ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _______________________________________

TRỊNH NGỌC HUÂN

ĐÌNH NGỰ TRIỀU DI QUY 亭 規 遺 朝 御 (CỔ LOA – HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Hà Nội - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _______________________________________

TRỊNH NGỌC HUÂN

ĐÌNH NGỰ TRIỀU DI QUY 亭 規 遺 朝 御 (CỔ LOA – HÀ NỘI)

Chuyên ngành: Khảo cổ học Mã số: 60 22 03 17

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Tống Trung Tín

Hà Nội - 2016

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được hoàn thành là kết quả của một quá trình học tập và

nghiên cứu không ngừng của bản thân, sự động viên giúp đỡ của quý thầy cô

giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.

Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, các cô trong bộ môn Khảo cổ học,

khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, các đồng

nghiệp Ban Quản lý Khu di tích Cổ Loa - Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng

Long – Hà Nội đã dạy bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và làm

việc. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn thầy hướng dẫn PGS.TS Tống Trung Tín đã

tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tư liệu, đọc, góp ý và chỉnh sửa luận văn.

Tuy đã cố gắng nhưng luận văn vẫn còn nhiều hạn chế thiếu sót, vì

vậy tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý, bổ sung của các nhà nghiên

cứu, các thầy cô và những người quan tâm tới đề tài để luận văn được hoàn

thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Tác giả luận văn

Trịnh Ngọc Huân

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình tổng hợp và nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan, khoa

học và được trích nguồn rõ ràng. Nếu không đúng sự thật, tôi xin hoàn toàn

chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Tác giả luận văn

Trịnh Ngọc Huân

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TƯ LIỆU ................................................................... 6

1.1.1. Lịch sử nghiên cứu chung về đình làng ..................................................... 6

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu đình Ngự Triều Di Quy .............................................. 8

1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu...............................................................6

1.2. Khái quát lịch sử khu vực Cổ Loa........................................................9

1.3. Tên gọi đình Ngự Triều Di Quy..........................................................14

1.4. Vị trí, cảnh quan đình Ngự Triều Di Quy .........................................15

1.5.1. An Dương Vương..................................................................................... 18

1.5.2. Cao Lỗ ...................................................................................................... 20

1.5. Nhân vật được thờ tại đình Ngự Triều Di Quy.................................16

1.6. Tiểu kết chương 1.................................................................................23

CHƯƠNG 2. KIẾN TRÚC, NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC, NGUỒN GỐC

VÀ NIÊN ĐẠI ĐÌNH NGỰ TRIỀU DI QUY ....................................................... 25

2.1. Bố cục mặt bằng tổng thể ....................................................................25

2.2.1. Một vài khái niệm..................................................................................... 26

2.2.2. Kết cấu kiến trúc....................................................................................... 32

2.2.3. Nghệ thuật điêu khắc và trang trí ............................................................. 50

2.2. Kiến trúc đình Ngự Triều Di Quy ......................................................26

2.3.1. Nguồn gốc đình Ngự Triều Di Quy.......................................................... 65

2.3.2. Niên đại đình Ngự Triều Di Quy.............................................................. 66

2.3. Nguồn gốc và niên đại đình Ngự Triều Di Quy.................................65

2.4. Tiểu kết chương 2.................................................................................68

CHƯƠNG 3. ĐẶC TRƯNG, GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ VẤN

ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐÌNH NGỰ TRIỀU DI QUY ............... 70

3.1.1. Đặc trưng kiến trúc................................................................................... 70

3.1.2. Đặc trưng nghệ thuật điêu khắc, trang trí................................................. 74

3.2.1. Giá trị văn hóa vật thể .............................................................................. 76

3.2.2. Giá trị văn hóa phi vật thể ........................................................................ 78

3.2. Vài nét về giá trị lịch sử văn hóa ........................................................76

3.3. Vài nét về vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị đình Ngự Triều

3.3.1. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị đình Ngự Triều Di Quy .............. 84

3.3.2. Những quy định về bảo tồn và phát huy giá trị di tích............................. 87

Di Quy ..........................................................................................................83

3.4. Tiểu kết chương 3.................................................................................92

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 94

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 99

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BA : Bản ảnh

BV : Bản vẽ

HĐND : Hội đồng nhân dân

H : Hình

KCH : Khảo cổ học

KHLS : Khoa học lịch sử

NPHMKCH : Những phát hiện mới khảo cổ học

NCVHNT : Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật

: Phó giáo sư PGS

: Sơ đồ SĐ

: Trước công nguyên TCN

: Tiến sĩ TS

: Thạc sĩ THS

TTDT : Trùng tu di tích

: Trang Tr

: Tạp chí T/c

UBND : Ủy ban nhân dân

DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ

SƠ ĐỒ, BẢN VẼ, BẢN ẢNH

BẢNG THỐNG KÊ

Bảng 2.1. Kích thước cắt dọc của Nhà khách

Bảng 2.2. Kích thước các cột cái của Nhà khách

Bảng 2.3. Kích thước các cột hiên của Nhà khách

Bảng 2.4. Cao độ của hệ mái Nhà khách

Bảng 2.5. Kích thước cắt dọc của Đại đình

Bảng 2.6. Kích thước các cột cái của Đại đình

Bảng 2.7. Kích thước các cột quân của Đại đình

Bảng 2.8. Kích thước các cột hiên của Đại đình

Bảng 2.9. Cao độ của hệ mái Đại đình

Bảng 2.10. Thống kê di vật tại đình Ngự Triều Di Quy

SƠ ĐỒ

Sơ đồ 01: Xã Cổ Loa

Sơ đồ 02: Xã Cổ Loa

Sơ đồ 03: Khu di tích Cổ Loa năm 1904

Sơ đồ 04: Khu di tích Cổ Loa

Sơ đồ 05: Cụm di tích Đình Ngự Triều Di Quy – am Mỵ Châu

Sơ đồ 06: Các điểm di tích ở Cổ Loa

Sơ đồ 07: Phối cảnh tổng thể đình Ngự Triều Di Quy

Sơ đồ 08: Hiện trạng mặt bằng kiến trúc đình Ngự Triều Di Quy

Sơ đồ 09: Vị trí hiện vật tại đình Ngự Triều Di Quy

BẢN VẼ

Bản vẽ 01: Mặt bằng tổng thể cụm di tích đình Ngự Triều Di Quy và am Mỵ Châu

Bản vẽ 02: Mặt bằng hiện trạng kiến trúc Đại đình và Hậu cung

Bản vẽ 03: Mặt đứng hiện trang Nghi môn đình Ngự Triều Di Quy

Bản vẽ 04: Mặt bằng hiện trạng Nghi môn cụm di tích đình - am

Bản vẽ 05: Mặt bằng hiện trạng mái Nghi môn cụm di tích đình - am

Bản vẽ 06: Mặt bằng hiện trạng kiến trúc Nhà khách

Bản vẽ 07: Mặt bằng hiện trạng kiến trúc mái Nhà khách

Bản vẽ 08: Mặt cắt hiện trạng Nhà khách trục 1-8

Bản vẽ 09: Mặt đứng hiện trạng Nhà khách trục 1-8

Bản vẽ 10: Mặt đứng hiện trạng Nhà khách trục 8-1

Bản vẽ 11: Mặt cắt hiện trạng Nhà khách trục D-A

Bản vẽ 12: Mặt đứng hiện trạng Nhà khách trục D-A

Bản vẽ 13: Mặt bằng hiện trạng mái đình Ngự Triều Di Quy

Bản vẽ 14: Mặt đứng hiện trạng trục 1-14 đình Ngự Triều Di Quy

Bản vẽ 15: Mặt đứng hiện trạng trục A-J đình Ngự Triều Di Quy

Bản vẽ 16: Mặt cắt hiện trạng trục A-A đình Ngự Triều Di Quy

Bản vẽ 17: Mặt cắt hiện trạng trục B-B đình Ngự Triều Di Quy

Bản vẽ 18: Mặt cắt hiện trạng trục 1-14 đình Ngự Triều Di Quy

Bản vẽ 19: Mặt cắt hiện trạng tòa Hậu cung

Bản vẽ 20: Họa tiết kẻ bộ vì trục 3-4 -11-12

Bản vẽ 21: Bức cốn bộ vì trục 7-8

Bản vẽ 22: Họa tiết kẻ bộ vì trục 7-8

Bản vẽ 23: Chi tiết bức cốn bộ vì trục 7-8

Bản vẽ 24: Đầu dư

Bản vẽ 25: Chi tiết mái đao

Bản vẽ 26: Lan can chạm rồng

Bản vẽ 27: Con giống

BẢN ẢNH

Bản ảnh 01: Đình Ngự Triều Di Quy năm 1908

Bản ảnh 02: Đình Ngự Triều Di Quy khoảng trước năm 1960

Bản ảnh 03: Sân cỏ trước đình Ngự Triều Di Quy

Bản ảnh 04: Đình Ngự Triều Di Quy nhìn từ hướng Đông Bắc

Bản ảnh 05: Cảnh quan phía Tây Nam đình

Bản ảnh 06: Cảnh quan phía Đông đình

Bản ảnh 07: Mặt trước Nghi môn đình Ngự Triều Di Quy

Bản ảnh 08: Mặt sau Nghi môn đình Ngự Triều Di Quy

Bản ảnh 09: Nhà khách đình Ngự Triều Di Quy

Bản ảnh 10: Vì nóc Nhà khách

Bản ảnh 11: Ván gió kiểu con tiện của Nhà khách

Bản ảnh 12: Đại đình đình Ngự Triều Di Quy

Bản ảnh 13: Ảnh tổng thể gian phía Tây Đại đình

Bản ảnh 14: Ảnh tổng thể gian phía Đông Đại đình

Bản ảnh 15: Vì nóc chái bên trái Đại đình

Bản ảnh 16: Vì nóc gian thứ 2 bên trái Đại đình

Bản ảnh 17: Vì nóc gian thứ nhất bên trái Đại đình

Bản ảnh 18: Vì nóc bên trái gian giữa Đại đình

Bản ảnh 19: Vì nóc bên phải gian giữa Đại đình

Bản ảnh 20: Vì nóc gian thứ nhất bên phải

Bản ảnh 21: Vì nóc gian thứ hai bên phải

Bản ảnh 22: Vì nách trước, chái bên trái Đại đình

Bản ảnh 23: Vì nách trước, mặt phía Tây, gian thứ hai bên trái Đại đình

Bản ảnh 24: Vì nách trước, mặt phía Tây, gian thứ nhất bên trái Đại đình

Bản ảnh 25: Vì nách trước, mặt phía Đông, bên trái gian giữa Đại đình

Bản ảnh 26: Vì nách trước, mặt phía Tây, bên phải gian giữa

Bản ảnh 27: Vì nách trước, mặt phía Đông, gian thứ hai bên phải

Bản ảnh 28: Vì nách trước, chái bên phải

Bản ảnh 29: Vì nách sau, mặt phía Tây, gian thứ nhất bên trái Đại đình

Bản ảnh 30: Vì nách sau, mặt phía Tây, gian thứ hai bên trái Đại đình

Bản ảnh 31: Vì nách sau, mặt phía Đông, gian thứ hai bên phải

Bản ảnh 32: Vì nách sau, mặt phía Đông, gian thứ nhất bên phải

Bản ảnh 33: Chi tiết đầu kẻ phía trước, gian thứ thứ nhất bên trái gian giữa

Bản ảnh 34: Chi tiết đầu kẻ phía trước, gian thứ thứ hai bên trái gian giữa

Bản ảnh 35: Chi tiết đầu kẻ phía trước, gian thứ thứ nhất bên phải gian giữa

Bản ảnh 36: Chi tiết đầu kẻ phía trước, gian thứ thứ hai bên phải gian giữa

Bản ảnh 37: Chi tiết ván nong bên phải gian giữa

Bản ảnh 38: Chi tiết ván nong bên trái gian giữa

Bản ảnh 39: Chi tiết đầu kẻ phía sau, gian thứ thứ hai, bên phải gian giữa

Bản ảnh 40: Chi tiết đầu kẻ phía sau, gian thứ thứ nhất, bên phải gian giữa

Bản ảnh 41: Vì nóc gian thứ nhất Hậu cung

Bản ảnh 42: Vì nóc gian thứ hai Hậu cung

Bản ảnh 43: Vì nách Hậu cung gian thứ nhất phía Đông

Bản ảnh 44: Vì nách Hậu cung gian thứ hai phía Đông

Bản ảnh 45: Vì nách Hậu cung gian thứ ba phía Đông

Bản ảnh 46: Vì nách Hậu cung gian thứ nhất phía Tây

Bản ảnh 47: Dấu vết mộng sàn ở cột cái Đại đình

Bản ảnh 48: Dấu vết mộng sàn ở cột cái Hậu cung

Bản ảnh 49: Một số loại chân tảng

Bản ảnh 50: Trang trí trên cửa Hậu cung

Bản ảnh 51: Đầu dư vì nóc gian thứ hai bên trái

Bản ảnh 52: Đầu dư vì nóc bên trái gian giữa

Bản ảnh 53: Hổ phù trên vì nách gian bên trái gian giữa

Bản ảnh 54: Hổ phù trên vì nách Hậu cung

Bản ảnh 55: Trang trí trên nghé kẻ vì bên phải gian giữa

Bản ảnh 56: Dấu vết chữ trên cột đình

Bản ảnh 57: Chữ “Ngự Triều Di Quy” trên cửa Hậu cung

Bản ảnh 58: Chữ trên câu đầu vì nóc bên trái gian giữa

Bản ảnh 59: Chữ trên câu đầu vì nóc bên phải đại đình

Bản ảnh 60: Con giống đầu đao

Bản ảnh 61: Con xô trên mái đình

Bản ảnh 62: Rồng đá trên thành bậc Đại đình

Bản ảnh 63: Lan can đá trang trí long mây

Bản ảnh 64: Kiệu văn

Bản ảnh 65: Kiệu bát cống

Bản ảnh 66: Cửa võng

Bản ảnh 67: Ván trần

Bản ảnh 68: Câu đối trong đình

Bản ảnh 69: Ban thờ bá quan văn võ ở Đại đình

Bản ảnh 70: Ban thờ Vua và Cao Lỗ hầu ở Hậu cung

Bản ảnh 71: Tế lễ tại đình Ngự Triều Di Quy

Bản ảnh 72: Cộng đồng cư dân tham gia lễ hội tại đình

Bản ảnh 73: Sự kiện văn hóa tổ chức tại sân đình Ngự Triều Di Quy

Bản ảnh 74: Hội thi chim chào mào tổ chức tại bãi cỏ đình

Bản ảnh 75: Lễ công bố Quy hoạch Khu di tích Thành Cổ Loa tại đình

Bản ảnh 76: Phục hồi sàn đình Ngự Triều Di Quy

Bản ảnh 77: Bảo quản đình Ngự Triều Di Quy bằng phương pháp sử dụng

hóa chất

Bản ảnh 78: Bảo quản đình Ngự Triều Di Quy bằng phương pháp thủ công

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

1.1. Đình làng là một loại công trình kiến trúc cổ truyền có tầm quan

trọng vào bậc nhất trong lịch sử kiến trúc cổ Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu

đình làng là đối tượng của ngành khoa học lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử

kiến trúc cổ truyền Việt Nam nói riêng. Bởi vậy, việc nghiên cứu đình Ngự

Triều Di Quy sẽ góp phần nhỏ vào công cuộc nghiên cứu lịch sử kiến trúc đình

làng Việt Nam nói riêng, lịch sử kiến trúc Việt Nam cổ truyền nói chung.

1.2. Về mặt lịch sử văn hóa, đình làng Việt Nam hiện biết là ngôi nhà

chung (common house) của cộng đồng cư dân làng xã. Đình làng là địa điểm

diễn ra nhiều hoạt động quan trọng của làng. Nơi đây ba chức năng được thực

hiện: hành chính, tôn giáo và văn hóa. Là trung tâm văn hóa của làng xã, nơi

diễn ra lễ hội, biểu diễn kịch hát, trò chơi… Là trung tâm tín ngưỡng thờ

Thành Hoàng làng (tôn giáo) và hội họp bàn các việc làng giải quyết các công

việc của làng xã, để xử kiện, phạt vạ…theo những quy ước của làng (hành

chính). Thực ra, các chức năng trên không bao giờ được tách bạch, mà đan

xen hòa quyện với nhau. Có thể coi đình làng là một tòa nhà công, một nhà

thờ và một nhà văn hóa cộng lại của làng xã Việt Nam. Điều này cho thấy

ngôi đình làng là địa điểm công cộng quan trọng không thể thiếu được của

cộng đồng làng xã xưa kia. Đình làng là nơi phản ánh, ngưng kết mọi giá trị

văn hóa vật chất và tinh thần cũng như cấu trúc phân tầng của làng quê Việt

Nam. Ngôi đình là biểu tượng cho cộng đồng làng xã Việt Nam, là một yếu tố

hữu hình của văn hóa làng Việt. Hiện nay, các phong tục tập quán truyền

thống của làng nhiều nơi được khôi phục, đặc biệt là lễ hội. Các hội làng đều

lấy đình làng làm trung tâm. Nhiều đình làng được trùng tu và tôn tạo. Do đó,

nghiên cứu đình làng không phải chỉ là nghiên cứu cái đã qua, mà chính là

góp phần nghiên cứu nhiều mặt của xã hội nông thôn Việt Nam hiện đại. Bởi

1

vậy, việc nghiên cứu đình làng với các mặt văn hóa xã hội liên quan vừa có ý

nghĩa góp phần nhận thức văn hóa truyền thống Việt Nam, vừa góp phần nhận

thức về một xã hội đang trong quá trình biến chuyển hiện nay, giúp mỗi người

chúng ta thêm trân trọng những giá trị di sản văn hóa, có cái nhìn chân thực,

rõ ràng hơn về cội nguồn văn hóa dân tộc, góp phần nhỏ vào việc trân trọng

bảo tồn những công trình di tích lịch sử và nghệ thuật kiến trúc ngày xưa còn

lưu lại, đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ và văn hóa của nhân dân làm giàu đẹp

kho tàng di sản văn hóa truyền thống dân tộc và góp phần làm phong phú nền

văn hóa nhân loại. Đình Ngự Triều Di Quy với kho tàng nghệ thuật, lịch sử và

văn hóa phong phú của nó chính là một trường hợp tiêu biểu như vậy.

1.3. Đình Ngự Triều Di Quy nằm trong khu di tích Quốc gia đặc biệt

Cổ Loa, là tổng hòa của nhiều loại hình di sản văn hóa Việt Nam. Vì vậy, việc

nghiên cứu, bảo tồn, phát huy giá trị di sản ngôi đình chính là trọng điểm của

khu di tích.

Khu di tích Cổ Loa có nhiều di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ

thuật, khảo cổ học có giá trị đã được xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt.

Trong đó, thành Cổ Loa là một trong những tòa thành cổ nhất Việt Nam

được xây dựng từ thế kỷ III TCN, với kiến trúc 3 vòng thành dài trên 16km,

là kinh đô của nước Âu Lạc triều đại An Dương Vương. Dưới lòng đất Cổ

Loa là kho tàng di vật có giá trị cao về lịch sử đánh dấu các giai đoạn phát

triển từ văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, mà đỉnh

cao là văn hóa Đông Sơn, còn được gọi là “văn minh sông Hồng”. Lịch sử

lâu đời của Cổ Loa chứng kiến sự hình thành của các cộng đồng dần dần tụ

cư xây dựng và phát triển Cổ Loa thành một vùng nông thôn rộng lớn. Có

nhiều công trình tưởng niệm mang chức năng tôn giáo, tín ngưỡng, vừa

mang giá trị lịch sử, văn hóa, vừa là những kiến trúc nghệ thuật, chạm khắc

có giá trị thẩm mỹ cao được xây dựng và hình thành ở khu vực như đền

Thượng, đình Ngự Triều Di Quy, am Mỵ Châu, chùa Bảo Sơn,…giống các

2

làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc nghiên cứu các giá trị của đình

Ngự Triều Di Quy sẽ góp phần vào việc làm phong phú và tôn thêm các giá

trị to lớn của khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Cổ Loa trong một truyền

thống lâu dài hơn 2000 năm lịch sử.

Đình Ngự Triều Di Quy hiện nay nằm trong tổng thể khu di tích Cổ

Loa được xếp hạng di tích cấp Quốc gia đặc biệt. Tuy vậy, cho đến nay, vẫn

chưa có một công trình khảo cứu đầy đủ, cụ thể và toàn diện về di tích.

Do vậy, được may mắn làm việc tại Ban Quản lý Khu di tích Cổ Loa -

Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội, được tham gia trực tiếp vào

nhiệm vụ quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích, trong đó có đình

Ngự Triều Di Quy, với ước mong được đi sâu nghiên cứu di tích, đồng thời

tích cực tìm hiểu, hệ thống hóa các tài liệu liên quan tới di tích, để qua đó

hiểu rõ thêm đặc trưng, giá trị lịch sử - văn hóa của đình làng, góp phần phục

vụ tốt hơn công tác bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích Cổ Loa nói chung

và đình Ngự Triều Di Quy nói riêng. Tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài luận văn

thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học là: Đình Ngự Triều Di Quy (Cổ

Loa – Hà Nội).

2. Mục đích nghiên cứu

- Nghiên cứu, giới thiệu, phân tích vị trí cảnh quan, môi trường đình Ngự

Triều Di Quy.

- Nghiên cứu, miêu tả kiến trúc, điêu khắc, xác định niên đại, nhận thức

đặc trưng giá trị lịch sử - văn hóa của đình Ngự Triều Di Quy trong bối cảnh

các di tích đình làng trong vùng và trong chừng mực nhất định có đánh giá sơ

lược giá trị của đình so với một số đình làng ở Vĩnh Phú cũ (hiện nay là Vĩnh

Phúc và Phú Thọ); giá trị của đình trong tổng thể Khu di tích Quốc gia đặc

biệt Cổ Loa.

- Xác định giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tại đình Ngự Triều Di Quy.

3

- Trên cơ sở thực trạng của di tích đề xuất những giải pháp bảo tồn, tôn

tạo và phát huy giá trị của di tích trong giai đoạn hiện nay.

- Thông qua luận văn, góp phần nhỏ, thiết thực vào việc bảo vệ các đình

làng – một tấm gương phản chiếu lịch sử kiến trúc dân tộc đang ở đâu đó còn

bị xâm phạm hoặc xuống cấp một cách nghiêm trọng. Bảo vệ đình làng, chính

là bảo vệ một trong những giá trị tiêu biểu của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Về đối tượng: Nguồn tư liệu sử dụng trong luận văn này là kiến trúc và

điêu khắc di tích đình Ngự Triều Di Quy, văn hóa phi vật thể gắn liền với

đình Ngự Triều Di Quy.

Về phạm vi: Về không gian, tập trung tìm hiểu đình Ngự Triều Di Quy

ở xã Cổ Loa và một số ngồi đình ở Vĩnh Phú (hiện nay là Vĩnh Phúc và Phú

Thọ) cũng như ở Khu di tích Cổ Loa. Về thời gian, từ nguồn tư liệu đình Ngự

Triều Di Quy ở xã Cổ Loa, luận văn thử tìm hiểu thêm các đặc trưng của đình

làng thế kỷ XVIII – XIX. Ngoài ra để có thêm tài liệu nghiên cứu đối sánh về

các trang trí điêu khắc, chúng tôi sẽ sử dụng cả các tư liệu mỹ thuật cổ (điêu

khắc và đồ họa) trên các chất liệu khác. Đó là những đồ án trang trí trên đồ

đá, đồ gạch và đồ gốm trang trí kiến trúc thế kỷ XVIII - XIX.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khảo cổ học truyền thống

trong khảo sát, điền dã thực địa và các thao tác lấy tư liệu bằng: Đo vẽ, chụp

ảnh, dập thác bản hoa văn. Trong nghiên cứu là cách khảo tả, so sánh, phân

tích, nghiên cứu tổng hợp và so sánh tìm hiểu các đặc điểm, đặc trưng về nghệ

thuật, kết cấu kiến trúc và nghệ thuật trang trí.

Kết hợp các phương pháp nghiên cứu liên ngành như: Sử học, lịch sử

mỹ thuật, dân tộc học, bảo tàng học, văn hóa dân gian để làm rõ thêm giá trị

lịch sử - văn hóa của di tích đình Ngự Triều Di Quy.

4

Luận văn còn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử để xem xét, đánh giá giá trị lịch sử - văn hóa của di tích đình Ngự

Triều Di Quy.

5. Đóng góp của luận văn

Hệ thống hóa, miêu tả di tích đình Ngự Triều Di Quy trên các phương

diện mặt bằng, kiến trúc, vật liệu xây dựng, kỹ thuật xây dựng, điêu khắc

trang trí và xác định nguồn gốc, niên đại...

Phân tích, xác định các đặc trưng kiến trúc, điêu khắc trang trí của di

tích đình Ngự Triều Di Quy trên cơ sở so sánh với một số đình làng trong khu

vực Cổ Loa và khu vực được cho là nơi xuất phát của đình Ngự Triều Di Quy.

Nhận xét về các giá trị lịch sử - văn hóa, vật thể và phi vật thể gắn liền

với đình Ngự Triều Di Quy.

Trên cở sở thực trạng di tích kiến nghị một vài biện pháp bảo tồn và

phát huy giá trị lâu dài của di tích.

6. Bố cục luận văn

Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn

gồm 03 chương:

Chương 1: Tổng quan tư liệu.

Chương 2: Kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc, nguồn gốc và niên đại đình

Ngự Triều Di Quy.

Chương 3: Đặc trưng, giá trị lịch sử - văn hóa và vấn đề bảo tồn, phát

huy giá trị đình Ngự Triều Di Quy.

Ngoài ra, trong luận văn còn các mục: Tài liệu tham khảo và Phụ lục.

Phần đầu của luận văn có Lời cam đoan, Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt

và Danh mục phụ lục.

5

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TƯ LIỆU

1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu

1.1.1. Lịch sử nghiên cứu chung về đình làng

Công trình kiến trúc được quan tâm hàng đầu của những người nghiên

cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam là ngôi đình làng. Nhiều học giả đã dày công

tìm hiểu, nghiên cứu về đình làng với nhiều con đường tiếp cận khác nhau, từ

góc nhìn nhận lịch sử, văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật…

Vào những năm đầu thế kỷ 20, một số học giả người Pháp là những

người đầu tiên chú ý đến ngôi đình làng Việt với các công trình như: Magie et

religion annamite của P.Giran [120], Introduction à Pestude de L’ Annam et

Cha của J.Y.Clayes [119], Le Paysan du delta Tonkin, Pari của P.Gourou

[121], L’Art du Viet Nam [117] và Relevé des monumens ancients du Nord

Viet Nam [118] của L.Bezacier. Năm 1930, Nguyễn Văn Khoan đã công bố

công trình nghiên cứu rất quan trọng và có ý nghĩa đó là Nghiên cứu về cái

đình và việc thờ Thành hoàng ở các làng Bắc Bộ[46]. Tiếp đó, năm 1938,

Nguyễn Văn Huyên cũng đã xuất bản công trình nghiên cứu Góp phần nghiên

cứu về một vị Thành hoàng ở An Nam – Lý Phúc Man [36] với nhiều thông

tin về Thành hoàng và đình làng Việt. Năm 1962, Ngô Huy Quỳnh tổng hợp

các bài viết của mình thành tài liệu Nền kiến trúc cổ Việt Nam in Rô nê ô ở

trường Đại học Kiến trúc [79]. Cũng trong thời gian này, cuốn chuyên luận

Mở đầu việc nghiên cứu ngôi đình về phương diện Dân tộc học của Lê Văn

Hảo [26] đã được nhiều người biết đến. Năm 1975, cuốn sách “Việt Nam điêu

khắc dân gian thế kỷ XVI-XVII-XVIII-XIX” của Nguyễn Đỗ Cung [15] được

xuất bản. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng cũng đã bước đầu nghiên cứu đến

mỹ thuật đình làng trong hai cuốn sách “Mỹ thuật của người Việt” [76], “Mỹ

thuật ở làng” [77]. Những năm 70-80 của thế kỷ XX, nghiên cứu đình làng

6

trên các phương diện chung, có các bài nghiên cứu như: Triết lý cái đình của

Kim Định [24], Cái đình làng của Nguyễn Văn Lô [63], Văn hóa đình làng

của Nguyễn Đăng Thục [88]. Đặc biệt nổi bật lên là các bài nghiên cứu, tranh

luận khoa học về cấu kiện kiến trúc như: Cái bẩy trong kiến trúc cổ của

Nguyễn Đăng Duy [22], Bẩy và Kẻ của Hoàng Linh [61], Bảy và kẻ của Trịnh

Cao Tưởng [106], Cái Kẻ và cái Bẩy của Nguyễn Khắc Tụng [103].

Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, PGS.TS Trịnh Cao Tưởng đã có các

bài nghiên cứu về đình làng trên tạp chí KCH và NCVHNT như: Kiến trúc

đình làng [108], Đình làng điểm lại bước đi ban đầu [109], Kiến trúc đình

làng - hình tượng [112], Cây thước tầm trong nền kiến trúc cổ Việt Nam

[110]... Đặc biệt, là luận án TS KHLS năm 1994 của ông về Đình làng Phù

Lão – Hà Bắc trong nền cảnh đình làng Bắc Bộ [107]. Bên cạnh đó, cũng có

một số bài và công trình nghiên cứu làm rõ ràng hơn nội dung khoa học của

đình làng như: Quanh ngôi đình làng – Lịch sử (1983) của Trần Lâm Biền

[7], Từ con thuyền đến ngôi đình (1983) của Thu Hằng [27], Kiến trúc Việt

Nam (1986) của Ngô Huy Quỳnh [80], “Tàu đao” một cấu trúc cổ độc đáo

của nghề mộc cổ truyền Việt Nam (1984) của Hoàng Tấn Đạt [23]…

Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, nổi bật có các công trình: Đình

Việt Nam của GS Hà Văn Tấn [82], Tín ngưỡng Thành hoàng làng Việt Nam

của PGS Nguyễn Duy Hinh [30], Đình làng - tính hai mặt và quá trình biến

đổi của TS Nguyễn Anh Tuấn, TS Nguyễn Mạnh Cường [99], Luận án PTS

KHLS Cụm đình Tam Canh trong hệ thống đình làng Vĩnh Phúc của TS

Nguyễn Anh Tuấn [100]. Nổi bật trong thời kỳ này là loạt bài nghiên cứu

chuyên sâu về kiến trúc, nghệ thuật của TS Nguyễn Hồng Kiên như: Bộ vì nóc

của kết cấu nhà khung gỗ cổ truyền Việt Nam (1991) [49], Đình làng Việt

(1996) [50], Kiến trúc gỗ cổ truyền Việt (1996) [52], Điêu khắc trên kiến trúc

gỗ cổ truyền Việt (1996) [51], Những thành phần bao che trong kiến trúc gỗ

cổ truyền của người Việt (1999) [53]

7

Sang thập niên đầu của thế kỷ XXI, nổi bật là luận án TS KHLS Đình

làng Việt Nam thế kỷ 16 (2003) của TS Nguyễn Hồng Kiên [56], Luận án TS

KHLS Đình Võ Liệt của TS Phan Xuân Thành [84], TS Tạ Quốc Khánh đã

đóng góp nhiều bài nghiên cứu về các Đình làng Cao Thượng (Tân Yên – Bắc

Giang) [38], Đình làng Kiền Bái (Thủy Nguyên – Hải Phòng) [39], Đình làng

Thanh Quang (Hoài Đức – Hà Tây) [43],…Nổi bật là luận văn THS KHLS

Đình làng Hạ Hiệp (Hà Tây) – Kiến trúc và điêu khắc [42]. Tiếp đó là luận

văn THS KHLS Cụm di tích đình chùa Hữu Bằng (Hà Tây) – Kiến trúc và

điêu khắc của Ths Phạm Đức Hân [28]. Gần đây nhất là luận văn THS KHLS

Đình Tình Quang kiến trúc và điêu khắc của Ths Lê Quốc Vụ [104], luận văn

THS KHLS Cụm di tích đình – miếu Hạ Yên Quyết (Hà Nội) của Ths Lưu Thị

Dung [21]. Luận án TS KHLS Đình làng thế kỷ XVII-XVIII ở Gia Lâm (Hà

Nội) những giá trị lịch sử và văn hóa của TS Bùi Thế Quân [78].

Có thể nói giai đoạn vừa qua thực sự là một giai đoạn bùng nổ một số

luận văn, luận án nghiên cứu đình làng. Và các nhà khảo cổ đã đóng vai trò

quan trọng trong cao trào này. Những kết quả nghiên cứu trên đã dần làm

sáng tỏ nhiều vấn đề (nguồn gốc, niên đại, kiến trúc, điêu khắc, giá trị lịch sử,

văn hóa…) quanh ngôi đình làng Việt.

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu đình Ngự Triều Di Quy

Đình Ngự Triều Di Quy là di tích Lịch sử - Văn hoá, kiến trúc Tôn giáo

- Tín ngưỡng quan trọng nằm trong Khu di tích Cổ Loa nên cũng là đối tượng

nghiên cứu của ngành khoa học lịch sử. Tuy vậy, cho đến nay chưa có một

công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể về đình Ngự Triều Di Quy.

Trong Hồ sơ đề nghị công nhận di tích Quốc gia đặc biệt Khu di tích

Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội [70], Địa chí Cổ Loa [69], Đền Thượng, Cổ Loa

và những bí ẩn trong lòng đất [93], Thiên tình sử Mỵ Châu Trọng Thủy [97]

chỉ đề cập rất khái quát về nguồn gốc, niên đại, kiến trúc và điêu khắc của

đình Ngự Triều Di Quy.

8

Sách Lịch sử Đảng bộ xã Cổ Loa [62] đề cập đến thông tin trong dân

gian về nguồn gốc đình và đưa ra một vài sự kiện trong thời kỳ cách mạng có

gắn với đình Ngự Triều Di Quy.

Sách Đông Anh với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội [2] giới thiệu về

đình Ngự Triều Di Quy chỉ vài dòng nhưng lại có sự nhầm lẫn với di tích khác.

Các tư liệu trên mới chỉ bước đầu tìm hiểu đưa ra một số nhận xét nhất

định, mang tính chất sơ lược, chưa có tính nghiên cứu tổng thể. Chưa có một

chuyên khảo nào giới thiệu đầy đủ về những giá trị lịch sử và văn hóa của

đình Ngự Triều Di Quy, cũng như nghiên cứu và khai thác các giá trị của đình

Ngự Triều Di Quy dưới góc độ khảo cổ học lịch sử.

Trong bối cảnh đó, trên cơ sở kết quả của quá trình nghiên cứu đình

làng Việt nói chung, đình Ngự Triều Di Quy nói riêng của các nhà nghiên

cứu trước đó, tác giả luận văn đặc biệt chú ý đến đình Ngự Triều Di Quy

nhằm góp thêm một tiếng nói vào công trình nghiên cứu rộng lớn, lâu dài

và giàu ý nghĩa khoa học, thực tiễn về ngôi đình, nhất là góp phần làm rõ

thêm các giá trị tổng thể của khu di tích Quốc gia đặc biệt Cổ Loa.

1.2. Khái quát lịch sử khu vực Cổ Loa

Qua tư liệu khảo cổ học thì vùng đất Cổ Loa, khoảng gần 4000 năm

cách ngày nay, đã có những người thuộc văn hóa Phùng Nguyên sinh sống.

Đây là những nhóm tộc người thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng. Cư dân đã đạt

đến đỉnh cao của kỹ thuật làm đồ đá với việc sử dụng thành thạo kỹ thật cưa,

khoan lỗ, khoan tách lõi, tiện, mài… do đó họ đã chế tạo ra nhiều công cụ sản

xuất, đồ trang sức...và có những tiến bộ trong đời sống cũng như phát triển xã

hội. Họ cũng biết đến hợp kim đồng thau và dùng hợp kim đồng thau để chế

tác công cụ sản xuất. Chính ở Cổ Loa, với những kết quả của khảo cổ học, đã

cho thấy sự phát triển liên tục của cư dân thời kỳ Phùng Nguyên cho đến thời

kỳ tiếp sau mà đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn, còn được gọi là “Văn minh

sông Hồng”. Đặc biệt, việc phát hiện hàng vạn mũi tên đồng, các loại vũ khí,

9

dụng cụ sản xuất cùng với trống đồng Cổ Loa và khuôn đúc mũi tên đồng đã

làm sáng tỏ thêm những truyền thuyết lịch sử thời kỳ An Dương Vương tại

Khu di tích Cổ Loa. Ở đây, có các di chỉ khảo cổ học tiêu biểu sau: Đồng

Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại,

Thành Trung, Xuân Kiều, Xóm Nhồi, Đền Thượng, Tiên Hội, Đường Mây,

Cầu Vực.

Các hiện vật, dấu tích của các xóm làng được phát hiện trong lòng đất Cổ

Loa và vùng phụ cận cho thấy chủ nhân vùng đất này sống định cư, bằng các

nghề làm ruộng, đánh cá, săn bắt và chăn nuôi. Họ tồn tại lâu đời và phát triển

liên tục từ Sơ kỳ thời Đồng thau đến Sơ kỳ thời đại sắt, nghĩa là có mặt trong

suốt thời đại dựng nước của dân tộc - thời Hùng Vương và An Dương Vương.

Vào thời các vua Hùng cho đến An Dương Vương, đất Cổ Loa là vùng

cao của đồng bằng châu thổ sông Hồng, đã có dân cư sinh sống bằng nghề

trồng lúa nước, chăn nuôi, săn bắt, kinh tế khá phát triển. Họ sống tập trung

trong các xóm, làng. Mỗi đơn vị dân cư ấy được gọi là Làng, Chạ. Cổ Loa lúc

ấy là Chạ Chủ, thuộc bộ Việt Thường (một trong 15 Bộ của cả nước, từ thời

Văn Lang).

Đến thế kỷ thứ 3 TCN, với sự kiện An Dương Vương chọn nơi này để

định đô, xây tòa Thành Ốc, đất Chạ Chủ trở thành Kinh đô Âu Lạc, người ta

đã gọi đó là Kẻ Chủ, thành đó là Thành Chủ. Kinh đô Cổ Loa thời An Dương

Vương kéo dài trong 49 năm (từ năm 257 đến năm 208 TCN).

Năm 179 TCN, Triệu Đà thôn tính Âu Lạc, từ đó, đất nước trải qua

ngàn năm Bắc thuộc, thành Cổ Loa là trị sở của chính quyền đô hộ. Từ thời

Triệu qua thời Hán, Lục Triều rồi Tùy - Đường, đất Cổ Loa thuộc quận Giao

Chỉ, một trong 3 quận của đất Âu Lạc cũ (Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam).

Từ thời Tây Hán, dưới cấp quận đó có cấp huyện; từ đó về sau, đất Cổ Loa

lần lượt thuộc các huyện Vũ Bình, Bình Đạo, Tây Vu, Phong Khê.

10

Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, kinh đô phải dời đi nhiều nơi khác nhau

và sau khi Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch

Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, một lần nữa, kinh đô nước Việt

lại trở về Cổ Loa và duy trì được 29 năm (938 - 967).

Triều Lý sau khi định đô tại Thăng Long chia cả nước ra thành 24 lộ

- phủ. Cổ Loa lúc này trực thuộc phủ Thiên Đức, lộ Bắc Giang. Đến thế kỷ

XIV, Cổ Loa được một số sách nhắc đến với cái tên Khả Lũ (thành Khả

Lũ) và sau đó là Trang Kim Lũ. Tòa thành cổ ở đây, thời gian này được gọi

là Loa Thành.

Tới thời Lê, thế kỷ XV, chính thức xuất hiện tên gọi Cổ Loa là trang

Cổ Loa hay Trại Cổ Loa. Trong Ngọc phả đền An Dương Vương cũng chép:

“thành Cổ Loa là đất trại Phong Khê, sau đổi là trại Kim Lũ, thuộc huyện

Đông Ngàn, sau lại đổi là trại Cổ Loa”.

Như vậy, Cổ Loa là cái tên được hình thành qua quá trình lịch sử của

chính vùng đất này. Cổ Loa là tên địa danh cũng là tên tòa thành cổ có hình

dáng như hình con ốc hay như hình cái loa: Loa thành hay Cổ Loa.

Từ đầu thế kỷ XIX, Cổ Loa là một xóm lớn trong 8 xóm của tổng Cổ

Loa được chia thành 3 làng (làng Đông, làng Đoài và làng Chùa), thuộc

huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (đến năm 1831, đổi là tỉnh Bắc

Ninh). Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 Cổ Loa có 5 làng: làng Cổ Loa,

làng Thư Cưu, làng Cầu Cả, làng Sằn Giã, làng Mạch Tràng.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1965, thôn Cổ Loa lần lượt

thuộc xã mang các tên Thục Vương, Hồng Lạc, Độc Lập, Quyết Tâm, trong

đó có Khu vực Thành Cổ Loa thuộc 2 xã Quyết Tâm và Việt Hùng, huyện

Đông Anh, Hà Nội.

Đến tháng 10 năm 1965, xã Cổ Loa được thành lập và từ tháng 3 năm

1974 quy mô xã Cổ Loa ổn định với các thôn là: Cổ Loa, Cầu Cả, Mạch

Tràng, Sằn Giã và Thư Cưu. Cổ Loa lúc đó gồm các xóm trong thành. Hiện

11

nay, Thư Cưu sáp nhập cùng với xóm Thượng và xóm Bãi thành cụm dân cư

Thượng-Cưu-Bãi, còn các xóm khác lại được gọi là thôn. Mặc dù vậy, địa bàn

Cổ Loa không có gì thay đổi.

Cổ Loa hiện nay là một trong 24 xã, thị trấn thuộc huyện Đông Anh,

thành phố Hà Nội. Là địa danh một xã, nhưng Cổ Loa cũng là một địa danh

lịch sử nổi tiếng: Khu di tích Cổ Loa.

Sự hình thành các xóm làng ở Cổ Loa là một quá trình hàng trăm năm

và cùng với sự hiện diện của tòa “thành Chủ”, những trang sử của Âu Lạc lại

hiện về trên từng tấc đất quê hương như là một quá khứ hào hùng và bi tráng,

tạo cho Cổ Loa một diện mạo mới, sức sống mới. Người dân nơi đây không

quên công lao của cha ông đã đổ bao công sức, máu xương để dựng xây mảnh

đất này. Các công trình tín ngưỡng, tôn giáo, tưởng niệm ra đời và cùng phát

triển, phong phú, hoàn thiện theo đà đi lên của xã hội. Các triều đình thời

Trung đại ở nước ta, cũng ý thức sâu sắc được giá trị to lớn của lịch sử Cổ

Loa nên luôn có những chính sách đặc biệt đối với vùng đất này, tôn vinh An

Dương Vương, người đã có công dựng nước.

Khu di tích Cổ Loa có diện tích 860,4 ha, gồm 60 di tích trong đó: 07 di

tích đã được xếp hạng cấp quốc gia, 02 di tích được xếp hạng cấp thành phố,

thuộc nhiều loại hình di tích khác nhau như:

- Hệ thống di tích thành hào Cổ Loa;

- Các di tích tôn giáo, tín ngưỡng như: đền Thượng (đền thờ vua An

Dương Vương), đình Ngự Triều Di Quy, am Mỵ Châu, chùa Bảo Sơn, đình và

chùa Mạch Tràng, đình và chùa Cầu Cả, đình và chùa Sằn, 15 điếm, 4 miếu;

- Các di chỉ tiêu biểu ở khu vực Cổ Loa và vùng phụ cận như: xóm

Nhồi Dưới, Mả Tre, Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Tiên Hội, Đường

Mây, Cầu Vực, Xuân Kiều, Đình Tràng, lò đúc đồng đền Thượng;

- Các địa danh cổ, gò đống như: gò Dục Nội, gò Vua, gò Đống Dân, gò

Cưu, gò Con Voi, gò Cột Cờ, giếng Ngọc, đầm Cả, Ngự Xạ Đài...

12

Địa hình khu vực Cổ Loa nằm trên bậc thềm I và II của sông Hồng, với

dạng địa hình tương đối bằng phẳng kéo dài hàng trăm km.

Địa mạo Cổ Loa đặc trưng bởi những gò trạch nhô lên trên những dải

đầm, sông hồ còn sót lại. Địa hình lồi lõm không nhiều, đáy địa hình là các

đường nước tự nhiên của các lưu vực.

Thổ nhưỡng Cổ Loa có bề mặt đất chủ yếu do khối phù sa lớn bồi đắp

hàng ngàn năm, với độ dày khoảng 24 - 44cm. Phía dưới là lớp cuội dày từ

68-123cm. Qúa trình hình thành đất ở Cổ Loa gồm feralit, kết vón đá ong

letarit hóa, xói mòn rửa trôi, tích lũy mùn và bồi tích. Các quá trình này để lại

đặc điểm trên sự khác biệt giữa các nhóm, loại đất. Vùng đất Cổ Loa được

hình thành do quá trình bồi tích của hệ thống sông Hồng nhưng có tuổi khác

nhau. Diện tích phù sa hiện đại không nhiều, tuy nhiên do tác động của nhiều

yếu tố hình thành đất đã có sự phân hóa sâu sắc về tính chất vật lý và hóa học,

hình thành ra 2 nhóm đất chủ yếu là nhóm phù sa và nhóm đất xám bạc màu.

Về thủy văn: Các sông lớn có ảnh hưởng tới khu vực Cổ Loa bao gồm

sông Hồng, sông Đuống, sông Cà Lồ, sông Thiếp và Ngũ Huyện Khê. Khu

vực Cổ Loa là nơi có mạng lưới kênh, hào, ao hồ, sông ngòi khá dày đặc và

phong phú, bao gồm các kênh mương thủy lợi, dấu vết các hào nước, ao hồ,

sông Thiếp và sông Hoàng Giang bao phía Tây và Nam của xã. Từ kinh thành

Cổ Loa xưa có thể ngược sông Hoàng Giang, qua đầm Vân Trì để tới phần

cao của sông Hồng rồi ngược lên các vùng đồi núi Tây Bắc. Từ đó cũng dễ

dàng xuôi sông Hoàng Giang – sông Ngũ Huyện Khê tới sông Cầu và vùng

Đông Bắc của lãnh thổ.

Về khí hậu: Xã Cổ Loa nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ sông

Hồng, thuộc đới vĩ độ thấp, song khá gần chí tuyến bắc. Lượng mưa trung

bình ở Cổ Loa là 1.545,4mm. Độ ẩm tương đối trung bình năm là 83%. Cổ

Loa có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng, nhiều năm có bão, mùa đông

lạnh, có năm xuất hiện sương muối. Mùa hè, nằm trong phạm vi khống chế

13

của áp thấp lục địa châu Á, dải hội tụ nhiệt đới và áp cao á nhiệt đới Thái

Bình Dương. Mùa đông, sự xâm nhập của không khí cực đới ảnh hưởng mạnh

đến đặc điểm khí hậu toàn miền.

1.3. Tên gọi đình Ngự Triều Di Quy

Đình thường được gọi theo tên làng, tuy vậy tại Cổ Loa, đình có tên là

Ngự Triều Di Quy. Ngự Triều Di Quy (規 遺 朝 御) có nghĩa là: Dấu tích quy

hoạch nơi thiết triều còn sót lại. Bốn chữ 規 遺 朝 御 (Ngự Triều Di Quy),

được ghi trên khám thờ trong Hậu cung. Ngự Triều Di Quy hiện chưa rõ

được đặt cho tên đình làng ở Cổ Loa từ khi nào? Tuy nhiên, trong Bản chép

về sự tích, ruộng đất, sắc phong thành Cổ Loa, chép ngày 10 tháng 12 năm

Thành Thái thứ 4 (1904) phần Kỳ thành nội điền thổ các xứ kê hậu (dịch

nghĩa: Bản kê các xứ ruộng đất ở thành Nội) có chép: Ngự Triều sở [tức kim

đình sở], Hoa Quyển [tức Mỵ Châu từ], Bảo Sơn tự: nhất khu thổ, nhất mẫu

ngũ cao, tứ thốn. (Dịch nghĩa: Ngự Triều sở [tức đình hiện nay], Hoa Quyển

[tức đền Mỵ Châu], chùa Bảo Sơn: một khu đất một mẫu năm sào bốn tấc).

Như vậy, năm 1904 đình đã có tên Ngự Triều. Trong dân gian, tương truyền

đình được dựng trên nền nơi thiết triều của vua An Dương Vương. Tại Am

thờ Mỵ Châu công chúa có thơ đề của Quang lộc tư khanh lãnh Bắc Ninh niết

sứ Nhâm Thìn tiến sỹ Chu Mạnh Trinh (1862-1905): “Tịch mịch tiên triều

cung ngoại miếu – Đỗ quyên đề đoạn, nguyệt âm âm” (Dịch nghĩa: Tòa miếu

bên ngoài cung điện triều trước vắng vẻ - Chim đỗ quyên khắc khoải, trăng

mờ mờ) [Dẫn theo 98, tr.75]. Tên gọi này cũng là cách gọi để phân biệt với

các ngôi đình khác trong xã Cổ Loa hiện nay như Mạch Tràng, Sằn Giã, Thư

Cưu, Cầu Cả. Trên thực tế, vị trí của đình ở trung tâm thành Nội, nơi có mật

độ dày đặc về di tích: phía Nam là điếm xóm Chùa, giáp phía Tây là am Mỵ

Châu, giáp phía Bắc là chùa Cổ Loa (Bảo Sơn tự), cách 270m về phía Tây

Nam là đền Thượng (đền thờ An Dương Vương). Vì thế, tương truyền về nơi

14

thiết triều xưa giờ là nền đình một phần cũng là điều rất đáng lưu tâm. Tuy

vậy, đó cũng chỉ là những lí giải còn rất mơ hồ, chúng tôi không dám khẳng

định, cần có rất nhiều nghiên cứu trong thời gian tới trên các lĩnh vực: khảo

cổ học, dân tộc học, cổ sử... nhằm giải mã tên gọi thú vị và đặc biệt không

thấy có ở bất cứ một ngôi đình nào khác hiện biết.

1.4. Vị trí, cảnh quan đình Ngự Triều Di Quy

Đình làng là công trình kiến trúc có quy mô lớn nhất của cộng đồng

làng xã đáp ứng nhiều chức năng văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, hành chính...

cho nên vị trí dựng đình là điều quan tâm hàng đầu của các “kiến trúc sư”

Việt Nam ngày xưa. Người xưa cho rằng vị trí ngôi đình liên quan đến sinh

mệnh của cả làng. Vị trí đó, thường được lựa chọn theo thuật phong thủy

phương Đông, mà cơ sở của nó là triết lý âm – dương. L.Bezacier, nhà nghiên

cứu lịch sử nghệ thuật Việt Nam hàng đầu khoảng nửa đầu thế kỷ XX, đã viết

về tinh thần đó của vị trí đình làng như sau: “Những giác độ địa lý có tính

chất tôn giáo, ma thuật góp phần xây dựng cho nó (tức ngôi đình) được đặt

theo một hướng nhất định, trong một cảnh chí bao gồm những bãi cỏ, những

cây cối đẹp, những hồ ao, những lùm cây thiêng, những gò đống. Tất cả đều

quy tụ vào việc tạo dựng nên cái không khí thanh tịnh và thần bí” [117]. Kiến

trúc đình làng là công trình to lớn nhất ở làng, nhưng nó không vượt trội, phá

vỡ cảnh quan xung quanh. Từ việc chọn vị trí, hướng của đình làng, người ta

luôn chọn những giải pháp để tận dụng, khai thác những lợi thế của thiên

nhiên và ngược lại hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực từ

thiên nhiên, khí hậu tác động đến ngôi đình.

Theo đó, đình Ngự Triều Di Quy ngày nay nằm ở trung tâm thành Nội thuộc xóm Chùa. Di tích có tọa độ: N.210 06’ 845” và E.1050 52’409’’, độ cao

6,8m so với mực nước biển. Trong phạm vi làng Cổ Loa, xóm Chùa được coi

là anh cả. “Xóm Chùa có tên chữ là Hậu Miếu thôn, là một trong những xóm

cổ của làng Cổ Loa (địa bạ năm 1805 đã nhắc đến xóm này). Xóm Chùa nằm

15

trên địa hình cao ráo, tương truyền có thế đất hình con rùa, đầu rùa ở về phía

đông (khu nhà văn hóa Cổ Loa hiện nay), một bên chân rùa nay là khu Ủy

ban nhân dân xã Cổ Loa, đền Thượng, đình Ngự triều di quy, am Bà Chúa,

điếm xóm Chùa nằm trên lưng rùa” [69, tr.121]. Đình quay về hướng Nam,

cùng di tích am Bà Chúa liền kề phía Tây và chùa Bảo Sơn liền kề phía Bắc.

Hướng Nam là hướng gió mát mẻ vào mùa hè, giữ ấm vào mùa đông, dân

gian có câu “lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”. Quan niệm dân gian

truyền thống này cũng phù hợp với lý thuyết về phương hướng của các nền

triết học lớn phương Đông. Theo đạo Phật thì hướng Nam trong sáng, đồng

nhất với trí tuệ (hướng của Bát Nhã), mà đạo Phật lấy trí tuệ để diệt trừ sự ngu

tối, tức mầm mống tội ác, hướng Nam còn mang tính dương (màu đỏ) gắn với

hạnh phúc, với điều thiện...Khi có sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa theo

quan niệm “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” (Thánh nhân nhìn về

hướng Nam để nghe lời tâu bày của thiên hạ), đó là hướng của đế vương, sau

đó là hướng của thần linh khi các ngài trở thành ông vua tinh thần của quần

chúng. Đình cũng được bao quanh bởi: phía Đông giáp thổ cư xóm Chợ, phía

Tây giáp thổ cư xóm Chùa, phía Nam giáp thổ cư xóm Mít, phía Bắc giáp thổ

cư xóm Nhồi Dưới. Đình Ngự Triều Di Quy được truyền tụng xây dựng trên

nền cung thiết triều thời xưa của đức vua An Dương Vương.

1.5. Nhân vật được thờ tại đình Ngự Triều Di Quy

Nhân vật trung tâm được thờ trong đình làng là Thành hoàng làng.

Khái niệm Thành hoàng đã được các nhà nghiên cứu bàn đến rất nhiều và đi

đến thống nhất không phải ngay từ đầu đình làng đã được dựng lên để thờ

Thành hoàng. Theo các chuyên gia nghiên cứu đình làng thì chức năng ban

đầu của đình là ngôi nhà chung phục vụ sinh hoạt của một cộng đồng, bên

cạnh đó làm nơi cúng lễ để “năm tháng cầu khấn cho dân vinh, vật thịnh”,

hay “đình giả dân an định dã” (đình là nơi mà nhờ đó dân được yên định)

[89, tr. 62-68]. Có tế lễ cầu khấn, sẽ có tổ chức hội hè, phân bổ công việc và

16

thành phần dự họp dĩ nhiên là các quan viên hương lão, chức sắc trong thôn.

Từ nơi hội họp đó, đình làng đảm nhiệm chức năng quyền lực của làng (xử

kiện, phạt vạ, đốc thúc sưu thuế) và khi chính quyền trung ương tập quyền với

tay xuống làng xã, việc thờ phụng trong dân gian dần đi vào quỹ đạo của nhà

nước [89, tr. 62-68]. Như vậy, buổi đầu đình làng chỉ là nơi diễn ra các hoạt

động tế lễ, cầu phúc của dân làng và gắn liền với nó là chức năng hành chính,

quyền lực của làng xã. Qua thời gian, đình làng mới đảm nhận thêm chức

năng tôn giáo, tín ngưỡng [99, tr. 62-68 ]. Thành hoàng vốn là vị thần có

nguồn gốc Trung Quốc. “Thành hoàng là một từ gốc Hán về nghĩa đen thì có

gốc ở Kinh dịch, vì quẻ Thái có nói thành phục vụ hoàng – tức thành đổ thì

trở thành hào rãnh. Từ cụm từ đó rút gọn thành cụm từ Thành hoàng và có

một nghĩa phái sinh là “thần bảo hộ một thành luỹ”, ban đầu chỉ mới có

Thành hoàng bảo hộ lũy thành ở kinh đô, thành lũy của các châu quận…Còn

bên ngoài các tòa thành tức ở các làng mạc không có thờ Thành hoàng… ”

[30]. “Ở Việt Nam cũng có một loại thành hoàng giống như thành hoàng

Trung Quốc, đó là thần của các thành trì” [82, tr.50]. Bên cạnh đó, thành

hoàng ở Việt Nam còn bao gồm hệ thống thần làng biểu hiện cho một “hệ

thống tín ngưỡng đa nguyên” [82, tr.55]. “Đối với dân làng, thần Thành

hoàng là biểu hiện của lịch sử phong tục, đạo đức, pháp lệ cùng hy vọng

chung của cả làng, lại là một thứ quyền uy siêu việt, một mối liên lạc vô hình,

khiến cho hương hồn thành một đoàn thể có tổ chức và có hệ thống chặt chẽ”

[1, tr.147]. “Thành hoàng tiêu biểu và rõ rệt cho tổng số các kỷ niệm chung,

các nguyện vọng chung. Thành hoàng là hiện thân của quy tắc, tục lệ, đạo đức

và đồng thời sự thưởng phạt. Chính thành hoàng là trừng trị hay ban thưởng

tùy theo người ta vi phạm hay chấp hành các kỷ luật của thần. Rút cục, thành

hoàng là hiện thân của uy quyền cao siêu có nguồn gốc, có sức mạnh của

chính xã hội. Hơn nữa, thành hoàng là sợi dây liên kết tất cả mọi người trong

cộng đồng” [120]. Như thế, chức năng của đình là khá phức tạp và diễn biến

17

khác nhau theo thời gian. Thần Thành hoàng cũng có nguồn gốc vô cùng

phong phú. Có khi là các vị vua khai sáng, các anh hùng có công với nước,

các nhân vật có công khai phá khởi dựng xóm làng. Đình Ngự Triều Di Quy

có vị trí trung tâm thành Nội của thành Cổ Loa, do đó đã thờ An Dương

Vương (vị vua đầu tiên và duy nhất khởi dựng nước Âu Lạc) làm Thành

Hoàng làng và phối thờ Cao Lỗ - một vị tướng nổi tiếng trong triều đình Âu

Lạc, mà tên tuổi của ông gắn liền với câu chuyện “Nỏ Thần” huyền thoại.

1.5.1. An Dương Vương

Vào cuối thời Hùng, đầu thế kỷ III trước Công nguyên, nhà Tần, một

đế chế rộng lớn và hùng mạnh mới được thống nhất ở phía Bắc, đã tiến hành

một cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô lớn, số quân đông tới 50 vạn, do

Đồ Thư thống lĩnh tiến xuống phía Nam để “bình Bách Việt”. Trong 3 năm

đầu, quân Tần đã đánh chiếm được đất đai của nước Sở, lập 3 quận Quế Lâm,

Nam Hải và Quận Tượng. Nhưng khi tiếp tục tiến xuống phía Nam, là đất của

người Tây Âu (Âu Việt) và Lạc Việt thì cuộc tiến quân bị chững lại trước sự

kháng cự của người Việt.

Thục Phán vốn là một thủ lĩnh của người Tây Âu trên địa bàn phía Bắc

Văn Lang bấy giờ, đã cùng nhiều tù trưởng của Tây Âu và Lạc Việt tổ chức

chống quân Tần. Cuộc kháng chiến kéo dài khoảng 5, 6 năm (khoảng từ 214

TCN đến 208 TCN), cuối cùng đã giành được thắng lợi vẻ vang giết được Đồ

Thư và đại phá quân Tần. Năm 208 TCN, nhà Tần phải bãi binh, lui về giữ

vùng đất 3 quận đã chiếm được ở phía Bắc.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Tần, Thục Phán nổi bật lên là một

thủ lĩnh tài giỏi, có uy tín lớn đối với cả Tây Âu là Lạc Việt. Trên thực tế,

cộng đồng cư dân Lạc Việt và Tây Âu đó hình thành và càng trở nên vững

chắc qua cuộc chung vai sát cánh chống kẻ thù xâm lược. Điều đó tạo cơ sở

cho sự ra đời của một liên minh mới giữa các bộ lạc Việt - một Nhà nước phôi

thai, trong đó người thủ lĩnh có đầy đủ tài năng và uy tín là Thục Phán.

18

Khoảng năm 208 trước Công nguyên, Thục Phán tiếp nối sự nghiệp

của vua Hùng, xưng là An Dương Vương, thành lập nước Âu Lạc. Đây là

một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của

lịch sử dân tộc.

Nước Âu Lạc ra đời là sự hợp nhất của hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt.

Nó thể hiện bước phát triển mới của quốc gia cổ đại của các tộc người Việt, là

sự kế tục ở bước cao hơn nước Văn Lang và cũng là một yêu cầu tất yếu của

lịch sử.

Trong bối cảnh lịch sử lúc ấy, với một tầm nhìn chiến lược và ý chí

quyết tâm dựng nước và giữ nước mạnh mẽ, An Dương Vương đã quyết định

dời vị trí trung tâm của đất nước từ vùng đất cũ của Hùng Vương (thuộc vùng

núi và trung du Phú Thọ) xuống vùng đồng bằng rộng lớn và thuận lợi hơn,

định đô.

Năm 206 TCN, nhà Tần bị diệt. Triệu Đà, một viên quan cai trị quận

Nam Hải (một trong 3 quận được nhà Tần thành lập sau cuộc chinh phạt

xuống phía Nam) lập tức đánh chiếm cả 2 quận Quế Lâm và Quận Tượng,

thành lập nước Nam Việt, tự xưng là Nam Việt Vũ Vương, đóng đô ở Phiên

Ngung (trị sở quận Nam Hải). Để mở rộng thế lực, Triệu Đà đã nhắm đến Âu

Lạc, một quốc gia mới thành lập nhưng giàu tiềm năng phát triển kinh tế, ở

phía Nam.

Trong bối cảnh đó, khi Âu Lạc mới được thành lập, An Dương Vương

đã khẩn trương lo việc xây thành, đắp lũy nhằm bảo vệ kinh đô, chống nguy

cơ xâm lược của Triệu Đà. Với một nỗ lực phi thường, An Dương Vương và

quân dân Âu Lạc đã xây dựng thành công một tòa thành đồ sộ và độc đáo. Đó

là tòa thành từng được gọi là thành Ốc, Tư Long thành, Côn Lôn thành, Loa

thành hay thành Cổ Loa ngày nay. An Dương Vương và những “nhà thiết kế”

hồi đó biết tận dụng triệt để những yếu tố tự nhiên về địa hình địa vật, khắc

phục được những yếu điểm cho việc xây thành trên vùng đồng bằng sông

19

nước, để tạo ra một tòa thành cao hào sâu, có đủ các yếu tố thuận lợi cho

phòng thủ và tấn công, có đường thủy bộ liên hoàn, trong ngoài kết hợp, ta thì

tiến thoái đều nhanh, địch thì khó bề xâm phạm.

Nhờ có sự đoàn kết quân dân cùng tòa thành độc đáo như thế, lại có thứ

vũ khí bắn tên đồng lợi hại, An Dương Vương đã nhiều lần đánh lui quân

Triệu Đà xâm lược. Tuy nhiên, trước những mưu kế hiểm sâu của quân Triệu,

cuối cùng An Dương Vương và Âu Lạc vẫn thất bại. Kể từ đây, Âu Lạc bước

vào thời kỳ mới: thời kỳ Bắc Thuộc và chống Bắc thuộc dài lâu để hàng nghìn

năm sau dân tộc ta mới giành lại độc lập.

1.5.2. Cao Lỗ

Tương truyền, người chế ra “Nỏ thần” chống giặc ngoại xâm là Cao

Lỗ, một vị tướng trong triều Âu Lạc, người đã “tận trung” với vua, “tận hiếu”

với nước đến giọt máu cuối cùng trong chiến trận chống kẻ thù xâm lược.

Ông làm quan Thái sư trong triều đình Âu Lạc và được phong “Cao cảnh hầu

– Thái sư Phụ quốc”

Các thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam, khi chép quá trình chiến đấu

của vua An Dương Vương chống lại cuộc xâm lược Triệu Đà đều nhắc đến

tên vị tướng đã chế tạo ra nỏ thần là Cao Lỗ hay Cao Thông.

Sách Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên dẫn Giao Châu ngoại vực ký

chép: “An Dương Vương có thần nhân tên là Cao Thông xuống giúp, làm cho

An Dương Vương một cái nỏ thần, bắn một phát giết chết 300 người”

[116,tr.45-46].

Sách Thái Bình hoàn vũ ký do Nhạc Sử người đời Tống viết: An Dương

Vương cai trị Giao Châu, Úy Đà (Triệu Đà) đem quân sang đánh. An Dương

Vương có thần nhân là Cao Thông giúp đỡ, chế ra cái nỏ, bắn một phát giết

chết quân Việt (chỉ quân Triệu Đà) hàng vạn người, bắn ra ba phát giết đến ba

vạn [67,tr.87].

20

Sách [Đại] Việt sử lược, khuyết danh đời Trần cho biết: Lúc bấy giờ

An Dương Vương thần nhân là Cao Lỗ chế tạo được cái nỏ liễu bắn một phát

ra mười mũi tên, dạy quân lính muôn người. [114,tr.4].

Sách An Nam chí lược viết về thành Cổ Loa được mệnh danh là Việt

Vương thành (chỉ thành của vua An Dương Vương) trong phần Cổ tích chép

như sau: ...tục gọi là thành Khả Lũ,… Giao Châu ngoại vực ký chép: “Hồi xưa,

chưa có quận huyện thì Lạc điền tùy theo thủy triều lên xuống mà cày cấy.

Người cày ruộng ấy là Lạc dân, người cai quản dân gọi là Lạc vương, người

phó là Lạc tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu. Vua nước

Thục thường sai con đem ba vạn binh, đi chinh phục các Lạc tướng, nhân đó cử

giữ đất Lạc mà tự xưng là An Dương Vương. Triệu Đà cử binh sang đánh. Lúc

ấy có một vị thần tên là Cao Thông xuống giúp An Dương Vương, làm cái nỏ

thần, bắn một phát giết được muôn người” [85,tr.64-65].

Lý Tế Xuyên một tác giả thời Trần đã biên soạn cuốn Việt điện u linh tập

hợp những truyện đã xuất hiện trước đời Trần và bổ sung thêm các truyền

thuyết dân gian và thần tích tại các địa phương. Truyện Quả nghị Cương chính

vương Uy huệ vương, nội dung đề cập đến Cao Lỗ như sau: “Xét Đỗ Thiện sử

dẫn Giao Chỉ ký: Vương tên là Cao Lỗ, một tướng giỏi của An Dương Vương,

tục gọi là Đô Lỗ hoặc gọi là Thạch Thần… Năm Trùng Hưng 1 (1285), sắc

phong Nghị vương, năm Trùng Hưng 4 (1288), gia phong hai chữ Cương

chính; năm Hưng Long 21 (1313), gia phong hai chữ Uy huệ” [116, tr.45-46].

Trong dân gian, Cao Lỗ còn có tên gọi là Đô Lỗ (hay Đô Nỏ), còn

trong sử cũ ghi là Cao Lỗ, hay Cao Thông. Truyền thuyết khu vực thôn Lớ

(nay là thôn Đại Than, xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) thì Cao

Lỗ là con trai Cao Thông, người Lỗ Trang, trấn Vũ Ninh, Liên Lâu nay là

Tiểu Than, Vạn Linh. Ông bà sinh con muộn nhưng bù lại được cậu con trai

và đặt tên con là Cao Lỗ. Lớn lên, Cao Lỗ có sức khỏe phi thường và là một

21

đô vật nổi tiếng khắp vùng nên được gọi là Đô Lỗ. Do sức khỏe hơn người

nên cả hai cha con được vua An Dương Vương mời ra giúp nước.

Theo truyền thuyết, khi quân của Thục Phán vây kín thành Văn Lang

của vua Hùng, Cao Lỗ đã mở cửa sau của thành cho quân tướng của An

Dương Vương tràn vào, buộc vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Hôm

ấy là ngày mồng 6 tháng giêng – ngày hội truyền thống của Cổ Loa từ đó

về sau.

Ngày mồng 9, Thục Phán lên ngôi, Cao Lỗ và em con ông chú là Cao

Tư được An Dương Vương tin cậy. Cao Lỗ là người khuyên An Dương

Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô. Ông là người phát minh ra

loại nỏ bắn một lần nhiều phát, đầu mũi tên bằng đồng. Nỏ mới, bắn xa, bắn

nhiều và mang tính sát thương lớn đã trở thành vũ khí lợi hại của người dân

Âu Lạc. Sau này dân gian gọi là “Ông Nỏ”.

Ông được trao quyền phụ trách huấn luyện đội quân cung nỏ của triều

đình. Hàng vạn quân sĩ Âu Lạc, dưới quyền chỉ huy của ông ngày đêm luyện

tập, làm vũ khí mới lợi hại này. An Dương Vương quyết định phong cho Cao

Lỗ làm tướng quân giữ trọng trách trấn giữ cửa Bắc – cửa xung yếu nhất của

Kinh thành Cổ Loa. Đội quân cung nỏ thiện chiến của tướng quân Cao Lỗ đã

làm khiếp đảm những cánh quân của Triệu Đà khi tiến quân vào Cổ Loa. Sách

Lĩnh Nam chích quái chép: “Vua lấy nỏ thần ra bắn, quân Đà thua lớn chạy về

Trâu Sơn cầm cự không dám đối chiến”.

Khi Triệu Đà dùng mưu cầu hôn, xin cho con trai (Trọng Thủy) sang ở

rể, nhiều người, trong đó có Cao Lỗ đã thấy được âm mưu của Triệu Đà và

khuyên can An Dương Vương. Tuy nhiên, An Dương Vương đã không nghe

những lời nói đó. Trước thái độ đó, Cao Lỗ đành phải rời bỏ triều đình. Trước

khi đi, Cao Lỗ nói với vua: Giữ được nỏ thần thì làm vua cả thiên hạ, không

giữ được nỏ ấy thì mất thiên hạ.

22

Hay tin quân Triệu Đà tấn công kinh thành, Cao Lỗ đã trở về Cổ Loa

để bảo vệ vua và bảo vệ thành. Tuy nhiên, với sức đã yếu, trong lúc xông pha

trận mạc để mở đường cho An Dương Vương, Cao Lỗ đã hy sinh trên chính

mảnh đất Cổ Loa.

Như vậy, đình Ngự Triều Di Quy thờ hai nhân vật hàng đầu của nhà

nước Âu Lạc, những người có công xây dựng nước Âu Lạc đánh dấu một

bước phát triển quan trọng của đất nước trong thời kỳ dựng nước đầu tiên.

Mặt khác, việc phối thờ Cao Lỗ bên cạnh An Dương Vương cũng cho thấy

việc nhớ công đức của những người có công đánh giặc và đề cao truyền thống

chống ngoại xâm của tổ tiên ta từ nghìn xưa. Việc thờ phụng này cũng phản

ánh truyền thống “uống nước nhớ nguồn” ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam

nói chung, người Cổ Loa nói riêng. Đặc biệt, khi truyền thuyết cho biết, đình

xây dựng trên khu vực trung tâm thiết triều của Cổ Loa xưa càng làm tăng

thêm giá trị lịch sử - văn hóa to lớn của đình Ngự Triều Di Quy.

1.6. Tiểu kết chương 1

Đình làng đã có từ lâu nhưng phải đến những năm đầu thế kỷ XX mới

được các học giả trong và ngoài nước chú ý. Trong thời gian qua, nhiều học

giả đã dày công tìm hiểu, nghiên cứu về đình làng - kiến trúc truyền thống

Việt với nhiều con đường tiếp cận khác nhau. Những nghiên cứu đó, từng

bước bổ sung những góc nhìn về di sản kiến trúc Việt, đóng góp quan trọng

vào công cuộc tìm kiếm ngược dòng thời gian để đến với nguồn cội, để nhận

diện đầy đủ hơn về văn hóa bản sắc dân tộc. Từ đó, giúp chúng ta làm tốt hơn

sứ mệnh gìn giữ và lưu truyền di sản văn hóa dân tộc cho các thế hệ mai sau.

Nghiên cứu đình Ngự Triều Di Quy cũng không nằm ngoài mong muốn đó.

Làng Cổ Loa ở đồng bằng Bắc bộ đã được vận động, hình thành và

phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Từ đó, đã sản sinh ra nền văn hóa

truyền thống vô cùng phong phú và đặc sắc. Đình Ngự Triều Di Quy đã trở

thành biểu tượng vật chất của lối sống cộng đồng, tự trị và dân chủ làng xã.

23

Nó bao gồm những chức năng tổng hợp, đan xen vào nhau, như chức năng tín

ngưỡng, hành chính và văn hóa, phản ánh rất đậm nét đời sống tinh thần và

vật chất của người nông dân Cổ Loa trong quá khứ.

Không phải ngay từ đầu đình làng đã được dựng lên để thờ Thành

hoàng, buổi đầu đình làng gắn liền với chức năng hành chính, quyền lực của

làng xã. Qua thời gian, đình làng mới đảm nhận thêm chức năng tôn giáo, tín

ngưỡng. Đình Ngự Triều Di Quy thờ đức vua An Dương Vương làm Thành

hoàng làng và phối thờ tướng quân Cao Lỗ. Đây là nét văn hóa độc đáo làm

tăng thêm rất nhiều giá trị lịch sử độc đáo, đáng chú ý của đình Ngự Triều

Di Quy.

24