào/ Một người đi đâu mọi
người đều nhớ/ Đêm ngày không muốn vắng một ai… (Vẫn nhƣ đêm, vẫn nhƣ
ngày)
Con người miền núi hiếu khách theo cách rất riêng của họ, không khách sáo
màu mè rào đón, không đao to búa lớn, không hoa mĩ, không nói những điều cao xa
sáo rỗng, họ rất thật thà, thẳng thắn, giản đơn nhưng chân tình, gần gũi: Khách đến
nhà không vội hỏi tên/ Mà chỉ hỏi:/ - Con đường nào đã đưa anh đến…/ Cũng
không hỏi rằng đi từ rừng hay từ biển/ Mà nói rằng:/ - Hãy uống cạn vò rượu cùng
ta…/ Khách muốn gì xin tự nói ra/ Khách đi chủ nhà chỉ nói:/ - Đừng để cầu thang
nhà tôi mọc cỏ gà (Ngƣời xứ Mây)
Con người miền núi rất hiếu khách, không phải ở nơi đâu người ta cũng đối
đã với người lạ thế này: Chiếc cầu thang bắc đất thấp lên sàn cao/ Khách lạ bước
lên đem chum rượu ra mời/ Khách về xuống thang cầm tay tiễn biệt… (Cái cầu
thang)
Đồng bào Tày Nùng có tinh thần cộng đồng, tập thể rất cao, họ sống với
nhau đoàn kết, khăng khít, rất tình nghĩa, gắn bó, không toan tính vụ lợi: Tôi đã
sống ở cái bản của tôi tình nghĩa/ Mưa phùn trời ẩm sang nhà nhau xin lửa/ Trẻ
khóc đòi ăn sang nhà nhau xin cơm nguội/ Đứa bé vừa tập đi dắt sang mọi nhà
chơi/ Ch ng ai thích đâu xây bờ rào ngăn giữa… ( Cái bờ rào đã mọc lên ) Họ đối
đãi với nhau vô tư, không đặt nặng vật chất: “Quê mình nhìn người xem áo/ Không
65
như nơi khác nhìn áo để xem người…” (Xem áo)
Bài học làm người của bà mẹ dân tộc dạy con vừa chan chứa tình yêu
thương, vừa chí khí, can trường, không run sợ trước cường quyền, nhưng phải biết
yêu thương, biết “trồng cây nhớ người hái quả”. Họ dạy cho cháu con những bài
học giản đơn mà sâu sắc, thấm thía: Những bà mẹ xứ Mây mỗi sớm bình minh/
Thơm vào má con và dặn con rằng/ Mắng mười quan tham/ Đừng run sợ/ Trước khi
hái quả/ Thì hãy chắp hai tay! (Bà mẹ xứ Mây) Và những điều quý báu mà giản dị:
Người bản Hon xưa nay/ Yêu nhau chỉ ở trong lòng/ Sinh con không cho con của
cải/ Khuyên con học chữ nghĩa để dùng… (Trƣờng ca Bi phẫn)
Dương Thuấn có những khi miêu tả con người được miêu tả rất thực sinh.
Họ vô tư, lạc quan, tếu táo trong lao động sản xuất để quên đi nỗi vất vả thường
ngày:“Khi ra ruộng làm/ Nghe bà Đào nói chuyện “xơi” nhau/ “Bướm” đổ ra hàng
sọt/ “Chim” chất lên hàng đống/ Phát nào chơi cũng sướng/ Như được sờ vào từng
cái/ Mồm nói không biết ngừng/ Mặt trời lên đến mặt trời lặn…/ Khi xuống sông
ruốc cá/ Nghe ông Tân đánh rắm/ Phát nào cũng nổ như pháo sla/ Vừa giã cơi vừa
cười ha hả…/ Khi đi chăn trâu cùng ông Dảo/ Ông kể mãi môt chuyện không chán/
Cô dâu mới về nhà chồng nhịn rắm/ Sắc da ngày một thêm vàng võ/ Rồi ngồi lên
miệng cối đánh dấu/ Phát rắm nổ chiếc cối vỡ ba.”(Nhớ bản Hon)
Những con người như bà Đào, ông Tân, ông Dảo ấy được miêu tả chân thực,
toát lên sự vô tư, phóng khoáng, thoải mái. Đó là những con người hiện lên trong
cuộc sống thực sinh, họ khỏe khoắn, không kiểu cách; họ dân dã, tục mà thanh.
Rồi cả những cô cậu mới lớn cũng được Dương Thuấn khắc họa rất hài hước,
ngộ nghĩnh: Ngày ấy vừa tuổi trăng rằm/ Con gái vú nẩy tròn trên ngực/ Hai má đỏ
hồng khi gặp đàn ông/ Con trai túi bìu quả lai dần nặng/ Đi hay gù gù, chân da
nhột lên lông… (Ngày còn bé)
Nhớ về quê hương, về bản làng, Dương Thuấn luôn nhớ về những con người
cụ thể, những người già mà ông kính yêu, gắn bó nay đã không còn: Ông Ngân hay
bẫy cá không còn/ Ông Mèo hay đi săn không còn/ Ông Nông hay nấu cao không
còn/ Ông bếp Lằm hay đùa trẻ con/ Ông bếp Vò vấn thuốc rê một ngón/ Các ông
66
già lần lượt rủ nhau đi/ (Về bản)
Những con người miền núi chăm chỉ, chịu thương chịu khó, luôn tay luôn
chân nhưng cuộc sống của họ còn bộn bè vất vả, khó khăn:“Ở vùng cao con người
vất vả/ Chiếc gùi luôn đè nặng trên lưng/ Cõng hết cửa nhà, ngô lúa/ Cõng trâu leo
núi trập trùng…” (Cõng trâu)
Thiên nhiên khắc nghiệt, con người để tồn tại giữa tự nhiên phải đấu tranh và
chinh phục tự nhiên chỉ với hai bàn tay: Thương đám ruộng cha đắp lên thành bậc/
Thương đám nương mẹ vun đá thành gò/ Thương em chờ bình minh mỗi sáng/ Chân
trời chớp động là lo... Và cả những nỗi lo thường trực về thiên tai địch họa: Người
miền núi với bao nỗi lo/ Ngày đi đường thì lo rắn dữ/ Tối đến lại lo hổ tới nhà/ Nơi
biên cương thường bất thần giặc dã/ Đêm gối đầu giường lưỡi gươm to/ (Trƣờng
ca Bi phẫn)
Tự ý thức được điều đó, người miền núi dạy cháu con phải tự lực cánh sinh,
phải nỗ lực và nghị lực nhiều hơn nữa: Mẹ thường dặn mang bình đi đựng chữ/ Nhớ
đựng cho đầy/ Mẹ không dạy làm bài ca/ Mẹ chỉ hát con nghe trong tối/Người sinh
ra trên núi/ Cầm dao tự phát lối cho mình/ (Nhìn trời ngƣợc)
Dương Thuấn luôn nhấn mạnh mình là một người con của Bản Hon, của núi
rừng Việt Bắc. Ông tự họa bức chân dung của mình bằng tất cả sự giản dị, bình dân,
đơn sơ và mộc mạc như bao con người áo chàm cần lao khác: “Tôi là thế này thôi/
Tôi cũng mặc áo chàm/ Tôi cũng đi chân đất/ Tôi cũng vào rừng hái măng/ Tôi
cũng lên nương đi cày”. Ông khiêm tốn tự nhận mình: “Này cụ Sài ơi, tôi chỉ là
một nhành cỏ núi/ Nếu cụ đem về ngâm vào bình rượu/ Cho mọi người cùng uống
sẽ say vui”.(Thơ tặng cụ Sài)
Dương Thuấn là một tri thức thành đạt, một người con ưu tú của Bản Hon,
ông trở thành tấm gương cho thế hệ sau học tập, nhưng ông không tự mãn, mà luôn
tự mình cầu thị, nghiêm khắc với bản thân, giữ cho mình một tấm lòng, một cuộc
sống thanh sạch: Chị hàng xóm dạy con/ Rằng hãy soi bóng vào tôi/ Sẽ thấy những
gì con khiếm khuyết/ Sẽ hiểu những gì con chưa biết/ Hãy nhìn tôi để phấn đấu, noi
gương/ Ngày ngày tôi nghe mặt điềm nhiên/ Nghĩ tuổi thơ của mình hơn gì chúng
nó/ Nhưng ngày ngày chị dạy con như thế/ Bọn trẻ càng yêu càng làm cho tôi khó/
67
Sống thế nào để giữ cho chúng niềm tin…( Soi bóng vào tôi )
Có thể nói, thiên nhiên và con người miền núi có sự gắn bó không tách rời.
Con người hòa hợp với núi rừng, chan hòa với vạn vật, đó là nền tảng, là cái gốc
của tinh thần nhân ái, đoàn kết, quý trọng con người, của những tình cảm tương
thân tương ái cao đẹp không dễ tìm thấy trong xã hội tư bản. Quan trọng hơn, trong
thơ Dương Thuấn, con người tồn tại như một bộ phận không tách rời, làm nên một
chỉnh thể hài hòa của thiên nhiên rừng núi.
2.4.2. Những yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc Tày – Nùng trong
thơ Dƣơng Thuấn.
Tô Hoài, mặc dù rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật các
dân tộc thiểu số trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, vậy mà ông vẫn khách quan và
thẳng thắn nhận xét: “Đó mới chỉ là những phác thảo, chưa thể nên sơn dầu, sơn
mài đươc, có lẽ không bao giờ tôi làm được, mặc dù tôi tha thiết mong muốn…”
Lời tự nhận xét này có lẽ là hơi khiêm tốn nhưng quả thật, nó đã đặt ra một vấn đề
trong sáng tác văn chương về các dân tộc thiểu số. Rõ ràng là có sự khác biệt tương
đối lớn giữa một tác phẩm người Kinh viết về người miền núi và một tác phẩm
được chính tác giả dân tộc thiểu số viết về quê hương mình, đồng bào mình. Không
được tắm mình trong dòng chảy của truyền thống văn hóa dân tộc, không có được
những kỉ niệm “máu thịt” thắm đượm hồn dân tộc thì không thể có tác phẩm mang
được bản sắc dân tộc đó.[40,tr.75], cùng ý trên, trong phần nhận xét về cuốn
“Đaghextan của tôi” – tác phẩm nổi tiếng của Raxun Gamzatốp, M.Gorki cũng nói:
“Chẳng ai biết rõ căn nhà hơn bốn bức tường của nó”.
Trong tiểu luận Đường ta đi, nhà thơ dân tộc Nông Quốc Chấn đã nói để thể
hiện bản sắc dân tộc thì phải nói được: “Dân tộc mình nói hằng ngày như thế nào,
Noi ở ra sao? Làm ruộng, làm nương bằng cách gì? Nhà cửa, quần áo, điệu múa,
điệu hát, phong tục, tính tình có gì đặc biệt?”[3,tr.50]. Nói như vậy có nghĩa là, nhà
văn, nhà thơ trước hết phải có thế giới quan thấm nhuần truyền thống văn hóa dân
tộc, phải có cái gốc dân tộc thì mới có thể viết ra những tác phẩm nói lên tiếng nói,
tâm tư, tình cảm của đồng bào dân tộc một cách chân thực và thành công được.
Dương Thuấn có một lợi thế lớn. Bản thân ông là người dân tộc thiểu số,
68
sinh ra lớn lên gắn bó, gần gũi với đồng bào dân tộc, tất yếu, ông có một vốn văn
hóa dân tộc rất phong phú và có một sự am hiểu sâu sắc tâm lý tình cảm của đồng
bào mình. Tuổi thơ ông được tắm mình trong những điệu then, câu sli, câu lượn và
âm thanh đàn tính quê hương, được hòa mình vào không khí những lễ hội, trò chơi
dân gian đậm đà bản sắc dân tộc, ông cũng là người hát hay đàn giỏi, biết làm
phong slư từ khi còn nhỏ… tất cả những yếu tố đó là một thuận lợi mà không phải
ai cũng có được.
Thơ ca chỉ tồn tại và có được thành tựu khi nó thực sự gắn bó với dân tộc,
với truyền thống dân tộc đã sinh ra mình. Nói như cách của nhà thơ dân tộc Chăm
Inrasara là: “Truyền thống không phải là cái gì để chúng ta tìm tới khai thác trục lợi
mà là một sinh thể sống động luôn luôn mời gọi chúng ta tiếp cận. Chỉ khi nào
chúng ta nghiêm túc học hỏi và đối thoại với hàng ngàn thế hệ con người đã chết,
chúng ta mới có đủ lông cánh nói đến sáng tạo. Chứ không phải thái độ học lỏm
qua vài chuyến điền dã hay đọc qua loa các “công trình khoa học lớt phớt ở vành
ngoài”[20]. Với các nhà thơ dân tộc Tày Nùng, việc kế thừa, tiếp thu và phát huy
mạch nguồn văn hóa dân tộc ở mỗi người một khác, theo một cách riêng.
Dân tộc Tày - Nùng xuất hiện rất sớm ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Trong
suốt chiều dài lịch sử ấy, họ đã xây dựng nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc. Nhà
thơ Y Phương trong bài thơ Nói với con đã rất mến yêu, tự hào khi nói về những nét
đẹp trong phong tục của đồng bào miền núi:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm nên phong tục.
Và Dương Thuấn cũng đã rất nhiều lần đem vào trong thơ những nét đẹp về
sinh hoạt văn hóa, tinh thần, các phong tục tập quán truyền thống độc đáo của dân
tộc mình, từ nếp sống, tín ngưỡng, lễ tết, hội hè, các lễ mừng nhà mới, mừng thọ,
đầy tháng trẻ em cho đến tang ma, cưới hỏi… Không khí văn hóa dân gian của dân
tộc thấm đẫm trong thơ ông như mạch nước ngầm bền bỉ tỏa ra trong lòng đất.
Dương Thuấn không chỉ là một nhà thơ, ông còn là một nhà nghiên cứu, sưu tầm
văn hóa. Ông viết nhiều sách về văn hóa dân tộc Tày, và tiêu biểu nhất là cuốn Văn
hóa Tày ở Việt Nam và tiến trình hội nhập thế giới được đông đảo các học giả trong
69
nước cũng như nước ngoài công nhận và đánh giá cao.
Cùng với quá trình tồn tại của cộng đồng dân tộc, những phong tục tập quán
của đồng bào Tày Nùng ngày một phát triển phong phú, đa dạng hơn. Vì thế, không
gian nghệ thuật thơ Dương Thuấn rộn ràng không khí lễ hội, đậm đà vẻ đẹp phong
tục truyền thống dân tộc.
Phong tục là thói quen, tục lệ đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người
công nhận và làm theo [14,tr.783]
Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và
sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận và làm theo. [14,tr.901]
Phong tục tập quán là toàn bộ những hoạt động sống của con người, hình
thành trong quá trình lịch sử được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác và ai cũng phải tuân theo ở một địa phương, một cộng đồng dân cư
nhất định. [6,tr.27 – 28]. Người Tày – Nùng trải qua bao thế hệ, đã xây dựng nên
cho mình một nền văn hóa đậm đà bản sắc với nhiều phong tục tập quán độc đáo,
mang những đặc trưng riêng biệt của tộc người.
Sống trên vùng cao, người xứ Mây vẫn giữ được cho mình những nét đặc
sắc, chân phương, giản dị có từ bao đời: Nước múc bằng gáo/ Gạo vẫn đong bằng
đấu/ (Quê hƣơng)
Dương Thuấn rất coi trọng bản sắc của dân tộc mình, ông luôn tâm niệm: Ta
là người Tày/ Dù ở nơi đâu cũng vậy/ Một năm có ba ngày phải nhớ!/ Tháng Giêng
nhớ mồng một Tết/ Dậy sớm mổ gà cúng tổ tiên/ Cả nhà cùng ăn bữa cơm thiêng/
Tháng Ba nhớ ngày mồng ba/ Dù ở bao xa cũng về tảo mộ/ Tết tháng Bảy nhớ về ăn
mười bốn/ Ngày cả bản không được hái quả chin/ Sang chơi nhau cho ngô lúc được
mùa… (Ngƣời Tày thì nhớ)
Một năm bắt đầu từ mùa xuân. Mùa xuân bắt đầu từ ba ngày tết. Tết âm lịch
là thời điểm trọng đại không chỉ đối với dân tộc Tày Nùng mà tất cả các dân tộc
khác trên dải đất hình chữ S này, thậm chí cả một số quốc gia láng giềng thuộc
Đông Nam Á. Tết là thời gian của sum họp, đoàn viên, của những ngày nghỉ ngơi
sau một năm vất vả, tiễn đưa năm cũ đi, đón năm mới về với biết bao hi vọng. Đó là
ngày nghỉ ngơi sau một mùa lao động cần mẫn, vào ngày trọng đại đó, dù nhà ai
70
nghèo cũng có con gà, có thịt treo gác bếp, người đi xa cũng nóng ruột trở về.
Người Tày Nùng luôn cố gắng chuẩn bị cho gia đình một cái Tết tươm tất với bản
sắc rất riêng của mình: Chiều ba mươi tết/ Cắt từng chùm giấy đào/ Em dán lên
trước cửa/ Hồng phúc khách đến sớm mai/ Em dán lên từng cây quả/ Cầu mùa sau
quả sai (Năm mới)
Người Tày Nùng dán giấy đỏ những nơi như bàn thờ, cửa ra vào, gốc cây
trong vườn… quan niệm màu đỏ là màu đem lại may mắn, tốt lành trong năm mới.
Tết đến/ Trước bàn thờ/ Trước cửa ra vào/ Trên cây vườn trước ngõ/ Sáng rực
những tấm giấy hồng đào. (Tết đến)
Sống chủ yếu dựa vào chăn nuôi, trồng trọt, người Tày Nùng có niềm tin dựa
trên kinh nghiệm lao động sản xuất của riêng mình: Ngày ba mươi nhớ trồng bầu
trồng bí/ Bầu bí sẽ leo xa, quả lúc lỉu treo giàn/ Dán giấy hồng điều lên trên cánh
cửa/ Tài lộc sẽ đến nhà, già khỏe trẻ ngoan…/ Tục lệ của bản mình, chớ quên em
nhé/ Ông cha đã truyền cho cùng với nước non. (Mùa xuân Bản Hon).
Cuộc sống nông nghiệp với canh tác thô sơ, lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào sức
kéo của con trâu, nên đồng bào Tày Nùng quan niệm “con trâu là đầu cơ nghiệp”,
họ rất quý trọng con trâu, coi nó cũng là một thành viên trong gia đình, cũng được
hưởng những thành quả lao động sau một năm vất vả: “Chiều ba mươi đi hết khắp
thung sâu/ Tìm đàn trâu thả rông từ tháng một/ Lùa về đã có thêm vài con nghé
mới/ Chạy cong đuôi ngơ ngác theo đàn/ Đêm ba mươi trâu lớn bé về chuồng/ Để
ông bà tổ tiên từ cõi âm tới đếm/ Sớm mùng một dậy cho trâu ăn tết/ Nào cháo, nào
chè, nào bánh chưng/ Mỗi trâu cày tu một bầu rượu nếp/ Trâu được cùng người vui
tết đón xuân. (Tìm trâu về ăn tết)
Rồi người Tày Nùng nhắc nhở nhau trong thời khắc chuyển giao: Quanh năm
ai đi đâu ở đâu/ Đêm ba mươi tết cũng trở về/ Giao thừa đến mở toang cánh cửa/
Để chào đón các cụ chựa chòi/ Đốt cho cháy to lên bếp lửa/ (…) / Cúng tổ mồng
một, mồng hai/ Mồng ba thì hóa vàng đưa tiễn…/ Đời cha rồi đến đời con cháu/
Bình tâm trước bàn thờ cầu khấn (Đêm ba mƣơi tết)
Và việc cầu khấn tổ tiên phù hộ cho một năm mới tốt lành, bình an vào đêm
giao thừa cũng được người Tày Nùng truyền cho các thế hệ cháu con: Hãy đốt to
71
lên ngọn lửa/ Cho sáng tỏa khắp nhà sàn/ Mừng các cụ tổ tiên về ăn tết/ Thắp
hương rồi rót rượu trà…/ Nào thịt gà, nào xôi, nào bánh/ Nào rượu trà, thuốc lá,
trầu cay…/ Con nhớ mời hai tay nhé/ Cầu cho năm mới tốt lành/ Cầu cho thêm
khỏe và xinh/ Đêm nay bản đón giao thừa/ Ra đường thì kiêng thắp đuốc/ Rót dăm
tuần rượu, tuần trà/ Rồi con mang bài ra học/ Cho năm mới thêm giỏi giang/ Cha
mẹ đứng cầu xin tiên tổ/ Mong cho năm mới bình an. (Giao thừa)
Và những việc làm đã thành lệ của gái trai thôn bản trong ngày mùng một Tết:
Sáng mồng một tết/ Con trai dậy thật sớm/ Thắp hương cúng bàn thờ/ Năm mới này
mà đi lên núi/ Sẽ hái được sa nhân đầy gùi/ Đi đường vắng gặp con gái xinh/ Sáng
mồng một tết/ Con gái cũng dậy thật sớm/ Chưa sáng đã đi gánh nước tiên/ Năm
mới sẽ mọi điều may mắn/ Nương bông sẽ nở đều trắng xóa/ Có chàng trai giỏi đến
làm quen… (Sáng mồng một tết)
Rồi cả những tục lệ tốt đẹp từ xa xưa giờ vẫn còn được bảo lưu, gìn giữ:
“Tết đến/ Trước bàn thờ/ Trước cửa ra vào/ Trên cây vườn trước ngõ/ Sáng rực
những tấm giấy hồng đào/ Tết đến/ Nào bánh trời/ Nào bánh chưng/ Nào xôi gà, xôi
đen đỏ/ Đặt lên bàn thờ cúng mời tiên tổ/ Tết đến/ Rể mới đi thăm mẹ vợ/ Con cháu
về thăm ông bà/ Học trò đến thăm thầy cô/ Chúc cho nhau điều đẹp như mơ.” (Tết
đến)
Năm mới nơi đâu cũng rộn ràng lời chúc. Ai cũng chúc cho nhau những lời
tốt đẹp, an lành. Nhưng người Tày Nùng chúc nhau theo một cách rất riêng của họ,
vừa giản dị, vừa ngộ nghĩnh, lại vừa chân thành, thực tế: Chúc trâu đẻ nhiều nghé/
Chúc lợn đẻ nhiều con/ Chúc gà ấp ba nở chín/ Chúc người trẻ thêm xuân/ Chúc
người già thêm tuổi…/ Đâu đâu nghe lời chúc/ Từ gầm sàn lên cầu thang/ Từ nhà
dưới lên nhà trên/ Từ sáng sớm tới trưa/ Từ trưa cho đến tối… (Lời chúc)
Trong dịp năm mới, người Tày Nùng thường mời những bà then, thầy bụt về
nhà để làm lễ giải hạn, cầu may với sự tin tưởng tiếng then sẽ xua đuổi đi điều dữ,
đem đến điều tốt lành: “Năm mới đã đến rồi/ Người già thêm hay nghĩ/ Trong cuộc
đời bao điều lành dữ/Ai cũng vội đi mời bà then/ Đến với cây đàn tính hát thâu
đêm/ Giải đi vía dữ của năm qua/ Cầu cho mọi người mạnh khỏe/ Cầu cho trâu
ngựa đầy chuồng/ Cầu cho lợn gà đàn đàn lũ lũ/ Cầu cho ngô lúa xanh nương/ Đêm
72
hát then đầu năm giải hạn/ Làm nảy lên giàn búp trên cành/ Xua tan đi những buồn
đau trắc ẩn/ Của đời ai từng gặp nỗi gian truân/ Lời then như muôn hạt mưa xuân/
Rơi vào đất nhú lên thành lộc biếc/ Rơi vào tóc tình yêu thêm rạo rực/ Rơi vào mây
hóa những chiếc cầu vồng.” (Đêm then)
Mùa xuân là mùa của hội hè. Thơ Dương Thuấn thấm đẫm không khí của
những lễ hội vùng cao, những buổi chợ phiên độc đáo: Mùa xuân đến anh lên thăm
Ba Bể/ Đi hội lồng tồng nghe bao tiếng ca/ Có tung còn, đấu bò, đua thuyền, thi
hát/ Có cô gái Tày đang đợi khách xa. (Mời anh về Ba Bể); Ra chợ nào ai nói
chuyện bán mua/ Trên vai nặng những lời hò hẹn/ Gánh đào đi nói là để đổi mùa/
Yêu em, anh viết tặng bài thơ/ Em ngâm lên điệu phong slư/ Hát vui với mùa xuân,
bè bạn. (Về Bắc Kạn). Chợ phiên là một “đặc sản” của miền núi mà không phải
nơi đâu cũng có. Ngày chợ, người dân sở tại bán những nông sản dư thừa, gồm
lương thực, thực phẩm, sản phẩm thủ công, lâm thổ sản và mua về những mặt hàng
thiết yếu như muối, mắm, dầu hỏa, thuốc lào, nồi niêu xoong chảo, đồ gia dụng
bằng gốm sứ hay công cụ sản xuất bằng kim khí. Chợ phiên không chỉ là nơi người
ta mua bán, trao đổi hàng hóa mà còn là dịp để họ có thể gặp gỡ, giao lưu tình cảm,
trao đổi thông tin hoặc cùng nhau dốc bầu tâm sự, đó còn là dịp người ta gặp lại
bạn cũ, uống rượu tâm tình. Gái trai đi chợ ngoài việc mua bán còn để tìm người
yêu, giao lưu bè bạn. Vậy nên chợ phiên miền núi còn có một không khí hội hè rất
náo nhiệt. Do địa hình chia cắt giao thông khó khăn, với nếp sống bình lặng ở miền
núi, chợ phiên thực sự trở thành một sinh hoạt văn hoá cuốn hút và không thể
thiếu của đồng bào dân tộc vùng cao: Những đêm trăng trong ngần/ Những buổi
sáng chợ phiên/ Hát với nhau từng đôi trai gái/ Bên đường, ai cũng bị bùa mê…
(Lƣợn cọi)
Người Tày Nùng còn có trò chơi Lày cỏ độc đáo, khá giống trò oẳn tù tì của
trẻ con người Kinh, nhưng mức độ khó hơn, rất cuốn hút, rất gay cấn, cần sự thông
minh, nhanh trí và cả một chút may mắn, nên rất thu hút người chơi. Ai thắng được
phạt rượu người thua, nhiều khi chơi hết lượt này qua lượt khác, vãn chợ vẫn chưa
thể dứt ra để về: - Lày cỏ, slam tỉm…/ Ai người thắng, ai người thua/ Thắng hay
thua đều uống rượu/ Ở bản vui trò chơi lày cỏ/ Trẻ già ai chơi rồi cũng say mê/
73
Chưa tan cuộc chơi, chưa sáng chưa về. (Chơi lày cỏ)
Tháng Giêng đi qua, tháng ba lại tới. Khi cây xau xau bật chồi non, khi con
chim “bắt cô trói cột” kêu gọi tổ trứng kiến chín mọng thơm lừng, là khi người Tày
Nùng nhắc nhau về tảo mộ: Từ trên núi ngàn tôi đã sinh ra và lớn khôn/ Con người
vốn tin thần linh hơn tất cả/ Tháng ba dù ai ở đâu cũng nhớ về tảo mộ. (Quê tôi núi
ngàn). Đây là một tập tục rất nhân văn của người Tày Nùng, thể hiện sự biết ơn, tri
ân của cháu con đối với ông bà tổ tiên. Trong lễ thanh minh, dù ở đâu cũng cố gắng
thu xếp đi về chăm lo mộ phần của ông bà tiên tổ, nhổ cỏ, dọn rác cho thật sạch,
cũng rượu thịt, trồng cây, đốt pháo: Tháng ba anh bận không về được/ Em cùng họ
hàng đi tảo mộ/ Gánh cơm cúng đi lên đỉnh núi/ Chai rượu ngô thơm sóng sánh
rừng mơ/ …/ Sáng nay khi em cúng mẹ/ Nhớ cúng thêm thần đất, thần rừng/ Rừng
quanh năm che chở mẹ/ Đất bốn mùa phủ lên mộ cỏ xanh/ …/ Người bản ta đi đâu
cũng nhớ/ Tháng ba về tảo mộ tết mùng ba. (Tháng ba không về)
Người Tày Nùng coi tết tháng Bảy quan trọng không kém gì Tết Nguyên
Đán. Thường thì có vùng ăn Tết tháng Bảy vào ngày mười năm, nhưng cũng có
vùng ăn tết này vào ngày mười bốn. Tết Nguyên Đán mổ gà, tết Tháng Bảy thịt vịt:
Tết tháng bảy ăn ngày mười bốn/ Giết lợn, mổ vịt, cúng tổ tiên/ Ba ngày cùng vui
chơi đủ thứ/ Đàn bà ngồi trên sàn trò chuyện/ Đàn ông chụm đầu ngâm fong slư.
(Tết tháng bảy)
Dương Thuấn đem vào trong thơ cả nhưng tập tục của dân tộc mình một
cách phong phú với mật độ dày đặc. Thơ Dương Thuấn thấm đẫm không khí văn
hóa của đồng bào vùng cao, trở thành một bảo tàng lưu giữ những phong tục tập
quán của dân tộc Tày Nùng:
Hình ảnh những cô dâu Tày – Nùng mặc áo chàm trong ngày cưới là một
hình ảnh độc đáo không nơi nào có được: Tháng mười lúa nếp thơm trên rẫy/ Lúc
mà mùa cưới đã đến rồi/ Nhà trai vỗ lợn cho thật béo/ Nhà gái thì thêu gối, dệt
chăn…/ Ngày cưới cả bản vắng mừng vui/ Cô dâu nón trắng, áo chàm dài/ Dây xà
tích bên hông sáng lóa/ Đôi bướm xinh bay trên mũi hài… (Đám cƣới trong bản)
Đám cưới là một thởi điểm quan trọng nhất đời người, bởi vậy trong ngày
trọng đại này cũng có rất nhiều nghi lễ: Em mặc bộ áo chàm dài/ Thắt dải lưng
74
cũng xanh như áo/ Bộ xà tích rung rinh theo mỗi bước/ Cổ em đeo ba chiếc vòng
bạc/ Đi đôi hài thêu đôi bướm xinh xinh…/ Bên em là một cô phù dâu/ Có hai bà
đưa, hai bà đến đón/ Gánh của hồi môn mấy đôi trai gái/ Dẫn đầu nhà trai hai vị
quan làng/ Đứng xin dâu hát cả nghìn câu hát/ Em đẹp như trăng rằm tỏa rạng/
Một đoàn người đón rước em sang…” (Làm dâu)
Của hồi môn của người Tày Nùng cho con gái khi về nhà chồng cũng rất độc
đáo với những ý nghĩa nhân văn sâu sắc: Con gái đi làm dâu cha mẹ tặng chiếc
hòm/ Trong hòm đựng hai cây vải trắng/ Một cây dành để may địu cho con/ Một
cây dành để liệm bố mẹ chồng/ Bốn góc hòm đặt bốn đồng tiền/ Bỏ gạo nếp vào
nuôi lọ nhẫn (Trƣờng ca Bi phẫn)
Trong bài thơ Nhớ chị Thìn, những tục lệ trong ngày cưới của người Tày
Nùng như tục chăng dây không cho vào ngõ (nhà gái sẽ chăng dây, sau đó sẽ ra câu
hát đố nhà trai, nhà trai đối đáp được mới cất dây cho qua, gọi là hát xin dâu), tục
lại mặt cũng được Dương Thuấn đề cập đến: Tôi nhớ nhất cái ngày chị cưới/ Nhà
trai họ đến đón dâu/ Bà đem dây ra giăng ngoài ngõ/ Không cho ai trong họ bước
qua cầu/ Thế rồi nhà trai thay nhau đứng hát/ Bà nghe rồi bỏ sợi dây/ Hai bên đối
lời vàng ngọc/ Chị Thìn vừa đi vừa khóc/ Năm hôm lại mặt chị về… (Nhớ chị Thìn)
Lấy nhau về rồi sinh con đẻ cái. Người Tày Nùng có tục sau khi sinh con
xong, ngay khi còn trong tháng, họ hàng xa gần, anh em bạn bè thân thiết đều đến
thăm, xem mặt đứa trẻ, chúc mừng mẹ tròn con vuông và tặng gà thiến, hoặc những
món quà cho hai mẹ con. Đây là một nét đẹp trong mối quan hệ của cộng đồng
người Tày Nùng: Sinh con người người đến hỏi/ Rằng sinh con gái hay trai/ Con
trai tặng mũ thêu chóp quả/ Con gái tặng mũ cánh hoa đôi/ Anh em họ hàng tấp
nập/ Xa gần cũng tới nhà thăm/ Xin mừng con gà gạo nếp/ Chuyện trò vui nắng
ngoài sân.
Sau khi tròn một tháng, gia đình sẽ tổ chức lễ đầy tháng cho đứa trẻ với quan
niệm cầu cho đứa bé khỏe mạnh, ngoan ngoãn, lớn nhanh. Trong lễ đầy tháng, bà
nội và bà ngoại sẽ cõng địu đứa trẻ ra ngoài ngõ, đem theo những xâu bánh coóc mò
để “bán nhè” – với quan niệm đứa trẻ sẽ ngoan ngoãn không quấy khóc nữa, hàng
xóm xung quanh sẽ “mua nhè”, chúc cho đứa trẻ mạnh khỏe, giỏi giang: Lễ bán
75
tháng họ hàng đủ mặt/ Đem con trình bà mụ tổ tiên/ Hai đầu nôi ông nội ngoại
cùng đứng/ Cùng đưa nôi xem vía đặt tên/ Bà nội tặng một bài hát ru/ Bố thợ săn
tặng con khẩu súng/ Mẹ cô giáo tặng họa đồ, sách bút/ Bà ngoại tặng cho địu mới/
Rồi bà cõng cháu trên lưng/ Đem ra ngõ túi bánh coóc mò/ Chia cho khắp mọi nhà
trong bản/ Ai nhận bánh mừng đều bỏ một đồng mua (Sinh con). Cũng trong dịp
này, đứa trẻ sẽ được đặt tên, và kể từ đó, người ta sẽ không gọi tên cúng cơm của bố
mẹ đứa trẻ nữa mà sẽ gọi họ bằng tên đứa trẻ: Ngày con đầu đầy tháng/ Đủ mặt họ
hàng nội ngoại/ Mời thầy về làm lễ đặt tên/ Bố mẹ được khai sinh lần nữa/ Tên bố
mẹ gọi theo tên con/ Cả tên gia đình, nhà cửa/ Gọi lâu rồi sẽ thành quen/ Ở trong
bản, khắp anh em họ mạc… (Tên của con đầu)
Với những người hiếm muộn con, người ta cho rằng phải xây cầu làm phúc
cho mọi người đi lại, mỗi người đi qua cầu sẽ là một lời cầu chúc cho gia chủ sớm
có con, nhiều lời chúc sẽ đến được với thần linh ở trên cao, ông trời sẽ ban cho đứa
con thỏa lòng mong đợi: Muộn con thì bắc cầu hoa/ Bắc cầu lên không trung cầu
trời/ Bắc cầu qua khe suối cầu phúc/ Cho người trong thiên hạ lại qua/ Trên cầu
lợp mái ngói đỏ/ Hai đầu đóng giấy xanh vàng/ Ở giữa viết hàng chữ trong hình cá
chép/ Có tờ giấy đỏ ghi tên người cầu ước/ Ghi điều nguyện cầu giữa cõi mênh
mang (Trƣờng ca Bi phẫn)
Điều này cũng được Dương Thuấn đề cập đến trong một bài thơ khác: Nhà
chồng mong có cháu đích tôn/ Chọn ngày rằm tháng giêng/ Vượt núi đi mượn thầy
mo/ Thầy nói phải bắc cầu hoa/ Cầu khấn mẹ Hoa cho sai quả… (Bắc cầu hoa).
Người miền núi, trong đó có người Tày Nùng, có một hình tượng rất được tôn sùng
trong đời sống tâm linh đó là Mẻ Bjóc (có nghĩa là Mẹ Hoa). Mẻ Bjóc được coi là
“vị thần bảo trợ cho tình yêu, sắc đẹp, sức khỏe, sinh trưởng và bảo vệ sự sống cho
con người”[51,tr197]. Mẹ Hoa cai quản mọi việc, từ việc cây trái ra hoa kết quả,
việc nối duyên cho trai gái đến việc sinh nở của con người. Muốn mùa màng tốt
tươi, trai gái nên duyên, muốn có cháu con nối dõi, người ta thường cầu đến Mẹ
Hoa – xin người ban ơn, phù trợ.
Người Tày Nùng do cuộc sống từ xa xưa phụ thuộc vào thiên nhiên, nên luôn
mong muốn sinh được nhiều con, đủ nếp đủ tẻ để có thêm sức lao động, thêm sức
76
mạnh bảo vệ gia đình: Là cha ai cũng muốn sinh con trai/ Để lúc chết có người
chống gậy/ Là mẹ ai cũng muốn sinh con gái/ Để tháng Giêng có rể đến thăm nhà
(Trƣờng ca Bi phẫn)
Người Tày Nùng có một nghi lễ với ý nghĩa hết sức nhân văn và tốt đẹp – Lễ
Mừng thọ cho người lớn tuổi trong gia đình. Trong lễ mừng thọ, có một nghi lễ là
đắp phai cúng tuổi, với quan niệm mong muốn người già sẽ khỏe mạnh, thêm nhiều
tuổi, sống yên vui với con cháu: Cái phai ngăn thời gian sắp đổ/ Cái phai bằng cột
sắt, cột gang/ Nước chảy lâu đá nát, cột mòn/ Cháu con cùng ra tay chống đỡ/ Mỗi
người mang đến những chiếc bánh giày to/ Xếp dài dặc trên chiếc cầu năm
tháng…/ Khi cúng xong tiên tổ, đất trời/ Cả họ hàng cùng nhau chia bánh/ Những
chiếc bánh giày hoa ghi họ tên/ Ai ăn bánh đắp phai cúng tuổi/ Có nghĩa đã giúp
ngăn đập nước thời gian/ Thầy mo đuổi hết đi điềm gở/ Bấm đốt tay phù chú xuống
thuyền/ Nửa đêm mang thuyền ra sông thả/ Chiếc thuyền bẹ chuối chở đi hết ưu
phiền… (Trƣờng ca Bi phẫn)
Dương Thuấn đem hết vào thơ mình những nét đặc sắc, độc đáo của dân tộc
từ lễ tết, cưới hỏi, sinh con, đầy tháng, nối tuổi… thậm chí cả tang ma: Đám ma
nguội không có quan tài/ Chỉ lễ đưa linh, ngóng hồn người chết/ Tiếng thầy tào gọi
vọng da diết:/ - Xa trăm sống trăm suối hãy về/ Cháu trai đội trên đầu khăn trắng/
Cháu dâu cầm đuốc đứng soi đón kia… (Đám ma nguội). Đám ma nguội là đám
ma không có xác hoặc không tìm được xác người chết. Người nhà tổ chức đám ma
cho người mất tích lâu năm đủ thủ tục và nghi lễ như một đám ma bình thường,
nhưng trong quan tài chỉ đặt vào vài bộ quần áo hoặc một số vật dụng cá nhân của
người đã khuất, sau đó tiến hành mai táng, chôn cất theo thông lệ.
Người Tày Nùng sống giữa thiên nhiên bao la rộng lớn, họ luôn tin vạn vật
hữu thần, tin vào ma quỷ, tin có những thế lực siêu nhiên, tin vào tà ma. Họ cho
rằng những đứa trẻ chết yểu làm ma trẻ con thì hay quay về trêu chọc, quấy phá
người khác, tin rằng đứa trẻ không thể ở cùng gia đình đến lớn khôn là do không
hợp mệnh hoặc do ma trẻ con đầu thai vào trêu chọc, cho nên chết yểu. Vì vậy khi
đứa trẻ chết ngay trong tháng đầu vừa sinh, họ không đem chôn cất mà cho thi hài
đứa trẻ vào trong một thúng gio, rồi lấy dây thừng treo thúng gio lên một cái cây
77
lớn, linh hồn đứa trẻ sẽ siêu thoát, không đầu thai về lại gia đình đó nữa : Từ xa xưa
trẻ em đau ốm/ Chết không được vào hòm chôn/ Đặt vào dậu treo lên ngọn cây
rừng. (Đi qua nghĩa địa trẻ con) ; Đứa bé chết trong tháng/ Đem đặt vào giữa
chậu gio/ Trèo cây cao treo lên trên ngọn. (Ngƣời chết).
Với những đứa trẻ lớn hơn một chút mà chẳng may bị mất, người ta cũng
không tổ chức tang ma, không đắp mộ, chỉ vùi đất lại : Đứa bé chết lúc mười tuổi/
Đem chôn không đắp mộ/ Lấp đất, che cỏ rồi về/ (Người chết)
Người Tày Nùng cũng tin vào ma gà – một biểu tượng của cái xấu, cái ác
trong tâm thức của họ. Đồng bào từ xa xưa cho rằng, nhà nào mà không có mạng
nhện là dấu hiệu của nhà có ma gà. Ma gà chuyên dùng tà thuật xấu xa của mình để
dụ dỗ, hãm hại người khác, nhà nào có ma gà sẽ bị mọi người hắt hủi, xa lánh. Khi
người có ma gà chết đi, lúc chôn cất sẽ đặt nằm sấp, lộn ngược đầu chân, để ma gà
sẽ tiêu biến, không còn có thể quay về nhũng nhiễu, làm hại mọi người nữa : Người
chết có ma gà/ Sẽ bị chôn sấp mặt/ Chôn lộn ngược đầu chân/ (Ngƣời chết). Tuy
những quan niệm này là không có cơ sở khoa học, nhưng nó thể hiện tư duy của
người Tày Nùng từ xa xưa, luôn sợ hãi những thế lực vô hình đem đến tai họa cho
họ, tai ương đối với họ, đều là do ma quỷ làm nên.
Người Tày Nùng chịu ảnh hưởng khá rõ nét quan niệm Tam giới của Đạo
giáo Trung Quốc: Ở đâu quỷ cũng hại người/ Ba cõi đều đeo dao để chống/ Ở cõi
tầng trời đeo dao vào cổ/ Cõi trần gian dao cài thắt lưng/ Cõi âm ty buộc dao
khoeo chân ( Lá thƣ thầy giáo cũ )
Người Tày Nùng xưa do có nhiều thế hệ cùng sinh sống dưới một mái nhà
nên trong mối quan hệ và ứng xử giữa các thành viên trong gia đình có rất nhiều
quy định, lễ giáo rất nghiêm ngặt, những quy định vừa nghiêm ngặt vừa tế nhị trong
cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình đó đảm bảo cho gia đình đi vào nề
nếp, khuôn phép, trật tự: Con dâu nhà sàn bước hay khép nép/ Không dám đi qua
phía trước bàn thờ/ Không dám ngồi ở mặt trên bếp lửa/ Không dám ăn chung mâm
với bố chồng/ (Con dâu nhà sàn)
Sống ngay giữa tự nhiên bao la lớn rộng và bí hiểm, với quan niệm vạn vật
hữu thần: Cối bên suối đêm ngày đứng giã/ Bếp lò cũng có ma trông/ Cầu thang
78
cũng có vía giữ/ Bàn thờ giữa nhà cũng tổ/ Máng nước, cầu rửa đều thiêng…
(Trƣờng ca Bi phẫn), nên người Tày Nùng có rất nhiều những điều kiêng khem,
né tránh, họ cho rằng có thờ có thiêng, có kiêng có lành: Giêng hai ấp vịt/ Bjóc mạ
nở bên rừng/ Mẹ bảo kiêng không hái/ Mang về ấp trứng bị ung… (Bjóc mạ);
Trồng mai tránh chôn đè bóng/ Kẻo rồi mai mọc thành khóm/ Đủ cây đóng giá
khiêng ma/ Thời người trồng mai sẽ chết/ Chưa ai thoát được chuyện kia…/ Trẻ tối
mà đùa với bóng/ Nửa đêm hay bị đái dầm/ Ngồi ăn cũng nhìn xem bóng/ Bị ai ăn
bóng mình không…/ (Tránh bóng); Đi ở nơi xa, ăn nhớ kiêng khem/ Bởi ở quê
người không ăn nước suối/ Nấu nước lạ nhớ mang hòn sỏi/ Bỏ vào nồi đun rồi lại
vớt lên (Trƣờng ca Bi phẫn).
Người Tày Nùng cũng rất coi trọng phong thủy nhà cửa, mộ phần, những dịp
trọng đại phải chọn ngày đẹp cho mọi thứ suôn sẻ, tốt lành: Những lần ông Trời
Sinh đến bản/ Người nào cũng nhờ vả ông/ Nào xem mồ mả bình yên không/ Nào
xem ngày mắc khung cửi/ Nào xem hướng đất để dựng nhà (Ông Trời Sinh)
Mỗi khi sắp có bão hay mưa lớn bất thường, các bà mẹ dân tộc Tày Nùng
thường ném một nắm hạt bông vào bếp lửa cho nổ lách tách để xua đuổi những tà
ma có thể đến cùng cơn giông bão: Mẹ đang đứng bên nhà sàn gọi lợn/ Bỏ vội vàng
vào bếp nắm hạt bông/ Lửa cháy lên hạt bông kêu lách tách/ Đuổi tà ma chớ mượn
gió đến cùng(Trở gió)
Người Tày Nùng quan niệm mỗi người đều có 12 con vía, quản những bố
phận cơ thể của con người. Vía trong quan niệm của họ, cũng là những thực thể
sinh động: Mười hai con vía/ Con nào cũng đáng yêu/ Con nào cũng thích ngắm/
Không được đi đâu đấy nhé/ Một con đi sức khỏe sẽ không tốt/ …/ Mời thầy cúng
đến gọi trở về/ Cho đủ mặt cả mười hai con vía (Mƣời hai con vía)
Ý nghĩa, vai trò và vị trí của các phong tục tập quán của đồng bào Tày nùng
được Dương Thuấn khái quát: Bao tục lệ mà thiếu nó/ Sẽ không thành một bản bao
giờ/ Có tục lệ dành cho khi sinh/ Có tục lệ dành cho lúc chết/ Tục lệ nào hay và
đẹp/ Tục lệ nào gánh nặng của muôn đời? (Trƣờng ca Bi phẫn)
Người Tày Nùng có đời sống văn hóa tinh thần rất phong phú. Họ có rất
79
nhiều làn điệu dân ca đặc sắc. Một trong số đó là hát lượn: Câu hát lượn có từ bao
giờ/ Chui vào quả thì quả ngọt/ Chui vào trái tim thì nhớ khôn cùng/ Thắp sáng tận
cùng bóng tối/ Đốt lên nơi băng giá ngọn lửa tình (Trƣờng ca Bi phẫn)
Cả bản không kể già trẻ gái trai, đều dành cho tiếng lượn quê hương một
một niềm mến yêu sâu sắc, những đêm hát lượn thâu đêm không ai thấy mệt: Đêm
lượn nàng ơi/ Bản không ngủ/ Anh và em không ngủ/ Dưới gốc si người đông nghịt/
Trăm ánh mắt dồn về một nơi/ Trăm cái tai hướng về một phía/ Đêm nàng ơi cây
cũng ch ng ngủ yên/ Rạo rực gái trai đang thì đôi lứa/ Trái tim cháy bừng bừng
ngọn lửa/ Mỗi lời nàng ơi như một phép thần tiên/ Dẫn hồn nhau vào cõi thương
cõi nhớ/ Đêm nàng ơi, không hay trăng mờ tỏ/ Trời tối đường mưa, thắp đuốc đến
xem/ Nàng ơi - đêm hết rồi lại sang đêm. (Đêm lƣợn nàng ơi)
Từ những buổi sinh hoạt như thế, tình đoàn kết, tình làng nghĩa xóm lại thêm
gắn chặt và biết bao đôi lứa lại nên duyên: Hát hết ngày thì lại hát sang đêm/ Con
gái hát thua sẽ phải về làm vợ/ Con trai hát thua sẽ phải về làm chồng/ (Trƣờng ca
Bi phẫn)
Tiếng lượn cũng vương vít đón bạn xa về, cũng say đằm như được ủ men,
nồng nhiệt như lòng hiếu khách chân thành của người vùng cao hồn hậu: Nào hãy
xắn áo lên/ Nào hãy xòe bàn tay ra/ Ch ng cần hay đêm ngắn dài/ - Bạn đã đến nhà
tôi/ Chớ nghe gió thổi qua đồi/ Chớ nhìn mặt trời sắp lặn/ Ta cùng hát lượn nàng
ơi…/ Người hát thách đố một câu/ Người khác đối lại một câu/ Ai hát thua thì uống
rượu/ Ai say bò như rắn qua cầu/ Ngồi hát vai kề vai nhau/ Hát một câu lại muốn
tiếp câu/ Nghe lượn hay như ăn mía ngọt/ Trăng mến thương soi tỏ rừng vầu (Nàng
ơi uống rƣợu)
Lời ca tiếng hát quê hương có một vị trí đặc biệt trong tim mỗi người con
dân tộc: Bản làng không tiếng hát nàng ơi/ Cũng như trái đất không có mặt trời/
Cũng như tình yêu không có men say đắm/ Dù cuộc sống nhiều khổ đau vất vả/
Nghe hát lượn rồi bạn sẽ thấy vui… (Trƣờng ca Bi phẫn)
Yêu thương nhau người miền núi bỏ bùa cho nhau, để thật say, để thật nhớ,
để không xa được: Yêu nhau thời hay mang bùa mê/ Bỏ vào nước khi khát lòng lại
nhớ/ Ai uống rồi không đi xa được nữa/ Bắt con tim lầm lạc tự tìm về (Bản Hon).
80
Chẳng biết có tồn tại thật hay không thứ bùa yêu đầy quyền năng ấy, nhưng gái trai
đôi lứa vẫn thủy chung, gắn bó với nhau chân thành, đằm thắm: Yêu nhau không kể
tật hay lành/ Vợ cụt chân thì chồng làm nạng/ Chồng bị mù thì vợ làm mắt nhìn
thay… (Trƣờng ca Bi phẫn)
Dương Thuấn trân trọng và mến yêu hết thảy mọi thứ của quê hương mình,
đồng bào mình, ông mang cả nghề đan lát thủ công của người Tày Nùng vào thơ, ca
ngợi bàn tay khéo léo, chăm chỉ, óc sáng tạo của họ: Thú dữ trong rừng sâu tới ăn
lúa rẫy/ Trúc uốn cong thân mình làm bẫy đánh/ Cá dưới suối sâu bơi lội tung tăng
/ Trúc ngả qua mặt nước làm cần câu / Mùa màng bận nếu người cần tới trúc/ Trúc
hết lòng không quản ngại tháng năm/ Làm sọt gánh ngô, làm bồ đựng thóc/ Làm
ghế tựa để ngồi, làm bàn để viết/ Làm chiếu hoa tặng cô dâu ngày cưới/ Trải giữa
nhà sàn sáng rực hoa văn. ( Dăm câu hát trúc ). Cả quy trình làm nên một chiếc áo
màu chàm đặc trưng của dân tộc: Xỏm lá to/ Chàm lá nhỏ/ Cô lại cùng đen đặc như
nhau/ Để nhuộm vải cây/ Để nhuộm áo dài/ Để nhuộm tấm khăn/ Để nhuộm thắt
lưng… (Cây chàm và cây xỏm), hay những món ăn mạng đậm phong vị độc đáo
của núi rừng địa phương như măng núi, rau bồ khai và bánh, xôi trứng kiến: Tháng
hai ba lại nhớ về Bắc Kạn/ Em gái gửi cho rau bồ khai và măng/ Hai món vẫn
thường ăn thủa nhỏ/ Ngồi bên mâm vui như đang ở trên rừng ( Rau bồ khai và
măng ); Tháng ba tìm trứng kiến kim/ Đem về đồ xôi, làm bánh… (Trƣờng ca Bi
phẫn) đều hồn nhiên đi vào thơ Dương Thuấn.
Thơ Dương Thuấn đã thể hiện một cách sinh động, đa dạng đời sống sinh
hoạt văn hóa, tinh thần, các phong tục tập quán phong phú, giàu bản sắc của đồng
bào Tày Nùng, tạo nên một sự lôi cuốn, một sức hấp dẫn độc đáo mang phong vị
bản địa rất riêng trong sác sáng tác của ông mà không nhiều nhà thơ làm được điều
đó.
Tóm lại, Dương Thuấn với thế mạnh của mình là sinh ra và lớn lên ở miền
núi, có mối quan hệ gắn bó sâu sắc với đồng bào dân tộc, lại có vốn văn hóa dân
gian Tày rất phong phú, ông đã tiếp thu và vận dụng thành thục trong các sáng tác
của mình, bởi thế thơ ông không những mang phong cách cá nhân mà còn mang
những dấu ấn chung của cộng đồng, của tộc người, của vùng, miền hết sức đặc sắc.
81
Tiểu kết.
Được đánh giá là sứ giả văn hóa của người Tày – Dương Thuấn đã thực hiện
rất tốt sứ mệnh của mình trong việc truyền bá, quảng cáo, giới thiệu, bảo lưu và gìn
giữ những nét đẹp của văn hóa dân tộc mình.
Đặc trưng về thiên nhiên và cách thức con người sinh sống, thích nghi giữa
thiên nhiên đó chính là một biểu hiện của văn hóa dân gian. Đọc thơ Dương Thuấn,
chúng ta được cung cấp một số lượng đồ sộ, phong phú những tài liệu về thiên
nhiên và cuộc sống con người miền núi ở nhiều khía cạnh, nhiều phương diện, từ
đời sống vật chất cho đến văn hóa, tinh thần. Thơ Dương Thuấn là bức tranh sinh
động về con người vùng cao với những nét đặc trưng rất riêng của họ. Ông không
chỉ phản ánh rất thành công những nét đặc trưng của thiên nhiên rừng núi, ông còn
họa nên bức chân dung rất có hồn về những người dân tộc Tày – Nùng ở miền đông
bắc Việt Nam.
Thơ Dương Thuấn thể hiện sự mến yêu, tự hào của ông về quê hương, đồng
bào, về những phong tục tập quán lâu đời của dân tộc mình như tín ngưỡng, hội hè,
lễ tết, cho đến tang ma, cưới hỏi… đã tạo nên nét độc đáo riêng của vùng miền mà
không nơi nào có được, đồng thời, nền văn hóa phong phú, đa dạng của dân tộc Tày
– Nùng đã in dấu lại trong thơ Dương Thuấn, đem đến một phong vị khác biệt cho
phong cách thơ ông giữa vô vàn những tên tuổi, gương mặt của thi ca hiện đại. Các
tác phẩm của Dương Thuấn, do đó, được người Tày Nùng, đặc biệt là sinh viên, trí
thức dân tộc Tày Nùng và cộng đồng người Tày Nùng sống ở nước ngoài hào hứng
đón nhận. Sự lao động tâm huyết của ông đã mang đến cho họ sự hiểu biết sâu sắc
hơn về các phong tục tập quán của dân tộc mình, tình yêu và niềm tự hào dân tộc.
Trong nhịp sống hiện đại xô bồ hiện nay, khi mọi giá trị tinh thần đang bị nguy cơ
thói quen tôn thờ vật chất làm xói mòn thì Dương Thuấn đã làm sống dậy, phục
hưng văn hóa của dân tộc ông. Ông đã đưa dân tộc ông vào cuộc hội nhập quốc tế,
đã làm cho dân tộc Tày tự hào về ông. Những đóng góp to lớn của ông thật sự đáng
82
tự hào và đáng trân trọng.
CHƢƠNG 3
DẤU ẤN NGỮ VĂN DÂN TỘC TÀY – NÙNG TRONG THƠ DƢƠNG THUẤN
Mỗi dân tộc có một kho tàng văn học mang bản sắc độc đáo riêng của cộng
đồng mình. Đọc sáng tác của một dân tộc, ta như sống cuộc sống của dân tộc đó
với những đặc điểm của một thế giới riêng [28]. Người Tày – Nùng cũng có một
kho tàng văn học dân gian phong phú, đặc sắc với nhiều thể loại đa dạng.
Có thể nói thi pháp thi ca truyền thống của dân tộc Tày Nùng đã có những
ảnh hưởng lớn không chỉ với riêng Dương Thuấn mà còn với các nhà thơ Tày Nùng
hiện đại nói chung. Thi ca dân tộc thiểu số bị chi phối bởi những điều kiện đặc biệt
trong quá trình vận động phát triển nên nó bỏ qua các bước trung gian mà đi thẳng
từ thơ ca dân gian truyền thống lên hiện đại. Bởi thế đặc trưng tiêu biểu nhất của nó
là thấm nhuần và chịu sự ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa và văn học dân gian. Nhờ
sự kế thừa, tiếp thu và phát triển những thi pháp truyền thống mà thơ ca Tày - Nùng
hiện đại không những giữ được bản sắc dân tộc mà còn trở nên giàu có hơn về hệ
thống thể loại, phong phú hơn về ngôn ngữ thơ và góp phần tạo ra những nét riêng
biệt trong hình tượng thơ.
Kho tàng văn học dân gian Tày Nùng phong phú, giàu đẹp, vừa là nền tảng,
vừa truyền cảm hứng cho Dương Thuấn trong quá trình sáng tác của mình. Sự ảnh
hưởng của văn học dân gian Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn thể hiện rõ nét ở
các phương diện ngôn ngữ diễn đạt, thể thơ và việc sử dụng chất liệu ca dao, dân ca,
tục ngữ, thành ngữ, truyện thơ, truyện cổ tích, truyền thuyết, câu đố… trong kho
tàng văn học dân gian Tày Nùng vào thơ của mình.
3.1. Ngôn ngữ diễn đạt
Nghệ thuật thuộc về nhân dân. Nó phải bắt nguồn sâu xa trong quảng đại
quần chúng nhân dân. Nó phải được quần chúng hiểu và yêu mến. [26, tr.583].
Muốn các tác phẩm được dân tộc mình, đồng bào mình hiểu và yêu mến, các tác
phẩm ấy phải được viết ra từ chính ngôn ngữ, từ lời ăn tiếng nói của dân tộc mình,
đồng bào mình. Không khó để nhận ra rằng Dương Thuấn là người thật sự gắn bó
và tâm huyết với những vấn đề thuộc về bản sắc văn hóa của dân tộc mình nói riêng
83
và các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Một trong những điểm cần được ghi
nhận đó, phải kể đến sự cố gắng của ông trong việc sáng tác thơ bằng tiếng mẹ đẻ
và đưa cách diễn đạt, lối nói của đồng bào mình vào thơ.
Ngôn từ là cái gốc của văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Ngôn từ là
hiện thực, là biểu hiện trực tiếp của tư duy. Ngôn ngữ là một mặt biểu hiện của văn
hóa nếu không muốn nói rằng ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành
và phát triển văn hóa. Mỗi dân tộc lại có một thứ ngôn ngữ khác nhau. Vì vậy, ngôn
ngữ luôn có giá trị biểu trưng cho một dân tộc cụ thể, nó hàm chứa trong đó bản sắc
của dân tộc, nó mang những nét đặc trưng cơ bản của một cộng đồng người, bởi
vậy, ngôn ngữ là thứ thể hiện trực tiếp những gì thuộc về dân tộc đó. M.Gorki nhận
định "ngôn ngữ là yếu thứ nhất của văn học". Thật vậy ngôn ngữ là chất liệu đầu
tiên, không thể thiếu của những sáng tác văn chương. Ngôn ngữ được sử dụng
trong văn học là ngôn ngữ đã được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của
nhà văn nên ngôn ngữ mang tính chất chủ quan của nhà văn. Đặc trưng của ngôn
ngữ thơ ca là sự trong sáng giản dị, hàm súc, gợi tả, giàu nhạc điệu, giầu liên
tưởng... Ngôn ngữ thơ còn là ngôn ngữ đời sống được sử dụng dưới hình thức thơ
ca để phản ánh đời sống của người nghệ sĩ.
Về vấn đề sáng tác thơ bằng tiếng mẹ đẻ, Triệu Lam Châu trong cuốn Văn
học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kì đổi mới có viết:“Nhà thơ muốn làm thơ
bằng tiếng mẹ đẻ hiện nay, ngoài việc sáng tạo thơ còn phải sáng tạo ra từ ngữ
mới, anh ta đồng thời làm hai công việc cùng một lúc là công việc của nhà thơ và
công việc của nhà ngôn ngữ học. Thật là nặng nề.”[29,tr.110]. Cũng trong cuốn đó,
Hữu Tiến cũng phát biểu: “Tôi nghiệm ra rằng tư duy bằng tiếng mẹ đẻ câu văn của
mình mập mạp, có sức sống lạ kì, không bao giờ chết yểu. Tiếng mẹ đẻ chính là
nguồn sữa không bao giờ cạn đối với các nhà văn dân tộc thiểu số. Cái đó là cơ sở
của nền tảng tạo nên giọng điệu, phong cách của mỗi nhà văn. Nhà văn nào biết
khơi đứng mạch, đúng nguồn sẽ trở nên giàu có… Cây cỏ có gốc, sông suối có
nguồn thì mới tồn tại được. Một nhà văn biết lấy dân làm gốc sẽ phát triển được.
Cũng như vậy, mỗi nhà văn dân tộc thiểu số cần phải có cái gốc văn hóa của mình.
Nếu mất gốc văn chương của anh ta sẽ chung chiêng lơ lửng ở khoảng giữa dân tộc
84
thiểu số và đa số. Tôi tạm gọi đó là văn chương nước lợ. Ở đời không ai uống nước
lợ mà sống, cũng như thứ văn chương nước lợ ấy không dung dưỡng được tâm hồn
ai cả .
Việc sáng tác bằng tiếng dân tộc có một ý nghĩa vô cùng lớn lao mà Quách
Liêu đã từng khái quát: “trong vốn cổ văn học của mỗi dân tộc thường chứa đựng
một thi pháp độc đáo. Những thành công của thi ca hiện đại các dân tộc thường áp
dụng một cách sáng tạo thi pháp truyền thống đó. Bỏ qua việc sáng tác bằng tiếng
mẹ đẻ chính là bỏ qua một đoạn đường mà bao thế hệ cha anh đã dày công vun
đắp”. [27]
Lò Ngân Sủi cũng nhận định: “thơ dân tộc thiểu số có cái độc đáo đặc sắc
riêng của nó, đặc biệt là các bài thơ được làm bằng tiếng dân tộc, bằng hình ảnh
hình tượng đậm đà chất dân tộc miền núi, dẫu cách nói, cách ví von, thể hiện ở mỗi
người, mỗi dân tộc, mỗi thời có khác nhau.”
Việc sáng tác thơ bằng tiếng dân tộc mình hay sáng tác thơ song ngữ là ý
thức của nhà thơ trong việc thể hiện tính dân tộc và bản sắc dân tộc mình, điều này
thực sự đáng trân trọng. Ngoài Dương Thuấn, có một số nhà thơ thuộc thế hệ đầu
tiên như Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại… cũng sáng tác thơ
song ngữ, trong số đó, Nông Quốc Chấn là nhà thơ rất tâm huyết với việc làm thơ
bằng tiếng dân tộc. Ông cho rằng: “Biết bao nhiêu vui, buồn, yêu, ghét, căm giận
của quần chúng đang cần có thơ để diễn tả. Văn học miền núi còn hiếm văn xuôi,
cho nên, thơ là hình thức duy nhất đề miêu tả con người và cuộc sống của các dân
tộc thiểu số…” Nhưng đáng tiếc là thế hệ những nhà thơ trẻ người dân tộc hiện nay
đã không còn am hiểu và mặn mà lắm với tiếng mẹ đẻ nữa, những người thật sự tâm
huyết với ngôn ngữ dân tộc, với bản sắc văn hóa dân tộc ngày càng thưa vắng…
Sự trở về với tiếng mẹ đẻ để sáng tác là biểu hiện sâu sắc nhất của bản sắc
dân tộc. Ở đây đảm bảo sự biểu hiện trực tiếp cách tư duy dân tộc. Vì vậy mà nó đã
thể hiện được sâu sắc, chân thực nhất về cuộc sống và con người dân tộc (còn nếu
như sáng tác bằng tiếng Kinh – nghĩa là họ phải sáng tác theo cơ chế bắc cầu: Tư
duy bằng tiếng dân tộc, sau đó mới tìm cách diễn đạt bằng tiếng Kinh). Tiếng mẹ đẻ
85
là một vốn vô cùng quý giá để biểu hiện tâm hồn dân tộc. [51,tr49].
Dương Thuấn thật sự tâm huyết với việc làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ để thể
hiện bản sắc dân tộc mình trong các tác phẩm của ông. Ông từng tâm sự: “Tôi làm
thơ bằng cả hai thứ tiếng: Tày và Kinh. Khi viết tiếng Tày, tôi không nghĩ chỉ viết
cho người Tày đọc, hoặc khi viết bằng tiếng Kinh, tôi cũng không nghĩ chỉ viết cho
người Kinh đọc. Tôi chỉ nghĩ đến đối tượng đọc của tôi là con người. Theo tôi nhà
thơ phải đứng trên sự vật, trên cả thời đại mình để đem tiếng nói yêu thương tâm
huyết nhất của mình đến với mọi người. Tôi luôn luôn muốn kh ng định với mọi
người rằng: Tôi là như thế! Dân tộc tôi là như thế![10]” Dương Thuấn còn luôn nêu
cao trách nhiệm, nghĩa vụ truyền tải văn hóa dân tộc đến độc giả: “Người nghệ sĩ sẽ
có tội lớn với dân tộc mình nếu không nắm bắt được hồn của dân tộc mình, đem bó
đuốc của hồn dân tộc mình thắp sáng thêm hồn nhân loại”[10]
Dương Thuấn có ba tập thơ song ngữ Tày – Việt nổi tiếng được nhiều người
nhắc tới và có sức sống lâu bền trong lòng độc giả người dân tộc miền núi nói riêng
và độc giả cả nước nói chung. Tuyển tập Dương Thuấn được sáng tác bằng hai thứ
tiếng: Tày và Kinh, với độ dày trên 2000 trang, gồm 3 tập. Tác phẩm này, nhà thơ
Dương Thuấn đã dành 24 năm để sáng tác. Đây là lần đầu tiên Dương Thuấn in
tuyển tập và cũng là lần đầu tiên một nhà thơ dân tộc Tày có tác phẩm song ngữ đồ
sộ nhất bằng tiếng dân tộc mình - điều mà từ trước đến nay các nhà thơ dân tộc
thiểu số khác chưa làm được. Thật hiếm có một tuyển tập thơ lại công phu và sáng
tác bằng tiếng dân tộc thiểu số, dành riêng cho một dân tộc thiểu số như “Tuyển tập
thơ Dương Thuấn”. Nhà nghiên cứu văn học, dịch giả Phạm Vĩnh Cư nhận
xét: “Đây là một hiện tượng, một hành động văn hóa rất đáng biểu dương.”
Dương Thuấn bộc bạch rất chân tình: “Đọc thơ để thấy người, tôi có bao giờ
giấu nổi tôi đâu. Là người con của dân tộc Tày, những vần thơ của tôi viết ra mang
hồn vía của người Tày”[32]
Dương Thuấn là người Tày, sống trong một cộng đồng mà mọi người đều dùng
tiếng Tày để giao tiếp. Sau này lớn lên, ông biết thêm tiếng Kinh, nhưng ông vẫn dành
cho tiếng mẹ đẻ một vị trí trang trọng: Tiếng đầu tiên tôi nghe là tiếng Tày/ Câu nào
86
cũng hay, chữ nào cũng đẹp/ Tôi làm thơ tặng mẹ cha, cô bác/ Tôi lớn lên có thêm một
tiếng khác/ Tôi dùng làm thơ cũng giỏi ra trò/ Bao cô gái Kinh chép vào trong sổ/ Đọc
thơ tôi rồi đêm đêm họ nằm mơ…” (Tiếng đầu tiên tôi nghe)
Dương Thuấn rất đỗi yêu thương, tự hào về ngôn ngữ của dân tộc mình:
Tiếng nói của người mình hay lắm/ Giống như nước sông chảy khúc siết/ Người xưa
nói rằng ăn ngay, nói thật/ Bao lâu sau đến giờ mới gặp được em…/ Lớn lên anh đã
đi đến khắp muôn nơi/ Không có tiếng nước nào sánh được ( Tiếng của mình )
Xa quê hương, ông đến sinh sống và làm việc giữa lòng thủ đô, ông tìm thấy
nỗi lòng của mình ở một người phụ nữ cùng cảnh ngộ: Còn chị kể sống ở đất người
Kinh/ Muốn nói tiếng Tày không ai biết nói/ Nói tiếng Tày mới sướng ở trong lòng!
(Có một ngƣời phụ nữ đau khổ)
Càng đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, ông càng trân trọng, nâng niu
thứ ngôn ngữ quê hương. Ông không bao giờ thấy mình xấu hổ hay kém cỏi khi là
một người dân tộc. Có thể thấy nét riêng trong thơ Dương Thuấn một phần được tạo
nên từ tình yêu sâu sắc dành cho tiếng mẹ đẻ, từ lòng tự tôn dân tộc. Khác với nhiều
cây bút đua nhau “Kinh hóa” thì Dương Thuấn lại về nguồn, mài gọt những hạt
ngọc trong ngôn ngữ quê hương với tâm niệm làm đẹp và quảng bá văn hóa dân tộc
mình đến “muôn nơi”.
Dương Thuấn có bài thơ “Chuyện thằng Đầu Trọc” rất thú vị: “Có chuyện
thắng Đầu Trọc buồn cười/ Đầu Trọc vốn gốc người suối vắng/ Sinh ra từ dưới váy
vải chàm/ Bám luống cày cầm roi đập nghé/ Nấu măng chua, thèm rãi rớt ướt bờ/
Khi lớn lên phải đi xa lìa bản/ Mấy năm xuống ở dưới đất Kinh/ Thỉnh thoảng về
quê nhà đôi chốc/ Trọc Đầu muốn ra vẻ dở hơi/ Hắn bảo quên hết tiếng Tày rồi…”
Đầu Trọc là hiện tượng tiêu biểu cho một số bộ phận người học đòi hổ lốn phủ nhận
nguồn gốc, nguồn cội, bản chất của mình. Khi cha Đầu Trọc cảm thấy chướng tai
gai mắt với sự ra vẻ của con mình: “Ông bố rút bắp cày định đánh/ Bấy giờ hắn
ch ng nhớ tiếng Kinh/ Hắn kêu lên: A liu, a liu… Thế đấy!”
Ngay cả trong quá trình sáng tác nghệ thuật của mình, Dương Thuấn cũng
quan niệm rằng làm thơ về miền núi, về người dân tộc, không đơn giản chỉ là sự
phiến diện, bề ngoài, hình thức mà phải thật hiểu người vùng cao, thật yêu người
87
vùng cao thì mới lột tả được cái hồn của họ: Tôi đã thấy họ làm thơ về núi/ Bài nào
đọc cũng giống nhau/ Ở trên núi có rượu/ Viết một câu say/ Ở trên núi có lượn/ Viết
một câu tình/ Ở trên núi có thác/ Viết một câu nước réo/ Ở trên núi có ngựa/ Viết
một câu leng keng nhạc ngựa/ …/ Chạy loanh quanh mấy cái ngôn từ/ Càng dài đọc
lại càng vô nghĩa/ Ai làm thơ về vùng cao quá dễ/ Hãy bớt thời gian lên đó ở vài
ngày/ H n dân bản sẽ cho ăn một bụng ớt cay (Họ làm thơ về núi)
Ông nhấn mạnh quê hương và hồn cốt dân tộc có vai trò nền tảng như thế
nào trên con đường ông sáng tác nghệ thuật: Tôi biết người lớn lên không có quê
hương/ Nên viết những bài thơ không kỷ niệm/ …/ Rất lắm vị nhưng không vị nào rõ
rệt…/ Thương người làm thơ không có quê hương/ Bố mẹ sinh ra và lớn lên ở quê
người xa lắc/ Ch ng biết mùa ngâu mưa rừng rơi lắc thắc/ Ch ng biết con suối
thâu đêm kêu róc rách/ Ch ng bao giờ bị vắt xanh bò cổ, cắn đầu/ Ch ng biết lời
nói hay nhất là của lão nông/ Không có quê thơ, người có buồn không?/ Cuộc đời
cứ trôi cùng những đêm lắm mộng/ Bao hàng chữ viết ra không hồn lạnh cóng.
(Tặng ngƣời không có quê)
Thơ Dương Thuấn đã nói lên tiếng nói tự hào của đồng bào mình về quê
hương xứ sở, về một truyền thống văn hóa lâu đời đậm đà bản sắc vẫn đang còn
được bảo lưu và gìn giữ. Ông mang nỗi ghét thương, mang lời ăn tiếng nói, cách
cảm cách nghĩ của đồng bào mình vào trong thơ nên người Tày Nùng tìm thấy trong
thơ ông sự gần gũi, quen thuộc, gắn bó rất tự nhiên.
Những nỗ lực của ông trong việc dùng tiếng dân tộc mình để truyền tải
những tâm tư, tình cảm của đồng bào mình đã là rất đáng quý, rất đáng nghi nhận.
Và mặc dù là sáng tác thơ bằng tiếng Việt nhưng ông vẫn tìm cách thể hiện tư tưởng
và thẩm mĩ của đồng bào mình thông qua những hình ảnh, những lối diễn đạt đậm
màu sắc truyền thống dân tộc.
Dương Thuấn đã làm thành công hai công việc cùng một lúc, đó là vừa thể
hiện được tâm lí dân tộc, vừa thể hiện được cách nói, cách biểu đạt truyền thống của
dân tộc mình. Làm được việc đó, ngôn ngữ lúc này không chỉ đơn thuần là một
phương tiện truyền tải thông tin nữa mà nó đã được nâng cao lên thành một nét văn
hóa, nét đặc trưng của dân tộc, “mỗi từ ngữ là kết tinh của văn hóa truyền thống lâu
88
đời”[51,tr.50].
Trong ngôn ngữ của người Tày Nùng không có từ “uống” mà chỉ có từ ăn
(kin). Người Tày Nùng thường nói kin khẩu (ăn cơm), kin nặm (uống nước), kin lẩu
(uống rượu)… Dương Thuấn cũng nói: “Ở nhà sàn ăn nước sông Năng” (Bản Hon)
Ông cũng nhận thấy sự độc đáo trong ngôn ngữ của đồng bào mình: “Không
nói là đi ngủ/ Nói là vác chiếu vác chăn/ Không nói núi dốc quá/ Nói là leo lên gió
thổi ra tai/ Không nói đi mệt quá/ Nói là lỏng cả hai đầu gối”
Trong lời mở đầu cho cuốn sách Dương Thuấn – hành trình từ bản Hon, Đỗ
Thị Thu Huyền cũng nhận xét: “thơ Dương Thuấn hay dùng ngôn từ ví von, so sánh
đầy tính trực cảm và rất giàu biểu tượng - nét đặc trưng trong tư duy người dân tộc
thiểu số” [16,tr.10] Lối nói so sánh đầy hình ảnh ấy làm cho người nghe dễ liên
tưởng, dễ ấn tượng: Con nhỏ theo mặt trời sẽ lớn lên/ Sẽ chạy chon chon như một
chú chồn (Lên rẫy); Từng khóm lớn đứng ngủ ngày, xanh mướt/ Lá lủ xuống như
đuôi gà thiến béo. (Lúa ngủ ngày); Nhớ nhau như là ong nhớ mật/ Thấy từ xa
trong bụng đã cười (Trả lời tấm thiếp)
Thủ pháp so sánh đã giúp trường liên tưởng của bạn đọc mở rộng theo nhiều
chiều: Tôi thầm mơ một đêm nằm với chị/ Chị sẽ thơm như quả lê mới hái về (Nhớ
chị Thìn)
Ngược lại cũng có khi ông cụ thể hóa điều muốn nói, giúp dễ nắm bắt ý
tưởng: Bản Hon ai cũng hiền lành/ Như lá, như cây, như cỏ... (Chiều Bản Hon)
Không riêng khi viết về miền núi, viết về Hà Nội, nhà thơ cũng ví von, liên
tưởng theo cách tư duy của người dân tộc thiểu số: Người đi như dòng suối chảy
bên rừng / Xe cô như trâu rập rình chân núi (Buổi chiều thành phố)
Cách so sánh ví von hình ảnh này rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói trong sinh
hoạt hằng ngày của người Tày Nùng. Dương Thuấn đã khéo léo lựa chọn những hình
ảnh so sánh rất gợi cảm, rất hình tượng, mà vẫn rất gần gũi, quen thuộc với đồng bào
miền núi, câu thơ hồn nhiên, mộc mạc như thốt ra từ lời nói hằng ngày, không phải
cách nói quá, hay cố tình nói cho giống cách tư duy của đồng bào dân tộc.
Dương Thuấn đã rất thành công trong việc sử dụng lời ăn, tiếng nói, cách
diễn đạt và lối ví von, so sánh của người dân tộc miền núi cũng như cách họ tư duy,
89
suy nghĩ vào trong các sáng tác của mình. Bằng cách đó, ông đã viết nên những câu
thơ chân thật, hồn nhiên, ngộ nghĩnh mà rất bất ngờ, thú vị trong từng sự liên tưởng,
từng hình ảnh. Thơ Dương Thuấn, vì vậy, đã có một sức sống mãnh liệt, một vị trí
vững bền đối với đồng bào Tày Nùng, với thơ ca Tày Nùng hiện đại nói riêng và
thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
Thơ Dương Thuấn là cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt của người miền núi
mộc mạc, hồn nhiên, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. Qua giọng thơ ông, ta phần nào
hiểu được tính cách của người miền núi, nhẹ nhàng, thân ái, chan hòa với gia đình,
làng xóm, bè bạn, họ hiền lành, khiêm nhường với nhau, họ yêu ghét rõ ràng, sống
ngay thẳng, chân thật, không thích phô trương. Sẽ thật khó tìm ở nơi trung du hay
đồng bằng một lối nói độc đáo thế này: Ta là chàng trai của núi/ Ta chỉ biết nói lời
cho quả sai/ Ta có con mắt của con nai bên suối/ Ta có con mắt của con báo trong
lồng (Ra đi); Ngọn núi sinh ra những người cha/ Đứng làm tảng đá dựa cho cả
nhà (Núi Cơm Chiều)
Dương Thuấn chịu ảnh hưởng sâu sắc lối tư duy triết lý của người miền núi:
Khi nước trong quả bầu đã đầy/ Dù lắc mấy cũng thấy im, không nghe tiếng kêu /
Khi nước trong quả bầu vơi đi một ít / Cầm lên lắc nhẹ nghe như mưa rào hắt / Còn
khi nước trong quả bầu vơi quá nửa/ Cầm lên không lắc cũng kêu như thác bên
rừng/ Thế mới hay bầu nước cũng đầy vơi lắm chuyện/ Như người đầy chữ thường
ít nói, kẻ ít chữ lại hay khoe ( Quả bầu đựng nƣớc)
Và một cảm thức thời gian mang đậm phong vị núi rừng: Những người trẻ
thì thành người già/ Lũ trẻ con thì thành người lớn. (Về bản) ; Mặt trời hôm nay
như hôm qua/ Ngày mai mặt trời không mới (Ngƣời làm đồng) ; Dòng sông vừa đi
vừa lớn/ Như người càng già càng khôn/ (Con sông) ; “Ai rồi già cũng đến/ Ai rồi
trẻ cũng qua…” (Những bà già)
Dương Thuấn đã khéo léo dung hòa giữa cái truyền thống và hiện đại, giữa
cái cách tân và những nét đẹp giản dị từ ngàn xưa để lại, dường như ông đã “thắp
sáng lại ngọn đèn huyền ảo nghìn xưa bằng ánh lửa mới”.
Raxun Gamazatop nói: “Bút pháp của con, cách viết của con tức là cá tính
bản lĩnh của con người phải đứng ở hàng thứ hai trong thơ. Phải đặt lên hàng đầu
90
cá tính bản lĩnh của dân tộc mình, trước hết con phải là người dân miền núi, một
người Avar đã rồi hãy là Raxun Gamazatop… còn nếu những bài thơ của con xa lạ
với đồng bào miền núi, với tính chất của họ thì cuối cùng cách viết của con chỉ là
kiểu cách.”[dẫn theo 51,tr44]. Cũng như vậy, nhà văn Gô Gôn đã nói rất chí lý :
Tiếng dân tộc chân chính không ở chỗ miêu tả cái áo Xarafar (áo dài không có tay
của phụ nữ nông thôn Nga – T.Đ.S) mà ở ngay trong tinh thần dân tộc. Nhà thơ vẫn
có thể là nhà thơ dân tộc ngay cả khi ông ta miêu tả mọt thế giới hoàn toàn khác lạ
nhưng nhìn nó bằng con mắt của dân tộc mình, nhân dân mình, cảm thấy và phát
biểu theo lối mà đồng bào ông đang cảm thấy và phát biếu. [Dẫn theo 31, tr.196].
Nhà thơ cũng là một cá thể trong xã hội, anh ta tất yếu phải thuộc một dân tộc nào
đó, vì vậy, nhà thơ, trước hết với tư cách một người con, một thành viên của dân tộc
mình, cần phải nói lên tư tưởng, tình cảm, quan niệm thẩm mĩ của dân tộc mình, và
còn điều gì tuyệt vời hơn là anh ta có thể nói lên tất cả những điều đó bằng ngôn
ngữ mẹ đẻ của mình, nói cho đồng bào mình và nói vì đồng bào mình. Nhà thơ dân
tộc, nói cách khác, là sản phẩm cụ thể của sự kết tinh tinh hoa tinh thần của dân tộc,
anh ta trực tiếp tồn tại trong cộng đồng dân tộc mình, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của
tâm lí và văn hóa cộng đồng, vì thế tiếng nói của anh ta cũng chính là tiếng nói của
dân tộc, thế giới quan của anh ta là thế giới quan mang dấu ấn cộng đồng sâu sắc.
Nói một cách văn hoa, nhà thơ là người ca sĩ của nhân dân, cất lên tiếng ca yêu ghét
của nhân dân. Anh phải đặt cá tính và bản lĩnh cá nhân trong cá tính và bản lĩnh của
cộng đồng, dân tộc. Dương Thuấn là người ca sĩ cần mẫn, suốt đời cất lên tiếng ca
về quê hương, về đồng bào mình với niềm mến yêu tha thiết: “Thơ Dương Thuấn
giản dị, ít lời nhưng đắm thắm và sâu sắc. Dù xa quê, xa cộng đồng, sống ở thành
phố đã lâu nhưng anh vẫn giữ được nguyên vẹn bản sắc của dân tộc mình. Thơ anh
giống như rượu ủ men lá càng uống càng ngấm, càng để lâu càng dễ mềm môi
người uống. Cũng lại có thể ví thơ anh như ngọn lửa ủ trong bếp nhà sàn. Ngọn lửa
âm thầm cháy, âm ỉ nhưng không bao giờ tắt, mãi ấm nóng và tỏa sáng mỗi khi đêm
lạnh ụp xuống. Nhưng, giống như thác nước ẩn mình sâu trong những dải rừng bạt
ngàn, đôi khi thơ anh tung bờ ào ạt…Dương Thuấn đi từ rừng xuống đồng bằng,
xuống bể, sống, hòa nhập, trải nghiệm, để rồi hồn anh ngược về rừng, trong trẻo,
91
nguyên sơ. Đấy là lí do khiến anh giữ được sức mạnh sáng tạo, làm giàu cho thơ ca
và ngôn ngữ. Thơ anh là miếng thổ cầm dệt tay bởi mẹ và em, đặt ở đâu cũng không
lẫn được.” [30].
3.2. Thể thơ
Hiểu một cách đơn giản, thể thơ là cách thức tổ chức ngôn từ trong một bài
thơ. Cách thức tổ chức ngôn từ khác nhau sẽ tạo nên những bài thơ khác nhau xét về
hình thức biểu đạt.
Nông Quốc Chấn là một thơ Tày ở miền Bắc Kạn, đồng hương và cũng là
tiền bối của Dương Thuấn, về vấn đề thể thơ của dân tộc mình, trong tham luận đọc
ở Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ II (1957) ông đã nói: “Ở quê tôi có mấy loại
thơ: loại thơ thể bảy chữ liền vần, loại này bình dân nhất, ai nấy đều có thể làm và
ngâm được, người ta thường dùng để kể chuyện dài. Loại thơ tám câu (bát cú), loại
này thường được làm bằng chữ nho và chữ Nôm Tày, chỉ thích hợp với các ông
đồ.” [2] Ngoài ra, người Tày Nùng còn có các thể thơ phổ biến khác như thể năm
chữ, và cả thể thơ tự do gần gũi với kiểu “phuối pác” rất hay được đồng bào sử
dụng trong đời sống hằng ngày.
Dễ nhận thấy đại đa số tác phẩm của Dương Thuấn đều khai thác triệt để các
thể thơ truyền thống của dân tộc Tày – Nùng, hầu hết các tác phẩm thơ đều là thơ
năm chữ, bảy chữ và thơ tự do.
Thể thơ năm chữ được Dương Thuấn sử dụng trong cả ba cuốn tuyển tập thơ
Dương Thuấn, nhưng mật độ lớn nhất tập trung ở tập 3 – tập thơ viết cho thiếu nhi.
Có lẽ với trẻ nhỏ, đây là thể thơ thích hợp nhất, nó dễ thuộc, dễ nhớ, dễ được các
em đón nhận.
Thơ bảy chữ của đồng bào Tày Nùng thường được gieo vần ở chữ thứ năm
và thứ bảy của mỗi câu. Đây là thể thơ của các bài lượn, bài then, Dương Thuấn
tuân thủ rất nghiêm chỉnh trong các bài thơ bảy chữ tiếng Tày của mình, tuy nhiên
đôi khi cũng có những biến thể do tác giả “chêm” vào hoặc bớt đi trong câu thơ một
vài từ, khiến câu thơ trở nên dài hơn hoặc ngắn hơn, nhưng lại gần gũi với lời ăn
tiếng nói của đồng bào hơn. Nhưng đây chỉ là biến thể của thơ bảy chữ, không phải
92
thơ tự do.
Tổ chức câu của thơ tự do Dương Thuấn khá đặc biệt. Một bài thơ ông viết
theo thể tự do, có câu rất ngắn, chỉ một hai từ, có câu lại rất dài, cứ thế nối tiếp đan
xen nhau tạo nên một kết cấu độc đáo.
Ngoài những thể thơ đã kể trên đây, Dương Thuấn còn có những bài thơ tám
chữ, chín chữ, mười chữ… hoặc kết hợp nhiều thể thơ trong cùng một bài thơ. Cách
tổ chức câu thơ phóng khoáng, không gò ép, khuôn mẫu này rất gần gũi với hình
thức “phuối pác” trong thực tiễn đời sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào Tày
Nùng. Điều đó vừa chứng minh sự ảnh hưởng sâu đậm của các thể thơ dân gian dân
tộc đối với Dương Thuấn, vừa thể hiện sự am hiểu của ông về văn học dân gian dân
tộc mình.
3.3. Dấu ấn của các loại thể văn học dân gian Tày – Nùng trong thơ
Dƣơng Thuấn.
Dương Thuấn từng bộc bạch trong buổi trao đổi với chúng tôi, rằng ông sinh
ra ở một miền quê giàu bản sắc, giàu truyền thống, ông lớn lên trong không khí hội
hè, lớn lên cùng những bài hát trong những đám hiếu, đám hỉ, đầy tháng, mừng nhà
mới… và những cuộc du xuân trai gái hát đối nhau. Ông gắn bó với quê hương Bản
Hon – nơi mà những người trong bản mỗi lúc gặp mặt hay chuyện trò thường nói
thơ với nhau, mỗi lời nói ra đều mượt mà, bay bổng. Ông khẳng định rằng ông chịu
nhiều ảnh hưởng từ mẹ ông – một người phụ nữ Tày truyền thống, thuần túy, chất
phác, dịu hiền, đặc biệt là bà có một vốn ca dao, tục ngữ, thơ ca và các truyện kể
dân gian Tày Nùng rất phong phú. Trong sinh hoạt gia đình thường ngày, bà thay vì
mắng mỏ răn đe nặng lời, bà thường dùng chính những câu ca dao, tục ngữ thâm
thúy, sâu sắc ấy để dạy dỗ, uốn nắn con cháu. Vì lẽ ấy, Dương Thuấn ghi nhớ và
tiếp thu sâu sắc vào trong tiềm thức những câu ca dao, tục ngữ đó, chúng tồn tại
trong ông như mạch nước nguồn ngấm sâu vào lòng đất. Sau này, trong quá trình
sáng tác nghệ thuật, Dương Thuấn đưa chúng vào những bài thơ hiện đại một cách
hết sức tự nhiên, hài hòa. Ông hấp thụ những tinh hoa của văn học dân gian dân tộc
mình và làm nó bung tỏa rực rỡ. Kho tàng văn học dân gian Tày Nùng vừa trở thành
chất liệu phong phú, thành nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật không bao giờ vơi
93
cạn, vừa tạo nên tài năng và nhân cách Dương Thuấn.
3.3.1. Cao dao – thành ngữ - tục ngữ .
Hiểu nôm na, ca dao là những câu hát ngắn, không thành chương khúc, có
nhịp điệu nhưng chưa rõ ràng, thường được cất lên tự nhiên, tùy hứng, để diễn tả
tâm tư, tình cảm của đại chúng bình dân.
Thành ngữ phản ánh các khái niệm, hiện tượng, còn tục ngữ phản ánh các
quan niệm, những suy nghĩ, những tri thức và cách tư duy của một dân tộc về các
hiện tượng, các quy luật tự nhiên và xã hội. [5]
Tục là thói quen có từ lâu đời, được sử dụng phổ biến, rộng rãi, ngữ là lời
nói. Vậy, tục ngữ là những lời nói được đông đảo mọi người công nhận, lưu truyền
và sử dụng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tục ngữ là sự đúc kết trí tuệ và tâm hồn
của nhân dân lao động, vì thế mỗi câu tục ngữ không chỉ là một phán đoán, một
triết lý mà còn là một văn bản nghệ thuật có giá trị. [33].
Người Tày Nùng có một kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ hết sức phong
phú, đa dạng, ý tứ thâm sâu, có tính triết lí và giáo dục rất cao, nó phản ánh nhiều
phương diện của đời sống sinh hoạt và lao động của người miền núi. Cao dao tục
ngữ Tày Nùng có sắc thái đa dạng, muôn hình muôn vẻ, hàm súc mà thâm sâu, là
kho tàng kiến thức vô giá, là niềm tự hào của dân tộc. Ca dao tục ngữ chính là thông
điệp của lớp người đi trước để lại cho con cháu thế hệ sau, nó được sản sinh ra trong
thực tiễn cuộc sống và quay trở lại phục vụ chính cuộc sống đó, đồng thời thể hiện
nghệ thuật sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng… của một cộng đồng người. Ca
dao là bầu tâm tình, tục ngữ là cái “túi khôn” của người dân tộc. Đời sống tinh thần
càng phong phú, ca dao tục ngữ càng nhiều, càng giàu đẹp.
Việc vận dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ dân gian đã làm thơ Dương Thuấn
trở nên hàm súc, vừa dễ hiểu vừa thâm thúy sâu sắc, vừa hiện đại mà cũng rất cổ
điển, vừa thể hiện rất rõ bản sắc dân tộc Tày Nùng trong thơ Dương Thuấn. Dương
Thuấn mến yêu và tự hào về kho tàng ca dao tục ngữ giàu và đẹp của dân tộc mình.
Ông biến chúng trở thành chất liệu và nguồn cảm hứng vô tận trong các sáng tác thơ
ca. Trong bài Lời nói nhân dân, ông viết: Khỉ dạy con của khỉ trèo cây/ Rái cá dạy
con mình bơi lặn… Tục ngữ Tày có câu tương tự: Mẻ lình slon lục lình pin mác, mẻ
94
nảc slon lủc nảc đăm pja. Ông còn nhắc lại câu tục ngữ này một lần nữa trong bài
Chuyện đời xưa: “Con của khỉ dạy con của khỉ hái trái/ Con của rái cá dạy con của
rái cá bắt mồi/ Mẹ là người, mẹ dạy con mình cho thảo…”
Dương Thuấn tin ở sức mạnh vun đắp và cải biến tâm hồn con người của
những câu tục ngữ của bà, của mẹ. Người xưa nhấn mạnh vai trò giáo dục của bố
mẹ, bố mẹ chính là tấm gương cho con cái noi theo, bố mẹ là người có ảnh hưởng
quyết định đến nhân cách, đạo đức của con.
Trong cộng đồng người Tày – Nùng có một câu tục ngữ được sử dụng phổ
biến là Hết đây kin bấu lẹo, cột kẹo kin bấu đo, nên không có gì lạ khi Dương
Thuấn đưa nó vào trong bài thơ Làm ăn, với nội dung mỉa mai, răn đe, lên án
những kẻ tham quan bất chính. Ông viết: Hết đay, kin quá tởi bấu lẹo/ Cột kẹo kin
thai khoái mì vằn.. (Làm th ng ngay ăn cả đời không hết/ Làm cong queo nhanh
chết có ngày...)
Người Tày Nùng có tinh thần đoàn kết cao, họ coi con người là bình đẳng,
không phân biệt, không miệt thị cao thấp, sang hèn: Ca đăm cáp ca đáng củng ca/
Khẩu rẩy cáp khẩu nà củng khẩu. Câu tục ngữ này có nghĩa là Quạ đen và quạ
khoang cũng đều là quạ, gạo rẫy với gạo ruộng cũng đều là gạo, sao phải phân biệt
khinh khi. Bài thơ Ban trưa, Dương Thuấn có mượn vế trước của câu tục ngữ này:
“Giữa trưa khoác áo ra bờ ruộng/ Quạ đen quạ khoang đều cùng là quạ/ Cùng chở
nắng về cho trời kịp tối…” Và cũng mượn tích từ chính câu tục ngữ này, Dương
Thuấn viết nên bài thơ Quạ đen quạ khoang rất hóm hỉnh mà sâu sắc: Quạ đen chê
quạ khoang rằng: Khoang!/ Quạ khoang chê quạ đen rằng: Đen!/ Gà gô nghe được
cười lên:/ Đồ nhà quạ! Đồ nhà quạ!/ Đồ mỏ cong queo chê anh em…
Người Tày Nùng có sự cố kết cộng đồng rất bền chặt. Cách đối đãi, cư xử
với nhau giữa mọi người trong bản làng chòm xóm được đúc kết lại thành những
câu tục ngữ để đời trước dặn đời sau: Từ xưa nhân dân đã nói:/ Đập sào xuống
nước, cá cũng bị váng đầu/ Chó bị đánh chủ cũng thấy đau. (Lời nói nhân dân)
Câu thơ trên Dương Thuấn đã mượn ý của câu tục ngữ Tày Nùng nói về cách
cư xử, đối đãi với nhau của những người trong thôn bản: Tủp slảo lồng nặm chếp
hua pja/ Tủp ma chếp thâng chủa. Người Kinh cũng có câu tương tự là Đánh chó
95
ngó mặt chủ.
Ông lại viết: Từ xưa nhân dân đã nói:/ Vách núi không mở cửa/ Rễ si cũng
ch ng bám vào sâu… (Lời nói nhân dân) Tục ngữ Tày Nùng cũng có câu: Nả đán
bấu khay tu/ Lảc lày bấu boóng lù khảu lẩc.Nó gần giống câu Tại anh tại ả, tại cả
đôi bên của người Kinh vậy. Câu thơ rất đỗi đơn giản nhưng để diễn giải cho rõ
ràng thì tốn bao giấy mực.
Tục ngữ Tày Nùng có câu: Mẻ nhình mái quá làn bấu hí/ Mạy kho nhằng mì lạo
lọ sluôn. Trong bài thơ Với Bàn Tài Đoàn, Dương Thuấn cũng mượn lời người xưa
mà viết: “Con gái lỡ thì không sợ ế/ Cây cong còn có kẻ rào vườn” Tình cảm mà
Dương Thuấn dành cho người bạn thơ tài hoa Bàn Tài Đoàn làm người ta dễ liên
tưởng tới niềm yêu thương, trân trọng của Nguyễn Du dành cho nàng Kiều tài sắc
vẹn toàn mà gian truân trắc trở.
Người Tày Nùng có câu tục ngữ: Ma quai pây hâư bấu lườm đuây/ Pỏ đây
pây quây bấu lườm lườn cáu. Nghĩa là Chó khôn đi lâu không quên cầu thang, đàn
ông tốt đi xa không quên nhà cũ. Thì Dương Thuấn viết: Ơi, con chó khôn không
quên cầu thang/ Như chủ nhà không quên ngôi nhà (Ngôi nhà sàn)
Tục ngữ xưa để lại những bài học, những kinh nghiệm được đúc kết bằng
những trải nghiệm của nhiều thế hệ. Người Kinh nói Không ai giàu ba họ, không ai
khó ba đời, thì Tày Nùng cũng có câu Khỏ bấu quá slam pi, mì bấu quá slam tởi.
Dương Thuấn thừa nhận và tin vào điều đó: /Lời của pửt dạy rằng:/ - Người giàu
đừng mắng chửi người nghèo/ Lửa cháy nhà, người nghèo còn giúp/ Hổ vồ lợn,
người nghèo còn đuổi/ Người nghèo cũng đừng ghét người giàu/ Nghèo không quá
ba năm, giàu không quá ba đời… (Lời của Pửt)
Người xưa đúc kết: Đông hâư củng mì tua khỉ khếp hết vùa/ Đin dú tỷ lầư
củng mì cần hết chủa… Dương Thuấn cũng viết: Mỗi rừng thiêng có một con rết
vua/ Mỗi vùng đất có một người làm chúa… (Con rết vua)
Tục ngữ Tày Nùng đề cao, coi trọng tình cảm, con người. Có câu: Ngần chèn
tang tôm nhả/ Tha nả tảy xiên kim… Người xưa nói vật chất, tiền bạc là vật ngoài
thân, đồng tiền như cỏ rác chẳng lâu bền, chỉ có danh dự, tình cảm, tình nghĩa giữa con
96
người với nhau mới là điều đáng quý, đáng trọng, không gì so sánh được. Dương
Thuấn cũng dựa vào ý đó mà viết nên những câu thơ nặng nghĩa nặng tình: Tiền bạc
cũng ví như đất, như cỏ/ Nhìn thấy mặt nhau mới quý tựa ngàn vàng… ( Đất )
Qua tích truyện Cóc kiện trời, người xưa khẳng định sức mạnh tiềm ẩn bên
trong những con người ngỡ như tầm thường, nhỏ bé, xấu xí nên mới có câu tục ngữ:
Cạng cảc lúc hâư củng cạ đang cáu lóa/ Lóa tọ cạ đảy pỏ vạ dú nưa bân. Đây cũng
chính là câu cuối trong bài thơ Nòng nọc của Dương Thuấn: Nòng nọc luôn nhận
mình xấu xí/ Xấu xí thôi nhưng bảo được ông trời.
Người Tày Nùng hay nói: Slí sloong lè vài moong bấu oóc, đến tuổi chín
chắn về già, người ta ngẫm lại cuộc đời chảy trôi, nhận thấy cái hữu hạn của kiếp
người, Dương Thuấn viết nên bài thơ Bốn mươi hai đầy chiêm nghiệm triết lý:
“Bốn mươi hai tuổi nhìn trâu gio không tỏ/ Đời người một trăm cái tuổi/ Ngẫm mà
ch ng thấy ra gì...”
Cuộc sống gia đình, quan hệ vợ chồng, con cái… là một trong những đề tài
lớn rộng của tục ngữ Tày Nùng. Trải qua nhiều thế hệ, người xưa đã đúc kết lại
những kinh nghiệm quý báu về việc sinh con đẻ cái, chọn vợ chọn chồng: Pỏ chài
au mìa chiêm chỏ/ Mẻ nhình au vỏ chiêm fằn. Dương Thuấn với tư cách là người
tiếp nhận và thụ hưởng những kinh nghiệm quý báu đó, ông khẳng định : Trai lấy
vợ chọn tông/ Gái lấy chồng chọn giống (Trường ca Bi phẫn)
Dương Thuấn còn sử dụng câu tục ngữ của đồng bào Tày Nùng : Các bà mẹ
vợ thường hay nói: “Trồng chuối mong chuối trổ buồng/ Gả con gái mong có cháu
ngoại” (Bắc cầu hoa). Nguyên gốc của câu tục ngữ này là: “Pjúc cuổi ngoòng đảy
au lừa/ Lủc pây phua ngoòng lan mà tái” Ông mượn ý tục ngữ này một lần nữa
trong bài thơ Trƣờng ca Bi phẫn: Người trồng chuối mong cây trổ buồng/ Người
lấy vợ thì mong sinh con (Pjúc cuổi lẻ ngoòng cuổi oóc lừa/ Au mìa lẻ mong mìa mì
lục) Và nhắc lại thêm một lần ở bài thơ Trả lời tấm thiếp: Gửi thư xin có trước
mấy lời/ - Trồng chuối mong trổ buồng/ Gái lấy chồng mong để sinh con…
Cũng thuộc phạm trù đời sống tinh thần, tình cảm, người Tày Nùng đúc kết:
Pỏ mải cò khên lục slao/ Mẹ lạng cò khên lục báo Dương Thuấn sử dụng trực tiếp:
97
Trai góa vợ thèm thuồng gái trẻ/ Gái góa chồng thèm thuồng trai tơ (Thèm thuồng)
Người Tày Nùng có câu ca dao : Hết lăng bân bấu khả pỏ chài/ Pỏ chài dom
sle lai hết l c… Trong bài thơ Đã có lần đàn bà ghét đàn ông, Dương Thuấn viết :
Cũng có câu ca dao truyền miệng: Sao trời không giết hết đàn ông/ Để lắm đàn ông
chỉ thêm trộm cướp…
Người xưa dạy rằng: Dác dá đảy kin khảu fằn/ Măn giá đảy liệng lục tản.
Dương Thuấn đưa lời răn đó vào thơ mình, không giải thích, không chứng minh,
ông mặc nhiên thừa nhận: Lúc đói chớ ăn thóc giống/ Vô sinh chớ nuôi con nhà
người. Câu thơ làm chúng ta nhớ đến bài ca dao Tò vò mà nuôi con nhện xưa của
người Việt cũng có ý khuyên răn tương tự.
Tục ngữ Tày Nùng rất giàu hình ảnh và mang ý nghĩa so sánh, liên tưởng
giữa sự vật, sự việc xung quanh với các vấn đề về mối quan hệ giữa con người với
con người. Sự thâm thúy, sâu xa của những câu tục ngữ dân gian khiến Dương
Thuấn cũng phải gật đầu công nhận: Từ xưa nhân dân đã nói/ Bao câu mà đều bình
dị/ Học cho tới lúc bạc đầu. (Lời nói nhân dân)
Tự hào về sản vật phong phú của thiên nhiên rừng núi, người Tày Nùng có
câu: Lồng khuổi pắt pja, khửn pù xa mác, Dương thuấn cũng rất trân trọng, mến yêu
quê hương trù phú của mình: Khi ra khỏi nhà mình/ Quần xắn lên gối/ Xuống suối
bắt cá/ Quần buông chạm đất/ Lên non hái quả... (Khi ra khỏi nhà mình).
Tục ngữ là sản phẩm của những tác giả dân gian – những người nông dân
chính hiệu, vì vậy, có một bộ phận những câu tục ngữ mà thời gian của nó chính là
thời gian mùa vụ - thứ thời gian được đúc kết từ kinh nghiệm lao động từ nhiều thế
hệ để ghi nhớ, đánh dấu, rất thuận tiện cho công việc trồng trọt, canh tác dựa vào
những tín hiệu lặp đi lặp lại có chu kì của tự nhiên. Trong bài thơ Làm đồng,
Dương Thuấn liệt kê một số câu tục ngữ như thế: Quả dâu da đút vừa lỗ mũi gieo
mạ/ Quả dâu da tím dái ngựa cấy vừa…/ (Mác fầy ốt lù đăng ván chả/ Mác fầy cắm
hăm mạ đăm nà…)/ Cấy lúa nghe ve rừng reo ca/ Lúa không đủ ăn qua bữa tết…/
(Đăm nà tỉnh ngoảng á/ Khảu bấu quá ngài chiêng…)/ Tháng năm ruộng không cày
ruộng cạn/ Tháng mười lúa không hái lụi tàn…/ (Bươn hả nà bấu hết tôm ca/ Bươn
slíp khẩu bấu tan lẻ đỏi) (Làm đồng)
Hay như đặc thù riêng trong cách gieo trồng một số loại cây: Khinh lẻ lao
98
ngước. Phước lẻ lao slưa (Gừng sợ thuồng luồng/ Khoai hay sợ hổ)(Trồng khoai).
Đây là câu tục ngữ nói về kinh nghiệm đúc kết khi trồng gừng và khoai của đồng
bào Tày Nùng xưa, khi trồng gừng thì chỉ vùi sơ trên mặt đất, không được vùi sâu,
còn khi trồng khoai phải vùi thật sâu thì cây mới mọc lên tươi tốt.
Đồng bào dựa vào đặc điểm lao động sản xuất của các tộc người mà khái
quát: Pỏ Đông kin nèm phầy, Pỏ Tày kin nèm nặm. Trong bài thơ Gọi tên nắng,
Dương Thuấn có sử dụng câu tục ngữ này: Người Mán ăn theo lửa/ Người Tày ăn
theo nước... Và bắt đầu bài thơ Theo nƣớc đi, ông cũng viết: Người làm nương ăn
theo lửa/ Người làm đồng ưn theo nước... Các tộc người trên rẻo cao và rẻo giữa, do
địa hình sườn núi, người ta phải đốt rừng làm nương rẫy, nghĩa là ăn theo lửa. Còn
người Tày sống dưới các thung lũng, chân núi, nơi có những con sông, suối nhỏ hay
khe nước chảy qua, họ làm thủy lợi để trồng lúa, ăn theo nước là như vậy.
Với việc canh tác nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên và địa hình,
người Tày Nùng ngoài trồng lúa nước, họ cũng trồng lúa và các cây nông nghiệp
khác trên rẫy, trên những sườn đồi, rất vất vả và khó khăn do thiếu nước, đất bạc
màu, trôi màu, và vô vàn các thiên tai khác. Nhưng dù trồng cây trên ruộng hay trên
nương rẫy, người dân vẫn phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Đồng bào đúc kết thành
những câu ca dao: “Hết lảy nhằng đảy n ng tềnh khon/ Hết nà bấu đày nòn tềnh
nặm”/ (Làm nương được ngồi trên cây đổ/ Làm ruộng trên nước ch ng được nằm)/
“Cầu hâư pây tả nà hết lẩy/ Cần hâư pây tả cáy liệng ca…”/ (Ai lại đi bỏ ruộng
làm rẫy/ Ai lại đi nuôi quạ, bỏ gà…) (Bỏ ruộng làm rẫy)
Có thể thấy rằng nền phương pháp canh tác nông nghiệp truyền thống của
đồng bào đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa, sinh hoạt, lao động. Trải
qua bao thế hệ đồng bào Tày Nùng đã quan sát và tích lũy được nhiều kinh nghiệm
trong sản xuất mùa màng, thời vụ. Những kinh nghiệm máu xương của bao đời
được tích tụ trong những câu tục ngữ thế này chính là bài học quý giá mà người xưa
kia truyền lại cho các thế hệ cháu con.
Dương Thuấn đã kế thừa, tiếp thu kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ dân
gian của dân tộc mình vào quá trình sáng tác thơ ca hiện đại một cách nhuần
nhuyễn, linh hoạt, sáng tạo, mang đến cho thơ ông một diện mạo vừa cổ điển, vừa
99
hiện đại, vừa đậm đà bản sắc dân tộc.
3.3.2. Dân ca dân gian dân tộc Tày Nùng.
Sẽ là thiếu sót nếu nói đến ảnh hưởng của văn học dân gian dân tộc trong thơ
Dương Thuấn mà không kể đến những tác động tích cực của các bài hát dân gian
Tày Nùng đến phong cách thơ ông.
Người Tày Nùng là những cư dân nông nghiệp rất yêu thích ca hát, văn nghệ,
họ có một đời sống nghệ thuật phong phú, giàu đẹp. Từ những thành phần trí thức
bản địa cho đến tầng lớp bình dân đều có khả năng ca hát, đối đáp. Dương Thuấn
sinh ra và lớn lên trong một môi trường như vậy, ông tất yếu chịu những ảnh hưởng
nhất định trong cảm quan nghệ thuật. Trong quá trình sáng tác, ông đã chủ động sử
dụng dân ca giao duyên dân gian làm chất liệu trong nhiều sáng tác của mình, thể
hiện ở cả phương diện nội dung (lời hát) và hình thức, bên cạnh đó, dân ca nghi lễ
của dân tộc Tày – Nùng mà cụ thể là Khảm Hải (Vượt biển) cũng được Dương
Thuấn đưa vào trong thơ ca hiện đại.
3.3.2.1. Lời ca dân gian.
Có rất nhiều đoạn thơ, khổ thơ trong các sáng tác của Dương Thuấn chính là
lời của những bài hát lượn trong dân gian: Em ơi, sao em lại về ở nhà anh/ Không ở
nhà cha mẹ/ Bỏ lại đàn em nhỏ phía sau lưng (Lượn cọi). (Phần thơ tiếng Tày
“Noọng ơi, mà dú lườn vạ pỉ hết lăng/ Bấu dú lườn cần ké/ Tả tằng phấu noọng ỷ
bưởng lăng…) Nó rất gần gũi với câu lượn cọi trong dân gian: Noọng ơi mà rèo vỉ
hết lăng/ Tả vỏ mẻ bưởng lăng gần nhỏm.
Rồi đến bài lượn hoa tứ quý: Bươn chiêng mì bjóc mặn bjóc tào/ Bươn nhỉ
bjóc mác lì phung khao nả tang/ Bươn slam bjóc mạy mạ chang đôn/ Bươn slí bjóc
mạy lùng hua bản…/ (Tháng giêng có hoa mận hoa đào/ Tháng hai hoa lê trắng
đầu sàn/ Tháng ba hoa mạ nở rừng xa/ Tháng tư hoa cây đa đầu bản…)
Và một khúc lượn cọi được Dương Thuấn nhắc đến nhiều lần trong những
bài thơ: C m ngòa phân đây, phân mjảc/ Phăn hăn fầy mẩy nặm lỏt dài/ Phăn hăn
fầy mảy luổc toong chinh/ Phăn tói nộc pác đeng khẩu bản/ (Đêm qua anh mơ đẹp,
mơ lành/ Mơ thấy lửa cháy sông trắng cát/ Mơ thấy lửa thiêu trụi vạt lá dong/ Mơ
thấy đôi chim xanh vào bản…) (Trường ca Bi phẫn); C m ngòa noọng phăm mjảc,
100
phăn đây/ Phăn hăn fầy mảy lụng kị dài/ Thư khửn cằn toong chinh mảy đó/ (Đêm
qua em mơ đẹp, mơ lành/ Mơ thấy lửa cháy sáng đáy sông/ Cháy lên bờ thiêu trụi
vạt lá dong…) (Cháy vì lửa sông sâu)
Hay khi kết thúc một cuộc lượn, người ta thường dừng khúc hát này nhắn
nhau: Hết lượn slua bấu puồn lăng dổm/ Mừa lườn pjúc khinh cáy hẩư lai/ Hăng
fắc chứ au khinh lồng đuổi/ Kin hăn phết cỏi chứ thâng căn…/ (Rằng hát lượn thua
ch ng buồn đâu/ Về nhà hãy trồng thêm gừng cáy/ Xào bí ăn nhớ bỏ làm gia vị/ Ăn
thấy cay thì hãy nhớ ngày này..) (Trường ca Bi phẫn)
Các làn điệu dân ca làm cho ngôn ngữ thơ Dương Thuấn êm dịu mượt mà
như lời thủ thỉ, tâm tình và có tính nghệ thuật rất cao. Câu thơ vì thế mà cũng trở
nên có nhịp điệu, có nhạc điệu, lời thơ mà ngân nga, du dương, bay bổng, ngọt ngào
như khúc hát. Việc sử dụng lời hát dân ca dân gian vào tác phẩm thơ hiện đại đã
làm cho thơ Dương Thuấn vừa đậm chất trữ tình, vừa nhẹ nhàng sâu lắng, bàng bạc
ánh lên cái hồn dân tộc thiêng liêng.
3.3.2.2. Hình thức hát đối đáp.
Trong một cuộc hát sli, hát lượn của người Tày Nùng, hai bên trai gái sẽ hát
đối đáp nhau, có thể là hát nối tiếp nhau, hoặc hát đối nhau về lời, về ý. Cuộc hát có
thú vị, có kéo dài hay không phụ thuộc vào tài năng, sự ứng biến khéo léo và vốn
bài hát của những cô gái chàng trai tham gia cuộc hát. Một người hát giỏi là một
người thông minh, thuộc nhiều câu hát, có thể ứng tác hoặc dùng một cách linh hoạt
những câu hát đó để đối đáp sao cho phù hợp nhất.
Dương Thuấn kể, từ khi còn là chàng thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi, ông
đã rất thích đi hát lượn, ông say mê những làn điệu dân ca của dân tộc, và dường
như trời phú cho ông một trí nhớ tốt, một sự ứng biến linh hoạt, ông hát lượn rất
giỏi, và chỉ chọn hát với những cô gái lớn tuổi hơn vì các cô ấy hát tốt và đối đáp
giỏi.
Sau này, trên con đường sáng tạo nghệ thuật, Dương Thuấn vẫn bám sát
những câu đối đáp, ghẹo hỏi bông đùa dân dã của các bài lượn, bài sli mà xây dựng
nên phong cách riêng độc đáo không sao trộn lẫn của mình. Trong bài thơ “Nghe
lƣợn nàng ơi” Dương Thuấn đã vận dụng và kế thừa thành công hình thức đối đáp
101
và lời hát lượn trong dân gian: Nàng a… ới, lượn pỉ bấu lượn đai/ Lượn pỉ au lủc
chài thư tậu…/ (Nàng a… ới, lượn anh nào có lượn không/ Lượn của anh lấy con
trai chống gậy) Thấy người con trai ít tuổi hơn mình còn trẻ quá, người con gái có
chút khinh khi đáp lại: Phjắc cát khửn pỏ dài c n đeng/ Hết lượn xáu phi eng vải
pác…/ (Rau cải mọc bãi cằn cuống đỏ/ Làm lượn với trẻ nhỏ phí mồm…) Nhưng
chàng trai rất trẻ kia không hề cay cú bỏ cuộc, mà đối lại rất sắc sảo, cao tay: Dá
che cạ mạy khoang bâư sláy/ Mạy khoang kẻ cỏ cáy nhằng thai/ Mạy khoang kẻ cỏ
vài nhằng cún…/ (Đừng chê rằng trúc vàng lá nhỏ/ Trúc vàng cắt tiết gà cũng chết/
Trúc vàng còn cắt đứt cổ trâu…)
Hay lời đối đáp trêu chọc bông đùa của Anh mù và Chị què khiến người nghe
phải phì cười. Anh mù buông lời chế giễu: Lình che mạy cáng kho bấu tuấy/ Cáy
đông che khẩu lảy bấu kin/ Hết cần lăng che đin bấu nh m/ Bảt nh m kha dám tắm,
dám slung…/ (Khỉ chê cành cây cong không leo/ Gà rừng chê lúa nương không mổ/
Làm người sao chê đất không đi/ Khi đi thì bước thấp, bước cao…) Thì chị què đối
lại rất thâm sâu: Mùa nảy lẻ mùa bjóc, mùa va/ Hết lăng bấu khay tha chồm bjóc?/
(Mùa này là mùa hoa/ Sao không mở mắt ra mà ngắm?) (Anh mù và chị què)
Vì lời bông đùa này có phần các ý, có lần Dương Thuấn phải răn đe: Cần
hâư hứn loỏng:/ - Slì nảy lẻ slì bjóc slì va/ Hết lăng bấu khay tha chồm bjóc?/ Cần
hâư hứn loỏng:/ - Tàng bấu chử boỏng búp boỏng phiêng/ Kha lăng dò bảt slung
bảt tắm?/ Cần hâư hứn loỏng què vạ bót/ Què bót tẻp mà thắp thắp t m lườn… (Ai
hay đùa/ Mùa này là mùa hoa/ Hoa đẹp thế sao không mở mắt ra/ Ai hay đùa/
Đường đi không gập ghềnh/ Mà sao nhấc chân thấp chân cao/ Ai hay đùa người bị
tật/ Tật sẽ đến bắt tận nhà.) (Cần hâư hứn loỏng/ Ai hay đùa.)
Nhưng không phải lúc nào người ta cũng hát đối đáp nhau chan chát để thử
tài hay ghẹo hỏi, trêu chọc, bông đùa nhau, cũng có cả những khúc hát lượn thắm
thiết nghĩa tình như khúc lượn này của đôi vợ chồng trẻ trên nương: - Em ơi em là
người xa lạ/ Từ nhỏ nào tôi đâu có quen/ Cớ sao em lại đến nhà tôi ở/ Ở với tôi lại
còn sinh con nữa/ Bao đau khổ vất vả ch ng thấy kêu/ ( - Noọng ới, noọng lẻ cần lạ
lác/ T m nhằng eng bấu đảy quén căn/ Hết lăng mà lườn chài mà dú/ Dú vạ căn
nhằng mì lủc vạ căn…) Người vợ dịu dáng đáp lại: Lòng em đây bao niềm vui
102
sướng/ Vợ chồng ta chỉ mong trời chóng tối/ Đêm nằm chân được gác lên chân/
Bao gian khó em đây ch ng ngại/ Lấy anh chăm chỉ em hạnh phúc/ Cha mẹ em
cũng thấy vui lòng/ ( - Chang slim noọng này hăn dung lai/ Tằng phua mìa ngoòng
vạ đăm khoái/ Cừn nòn kha đảy cái kha/ Mái cạ khỏ kỉ lai bấu bứa/ Au chài xắc xăn
noọng ỏn loóc/ Cần ké noọng củng đảy em cò). Cả tình yêu giản dị nhưng chân
thành của đôi trai gái nghèo: - Noọng ới chắc hết lừ lầu điếp căn/ Chài bấu mì lườn
quảng slíp vảng/ Chài tán mì cốc mạy đỏ khăm/ Bấu mì khảu mua chăm têm chảo/
Chài tán mì sloong nghé pha mừng... (Em ơi biết làm gì khi tình yêu đến/ Anh không
có nhà mười gian/ Anh chỉ có chỗ trú gốc cây/ Anh không có thóc đầy bồ/ Anh chỉ
có hai bàn tay...) Người con gái đáp lại những lời xúc động: - Chài ới, hại lầu đảy
điếp căn/ Lẻ lèo điếp hẩư khuây ch ng nắt/ / Đếnh căn lai củng ím chang slày/ Cót
au căn tèo tọt tằng théc hua châư/ Điếp căn slán pền moóc tốc lồng phả mừng căn/
Điếp căn bấu nghị khỏ lụ mì... (Anh ơi, khi tình yêu đến/ Thì anh hãy yêu cho thật
say/ Nhìn nhau cho nổ con mắt mới thỏa/ Ôm nhau cho nổ con tim mới thỏa/ Yêu
đến tan thành giọi sương trong tay nhau/ Yêu nhau không ai kể sang giàu...
(Trường ca Bi Phẫn).
Tận dụng vốn dân ca phong phú của bản thân, Dương Thuấn đã tạo nên một
phong cách thơ đậm chất dân dã. Văn học dân gian truyền thống của dân tộc đã ảnh
hưởng sâu sắc đến thơ Dương Thuấn không chỉ ở mặt nội dung mà nó còn tác động
cả về các mặt nghệ thuật và thi pháp thơ ca. Dương Thuấn đã rất thành công khi kết
hợp được nhịp điệu của các thể loại thơ dân tộc với nhạc điệu của các loại dân ca
truyền thống một cách hài hòa, làm các tác phẩm thi ca của mình có âm điệu dân tộc
đậm đà, có bản sắc dân tộc rõ nét.
3.3.2.3. Dân ca nghi lễ (Khảm Hải).
Khảm Hải vẫn thường được biết đến với tư cách là một truyên thơ dân gian
của dân tộc Tày – Nùng bởi nhà văn, nhà thơ, nhà sưu tầm văn hóa dân gian Tày
Hoàng Hạc (1932 – 1999) đã dịch thuật Khảm Hải từ tiếng Tày sang tiếng Kinh
(năm 1979) với tư cách là một truyện thơ độc lập, in trong cuốn Truyện cổ các dân
tộc Việt Nam, nhưng thực chất, nó là một bộ phận của nghi lễ mà các thầy cúng thể
103
hiện trong Pựt.
Để thực hiện nghi lễ, gia chủ phải chuẩn bị những lễ vật như bánh dày, tháp
cửu tầng, các sản vật của nông nghiệp, các của ngon vật quý… Bản chất của nghi lễ
Khảm Hải là giải hạn, cầu phúc, cầu tài, cầu trường thọ, cầu may. Pựt được thể hiện
từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, nghi lễ Khảm Hải chỉ là một trường ca trong số đó,
là đoạn hay nhất, thường được diễn vào đêm khuya. Ông Bụt đóng vai sa dạ sa dồng
– nô lệ chèo thuyền dưới âm phủ chở lễ vật dâng tổ. Biển ở đây có thể là địa danh
không có thật, nhưng cũng có thể được hiểu là biển khổ. Người Tày Nùng cho rằng
ở hạ giới, con người muốn dâng được lễ tổ, muốn những nguyện vọng của mình đến
được với đức tổ thì phải mời thầy thật cao tay mới dẫn dắt đưa được những thứ đó
vượt qua sông Ngân Hà ở trên trời đến với đức tổ. Nghi lễ Khảm Hải có nhiều
chương đoạn, có những nội dung tương ứng với từng khúc vượt biển. Sự gian nan
trong khi vượt biển chính là thử thách, nếu vượt qua được, đem lễ vật cùng với
những nguyện ước đến được với đức tổ, sẽ được ban phúc, lộc thọ bởi sự thành tâm.
Bởi vậy, Khảm Hải là một nghi lễ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Khảm Hải, tiếng Tày là Khảm Khái, có nghĩa là Vượt Biển. Biển ở đây được
hiểu là dòng sông Ngân Hà trên trời – một địa danh tồn tại trong tâm thức của người
Tày Nùng từ xa xưa. Khảm Hải kể rằng có hai anh em nhà kia mồ côi, lúc nhỏ rất
yêu thương nhau. Sau khi người anh lấy vợ, rồi giàu có, trở nên nhạt nhẽo và bỏ
mặc em sống nghèo đói lam lũ, rách rưới. Chị dâu đang nhuộm chàm, thấy thương
tình vá áo cho đứa em chồng. Lưng áo rách của em đã in những ngón tay chàm của
chị dâu, người anh đi làm về nhìn thấy vết tay chàm trên lưng áo em, ghen tức cho
rằng người em và chị dâu đã làm chuyện lăng loàn, nên đã chặt đầu người em treo
lên ngọn cây. Em chết đau đớn, oan khuất. Linh hồn không nơi nương tựa, bơ vơ.
Rồi lại bị các quan slay ở âm phủ bắt làm sa dạ sa dồng - phu chèo thuyền trên biển
ma. Mỗi lần vượt biển là phải trải qua một hải trình dài 12 rán nước đầy hiểm nguy,
thuỷ quái ẩn dật, mặt biển réo sôi. Các sa dạ sa dồng lúc thì cất tiếng than hãi hùng,
lúc thì hối hả gọi nhau chèo gấp. Lúc các slay lên bờ kéo vào chợ Đường Chu, chợ
Tam Quang (chợ xứ ma của Diêm Vương), sa dạ ngồi trên bờ biển than khóc, khiếp
104
sợ nghĩ đến cảnh phải vượt biển trở lại tiếp theo...
Hiện nay, Khảm Hải cũng như hát Pụt vẫn còn được bảo tồn, và nó giữ một
vị trí quan trong trong đời sống tinh thần của cộng đồng Tày Nùng.
Có thể dễ dàng nhận thấy ảnh hưởng lớn lao của Khảm Hải đến Dương
Thuấn như thế nào. Ông nhiều lần nhắc đến những sự kiện, nhân vật… của Khảm
Hải trong các sáng tác của mình. Đặc biệt, trong Trường ca Mười bảy khúc đảo ca –
được xem là một áng trường ca hiện đại, trong đó đã khắc họa những con người,
những sự kiện cụ thể với một bố cụ chặt chẽ và lối miêu tả chân thực, sinh động,
phù hợp với thẩm mĩ của dân tộc và thời đại. Trong trường ca, hành trình của ông ra
biển lớn làm người ta dễ liên tưởng tới chặng đường gian nan 12 rán nước mà sa dạ
sa dồng băng qua trong trí tưởng tượng của người Tày Nùng xưa: Người Tày hay
làm thơ đánh cá và săn hươu nai/ Đêm nhà sàn hát trường ca Vượt biển/ Khi mùa
xuân về trên núi/ Bà then đến từng nhà/ Hát từ đêm đến sang/ Biển cả một màu
xanh / Con tàu trắng lênh đênh/ Đó là hình ảnh đầu tiên huyền thoại/ Màn chiều
dần buông xuống/ Bầy cá chuồn bay rờn rợn/ Như là ma quái giương vây/ Tiếng gió
thổi trên đầu/ Ngàn vạn con chim đậu đen mặt đảo
Khung cảnh ghê gớm, rùng rợn đáng sợ, mang mầu sắc rờn rợn huyền bí liêu
trai của đoạn thơ rất giống không khí được miêu tả trong Khảm hải. Và Khảm hải
còn để lại dấu ấn rất sâu đậm trong tác phẩm: Bà then đến từng nhà/ Hát bài then
mừng năm mới/ Hát bài then cầu sức, cầu tài/ Hát bài then Khảm hải/ Người già
nghe quên nhai trầu/ Trẻ con nghe quên trên tay đang cầm nỏ/ Con trai con gái
nghe chỉ muốn yêu nhau / Theo khúc hát mọi người mơ về biển/ Vượt sóng cả, gió
to/ Lớp lớp thuyền theo nhau cuồn cuộn/ Đến chợ Tam Quang rực rỡ/ Đến chợ Tam
Quang ai cũng đẹp như hoa/ Ôi cơn khát cháy trong ta/ Mơ vượt qua biển lớn..
Nhưng hành trình đến với biển không mãi êm đềm, đẹp đẽ. Biển hiền hòa
bỗng hóa thành cơn bão giông cuồng nộ : Gió bỗng lạnh hơn trời bỗng xì xầm/ Mây
từng tảng kéo ngang trời đen kịt/ Chớp sáng lòe rồi mưa như trút/ Bão nổi lên con
tàu lớn chòng chành/ Thuyền trưởng cho mũi tàu đổi hướng/ Tăng tốc đè lên sóng
lao nhanh/ Tàu chồm lên vút xuống/ Trớ trêu thay càng lao càng chậm/ Trận cuồng
105
phong ập đến bổ quanh/ Trên tàu bao con người dũng khí/ Bặm môi vào bám chặt/
Nước văng vào cửa sổ/ Nước bắn rào rào qua tầng nóc/ Con tàu giật rồi lắc/ Tiếng
vặn như từng mảnh sắp rời ra
Cơn bão biển trong trường ca cũng giống như cơn bão trong Khảm hải, biển
trở mình nổi giận, trút lên con tàu lênh đênh bao nhiêu sóng gió tai ương. Người
thuyền trưởng chỉ huy tàu vượt qua cơn bão trong trường ca rất giống nhân vật sa dạ
sa dồng cầm lái chèo thuyền vượt biển.
Phải vượt qua những thử thách đầy kinh hãi, những hiểm nguy cận kề, sự
sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc: Bao ngày đi sóng theo mải mê/ Sóng
nhỏ đuổi nhau thành sóng lớn/ Có lần bị sóng xô ngã nhào xuống biển/ Bơi qua
miệng cá mập nhe răng.
Dương Thuấn còn rất nhiều lần nhắc đến Khảm hải trong những phần khác
của tác phẩm: Từ nhỏ nghe những đêm then/ Quân “ Sluông” từ biệt vợ chèo thuyền
vượt bể/ Người vợ trở về nước mắt chứa chan.
Ông tự hào: Người Tày hát trường ca “Vượt Biển”/ Dân tộc ở trên non đã
vượt biển bao lần
Và ông cũng nhắc đến chuyện mụ Dả Dửn giữ cây gậy đầu sinh đầu tử trong
Khảm hải: Lòng chợt nhớ hát then Khảm hải/ Một bà lão Dả Dửn đánh sông/ Bà
dạng chân ngồi chắn giữa dòng/ Mở chiếc váy khổng lồ làm đó/ Cá to cá nhỏ tự
chui vào.
Ông nhận ra sự tương đồng giữa những người lính biển và sa dạ sa dồng
trong hành trình lênh đênh giữa biển: mấy đêm liền anh bạn thức rên/ bị đụng loài
sứa lửa / bỏng rộp người như hun/ rắn biển cong queo chạm vào liền cắn/ biển sâu
có bao thứ không ngờ/ trận sóng thần bỗng nổi lên bất chợt
Nỗi hiểm nguy vất vả của người lính biển không kém gì hành trình cực nhọc
của sa dạ sa dồng lênh đênh trên những con nước dữ trong Khảm Hải: "Biển ơi,
đừng giết tôi/ Nước hỡi, đừng lôi lấy thuyền". Ta nhớ đến lời than ai oán của sa dạ
sa dồng : Khỏ bấu thai ch ng nhằng (Khổ không chết mới sống)/ Chèo pây lố, chèo
pây (Chèo đi thôi, chèo đi)/ Nặm hải đeng pền lượt (Nước biển đỏ như máu)/ Nặm
hải đướt pền phày (Nước biển nóng như lửa)/ Khôm lai tởi sa dồng khảm hải… lối
106
nò! (Cay đắng lắm đời sa dạ sa dồng vượt biển… lối nò !)
Khảm Hải là một cung đoạn khó khăn, nguy hiểm nhất của đoàn quân then
trên đường dâng lễ vật lên Ngọc Hoàng để mang lại cuộc sống no đủ, hạnh phúc,
bình yên cho con người [21]. Cũng giống như sự hi sinh thầm lặng của những người
lính kiên cường bám biển, giữ biển đảo cho Tổ quốc và cuộc sống yên bình cho
nhân dân. Họ mạnh mẽ, can trường khi đối mặt với kẻ thù và những khó khăn, nguy
hiểm của tự nhiên, nhưng cũng có những giây phút vỡ òa : Khi con tàu cập bến /
Lính nhảy ào lên boong/ Phút gặp nhau ôm nhau ngồi khóc/ Biển như dâng thủy
triều nước mắt/ Lính cũ khóc như gió như mưa/ Lính mới càng khóc to hơn nữa/
Vừa khóc vừa kể lể/ Khóc rồi bưng mặt nhìn nhau/. Ta thoáng liên tưởng đến hình
ảnh sa dạ sa dồng lúc đưa đoàn quân Sla đến chợ Tam Quang cũng ôm mặt khóc
than nghĩ về chặng đường trở về đầy hiểm nguy và thân phận của mình : “Chèo
thuyền qua lò than, qua biển/ Nhìn đường về, nước cuộn ầm rung”.
Dương Thuấn còn nhiều tác phẩm khác đề cập đến những sự kiện, nhân vật,
những chuyện cụ thể trong Khảm Hải: Then Khảm Hải hát vào nửa đêm về sáng/
Kể đoàn quân sluông ngút ngàn vượt biển/ Chèo đoàn thuyển hùng vĩ oai phong/
Tới chợ Tam Quang trên Thượng giới mênh mông/ Nơi rực rỡ thiên đàng, ngàn
muôn ánh sáng/ Để gặp Ngọc Hoàng cùng các vị thần sao sáng/ Sluông hiên ngang
ngược sóng, mái chèo khua/ Gặp những nàng tiên sắc đẹp tựa như hoa/ Đứng đón
mời buông những lời ong bướm/ Quân sluông chỉ có một đường th ng tiến/ Chỉ có
một con đường, khát vọng: Tự do! (Nghe then Khảm Hải)
Nếu tách Khảm Hải ra khỏi màn hương khói của nghi lễ tôn giáo thì đó là
hình ảnh sinh động về cuộc sống cơ cực đắng cay của người Tày – Nùng thuở
trước. [21]. Giải thích về chuyện Vượt biển của dân tộc mình, Dương Thuấn từng
nói: Nếu như một số dân tộc thiểu số khác chỉ quen sống khép kín trong vùng núi
non của họ thì người Tày lại có ước vọng luôn hướng ra phía bên ngoài. Đôi khi sự
hướng ngoại mạnh đến nỗi quên đi tất cả mọi thứ, từ đó dẫn đến tách khỏi cộng
đồng. Nhưng ngay sau đó thì họ lại hình thành các cộng đồng khác. Điều đó cho
thấy qua các cuộc thiên di trong trường ca Khảm Hải. [49,tr.41,42]. Dương Thuấn
107
đã mang Khảm Hải giới thiệu với tất cả các dân tộc anh em về giấc mơ vượt biển
của những con người trên núi. Phải hiểu và yêu Khảm Hải đến thế nào, Dương
Thuấn mới có thể viết nên những câu thơ giàu xúc cảm như thế. Khảm Hải là tài sản
lớn trong kho tàng văn học dân gian dân tộc Tày Nùng, và Dương Thuấn đã góp
phần giữ gìn, bảo lưu và làm giàu đẹp thêm tài sản quý báu đó.
3.3.3. Truyện cổ tích – Sự tích – Truyền thuyết – Huyền thoại.
Mạch nguồn dân gian không chỉ đưa Dương Thuấn về với những câu ca dao,
tục ngữ, những khúc hát giao duyên mà nó còn mang ông trở về với những huyền
thoại, những câu chuyện xa xưa của dân tộc. Những câu chuyện cổ tích, sự tích,
những truyền thuyết, huyền thoại cổ xưa lắng đọng lại qua bao thăng trầm thời gian
nay sống lại sinh động, đầy sức sống trong các tác phẩm thơ Dương Thuấn.
3.3.3.1. Truyện cổ tích – Sự tích.
Là một trong những thể loại xuất hiện sớm nhất trong văn học của nhân loại,
truyện cổ tích là những tác phẩm thể hiện ước mơ đổi đời cho những số phận bất
hạnh, đồng thời phản ánh quan niệm, khát vọng, lý tưởng hướng tới một xã hội tốt
đẹp, tươi sáng của người xưa.
Trong bài thơ “Chuyện đời xưa” Dương Thuấn kể câu chuyện cổ tích Tày
Nùng về chàng mồ côi nhờ trí khôn mà đã lấy được Tiên làm vợ. Đây là một tích
truyện cổ được lưu truyền rộng rãi trong cộng đồng người Tày Nùng, Dương Thuấn
đã góp phần vào việc bảo lưu những câu truyện cổ ấy với lời dặn dò tha thiết: “Em
ơi, xin đừng quên em nhé!/ Lời chuyện quý hơn cả ngàn vàng/ Gói vào túi, em mang
về cất kỹ/ Lấy chồng đêm em kể với chồng/ Có con kể cho con nghe nhé…”
Truyện cổ tích muôn đời là những giấc mơ đẹp, hướng con người ta tới một
tương lai tươi đẹp hơn. Kiểu truyện về người mồ côi trong truyện cổ Tày Nùng cũng
là những bài ca đẹp như vậy. Khám phá những câu truyện ấy chúng ta thấy được vẻ
đẹp tâm hồn của chính những người tạo ra chúng, thấy được sức sống của dân tộc ấy
cùng với niềm tin bất tử vào cái Đẹp, cái Thiện trong cuộc sống muôn đời. [45]. Câu
chuyện cổ tích Hò Bẻ (Chàng Dê) của người Tày Nùng cũng là một câu chuyện như
108
thế: Đêm ấy về bà kể cho nghe câu chuyện cổ/ Rằng ngày xửa ngày xưa có hai vợ
chồng nghèo/ Có một mùa thu sinh ra đứa con dê/ Kêu be be, người cha ch ng buồn
ngó/ Chỉ một mình bà mẹ thương con… (Trường ca Bi phẫn)
Dương Thuấn rất am hiểu và tự hào về kho tàng chuyện cổ giàu và đẹp của
dân tộc mình. Ông nhiều lần nhắc đến những câu chuyện xưa ấy với một niềm trân
trọng, mến yêu: Anh lính người Tày nói với bạn: / - Ơi, anh bạn có biết không/ Quả
bầu khô quê tôi làm bầu đàn tính/ Đem đi hát then khắp mọi chốn xa gần/ Rằng
ngày xửa ngày xưa cơn hồng thủy/ Có hai anh em chui vào một quả bầu/ Nước dù
to không thể nào dâng tới/ Tất cả mọi người đều bị chết/ Chỉ còn hai anh em sống
sót/ Hai anh em lấy nhau làm vợ làm chồng/ Dân tộc tôi bắt đầu từ đó/ Thần thoại
cũng bắt đầu từ đó/ Thần thoại người Tày phải kể mấy đêm trăng/ Có ông Tài Ngào
sức lực vô song/ Cô gái làm nàng tiên có những đêm sợ hổ/ Chàng mồ côi thông
minh và tài giỏi tuyệt trần. (Trường ca Mười bảy khúc đảo ca)
Người xưa để lại cho các thế hệ sau tên núi, tên sông bằng những sự tích
nhuộm màu kì ảo. Đối với Dương Thuấn, đằng sau tên mỗi ngọn núi, con sông quê
hương đều là những câu chuyện thần tiên tươi đẹp: Những đêm đông ông bà hay kể/
Núi Chẻ Dả chín mươi chín ngọn/ Ngày xưa có một đàn chim phượng bay về/ Thiếu
ngọn đứng cho con phượng chúa/ Cả đàn lại vỗ cánh bay đi/ Thế là từ ngày đó/ Bản
mình không còn là nơi tụ hội kinh đô. (Núi Chẻ Dả)
Vả cả những câu chuyện lịch sử hào hùng, bi tráng: “Ngày ấy ông kể cổ tích
bản mình/ Tôi hay hỏi ông vì sao như thế?/ Không có ai nhớ năm nhớ tháng/ Có
một chàng trai tên gọi Lạc Hò/ Lên núi dựng lũy thành đánh Pháp/ Dân theo đông
giúp tiền gạo, trâu bò…/ Giặc điên khùng đến vây ngọn núi/ Lạc Hò quyết đánh
ch ng chịu thua/ Giặc vây mãi để Lạc Hò chết khát/ Lạc Hò bảo lính trèo lên mỏm
đá/ Đem gạo trắng đổ lên người như tắm/ Rồi hô to không thiếu nước bao giờ…/
Giặc tưởng thật không thể vây mãi nữa/ Chúng liều chết cùng xông lên đốt lửa/ Lửa
bùng bùng không thể nào giữ nổi/ Lạc Hò lấy khăn hồng che mắt ngựa/ Ngồi lên
lưng rồi quất mạnh chiếc roi/ Ngựa hí vang tung chân bay xuống vực/ Ông chọn cái
chết vinh hơn chết nhục/ Để nghìn thu sống mãi với nhân dân/ Chuyện Lạc Hò chưa
ai ghi thành sách/ Không mộ bia nhưng bao đời vẫn nhắc/ Ngọn núi ngàn năm còn
109
bao bọc lũy tre/ Người anh hùng đã hóa thân thành cổ tích.” (Chỉ còn núi Ngựa)
Ngoài ra, Dương Thuấn còn có nhiều bài thơ như Nổc Từ quy (Chim Từ
quy), Pạng pú hình phạ (phỏng theo truyện cổ Cóc thắng trời), Cốc co Nặm Pé
(Sự tích hồ Ba Bể), Tấu Tầƣ vặm (giải thích tại sao Rùa bị câm)… đều là những
bài thơ phỏng theo truyện cổ của người Tày Nùng.
3.3.3.2. Truyền thuyết – Huyền thoại.
Người Tày – Nùng có nhiều truyền thuyết, huyền thoại về thuồng luồng.
Thuồng luồng là một loài vật chỉ có trong tín ngưỡng dân gian. Dương Thuấn đã
nhiều lần hóa thân thành người kể chuyện, kể lại những huyền thoại về loài quái
dưới vực nước sâu: “Khi mùa hạ mưa rừng, nước to/ Thuồng luồng hóa giao long
trên cỏ/ Mùa đông đến nước sông cạn khô/ Trên đường hóa chàng trai đi lững
thững/ Thuồng luồng vào bản, giả làm khách xa…”(Trường ca Bi phẫn)
Người xưa xây dựng hình tượng thuồng luồng với nhiều tài phép biến hóa
khôn lường: “Người đồn thuồng luồng giả làm con trai đẹp/ Ban mai vắng vẻ lên
bản tìm bạn gái/ Đến chiều thuồng luồng lại hóa thành con gái/ Đứng bên đường
núi làm mê mẩn bao con trai…” (Theo dấu thuồng luồng):
Những câu chuyện được truyền nhau về thuồng luồng hóa thành chàng trai
tuấn tú quyến rũ, mê hoặc các cô gái trẻ xinh đẹp xuống theo dưới lòng vực: “Bao
câu chuyện về thuồng luồng lấy vợ/ Thuồng luồng vờ làm người con gái hỏi đò/
Đóng giả lốt những chàng trai tuấn tú/ Quyến rũ bao người đẹp mang đi…”
(Trường ca Bi phẫn)
Và những truyền thuyết về tài biến hóa thần thông quảng đại của thuồng
luồng đem đến bao hoang mang, nghi hoặc: “Mùa thu ai đi qua vực Thuồng Luồng/
Nước xanh rờn rợn yêu quái buồn/ Nếu gặp một cô gái đẹp xin đừng chào/ Ai dám
bảo đó không phải là yêu quái/ Nếu ai thấy khúc củi trôi thì đừng vớt/ Ai dám bảo
đó không phải một chàng trai/ Thuồng luồng vốn có nhiều phép lạ/ Hóa trăm thành
mười, hóa một thành năm…” (Trường ca Bi phẫn)
Con người miền núi xưa vốn thân thuộc và gắn bó với núi rừng cây cỏ, còn
với những vực nước lớn và sâu, đem đến cho họ nỗi nghi ngại, sợ hãi mơ hồ. Những
câu chuyện về người bị đuối nước được kể bí ẩn hóa, kì dị hóa, gắn với một loài
110
quái chỉ có trong tưởng tượng – Thuồng luồng. Thuồng luồng, chính là hiện thân
của nỗi sợ, của sự cảnh giác, của tất cả những nghi hoặc về vực nước của người
xưa. Dương Thuấn đã làm sống lại những huyền thoại cổ xưa bằng những vần thơ
hiện đại, hay nói cách khác, Dương Thuấn đã khoác lên những bài thơ hiện đại của
mình một nét cổ tích thâm u kỳ ảo, mơ hồ mà hấp dẫn, quyến rũ vô cùng.
3.3.4. Các thể loại khác.
3.3.4.1. Phuối pác.
Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam nữ thanh niên
Tày, Nùng thường dùng hàng ngày. Đây là lối nói tự do, dịch nôm là “nói chuỗi”
thường được diễn ra khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ hội… Đó cũng là
một hình thức thể hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi trêu ghẹo tình tứ thể hiện
những sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời gian gọt giũa những lời phuối
pác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và mềm mại một chất thơ lãng mạn. Nội
dung chính của các bài hát này là lòng yêu lao động, tình yêu trai gái, tùy tài năng
và cảm xúc của người hát mà làn điệu bài bản các thể hát đó được biến hoá, sáng
tạo không ngừng. Phuối pác là thể dân ca hát đối đáp, có làn điệu nhưng không
ngân nga như lượn. Bài thơ Phuối pác slì diên (Ca dao mùa đông) của Dương
Thuấn được viết theo lối này: Nủng slửa len dá củng hăn dên/ Nhửng slửa mèn hêm
củng hăn dên/ Tọ fạ slì dên táng ún/ Hẹ cạ lầu pang bâư slửa nựa cần/ Nựa cần
điếp đướt bặng thán boọng mừng. (Mặc áo len rồi vẫn rét/ Mặc thêm áo bông cũng
vẫn thấy rét/ Nhưng mùa đông sẽ ấm áp/ Nếu mặc một chiếc áo bằng da thịt/ Da
thịt người yêu như than lửa bỏng tay.)
3.3.4.2. Câu đố dân gian.
Kho tàng câu đố dân gian vốn quen thuộc với mỗi người Việt Nam, nó là
nguồn tài liệu rèn luyện trí thông minh cho trẻ cực kì hiệu quả. Trẻ em không chỉ
phát triển trí tuệ, khả năng tư duy qua việc suy nghĩ để tìm tòi ra đáp án đúng mà
còn phát triển khả năng ngôn ngữ qua những câu thơ giàu vần điệu, đầy hình ảnh
sinh động. Người Tày Nùng cũng có một số lượng phong phú những câu đố dân
gian, được tích lũy từ những sự vật, hiện tượng diễn ra hằng ngày, xung quanh con
người, nên rất gần gũi, gắn bó với con người, được sử dụng thường xuyên vào
111
những lúc nghỉ ngơi, giải trí. Dương Thuấn cũng nhiều lần đưa những câu đố dân
gian như thế vào các tác phẩm thơ của mình: “Slíp tua lình khửn các/ Pác tua lình
khửn keng/ Tua cheng tua đánh nặm?” (Mười con khỉ lên gác/ Trăm con khỉ lên
non/ Con tranh con đổ nước?) (Làm cọn)
Và cả những bài hát đố phức tạp hơn dành cho người lớn: Con gì đêm đêm
gáy trước gà/ Thứ gì mà đắng hơn lá ngón/ Thứ gì mà cong uốn sừng trâu? (Tua
lăng c m c m khăn cón cáy/ Slức lăng khôm hơn ngộn/ Slức lăng kho uổn coóc vài)
(Trường ca Bi phẫn)
3.3.4.3. Hát ru (Vén eeng).
Hát ru là một thể loại dân ca phổ biến, hầu như dân tộc nào cũng có. Hát ru
của người Tày Nùng thường bắt đầu bằng câu Ứ noọng nòn… như người Kinh
thường bắt đầu với lời À ơi… Người Tày Nùng hát ru con khi địu con lên nương
làm rẫy, hay là chị hát ru em khi chiều xuống dỗ dành em ngủ cho bà cho mẹ nấu
cơm, khi người lớn bận việc đồng áng, cũng có khi đi chăn trâu cõng theo em rồi ru
em ngủ… Khúc hát du dìu dặt cũng đi vào thơ Dương Thuấn :
- Ứ noọng nòn, nòn đắc nòn đây
Nâư pjủc đảy luổm lầu sloong boóc
Pài đăm đảy nổc choóc sloong tua
Tua lẻ pây nh p khóa, nhọm may
Tua lẻ mừa có fầy au vài mà lảng
(À ơi, con ngủ cho say/ Ngày mai con được hai đấu muỗm/ Ngày mai con
được một đôi chim sẻ/ Chim sẽ đi giặt quần, nhuộm chỉ/ Chim sẽ về nhóm bếp, chăn
trâu) (Lên rẫy)
3.3.4.4. Đồng dao.
Đồng dao là một bộ phận của văn học dân gian xuất hiện từ rất sớm và được
lưu truyền tương đối rộng rãi. Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất, đầy
đủ nào về đồng dao, nhưng các quan niệm đều thống nhất chỉ ra rằng đồng dao là
những bài hát của trẻ em, được các em diễn xướng lúc chơi đùa. Do đó mà đồng
dao thường gắn liền với các hoạt động chơi đùa, các trò chơi của trẻ nhỏ.
Các bài đồng dao phản ánh về thế giới động vật chiếm số lượng lớn nhất,
112
phong phú nhất trong kho tàng đồng dao của dân tộc Tày Nùng. Thế giới động vật,
côn trùng đa dạng, sinh động được hiện lên một cách ngộ nghĩnh, đáng yêu, sôi
động, không những thể hiện được sự phong phú về chủng loại của động vật trong
thiên nhiên miền núi mà còn thể hiện được óc quan sát và trí tưởng tượng của các
em nhỏ. Các loài động vật xuất hiện trong đồng dao là những loài gần gũi, gắn bó
với cuộc sống của trẻ em miền núi như con ve, con chim, cái kiến, con chó, con
mèo…
Trẻ em Tày Nùng vào mỗi độ tháng ba âm lịch, khi cây chít nở hoa, các em
thường bẻ hoa về thắt hai đầu để bông chít trở thành nút to tròn như quả trứng, rồi
hát bài đồng dao gọi ve quen thuộc để đợi ve bay về đậu vào bông chít :
Ói nỉ nắc, xắc nỉ téng
Fạ đét nủng slửa lương
Fạ phân nủng slửa quảng
Bân khẩu bản nẩy mà…
Trong bài thơ Mùa hoa chít nở, Dương Thuấn đã sử dụng bài đồng dao này:
Này chú ve xanh ơi/ Trời nắng khoác áo vàng/ Trời mưa choàng áo rộng/ Bay vào
bản mà chơi…
Còn trong bài thơ Hin hết lượn (Cuội hát), Dương Thuấn tuy không sử dụng
trực tiếp một bài đồng dao cụ thể nào của trẻ em Tày Nùng như trường hợp bài thơ
vừa nêu trên, nhưng với sự nhân cách hóa những vật vô tri:
Bại cảo hin (Những hòn cuội)
Bẻo đang mầm (Béo béo tròn)
Bặng mu eng (Như lợn con)
Dú liểp khuổi (Bên bờ suối)
cùng thể thơ ba chữ và kết cấu điệp đoạn, điệp khúc của bài thơ rất gần gũi
với những bài đồng dao của trẻ:
Cảo lẻ diết (Hòn thì co)
Cảo lẻ kho (Hòn thì duỗi)
Mì bại nhình (Có các chị)
Mì bại bảc (Cùng các bác)
113
Bấu lao lác (Không sợ siết)
Bấu lao lẩc (Không sợ sâu)
Bấu tả căn (Không rời nhau)…
3.3.4.5. Hát đưa linh (Mại xe).
Trong đám ma người Tày Nùng, có nghi lễ hát đưa linh trong những đêm
trực trước linh cữu người đã khuất. Hát đưa linh không phải do thầy Tào hát, mà là
do hội kèn trống thực hiện, các bản làng bao giờ cũng có một người hát đưa linh.
Nghi lễ hát đưa linh để tiễn đưa và dặn dò người chết lên thiên đàng, nghe tiếng hát
là những khúc thơ dài ấy, người chết sẽ vui vẻ về nơi chốn mới ở trên trời để làm
ăn, còn người ở lại cõi trần gian cũng thấy yên lòng. Đó là những khúc ca dài bằng
thơ tuyệt hay, vừa đem lại cảm giác lâm ly, thống thiết xoáy vào tâm can lúc chia
tay, vừa đem lại niềm lạc quan vui sống cho những người ở lại. Dưới đây là một
đoạn hát đưa linh của người Tày Nùng được Dương Thuấn sử dụng trong bài thơ Đi
vòng quanh đèn:
“Chúp đóp hỏi coỏng sloóc thư mừa
Dá nghị mòn lăng, hết kin pây nả
Thâng tỉ cỏi t ng dảo, t ng lườn
Cỏi chảo mấư lảy nà, sluôn luởc
Chảo mò vài, mu cáy, thây phưa…
(Nón lá đeo cánh khỉu mang về/ Đừng nghĩ gì, hãy làm ăn phía trước/ Tới
nơi rồi sẽ dựng nhà dựng cửa/ Sẽ lại khẩn khai vườn tược, ruộng vườn/ Tậu trâu bò
cày bừa, gà lợn…)(Đi vòng quanh đèn).
Tiểu kết.
Từ xưa đến nay, mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết diễn ra
xuyên suốt mọi thời kỳ của lịch sử văn học, ở khắp các trào lưu và các thể loại của
văn học. Mối quan hệ này được minh chứng rõ nét bằng những ví dụ cụ thể, được
đánh dấu bằng tên tuổi của những nhà văn, nhà thơ với những tác phẩm văn chương
của họ. Đến nay, phần lớn các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định vai trò to lớn của văn
học dân gian trong sự hình thành và phát triển của văn học viết. Và vai trò đặc biệt
này, sẽ không dừng lại ở đó, mà theo sự phát triển của thời gian, nó sẽ tiếp tục được
114
phát huy, ở những phương diện mới, với những sắc thái mới. Mối quan hệ giữa văn
học dân gian và văn học viết được đánh dấu bằng mối quan hệ gắn bó khăng khít,
hai chiều. Là sự tác động qua lại lẫn nhau, vừa đối nghịch, vừa tương hỗ, thúc đẩy
nhau phát triển, đi lên. Nếu thiếu đi một trong hai thành tố nghệ thuật ngôn từ này,
nền văn học của nước nhà sẽ kém đi phần sinh động và hấp dẫn mà chúng đã tạo
được cho nền văn học.
Văn học dân gian phản ánh văn hóa dân gian. Sinh ra trên cơ sở của một nền
văn hóa nhất định, nó không chỉ là một loại nghệ thuật ngôn từ (ngôn ngữ nói) mà
còn chứa đựng trong đó những dấu ấn văn hóa, những quan niệm văn hóa – nghệ
thuật, những tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán của cộng đồng. [11] Do đó,
văn học dân gian Tày Nùng chính là đời sống vật chất và tinh thần, là những vui
buồn thật sự, là nếp cảm nếp nghĩ của người Tày Nùng.
Dương Thuấn từng chia sẻ rằng văn học dân gian là của chung, còn nhà thơ là
dấu ấn riêng, là con ong hút nhựa hoa để đem đến mật ngọt cho đời. Nguyễn Du học
cách làm thơ từ những người trồng dâu nuôi tằm, còn Dương Thuấn đến với thơ từ
chính kho tàng văn học dân gian giàu đẹp của dân tộc mình, ông đã làm cho những
tinh hoa truyền thống của văn học dân gian xưa bung tỏa trong thơ ca hiện đại.
Chính sự ảnh hưởng sâu đậm của văn học dân gian đã tạo cho Dương Thuấn một
phong cách riêng, không thể trộn lẫn. Đó là một phong cách rất cổ điển, dân dã rất
đặc sắc. Và chính sự ảnh hưởng này đã thể hiện rõ nét tài năng nghệ thuật, tình yêu
quê hương và sự am hiểu một cách sâu sắc nền văn hóa của quần chúng dân nhân
lao động. Phải nói rằng, Dương Thuấn đã thấm nhuần một cách cao độ phong vị của
dòng văn học dân gian, thơ ca dân gian, văn hóa dân gian, để từ đó, sự ảnh hưởng
của chất dân gian không chỉ nằm bên ngoài câu chữ và thấm sâu vào con người của
thi nhân, vào bản chất thi ca của thi sĩ, sự thấm nhuần này vượt lên cả trên câu chữ,
lắng đọng lại trong người nghệ sĩ để ông tạo nên được dấu ấn cá nhân riêng trong
dòng văn chương bác học.
Tìm hiểu sự ảnh hưởng của văn học dân gian Tày Nùng đối với những vần thơ
của Dương Thuấn, chúng tôi thiết nghĩ đấy không đơn thuần là công việc tìm hiểu
Dương Thuấn đã sử dụng những motif gì của văn học dân gian, sử dụng những hình
115
ảnh gì của ca dao, dân ca… mà cao hơn và xa hơn là có thể làm nổi lên tính dân
gian trong thơ Dương Thuấn. Sở dĩ có điều đó vì những nét đặc trưng của dân gian
đã ngấm sâu vào tâm hồn, máu thịt của nhà thơ, để từ đó làm nên những áng thơ
đậm đà tính dân gian, dân tộc. Nói cách khác, ngoài việc chỉ rõ những ảnh hưởng về
mặt hình thức như các nhà nghiên cứu thường làm, luận văn còn hướng về nghiên
cứu mặt nội dung mà ở đó có sự ảnh hưởng sâu sắc của văn học dân gian Tày Nùng
trong tác phẩm của Dương Thuấn, làm nên một Dương Thuấn “rất Tày” như nhiều
nhà nghiên cứu từng nhận xét.
Một trong những thành công lớn nhất của Dương Thuấn chính là sự tiếp thu,
kế thừa, và vận dụng thành công, linh hoạt, sáng tạo những thành tựu của thi ca
dân gian dân tộc Tày – Nùng vào trong các sáng tác thơ của mình. Việc những
tác phẩm thơ ca hiện đại được bồi đắp, xây dựng và làm giàu trên cơ sở những
tinh hoa của văn học dân gian dân tộc đã đem đến một sự cách tân mới mẻ cho
thơ Dương Thuấn, vừa thể hiện khả năng tìm tòi, sáng tạo kết hợp hài hòa với ý
thức bảo lưu, gìn giữ những đặc điểm quý báu của văn học truyền thống rất đáng
trân trọng của ông.
Ngoài ra, cũng cần phải ghi nhận những đóng góp tích cực của Dương Thuấn
vào việc làm giàu đẹp thêm cho văn học dân tộc Tày Nùng. Mạch nguồn dân gian
đã vun đắp, bồi dưỡng cho hồn thơ Dương Thuấn trở nên khỏe khoắn, mập mạp,
ông chịu ảnh hưởng sân sắc của văn học dân gian truyền thống, ông tiếp nhận
chúng, phát triển chúng, đồng thời thổi một luồng sinh khí mới cho những giá trị
văn học cổ xưa, làm cho chúng có một diện mạo mới, một sắc thái mới cách tân,
hiện đại, phong phú, phù hợp và gần gũi hơn với thẩm mĩ của thời đại. Dương
Thuấn - có thể nói như chính câu thơ ông – là người : Hái quả ăn gieo hạt trả cho
116
rừng. (Tháng sáu)
KẾT LUẬN
Con đường tìm về với mảnh đất nghệ thuật của quần chúng lao động, tìm về
với nguồn thi liệu dân gian là con đường chân chính của các nghệ sĩ ưu tú, trong đó
có Dương Thuấn.
Dương Thuấn và hồn thơ Dương Thuấn sinh ra và trưởng thành trong một
không gian văn hóa đậm đặc của người Tày Nùng nơi vùng cao Việt Bắc, không
khó để nhận ra ông là một nhà thơ tâm huyết, nhiệt thành và say mê với bản sắc văn
hóa truyền thống của dân tộc mình. Các tác phẩm của Dương Thuấn có thể nói là
tấm gương phản chiếu dấu ấn Folklore của dân tộc Tày – Nùng, quá trình sáng tạo
nghệ thuật rất có ý thức của ông trong việc bảo lưu, gìn giữ những nét đẹp của văn
hóa dân tộc đã làm các tác phẩm thơ ca của Dương Thuấn trở thành một bảo tàng
văn hóa dân gian Tày Nùng hết sức phong phú, giàu đẹp. Có thể nói, Đối với nhà
thơ Dương Thuấn, truyền thống dân tộc thể hiện trong thơ ông được dẫn dắt bởi hai
tuyên ngôn: Một là, tuyên ngôn “ta là chàng trai của núi” – tuyên ngôn về ý thức
nguồn gốc. Hai là, “Ta ở đâu bản ta ở đó” - tuyên ngôn về ý thức bảo tồn bản sắc
văn hóa dân tộc. Phố phường Hà Nội là nơi Dương Thuấn sống hằng ngày nhưng
tâm hồn ông luôn “bay quẩn quanh trên các ngọn núi cao”[15] Tâm thức văn hóa
Tày Nùng đã bồi đắp, nuôi dưỡng hồn thơ Dương Thuấn và định hình cho ông một
lộ trình thi ca, một phong cách thơ ca vừa dân tộc lại vừa hiện đại. Hay nói đúng
hơn, thơ Dương Thuấn đến với hiện đại từ truyền thống. Trong quá trình sáng tạo,
Dương Thuấn đã tôn vinh được văn hóa dân tộc mình. Từ trong sâu thẳm văn hóa
Tày Nùng là nguồn sữa mẹ nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ và trở thành chất liệu cho
ông sử dụng trong tác phẩm của mình. Trước thành công của Dương Thuấn, nhà thơ
Triệu Lam Châu đã nhận xét đầy cảm phục: “Tôi không phải là nhà phê bình văn
học, mà chỉ là người bạn thơ Tày của Dương Thuấn. Chính vì vậy những điều tôi
viết về thơ Dương Thuấn đều xuất phát từ lòng trân trọng về sức lao động thơ có
thể gọi là phi thường của bạn. Đồng thời tôi cũng muốn bạn đọc thưởng thức thơ
Dương Thuấn theo con mắt của chính người miền núi, thì sẽ hiểu sâu thêm sự thần
117
diệu của tâm hồn Tày trong thơ Dương Thuấn.” [4]
Khi nghiên cứu về thơ ca Dương Thuấn, hầu hết mọi người đều thống nhất
rằng thơ ca của ông có dấu ấn sâu đậm của văn học dân gian Tày Nùng trên cả
phương diện nội dung lẫn hình thức biêu đạt, qua đó khẳng định, xác nhận mối quan
hệ giữa thơ ca Dương Thuấn nói riêng, thơ ca Tày Nùng hiện đại nói chung đối với
văn hóa và văn học dân gian Tày – Nùng.
Các sáng tác của Dương Thuấn, bởi vậy, đã trở thành mảnh đất màu mỡ,
phong phú hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học chuyên nghiệp lẫn không chuyên
với nhiều hướng tiếp cận, khai thác khác nhau nhằm khẳng định tài năng và vị trí
của Dương Thuấn trong nền văn học các dân tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung. Kế thừa các nghiên cứu về Dương Thuấn của các tác giả, chúng tôi
mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc khám phá những giá trị mà Dương
Thuấn đã đóng góp vào sự phát triển của nền văn học dân tộc Tày – Nùng nói
chung .
Trong khuôn khổ có hạn của bài luận văn, chúng tôi đã cố gắng làm nổi bật
lên những nét cơ bản về dấu ấn của folklore dân tộc Tày Nùng trong thơ Dương
Thuấn, trên hai phương diện là sự tiếp thu các yếu tố của văn hóa dân gian và văn
học dân gian dân tộc của nhà thơ. Song từ những gì đạt được của bài luận văn thì
mới chỉ là những kết quả bước đầu, hướng nghiên cứu còn mở ra những khả năng
118
lớn, những thu hoạch lớn hơn cho những người đi sau kế tiếp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Phạm Vĩnh Cư (2010), “Tôi rất sung sướng thưởng ngọan tập thơ Dương
Thuấn”, http://vn.360plus.yahoo.com/DuongThuan59.
2. Nông Quốc Chấn (1957), tham luận Đại hội văn nghệ toàn quốc lần II.
3. Nông Quốc Chấn (1972), Đường ta đi, Nxb Việt Bắc.
4. Triệu Lam Châu (2011), “Nét thần diệu của tâm hồn Tày trong thơ Dương
Thuấn”.
5. Nguyễn Đức Dân (1986), “Vận dụng thành ngữ, tục ngữ và danh ngôn trên
báo chí”, Tạp chí Ngôn ngữ ( số 3).
6. Lê Hải Đăng, Nghi lễ gia đình của người Tày – Nùng ở Nghệ An, Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Bế Viết Đằng (1992), Các dân tộc Tày – Nùng ở Việt Nam, Viện Khoa học
xã hội Việt Nam, Viện dân tộc học.
8. Nguyễn Khoa Điềm (2010), giới thiệu Tuyển tập thơ Dương Thuấn, tập I,
Bản Hon và những nơi khác, Nxb Hội nhà văn.
9. Nhiều tác giả (1990), Các vấn đề của Khoa học văn học, Nxb Khoa học xã
hội.
10. Nhiều tác giả (1994), Những gương mặt thơ mới, tập 1, tập 2, Nxb Thanh
niên.
11. Nguyễn Bích Hà, “Nghiên cứu văn học dân gian từ giải mã văn hóa”, tài liệu
đánh máy.
12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục.
13. Đỗ Thị Hòa (2004), Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,.
14. Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ
điển học, Hà Nội – Đà Nẵng.
15. Đường Thiên Huệ, “Nhà thơ Dương Thuấn: Tôi là con trai của núi cao rừng
thẳm”, http://60s.com.vn/index/1788198/1112008.aspx, cập nhật thứ 3
119
11/11/2008, 15:17 (GMT+7).
16. Đỗ Thị Thu Huyền (2009), Dương Thuấn – Hành trình từ Bản Hon, Nxb
Hội nhà văn.
17. Đỗ Thị Thu Huyền (2008), “Dương Thuấn – một hồn thơ rộng mở”, Báo
Dân trí (số 11).
18. Nguyễn Thị Việt Hương (chủ biên), Văn học dân gian các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Nxb Đại học Văn hóa Hà nội.
19. Diệu Hường Mimmi BergStrom Hường, “Cảm nghĩ đọc thơ Dương Thuấn
của một người xa quê hương”, Stakholm, Thụy Điển, 2010.
20. Inrasara (2006), “Thơ dân tộc Chăm từ ngồn gốc đến hiện đại”, Tạp chí
nghiên cứu văn học (số 5).
21. Đỗ Hồng Kỳ (1997), “Những biểu hiện của tôn giáo, tín ngưỡng trong
truyện thơ Nôm Tày – Nùng”, tạp chí Văn hóa dân gian ( số 3), tr.16.
22. Đỗ Văn Khang, Cơ sở lý luận văn học, Nxb Thông tin và Truyền thông.
23. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
24. Đinh Gia Khánh, Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã
hội, H.
25. Vũ Ngọc Khánh (1997), Kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam, Nxb Văn
hóa Thông tin.
26. V.I. Lê - nin (1957), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật.
27. Quách Liêu (1994), “Hai cách viết trong sáng tác văn học thiểu số”, Tạp chí
Văn học ( số 9).
28. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Hà, Lê Khắc Hòa,
Thành Thế Thái Bình, Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
29. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007), “Văn học
nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới”, Nxb Văn hóa dân tộc.
30. Báo Nông nghiệp Việt Nam, (số 45), thứ 2 ngày 19 tháng 3 năm 2001, tr.11.
31. Kupria Nova & Macogo Nenco, Tính độc đáo dân tộc của văn học Nga,
120
Lêningrat, 1976.
32. Trần Thị Nương (2009), “Thơ Dương Thuấn – Dòng sông Tày chảy mãi”,
Tạp chí Dân tộc và Phát triển (số 5), tr.7.
33. Hà Huyền Nga (2009), Đặc điểm cấu trúc hình thức và ngữ nghĩa của tục
ngữ dân tộc Tày, luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
34. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin.
35. Lê Chí Quế (2001), Văn hóa dân gian khảo sát và nghiên cứu, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
36. Hoàng Quyết (biên soạn) (1986), Truyện cổ Tày – Nùng, Nxb Văn hóa.
37. Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương
Toàn (1993), Văn hóa truyền thống Tày – Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc.
38. Lò Ngân Sủi (2002), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số, Hoa
văn thổ cẩm, tập 3, Nxb Văn hóa dân tộc.
39. Trần Đinh Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội.
40. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
hóa dân tộc.
41. Hà Đình Thành, Văn hóa dân gian Tày – Nùng ở Việt Nam, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
42. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
43. Ngô Đức Thịnh (2003), Khái niệm văn hóa dân gian, tạp chí Văn hóa dân
gian, số 4(88).
44. Ngô Đức Thịnh (2002), “Then – một hình thức shaman của dân tộc Tày ở
Việt Nam”, tạp chí Văn hóa dân gian ( số 3), tr.11.
45. Nguyễn Thị Minh Thu (2009), “Kiểu truyện về người mồ côi trong truyện
cổ tích Tày – Nùng”, tạp chí Khoa học công nghệ ( số 3), tr.25.
46. Dương Thuấn (2010), Tuyển tập thơ Dương Thuấn, tập I, Bản Hon và những
nơi Khác, Nxb Hội nhà văn.
47. Dương Thuấn (2010), Tuyển tập thơ Dương Thuấn, tập II, Thơ Tình, Nxb
121
Hội nhà văn.
48. Dương Thuấn (2010), Tuyển tập thơ Dương Thuấn, tập III, Thơ viết cho
thiếu nhi, Nxb Hội nhà văn.
49. Dương Thuấn, Văn hóa Tày ở Việt Nam và tiến trình hội nhập thế giới, Nxb
Tri thức.
50. Đỗ Bình Trị (chủ biên) (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo
dục.
51. Trần Thị Việt Trung (chủ biên) (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ các dân
tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.
52. Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa.
53. Nguyễn Thị Yên (2001), “Thờ mẫu trong tín ngưỡng của người Tày Nùng”,
122
tạp chí Văn hóa dân gian ( số 5).
PHỤ LỤC
Nhà thơ Dƣ ơng Thuấn và tác giả.
Tác giả dự một lễ mừng đầy tháng của ngƣời Tày – Nùng
123
Tác giả trong trang phục thƣờng ngày của phụ nữ Nùng.
Bà pựt Triệu Thị Sa giới thiệu về “hòn đá phép”.
124
Tác giả và cụ Đinh Ngọc Núng – nguyên phó ty Giáo dục tỉnh Cao Bằng
trong buổi trao đổi về ca dao, tục ngữ, thành ngữ Tày – Nùng. Ảnh chụp
tại đền Kỳ Sầm thờ Nùng Chí Cao, Hòa An, Cao Bằng.
Bản ngƣời Tày. Ảnh chụp tại Pác Ngòi, Ba Bể, Băc Kạn.
125
Hội pháo hoa. Ảnh chụp tại trị trấn Quảng Uyên, Cao Bằng.
Trò chơi Tung còn trong lễ hội Đền Kỳ Sầm, Hòa An, Cao Bằng.
126
Một góc chợ phiên. Ảnh chụp tại Trà Lĩnh, Cao Bằng.
Xôi ngũ sắc.
127
Rau bò khai.
Trám đen
128