BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN TRUNG PHONG
ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOAT ĐỘNG CỦA VIÊN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK NÔNG, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH
TƯ PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐĂK NÔNG - NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN TRUNG PHONG
ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOAT ĐỘNG CỦA VIÊN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK NÔNG, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH
TƯ PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02.
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu
ĐĂK NÔNG - NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM VIẾT TẮT
Các từ, cụm từ viết tắt Các từ, cụm từ nguyên nghĩa
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CQĐT Cơ quan điều tra
ĐTV Điều tra viên
KSV Kiểm sát viên
KTV Kiểm tra viên
KTVA Khởi tố vụ án
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN .............................................................................. 17
1.1. Khái quát về cải cách tư pháp .................................................................. 17
1.2. Khái niệm và đặc điểm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân .................. 23
1.3. Khái quát về đổi mới tổ chức và hoạt động viện kiểm sát nhân dân đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp .......................................................................... 35
Kết luận chương 1 ........................................................................................... 48
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG. ........................................... 49
2.1. Cơ sở pháp lý về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh .............. 49
2.2.Nội dung đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp ............................................................................. 65
2.3.Thực trạng thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Nông theo tiến trình cải cách tư pháp .............................. 79
2.4.Những hạn chế của việc đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Nông nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp ................. 96
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 104
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ
HÌNH ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH
TƯ PHÁP ..................................................................................................... 105
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh .................................................................................... 105
3.2. Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp ................................................... 109
3.3.Giải pháp nâng cao hiệu quả đổi mới tổ chức và hoạt của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp trong thời gian
tới ................................................................................................................. 118
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 122
KẾT LUẬN .................................................................................................. 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, trước yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân là một nội dung quan trọng
được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt
Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự
Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; đồng thời, bổ sung nội dung: “Nghiên cứu, ban
hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến
lược cải cách tư pháp”. Theo đó, tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất
lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND), Cơ quan điều tra, cơ quan Thi hành án và các cơ
quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; pḥng ngừa và đấu tranh
có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật; giải quyết kịp
thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định. Cải cách
Viện kiểm sát là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy
nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng nhằm mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu:
“Xây dựng một nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng,
nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” theo Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, theo đó Đảng và Nhà
nước ta chủ trương xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, nhằm phát huy
8
mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời tăng cường
pháp chế XHCN, đảm bảo kỷ cương xã hội… trong đó, định hướng tiếp tục
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành
động mà một số công tác trọng tâm trong khâu đột phá đó là cải cách nền tư
pháp trong giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới như: Nghị quyết số 49-
NQ/TW Ngày 2/6/2005 Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm
2020 trong đó xác định: “ Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với
tổ chức và hoạt động của Tòa án”, Kết luận số 79- KL/TW ngày 28/7/2010
của Bộ chính trị đã khẳng định: “ Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay”. Kết luận số
83-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ chính trị về Tổng kết việc thực hiện NQ
48-NQ/TW của Bộ chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt nam đến năm 2010 định hướng đến 2020; Kết luận số
84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ chính trị về Tổng kết 15 năm thực hiện
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội
khóa XV…
Trong những năm gần đây, tổ chức của VKSND nói chung cũng như
của VKSND hai cấp tỉnh Đắk Nông nói riêng đã có nhiều bước đổi mới cả về
số lượng và chất lượng, trong đó đội ngũ công chức, KSV là nhân tố quyết
định trong việc thực hiện một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả của Nhà
nước, đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đang trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, việc nâng cao
hiệu quả tổ chức của VKSND là vấn đề cần thiết để việc quản lý và xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức có hiệu quả, đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ
mới, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế trong xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà
9
nước nói riêng ở Việt Nam hiện nay. Vấn đề cải cách tư pháp đã được quán
triệt và trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân,
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức cũng như hành động,
đồng thời phù hợp với quá trình đổi mới công tác lập pháp và cải cách hành
chính.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong những năm qua thì hoạt động
Viện kiểm sát nhân dân Đắk Nông cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế và
bất cập như: chất lượng và hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm chưa cao, tin báo tố giác tội phạm còn để tồn đọng, kéo dài, một số vụ
án dân sự, hành chính chậm được giải quyết, chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa chưa được nâng cao… đòi hỏi phải nhanh chóng cải cách mạnh mẽ, toàn
diện về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra
trong tình hình mới. Với lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài “Đổi mới tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng yêu cầu
của cải cách tư pháp” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu khoa
học, các bài viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân như sau:
Nhóm thứ nhất: Những công trình là các đề tài khoa học cấp Nhà nước,
cấp bộ, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về
hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân như:
Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” do Bộ Tư
Pháp (2022) biên soạn. Đề án nghiên cứu nhà nước pháp quyền trong mối
quan hệ với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa… Trong tiến trình nghiên cứu, mỗi chuyên đề chỉ rõ những điểm mới,
10
điểm đột phá về cải cách tư pháp. Một số ý kiến đề nghị tập trung nghiên cứu,
tổng kết đánh giá thực trạng, kết quả của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay; coi đây là thực tiễn quan trọng để xây dựng các
giải pháp hoàn thiện mô h́ nh Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong tương lai. Thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng nhằm phụng sự nhân dân tốt hơn, đóng góp nhiều hơn vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Vì vậy, việc xây dựng đề án
cần có phương pháp tiếp cận khoa học, tầm nhìn dài hạn đến năm 2045 và đặt
trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển của Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Hải Phong về: “Một số vấn đề về
tăng cường trách nhiệm trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” cho rằng nội dung hoạt động kiểm sát
chỉ là hoạt động của cơ quan VKS trong việc truy cứu TNHS người phạm tội
và buộc tội họ trước Tòa án và xác định về giới hạn phạm vi viện kiểm sát
được bắt đầu từ khi vụ việc phạm tội xảy ra cho đến khi kết thúc việc buộc tội
.Nhóm thứ 2, một số bài báo khoa học, tạp chí:
Bài viết “Bàn về vai trò, trách nhiệm của đơn vị và cán bộ quản lý
nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát các cấp” của tác giả Lại Hợp Việt đăng trên
Tạp chí kiểm sát số 14/2016; Bài viết có một số trọng điểm sau: Căn cứ Luật
tổ chức Viện KSND, Pháp lệnh Kiểm sát viên (KSV) Viện KSND và các văn
bản quy phạm pháp luật khác về tư pháp; thì những quyền năng pháp lý mà
Viện Kiểm sát (VKS) trực tiếp thực hiện để quyết định và liên quan đến việc
cáo buộc người phạm tội thì đó là quyền năng thuộc nội dung chức năng thực
hành quyền công tố; những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát sử dụng để
phát hiện và yêu cầu xử lý các vi phạm pháp luật của các cơ quan và người
tiến hành tố tụng, là những quyền năng thuộc nội dung chức năng kiểm sát
11
các hoạt động tư pháp. Từ đó có thể hiểu là: “Thực hành quyền công tố là việc
Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung chức
năng thực hành quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử hình sự". Kiểm sát các
hoạt động tư pháp là chức năng Hiến định của Viện KSND, có nội dung giám
sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao thực
hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, xét xử, thi hành án
nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất .
Chức năng thực hành quyền công tố được thực hiện trong tất cả các giai đoạn
của tố tụng hình sự, từ khi khởi tố, điều tra, truy tố và tại các phiên tòa xét xử
sơ thẩm án hình sự. VKS thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi
phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, không để người nào bị
bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật.Chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được Viện KSND thực hiện trong xét xử
án hình sự, dân sự, hành chính; giam giữ, cải tạo; thi hành án; giải quyết khiếu
nại tố cáo. Khi phát hiện các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người
tiến hành tố tụng có vi phạm pháp luật thì VKS kháng nghị hoặc kiến nghị
yêu cầu chấm dứt vi phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm phạm.
Thực tiễn chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được ngành KSND thực
hiện có hiệu quả, góp phần quan trọng trong xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý.
Bài viết "Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay",
của tập thể các tác giả do GS.TS. Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội,
2020... bài viết: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền", của TSKH Lê Cảm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
12
4, 2021; Qua quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn sau 20 năm đổi mới, một
trong những nội dung đặc trưng của NNPQ XHCN đã được Đảng và Nhà
nước ta thừa nhận là yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Trên cơ sở
đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược Cải cách tư pháp (CCTP) đến năm 2020 đã một phần hiện thực
hoá nội dung đặc trưng nói trên với yêu cầu hệ thống tư pháp phải được hoàn
thiện để hướng tới mục tiêu bảo vệ công lý, lẽ phải, lẽ công bằng. Các cơ
quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của người nhân dân trong việc bảo vệ
công lý, quyền con người: “Xây dựng nền tư pháp vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý…”. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng ta (năm 2011) cũng đã tiếp tục khẳng định yêu cầu bảo vệ công
lý trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Tiếp tục
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
(sửa đổi năm 2013) cũng đã hiến định những giá trị căn bản và phổ quát của
công lý: “Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân”. Như vậy, trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN, công
lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản, xuyên
suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta và
là một giá trị tiến bộ xã hội nhân văn, bền vững được toàn xã hội thừa nhận và
hướng tới
13
Các công trình khoa học nêu trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý
luận và thực tiễn về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư
pháp nước ta, phúc đáp những yêu cầu bức xúc của cuộc sống. Tuy nhiên, vì
các lý do khác nhau nên những công trình nghiên cứu trên chưa giải quyết
một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng
trong điều kiện cải cách tư pháp. Vấn đề tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2
cấp trong đó có việc xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực mới được đặt
ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị và Kết
luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Vì vậy, mặc dù đã có khá nhiều bài viết về vấn đề này nhưng chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống chính thức
được công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp..
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cụ thể tại tỉnh Đắk Nông và Chỉ ra những
như khó khăn, thách thức đối với ngành kiểm sát trong việc xây dựng mô hình
tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp;
- Đưa ra phương hướng và giải pháp xây dựng tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và giải pháp nâng cao vận dụng thực tiển
tỉnh Đắk Nông nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
14
nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp
.- Nghiên cứu thực trạng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp
-Rút ra khó khăn, thách thức trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó
đưa ra một số phương hướng, giải pháp để tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nên đối tượng
nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Đắk Nông nói riêng và Việt Nam nói chung.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một đề tài luận văn thạc sĩ, tác giả xác định phạm
vi của đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề pháp lý liên quan
đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông bởi lẽ đây là cấp trực tiếp giải
quyết số lượng chủ yếu các vụ việc theo thủ tục tư pháp và cũng là vấn đề
phức tạp, có tác động rất lớn đến hiệu quả của cải cách tư pháp trong thời gian
tới. Trong đó, luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề chủ yếu của cải cách tư
pháp và yêu cầu đặt ra đối với ngành kiểm sát; tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành; cơ sở thiết lập Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Nông; những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong
việc xây dựng mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Nông, trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm
xây dựng có hiệu quả mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động viện kiểm sát.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
15
5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, về đổi mới
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp; những thành
tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, về đổi mới
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp; những thành
tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp được sử dụng là các phương pháp
nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể; đồng
thời cũng sử dụng kết hợp các phương pháp luật học so sánh, phương pháp lý
thuyết hệ thống, phương pháp thống kê....
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn
6.1. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ
khoa học về bối cảnh, quan điểm, nội dung cải cách tư pháp ở nước ta hiện
nay. Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, luận văn đã đánh
giá đúng thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
những năm qua và yêu cầu cải cách Viện kiểm sát nhân dân; xác định cơ sở
thiết lập và tính ưu việt của mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Nông; làm rõ những thuận lợi và khó khăn, thách thức
16
đối với ngành kiểm sát trong việc xây dựng mô hình đổi mới tổ chức và hoạt
động này. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra một số phương hướng và giải
pháp khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn để xây dựng mô hình đổi mới
tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay. Đồng thời, hi vọng rằng luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm thực tiễn và công tác
nghiên cứu, giảng dạy.
6.2. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng
như thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa
học, những người làm thực tiễn; đồng thời có thể được sử dụng cho việc
nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đổi mới tổ chức viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Nông.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng mô hình đổi mới tổ
chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp.
17
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN
1.1. Khái quát về cải cách tư pháp
1.1.1. Bối cảnh và nhu cầu của cải cách tư pháp
1.1.1.1. Bối cảnh
Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là quá trình đổi mới toàn
diện hệ thống tư pháp với trung tâm là hoạt động xét xử nhằm mục tiêu làm
cho tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp ngày càng thể hiện đầy đủ,
đúng đắn bản chất dân chủ, của dân, do dân, vì dân của quyền tư pháp, phù
hợp với các nguyên tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng ngày một
tốt hơn, hiệu quả hơn yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân và nhà nước Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế [24, tr. 182].
Trong hơn 60 năm qua, hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta đã
hình thành và từng bước kiện toàn, phát triển trên nền tảng của những nguyên
tắc dân chủ, tiến bộ, hiện đại, ngày càng phù hợp và đáp ứng tốt hơn các yêu
cầu của thực tiễn cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, góp phần quan
trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam. Bước vào thiên niên kỷ mới, công cuộc đổi mới toàn diện và
sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt đến bước phát
triển mới, tạo nên những tiền đề và cũng là thách thức lớn về kinh tế, chính
trị, xã hội đòi hỏi phải có những điều chỉnh lớn mang tính cải cách đối với
thiết kế tổng thể của hệ thống tư pháp, từ chức năng, nhiệm vụ đến tổ chức,
con người và hoạt động của từng cơ quan tư pháp cũng như các mối quan hệ
18
giữa chúng.
Trên phương diện quốc tế, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy
thoái toàn cầu vẫn còn tiếp tục tác động đến thế giới nói chung và nền kinh tế
nước ta nói riêng, vẫn tiềm ẩn nguy cơ tái khủng hoảng. Quá trình tái cấu trúc
các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh
mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết
kiệm năng lượng, tài nguyên. Chủ trương bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản
lớn cho thương mại quốc tế. Thực tế này đã đặt ra những thách thức gay gắt
đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong việc chủ
động sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế và các nỗ lực tập thể để nêu cao
chủ quyền dân tộc, phát huy vai trò và bảo vệ lợi ích của mình. Trong giai
đoạn tới, các nước ASEAN sẽ hình thành cộng đồng kinh tế chung. Quá trình
này sẽ dẫn đến việc hình thành các nguyên tắc và chuẩn mực chung, trong đó
có các nguyên tắc, quy định pháp luật thể hiện lợi ích của cả cộng đồng.
1.1.1.2. Nhu cầu cải cách tư pháp
Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu và rộng vào đời sống kinh tế,
chính trị quốc tế. Điều này không chỉ thể hiện ở sự tham gia trực tiếp của Việt
Nam vào các tổ chức quốc tế và các diễn đàn quốc tế và tỉnh Đắk Nông có
tính truyền thống như Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên của Liên hợp
quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á
- Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á mà còn thể
hiện sự mở rộng đối với các tổ chức và diễn đàn này thông qua các diễn đàn
APEC+, ASEAN+... Quá tŕnh này làm cho hệ thống pháp luật và các thiết
chế lập pháp, hành pháp, tư pháp của Việt Nam có những sửa đổi và điều
chỉnh tích cực như từng bước chuyển hóa các nguyên tắc pháp lư thương mại
quốc tế cơ bản như không phân biệt đối xử, công khai, minh bạch trong hoạt
động ban hành pháp luật, áp dụng pháp luật, trong quy trình ra các quyết định
19
hành chính, tư pháp... Tuy nhiên, những tiền đề đó chưa đủ để vượt qua
được những thách thức lớn đối với hệ thống pháp luật và tư pháp nước ta
trong những năm tiếp theo. Như một số nhà nghiên cứu phân tích, những
thách thức đó là sự bất tương thích về mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động tổ
chức, cơ chế hoạt động và thủ tục tố tụng tư pháp của Việt Nam so với các
quy tắc và chuẩn mực chung của quốc tế; sự bất cập, lạc hậu trong nhận thức,
hiểu biết và đặc biệt là kỹ năng áp dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ tư pháp
trong khi xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến quá trình hội nhập. Trong khi
đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức thương mại quốc tế hiện đại và
kỹ năng nghiệp vụ liên quan tới hội nhập vẫn đang trong tình trạng bị động,
chắp vá, hình thức, kém hiệu quả [28]. Để có thể thúc đẩy quá trình hội nhập
nhanh và bền vững, việc xây dựng một nhà nước hiệu quả, có cơ cấu tổ chức
phù hợp và một hệ thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với thông lệ chung là
yêu cầu rất lớn đang đặt ra đối với đất nước ta.
Sau 25 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001-2010, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo ra sức
mạnh tổng hợp cho sự phát triển kinh tế đất nước. Sự ổn định về chính trị - xã
hội, dân trí được nâng cao, dân chủ hóa nhiều mặt đời sống xã hội, bảo đảm
nhân quyền, công bằng, tiến bộ xã hội đang đòi hỏi phải phát huy vai trò của
pháp luật và tư pháp. Mặt khác, nhiều vấn đề văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục...
đặt ra nhiều thách thức lớn trong đó có vấn đề phát triển bền vững. Quốc
phòng và an ninh, nhất là chủ quyền và an ninh vùng biển đảo vẫn đang là
thách thức lớn trong bối cảnh quốc tế hiện tại. Bên cạnh đó, các thế lực thù
địch tiếp tục đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", lợi dụng triệt để vấn đề tự do dân
chủ, tự do tôn giáo, các vấn đề về nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân, kích động bạo loạn, ly khai. Những tội phạm có vấn đề an ninh phi truyền
thống như buôn bán ma túy, cướp biển, tội phạm có tổ chức, khủng bố, nhập
20
cư và di cư trái phép đang ảnh hưởng đến tình hình trật tự - xã hội của đất nước.
Trong bối cảnh đó, việc xây dựng, củng cố hệ thống pháp luật và tư pháp có
khả năng đối mặt với khó khăn, thách thức này càng cần phải được chú trọng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) được tổ chức thành
công có ý nghĩa trọng đại khi đất nước đang bước sang một giai đoạn phát
triển mới sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội Đảng đã thông
qua Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi) và Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Đây là những văn kiện
quan trọng định hướng cho sự phát triển đất nước trong những năm tới, đặt ra
yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước như một khâu quan
trọng đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi chiến lược, tiếp tục hoàn thiện tổ
chức bộ máy, tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính.
Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12/07/2011 Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về việc triển khai thực hiện chủ trương
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã đưa ra nhiều đề xuất sửa đổi
quan trọng, đặc biệt là các chương về chế độ kinh tế, về tổ chức bộ máy nhà
nước.
Có thể nói, công cuộc đổi mới toàn diện đã tạo ra những tiền đề, đồng
thời cũng đặt ra những thách thức lớn cho tiến trình cải cách tư pháp nhằm
đáp ứng mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam.
1.1.2. Các quan điểm cải cách tư pháp
Thứ nhất, cải cách tư pháp phải xuất phát từ nhu cầu và điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong từng giai đoạn phát triển của
mình, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan tư
21
pháp không chỉ phục vụ, tạo thuận lợi cho sự vận hành của nền kinh tế mà
đồng thời phải là người lính gác bảo vệ tinh thông, nhạy bén trước những biến
cố, tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường có thể xâm hại đến trật tự công
cộng [24, tr. 187]. Sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống tư pháp không tách
rời sự phát triển của kinh tế - xã hội và tác động ngược trở lại đối với kinh tế -
xã hội, tạo nên hệ thống công cụ pháp lý an toàn cho sự phát triển bền vững
của nền kinh tế, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp, các trình tự, thủ tục và phương thức, lề lối
làm việc của đội ngũ cán bộ, chức danh tư pháp phải được cải cách theo
hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa phù hợp với tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo ngăn ngừa có hiệu quả
và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội
xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức,
giải quyết nhanh chóng, hợp lý, hiệu quả các tranh chấp kinh tế, dân sự trong
nền kinh tế thị trường đang hội nhập ngày càng sâu rộng với tỉnh Đắk Nông
và quốc tế, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội, bảo đảm và tôn trọng quyền dân
chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xã hội và Nhà nước.
Thứ hai, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo giữ vững và phát huy bản chất dân chủ,
vì con người và bảo vệ quyền con người của các cơ quan thực hiện quyền tư
pháp. Nguyên tắc "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" thể hiện bản
chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Nhà
nước pháp quyền là bảo đảm và phát triển quyền con người, quyền công dân.
Phương thức bảo đảm quyền con người của Nhà nước pháp quyền là
công nhận quyền con người, xác lập quyền công dân bằng hoạt động lập pháp,
tổ chức thực thi quyền con người, quyền công dân bằng hoạt động hành pháp
và bảo vệ các quyền đó bằng hoạt động tư pháp. Nguyên tắc xây dựng các cơ
22
quan tư pháp của dân, do dân, vì dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền đòi hỏi huy động sự tham gia ngày càng rộng rãi và tích cực của nhân
dân vào công tác tư pháp, bắt đầu từ quá trình xây dựng và ban hành các văn
bản pháp luật về tổ chức và hoạt động tư pháp đến quá trình tổ chức thực thi
pháp luật trong hoạt động tư pháp. Nhiều Nghị quyết của Đảng (Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị) và đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh
chủ trương nghiên cứu và đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động tư pháp, bổ trợ
tư pháp như tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, thi hành án, giám định tư pháp,
công chứng, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề
nghiệp. Thực chất đó là quá trình thu hút sức mạnh, trí tuệ, nguồn lực của
nhân dân để làm thành sức mạnh của nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tạo cơ sở xã hội rộng rãi cho hoạt động tư pháp có hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành đồng bộ với cải cách lập pháp,
hành pháp theo hướng đảm bảo tính độc lập tương đối và sự kiểm tra, giám
sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực trên cơ sở quyền lực nhà nước thống
nhất thuộc về nhân dân, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Trên cơ sở của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ 2001-2010 do Đại hội
Đảng IX thông qua, Nhà nước đã chọn khâu trọng tâm, đột phá trong cải cách
bộ máy nhà nước - đó là xây dựng và triển khai Chương trình tổng thể cải
cách hành chính 2001-2010 với mục tiêu xây dựng nền hành chính dân chủ,
trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, từng bước hiện đại hóa.
Thứ tư, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền phải đảm bảo tính tối cao của luật trong tổ chức và hoạt động của các
23
cơ quan tư pháp, đảm bảo cải cách đồng bộ cả hệ thống tư pháp với Tòa án
và hoạt động xét xử là trung tâm. Đây là yêu cầu rất cơ bản của Nhà nước
pháp quyền đối với hoạt động tư pháp. Tòa án - cơ quan duy nhất có quyền
xét xử, quyền sử dụng và nhân danh quyền lực nhà nước để phán xét tính hợp
hiến, hợp pháp của những vi phạm pháp luật, những tranh chấp pháp lý.
Nguyên tắc Hiến định "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án có hiệu lực pháp luật" [35, Điều 72] khẳng định tính tối cao, quyết
định của hoạt động xét xử và vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư
pháp. Vì vậy, cải cách tư pháp phải đồng bộ ở tất cả các công đoạn của quy
trình tố tụng và với tất cả các cơ quan, tổ chức trong hệ thống tư pháp nhằm
giải quyết triệt để những bất cập hiện nay đang làm cho quy trình tố tụng bị
cắt khúc, các cơ quan tư pháp biệt lập với quyền ra những quyết định tiền xét
xử (bắt tạm giữ, tạm giam...) có nhiều nguy cơ gây oan sai, gây thiệt hại
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích cơ bản của công dân, làm cho Tòa án
không thực sự giữ được vị trí là trung tâm của hệ thống tư pháp, là cơ quan
duy nhất có quyền ra các quyết định, phán quyết động chạm đến quyền cơ bản
của công dân trong quá trình tố tụng tư pháp.
1.2. Khái niệm và đặc điểm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
Trong khoa học hành chính và đời sống xã hội, theo các cách tiếp cận
khác nhau, có những quan niệm và cách giải thích khác nhau về thuật ngữ tổ
chức của VKSND. Để làm rõ khái niệm này, Luận văn nghiên cứu một số
khái niệm:
* Khái niệm tổ chức
Theo Đại từ điển tiếng Việt, tổ chức với nghĩa là động từ, là sắp xếp, bố
trí thành các bộ phận để cũng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức
năng hoặc là sắp xếp, bố trí để làm cho có trật tự, nền nếp hay tiến hành một
24
công việc theo cách thức, trình tự nào; và với nghĩa là danh từ, tổ chức là tập
hợp người được tổ chức theo cơ cấu nhất định để hoạt động vì lợi ích chung.
[39, tr.1662]
Theo Từ điển Tiếng Việt, “tổ chức là làm cho thành một chỉnh thể, có
một cấu tạo, một cấu trúc và có những chức năng, nhiệm vụ chung nhất định,
với phương thức hoạt động riêng” [39, tr.1662]. Như vậy, Luận văn sẽ tiếp
cận vấn đề tổ chức với nghĩa là: việc bố trí, sắp xếp lại thành một chỉnh thể
với một cấu trúc nhất định để hoạt động vì những quyền lợi chung, nhằm một
mục đích chung và với những phương thức hoạt động riêng phù hợp với từng
bộ phận, từng nhóm trong tổ chức đó.
* Khái niệm Viện kiểm sát nhân dân
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Viện kiểm sát là cơ quan chuyên kiểm tra và
giám sát việc chấp hành pháp luật”. [19, tr.1151]
Từ điển Luật học không đưa ra khái niệm về VKSND mà chỉ
khái niệm: “VKSND tối cao là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp trên phạm vi cả nước góp phần bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. [30, tr.855]
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 khái niệm: “VKSND là cơ quan thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”. [21]
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu: Viện kiểm sát nhân dân là một trong
những bộ phận hợp thành hệ thống cơ quan của bộ máy nhà nước của Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cũng như các hệ thống cơ quan khác, Viện
kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí, chức
năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân
25
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc riêng, nhằm bảo đảm cho
các Viện kiểm sát hoạt động có hiệu quả cao hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. VKSND có nhiệm vụ
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về tổ chức của
VKSND như sau: Tổ chức của VKSND là việc bố trí, sắp xếp lại thành một
chỉnh thể thống nhất với cơ cấu, số lượng hợp lý, gồm đội ngũ cán bộ, công
chức có phẩm chất, năng lực để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp một cách hiệu quả.
1.2.2. Đặc điểm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
Thứ nhất, tổ chức của VKSND được thành lập từ VKSND tối cao đến
VKSND cấp tỉnh, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ
thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt
động nhằm thực thi công vụ.
Trong tổ chức và hoạt động bộ máy Nhà nước pháp quyền của nước ta,
hệ thống cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: “Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soátgiữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
26
pháp, tư pháp. [20]
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, VKSND là một cơ quan trong
hệ thống cơ quan của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam. Do đó, cũng
như các hệ thống cơ quan khác, VKSND được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung.
Song, do có vị trí, chức năng, nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các
VKSND được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù. Điều đó
không có nghĩa là tách hệ thống VKSND ra khỏi bộ máy nhà nước ta, mà
nhằm bảo đảm cho nó hoạt động có hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Những nguyên tắc về tổ
chức và hoạt động của VKSND được quy định tại Điều 109 Hiến pháp năm
2013 và Điều 7 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Đó là nguyên tắc tập trung
thống nhất lãnh đạo trong ngành, nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt
động của VKSND và nguyên tắc kết hợp vai trò lãnh đạo của Viện trưởng với
quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng của Ủy
ban kiểm sát.
Vì vậy, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung
cũng như VKSND nói riêng đều có sự thống nhất từ trên xuống dưới và có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm thực thi công vụ một cách hiệu quả.
Thứ hai, tổ chức của VKSND là cơ sở cho công tác tổ chức cán bộ
nhằm nâng cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của VKSND để thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của mình.
Công cuộc cải cách tư pháp hiện nay đã đặt ra yêu cầu ngày càng cao
đối với cán bộ, công chức ngành KSND. VKSND là cơ quan với chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đảm bao không để
xảy ra oan sai hay bỏ lọt tội phạm, bảo vệ pháp luật và quyền con người,
quyền công dân, góp phần trong đấu tranh, phòng chống tội phạm, do đó, đòi
27
hỏi mỗi một cơ quan, đơn vị, ngoài vai trò của người đứng đầu mỗi cơ quan,
đơn vị thì cần phải có một đội ngũ công chức, Kiểm sát viên “Vững về chính
trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương
và trách nhiệm”. Vì vậy, trên cơ sở tổ chức của VKSND, công tác tổ chức cán
bộ cần đảm bảo mỗi cán bộ Kiểm sát có đủ năng lực, trình độ, ý thức trách
nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, qua đó để nâng cao vị trí, vai trò và trách nhiệm
của VKSND trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, tổ chức của VKSND được thiết lập là để thực hiện những chức
năng, nhiệm vụ được giao trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp
Để một hệ thống VKSND có thể thực hiện có hiệu quả chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì hệ thống cơ quan
Viện kiểm sát phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung,
thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào
các cơ quan chính quyền địa phương. Do đó, việc tổ chức của VKSND các
cấp cũng phải bảo đảm quán triệt các nguyên tắc trên để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ tư, tổ chức của VKSND là cơ sở để đánh giá chất lượng thực thi
nhiệm vụ của cán bộ, công chức trong các công tác và hoạt động của Ngành
Tổ chức của VKSND một cách khoa học, khách quan, công khai, minh bạch trên
cơ sở triển khai và thực hiện có hiệu quả Luật Tổ chức VKSND năm 2014, các
văn bản hướng dẫn thi hành, các khâu công tác tổ chức cán bộ với nhiều quy
định mới đã làm tăng lên trách nhiệm, thẩm quyền của cán bộ, công chức trong
ngành Kiểm sát, qua đó đánh giá được ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách
nhiệm cũng như chất lượng thực thi nhiệm vụ trong công tác và hoạt động của
Ngành.
1.2.3. Nguyên tắc, vai trò tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
28
1.2.3.1.Nguyên tắc tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành
Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành bắt nguồn từ
nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp luật.
Nguyên tắc này mang tính đặc thù của ngành kiểm sát, là một nguyên tắc hiến
định và được quy định từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Nguyên tắc này cũng
bảo đảm cho ngành kiểm sát được tổ chức theo một chỉnh thể thống nhất và
hoạt động được tập trung thống nhất theo chiều dọc từ người lãnh đạo cao
nhất cho đến các cấp, các cán bộ của ngành kiểm sát. Nội dung nguyên tắc
được thể hiện như sau:
- Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành đề cao vai trò
của người đứng đầu ngành kiểm sát. Theo đó, Viện trưởng VKSND tối cao
được trao thẩm quyền rất rộng để bảo đảm tính thống nhất trong lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành với tư cách là người đứng đầu ngành, chịu trách nhiệm về toàn
bộ hệ thống VKSND. Bên cạnh đó, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới phải
chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của Viện kiểm sát cấp mình và chịu
trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND cấp trên. Cụ thể, tại Khoản 1 Điều
109 Hiến pháp năm 2014 quy định: Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng
lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát
cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
Tại Khoản 5, 6 Điều 63 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKSND tối cao: “Viện trưởng VKSND
tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên
trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp, Điều tra viên các ngạch, Kiểm tra viên các
ngạch; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc
29
thẩm quyền”.Các chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền như Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, cấp tỉnh, cấp tỉnh;
Viện trưởng VKS quân sự quân khu và khu vực, Phó viện trưởng Viện kiểm
sát quân sự trung ương, quân khu và khu vực đều do Viện trưởng VKSND tối
cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Như vậy, tất cả các VKSND từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống
nhất. Mọi hoạt động của VKSND, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo của
Viện trưởng. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu trách nhiệm cá nhân về toàn
bộ hoạt động của VKS do mình lãnh đạo trước Viện trưởng VKSND cấp trên
và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Viện trưởng
VKSND tối cao chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước (Khoản 12 Điều 63 Luật Tổ chức VKSND năm 2014).
- Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành còn được thể
hiện bằng việc lãnh đạo, chỉ đạo của Viện kiểm sát cấp trên và Viện trưởng
Viện kiểm sát cấp trên đối với Viện kiểm sát cấp dưới và Viện trưởng Viện
kiểm sát cấp dưới. Cụ thể, theo Khoản 1 Điều 7 Luật Tổ chức VKSND năm
2014 quy định: “Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm
minh vi phạm pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới. Viện trưởng Viện kiểm
sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ quyết định trái pháp luật của Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp dưới”.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành bảo
đảm cho các cấp Viện kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp.
Mặt khác, nhấn mạnh nguyên tắc này nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân
của Viện trưởng, là người có quyền và trách nhiệm quyết định các vấn đề
thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát và chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi
30
của mình không có nghĩa là loại trừ nguyên tắc tập trung dân chủ ra khỏi hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân. Phải thấy rằng, bên cạnh Viện trưởng còn
có Ủy ban kiểm sát. Theo Khoản 2 Điều 7 Luật Tổ chức VKSND năm 2014
quy định: “Tại VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKSQS
Trung ương, VKSQS quân khu và tương đương thành lập Ủy ban kiểm sát để
thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý kiến về
các vụ án, vụ việc trước khi Viện trưởng quyết định”
Như vậy, quy định này vừa bảo đảm mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ
của tập thể, vừa hạn chế những thiếu sót của Viện trưởng và đề cao trách
nhiệm của Viện trưởng. Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong
ngành được xác lập trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của VKSND, đồng thời,
cũng là một trong những căn cứ để phân biệt về tổ chức và hoạt động của
VKSND với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
Nguyên tắc độc lập
Nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của VKSND bắt nguồn
từ nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước theo Hiến pháp năm 2013, nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành
một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
Nội dung nguyên tắc này thể hiện như sau:
- Các VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc
lập, chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, không chịu sự chi phối bởi các cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân, mà chỉ chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng VKSND tối cao, sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND cùng cấp. Điều
đó có nghĩa là các cơ quan, tổ chức, cá nhân không có quyền can thiệp vào
hoạt động của VKSND. Mặt khác, về mặt tổ chức, Viện trưởng VKSND tối
cao quyết định bộ máy và biên chế của VKSND các cấp; bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên các Viện
31
kiểm sát các cấp. Do đó, VKSND có bộ máy tổ chức độc lập, không chịu sự
chi phối từ bất cứ cơ quan nhà nước nào.
- Nguyên tắc độc lập được bảo đảm bằng việc nghiêm cấm hành vi can
thiệp vào hoạt động nghiệp vụ của VKSND, điều này quy định trong Luật Tổ
chức VKSND năm 2014: “Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân cản trở,
can thiệp vào hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát nhân dân; lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân
dân” (Khoản 3 Điều 9).
- Nguyên tắc độc lập còn được bảo đảm bằng hoạt động nghiệp vụ một
cách độc lập của Kiểm sát viên, nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoặc can
thiệp trái pháp luật vào hoạt động của Kiểm sát viên. Theo đó tại Khoản 2
Điều 109 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ
đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”. Như vậy, Kiểm sát viên tuân
theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định
của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm
sát hoạt động tư pháp. Mặt khác, nguyên tắc này phải phù hợp với nguyên tắc
tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, bảo đảm sự lãnh đạo của
Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống
nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thực hiện nguyên tắc
này có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức và hoạt động của VKSND nhằm bảo
đảm cho VKSND có đầy đủ điều kiện và căn cứ để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc kết hợp vai trò lãnh đạo của Viện trưởng với quyền thảo
luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng của Ủy ban kiểm sát
Nguyên tắc này được quy định từ Luật tổ chức VKSND năm 1960, tuy
32
nhiên, lúc này, Ủy ban kiểm sát chỉ có vai trò tư vấn cho Viện trưởng chứ
không có quyền quyết định. Đến Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức
VKSND năm 1992, vai trò của Ủy ban kiểm sát được đề cao, theo đó, Ủy ban
kiểm sát có quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan
trọng.
Hiến pháp năm 2013 đã không đề cập đến Ủy ban kiểm sát, nhằm thu
hẹp thẩm quyền của Ủy ban kiểm sát, theo xu hướng chỉ là cơ quan tư vấn
cho Viện trưởng và quyết định một số vấn đề quan trọng. Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 đã quy định về Ủy ban kiểm sát trên cơ sở tổ chức hệ
thống bốn cấp Viện kiểm sát, cụ thể như sau: Tại Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát quân
sự quân khu và tương đương thành lập Ủy ban kiểm sát để thảo luận và quyết
định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý kiến về các vụ án, vụ việc
trước khi Viện trưởng quyết định (Khoản 2 Điều 7).
Như vậy, Ủy ban kiểm sát được thành lập tại năm đơn vị Viện kiểm sát
đó là: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân
sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương.
Ủy ban kiểm sát VKSND tối cao được quy định trong Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, như sau: “Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực
hiện thẩm quyền. Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số
thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực
hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng” (Khoản 3 Điều 43).
“Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban
kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để
33
Viện trưởng xem xét, quyết định” (Khoản 4 Điều 43).
So với Luật Tổ chức VKSND năm 2002, Ủy ban kiểm sát theo Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 đã thu hẹp thẩm quyền, đồng thời đề cao vai trò của
Viện trưởng như:
- Tại Khoản 3 Điều 43 không quy định trong trường hợp “nếu Viện
trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên ủy ban kiểm sát thì thực
hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Uỷ ban thường vụ
Quốc hội hoặc Chủ tịch nước” (Điều 32 Luật Tổ chức VKSND năm 2002).
Quy định này cho thấy, vai trò, trách nhiệm của Viện trưởng VKSND tối cao
là người có quyền cao nhất trong việc quyết định những vấn đề quan trọng
cùng với Ủy ban kiểm sát.
- Tại Khoản 4 Điều 43, Ủy ban kiểm sát chỉ thảo luận, cho ý kiến để
Viện trưởng xem xét, quyết định, tức là thẩm quyền quyết định cuối cùng là
của Viện trưởng, mà Ủy ban kiểm sát chỉ tham gia với vai trò cơ quan tư vấn,
tham mưu, phụ giúp cho Viện trưởng đưa ra quyết định.
Đối với các Ủy ban kiểm sát của VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh,
VKS quân sự trung ương và VKS quân sự quân khu và tương đương được quy
định tại các điều 45, 47, 53, 55 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, giống như
quy định của Ủy ban kiểm sát VKSND tối cao về vai trò tư vấn cho viện
trưởng là theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, Ủy
ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp
để Viện trưởng xem xét, quyết định; Về nghị quyết của Ủy ban kiểm sát cũng
phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành, trường hợp biểu
quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Tuy
nhiên, nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban
kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo
34
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Như vậy, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 ghi nhận nguyên tắc này
một cách cụ thể và chi tiết. Trong tổ chức và hoạt động của VKSND, vai trò
của Ủy ban kiểm sát là cần thiết, với trí tuệ tập thể, thành viên của Ủy ban
kiểm sát đều là những Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiều
kinh nghiệm thực tiễn và quản lý, chỉ đạo, điều hành, vì vậy, có thể tham gia
thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thýõng mại, lao động phức tạp. Đồng thời,
phát huy sức mạnh tập thể của Ủy ban kiểm sát trong công tác tham mưu, tư
vấn để thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng cùng với
quyết định của Viện trưởng sẽ mang lại hiệu quả cao trong hoạt động lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành VKSND tối cao và Viện kiểm sát các cấp.
1.2.3.2. Vai trò tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
Thứ nhất, trong các cơ quan hành chính nói chung cũng VKSND nói
riêng, mỗi cơ quan, đơn vị đều có mục tiêu, nhiệm vụ chính trị được Đảng và
Nhà nước giao phó. Và để thực hiện và hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ
đó, trước hết cần phải tổ chức bộ máy Nhà nước một cách hiệu quả, trong đó
người đứng đầu cơ quan trực tiếp tổ chức quản lý trong việc bố trí, sắp xếp
nhân lực sao cho phù hợp với từng nhiệm vụ cụ thể nhằm đảm bảo sự phối
hợp nhịp nhàng để thực hiện các mục tiêu đề ra hay nhiệm vụ được giao. Như
vậy, có thể thấy vai trò quan trọng trong việc tổ chức của bất kì một cơ quan
Nhà nước hay tổ chức nào, sẽ quyết định toàn bộ quá trình hoạt động cũng
như hiệu quả đạt được của cơ quan, tổ chức đó.
Thứ hai, tổ chức của VKSND nhằm quản lý xã hội theo pháp luật, bao
gồm hệ thống các văn bản pháp luật là cơ sở để quản lý Nhà nước. Theo đó,
trên cơ sở hệ thống pháp luật chung và thống nhất, người đứng đầu đơn vị mà
ở đây là Viện trưởng VKSND dựa vào đó để có thể tổ chức bộ máy một cách
35
hoàn thiện và hiệu quả nhất.
Thứ ba, tổ chức của VKSND có chức năng xác định rõ trách nhiệm và
cách thức thể hiện vai trò của mỗi cán bộ Kiểm sát trong việc thực hiện công
vụ. Khi việc tổ chức đã hoàn chỉnh, sẽ làm cho mỗi cán bộ, công chức hiểu rõ
những yêu cầu của đơn vị đối với họ thông qua các quy tắc, quy trình làm
việc. Ngoài ra, tổ chức của VKSND còn góp phần xử lý thông tin để ra quyết
định và giải quyết các vấn đề của mình.
1.3. Khái quát về đổi mới tổ chức và hoạt động viện kiểm sát
nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
1.3.1. Đặc điểm đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong tiến
trình cải cách tư pháp
Tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp. Trên
thế giới, mỗi quốc gia có cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực riêng cho
nhà nước của mình. Đối với hầu hết các nhà nước tư sản đều tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước theo học thuyết tam quyền phân lập. Theo đó, quyền
lực nhà nước được phân chia thành ba nhánh độc lập, giao cho ba hệ thống cơ
quan khác nhau thực hiện, trong khi thực hiện quyền lực có sự đối trọng và
chế ước lẫn nhau. Ở những nước này không có cơ quan Viện kiểm sát nhân
dân, mà chỉ có cơ quan Viện công tố và cơ quan này cũng không phải là một
hệ thống độc lập mà nó có thể nằm trong Tòa án hoặc chịu sự quản lý của Bộ
Tư pháp hay của Chính phủ. Chức năng cơ bản của Viện công tố của các
nước này là đưa kẻ phạm tội ra trước Tòa án và thực hiện sự buộc tội đối với
hành vi phạm tội của người đó.
Đối với các nước tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo học
thuyết tập quyền (Việt Nam là một trong những quốc gia thuộc nhóm này) thì
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước thông qua cơ quan đại diện của mình là Quốc hội và Hội đồng nhân
36
dân các cấp. Trong bộ máy nhà nước của các quốc gia này tồn tại một hệ
thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân có vị trí độc lập, trực thuộc Quốc hội.
Viện kiểm sát nhân dân được giao chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Xem xét vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trên phương diện trong mối
quan hệ với các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam theo qui định của pháp luật hiện hành có thể thấy vị
trí của Viện kiểm sát nhân dân với các cơ quan nhà nước khác như sau:
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Quốc hội: Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất. Quốc hội thành lập ra Viện kiểm sát nhân dân và
giao cho Viện kiểm sát nhân dân chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội thực hiện việc giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời
gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy
ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước, trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu
cầu của đại biểu Quốc hội.
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Chính phủ: Chính phủ là
cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, Chính phủ và Viện kiểm sát
nhân dân đều là những cơ quan do Quốc hội thành lập, nhưng đây là hai hệ
thống cơ quan độc lập về tổ chức bộ máy, biên chế và chức năng, nhiệm vụ.
Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Chính phủ và
Viện kiểm sát nhân dân phải có cơ chế phối hợp tốt để thực hiện các mục tiêu
chung của đất nước.
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân dân: Viện
37
kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân là các cơ quan tư pháp do Quốc hội
thành lập và được Quốc hội giao cho các chức năng khác nhau. Viện kiểm sát
nhân dân độc lập với Tòa án nhân dân về tổ chức bộ máy và biên chế. Viện
kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật quá trình xét xử, thi hành
án hình sự của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động, các vụ án hành chính và các việc khác theo qui định của pháp luật.
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân địa phương với các cơ quan
chính quyền địa phương và Hội đồng nhân dân cùng cấp: Viện kiểm sát nhân
dân là hệ thống cơ quan do Quốc hội thành lập, thừa hành quyền lực từ Quốc
hội, không thừa hành quyền lực từ chính quyền địa phương. Viện kiểm sát
nhân dân địa phương độc lập với cơ quan chính quyền địa phương về tổ chức
bộ máy, biên chế, tài chính và độc lập về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Viện kiểm sát nhân
dân địa phương thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch
công tác của Viện kiểm sát cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa
phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm
báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp, trả lời chất vấn, kiến
nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp về các công việc có
liên quan.
Là một cơ quan trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước,
Viện kiểm sát nhân dân cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất
và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan bảo vệ pháp chế, Viện
kiểm sát nhân dân còn được tổ chức và hoạt động theo một nguyên tắc đặc
thù, đó là nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất trong ngành. Nguyên tắc
38
lãnh đạo tập trung thống nhất đã chi phối nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng
lãnh đạo; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân các địa phương chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Do đó, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất.
Nguyên tắc tập trung thống nhất đảm bảo cho các Viện kiểm sát nhân
dân địa phương được tổ chức và hoạt động một cách tập trung, thống nhất và
độc lập theo ngành dọc, không lệ thuộc hay chịu sự can thiệp nào từ phía các
cơ quan Nhà nước ở địa phương. Đây là một nguyên tắc hết sức quan trọng,
xuất phát từ tính chất và nhiệm vụ của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân
dân trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi xác định vị trí
của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước cần có nhận thức đúng về
những vấn đề sau:
Tuy Viện kiểm sát nhân dân địa phương không chịu sự chỉ đạo của
chính quyền sở tại, nhưng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương không
phải là một bộ phận tách rời mọi hoạt động của địa phương. Viện kiểm sát
nhân dân địa phương còn phải chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương
và sự giám sát của nhân dân địa phương. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân cũng phải phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Do đó, tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân địa phương phải kết hợp chặt chẽ và
đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống
nhất trong ngành.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là cấp vừa trực tiếp thực hiện
công tác kiểm sát theo thẩm quyền cấp mình, mặt khác vừa có nhiệm vụ chỉ
đạo trực tiếp đối với Viện kiểm sát cấp tỉnh nên tổ chức bộ máy cần phải có
39
cơ cấu phù hợp để thực hiện cả hai hoạt động đó. Đối với Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh là cấp cơ sở, cấp trực tiếp thực hiện phần lớn các nội dung của
công tác kiểm sát theo thẩm quyền. Viện kiểm sát cấp tỉnh cần tập trung thực
hiện tốt các mục tiêu công tác cụ thể mà Viện kiểm sát cấp trên đề ra. Do đó,
cấp tỉnh cần được tăng cường và tạo điều kiện về mọi mặt để có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình.
Để đảm bảo Viện kiểm sát các cấp hoàn thành chức năng, nhiệm vụ
trong tiến trình cải cách tư pháp thì hệ thống cơ quan Viện kiểm sát cần phải
được tổ chức theo nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất, không phụ thuộc
và chịu sự can thiệp nào của chính quyền địa phương. Nguyên tắc tập trung
thống nhất đòi hỏi phải xác định đúng đắn vai trò và trách nhiệm của từng cấp
kiểm sát. Các Viện kiểm sát cấp trên cần tăng cường sự lãnh đạo, công tác
kiểm tra đối với cấp dưới. Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần thực hiện tốt
vai trò là trung tâm chỉ đạo mọi hoạt động của hệ thống cơ quan Viện kiểm
sát nhân dân.
Trong hệ thống cơ quan nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính
mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Thực hiện nhiệm
vụ này, Viện kiểm sát nhân dân là một trong những cơ quan thể hiện trực tiếp
bản chất của nhà nước ta, là bộ phận không thể thiếu trong bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các cơ
quan Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân được phân công trực tiếp thực
hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan bảo
vệ pháp luật. Do đó, có thể xem Tòa án và Viện kiểm sát như là những bộ
40
phận truyền tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong pháp luật vào đời sống
xã hội thông qua hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của những cơ quan
này. Điều này cũng có nghĩa hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước một
phần chi phối bởi hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp, trong đó có Viện
kiểm sát nhân dân.
Thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm đầu
của thời kỳ đổi mới cho thấy cần tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện
kiểm sát nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Hiến pháp năm 1992 khẳng định
đường lối của Đảng và Nhà nước là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế cùng phát
triển. Cùng với sự hình thành cơ chế kinh tế mới đòi hỏi sự thay đổi, ra đời
của hàng loạt chế định pháp luật phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
Nhà nước thừa nhận quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế. Đổi mới nền kinh tế đã bắt đầu bằng sự phát triển của
hàng loạt các doanh nghiệp với mọi hình thức tổ chức, hoạt động. Mặt khác,
yêu cầu cải cách hành chính và cải cách tư pháp cần phân định rõ phạm vi,
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tổ chức trong bộ máy nhà nước, của cơ
quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.
Những ý kiến, quan điểm về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân được đề cập khi tiến hành cải cách tư pháp trong thời kỳ
đổi mới đất nước, đặc biệt là khi tiến hành đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.
Những bước đi ban đầu của nền kinh tế chuyển đổi với không ít những lựa
chọn, những thay đổi, từ cơ chế chính sách đến vấn đề pháp lý để có thể định
hình từng bước phát triển của nền kinh tế thị trường. Đó là quá trình trăn trở,
tháo gỡ dần những vướng mắc trên mọi phương diện để có thể xây dựng được
một thể chế hoàn chỉnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
41
nghĩa. Những vấn đề đó đã ảnh hưởng không nhỏ khi xác định vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung và Viện
kiểm sát nhân dân nói riêng.
Năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được tiến
hành trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Những
thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã khẳng định đường
lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định tiếp tục thực hiện
công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp một cách triệt để, toàn diện
hơn để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã thể chế
hoá nghĩamục tiêu Nghị quyết của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền,
xác định đúng đắn vị trí, vai trò, hệ thống các cơ quan tư pháp trong bộ máy
nhà nước, định hướng xây dựng một nền tư pháp dân chủ, vững mạnh. Một
trong những nội dung về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi) là sự điều chỉnh một bước về chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân. Việc điều chỉnh chức năng của Viện kiểm sát trong Hiến
pháp không phải là vấn đề mới nảy sinh trong quá trình xây dựng, soạn thảo
Hiến pháp sửa đổi, mà ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VII, những ý kiến liên
quan đến chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đã
được đề cập, thảo luận trên nhiều diễn đàn về lý luận cũng như thực tiễn.
Không chỉ đề cập đến sự chồng chéo chức năng thanh tra của cơ quan Thanh
tra với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát mà vấn
đề có tính trực diện hơn đối với sự tồn tại của chức năng này trong điều kiện
đổi mới. Trong mối tương quan chung giữa các cơ quan trong bộ máy nhà
nước với những chức năng mà Viện kiểm sát đang thực hiện dường như Viện
kiểm sát đang nắm giữ quá nhiều quyền lực chi phối trên nhiều lĩnh vực của
42
đời sống xã hội từ tư pháp đến thể chế quản lý kinh tế, quản lý hành chính
nhà nước. Hệ quả của sự đánh giá này đã dẫn tới việc có người đặt ra câu hỏi
phải chăng Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan siêu quyền lực và như thế
là trái với tổ chức và hoạt động của một nhà nước được xây dựng trên
nguyên tắc dân chủ.
Quá trình sửa đổi Hiến pháp, vấn đề chức năng của Viện kiểm sát nhân
dân được xem xét trên nhiều phương diện, không chỉ ở giác độ quyền lực
rộng lớn của Viện kiểm sát trong đời sống xã hội hay sự chồng chéo chức
năng với cơ quan Thanh tra mà cả những ảnh hưởng từ hoạt động của Viện
kiểm sát tới nền kinh tế thị trường. Ở vào thời điểm nền kinh tế đã trải qua 15
năm đổi mới với những thành tựu và sự ổn định bước đầu về cơ cấu kinh tế,
phương thức tổ chức hoạt động, một thể chế kinh tế được xác lập bởi hàng
loạt văn bản pháp luật về kinh tế đã đưa nền kinh tế bước sang giai đoạn phát
triển có định hướng trên cơ sở khuôn khổ của pháp luật. Trong quá trình đó,
sự hình thành hệ thống pháp luật kinh tế là quá trình không ngừng sửa đổi, bổ
sung để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Trong điều kiện vận hành
nền kinh tế thị trường vẫn đang tiếp tục có sự tìm tòi, thử nghiệm và không
ngừng đổi mới để có sự phát triển phù hợp, vững chắc; bên cạnh những ưu
điểm của việc bảo đảm sự tuân thủ pháp luật qua hoạt động kiểm sát chung
của Viện kiểm sát nhân dân thì mặt khác dường như đã tạo ra lực cản vô hình
đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự phản ứng ở những mức độ khác nhau
của các nhà quản lý, các nhà kinh doanh đối với hoạt động thực hiện chức
năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát đã đặt vấn đề về thực tiễn của việc có
cần thiết tồn tại chức năng này của Viện kiểm sát hay không. Xét một cách
biện chứng, khi pháp luật phù hợp với kinh tế sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế
và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển. Chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật nhằm bảo đảm pháp luật được tuân thủ, nhưng trong điều kiện hệ
43
thống pháp luật chưa hoàn thiện thì chính nó trở thành nguyên nhân làm hạn
chế tác dụng, ý nghĩa của việc thực hiện chức năng này. Sự cần thiết duy trì
hay xóa bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát cần được xem xét từ
nhiều phương diện khác nhau cả về lý luận và thực tiễn.
Nhìn vấn đề ở phương diện hẹp hơn để đánh giá thực trạng của ngành
kiểm sát về lực lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát (về năng lực, trình độ, về số
lượng…), quy mô tổ chức bộ máy ngành kiểm sát, cơ sở vật chất, phương tiện
kỹ thuật còn nhiều hạn chế, bất cập. Trong khi, Viện kiểm sát đang phải thực
hiện nhiều trọng trách trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội thì với điều
kiện hiện có, việc thực hiện tốt tất cả những chức năng, nhiệm vụ được giao
thực sự là khó khăn đối với Viện kiểm sát.
1.3.2. Các quan điểm về đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
1.3.2.1. Quan điểm phân định rõ hoạt động kiểm sát chung của Viện
kiểm sát nhân dân với hoạt động thanh tra của cơ quan Thanh tra
Theo quan điểm này, thực tiễn tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân ở nước ta hơn 45 năm qua đã khẳng định sự cần thiết khách quan
tồn tại hệ thống Viện kiểm sát nhân dân với hai chức năng không thể tách rời
là chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát chung). Việc đổi mới tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay cần xuất
phát từ những thành tựu đã đạt được và theo hướng phân định rõ hoạt động
kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân với hoạt động thanh tra của cơ
quan Thanh tra, từng bước nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động công tố,
bảo đảm cho thắng lợi của nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm. Những
người theo quan điểm này cho rằng, so với thời gian trước đây hơn 45 năm, ở
nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội theo xu hướng giữ vững ổn định và phát triển, đóng góp vào thành tựu
44
chung đó có vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân. Hiện nay, với
mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân thì việc bảo đảm cho các văn bản pháp luật do Quốc
hội ban hành được nghiêm chỉnh tuân thủ, để đảm bảo cho tính thống nhất
của pháp luật trong cả nước, để nhanh chóng phát hiện các vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện, áp dụng pháp luật và ban hành các văn bản quản lí của
các cơ quan hành pháp thì Quốc hội phải có một cơ quan thay mặt Quốc hội
thực hiện chức năng giám sát việc thi hành pháp luật đối với các cơ quan hành
pháp từ trên xuống dưới. Cơ quan đó phải trực thuộc Quốc hội, do Quốc hội
thành lập chứ không thể trực thuộc Chính phủ - cơ quan hành pháp. Hoạt
động kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ phía cơ quan nhân danh cơ
quan lập pháp hoàn toàn khác với hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan
nhân danh cơ quan hành pháp. Đồng nhất hai loại hoạt động nêu trên và thậm
chí còn chuyển hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật do Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện sang cho cơ quan Thanh tra là hoàn toàn sai lầm bởi việc
đó đã tước đi hoặc hạ thấp vai trò kiểm tra, giám sát của Quốc hội đối với quá
trình thực hiện Hiến pháp, các văn bản luật hoặc văn bản dưới luật do chính
Quốc hội hoặc ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành. Trong quá trình thực
hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật, khi phát hiện thấy có vi phạm và tội
phạm thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền xử líư vi phạm và tội phạm theo
qui định của pháp luật. Và vì lẽ đó chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật không thể tách rời chức năng công tố. Mặt khác, đúng là hoạt động công
tố là một trong những nội dung của hoạt động áp dụng pháp luật (hành pháp)
nhưng nếu thành lập Viện công tố chỉ với chức năng công tố và đặt cơ quan
này trực thuộc Chính phủ có nghĩa là đã tách rời hai chức năng nói trên và vô
hình chung đã làm cho quá trình giải quyết các vi phạm và tội phạm thêm
phức tạp và làm bộ máy nhà nước thêm cồng kềnh (cho dù có thành lập Viện
45
công tố trực thuộc Chính phủ thì vẫn phải có một cơ quan trực thuộc Quốc hội
để để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan hành
pháp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân). Qua
nghiên cứu so sánh vị trí, vai trò và địa vị pháp lí giữa Viện kiểm sát của nước
ta với các Viện công tố hoặc Viện kiểm sát ở một số nước khác, cho thấy
chúng ta còn chưa có những cơ chế, điều kiện cần thiết để Viện kiểm sát có
thể thực thi nhiệm vụ đúng với vị trí của cơ quan này. Với vai trò là cơ quan
thực hiện quyền lực của Quốc hội để tiến hành hoạt động giám sát hoạt động
áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
và công dân đáng lẽ các quyết định của Viện kiểm sát phải có uy quyền hơn,
thế nhưng trong thực tế lại không phải như vậy. Nhiều quyết định, kiến nghị,
thậm chí kháng nghị của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát chung đã
không được thực hiện hoặc không được thực hiện nghiêm chỉnh. Nguyên
nhân của tình trạng trên có nhiều nhưng trong đó phải kể đến sự thiếu hiểu
biết pháp luật cũng như quan niệm không đúng của một số người khi họ cho
rằng chức vụ trong Đảng luôn quan trọng hơn chức vụ trong bộ máy nhà
nước, người không có chức vụ hoặc có chức vụ nhỏ trong Đảng không thể
yêu cầu hoặc kiến nghị, kháng nghị gì với người có chức vụ trong Đảng cao
hơn kể cả trong trường hợp pháp luật có qui định như vậy. Để khắc phục tình
trạng trên, giải pháp đầu tiên là Hiến pháp và pháp luật phải thể chế hóa vị trí,
vai trò của Viện kiểm sát đúng với vị trí cần phải có của nó. Cần phải mở
rộng hơn nữa thẩm quyền của Viện kiểm sát so với qui định của Hiến pháp và
pháp luật hiện hành. Do đó, theo quan điểm này cho rằng cần trả lại cho Viện
kiểm sát chức năng, nhiệm vụ như đã từng tồn tại trong thực tế ở nước ta từ
năm 1960 đến năm 2002. Và vấn đề đặt ra là cần phải có những biện pháp đổi
mới để nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hiện hai chức
năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính,
46
kinh tế, xã hội chứ không chỉ đơn thuần là kiểm sát các hoạt động tư pháp như
hiện nay.
1.3.2.2. Quan điểm chuyển hệ thống Viện công tố trực thuộc Chính phủ
sang hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trực thuộc Quốc hội
Theo quan điểm này, việc chuyển hệ thống Viện công tố trực thuộc
Chính phủ sang hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trực thuộc Quốc hội theo
Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 là
hợp lí nhưng do từ đó đến nay vì giao thêm cho Viện kiểm sát chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội
của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân nên
trong thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân đã không thể thực hiện tốt hai
chức năng này. Để khắc phục tình trạng trên đây cần đổi mới tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng giữ nguyên mô hình tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng về cơ bản giữ nguyên tên
gọi, mô hình tổ chức bộ máy nhưng cắt giảm bớt chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể
là Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng công tố và chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Và như vậy, Viện kiểm sát nhân dân mới có thể tập
trung làm tốt chức năng công tố mà bấy lâu nay Viện kiểm sát còn chưa hoàn
toàn đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với công tác này. Quan điểm này đã
được chính thức chấp nhận và được thể hiện trong các qui định của Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi) và trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
Và theo đó đến nay, Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ thực hiện chức năng
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà không thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội
của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân nữa.
1.2.3. Quan điểm Viện kiểm sát nhân dân sẽ được tổ chức lại thành
Viện công tố trực thuộc cơ quan hành pháp là Chính phủ
47
Quan điểm này cho rằng, tổ chức và hoạt động của ngành Kiểm sát cần
quay lại mô hình tồn tại trước năm 1960. Theo quan điểm này, Viện kiểm sát
nhân dân sẽ được tổ chức lại thành Viện công tố trực thuộc cơ quan hành
pháp là Chính phủ với chức năng, nhiệm vụ như trước đây là chỉ thực hiện
chức năng công tố chứ không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội của các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân như nó đã từng làm trong thời
gian hơn 40 năm qua. Còn hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật do
Quốc hội trực tiếp thực hiện và công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội của các cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang và công dân trước đây do Viện kiểm sát thực hiện nay
giao cho cơ quan Thanh tra các cấp tiến hành. Theo quan điểm này, nội dung
của chức năng công tố thực chất là hoạt động hành pháp, vì vậy bản thân nó
phải do một hệ thống các cơ quan hành pháp thực hiện và hợp lưí hơn cả là
thành lập Viện công tố trực thuộc Chính phủ để thực hiện chức năng này. Còn
nội dung của chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành
chính, kinh tế, xã hội của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang và công dân không khác hoạt động thanh tra của cơ quan Thanh tra và
vì thế song song với việc thành lập hệ thống Viện công tố thì đồng thời cũng
chuyển chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành
chính, kinh tế xã hội cho cơ quan Thanh tra các cấp thực hiện. Cũng theo
quan điểm này, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
theo hướng thành lập Viện công tố như mô hình đã tồn tại ở nước ta trước
năm 1960 nhưng đồng thời cũng phải kế thừa những ưu điểm đã được khẳng
định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
những năm qua và có sự tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên
thế giới phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
48
Kết luận chương 1
Trải qua 60 năm thành lập và hoạt động, từ các bản Hiến pháp năm
1980, Luật tổ chức VKSND năm 1981, Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi,
bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 1992,
năm 2002 và năm 2014 đã và đang tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan
trọng của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm pháp chế thông qua công tác thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Và để
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp có hiệu quả, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát được tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc
lập, không lệ thuộc vào các cơ quan chính quyền địa phương. Cơ cấu tổ chức
bộ máy của Viện kiểm sát các cấp phải bảo đảm quán triệt các nguyên tắc
trên. việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
vừa phải phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án, vừa phải thực hiện hiệu
quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp;
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra. Trong quá trình thực hiện, việc bám sát yêu cầu này là rất quan
trọng, có tính quyết định đến sự thành công, vì nếu chỉ chú ý đến yêu cầu về
mặt tổ chức là Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ
chức của Tòa án, mà không tính đến yêu cầu bảo đảm tốt hơn các điều kiện để
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra
49
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Cơ sở pháp lý về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh
2.1.1. Hệ thống và cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh
2.1.1.1. Hệ thống của Viện kiểm sát nhân dân
Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì đến năm 2010, Viện kiểm sát
được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án. Trong Nghị quyết số
49-NQ/TW chỉ rõ, tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Để thực hiện những nhiệm vụ đó và nhằm
đảm bảo chức năng hoạt động, VKSND phải tổ chức bộ máy cơ quan của
mình trong đó mỗi bộ phận đảm nhận những khâu công tác nhất định và một
trong những điểm mới của Hiến pháp 2013 là chỉ đưa ra tính định hướng mà
không quy định cụ thể và chi tiết như các bản Hiến pháp trước. Thể chế hóa
chủ trương đổi mới hệ thống tổ chức VKSND theo Kết luận số 79-KL/TW, vì
thế, cơ cấu tổ chức của VKSND không còn được quy định chi tiết trong Hiến
pháp mà sẽ chỉ quy định cụ thể tại Chương III Luật tổ chức VKSND năm
2014. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 quy định về hệ thống VKSND gồm:
VKSND tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định (khoản 2 Điều 107).
Cụ thể hóa quy định trên, Điều 40 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định
về hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm:
- VKSND tối cao.
- VKSND cấp cao: hiện nay có 03 VKSND cấp cao đặt tại 03 thành
phố lớn là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
50
- VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là
VKSND cấp tỉnh): Mỗi tỉnh sẽ có một VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương vậy nên cả nước có 63 Viện kiểm sát ở cấp này.
- VKSND tỉnh, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (sau
đây gọi là VKSND cấp tỉnh): Hiện nay trên cả nước có khoảng 191 Viện kiểm
sát cấp tỉnh.
- Viện kiểm sát quân sự các cấp: Trong đó bao gồm Viện kiểm sát
quân sự Trung ương, Viện kiểm sát cấp quân khu và Viện kiểm sát quân sự ở
các cấp Khu vực.
Như vậy, so với Luật Tổ chức VKSND năm 2002 thì Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 đã quy định thành bốn cấp Viện kiểm sát, tức là có quy
định thêm VKSND cấp cao, bên cạnh Viện kiểm sát quân sự các cấp vẫn
được giữ nguyên như trước. Theo Điều 51, Luật Tổ chức VKSND năm 2014,
hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ương;
Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Viện kiểm sát quân sự khu
vực.
Tương ứng với mỗi VKS các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền riêng theo tổ chức hệ thống, được cụ thể trong Luật Tổ chức VKSND
năm 2014:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân cấp cao;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa
51
phương mình. (Điều 41)
- Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp trong quân đội (Điều 50).
VKSND là một cơ quan trong bộ máy nhà nước có chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND có nhiệm vụ bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Cụ thể là:
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
* Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Tổ chức bộ máy của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn
phòng; Các phòng và tương đương (Khoản 1 Điều 46 Luật Tổ chức VKSND
năm 2014).
- Ủy ban kiểm sát
Theo Điều 47 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Ủy ban kiểm sát
VKSND cấp tỉnh được quy định như sau:
+ Về thành phần, Uỷ ban kiểm sát VKSND cấp tỉnh gồm có: Viện
trưởng; Các Phó Viện trưởng; một số Kiểm sát viên.
+ Về số lượng thành viên Uỷ ban kiểm sát, các Kiểm sát viên do Viện
trưởng VKSND tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSND cấp
tỉnh.
+ Về thẩm quyền, Ủy ban kiểm sát VKSND cấp tỉnh thảo luận và quyết
định những vấn đề quan trọng như: Việc thực hiện chương trình, kế hoạch
công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định của VKSND tối cao; việc thực hiện
chương trình, kế hoạch công tác của VKSND cấp cao; Báo cáo tổng kết công
52
tác với VKSND cấp trên, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng
cấp; Xét tuyển người đang công tác tại VKSND cấp tỉnh và cấp tỉnh đủ điều
kiện dự thi vào ngạch KSV cao cấp, KSV trung cấp, KSV sơ cấp; Xem xét, đề
nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Kiểm
sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp đang công tác
tại VKSND cấp tỉnh và cấp tỉnh.
+ Về vấn đề biểu quyết: Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá
nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang
nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng
không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì thực hiện
theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng VKSND tối
cao.
+ Về công tác tham mưu, tư vấn: Theo đề nghị của Viện trưởng
VKSND cấp tỉnh, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự,
vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
Bên cạnh Ủy ban kiểm sát, VKSND cấp tỉnh còn có các đơn vị nghiệp
vụ là các phòng và tương đương.
Thành phần của VKSND cấp tỉnh có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
Viện trưởng VKSND cấp tỉnh
Theo quy định tại Điều 66 Luật TCVKSND năm 2014 thì Viện trưởng
VKSND cấp tỉnh do Viện trưởng VKSND bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Nhiệm kì của Viện trưởng VKSND cấp tỉnh là 05 năm, kể từ ngày được bổ
nhiệm và có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Chỉ đạo, điều hành, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế
hoạch công tác của Viện kiểm sát cấp tỉnh; quyết định các vấn đề về công tác
53
của VKSND cấp tỉnh, quyết định các vấn đề về công tác của VKSND cấp
tỉnh; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của VKSND cấp tỉnh và cấp dưới
trực thuộc trước Viện trưởng VKSND tối cao; báo cáo công tác của Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh và cấp dưới trực thuộc trước Viện trưởng VKSND
tối cao; báo cáo công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của
VKSND cấp tỉnh và cấp dưới trực thuộc trước Viện trưởng VKSND tối cao;
+ Chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra hoạt động của VKSND cấp
tỉnh trực thuộc;
+ Báo cáo trước Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương về công tác của VKSND cấp mình và cấp dưới; trả lời chất vấn, kiến
nghị, yêu cầu của đại biểu hội đồng nhân dân cùng cấp;
+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Các Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh
Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh do Viện trưởng VKSND tối cao bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ là 05 năm kể từ ngày được bổ nhiệm
và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, theo sự phân
công hoặc ủy quyền của Viện trưởng VKSND cấp mình chịu trách nhiệm về
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trước Viện trưởng VKSND cấp mình và
pháp luật.
* Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh)
VKSND cấp tỉnh gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, các Kiểm
sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác. Hiện tại
VKSND cấp tỉnh chưa thành lập văn phòng và không có Ủy ban kiểm sát.
VKSND cấp tỉnh thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong
phạm vi địa phương mình.
Viện trưởng VKSND cấp tỉnh
54
Theo quy định tại Điều 67 Luật TC VKSND năm 2014 thì Viện trưởng
VKSND cấp tỉnh do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức và có nhiệm kỳ là 05 năm kể từ ngày được bổ nhiệm và có những
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công
tác, quyết định các vấn đề về công tác của VKSND cấp mình và thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy đjnh của pháp luật; chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Viện trưởng VKSND cấp tỉnh; báo cáo công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử với Viện trưởng VKSND cấp cao khi
có yêu cầu;
- Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn, kiến
nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh
Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh do Viện trưởng do Viện trưởng
VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và có nhiệm kỳ là 05 năm
kể từ ngày được bổ nhiệm.
Ngoài ra, Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn theo quy định của pháp luật, theo sự phân công hoặc ủy quyền của Viện
trưởng VKSND cấp mình; chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiêm vụ,
quyền hạn trước Viện trưởng VKSND cấp mình và trước pháp luật.
2.1.2. Các chức danh tư pháp trong hệ thống tổ chức của Viện
kiểm sát nhân dân
2.1.2.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định tại Điều 74 Luật Tổ chức VKSND năm 2014: “KSV là
người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Như vậy, theo khái
55
niệm trên, có thể thấy, trong hệ thống các chức danh tư pháp ở nước ta, ở mỗi
cơ quan khác lại có các chức danh tương ứng với chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan đó. KSV là một chức danh tư pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân bên
cạnh Điều tra viên, Kiểm tra viên VKSND.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên: Nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên được quy định tại Điều 83, Luật Tổ chức VKSND năm 2014, cụ
thể như sau:
+ Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, KSV tuân
theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND. Kiểm sát viên
tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết
định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và
kiểm sát hoạt động tư pháp.
Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định của Viện trưởng VKSND. Khi
có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì KSV có quyền từ chối
nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng;
trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và
Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả
của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng VKSND cấp trên có
thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về quyết định của mình.
Viện trưởng VKSND có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với
vi phạm pháp luật của KSV khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có quyền rút,
đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của KSV.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của KSV khi thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp do luật định. Theo đó, thực hành quyền công tố là
một trong những chức năng quan trọng nhất của KSV và là một trong những
chức năng của VKSND, KSV thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự
56
để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội và được thực
hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiển nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Cùng với nhiệm vụ thực
hành quyền công tố, KSV có nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm kiểm
sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp.
Ngoài ra, KSV còn có các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật
cán bộ, công chức và Điều 83 Luật Tổ chức VKSND. Thêm vào đó, KSV
phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật, có cuộc sống
lành mạnh, tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng; tham gia tuyên truyền,
phổ biến pháp luật; giữ gìn bí mật Nhà nước và bí mật công tác, tôn trọng và
chịu sự giám sát của nhân dân.
+ Trong vụ việc có nhiều KSV tham gia giải quyết thì KSV ở ngạch
thấp hơn phải tuân theo sự phân công, chỉ đạo của KSV ở ngạch cao hơn.
+ Khi thực hiện nhiệm vụ, KSV có quyền ra quyết định, kết luận, yêu
cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật.
- Ngạch, nhiệm kỳ Kiểm sát viên
Điều 76 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, quy định Ngạch Kiểm sát
viên VKSND gồm có:
+ Kiểm sát viên VKSND tối cao;
+ Kiểm sát viên cao cấp;
+ Kiểm sát viên trung cấp;
+ Kiểm sát viên sơ cấp.
Ở VKSND tối cao có thể được bố trí bốn ngạch KSV; ở Viện kiểm sát
quân sự trung ương có Viện trưởng là Kiểm sát viên VKSND tối cao và có
thể được bố trí các ngạch KSV cao cấp, trung cấp, sơ cấp; các Viện kiểm sát
khác có thể được bố trí các ngạch Kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp.
57
Theo Điều 82 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, nhiệm kỳ của KSV
được quy định như sau: KSV được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm;
trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.
2.1.2.2. Kiểm tra viên Viện kiểm sát nhân dân
Kiểm tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để
giúp KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng VKSND
(Khoản 1 Điều 90 Luật Tổ chức VKSND năm 2014).
- Ngạch Kiểm tra viên: Theo Khoản 2 Điều 90 Luật Tổ chức VKSND
năm 2014, Kiểm tra viên có các ngạch sau đây: Kiểm tra viên; Kiểm tra viên
chính; Kiểm tra viên cao cấp. Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 3 Điều 90
Luật Tổ chức VKSND năm 2014, tiêu chuẩn bổ nhiệm, điều kiện nâng ngạch
Kiểm tra viên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên: Theo Khoản 4 Điều 90 Luật
Tổ chức VKSND năm 2014, kiểm tra viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
+ Nghiên cứu hồ sơ vụ, việc và báo cáo kết quả với Kiểm sát viên;
+ Lập hồ sơ kiểm sát vụ, việc;
+ Giúp KSV thực hiện hoạt động khác khi thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp;
+ Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện
trưởng.
KTV chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Kiểm sát viên và trước
Viện trưởng VKSND về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có
hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
58
2.1.2.3. Điều tra viên Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định của Luật Tổ chức VKSD năm 2014, ĐTV VKSND là
một chức danh pháp lý được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, đặc biệt
theo khoản 1 Điều 45 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy
định: ĐTV là người được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ Điều tra hình sự. ĐTV
VKSND có 03 ngạch bao gồm: ĐTV sơ cấp, ĐTV trung cấp và ĐTV cao cấp.
ĐTV là một chức danh tư pháp theo đó nhiệm kỳ của ĐTV cũng giống
như các chức danh tư pháp khác của VKSND và có những nhiệm vụ, quyền
hạn theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014.
2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
2.1.3.1. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
VKSND là một thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước. Tại khoản
1 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định: “VKSND thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp”. Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy
định: “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, theo Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND có hai chức
năng, đó là: chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp. Cụ thể là:
2.1.3.2.Chức năng thực hành quyền công tố
Quyền công tố là quyền buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội.
Quyền buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội thể hiện ở quyền của
Nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết để tìm ra người phạm tội và truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó ra trước Tòa án để xét xử và thực
hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao
cho VKSND thực hiện.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014:
59
“Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
Như vậy, quyền công tố là quyền của Nhà nước trong việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
Về nội dung thực hành quyền công tố: Khi thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố, VKSND có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Yęu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do
BLTTHS quy định;
- Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố
theo quy định của BLTTHS;
- Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra;
- Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm
rõ tội phạm, người phạm tội;
- Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội
60
đối với người phạm tội;
- Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về
tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật;
- Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy
tố;
- Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp VKSND
phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội (Tùy thuộc vào thời điểm
kháng nghị mà Viện kiểm sát có thể thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm);
- Thực hiện nhiệm vụ quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với
người phạm tội theo quy định của BLTTHS.
Về phạm vi thực hành quyền công tố: Tại khoản 1 Điều 3 Luật
TCVKSND 2014 đã xác định: “Thực hành quyền công tố… được thực hiện
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Như vậy,
VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kết thúc khi chấm dứt việc xét xử của
Tòa án hoặc khi có quyết định đình chỉ vụ án.
Về mục đích của chức năng thực hành quyền công tố: Theo quy định tại
khoản 2 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND thực hành
quyền công tố nhằm bảo đảm:
- Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm
tội;
- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
61
quyền con người, quyền công dân trái luật.
2.1.3.3. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014:
“Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trongsuốt quá trình giải quyết vụ án hình
sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo
quy định của pháp luật.”. Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong
những hình thức kiểm soát quyền lực tư pháp của Nhà nước để kiểm sát tính
hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động tư pháp. Ở nước ta, quyền kiểm sát hoạt động tư pháp được Nhà nước
giao cho Viện kiểm sát thực hiện.
Về nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp: Khi thực hiện chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo
đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp
thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu
để VKSND kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt
động tư pháp;
- Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp;
- Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư
pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa
62
vi phạm pháp luật và tội phạm;
- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến
nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành
vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác
trong hoạt động tư pháp.
Trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm
quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị. Cơ quan, người có
thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của VKSND theo quy định của pháp
luật.
- Kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật
Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường
hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này thì VKSND kiến nghị cơ quan,
tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người
vi phạm pháp luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì
kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp
phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân liên
quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND theo
quy định của pháp luật;
- Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp;
giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư
pháp theo quy định của pháp luật.
Về phạm vi kiểm sát hoạt động tư pháp: Kiểm sát hoạt động tư pháp
được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
63
phạm, kiến nghị khởi tố và trongsuốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong
việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của
pháp luật.
Về mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp: VKSND kiểm sát hoạt
động tư pháp nhằm bảo đảm:
- Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật;
- Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của
pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải
được tôn trọng và bảo vệ;
- Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi
hành nghiêm chỉnh;
- Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện,
xử lý kịp thời, nghiêm minh.
2.1.3.4. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp 2013 và khoản 2 Điều 2
Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKSND có các nhiệm vụ sau đây:
- Nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật:
Để thực hiện nhiệm vụ này, Viện kiểm sát có trách nhiệm bảo đảm phát
hiện và xử lý kịp thời mọi tội phạm và người phạm tội, việc xử lý thông tin về
64
tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; kịp thời yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị những hành vi, quyết định có vi phạm Hiến pháp và pháp
luật.
- Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân:
Khi thực hiện chức năng được giao, Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ
quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định, bảo
đảm không ai bị bắt, giam giữ, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân
một cách trái pháp luật, kịp thời áp dụng các biện pháp do luật định để khắc
phục các hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền
con người, quyền công dân.
- Nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa:
Khi thực hiện chức năng được giao, Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, kịp thời phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các hành
vi về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân:
Thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh mọi tội phạm
và thực hiện quyền hạn để loại trừ các vi phạm trong hoạt động tư pháp, hoạt
động của Viện kiểm sát góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm.
- Nhiệm vụ góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất:
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong
65
việc khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, trong việc giải quyết vụ án
hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật là hoạt động
góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
2.2. Nội dung đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp
2.2.1. Phương hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân tiền đề cho việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp
* Đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/ 6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp và Kế hoạch số 05-KH/CCTP của Ban chỉ đạo cải cách tư
pháp trung ương về triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ rõ
nhiệm vụ chính của Viện kiểm sát nhân dân là tập trung làm tốt chức năng
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ
mà Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra là: Viện kiểm sát các cấp
thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không
bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Nâng cao
chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với
luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Để thực hiện
nhiệm vụ này. Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tiếp tục đổi mới, kiện toàn
tổ chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân các cấp theo lộ trình cải
cách tư pháp. Các nội dung cụ thể là:
- Kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị thực hành quyền công tố và
66
kiểm sát hoạt động tư pháp ở Viện kiểm sát nhân dân các cấp, đảm bảo thống
nhất, đồng bộ và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Theo đó,
thành lập mới một số đơn vị chức năng cấp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, đó là:
+ Thành lập mới Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án
tham nhũng theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng: Việc thành lập
đơn vị này là nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng hiện nay. Mặt khác, đảm bảo sự đồng bộ với tổ chức của các cơ quan
khác được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện
nay.
+ Thành lập mới Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án
ma túy trên cơ sở tách ra từ Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án an ninh, ma túy. Việc thành lập đơn vị này là nhằm phù hợp với yêu
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy và đảm bảo sự đồng bộ với tổ
chức Cơ quan điều tra của Bộ Công an theo quy định của Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự năm 2004.
+ Thành lập mới Vụ hợp tác quốc tế. Việc thành lập đơn vị này xuất từ
tình thực tiễn là năng lực tham gia giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài
của các cơ quan tư pháp nói chung và của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng
còn rất hạn chế, nhất là trong điều kiện giao lưu quốc tế của nước ta hiện nay
và những năm tiếp theo. Đơn vị này ngoài việc thực hiện chức năng tham
mưu, quản lý về hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của ngành Kiểm sát
nhân dân thì còn có nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu để cùng với các đơn vị
chức năng của Việt Nam như Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp, Bộ Ngoại giao và phối hợp với cơ quan tư pháp của nước ngoài trong
việc tăng cường năng lực giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài trong điều
kiện đất nước mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế, nhất là khi nước ta gia
67
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
+ Thành lập mới Vụ thi đua khen thưởng của ngành Kiểm sát nhân dân.
Đơn vị này có chức năng tham mưu, quản lý về công tác thi đua khen thưởng
trong ngành Kiểm sát nhân dân. Việc tăng cường công tác thi đua khen
thưởng trong giai đoạn hiện nay là cần thiết nhằm động viên cán bộ, công
chức trong ngành thực hiện tốt công tác chuyên môn nghiệp vụ nhất là trong
điều kiện cải cách tư pháp hiện nay.
Trên cơ sở thành lập mới một số đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, cũng cần xem xét, lựa chọn để triển khai thành lập đơn vị tương
ứng ở cấp dưới của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Theo đó, ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có thể thành lập thêm
hai phòng nghiệp vụ là: Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ
thẩm án tham nhũng và Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ
thẩm án ma túy.
- Tổ chức sơ kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện tăng thẩm quyền cho
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; đồng thời phối hợp với các cơ quan tư pháp
tiếp tục lựa chọn trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định danh sách các
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có đủ điều kiện để tăng thẩm quyền theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 theo lộ trình tăng thẩm quyền đã xác định.
- Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát trong sạch, vững mạnh.
Năng cao chất lượng công tác tuyển chọn, qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo tuyển chọn đủ cán bộ cho Viện kiểm sát cấp
tỉnh đáp ứng nhu cầu cho việc tăng thẩm quyền. Tiếp tục thực hiện công tác
luân chuyển, điều động cán bộ theo chủ trương của Đảng, tăng cường kiểm
sát viên có năng lực cho Viện kiểm sát nhân dân các địa phương. Đồng thời,
68
nghiên cứu phương án thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào chức danh kiểm
sát viên; nghiên cứu phương án tăng thời hạn bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm không
thời hạn đối với chức danh kiểm sát viên, điều tra viên của Viện kiểm sát
nhân dân; nghiên cứu đề án đổi mới chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ đối
với cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân theo lộ trình chung.
* Những định hướng trọng tâm cần tập trung nghiên cứu để làm cơ sở
cho việc đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân .
Theo lộ trình Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp thì từ sau năm 2010, việc đổi mới tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân theo định hướng chuyển Viện kiểm sát nhân dân thành Viện công
tố. Do đó, việc nghiên cứu vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy làm việc của Viện công tố cần phải
được khẩn trương nghiên cứu làm rõ về một số nội dung cơ bản sau:
Một là, cần phải nghiên cứu để xác định vị trí của Viện công tố trong
bộ máy nhà nước trong tiến trình cải cách tư pháp là Viện công tố trực thuộc
Chính phủ hay trực thuộc Quốc hội như hiện nay. Trong đó, phải chú trọng đề
cao tính độc lập trong hành xử quyền công tố và việc bảo vệ lợi ích công.
Tính độc lập của các quyết định công tố là một yếu tố không thể thiếu nhằm
tạo nên tính khách quan thực sự của hệ thống tư pháp với tính cách là "đơn vị
bảo vệ lợi ích xã hội", phù hợp với xu hướng chung mà các nước mong muốn
để các công tố viên phải được hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hoàn
toàn độc lập mà không phải chịu bất cứ một sự can thiệp nào.
Hai là, cần xác định chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố trong tố
tụng hình sự theo hướng là trung tâm quyết định tố tụng trong giai đoạn điều
tra, truy tố tội phạm. Theo đó, Viện công tố có các thẩm quyền cơ bản là:
Quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định các biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra; quyết định các hoạt động thu thập chứng cứ và
69
truy tìm thủ phạm; quyết định việc kết thúc điều tra, điều tra lại theo chế độ
dự thẩm; quyết định truy tố tội phạm hay không truy tố.
Ba là, về vị trí, vai trò của Viện công tố trong tố tụng dân sự, hành
chính, lao động, kinh doanh, thương mại và trong thi hành án khi Viện công
tố không thực hiện việc kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án tại phiên tòa xét
xử các vụ án dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh, thương mại thì cần
nghiên cứu cơ chế để Viện công tố có trách nhiệm và có các quyền năng tố
tụng cần thiết để bảo vệ lợi ích công như Viện công tố các nước, đó là các
quyền: khởi tố, tham gia phiên tòa, kháng nghị những bản án, quyết định
không có căn cứ và trái pháp luật; trực tiếp quyết định thi hành án trong một
số trường hợp…. Viện công tố thực hiện một số nhiệm vụ trong các lĩnh vực
này là nhân danh công quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, phù hợp với trình độ dân trí, truyền thống pháp lý và xu
hướng chung của các nước trong điều kiện hội nhập.
Bốn là, nghiên cứu vai trò của Viện công tố trong việc chủ trì nghiên
cứu, phân tích tội phạm, đề xuất với Đảng và Nhà nước về hoàn thiện chính
sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm
tham nhũng. Nghiên cứu việc thành lập Viện nghiên cứu tội phạm quốc gia
trực thuộc Viện công tố trung ương.
Năm là, về mô hình tổ chức của Viện công tố theo yêu cầu cải cách tư
pháp phải được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhưng phải
đồng bộ với tổ chức Cơ quan điều tra, bảo đảm chủ trương tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. Theo đó, cần nghiên cứu xây dựng
mô hình Viện công tố bốn cấp tương ứng với bốn cấp của Tòa án hay chỉ ba
là cấp phúc thẩm, thượng thẩm và cấp trung ương tương ứng với Tòa án, còn
Viện công tố cấp khu vực thì tương ứng với Cơ quan điều tra? Nghiên cứu cơ
cấu bộ máy của Viện công tố các cấp về các bộ phận nghiệp vụ, tham mưu,
70
giúp việc; nghiên cứu cơ cấu của hệ thống tổ chức công tố, cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng chức cán bộ, nghiên cứu khoa học.
Sáu là, nghiên cứu các cơ chế tổ chức và hoạt động của Viện công tố để
nâng cao tính chủ động, độc lập trong tố tụng của mỗi cấp công tố nhưng phải
bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của toàn bộ hệ thống. Nghiên cứu
nguyên tắc độc lập quyết định truy tố hay không truy tố tội phạm bảo đảm sự
linh hoạt của chính sách công tố trong tinh thần vừa tôn trọng luật pháp vừa tính
đến lợi ích của công chúng, tập trung xử lý các vụ án phạm tội nghiêm trọng,
phức tạp có hiệu quả. Nguyên tắc độc lập quyết định truy tố hay không truy tố
được qui định trong khuôn khổ pháp luật và công khai về chính sách công tố do
Tổng công tố trưởng đề ra và để thực tiễn áp dụng nguyên tắc này không bị lợi
dụng thì phải có cơ chế kiểm soát, có giải thích và được thông báo công khai.
Bảy là, về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp và việc phân
định các thẩm quyền này trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố theo
hướng cần nghiên cứu để phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với
thẩm quyền tư pháp của các chức danh pháp lý trong Viện công tố. Đặt vấn đề
này là do xuất phát từ thực tế hiện nay đã có sự không rõ ràng trong việc xác
định các thẩm quyền này dẫn tới gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong khi
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi chức danh và việc xác định trách
nhiệm pháp lý của từng chức danh trong những trường hợp cụ thể.
Tám là, về mối quan hệ giữa Viện công tố với Ủy ban tư pháp của
Quốc hội (nếu cơ quan này được Quốc hội thành lập trong thời gian tới) và
Hội đồng nhân dân các cấp thì cần nghiên cứu các vấn đề: Ủy ban tư pháp của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp giám sát hoạt động của hệ thống công
tố được thực hiện theo cơ chế nào? giám sát chung hay giám sát sự việc cụ thể
và khi giám sát sự việc có quyền kết luận tính đúng, sai của những quyết định
công tố và yêu cầu Viện công tố phải xem xét lại nhưng Viện công tố có
71
quyền không tuân theo kết luận của Ủy ban tư pháp không? cơ chế giám sát
của Hội đồng nhân dân về công tác thực hành quyền công tố của Viện công tố
các địa phương được tiến hành theo phương thức nào?
Chín là, cần nghiên cứu đề án về xây dựng đội ngũ công tố viên trong
sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
Thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân các cấp luôn chú trọng và có
nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công tác đào tạo
cán bộ nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành. Tuy nhiên, thực
trạng đội ngũ cán bộ, công tác đào tạo cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại,
hạn chế so với yêu cầu đặt ra. Với mục tiêu xây dựng đội ngũ công tố viên
trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp cần phải tiến
hành một số công việc sau:
- Nghiên cứu đề xuất cơ cấu cán bộ Viện công tố theo hướng đa chức
danh, bảo đảm phù hợp với chức năng công tố và việc tăng cường công tố
viên theo yêu cầu cải cách tư pháp. Các chức danh cơ bản là công tố viên, trợ
lý công tố viên,…
- Nghiên cứu mở rộng nguồn để bổ nhiệm công tố viên theo hướng
không chỉ là cán bộ trong ngành như hiện nay mà từ còn các nguồn khác như
luật sư, điều tra viên, thẩm phán… Đồng thời, đa dạng hình thức để lựa chọn
người bổ nhiệm công tố viên, bảo đảm chọn đúng và chính xác những người
cần cho sự nghiệp công tố của đất nước. Công tố viên phải có năng lực nghiệp
vụ và nắm chắc luật pháp, dũng cảm đấu tranh vì công lý. Đổi mới hình thức
thi tuyển bằng sát hạch thực tiễn giải quyết các vụ việc, hoặc bằng con đường
đánh giá, chấm điểm chất lượng, hiệu quả lao động của người cần bổ nhiệm,
khắc phục bệnh quan liêu trong xét bổ nhiệm. Nghiên cứu cơ chế loại bỏ
những công tố viên không có khả năng làm việc, khắc phục tình trạng đồng
nhất chính sách xã hội với chế độ của công tố viên.
72
- Nghiên cứu việc tăng thời hạn bổ nhiệm đối với công tố viên gắn với
cơ chế tuyển chọn công tố viên theo hướng bổ nhiệm không thời hạn (hiện
nay thời hạn bổ nhiệm là 5 năm sau đó xét bổ nhiệm lại thường là thủ tục).
Nâng độ tuổi nghỉ hưu cho các chức danh tư pháp, trong đó có chức danh
công tố viên do đặc thù của lao động tư pháp là kinh nghiệm thực tiễn và tâm
lý cuộc sống, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế.
- Đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng công tố viên đáp ứng yêu
cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố trong tiến trình cải cách
tư pháp và hội nhập quốc tế. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và nâng cao năng
lực điều tra, kỹ năng công tố, trình độ ngoại ngữ và tin học. Công tố viên
trong thời gian tới phải được đào tạo và bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ
điều tra tội phạm mới có thể hoàn thành nhiệm vụ công tố chỉ đạo điều tra,
tăng cường tranh tụng tại phiên tòa.
- Nghiên cứu đổi mới các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công tố viên đủ
năng lực để giảng dạy và nghiên cứu về kỹ năng công tố, phương pháp điều
tra tội phạm, thống kê hình sự và nghiên cứu tội phạm học.
- Nghiên cứu đổi mới chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ cho ngũ
cán bộ, công tố viên. Lương và chế độ đãi ngộ phải phù hợp với đặc thù của
hoạt động công tố và trong bối cảnh chung của sự phát triển kinh tế, có tính
đến khả năng phát triển kinh tế của từng địa phương. Nghiên cứu cơ chế khen
thưởng bổ nhiệm trước thời hạn đối với công tố viên có sáng kiến, có thành
tích xuất sắc trong công tác.
2.2.2. Những vấn đề đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân từ
sau năm 2010
Với những nội dung nghiên cứu như đã nêu ở trên, có thể đề xuất về mô
hình Viện công tố trong cải cách tư pháp từ những nội dung có liên quan như sau:
* Vị trí của Viện công tố trong bộ máy nhà nước trong điều kiện cải
73
cách tư pháp.
Trong điều kiện cải cách tư pháp, vị trí của Viện công tố trong bộ máy
nhà nước là một cơ quan ngang bộ và trực thuộc Chính phủ tức là thuộc cơ
quan hành pháp. Viện công tố các địa phương được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung lãnh đạo thống nhất trong ngành, không chịu sự chỉ đạo
của chính quyền địa phương. Ưu điểm của phương án này là đảm bảo tính độc
lập, tính thống nhất chỉ đạo của cơ quan hành pháp trong quản lý nhà nước về
đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong một nhà nước vận hành theo nguyên
tắc pháp quyền thì Viện công tố phải hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật để thực hiện quyền lực nhà nước của hệ thống hành pháp khi phán quyết
những hành vi tội phạm sẽ không gặp phải sự can thiệp, trở ngại nào. Tính
độc lập của các quyết định công tố là một yếu tố không thể thiếu nhằm tạo
nên tính khách quan thực sự của hệ thống công tố với tính cách là đơn vị bảo
vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ lợi ích xã hội, phù hợp với xu hướng chung của
các nước trên thế giới trong điều kiện hội nhập và giao lưu quốc tế
* Về nguyên tắc tổ chức của hệ thống cơ quan Viện công tố.
Về nguyên tắc tổ chức của hệ thống cơ quan Viện công tố cần tiếp tục
áp dụng nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành. Viện trưởng Viện công
tố cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện công tố cấp trên và chịu sự
lãnh đạo thống nhất của Tổng công tố trưởng. Viện công tố các cấp hợp thành
một hệ thống thống nhất trực thuộc Chính phủ. Ưu điểm của nguyên tắc này
là để hoạt động công tố của Viện công tố không bị lệ thuộc, can thiệp của
chính quyền địa phương, đảm bảo tính độc lập khi truy cứu trách nhiệm đối
với người phạm tội, đảm bảo tính thống nhất của việc thực thi pháp luật trong
đấu tranh phòng chống, tội phạm.
* Về vai trò của Viện công tố trong giai đoạn điều tra.
Theo mô hình này, Viện công tố chỉ đạo hoạt động điều tra ngay từ
74
đầu, tức là công tố viên quyết định mở cuộc điều tra theo trình tự tố tụng, chỉ
đạo điều tra viên thu thập các bằng chứng buộc tội và truy tìm thủ phạm.
Căn cứ vào tổng kết thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra trong Văn
kiện đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết số 49 của Bộ
Chính trị, thì cần lựa chọn mô hình công tố mạnh có quyền chỉ đạo hoạt
động điều tra theo hướng:
- Viện công tố có trách nhiệm là đầu mối tiếp nhận và quyết định việc
phân loại, xử lý tất cả các tin báo, tố giác về phạm tội do cơ quan, tổ chức và
cá nhân cung cấp. Cơ quan điều tra thực hiện việc xác minh tin báo, tố giác về
tội phạm theo mệnh lệnh của Viện công tố. Viện công tố phải là cơ quan trực
tiếp ra tất cả các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trên cơ sở kết quả
xác minh của Cơ quan điều tra.
- Mọi mệnh lệnh của Viện công tố có giá trị bắt buộc đối với Cơ quan
điều tra; nếu không đồng ý thì Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành nhưng có
quyền kiến nghị Viện công tố cấp trên xem xét. Khi tiến hành các hoạt động
điều tra thì điều tra viên phải do công tố viên điều hành, chỉ đạo trực tiếp;
công tố viên có quyền yêu cầu điều tra viên thu thập chứng cứ và truy tìm thủ
phạm. Để thực hiện được nội dung này cần xác lập cơ chế pháp lý để điều tra
viên hoàn thành trách nhiệm tố tụng của mình trong mối quan hệ ràng buộc
với công tố viên.
- Viện công tố trực tiếp ra các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, thay cho
việc phê chuẩn các lệnh, quyết định đó của Cơ quan điều tra như hiện nay;
quyết định việc thu nhập chứng cứ và truy tìm thủ phạm; quyết định việc kết
thúc điều tra; có quyền điều tra lại theo chế độ dự thẩm; quyết định truy tố
hay không truy tố một tội phạm. Thực hiện cơ chế này vừa đơn giản, thuận
lợi về mặt thủ tục, tiết kiệm và đảm bảo tính nghiêm minh của văn bản tố
75
tụng do Viện công tố ban hành; đồng thời khắc phục được tình trạng trả hồ
sơ để điều tra bổ sung làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài; mặt khác,
qua đó nêu cao trách nhiệm của Viện công tố, của Cơ quan điều tra trong
đấu tranh chống tội phạm.
* Vai trò của Viện công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.
- Tăng cường năng lực của công tố viên thực hành quyền công tố tại
phiên tòa xét xử, đảm bảo tranh tụng dân chủ với người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác. Công tố viên phải nắm chắc hồ sơ chứng cứ,
theo dõi chặt chẽ diễn biến tại phiên tòa để hỏi và luận tội một cách xác đáng,
tranh luận có trọng tâm, thuyết phục, góp phần làm sáng tỏ mọi tình tiết của
vụ án. Kết thúc phiên tòa xét xử, nếu thấy rằng Tòa án áp dụng pháp luật hình
sự không đúng hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì công tố viên
báo cáo Viện trưởng ra kháng nghị yêu cầu Tòa cấp trên thụ lý, giải quyết.
- Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là đúng đắn và cần
thiết trong bảo vệ công lý. Nhưng để chống lạm quyền, độc đoán trong việc
Tòa án ra phán quyết thì tất yếu phải có sự giám sát mang tính pháp lý mà
quyền kháng nghị của Viện công tố đối với bản án, quyết định của Tòa án
chính là phương thức dùng quyền lực để chế ước quyền lực, đảm bảo sự công
bằng, bình đẳng trong việc xét xử vụ án hình sự, đảm bảo công lý. Quan niệm
cho rằng bỏ việc kiểm sát xét xử của Viện công tố tại phiên tòa chỉ đúng với ý
nghĩa là bỏ kiểm sát hành vi và các quyết định tố tụng của Tòa án trước và
trong khi xét xử tại phiên tòa, còn các quyết định tố tụng của Tòa án sau khi
xét xử thì vẫn là đối tượng phải có sự giám sát của Viện công tố. Pháp luật
hiện hành đã giao cho Viện kiểm sát nhân dân quyền kháng nghị đối với bản
án, quyết định của Tòa án là phù hợp với xu hướng chung về tư pháp của các
nước phát triển. Điều này cần phải được tiếp tục kế thừa khi quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện công tố nước ta trong tiến trình cải cách tư pháp.
76
* Vai trò của Viện công tố trong tố tụng dân sự, lao động, hành chính,
kinh doanh, thương mại.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ thì
có xu hướng càng giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào việc dân sự mà đề
cao nguyên tắc các đương sự tự định đoạt là đúng đắn và cần thiết. Các cơ
quan công quyền kể cả cơ quan hành chính và tư pháp phải tạo mọi điều kiện
cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền dân sự của họ. Tuy nhiên, do trình
độ dân trí và việc quản lý nhà nước đối với các giấy tờ chứng nhận về qyền sở
hữu tài sản, sở hữu trí tuệ có liên quan đến việc giải quyết các vụ việc dân sự
ở nước ta còn yếu kém, bất cập; trình độ và năng lực của đội ngũ Thẩm phán
cũng còn hạn chế, nên trong một số loại việc dân sự mà đương sự không có
khả năng thực hiện được các quyền để bảo vệ lợi ích của mình trước Tòa án
hoặc trong những trường hợp bên nguyên đơn, bên bị đơn cùng thỏa thuận để
gây thiệt hại cho lợi ích của người thứ ba, lợi ích công cộng thì cần thiết phải
có sự tham gia của Viện công tố để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể
này. Thực tiễn hiện nay việc giải quyết các tranh chấp dân sự của Tòa án là
lĩnh vực đang có nhiều bức xúc của xã hội đòi hỏi phải có sự tham gia của
Viện công tố trong những trường hợp nhất định.
Việc quy định Viện công tố có quyền đại diện lợi ích công cộng đưa
một số loại tranh chấp dân sự nhất định ra tòa và Viện công tố là người đại
diện cho công quyền tranh tụng tại phiên tòa không chỉ bảo vệ quyền lợi cá
nhân mà quan trọng hơn còn là để bảo vệ lợi ích công chúng. Việc khẳng định
vai trò của Viện công tố trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, hành
chính, lao động, kinh doanh, thương mại liên quan đến lợi ích công cộng sẽ
tạo động lực thúc đẩy các quan hệ dân sự, kinh tế phát triển lành mạnh hướng
tới mục tiêu đảm bảo công bằng, bình đẳng và công lý xã hội. Điều đó cũng
phù hợp với truyền thống pháp lý của nước ta và xu hướng chung trong luật
77
pháp của nhiều nước trên thế giới đều có quy định Viện công tố trong một số
trường hợp đại diện cho lợi ích công cộng đưa vụ việc dân sự ra tòa. Cũng
xuất phát từ việc Viện công tố có quyền đại diện lợi ích công cộng, bảo vệ lợi
ích công cộng, do đó, cần qui định quyền kháng nghị của Viện công tố đối với
các bản án, quyết định về dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh, thương
mại và trong thi hành án khi các bản án, quyết định đó khi có vi phạm pháp
luật và ảnh hưởng đến lợi ích công cộng.
* Vai trò của Viện công tố trong lĩnh vực phòng vi phạm và tội phạm.
Thông qua thực hiện chức năng công tố trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm, Viện công tố đề xuất những kiến nghị với các cơ quan có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp khắc phục những sơ hở trong quản lý nhà nước,
kinh tế, xã hội và áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Viện công tố đóng vai tṛ
trung tâm trong việc chủ tŕ nghiên cứu, phân tích tội phạm, đề xuất với Đảng
và Nhà nước về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng, chống tội
phạm nhất là tội phạm về tham nhũng. Do đó, về tổ chức bộ máy cần thành
lập Viện nghiên cứu phòng ngừa tội phạm quốc gia trực thuộc Viện công tố
tối cao.
* Về mô hình tổ chức của Viện công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Căn cứ vào yêu cầu cải cách tư pháp được ghi trong Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
thì Viện công tố phải được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án.
Theo đó hệ thống Viện công tố nếu chỉ phù hợp với tổ chức Tòa án thì gồm 4
cấp là:
- Viện công tố khu vực: Được tổ chức ở một (nơi có số lượng án nhiều)
hoặc một số đơn vị hành chính cấp tỉnh (nơi có số lượng án không nhiều).
Nhiệm vụ chủ yếu của các Viện công tố này là thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra và thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các
78
vụ án thuộc thẩm quyền của cấp tỉnh như hiện nay.
- Viện công tố phúc thẩm: Đặt tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương có nhiệm vụ chủ yếu là thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo,
kháng nghị và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và giai đoạn
xét xử sơ thẩm một số vụ án do luật qui định phải được điều tra, truy tố, xét
xử sơ thẩm ở cấp tỉnh.
- Viện công tố thượng thẩm: Có nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại
các phiên tòa phúc thẩm các vụ án mà Tòa án cấp phúc thẩm xét xử sơ thẩm
vụ án đó theo thẩm quyền. Viện công tố thượng thẩm đặt tại các vùng phù
hợp với tổ chức Tòa án thượng thẩm.
- Viện công tố tối cao: Viện công tố tối cao có trụ sở đặt tại Hà Nội có
nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm thực hành quyền công tố, hướng dẫn áp dụng
pháp luật thống nhất, tham gia các phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa
án nhân dân tối cao.
Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của hệ thống Viện công tố cần tính đến sự
đồng bộ với tổ chức Cơ quan điều tra nhằm thực hiện chủ trương của Đảng là
gắn kết hoạt động công tố với hoạt động điều tra, tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra và cũng là để nâng cao chất lượng tranh tụng
của công tố viên tại phiên tòa. Vì vậy, mô hình tổ chức Cơ quan điều tra cũng
phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo sự phù hợp với tổ chức của hệ
thống Viện công tố và tổ chức của hệ thống Tòa án
* Về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp và việc phân định
các thẩm quyền đó trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố.
Theo đó, các quyền hạn tư pháp chủ yếu tập trung vào chức danh công
tố viên; còn các chức danh Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện công tố là chủ
yếu thực hiện chức năng quản lý hành chính trong đơn vị, chỉ thực hiện tố
79
tụng khi cần thiết đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp và khi trực tiếp
thực hiện hoạt động tố tụng thì với tư cách tố tụng là công tố viên. Do đó, cần
nghiên cứu phương án để đảm bảo tính khả thi theo hướng xây dựng chế độ
công tố viên mạnh đủ khả năng đảm nhiệm quyền ra về cơ bản các quyết định
tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện công tố. Làm như vậy vừa phân định được
thẩm quyền tố tụng và thẩm quyền hành chính, vừa bảo đảm tính pháp quyền
trong hoạt động công tố, nâng cao tính chủ động và tự chịu tránh nhiệm của
mỗi chức danh, khắc phục tình trạng quan liêu hoặc quá tải về công việc của
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp hiện nay. Để làm được
điều này, công tố viên phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức điều tra tội
phạm mới có thể hoàn thành trách nhiệm trong điều kiện cải cách tư pháp với
nhiệm vụ là công tố viên chỉ đạo hoạt động điều tra.
* Về hoàn thiện và xây dựng mối quan hệ giữa Viện công tố với Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban tư pháp của Quốc hội, đảm bảo thực
hiện cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân, của Ủy ban tư pháp đối với tổ
chức và hoạt động của hệ thống Viện công tố.
2.3.Thực trạng thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông theo tiến trình cải cách tư pháp
2.3.1. Khái quát tình hình của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Nông
2.3.1.1. Khái lược quá trình hình thành và phát triển của VKSND tỉnh
Đắk Nông
Căn cứ Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003, kỳ họp thứ 4,
Quốc hội khóa XI về việc chia tách và điều chỉnh địa giới hành chính một số
tỉnh thì tỉnh Đắk Lắk được chia tách thành 02 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông;
cùng với sự chia tách đó, VKSND tỉnh Đắk Nông được thành lập và đi vào
hoạt động theo Quyết định số 14/2004/QĐ- TCCB ngày 15/01/2004 của
80
VKSND tối cao.
Thời gian đầu đơn vị chỉ có 54 công chức và người lao động; đa số
công chức ở VKSND tỉnh được điều động từ VKSND các tỉnh của tỉnh Đắk
Lắk (chỉ có 08 đồng
chí công tác tại VKSND tỉnh). Cơ cấu bộ máy gồm có 05 phòng và 05
VKSND tỉnh trực thuộc. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng, trụ sở làm việc còn
phải đi thuê, đời sống của công chức và người lao động gặp muôn vàn khó
khăn, thiếu thốn, một số đồng chí phải ở nhà thuê, số còn lại ăn ở tập thể, ngủ
giường tầng…điều đó đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư của cán bộ,
công chức, cá biệt có trường hợp đã không giữ vững bản lĩnh, dao động trước
khó khăn, thiếu thốn nên đã xin nghỉ việc, xin chuyển công công tác trở về lại
Đắk Lắk hoặc đi các tỉnh, thành phố khác, do đó đã ảnh hưởng rất lớn đến kết
quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, được sự quan tâm, lãnh đạo,
chỉ đạo kịp thời của Ban cán sự đảng VKSND tối cao, của Thường trực Tỉnh
uỷ Đắk Nông, VKSND tỉnh đã từng bước ổn định bộ máy, đội ngũ cán bộ,
công chức từng bước ổn định tâm lý và tư tưởng, xác định trách nhiệm với
Ngành nên đã bắt tay thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, góp phần
giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương và
đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
2.3.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Nông
Cùng với tiến trình phát triển và hội nhập, bên cạnh những thành tựu
kinh tế - xã hội, tình hình vi phạm và tội phạm tại địa phương cũng diễn biến
phức tạp; quy mô và tính chất tội phạm ngày càng gia tăng, nghiêm trọng hơn,
hậu quả nặng nề hơn. Trước tình hình đó, toàn ngành đã đổi mới tư duy, tổ
chức bộ máy và biện pháp công tác, đấu tranh ngày càng hiệu quả đối với các
tội phạm.
81
Ngoài ra, trong những năm đầu xây dựng tỉnh Đắk Nông, công tác quy
hoạch, giải phóng mặt bằng, đền bù, hỗ trợ tái định cư diễn ra trên diện rộng,
công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn có hạn chế, thiếu sót, là một
trong những nguyên nhân dẫn đến xảy ra nhiều vụ việc tranh chấp liên quan
đến lĩnh vực đất đai, khiếu kiện về công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của
cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương, cá biệt xảy ra một số vụ việc
rất phức tạp, nguy cơ trở thành điểm nóng. Tuy nhiên xác định công tác kiểm
sát là nhiệm vụ chính trị nên VKSND đã chủ động tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền địa phương giải quyết được nhiều vụ, việc phức tạp ngay tại cơ
sở; đồng thời tăng cường công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành
chính, vụ việc dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, nhằm đảm bảo
việc giải quyết được khách quan, đúng pháp luật. Thực hiện tốt việc kiểm sát
chặt chẽ các bản án, quyết định của Tòa án, tổng hợp vi phạm, chú trọng nâng
cao chất lượng, số lượng các bản kháng nghị, kiến nghị yêu cầu cơ quan hữu
quan khắc phục nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật được thống nhất và
toàn diện.
2.3.2. Thực trạng tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Nông
2.3.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Nông
VKSND tỉnh Đắk Nông hiện có 08 phòng trực thuộc và 08 VKSND
cấp tỉnh, trong đó VKSND tỉnh Đắk Nông hiện có 01 đồng chí Viện trưởng,
03 đồng chí Phó Viện trưởng, Ủy ban kiểm sát (gồm 6/7 thành viên), các
phòng đều có Kiểm sát viên các ngạch; Kiểm tra viên, công chức khác và
người lao động. 08 VKSND cấp tỉnh đều được cơ cấu 01 Viện trưởng, 02 Phó
Viện trưởng theo quy định, VKSND các tỉnh thành lập các bộ phận công tác
như Văn phòng tổng hợp; bộ phận thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
82
động tư pháp trong lĩnh vực hình sự; bộ phận Kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực dân sự, hành chính.Biên chế đơn vị hiện có là 143/144
chỉ tiêu được phân bổ (Trong đó, cấp tỉnh là 56 biên chế, cấp tỉnh là 87 biên
chế) và 33 hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP của Chính
phủ.Toàn tỉnh có 126 người làm nghiệp vụ kiểm sát (chiếm 88%); trong đó có
06 Thạc sỹ Luật, 118 người có trình độ Cử nhân Luật, 01 người có trình độ
trung cấp kiểm sát, 02 người tốt nghiệp Đại học khác (hệ chính quy) và 17
công chức làm công tác khác như văn thư, lưu trữ, kế toán (chiếm 12%). Có
10 công chức là người dân tộc thiểu số (chiếm 6,9%); 33 công chức có trình
độ cao cấp Lý luận chính trị (chiếm 24%); 21 công chức có trình độ Trung
cấp lý luận chính trị (chiếm 14,6%).
Theo đó, hệ thống tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nông đã rút ngắn lại
so với năm 2015 là có 10 phòng và 08 đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
với số biên chế được giao là 150 người; trong đó VKSND tỉnh có 49/53 biên
chế và VKSND cấp tỉnh có 96/97 biên chế.
2.3.2.2. Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Nông nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp
* Về công tác thực hành quyền công tố
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 12 Luật
Tổ chức VKSND năm 2014)
Lãnh đạo VKSND tỉnh Đắk Nông đã chỉ đạo, chủ động đề ra nhiều giải
pháp đồng bộ nhằm thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn khi thực
hành quyền công tố, kiểm sát chặt chẽ, đầy đủ việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT và các Cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự. Tăng cường công tác phối hợp với CQĐT và các cơ quan
83
hữu quan để kịp thời nắm bắt tình hình vi phạm, tội phạm, công tác phân loại,
xử lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm; bảo đảm kiểm sát 100% tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được cơ quan chức năng thụ lý giải quyết.
Thận trọng trong việc phê chuẩn các Lệnh, Quyết định của CQĐT đảm bảo
tính có căn cứ và đúng pháp luật, kiên quyết không phê chuẩn các Lệnh,
Quyết định của CQĐT khi không đảm bảo tính căn cứ và chưa đúng theo quy
định của pháp luật.
VKSND tỉnh Đắk Nông đã THQCT, thụ lý kiểm sát: 4.711 tin (số mới:
4.697 tin). Đã giải quyết: 4.584 tin (khởi tố vụ án: 2.974 tin; không khởi tố vụ
án: 1.498 tin; tạm đình chỉ: 112 tin). Đang giải quyết: 127 tin. Trong đó, đã từ
chối phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp: 03 trường hợp; Không phê chuẩn gia hạn
tạm giữ: 01 trường hợp; Hủy bỏ Quyết định tạm giữ: 46 trường hợp;
VKSND đã chủ động phối hợp chặt chẽ với CQĐT nắm và phân loại
nguồn tin về tội phạm, kiểm sát chặt chẽ việc xử lý, giải quyết; kịp thời yêu
cầu CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án hình sự khi đủ căn cứ; lập đầy đủ hồ sơ
kiểm sát tin báo theo quy định của Ngành. Qua công tác kiểm sát đã trực tiếp
ban hành quyết định khởi tố 01 vụ/01 bị can và yêu cầu CQĐT tiến hành điều
tra theo thẩm quyền; yêu cầu CQĐT khởi tố 02 vụ/02 bị can (CQĐT đã khởi
tố 02 vụ/02 bị can).
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự (Điều 14 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)
VKSND đã triển khai thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của pháp luật và các biện pháp nhằm chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm;
tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra; kiên
quyết thực hiện các quyền yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can, hủy bỏ các
quyết định không có căn cứ của CQĐT. Nắm chắc tiến độ điều tra; kịp thời đề
ra yêu cầu điều tra; chủ động thực hiện một số hoạt động điều tra, trực tiếp hỏi
84
cung; phân công Kiểm sát viên tham gia đầy đủ các hoạt động khám nghiệm
hiện trường, khám xét, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra...của Điều tra
viên. Kiểm sát và quản lý chặt chẽ các trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ điều
tra; thường xuyên rà soát, đôn đốc việc bắt truy nã và yêu cầu CQĐT xác minh,
bảo đảm các vụ án tạm đình chỉ điều tra phải được xử lý ngay khi có đủ căn cứ,
không để xảy ra việc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
Trong kỳ, đã thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra: 3.554
vụ/6.716 bị can (số mới: 3.117 vụ/6.073 bị can). Đã giải quyết: 3.387
vụ/6.348 bị can (Kết thúc điều tra đề nghị truy tố: 2.858 vụ/6.037 bị can;
Đình chỉ: 142 vụ/236 bị can; Tạm đình chỉ: 387 vụ/75 bị can). Hiện đang giải
quyết: 167 vụ/368 bị can (tại thời điểm lấy số liệu).
Trong kỳ, VKS đã phối hợp với CQĐT xác lập 108 vụ án trọng điểm;
KSV tham gia kiểm sát 100% các hoạt điều tra bắt buộc theo quy định của
pháp luật; tích cực thực hiện các hoạt động hỏi cung, lấy lời khai….; ban hành
2.404 yêu cầu điều tra vụ án đảm bảo kịp thời, sát nội dung vụ án. Đã hủy 01
quyết định thay đổi QĐ KTBC; Hủy 11 QĐ KTVA, 29 QĐ KTBC, 34 QĐ
không KTVA, 02 QĐ đình chỉ điều tra. VKS quyết định khởi tố 06 vụ/09 bị
can và yêu cầu CQĐT điều tra theo thẩm quyền; không phê chuẩn việc bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp 11 trường hợp, gia hạn tạm giữ 06
trường hợp, Lệnh bắt, tạm giam 15 trường hợp. Yêu cầu CQĐT khởi tố 26
vụ/59 bị can, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố 12 vụ/13 bị can; yêu cầu bổ
sung tài liệu chứng cứ để xem xét phê chuẩn và kiểm sát khởi tố 81 vụ/41 bị
can. Yêu cầu bắt bị can để tạm gia 11 trường hợp; yêu cầu hủy 03 Quyết định
KTVA.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn truy tố (Điều 16 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)
VKSND đã chú trọng triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm tăng
85
cường trách nhiệm công tố; bảo đảm sự thận trọng, khách quan, toàn diện
trong việc đánh giá chứng cứ làm cơ sở vững chắc cho việc truy tố; phần lớn
các bị can đều được Kiểm sát viên tham gia hỏi cung hoặc trực tiếp hỏi cung
trước khi VKS ban hành quyết định truy tố hoặc yêu cầu xử lý theo quy định
của pháp luật. Do vậy, các quyết định truy tố của VKS đều đảm bảo thời hạn,
tính có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật; kể cả các
trường hợp đình chỉ, tạm đình chỉ trong giai đoạn truy tố.
Trong kỳ, đã thụ lý: 2.895 vụ/6.121 bị can (số mới: 2.858 vụ/6.037 bị
can). Đã giải quyết: 2.857 vụ/6.031 bị can, trong đó: Quyết định truy tố: 2.811
vụ/5.950 bị can; Đình chỉ: 44 vụ/79 bị can; tạm đình chỉ: 02 vụ/02 bị can.
Hiện đang giải quyết tại thời điểm lấy số liệu: 38 vụ/90 bị can.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự (Điều 18 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)
Trong công tác này, khi thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử sơ
thẩm án hình sự: 2.885 vụ/6.109 bị cáo (số mới: 2.811 vụ/5.954 bị cáo). Đã
giải quyết: 2.790 vụ/5.825 bị cáo (Xét xử: 2.772 vụ/5.786 bị cáo; đình chỉ: 18
vụ/39 bị cáo). Hiện đang giải quyết tại thời điểm lấy số liệu: 95 vụ/284 bị cáo.
Khi thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử phúc thẩm án hình sự bao
gồm: 686 vụ/1.172 bị cáo (số mới 670 vụ/1.151 bị cáo). Đã giải quyết: 681
vụ/1.167 bị cáo (Xét xử: 616 vụ/1.053 bị cáo; Đình chỉ: 65 vụ/114 bị cáo).
Hiện đang giải quyết tại thời điểm lấy số liệu: 05 vụ/05 bị cáo.
- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội: Không có
* Về công tác kiểm sát hoạt động tư pháp
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 13 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014)
86
Trong công tác này, VKSND đã kiểm sát 100% nguồn tin về tội phạm
do cơ quan có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Tiến hành 78 cuộc kiểm sát trực
tiếp việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố,
đã ban hành kết luận; Ban hành 101 kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm
trong hoạt động tiếp nhận, thụ lý giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến
nghị khởi tố tại CQĐT Công an cùng cấp, đối với các vi phạm phổ biến như:
chưa kịp thời thông báo việc tiếp nhận giải quyết nguồn tin về tội phạm cho
VKS cùng cấp; chậm ban hành Quyết định phân công ĐTV giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; vi phạm về thời hạn giải quyết nguồn
tin tội phạm; vi phạm về thời hạn đề nghị gia hạn thời hạn giải quyết nguồn
tin tội phạm, vi phạm trong việc thu thập và bảo quản vật chứng… Ban hành
18 kiến nghị phòng ngừa vi phạm, tội phạm. Tất cả các kiến nghị, yêu cầu đều
được cơ quan hữu quan tiếp thu, khắc phục
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự
(Điều 15 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)
Qua công tác kiểm sát, VKSND đã thực hiện tốt công tác tổng hợp vi
phạm, kịp thời ban hành 73 kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm trong hoạt
động điều tra của cơ quan chức năng, về các vi phạm điển hình như: Trong
nhiều vụ án các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập (KSV không
trực tiếp kiểm sát theo quy định) còn chậm gửi đến Viện kiểm sát để kiểm sát
việc lập hồ sơ vụ án; vi phạm về việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát
trong giai đoạn điều tra dẫn đến phải trả hồ sơ điều tra bổ sung; vi phạm thời
hạn điều tra; các quyết định trưng cầu giám định, định giá không gửi cho
VKS… và ban hành 29 kiến nghị đối với chính quyền địa phương trong công
tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm trên địa bàn.
87
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
(Điều 19 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)
Trong các năm công tác, kết quả đạt được trong công tác này như sau:
+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự
của Tòa án: Đã thực hiện kiểm sát chặt chẽ quy định các thủ tục tố tụng tại
phiên tòa theo quy của Bộ Luật tố tụng hình sự. VKS luôn nêu cao tinh thần
trách nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự, qua đó Viện kiểm sát đã hạn chế những vi phạm của
CQĐT và Tòa án, thực hiện tốt công tác tổng hợp vi phạm kịp thời ban hành
kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục vi phạm.
+ Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án: VKSND đã kiểm sát 2134
bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 606 bản án, quyết
ðịnh phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông
+ Kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người
tham gia tố tụng vi phạm pháp luật: Không
+ Kháng nghị: Tổng số kháng nghị của VKSND là 122 vụ/ 236 bị cáo.
Đã giải quyết 121 vụ/ 235 bị cáo trong đó: đình chỉ xét xử: 21 vụ/ 43 bị cáo;
xét xử 100 vụ/192 bị cáo, Tòa án chấp nhận kháng nghị: 82 vụ đạt tỷ lệ 82%
(vượt 10% so với chỉ tiêu Nghị quyết Quốc hội số 37). Kháng nghị của
VKSND chủ yêu đề nghị tăng hình phạt đối với những bản án của TAND cấp
tỉnh áp dụng hình phạt chưa nghiêm khắc đối với những bị cáo có tiền án, tiền
sự hoặc mức hình phạt chưa tương xứng với hành vi, hậu quả mà bị cáo đã
gây ra; ngoài ra, cũng có một số vụ án áp dụng sai khoản, điểm của Điều luật,
thậm chí áp dụng sai về tội danh, một số vụ án cấp sơ thẩm chưa điều tra làm
rõ cần kháng nghị đề nghị hủy án để điều tra lại… Trong số kháng nghị nêu
trên, không có vụ án nào bị kháng nghị do có vi phạm nghiêm trọng về thủ
88
tục tố tụng.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam (Điều 22 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)
+ Kiểm sát việc bắt, tạm giữ: 3.603 người. Đã giải quyết: 3.591 người
(trong đó: Khởi tố chuyển tạm giam: 2.147 người; Khởi tố áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác: 1.136 người; Truy nã chuyển tạm giam: 216 người; Trả tự
do: 92 người). Chết: 02 người (do bệnh lý). Đang tạm giữ (tại thời điểm lấy số
liệu): 10 người.
+ Kiểm sát việc tạm giam: 5.289 người. Cơ quan chức năng đã giải
quyết: 4.846 người (trong đó: Hủy bỏ biện pháp tạm giam: 504 người; Thay
đổi biện pháp ngăn chặn khác: 757 người; Trả tự do do có QĐ đình chỉ: 24
người; HĐXX trả tự do: 203 người; Hết án trong thời gian chờ chuyển
CHA: 112 người; chuyển chấp hành án:
3.241 người; tử hình; 02 người; bắt buộc chữa bệnh: 03 người. Chết: 02
người (do bệnh lý). Đang tạm giam (tại thời điểm lấy số liệu): 441 người.
+ Kiểm sát thi hành án hình sự:
Tử hình: 07 người. Chuyển xuống chung thân: 01 người. Đã thi hành
02 người. Chưa thi hành 04 người.
Tổng số bị án tù chung thân: 12 trường hợp. Đã thi hành.
Tù có thời hạn: 3.327 bị án. Đã thi hành: 3.236 bị án. Chưa thi hành:
91 bị án (Hoãn thi hành án: 41 bị án; trốn truy nã: 17; chờ xét hoãn: 08;
trong thời gian tự nguyện THA: 24; phạm tội mới: 01).
+ Tổng số phạm nhân chấp hành án: 2.921 phạm nhân. Đã giải quyết:
1.720 phạm nhân. Chết: 06 phạm nhân. Đang chấp hành án (tại thời điểm lấy
số liệu): 1.195 phạm nhân.
+ Án treo, cải tạo không giam giữ: 1.673 bị án. Đã thi hành án: 1.218
bị án. Bị án phạm tội mới trong thời gian thử thách và bị phạt tù: 17 bị án. Bị
89
án chết: 04 bị án. Hiện đang còn trong thời gian thử thách: 434 bị án (tại thời
điểm lấy số liệu)
Hoạt động kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự trong kỳ:
Đã tiến hành 495 cuộc kiểm sát trực tiếp việc tuân theo pháp luật trong công
tác tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và 31 cuộc kiểm tra việc thực hiện
kiến nghị của VKS tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Cơ quan THAHS Công an
cùng cấp, Trại Giam Đăk Plao và UBND cấp xã (kết thúc các cuộc kiểm sát,
đều đã ban hành kết luận, kiến nghị chấm dứt sai phạm trên và được chấp
nhận). Hàng năm, đối với UBND cấp xã không tiến hành kiểm sát trực tiếp,
VKS cấp tỉnh đều ban hành công văn yêu cầu tự kiểm tra và báo cáo cho Viện
kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành án hình sự tại địa
phương. Bên cạnh đó, hàng năm Viện kiểm sát đều ban hành văn bản yêu cầu
tự kiểm tra việc thực hiện kiến nghị của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong công tác thi hành án hình sự tại UBND cấp xã mà VKS đã tiến hành
kiểm sát trực tiếp.
+ Ban hành 276 kiến nghị và 110 kháng nghị yêu cầu khắc phục vi
phạm đối với các cơ quan hữu quan trong công tác tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự (được chấp nhận, khắc phục)
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam (Điều
23 Luật Tổ chức VKSND năm 2014): Trong kỳ qua công tác kiểm sát không
tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
- Thi hành các quy định về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
khi kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình
+ Công tác kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu: Tổng thụ
lý kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu: 76 đơn.
+ Công tác kiểm sát thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc:
VKSND đã thụ lý kiểm sát giai đoạn sơ thẩm: 15.026 vụ, việc. Đã giải
90
quyết: 13.654 vụ, việc (trong đó, công nhận sự thỏa thuận của đương sự:
6.224 vụ, việc; đình chỉ giải quyết: 5.207 vụ, việc; xét xử, mở phiên họp:
2.086 vụ, việc; tạm đình chỉ: 137 vụ, việc). Hiện còn (tại thời điểm lấy số
liệu): 1.372 vụ, việc.
VKSND đã thụ lý kiểm sát giai đoạn phúc thẩm: 531 vụ, việc. Đã giải
quyết: 514 vụ, việc (trong đó, Đình chỉ giải quyết: 40 vụ, việc; xét xử: 474 vụ,
việc). Đang giải quyết (tại thời điểm lấy số liệu): 17 vụ, việc.
- Thi hành các quy định về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, kinh doanh, thương mại, lao
động và những việc khác theo quy định của pháp luật
+ Công tác kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu:Kiểm sát
việc trả lại 18/18 đơn khởi kiện. Không ban hành kiến nghị nào về việc trả lại
đơn khởi kiện. Tham gia 06/06 phiên họp xét khiếu nại trả lại đơn khởi kiện.
+ Công tác kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án hành chính, vụ việc
kinh doanh, thương mại, lao động:
VKSND đã thụ lý kiểm sát giai đoạn sơ thẩm: 559 vụ, việc. Đã giải
quyết: 545 vụ, việc (trong đó, công nhận sự thỏa thuận của đương sự: 121 vụ,
việc; đình chỉ giải quyết: 263 vụ, việc; xét xử, mở phiên họp: 157 vụ, việc;
tạm đình chỉ: 04 vụ, việc). Hiện đang giải quyết (tại thời điểm lấy số liệu): 14
vụ, việc.
VKSND đã thụ lý kiểm sát giai đoạn phúc thẩm: 59 vụ, việc. Đã giải
quyết: 58 vụ, việc (trong đó, đình chỉ giải quyết: 02 vụ, việc; xét xử, mở phiên
họp: 56 vụ, việc). Hiện đang giải quyết (tại thời điểm lấy số liệu): 01 vụ.
+ Công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính của
TAND:Kiểm sát việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính tại Tòa án nhân dân: 193 việc. Đã giải quyết: 191 việc (mở phiên họp,
trong đó chấp nhận đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: 173 việc; đưa vào cơ sở
91
giáo dục: 11 việc; đình chỉ: 03 việc; không chấp nhận: 04 việc). Còn tồn: 02
việc.
+ Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại quyết định xử lý hành chính: Thụ
lý kiểm sát: 05 việc. Đã giải quyết; 05 việc (trong đó: chấp nhận một phần
khiếu nại sửa QĐ: 01 việc; giữ nguyên QĐ của TA cấp tỉnh: 03 việc).
+ Công tác kiểm sát trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn,
miễn chấp hành thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại: Thụ lý
kiểm sát: 525 việc. Đã giải quyết: 525 việc (chấp nhận).
+ Kiểm sát việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản: 01 việc. Đã giải
quyết.
- Thi hành các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn khi kiểm sát thi hành
án dân sự, thi hành án hành chính
VKSND tỉnh Đắk Nông đã thụ lý kiểm sát: 23.545
việc/2.051.758.831.000 đồng (mới 17.922 việc/29.941.781.568.000 đồng). Đã
giải quyết xong: 19.410 việc/1.040.914.567.000 đồng. Đang giải quyết (tại
thời điểm lấy số liệu): 4.135 việc/1.010.844.264.000 đồng (số chưa có điều
kiện THA: 1.816 việc/564.083.782.000 đồng).
VKSND tỉnh Đắk Nông đã triển khai thực hiện đồng bộ các phương
thức kiểm sát để chủ động kiểm sát đầy đủ, trực tiếp hoạt động THADS tại
địa phương. Đã thực hiện 62 cuộc kiểm sát trực tiếp công tác THADS tại cơ
quan thi hành án địa phương. Qua công tác kiểm sát đã ban hành 11 yêu cầu
đối với cơ quan THADS ban hành quyết định THA; 19 yêu cầu đối với Tòa
án về việc chuyển bản án, quyết định có hiệu lực thi hành cho cơ quan THA;
23 yêu cầu cơ quan THA tự kiểm tra công tác THADS, báo cáo kết quả cho
VKS. Lập hồ sơ kiểm sát 100% vụ việc THA nhất là đối với các vụ việc
cưỡng chế, kê biên tài sản; kiểm sát chặt chẽ việc tịch thu sung công quỹ nhà
nước, tiêu hủy vật chứng, bán đấu giá tài sản…; kiểm sát phân loại vụviệc,
92
xác minh THA, quyết định ủy thác và thông báo ủy thác THA đầy đủ, đúng
quy định pháp luật. Chủ động phối hợp với cơ quan THA đẩy nhanh tiến độ
giải quyết các vụ việc phức tạp, kéo dài; xét miễn, giảm THA đối với các
khoản tiền thu nộp ngân sách nhà nước.Thông qua công tác kiểm sát, VKS đã
phát hiện nhiều vi phạm trong công tác THADS, hành chính của Tòa án, cơ
quan THADS và các cơ quan có liên quan, đã ban hành 102 kiến nghị, 10
kháng nghị yêu cầu cơ quan chức năng khắc phục.
* Công tác khác của VKSND:
- Công tác thống kê tội phạm, xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục
pháp luật
VKSND tỉnh Đắk Nông đã kịp thời quán triệt thực hiện thống nhất các
quy định của Thông tư liên tịch số 05/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-
BCA-BQP ngày 12/11/2018 về “Quy định phối hợp giữa các cơ quan trong
thực hiện thống kê hình sự” và hệ thống chỉ tiêu, biểu mẫu thống kê hình sự
liên ngành mới sửa đổi, bổ sung; lập, đối chiếu và gửi đầy đủ báo cáo thống
kê liên ngành và phụ lục liên ngành theo quy định; thực hiện tốt công tác báo
cáo thống kê tội phạm, báo cáo thống kê liên ngành đảm bảo đầy đủ, chính
xác và kịp thời. Quản lý, cập nhật vào sổ, số lệnh, các quyết định tố tụng hình
sự đảm bảo chính xác. Lãnh đạo đơn vị đã chỉ đạo VKS tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.
Cùng với việc nâng cao chất lượng công tác kiểm sát, thời gian qua,
VKSND tỉnh Đắk Nông luôn quan tâm, chú trọng đến công tác phổ biến giáo
dục pháp luật thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, nhằm
nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân, góp phần
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Đồng thời đơn vị còn phổ biến,
quán triệt đầy đủ nội dụng các Bộ luật, Luật, như: Bộ luật Hình sự, BLTTHS,
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi
93
hành tạm giữ, tạm giam và Luật Tổ chức cơ quan điều tra Hình sự trong
ngành Kiểm sát nhân dân…đến toàn thể công chức trong Ngành, tạo sự
chuyển biến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả công tác khi thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Ngành; Thêm vào đó, trang thông tin điện tử VKSND tỉnh Đắk
Nông thực hiện hiệu quả việc đăng tải thông tin, bài viết, các quy định pháp
luật, quy định của Ngành đảm bảo chất lượng về nội dung, phong phú về hình
thức, chuyên mục phục vụ tốt việc nghiên cứu trao đổi thông tin nghiệp vụ
cho công chức, Kiểm sát viên cũng như phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người dân.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế
và các công tác khác
+ Về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, KSV: Trong công
tác này, tại VKSND tỉnh Đắk Nông đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hằng
năm, số lượng công chức, KSV được đào tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng, gắn
với quy hoạch, sử dụng công chức. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng vẫn chưa
thực sự gắn với cơ cấu phát triển của tỉnh, chưa chú trọng đúng mức đến đào
tạo, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, tỷ lệ công chức đào tạo trên đại học còn
thấp, chủ yếu tập trung và hệ đào tạo tại chức.
+ Về công tác tuyển dụng đội ngũ công chức, KSV: VKSND tỉnh Đắk
Nông đã chủ trương tuyển những người có đủ tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu
ngạch công chức cần tuyển, phù hợp với yêu cầu của cơ quan, đơn vị.
VKSND tỉnh Đắk Nông đã áp dụng 02 hình thức thi tuyển công chức một
cách công khai và hình thức xét tuyển trên cơ sở hợp đồng trong chỉ tiêu biên
chế hoặc hợp đồng không thời hạn. Công tác thi tuyển được tổ chức theo đợt
tuyển dụng và được thực hiện ngày một chặt chẽ.
+ Về công tác quy hoạch đội ngũ công chức, KSV: Trong công tác này,
VKSND tỉnh Đắk Nông đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác
94
quy hoạch cán bộ công chức Đảng ủy, lãnh đạo VKSND tỉnh Đắk Nông đã
triển khai thực hiện nghiêm túc công tác xây dựng quy hoạch cán bộ công
chức từ năm 2015. Từ đó đến nay, Phòng tổ chức cán bộ thường xuyên rà
soát hằng năm, bổ sung quy hoạch CBCC thuộc diện quản lý của VKSND
tỉnh Đắk Nông và thực hiện hệ thống quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo
từng giai đoạn như 2016 – 2021 và giai đoạn 2021 – 2026.
Đơn vị đã tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt lấy ý kiến góp ý và bỏ
phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Lãnh đạo Viện theo quy định, kết quả:
Các đồng chí Lãnh đạo VKSND tỉnh đều đạt số phiếu tín nhiệm. Thực hiện
quy trình rà soát quy hoạch định kỳ năm 2019, bổ sung, đưa ra khỏi quy
hoạch đối với các trường hợp không đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định
giai đoạn 2016 - 2021 và giai đoạn 2021 – 2026 đảm bảo đúng quy định.
+ Về công tác bổ nhiệm, bố trí, luân chuyển, điều động đội ngũ công chức,
KSV: Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, công tác bổ nhiệm, bố trí,
điều động đội ngũ công chức, KSV của VKSND tỉnh Đắk Nông đã được thực
hiện đúng quy chế, quy định, quy trình, đúng đối tượng, cơ cấu, đảm bảo công
khai, dân chủ và yêu cầu Đảng lãnh đạo, quản lý công tác cán bộ; đồng thời
đáp ứng được yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy và yêu cầu
công tác của các cơ quan, đơn vị. Cụ thể như sau:
Công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại: thực hiện quy định của Đảng, Nhà
nước và của Ngành, trong 5 năm qua, VKSND tỉnh đã đề nghị và được Viện
trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm 01 Phó Viện trưởng VKSND tỉnh, 02 Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh, 10 Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, 63 Kiểm sát
viên; đã bổ nhiệm 05 Trưởng phòng, 09 Phó Trưởng phòng thuộc VKSND
tỉnh, 42 Kiểm tra viên. Đồng thời, thực hiện quy trình bổ nhiệm lại chức vụ,
chức danh tư pháp đối với các trường hợp đủ điều kiện theo quy định.
Công tác điều động, luân chuyển: Lãnh đạo VKSND tỉnh thường
95
xuyên chú trọng đến công tác điều động. Luân chuyển công chức nhằm tạo
điều kiện cho công chức được tiếp xúc, trau dồi kinh nghiệm công tác trong
nhiều lĩnh vực để phát huy năng lực, sở trường công tác của bản thân. Trên cơ
sở Kế hoạch điều động, luân chuyển công chức trong ngành KSND tỉnh Đắk
Nông; trong thời gian qua Lãnh đạo VKSND tỉnh đã thực hiện điều động,
luân chuyển đối với 64 công chức (trong đó có 22 công chức giữ chức vụ lãnh
đạo quản lý) giữa VKSND . Ngoài ra, đơn vị đã thực hiện tốt công tác quy
hoạch, tinh giản biên chế, nhận xét đánh giá công chức.
Công tác đánh giá, phân loại và chế độ dành cho đội ngũ công chức,
KSV: Từ năm 2015 đến năm 2019, kết quả đánh giá đội ngũ công chức, KSV
VKSND tỉnh Đắk Nông đánh giá hằng năm, đa số cán bộ, công chức đạt mức
hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong đó, đội ngũ công
chức, KSV có trình độ, năng lực tương đối đồng đều, đáp ứng tốt nhiệm vụ
được giao.
Việc đảm bảo chế độ, chính sách cho công chức, viên chức và người
lao động là nhiệm vụ thường xuyên được đơn vị chú trọng thực hiện có nề
nếp, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho công chức và người lao động
trong Ngành. Việc thực hiện dân chủ trong nội bộ cơ quan luôn được Lãnh
đạo Viện quan tâm và coi đây là một trong những vấn đề trọng tâm trong
công tác tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành, góp phần hoàn thành tốt nhiệm
vụ chính trị được giao. Ban hành Quy chế dân chủ mới phù hợp với Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 và đồng thời tăng cường kỷ luật nghiệp vụ, quản lư
chặt chẽ đội ngũ công chức; nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu; tăng
cường công tác giám sát của tổ chức đảng và các tổ chức đoàn thể; lắng nghe
ý kiến của quần chúng, nhân dân; đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, kịp
thời phát hiện vi phạm để xử lý.
Công tác thi tuyển chức danh tư pháp: Thực hiện Quy chế về thi tuyển
96
KSV sơ cấp, KSV trung cấp, KSV cao cấp trong ngành KSND và Kế hoạch
thi tuyển của VKSND tối cao, đơn vị đã triển khai đến toàn thể công chức
trong ngành để đăng ký giam gia thi tuyển; sau đó Ủy ban kiểm sát VKSND
tỉnh sẽ xét chọn và cử công chức đủ điều kiện tham gia thi tuyển chức danh tư
pháp do VKSND tối cao tổ chức. Trong thời gian qua, đơn vị đã cử 76 công
chức tham gia các kỳ thi tuyển chọn KSV cao cấp, KSV trung cấp, KSV sơ
cấp. Các đồng chí được cử tham gia các kỳ thi đều đạt được kết quả cao; 63
công chức đã được VKSND tối cao bổ nhiệm chức danh KSV các ngạch (các
công chức còn lại không được bổ nhiệm do tỷ lệ cạnh tranh). Việc tổ chức thi
tuyển chức danh tư pháp trong ngành KSND đã góp phần nâng cao chất lượng
đội ngũ KSV và góp phần khắc phục dần tình trạng thiếu KSV tại đơn vị.
2.4. Những hạn chế của việc đổi mới tổ chức và hoạt động Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách tư
pháp
2.4.1. Những bất cập trong việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và
sự giám sát của Hội đồng nhân dân
Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp về
chính trị, tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp ủy Ðảng buông lỏng
lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp… Phân công
đồng chí cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm
Viện trưởng Viện kiểm sát và Chánh án Tòa án các cấp. Xây dựng và hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy Đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những
vụ, việc quan trọng, phức tạp; cơ chế phối hợp làm việc giữa các tổ chức đảng
với các cơ quan tư pháp và các ban, ngành có liên quan theo hướng cấp ủy
định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Xác định
rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp ủy viên trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác
tư pháp [16].
97
Tác giả nhận thấy từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp thì sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa
phương đối với các Viện kiểm sát nhân dân quận, tỉnh trong thời gian qua
là rất sâu sát. Cấp ủy Đảng ở địa phương thường xuyên quan tâm chỉ đạo các
cơ quan tư pháp quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng thời báo cáo
kết quả thực hiện về các trọng tâm công tác tư pháp, về việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị được giao, về củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, đào tạo bồi
dưỡng nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên. Hàng
năm, Cấp ủy đều có báo cáo kết quả công tác cải cách tư pháp và đề ra nhiệm
vụ trọng tâm của năm tới. Sự lãnh đạo của Cấp ủy hiện nay đối với các Viện
kiểm sát là ổn định. Tuy nhiên, trong thời gian tới, nếu thành lập Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Nông thì khó khăn, vướng mắc đặt ra là cấp ủy nào sẽ
lãnh đạo cơ quan này cũng như việc cơ cấu vào cấp ủy đối với Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông.
Về yêu cầu giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với Viện kiểm
sát, theo quy định hiện hành, Quy định "Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân
địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi
hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân"
[37]. Quy định này khởi nguồn từ nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Chức năng đại diện của Hội đồng nhân dân yêu cầu Viện trưởng Viện
kiểm sát địa phương phải báo cáo tình hình thi hành pháp luật trên địa bàn. Chức
năng giám sát của Hội đồng nhân dân yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát địa
phương phải trả lời chất vấn của đại biểu. Tinh thần này cho thấy dù hệ thống
Viện kiểm sát được tổ chức theo mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động tỉnh
Đắk Nông hay đơn vị hành chính, thì sự giám sát của cơ quan đại diện phải
được coi là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu. Đối với mô hình
đổi mới tổ chức và hoạt động tổ chức theo đơn vị hành chính, mỗi năm hai lần
98
theo kỳ họp, Viện trưởng các Viện kiểm sát địa phương trình bày báo cáo và
trả lời chất vấn trước Hội đồng nhân dân địa phương, nhằm bảo đảm nguyên
tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề này lại trở nên
phức tạp một khi hệ thống Viện kiểm sát tổ chức theo mô hình đổi mới tổ
chức và hoạt động tỉnh Đắk Nông. Nếu thành lập Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Nông thì thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sẽ không còn. Hội đồng nhân dân là cơ
quan đại diện của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu, miễn
nhiệm và bãi nhiệm theo các nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín. Do đó, hệ thống cơ quan này phải được tổ chức theo mô hình đổi mới
tổ chức và hoạt động đơn vị hành chính lãnh thổ (tỉnh, tỉnh, xã). Như vậy, khi mô
hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được
tổ chức thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông có phạm vi
địa hạt bao gồm một số đơn vị hành chính lãnh thổ, sẽ thực hiện việc báo cáo
và trả lời chất vấn trước Hội đồng nhân dân địa phương nào. Nếu việc thay
đổi cơ chế và thẩm quyền giám sát đối với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Nông không được thực hiện đồng bộ, Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh
không được tăng cường tương ứng thì việc phát hiện các sai sót của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Nông trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao sẽ không kịp thời. Rõ ràng, quy phạm Hiến định này cần phải được xem
xét, một khi lựa chọn mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động tổ chức theo tỉnh
Đắk Nông cho hệ thống Viện kiểm sát. Và đây không chỉ là vấn đề của hệ
thống Viện kiểm sát, mà còn có ý nghĩa quan trọng với hệ thống Tòa án - cơ
quan được Đảng xác định là trọng tâm của nội dung hoàn thiện tổ chức, bộ
máy các cơ quan tư pháp.
2.4.2. Sự thiếu đồng bộ trong việc đổi mới hệ thống các cơ quan
tư pháp
99
Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì việc giải quyết, xử
lý các vụ án hình sự là một quy trình thống nhất, đồng bộ và kết quả hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan mật thiết với nhau; từ khởi
tố, điều tra của Cơ quan điều tra, đến việc truy tố của Viện kiểm sát và xét xử
của Tòa án cho đến thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật của Cơ quan
thi hành án.
Tòa án là cơ quan xét xử, để đảm bảo tính độc lập của Tòa án trong
hoạt động xét xử thì việc tổ chức hệ thống Tòa án như Nghị quyết số 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị là một phương án phù hợp, có tính khả thi do hoạt động xét
xử mang tính độc lập cao và tương đối ổn định, lại không bị lệ thuộc vào hoạt
động của các cơ quan tư pháp khác.
Khác với Tòa án, Viện kiểm sát với chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp nên trong hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ phải gắn với Cơ quan điều tra hàng ngày để nghiên cứu hồ sơ, kiểm
sát các hoạt động điều tra. Nếu tổ chức của Viện kiểm sát theo hệ thống tổ
chức của Tòa án, thì tương ứng với Tòa án tỉnh Đắk Nông sẽ có Viện kiểm sát
tỉnh Đắk Nông. Trường hợp Viện kiểm sát tỉnh Đắk Nông được tổ chức ở một
đơn vị hành chính thì sẽ không có trở ngại gì, nhưng nếu Viện kiểm sát tỉnh
Đắk Nông được tổ chức ở một số đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong khi Cơ
quan điều tra vẫn giữ nguyên theo mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động hiện
nay như Nghị quyết số 49-NQ/TW đã nêu thì hoạt động của Viện kiểm sát
tỉnh Đắk Nông sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Thử
hình dung một Kiểm sát viên cùng một lúc phải thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra đối với nhiều vụ án do Cơ quan điều tra của các tỉnh khác
nhau trong tỉnh Đắk Nông điều tra, thì khó có thể hoàn thành nhiệm vụ, vì sẽ
không đủ thời gian để đi hết Cơ quan điều tra tỉnh này sang Cơ quan điều tra
tỉnh khác để nghiên cứu hồ sơ và kiểm sát các hoạt động điều tra của Điều tra
100
viên; đặc biệt là các hoạt động đòi hỏi tính kịp thời như kiểm sát khám
nghiệm hiện trường, kiểm sát khám nghiệm tử thi, phê chuẩn lệnh bắt khẩn
cấp.
Trên thực tế, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông có những đặc thù riêng, phạm vi công
tác rộng hơn so với Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh Đắk Nông bởi lẽ quan hệ
giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông với Cơ quan điều tra là hoạt động
thường xuyên hàng ngày, phối hợp xử lý nhiều tình huống đột xuất như tham
gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; kiểm sát tin báo tố giác tội
phạm, kiểm sát các hoạt động điều tra, kiểm sát nhà tạm giữ... Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Nông còn có quan hệ công tác thường xuyên với Cục thi
hành án cấp tỉnh, tổ chức các hoạt động kiểm sát thi hành án đến địa bàn cấp
xã. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đến các đơn vị Công an cấp tỉnh
để thực hiện các hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát nhà tạm giữ và có nơi
phải đi hàng trăm km (như ở miền núi, vùng sâu, vùng xa) để thực hiện các
hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và các
hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp khác nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn,
cần có giải pháp khắc phục.
Như vậy có thể thấy tính chất, đặc điểm của hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp hoàn toàn khác với hoạt
động xét xử của Tòa án chỉ là nghiên cứu hồ sơ và tổ chức xét xử tại chỗ nên
sẽ là thách thức lớn nếu cơ quan điều tra không được tổ chức theo mô hình
của Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh Đắk Nông và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Nông. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu mô hình đổi mới tổ chức và hoạt
động tổ chức của cơ quan điều tra, trong đó có việc thành lập cơ quan điều tra
tỉnh Đắk Nông nhằm tạo sự gắn kết giữa điều tra và công tố, bảo đảm đồng
bộ trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự; đồng thời, đảm bảo sự
101
rành mạch giữa cơ quan điều tra tố tụng với cơ quan công an làm nhiệm vụ
quản lý hành chính.
2.4.3. Những bất cập về tổ chức cán bộ
Biên chế cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sẽ chủ yếu
là đội ngũ cán bộ của Viện kiểm sát cấp tỉnh, do đó cần thiết phải có sự điều
chỉnh giữa các đơn vị để đảm bảo sự phù hợp về số lượng và chất lượng. Khi
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được thành lập tất yếu sẽ có sự bố trí,
sắp xếp lại đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên và công chức cũng như đòi
hỏi phải tăng biên chế, số lượng Kiểm sát viên các cấp, trong đó có việc sửa
đổi ngạch bậc kiểm sát viên để có thể bố trí Kiểm sát viên cao cấp ở các Viện
kiểm sát tỉnh Đắk Nông trọng điểm, thụ lý giải quyết số lượng án lớn. Trong
công tác tổ chức cán bộ thì đây là vấn đề nhạy cảm, tác động đến tâm lý của
cán bộ, và cũng là một khó khăn cần có cách giải quyết tốt.
Đối với những nơi mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được
thành lập trên cơ sở hợp nhất từ hai Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên sẽ
phải sắp xếp lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp với mô hình đổi mới tổ chức và
hoạt động mới, cụ thể là giảm bớt số lượng cán bộ lãnh đạo, điều chỉnh, phân
công lại nhiệm vụ và giải quyết chế độ chính sách đối với một số cán bộ.
Điều này sẽ nảy sinh nhiều vấn đề nhạy cảm và phức tạp về bố trí cán bộ
như: Nhu cầu cán bộ lãnh đạo quản lý giảm sẽ dôi ra một số người không bố
trí được như chức vụ cũ bởi lẽ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông chỉ cơ
cấu 01 Viện trưởng và một số Phó Viện trưởng mà không bố trí hết được số
cán bộ lãnh đạo Viện kiểm sát cấp tỉnh hiện nay giữ chức vụ lãnh đạo. Vì vậy,
ở những nơi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được sáp nhập từ một số
Viện kiểm sát cấp tỉnh phải thực hiện tốt việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo quản
lý đáp ứng yêu cầu.
Ngoài ra, việc thay đổi địa điểm đặt trụ sở sẽ dẫn đến tình trạng có
102
nhiều người phải công tác xa nhà, khó khăn trong việc đi lại, từ đó nhu cầu
nhà công vụ tăng lên và vấn đề bố trí phân công nhà công vụ cho cán bộ kiểm
sát cũng gặp nhiều trở ngại nhất là trong điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu
thốn như hiện nay.
2.4.4. Những bất cập về cơ sở vật chất
Trong điều kiện kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn như giai đoạn hiện
nay thì việc đáp ứng ngay nhu cầu kinh phí đầu tư đồng loạt cho Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Nông là điều không dễ dàng. Để giải quyết khó khăn
này, trong quá trình chuẩn bị cần tính toán hết nhu cầu, đối chiếu với khả
năng đáp ứng của ngân sách để xác định phương án, lộ trình phù hợp. Nếu
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được thành lập mà các điều kiện nói
trên không được đáp ứng kịp thời sẽ gây nên xáo trộn lớn, ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả các hoạt động tư pháp ở cấp giải quyết tuyệt đại đa số các loại
vụ việc tư pháp trong thực tế, và như thế mục tiêu cải cách tư pháp đặt ra có
thể không đạt được. Thời gian qua, sau khi tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, các cơ quan này đã được đầu tư đáng
kể về trụ sở. Do đó quá trình thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh Đắk
Nông và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông cần tính toán đến việc sử
dụng tối đa nguồn lực này để tránh lãng phí.
Nguyên nhân chính của những khó khăn nêu trên là do tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông là chủ trương lớn nên việc tổ chức thực
hiện sẽ không tránh khỏi nhiều vấn đề phát sinh phức tạp liên quan đến quan
điểm, tư tưởng và các điều kiện về kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất, trang
thiết bị và giải quyết các vấn đề liên quan đến việc điều chỉnh tổ chức bộ máy,
sắp xếp lại đội ngũ cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở những nơi
phải sát nhập. Bên cạnh đó việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt của một số
cấp ủy, tổ chức đảng ở trung ương và địa phương còn yếu. Một số cán bộ,
103
đảng viên, trong đó có cả cán bộ, đảng viên thuộc các cơ quan tư pháp không
nắm vững mục tiêu, yêu cầu của việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Nông theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 79-
KL/TW của Bộ Chính trị. Trong quá trình triển khai công tác chuẩn bị thực
hiện sự phối, kết hợp thiếu chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, nhất là trong
việc xây dựng các tiêu chí thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh Đắk Nông,
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đã dẫn đến việc không thống nhất
trong việc xác định địa hạt tư pháp của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân.
Như vậy, bên cạnh một số thuận lợi như được sự quan tâm chỉ đạo,
lãnh đạo kịp thời của Đảng; phù hợp với bối cảnh đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới đất nước; phù hợp với chủ trương tăng cường thẩm quyền cho
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; có những bài học kinh
nghiệm quý giá từ lịch sử tổ chức Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
ở nước ta cũng như tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, quá
trình triển khai thành lập Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông còn gặp phải
rất nhiều khó khăn, thử thách. Từ những vấn đề thực tiễn đặt ra nêu trên đòi
hỏi việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (và Tòa án nhân
dân sơ thẩm tỉnh Đắk Nông) phải được nghiên cứu hết sức cẩn trọng, đánh giá
tác động về nhiều mặt để có phương án hợp lý, đảm bảo tính khả thi cao.
104
Kết luận chương 2
Trên cơ sở vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKSND, tổ chức bộ máy và
công tác quản lư, chỉ đạo điều hành của VKSND tỉnh Đắk Nông đang từng
bước được hoàn thiện để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ trong tình hình
mới. Đồng thời, tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nông ngày càng được hoàn
thiện và củng cố, trong đó đơn vị đã xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các
quy chế hoạt động nghiệp vụ và quản lý để thống nhất trong toàn ngành, bảo
đảm phù hợp với các quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, VKSND tỉnh Đắk Nông đã và đang phấn đấu
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của VKSND, qua đó đã đạt được những kết
quả nhất định và mang lại nhiều thành tích cho đơn vị. Tuy nhiên, vẫn còn
một số hạn chế như là cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa hợp lý;
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp vẫn còn một
số khó khăn, vướng mắc do sự phối hợp chưa tốt giữa các cơ quan tố tụng và
các cơ quan ban ngành.
Ngoài ra, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, thi tuyển, bổ nhiệm, khen
thưởng đối với công chức, KSV của đơn vị trong những năm qua đã đạt được
những thành tựu đáng kể, số lượng công chức trong Ngành được đào tạo đã
tăng lên để đáp ứng kịp thời yêu cầu thực thi nhiệm vụ trong tình hình mới,
gắn đào tạo với quy hoạch cán bộ để thực hiện tốt những nhiệm vụ, quyền hạn
mà Đảng và Nhà nước giao phó.
105
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐỔI MỚI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH
ĐẮK NÔNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
3.1.1. Phát huy hơn nữa vai trò của người đứng đầu trong công tác
chỉ đạo, điều hành, phân bổ công chức
Ngày 16/5/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg
xác định công tác dân vận là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Cơ quan
hành chính nhà nước, chính quyền các cấp phải thường xuyên quán triệt sâu
sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
công tác dân vận; chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức công
tác dân vận gắn với thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và cũng nhấn mạnh việc
đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp.
Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc.
3.1.2. Quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về việc quản lý đội ngũ công chức, Kiểm sát viên
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
Nghị quyết đại biểu đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định
việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và là khâu đột phá
mang tính chiến lược và đảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất
nước. Đặc biệt là đối với ngành Kiểm sát nhân dân, công tác cán bộ luôn là
vấn đề then chốt trong xây dựng và phát triển Ngành. Trong đó, chiến lược
xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho ngành cũng như đào tạo, bồi
106
dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho công chức có ý nghĩa hết sức quan trọng đến việc nâng cao
hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành.
Thứ nhất, có thể khẳng định rằng đội ngũ công chức, KSV là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác tổ chức cán bộ, công chức là
khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng
và quản lý đội ngũ công chức, kSV có nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công
việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa
học, chặt chẽ và hiệu quả.
Thứ hai, thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh
đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ công chức, KSV
trong hệ thống chính trị. Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,
thường xuyên đổi mới tổ chức cán bộ để phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thứ ba, việc quản lý đội ngũ công chức, KSV phải xuất phát từ yêu
cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới nhưng vẫn thực hiện những quy định về chế độ
tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ đối với công chức, KSV một cách hợp
lý.
Thứ tư, việc đổi mới công tác đánh giá, nhận xét đối với công chức để
đảm bảo trung thực, khách quan và phản ánh đúng kết quả thực thi công vụ
Thứ năm, cần thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, nâng cao ý thức,
trách nhiệm, kỷ cương và tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức, KSV để
lại bước chuyển biến tích cực trong lề lối làm việc của từng công chức với
tinh thần phục vụ nhân dân và lấy sự hài lòng của người dân để đánh giá mức
độ hoàn thành nhiệm vụ của công chức cũng như người lao động.
3.1.3. Phát huy vai trò của cấp ủy và các tổ chức chính trị, xã hội
trong tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cũng như công tác quản lý đội
ngũ công chức
107
Đảng ủy cũng như Lãnh đạo của VKSND cấp tỉnh đã xác định tổ chức
của VKSND cấp tỉnh mà trong đó công tác quản lý đội ngũ công chức, KSV
phải luôn quán triệt và chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối cũng như
chính sách của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ trương và
hướng dẫn của VKSND tối cao. Do đó, quản lý đội ngũ công chức, KSV là
công việc của toàn Đảng, lãnh đạo và của từng Đảng viên, công chức của
VKSND cấp tỉnh. Trong đó, tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện
công khai, minh bạch trong tổ chức của Viện kiểm sát.
3.1.3. Thực hiện cải cách tư pháp phải đảm bảo thống nhất với Hiến
Pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014
Để thực hiện những nhiệm vụ đó và nhằm đảm bảo chức năng hoạt
động, VKSND phải tổ chức bộ máy cơ quan của mình trong đó mỗi bộ phận
đảm nhận những khâu công tác nhất định và một trong những điểm mới của
Hiến pháp 2013 là chỉ đưa ra tính định hướng mà không quy định cụ thể và
chi tiết như các bản Hiến pháp trước. Thể chế hóa chủ trương đổi mới hệ
thống tổ chức VKSND theo Kết luận số 79-KL/TW, vì thế, cơ cấu tổ chức
của VKSND không còn được quy định chi tiết trong Hiến pháp mà sẽ chỉ quy
định cụ thể tại Chương III Luật tổ chức VKSND năm 2014. Theo đó, Hiến
pháp năm 2013 quy định về hệ thống VKSND gồm: VKSND tối cao và các
Viện kiểm sát khác do luật định (khoản 2 Điều 107). Cụ thể hóa quy định
trên, Điều 40 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về hệ thống Viện
kiểm sát nhân dân gồm:
-
VKSND tối cao.
- VKSND cấp cao: hiện nay có 03 VKSND cấp cao đặt tại 03
thành phố lớn là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
- VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi
là VKSND cấp tỉnh): Mỗi tỉnh sẽ có một VKSND cấp tỉnh, thành
108
phố trực thuộc Trung ương vậy nên cả nước có 63 Viện kiểm sát ở
cấp này.
- VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương (sau đây gọi là VKSND cấp huyện): Hiện nay trên cả nước có
khoảng 191 Viện kiểm sát cấp huyện.
- Viện kiểm sát quân sự các cấp: Trong đó bao gồm Viện kiểm
sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát cấp quân khu và Viện kiểm
sát quân sự ở các cấp Khu vực.
Như vậy, so với Luật Tổ chức VKSND năm 2002 thì Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 đã quy định thành bốn cấp Viện kiểm sát, tức là có
quy định thêm VKSND cấp cao, bên cạnh Viện kiểm sát quân sự các cấp
vẫn được giữ nguyên như trước. Theo Điều 51, Luật Tổ chức VKSND
năm 2014, hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát quân sự
Trung ương; Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Viện kiểm
sát quân sự khu vực.
Tương ứng với mỗi VKS các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền riêng theo tổ chức hệ thống, được cụ thể trong Luật Tổ chức
VKSND năm 2014:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân cấp cao;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa
phương mình. (Điều 41)
109
- Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong quân đội (Điều 50).
VKSND là một cơ quan trong bộ máy nhà nước có chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND có nhiệm vụ bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất
3.2. Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, các bộ luật, các luật và các văn
bản dưới luật có liên quan
- Sửa đổi Hiến pháp: Hiến pháp là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất
của nhà nước, trong đó có quy định về các cơ quan nhà nước, chức năng,
nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan đó. Do đó, khi
VKSND với tư cách là một cơ quan nhà nước mới thay thế cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân được qui định trong Hiến pháp hiện hành thì đòi hỏi phải
được ghi nhận trong Hiến pháp sửa đổi. Trong Hiến pháp sửa đổi phải có
những qui định về vị trí, vai trò của VKSND trong bộ máy nhà nước. Đồng
thời, cần có qui định chung nhất và cơ bản nhất về chức năng, nhiệm vụ,
nguyên tắc tổ chức và hoạt động VKSND.
- Ban hành Luật VKSND: Trong tương lai, VKSND là một cơ quan nhà
nước mới được thành lập có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, có hệ thống
tổ chức khác hẳn so với Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật
hiện hành. Do đó, cần thiết phải ban hành luật mới với tên gọi dự kiến là Luật
VKSND thay thế Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành. Luật này
110
cần xây dựng theo hướng qui định bao quát tất cả những vấn đề cơ bản về tổ
chức và hoạt động của VKSND mà cần thiết phải điều chỉnh dưới hình thức
văn bản luật, khắc phục tình trạng phải điều chỉnh cả bằng hình thức văn bản
pháp lệnh đối với những lĩnh vực cần phải được điều chỉnh bằng luật như hiện
nay (Pháp lệnh kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân).
- Xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự mới: Nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn để xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự mới theo hướng xác
định rõ vị trí, vai trò của VKSND trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp. Bộ luật tố tụng hình sự mới là bộ luật cơ bản và quan trọng nhất
liên quan trực tiếp đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong
tương lai, do đó cần được quan tâm nghiên cứu đúng mức khi xây dựng Bộ
luật này theo các tiêu chí cơ bản sau:
+ Trong Bộ luật tố tụng hình sự mới cần phân định rõ thẩm quyền
quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố
tụng theo hướng tăng quyền cho điều tra viên, công tố viên và Thẩm phán để
họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu tránh
nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.
+ Nghiên cứu phương án hạn chế việc tạm giam, thu hẹp đối tượng
người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam. Theo đó,
cần có qui định không áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số tội trong
Bộ luật h́ nh sự. Về thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành có 7 người có quyền ra lệnh
tạm giam: Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân
dân và Hội đồng xét xử. Như vậy, hiện nay ở nước ta có nhiều chủ thể có
quyền này. Tham khảo vấn đề này trong tố tụng hình sự các nước trên thế giới
cho thấy có nước giao cho VKSND, có nước thì giao cho Tòa án. Theo yêu
111
cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay và với mô hình VKSND như đã nêu ở
trên thì việc giao thẩm quyền này cho VKSND là phù hợp.
+ Nghiên cứu các phương án để tăng cường trách nhiệm của VKSND
trong hoạt động điều tra gắn kết giữa hoạt động công tố và hoạt động điều tra
ngay từ đầu, bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và cũng là nâng cao chất lượng tố
tụng của công tố viên tại phiên tòa nhằm chống làm oan người vô tội. Cần có
quy định VKSND trực tiếp ra quyết định tố tụng thay cho việc phê chuẩn các
quyết định tố tụng như hiện nay. Đồng thời, xác lập cơ chế công tố viên chỉ
đạo hoạt động điều tra và chỉ đạo điều tra viên trong hoạt động tố tụng, vì
chính công tố viên là người chịu trách nhiệm buộc tội thì phải có quyền chỉ đạo
thu thập chứng cứ, bắt giữ và truy tìm thủ phạm, còn việc thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ điều tra như thế nào là công việc của điều tra viên.
+ Đồng thời cần qui định cơ chế VKSND quản lý điều tra viên về mặt
tố tụng, qua đó gắn với việc Cơ quan điều tra bổ nhiệm, đề bạt điều tra viên,
đảm bảo tăng cường trách nhiệm của điều tra viên trong việc thực hiện các
yêu cầu điều tra của công tố viên.
+ Nghiên cứu cơ chế mở rộng khả năng tranh tụng tại phiên tòa mà
trọng tâm là đổi mới việc luận tội, xét hỏi, tranh luận của công tố viên tại
phiên tòa xét xử các vụ án hình sự gắn với việc đổi mới trình tự, thủ tục xét
xử tại phiên tòa. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, Thẩm
phán hỏi là chính và hỏi trước về hành vi và theo trình tự vụ việc. Trên thực tế
có nhiều điểm không hợp lý khi thực hiện vấn đề này, do đó cần thay đổi trình
tự, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa theo hướng vừa đơn giản về thủ tục vừa nâng
cao về hiệu quả tranh tụng, bảo đảm phán quyết của Tòa án khách quan, chính
xác. Theo phương án này thì công tố viên viên hỏi là chính, sau đó đến người
bào chữa, Thẩm phán chỉ hỏi những điểm còn mâu thuẫn và chưa rõ về vụ án.
+ Nghiên cứu phương án nâng cao chất lượng kháng nghị của VKSND
112
theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự; quy định chặt chẽ
những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị
đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, khắc phục
tình trạng hiện nay là hiệu quả kháng nghị của Viện kiểm sát thì hạn chế trong
khi tỷ lệ án bị cải sửa hoặc án bị hủy do kháng cáo nhiều mà Viện kiểm sát
không có kháng nghị; đồng thời cũng tránh tình trạng kháng nghị của
VKSND tràn lan, thiếu căn cứ dẫn đến Tòa án bác kháng nghị.
+ Nghiên cứu, xây dựng cơ chế xét xử theo chế độ một Thẩm phán và
hoàn thiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất
định theo thủ tục rút gọn: Hiện nay các vụ án theo thủ tục rút gọn mới chỉ rút
gọn về thời gian, chưa rút gọn về thủ tục và chỉ rút gọn ở giai đoạn sơ thẩm.
Do đó, cần qui định cụ thể cơ chế bắt buộc phải áp dụng thủ tục rút gọn khi
vụ án đủ điều kiện và vai trò quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thuộc về
VKSND.
- Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004: Căn cứ theo chức
năng, nhiệm vụ của VKSND trong tương lai theo mô hình VKSND như đã
nêu ở trên thì VKSND không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
đối với việc giải quyết các quyết các vụ việc dân sự, lao động, hành chính,
kinh doanh, thương mại nữa mà VKSND chỉ có trách nhiệm thực hiện những
quyền năng tố tụng cần thiết để bảo vệ lợi ích công như khởi tố, tham gia
phiên tòa, kháng nghị những bản án, quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật; trực tiếp quyết định thi hành án trong một số trường hợp nhất định. Do
đó, cần sửa đổi, bổ sung các qui định có liên quan về vấn đề này trong Bộ luật
tố tụng dân sự.
- Sửa đổi, bổ sung các bộ luật, các luật và các văn bản pháp luật khác
có liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND: Theo quy định của pháp
luật hiện hành, liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
113
dân được qui định rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, do đó khi xác lập tổ
chức và hoạt động của VKSND trên thực tế thì cần phải sửa đổi, bổ sung các
văn bản này cho đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất.
3.2.2. Ban hành mới, sửa đổi, bổ sung, thay thế các qui chế nghiệp
vụ về tổ chức và hoạt động của VKSND
Để VKSND được tổ chức và hoạt động trên thực tế, đòi hỏi phải có một
hệ thống các qui chế nghiệp vụ, qui chế về quản lý và các qui định cụ thể về
tổ chức và hoạt động điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong nội bộ ngành. Do
đó, khi VKSND được xác lập trên thực tế phải tiến hành việc ban hành mới
hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế các qui định hiện hành. Cụ thể gồm các lĩnh
vực cơ bản sau:
- Qui chế về tổ chức bộ máy và hoạt động của các đơn vị công tác trong
hệ thống VKSND.
- Qui chế về thông tin, báo cáo, quản lý công tác trong hệ thống
VKSND.
- Qui chế về công tác thực hành quyền công tố trong việc điều tra các
vụ án hình sự.
- Qui chế về công tác thực hành quyền công tố trong việc xét xử các vụ
án hình sự.
- Qui chế về công tác công tố trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và
giáo dục ngýời chấp hành án phạt tù.
- Qui chế về công tác công tố trong việc thi hành án.
- Qui chế về công tác công tố đối với các vụ án dân sự, lao động, hành
chính, kinh doanh, thương mại.
3.2.3. Về tổ chức bộ máy
Để đảm bảo hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg có hiệu
quả khi triển khai trên thực tế cần thiết phải nghiên cứu tổ chức các đơn vị
114
cấp phòng tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, nhất là ở những nơi có sự
hợp nhất từ hai hay nhiều đơn vị cấp cấp tỉnh thành một cấp tỉnhg hoặc những
nơi tuy chỉ thành lập từ 1 đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh hiện nay
nhưng khối lượng công việc lớn, số cán bộ đông và địa bàn phức tạp. Việc
thành lập các đơn vị cấp phòng tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg vừa tăng
cường hiệu quả công tác quản lý, điều hành, đảm bảo tính chuyên sâu, phù
hợp với dự kiến thành lập các tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân sơ thẩm
cấp tỉnhg và cũng là một giải pháp để bố trí sắp xếp cán bộ.
3.2.4. Về đội ngũ cán bộ
* Về bố trí sắp xếp cán bộ
Từ nay đến năm 2014, đề nghị cơ quan có thẩm quyền quan tâm tăng
biên chế, số lượng Kiểm sát viên các cấp để chuẩn bị nguồn cán bộ cho việc
thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg. Về việc bố trí, sắp xếp lại cán bộ
là một trong những vấn đề khá phức tạp trong quá trình thành lập Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnhg. Tác giả đề xuất giải quyết theo hướng như sau:
Thứ nhất, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý:
- Do quy mô tổ chức bộ máy, cán bộ cũng như phạm vi địa hạt tư pháp
lớn hơn, nên việc lựa chọn Viện trưởng của Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnhg không nên nhất thiết chỉ lựa chọn trong số cán bộ lãnh đạo, quản lý của
các Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh được hợp nhất vào cấp tỉnhg, mà có
thể lựa chọn từ cán bộ có năng lực hơn của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
hoặc các đơn vị khác.
- Tổ chức các đơn vị cấp phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnhg. Theo đó, một số phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh
trước đây có thể bổ nhiệm làm trưởng phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnhg với chế độ tương đương để đảm bảo chính sách cán bộ.
Thứ hai, bố trí cán bộ, công chức khác: Về cơ bản, cán bộ thuộc Viện
115
kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg sẽ trên cơ sở cán bộ thuộc Viện kiểm sát nhân
dân cấp cấp tỉnh hợp thành. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức lại, trong điều
kiện cho phép cần điều chỉnh hợp lý số lượng, chất lượng cán bộ phù hợp với
yêu cầu công việc của từng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg.
* Về chính sách cán bộ
Khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, để giải quyết hợp lý
vấn đề chính sách cán bộ, tác giả đề xuất như sau:
- Phụ cấp trách nhiệm cho các chức danh lãnh đạo, quản lý của Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg phải khác so với mô hình đổi mới tổ chức và hoạt
động Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh hiện nay vì trách nhiệm cao hơn.
Mức phù hợp là phụ cấp chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnhg tương đương phụ cấp trưởng phòng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh;
phụ cấp chức vụ Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg tương
đương phụ cấp phó trưởng phòng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hiện nay.
- Phụ cấp trách nhiệm cho các chức danh lãnh đạo, quản lý cấp phòng
thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg (trưởng phòng, phó phòng) nên bằng
phụ cấp chức vụ của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp cấp tỉnh hiện nay. Mức phụ cấp này vừa phù hợp với cấp độ trách nhiệm;
vừa đảm bảo những người đang là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp cấp tỉnh hiện nay, nếu không bố trí vào chức vụ Viện trưởng
hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg thì có thể bố trí chức
vụ trưởng phòng hoặc phó phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg và
mức phụ cấp vẫn tương đương với chức vụ cũ.
- Cần xây dựng lại chính sách tiền lương, phụ cấp trách nhiệm, phụ
cấp thâm niên ngành Kiểm sát nhân dân nói chung, trong đó đặc biệt quan
tâm đối với cán bộ thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, tương xứng với
khối lượng công việc, trách nhiệm công vụ, cường độ lao động của cán bộ
116
công tác ở cấp này.
* Về chính sách thu hút cán bộ
Cần sớm ban hành quy định về chế độ tiền lương, phụ cấp và các chế
độ ưu đãi đặc thù khác đối với cán bộ, công chức ngành kiểm sát nhằm bảo
đảm cuộc sống và động viên cán bộ, công chức yên tâm công tác. Trước mắt
đề nghị quan tâm thực hiện việc hỗ trợ kinh phí hoạt động cho Viện kiểm sát
nhân dân ở những nơi có khoản vượt thu ngân sách của địa phương, theo tinh
thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Về lâu dài, để đảm bảo thu
hút và thực hiện điều động cán bộ, công chức yên tâm công tác tại miền núi,
vùng sâu vùng xa, cần bố trí nhà công vụ, có chính sách nhà ở đối với cán bộ
công tác ở vùng núi, nơi đặc biệt khó khăn.
3.2.5.Về cơ sở vật chất
Để đáp ứng cơ sở vật chất cho việc xây dựng mô hình đổi mới tổ chức và
hoạt động Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, cần thiết phải có kế hoạch và
phương án tổng thể về trụ sở làm việc, nhà công vụ; phương tiện công tác và
kinh phí hoạt động. Cụ thể như sau:
* Về trụ sở làm việc, nhà công vụ
Việc đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của các đơn vị trong ngành kiểm
sát cần có sự kế thừa hệ thống trụ sở hiện có, kết hợp với việc đầu tư xây
dựng cải tạo mở rộng, xây dựng mới cho phù hợp, tránh lãng phí; phù hợp với
quy hoạch của địa phương, của Ngành và đảm bảo hoạt động bình thường của
các đơn vị.
Trên cơ sở số lượng, địa hạt tư pháp và địa điểm đặt trụ sở của các Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, cần lập dự án đầu tư tổng thể việc quy hoạch, bố
trí đất và đầu tư xây dựng trụ sở cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh theo
hướng hiện đại (đảm bảo quy mô và các yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật, trang thiết
bị...). Trong đó, phân loại quy mô trụ sở làm việc, nhà công vụ của Viện kiểm
117
sát nhân dân cấp tỉnhg theo nhóm, phù hợp với quy mô biên chế, khối lượng
công việc, đặc điểm vùng miền để phù hợp với thực tế.
Để góp phần khắc phục khó khăn cho ngân sách nhà nước trong giai
đoạn hiện nay, trước mắt cần đầu tư xây mới trụ sở cho những Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnhg được hợp nhất từ 2 đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp
cấp tỉnh trở lên, đã xác định rõ được địa điểm, địa hạt tư pháp mà trụ sở chưa
có hoặc chưa đáp ứng nhu cầu cho hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnhg. Đối với những nơi giữ nguyên địa hạt hành chính theo đơn vị cấp
cấp tỉnh hiện nay, chỉ đổi tên thành Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg mà trụ
sở vẫn đáp ứng nhu cầu trước mắt thì chưa đầu tư xây dựng mới. Đối với
những Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg tuy được hợp nhất từ 2 đơn vị Viện
kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh trở lên, nhưng trụ sở của Viện kiểm sát nhân
dân cấp cấp tỉnh nơi đóng trụ sở của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg trước
mắt có thể đáp ứng được thì tạm thời sử dụng, nếu cần thiết thì cải tạo mở
rộng để sử dụng trong một thời gian ngắn, sau đó sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng
mới theo lộ trình.
Bên cạnh đó, đối với những Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg được sáp
nhập từ 2 đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh trở lên, vì công chức
của Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh nơi không đặt trụ sở sẽ phải công tác
xa nhà, trực nghiệp vụ... nên nhà ở công vụ cần thiết phải được chuẩn bị khẩn
trương trước khi quyết định thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg.
* Về phương tiện công tác
Tất cả các Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đều cần được trang bị phương
tiện ô tô và các trang thiết bị khác để đáp ứng yêu cầu mới. Tại những đơn vị có
quy mô cán bộ lớn, địa bàn rộng, khối lượng công việc nhiều cần được trang bị
từ 2 ô tô trở lên để đáp ứng nhu cầu đi lại thường xuyên của cán bộ, kiểm sát
viên khi làm nhiệm vụ. Ngoài ra, các phương tiện làm việc, phương tiện liên lạc
118
phục vụ nhu cầu công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg cần được trang
bị theo hướng hiện đại.
* Về kinh phí hoạt động
Với mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động tổ chức lớn hơn, địa hạt tư
pháp rộng hơn, khối lượng công việc, số lượng cán bộ tập trung đông hơn,
nhu cầu sử dụng phương tiện nhiều hơn thì nhu cầu kinh phí hoạt động
thường xuyên của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg sẽ tăng thêm. Nguồn kinh
phí này cần được tính toán cụ thể cho từng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg
được phân loại theo quy mô cán bộ, khối lượng công việc, đặc điểm địa hình.
Để có thời gian chuẩn bị về cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí cho
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg thì việc sáp nhập một số đơn
vị Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh vào một cấp tỉnhg không nên thực hiện
đồng loạt một lần mà giai đoạn đầu thực hiện ở những nơi có điều kiện thuận
lợi; đối với những nơi chưa đủ điều kiện thì trước mắt chuyển đổi mỗi đơn vị
cấp cấp tỉnh thành một cấp tỉnhg, khi chuẩn bị đủ điều kiện sẽ thành lập Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg có quy mô lớn hơn.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đổi mới tổ chức và hoạt của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư
pháp trong thời gian tới
3.3.1. Tăng cường sự Lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Lãnh
đạo trong tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông
Cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng đối với tổ
chức của VKSND, giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp,
toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ công chức, KSV trên cơ sở phát
huy vai trò người đứng đầu. trong đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa công tác cán
bộ với công tác tư tưởng, công tác tổ chức với công tác kiểm tra, giám sát để
nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, KSV. Trong quá trình thực hiện
119
nhiệm vụ, cần bám sát hướng dẫn, chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và Tỉnh ủy. Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong Ngành để triển khai, thực
hiện tốt trong tổ chức của VKSND.
3.3.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về tổ chức của Viện kiểm
sát
- Cần bổ sung các quy định về cơ cấu tổ chức cán bộ của VKSND các
cấp theo hướng bao quát đầy đủ các đơn vị, bộ phận thuộc cơ cấu bộ máy và
cơ cấu đội ngũ công chức của VKSND ở từng cấp
- Đề nghị liên ngành tố tụng Trung ương thống nhất nội dung, các Quy
chế phối hợp trong các Ngành đồng thời hướng dẫn một cách chặt chẽ để
VKSND các cấp có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
3.3.3. Giải pháp về tăng cường sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của
Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ phận tham mưu về
tổ chức của VKSND
Tổ chức của VKSND là một công việc khó khăn, phức tạp, có thể đụng
chạm đến quyền lợi cũng như tình cảm của công chức trong ngành. Do đó,
hoạt động của bộ phận làm công tác này cần phải được quan tâm, chú trọng
hơn nữa để có thể làm việc một cách chất lượng và hiệu quả. Vì vậy, cần:
+ Lựa chọn, bố trí công chức có năng lực, trình độ và kinh nghiệm thực
tiễn, nhạy bén, sáng tạo, chuyên nghiệp trong khả năng nắm bắt, tổng hợp,
phân tích, đánh giá và dự báo tình hình, có khả năng sử dụng công nghệ thông
tin, điều phối công việc tốt cho công tác tham mưu.
+ Nghiên cứu, xây dựng chương trình đào tạo và bồi dưỡng kiến thức
về công tác lãnh đạo, quản lý và tham mưu trong ngành Kiểm sát.
- Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với tổ
chức của VKSND
120
Mặc dù phòng Thanh tra VKSND tỉnh Đắk Nông chỉ mới thành lập (từ
tháng 12/2017) nhưng có thể thấy công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám
sát đối với tổ chức của VKSND có vai trò rất quan trọng giúp đội ngũ công
chức, KSV thấy được sự quan tâm, theo dõi thường xuyên của Đảng ủy, Lãnh
đạo VKSND tỉnh Đắk Nông, từ đó tạo cho đội ngũ công chức, KSV ý thức
thường xuyên phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện bản thân đáp ứng nhiệm vụ và
có cơ hội phát triển. Do đó, cần tập trung công tác thanh tra hơn nữa, đồng
thời kiểm tra đột xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra để
phòng ngừa vi phạm; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quản lý chặt chẽ đội ngũ
cán bộ, công chức, qua đó để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm đối với công
chức vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật đồng thời gắn với trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, lãnh đạo phụ trách không làm hết trách
nhiệm để xảy ra vi phạm phải xử lý kỷ luật. Vì vậy, quá trình thực thi công vụ
của đội ngũ công chức, KSV của tỉnh sẽ nâng cao hiệu quả.
3.3.4. Kiện toàn tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Nông
- Đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, bố trí và sử dụng
công chức, KSV trong Ngành
Trước hết, cần phải xác định rõ công chức đặc biệt cán bộ Kiểm sát là
những người làm việc trong một môi trường đặc thù, áp lực công việc cũng
như yêu cầu, trách nhiệm rất cao. Do đó, ngay từ công tác tuyển dụng công
chức, cần phải cải cách phương thức thi tuyển để có thể chọn ra được những
công chức có trình độ, hiểu biết sâu về kiến thức pháp luật cũng như kiến thức
xã hội, có khả năng về ngoại ngữ, tin học, có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh
chính trị vì những cán bộ được tuyển dụng tương lại sẽ là những Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa, vì vậy cần phải đặc
biệt chú trọng đến công tác sơ tuyển để đảm bảo những người sắp được
121
tuyển dụng không bị khiếm khuyết về hình thể, không nói lắp, thể hiện được
khả năng diễn thuyết, hùng biện trước đám đông, như vậy mới có thể thực
hiện tốt những nhiệm vụ được giao phó và bản lĩnh của cán bộ Kiểm sát.
Sau khi tuyển dụng sẽ đến quá trình bố trí, sử dụng công chức, do đó
cần phải tính tới sự phù hợp về năng lực, chuyên môn và phẩm chất đạo đức
của từng người để đảm bảo tính hợp lý, khoa học trong việc bố trí và sử dụng
công chức. Để thực hiện tốt khâu này, đơn vị chủ quản có thể phân công công
chức thử thách qua nhiều nhiệm vụ, nhiều khâu công tác khác nhau để tránh
việc bị đóng khung tại một khâu công tác nhất định sẽ làm giảm ý chí phấn
đấu, học hỏi cũng như gây nên tâm lý nhàm chán trong quá trình công tác.
122
Kết luận chương 3
Qua gần 10 năm toàn ngành Kiểm sát nhân dân triển khai thực hiện
Hiến pháp 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014, Quyết định, Quy chế của
Ngành các quy định khác của pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự
Đảng, Lãnh đạo VKSND tối cao, sự quan tâm của chính quyền địa phương,
Lãnh đạo đơn vị VKSND tỉnh Đắk Nông đã quán triệt đối với công chức trên
toàn tỉnh luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và các công tác mà Đảng và
Nhà nước giao phó, trên cơ sở những kết quả đạt được và những hạn chế còn
tồn tại trong tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nông, tác giả đã đưa ra một số
biện pháp cụ thể nhằm phát huy các thành tựu và khắc phục những hạn chế
thiếu sót, khó khăn để qua đó giúp cho tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nông
ngày một hoàn thiện và thực hiện một cách hiệu quả để đáp ứng được những
yêu cầu, nhiệm vụ được đặt ra trong tình hình mới.
123
KẾT LUẬN
Qua quá trình phát triển từ ngày thành lập đến nay, tổ chức của Viện
kiểm sát nhân dân đã không ngừng đổi mới, từng bước được hoàn thiện, củng
cố, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật
định. Từng bước hệ thống tổ chức, bộ máy cơ quan Viện kiểm sát các cấp đã
ði vào ổn định hoạt động theo một quy trình đồng bộ, thống nhất, đạt hiệu quả
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, quá trình vận hành và trước những nhu cầu, nhiệm vụ mới
cho thấy cơ cấu tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã bộc lộ một
số điểm chưa hợp lý, bất cập. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân cần phải có sự bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu mới.
Xuất phát từ yêu cầu tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân thành 2
cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, trong đó trọng tâm là xây dựng Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh
Đắk Nông và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, luận văn đã làm rõ
những vấn đề chung nhất về bối cảnh, quan điểm và nội dung cải cách tư
pháp, nắm vững những thành tựu và hạn chế trong tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận văn đã có những lý
giải khoa học về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng mô hình đổi mới
tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông. Đồng thời, luận
văn đã chỉ ra những điểm ưu việt của mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động
này so với mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân cấp
cấp tỉnh hiện nay, đó là nâng cao vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Nông trong hệ thống các cơ quan nhà nước; góp phần thu gọn đầu
mối các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, tạo điều kiện để Nhà nước tập trung
nguồn lực về tài chính để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang
thiết bị và phương tiện làm việc cho các cơ quan này; có điều kiện để hiện đại
124
hóa hệ thống tư pháp, bảo đảm việc đầu tư có hiệu quả, tiết kiệm ngân sách,
khắc phục được tình trạng đầu tư manh mún, dàn trải như hiện nay; tập trung
nguồn lực con người, có điều kiện để tổ chức lại nhiệm vụ theo hướng chuyên
môn hóa từng lĩnh vực, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực,
phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ và cải thiện thái độ, trách nhiệm của
cán bộ, công chức tư pháp, giúp cho người dân dễ tiếp cận với cơ quan tư
pháp và cán bộ tư pháp gần dân hơn. Bên cạnh đó, luận văn làm rõ những
thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức đặt ra đối với ngành Kiểm sát trong
việc xây dựng mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Nông.
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn của việc xây dựng mô
hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông,
luận văn đã đưa ra một số phương hướng để xây dựng mô hình đổi mới tổ
chức và hoạt động này như đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng; đảm bảo sự giám
sát của Hội đồng nhân dân; đảm bảo quyền của người dân trong việc tiếp cận
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, đảm bảo sự đồng bộ của các cơ quan
tư pháp; hoàn thiện cơ sở pháp lý, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và cơ sở
vật chất. Trong đó, tác giả cho rằng đảm bảo quyền của người dân trong việc
tiếp cận Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông là phương hướng quan trọng
nhất khi thiết lập mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động này bởi bảo đảm quyền
con người, quyền công dân là mục tiêu trung tâm của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
125
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2004), Báo cáo sơ kết hai năm triển
khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về
"một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới", Hà
Nội.
2. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp - Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(2006), Kế hoạch số 05-KH/CCTP về thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (giai đoạn 2006 -
2010) , Hà Nội.
3. Ban Nội chính Trung ương Đảng (2002), Đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh
chống tội phạm, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
4. Lê Cảm (2005), "Bàn về tổ chức quyền tư pháp - nội dung cơ bản của
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Kiểm sát, (23).
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 08-11
của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các
cơ quan bảo vệ pháp luật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21-3 của
Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực
hiện trong năm 2000, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3
126
của Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần
thực hiện trong năm 2000, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
26/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà
Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7
về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều
tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/05/2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, Hà Nội.
18. Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu lập pháp, (7).
19. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Sự hạn chế quyền lực
nhà nước, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận
chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
127
21. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội
23. Nguyễn Bắc Sơn (2005), Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức
quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Luận án Tiến sĩ, trường Đại học Kinh tế Quốc dân
24. Lại Hợp Việt (2016) “Bàn về vai trò, trách nhiệm của đơn vị và cán
bộ quản lý nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát các cấp”, Tạp chí Kiểm sát, số 14.
25. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2015), Báo cáo tổng kết
năm 2015, Đắk Nông.
26. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2016), Báo cáo tổng kết
năm 2016, Đắk Nông.
27. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2017), Báo cáo tổng kết
năm 2017, Đắk Nông.
28. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2018), Báo cáo tổng kết
năm 2018, Đắk Nông.
29. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2019), Báo cáo tổng kết
năm 2019, Đắk Nông.
30. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2020), Báo cáo tổng kết 05
năm thi hành Luật tổ chức VKSND giai đoạn 2015 – 2020, Đắk Nông.