BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN TRUNG PHONG

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOAT ĐỘNG CỦA VIÊN KIỂM SÁT

NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK NÔNG, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH

TƯ PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐĂK NÔNG - NĂM 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN TRUNG PHONG

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOAT ĐỘNG CỦA VIÊN KIỂM SÁT

NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK NÔNG, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH

TƯ PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02.

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu

ĐĂK NÔNG - NĂM 2022

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM VIẾT TẮT

Các từ, cụm từ viết tắt Các từ, cụm từ nguyên nghĩa

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CQĐT Cơ quan điều tra

ĐTV Điều tra viên

KSV Kiểm sát viên

KTV Kiểm tra viên

KTVA Khởi tố vụ án

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Danh mục từ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN .............................................................................. 17

1.1. Khái quát về cải cách tư pháp .................................................................. 17

1.2. Khái niệm và đặc điểm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân .................. 23

1.3. Khái quát về đổi mới tổ chức và hoạt động viện kiểm sát nhân dân đáp

ứng yêu cầu cải cách tư pháp .......................................................................... 35

Kết luận chương 1 ........................................................................................... 48

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG. ........................................... 49

2.1. Cơ sở pháp lý về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh .............. 49

2.2.Nội dung đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thực hiện

chiến lược cải cách tư pháp ............................................................................. 65

2.3.Thực trạng thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Đắk Nông theo tiến trình cải cách tư pháp .............................. 79

2.4.Những hạn chế của việc đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Đắk Nông nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp ................. 96

Kết luận chương 2 ......................................................................................... 104

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ

HÌNH ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VIỆN KIỂM SÁT

NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH

TƯ PHÁP ..................................................................................................... 105

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Viện kiểm

sát nhân dân cấp tỉnh .................................................................................... 105

3.2. Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

cấp tỉnh đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp ................................................... 109

3.3.Giải pháp nâng cao hiệu quả đổi mới tổ chức và hoạt của Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp trong thời gian

tới ................................................................................................................. 118

Kết luận chương 3 ......................................................................................... 122

KẾT LUẬN .................................................................................................. 123

TÀI LIỆU THAM KHẢO

7

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, trước yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước và để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng

chống tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ

chức và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ

chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân là một nội dung quan trọng

được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Đảng

Cộng sản Việt Nam xác định nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt

Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự

Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; đồng thời, bổ sung nội dung: “Nghiên cứu, ban

hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến

lược cải cách tư pháp”. Theo đó, tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất

lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, Viện kiểm

sát nhân dân (VKSND), Cơ quan điều tra, cơ quan Thi hành án và các cơ

quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; pḥng ngừa và đấu tranh

có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật; giải quyết kịp

thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định. Cải cách

Viện kiểm sát là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy

nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng nhằm mục tiêu xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu:

“Xây dựng một nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng,

nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” theo Nghị

quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, theo đó Đảng và Nhà

nước ta chủ trương xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, nhằm phát huy

8

mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời tăng cường

pháp chế XHCN, đảm bảo kỷ cương xã hội… trong đó, định hướng tiếp tục

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành

động mà một số công tác trọng tâm trong khâu đột phá đó là cải cách nền tư

pháp trong giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới như: Nghị quyết số 49-

NQ/TW Ngày 2/6/2005 Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm

2020 trong đó xác định: “ Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với

tổ chức và hoạt động của Tòa án”, Kết luận số 79- KL/TW ngày 28/7/2010

của Bộ chính trị đã khẳng định: “ Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay”. Kết luận số

83-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ chính trị về Tổng kết việc thực hiện NQ

48-NQ/TW của Bộ chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt nam đến năm 2010 định hướng đến 2020; Kết luận số

84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ chính trị về Tổng kết 15 năm thực hiện

Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020 và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội

khóa XV…

Trong những năm gần đây, tổ chức của VKSND nói chung cũng như

của VKSND hai cấp tỉnh Đắk Nông nói riêng đã có nhiều bước đổi mới cả về

số lượng và chất lượng, trong đó đội ngũ công chức, KSV là nhân tố quyết

định trong việc thực hiện một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả của Nhà

nước, đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đang trong thời kì công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, việc nâng cao

hiệu quả tổ chức của VKSND là vấn đề cần thiết để việc quản lý và xây dựng

đội ngũ cán bộ công chức có hiệu quả, đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ

mới, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế trong xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà

9

nước nói riêng ở Việt Nam hiện nay. Vấn đề cải cách tư pháp đã được quán

triệt và trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân,

nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức cũng như hành động,

đồng thời phù hợp với quá trình đổi mới công tác lập pháp và cải cách hành

chính.

Bên cạnh những kết quả đạt được trong những năm qua thì hoạt động

Viện kiểm sát nhân dân Đắk Nông cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế và

bất cập như: chất lượng và hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm chưa cao, tin báo tố giác tội phạm còn để tồn đọng, kéo dài, một số vụ

án dân sự, hành chính chậm được giải quyết, chất lượng tranh tụng tại phiên

tòa chưa được nâng cao… đòi hỏi phải nhanh chóng cải cách mạnh mẽ, toàn

diện về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra

trong tình hình mới. Với lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài “Đổi mới tổ chức

và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng yêu cầu

của cải cách tư pháp” làm luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu

Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu khoa

học, các bài viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức và hoạt động

của Viện kiểm sát nhân dân như sau:

Nhóm thứ nhất: Những công trình là các đề tài khoa học cấp Nhà nước,

cấp bộ, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về

hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân như:

Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” do Bộ Tư

Pháp (2022) biên soạn. Đề án nghiên cứu nhà nước pháp quyền trong mối

quan hệ với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa… Trong tiến trình nghiên cứu, mỗi chuyên đề chỉ rõ những điểm mới,

10

điểm đột phá về cải cách tư pháp. Một số ý kiến đề nghị tập trung nghiên cứu,

tổng kết đánh giá thực trạng, kết quả của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền ở Việt Nam hiện nay; coi đây là thực tiễn quan trọng để xây dựng các

giải pháp hoàn thiện mô h́ nh Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam trong tương lai. Thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của

Đảng nhằm phụng sự nhân dân tốt hơn, đóng góp nhiều hơn vào công cuộc

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Vì vậy, việc xây dựng đề án

cần có phương pháp tiếp cận khoa học, tầm nhìn dài hạn đến năm 2045 và đặt

trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển của Cách mạng công

nghiệp lần thứ tư.

Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Hải Phong về: “Một số vấn đề về

tăng cường trách nhiệm trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động

điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” cho rằng nội dung hoạt động kiểm sát

chỉ là hoạt động của cơ quan VKS trong việc truy cứu TNHS người phạm tội

và buộc tội họ trước Tòa án và xác định về giới hạn phạm vi viện kiểm sát

được bắt đầu từ khi vụ việc phạm tội xảy ra cho đến khi kết thúc việc buộc tội

.Nhóm thứ 2, một số bài báo khoa học, tạp chí:

Bài viết “Bàn về vai trò, trách nhiệm của đơn vị và cán bộ quản lý

nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát các cấp” của tác giả Lại Hợp Việt đăng trên

Tạp chí kiểm sát số 14/2016; Bài viết có một số trọng điểm sau: Căn cứ Luật

tổ chức Viện KSND, Pháp lệnh Kiểm sát viên (KSV) Viện KSND và các văn

bản quy phạm pháp luật khác về tư pháp; thì những quyền năng pháp lý mà

Viện Kiểm sát (VKS) trực tiếp thực hiện để quyết định và liên quan đến việc

cáo buộc người phạm tội thì đó là quyền năng thuộc nội dung chức năng thực

hành quyền công tố; những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát sử dụng để

phát hiện và yêu cầu xử lý các vi phạm pháp luật của các cơ quan và người

tiến hành tố tụng, là những quyền năng thuộc nội dung chức năng kiểm sát

11

các hoạt động tư pháp. Từ đó có thể hiểu là: “Thực hành quyền công tố là việc

Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung chức

năng thực hành quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người

phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử hình sự". Kiểm sát các

hoạt động tư pháp là chức năng Hiến định của Viện KSND, có nội dung giám

sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao thực

hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, xét xử, thi hành án

nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất .

Chức năng thực hành quyền công tố được thực hiện trong tất cả các giai đoạn

của tố tụng hình sự, từ khi khởi tố, điều tra, truy tố và tại các phiên tòa xét xử

sơ thẩm án hình sự. VKS thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi

phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội

phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, không để người nào bị

bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính

mạng, sức khỏe, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật.Chức

năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được Viện KSND thực hiện trong xét xử

án hình sự, dân sự, hành chính; giam giữ, cải tạo; thi hành án; giải quyết khiếu

nại tố cáo. Khi phát hiện các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người

tiến hành tố tụng có vi phạm pháp luật thì VKS kháng nghị hoặc kiến nghị

yêu cầu chấm dứt vi phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm phạm.

Thực tiễn chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được ngành KSND thực

hiện có hiệu quả, góp phần quan trọng trong xây dựng nền tư pháp trong sạch,

vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý.

Bài viết "Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay",

của tập thể các tác giả do GS.TS. Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội,

2020... bài viết: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng

Nhà nước pháp quyền", của TSKH Lê Cảm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số

12

4, 2021; Qua quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn sau 20 năm đổi mới, một

trong những nội dung đặc trưng của NNPQ XHCN đã được Đảng và Nhà

nước ta thừa nhận là yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền

công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Trên cơ sở

đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về

Chiến lược Cải cách tư pháp (CCTP) đến năm 2020 đã một phần hiện thực

hoá nội dung đặc trưng nói trên với yêu cầu hệ thống tư pháp phải được hoàn

thiện để hướng tới mục tiêu bảo vệ công lý, lẽ phải, lẽ công bằng. Các cơ

quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của người nhân dân trong việc bảo vệ

công lý, quyền con người: “Xây dựng nền tư pháp vững mạnh, dân chủ,

nghiêm minh, bảo vệ công lý…”. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

XI của Đảng ta (năm 2011) cũng đã tiếp tục khẳng định yêu cầu bảo vệ công

lý trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Tiếp tục

nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh

toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm

2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992

(sửa đổi năm 2013) cũng đã hiến định những giá trị căn bản và phổ quát của

công lý: “Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân”. Như vậy, trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN, công

lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản, xuyên

suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta và

là một giá trị tiến bộ xã hội nhân văn, bền vững được toàn xã hội thừa nhận và

hướng tới

13

Các công trình khoa học nêu trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý

luận và thực tiễn về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư

pháp nước ta, phúc đáp những yêu cầu bức xúc của cuộc sống. Tuy nhiên, vì

các lý do khác nhau nên những công trình nghiên cứu trên chưa giải quyết

một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt

động của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng

trong điều kiện cải cách tư pháp. Vấn đề tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2

cấp trong đó có việc xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực mới được đặt

ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị và Kết

luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Vì vậy, mặc dù đã có khá nhiều bài viết về vấn đề này nhưng chưa có công

trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống chính thức

được công bố.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

- Hệ thống hoá cơ sở lý luận pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp..

- Phân tích thực trạng quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cụ thể tại tỉnh Đắk Nông và Chỉ ra những

như khó khăn, thách thức đối với ngành kiểm sát trong việc xây dựng mô hình

tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp;

- Đưa ra phương hướng và giải pháp xây dựng tổ chức và hoạt động

của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và giải pháp nâng cao vận dụng thực tiển

tỉnh Đắk Nông nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

14

nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp

.- Nghiên cứu thực trạng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp

-Rút ra khó khăn, thách thức trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó

đưa ra một số phương hướng, giải pháp để tổ chức và hoạt động của Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nên đối tượng

nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Đắk Nông nói riêng và Việt Nam nói chung.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của một đề tài luận văn thạc sĩ, tác giả xác định phạm

vi của đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề pháp lý liên quan

đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông bởi lẽ đây là cấp trực tiếp giải

quyết số lượng chủ yếu các vụ việc theo thủ tục tư pháp và cũng là vấn đề

phức tạp, có tác động rất lớn đến hiệu quả của cải cách tư pháp trong thời gian

tới. Trong đó, luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề chủ yếu của cải cách tư

pháp và yêu cầu đặt ra đối với ngành kiểm sát; tổ chức và hoạt động của

Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành; cơ sở thiết lập Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Đắk Nông; những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong

việc xây dựng mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh Đắk Nông, trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm

xây dựng có hiệu quả mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động viện kiểm sát.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

15

5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của

Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, về đổi mới

tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp; những thành

tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của

Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, về đổi mới

tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp; những thành

tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.

Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp được sử dụng là các phương pháp

nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý

luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể; đồng

thời cũng sử dụng kết hợp các phương pháp luật học so sánh, phương pháp lý

thuyết hệ thống, phương pháp thống kê....

6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn

6.1. Đóng góp mới của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ

khoa học về bối cảnh, quan điểm, nội dung cải cách tư pháp ở nước ta hiện

nay. Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, luận văn đã đánh

giá đúng thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong

những năm qua và yêu cầu cải cách Viện kiểm sát nhân dân; xác định cơ sở

thiết lập và tính ưu việt của mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Đắk Nông; làm rõ những thuận lợi và khó khăn, thách thức

16

đối với ngành kiểm sát trong việc xây dựng mô hình đổi mới tổ chức và hoạt

động này. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra một số phương hướng và giải

pháp khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn để xây dựng mô hình đổi mới

tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

hiện nay. Đồng thời, hi vọng rằng luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu

tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm thực tiễn và công tác

nghiên cứu, giảng dạy.

6.2. Ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng

như thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng

yêu cầu cải cách tư pháp.

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa

học, những người làm thực tiễn; đồng thời có thể được sử dụng cho việc

nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về đổi mới tổ chức viện kiểm sát nhân dân

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh Đắk Nông.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng mô hình đổi mới tổ

chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp.

17

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT

NHÂN DÂN

1.1. Khái quát về cải cách tư pháp

1.1.1. Bối cảnh và nhu cầu của cải cách tư pháp

1.1.1.1. Bối cảnh

Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là quá trình đổi mới toàn

diện hệ thống tư pháp với trung tâm là hoạt động xét xử nhằm mục tiêu làm

cho tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp ngày càng thể hiện đầy đủ,

đúng đắn bản chất dân chủ, của dân, do dân, vì dân của quyền tư pháp, phù

hợp với các nguyên tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng ngày một

tốt hơn, hiệu quả hơn yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người dân và nhà nước Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế [24, tr. 182].

Trong hơn 60 năm qua, hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta đã

hình thành và từng bước kiện toàn, phát triển trên nền tảng của những nguyên

tắc dân chủ, tiến bộ, hiện đại, ngày càng phù hợp và đáp ứng tốt hơn các yêu

cầu của thực tiễn cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, góp phần quan

trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam. Bước vào thiên niên kỷ mới, công cuộc đổi mới toàn diện và

sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt đến bước phát

triển mới, tạo nên những tiền đề và cũng là thách thức lớn về kinh tế, chính

trị, xã hội đòi hỏi phải có những điều chỉnh lớn mang tính cải cách đối với

thiết kế tổng thể của hệ thống tư pháp, từ chức năng, nhiệm vụ đến tổ chức,

con người và hoạt động của từng cơ quan tư pháp cũng như các mối quan hệ

18

giữa chúng.

Trên phương diện quốc tế, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy

thoái toàn cầu vẫn còn tiếp tục tác động đến thế giới nói chung và nền kinh tế

nước ta nói riêng, vẫn tiềm ẩn nguy cơ tái khủng hoảng. Quá trình tái cấu trúc

các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh

mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết

kiệm năng lượng, tài nguyên. Chủ trương bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản

lớn cho thương mại quốc tế. Thực tế này đã đặt ra những thách thức gay gắt

đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong việc chủ

động sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế và các nỗ lực tập thể để nêu cao

chủ quyền dân tộc, phát huy vai trò và bảo vệ lợi ích của mình. Trong giai

đoạn tới, các nước ASEAN sẽ hình thành cộng đồng kinh tế chung. Quá trình

này sẽ dẫn đến việc hình thành các nguyên tắc và chuẩn mực chung, trong đó

có các nguyên tắc, quy định pháp luật thể hiện lợi ích của cả cộng đồng.

1.1.1.2. Nhu cầu cải cách tư pháp

Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu và rộng vào đời sống kinh tế,

chính trị quốc tế. Điều này không chỉ thể hiện ở sự tham gia trực tiếp của Việt

Nam vào các tổ chức quốc tế và các diễn đàn quốc tế và tỉnh Đắk Nông có

tính truyền thống như Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên của Liên hợp

quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á

- Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á mà còn thể

hiện sự mở rộng đối với các tổ chức và diễn đàn này thông qua các diễn đàn

APEC+, ASEAN+... Quá tŕnh này làm cho hệ thống pháp luật và các thiết

chế lập pháp, hành pháp, tư pháp của Việt Nam có những sửa đổi và điều

chỉnh tích cực như từng bước chuyển hóa các nguyên tắc pháp lư thương mại

quốc tế cơ bản như không phân biệt đối xử, công khai, minh bạch trong hoạt

động ban hành pháp luật, áp dụng pháp luật, trong quy trình ra các quyết định

19

hành chính, tư pháp... Tuy nhiên, những tiền đề đó chưa đủ để vượt qua

được những thách thức lớn đối với hệ thống pháp luật và tư pháp nước ta

trong những năm tiếp theo. Như một số nhà nghiên cứu phân tích, những

thách thức đó là sự bất tương thích về mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động tổ

chức, cơ chế hoạt động và thủ tục tố tụng tư pháp của Việt Nam so với các

quy tắc và chuẩn mực chung của quốc tế; sự bất cập, lạc hậu trong nhận thức,

hiểu biết và đặc biệt là kỹ năng áp dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ tư pháp

trong khi xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến quá trình hội nhập. Trong khi

đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức thương mại quốc tế hiện đại và

kỹ năng nghiệp vụ liên quan tới hội nhập vẫn đang trong tình trạng bị động,

chắp vá, hình thức, kém hiệu quả [28]. Để có thể thúc đẩy quá trình hội nhập

nhanh và bền vững, việc xây dựng một nhà nước hiệu quả, có cơ cấu tổ chức

phù hợp và một hệ thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với thông lệ chung là

yêu cầu rất lớn đang đặt ra đối với đất nước ta.

Sau 25 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội 2001-2010, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo ra sức

mạnh tổng hợp cho sự phát triển kinh tế đất nước. Sự ổn định về chính trị - xã

hội, dân trí được nâng cao, dân chủ hóa nhiều mặt đời sống xã hội, bảo đảm

nhân quyền, công bằng, tiến bộ xã hội đang đòi hỏi phải phát huy vai trò của

pháp luật và tư pháp. Mặt khác, nhiều vấn đề văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục...

đặt ra nhiều thách thức lớn trong đó có vấn đề phát triển bền vững. Quốc

phòng và an ninh, nhất là chủ quyền và an ninh vùng biển đảo vẫn đang là

thách thức lớn trong bối cảnh quốc tế hiện tại. Bên cạnh đó, các thế lực thù

địch tiếp tục đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", lợi dụng triệt để vấn đề tự do dân

chủ, tự do tôn giáo, các vấn đề về nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn

dân, kích động bạo loạn, ly khai. Những tội phạm có vấn đề an ninh phi truyền

thống như buôn bán ma túy, cướp biển, tội phạm có tổ chức, khủng bố, nhập

20

cư và di cư trái phép đang ảnh hưởng đến tình hình trật tự - xã hội của đất nước.

Trong bối cảnh đó, việc xây dựng, củng cố hệ thống pháp luật và tư pháp có

khả năng đối mặt với khó khăn, thách thức này càng cần phải được chú trọng.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) được tổ chức thành

công có ý nghĩa trọng đại khi đất nước đang bước sang một giai đoạn phát

triển mới sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội Đảng đã thông

qua Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi) và Chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Đây là những văn kiện

quan trọng định hướng cho sự phát triển đất nước trong những năm tới, đặt ra

yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước như một khâu quan

trọng đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi chiến lược, tiếp tục hoàn thiện tổ

chức bộ máy, tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính.

Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12/07/2011 Hội nghị lần thứ hai Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về việc triển khai thực hiện chủ trương

nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã đưa ra nhiều đề xuất sửa đổi

quan trọng, đặc biệt là các chương về chế độ kinh tế, về tổ chức bộ máy nhà

nước.

Có thể nói, công cuộc đổi mới toàn diện đã tạo ra những tiền đề, đồng

thời cũng đặt ra những thách thức lớn cho tiến trình cải cách tư pháp nhằm

đáp ứng mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam.

1.1.2. Các quan điểm cải cách tư pháp

Thứ nhất, cải cách tư pháp phải xuất phát từ nhu cầu và điều kiện

kinh tế - xã hội cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong từng giai đoạn phát triển của

mình, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan tư

21

pháp không chỉ phục vụ, tạo thuận lợi cho sự vận hành của nền kinh tế mà

đồng thời phải là người lính gác bảo vệ tinh thông, nhạy bén trước những biến

cố, tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường có thể xâm hại đến trật tự công

cộng [24, tr. 187]. Sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống tư pháp không tách

rời sự phát triển của kinh tế - xã hội và tác động ngược trở lại đối với kinh tế -

xã hội, tạo nên hệ thống công cụ pháp lý an toàn cho sự phát triển bền vững

của nền kinh tế, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Tổ chức và

hoạt động của các cơ quan tư pháp, các trình tự, thủ tục và phương thức, lề lối

làm việc của đội ngũ cán bộ, chức danh tư pháp phải được cải cách theo

hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa phù hợp với tiến

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo ngăn ngừa có hiệu quả

và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội

xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức,

giải quyết nhanh chóng, hợp lý, hiệu quả các tranh chấp kinh tế, dân sự trong

nền kinh tế thị trường đang hội nhập ngày càng sâu rộng với tỉnh Đắk Nông

và quốc tế, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội, bảo đảm và tôn trọng quyền dân

chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xã hội và Nhà nước.

Thứ hai, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo giữ vững và phát huy bản chất dân chủ,

vì con người và bảo vệ quyền con người của các cơ quan thực hiện quyền tư

pháp. Nguyên tắc "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" thể hiện bản

chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Nhà

nước pháp quyền là bảo đảm và phát triển quyền con người, quyền công dân.

Phương thức bảo đảm quyền con người của Nhà nước pháp quyền là

công nhận quyền con người, xác lập quyền công dân bằng hoạt động lập pháp,

tổ chức thực thi quyền con người, quyền công dân bằng hoạt động hành pháp

và bảo vệ các quyền đó bằng hoạt động tư pháp. Nguyên tắc xây dựng các cơ

22

quan tư pháp của dân, do dân, vì dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp

quyền đòi hỏi huy động sự tham gia ngày càng rộng rãi và tích cực của nhân

dân vào công tác tư pháp, bắt đầu từ quá trình xây dựng và ban hành các văn

bản pháp luật về tổ chức và hoạt động tư pháp đến quá trình tổ chức thực thi

pháp luật trong hoạt động tư pháp. Nhiều Nghị quyết của Đảng (Nghị quyết

Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002

của Bộ Chính trị) và đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh

chủ trương nghiên cứu và đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động tư pháp, bổ trợ

tư pháp như tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, thi hành án, giám định tư pháp,

công chứng, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề

nghiệp. Thực chất đó là quá trình thu hút sức mạnh, trí tuệ, nguồn lực của

nhân dân để làm thành sức mạnh của nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ

nghĩa, tạo cơ sở xã hội rộng rãi cho hoạt động tư pháp có hiệu lực, hiệu quả.

Thứ ba, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành đồng bộ với cải cách lập pháp,

hành pháp theo hướng đảm bảo tính độc lập tương đối và sự kiểm tra, giám

sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực trên cơ sở quyền lực nhà nước thống

nhất thuộc về nhân dân, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

Trên cơ sở của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ 2001-2010 do Đại hội

Đảng IX thông qua, Nhà nước đã chọn khâu trọng tâm, đột phá trong cải cách

bộ máy nhà nước - đó là xây dựng và triển khai Chương trình tổng thể cải

cách hành chính 2001-2010 với mục tiêu xây dựng nền hành chính dân chủ,

trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, từng bước hiện đại hóa.

Thứ tư, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp

quyền phải đảm bảo tính tối cao của luật trong tổ chức và hoạt động của các

23

cơ quan tư pháp, đảm bảo cải cách đồng bộ cả hệ thống tư pháp với Tòa án

và hoạt động xét xử là trung tâm. Đây là yêu cầu rất cơ bản của Nhà nước

pháp quyền đối với hoạt động tư pháp. Tòa án - cơ quan duy nhất có quyền

xét xử, quyền sử dụng và nhân danh quyền lực nhà nước để phán xét tính hợp

hiến, hợp pháp của những vi phạm pháp luật, những tranh chấp pháp lý.

Nguyên tắc Hiến định "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của

Tòa án có hiệu lực pháp luật" [35, Điều 72] khẳng định tính tối cao, quyết

định của hoạt động xét xử và vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư

pháp. Vì vậy, cải cách tư pháp phải đồng bộ ở tất cả các công đoạn của quy

trình tố tụng và với tất cả các cơ quan, tổ chức trong hệ thống tư pháp nhằm

giải quyết triệt để những bất cập hiện nay đang làm cho quy trình tố tụng bị

cắt khúc, các cơ quan tư pháp biệt lập với quyền ra những quyết định tiền xét

xử (bắt tạm giữ, tạm giam...) có nhiều nguy cơ gây oan sai, gây thiệt hại

nghiêm trọng đến quyền và lợi ích cơ bản của công dân, làm cho Tòa án

không thực sự giữ được vị trí là trung tâm của hệ thống tư pháp, là cơ quan

duy nhất có quyền ra các quyết định, phán quyết động chạm đến quyền cơ bản

của công dân trong quá trình tố tụng tư pháp.

1.2. Khái niệm và đặc điểm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân

1.2.1. Khái niệm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân

Trong khoa học hành chính và đời sống xã hội, theo các cách tiếp cận

khác nhau, có những quan niệm và cách giải thích khác nhau về thuật ngữ tổ

chức của VKSND. Để làm rõ khái niệm này, Luận văn nghiên cứu một số

khái niệm:

* Khái niệm tổ chức

Theo Đại từ điển tiếng Việt, tổ chức với nghĩa là động từ, là sắp xếp, bố

trí thành các bộ phận để cũng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức

năng hoặc là sắp xếp, bố trí để làm cho có trật tự, nền nếp hay tiến hành một

24

công việc theo cách thức, trình tự nào; và với nghĩa là danh từ, tổ chức là tập

hợp người được tổ chức theo cơ cấu nhất định để hoạt động vì lợi ích chung.

[39, tr.1662]

Theo Từ điển Tiếng Việt, “tổ chức là làm cho thành một chỉnh thể, có

một cấu tạo, một cấu trúc và có những chức năng, nhiệm vụ chung nhất định,

với phương thức hoạt động riêng” [39, tr.1662]. Như vậy, Luận văn sẽ tiếp

cận vấn đề tổ chức với nghĩa là: việc bố trí, sắp xếp lại thành một chỉnh thể

với một cấu trúc nhất định để hoạt động vì những quyền lợi chung, nhằm một

mục đích chung và với những phương thức hoạt động riêng phù hợp với từng

bộ phận, từng nhóm trong tổ chức đó.

* Khái niệm Viện kiểm sát nhân dân

Theo Từ điển Tiếng Việt, “Viện kiểm sát là cơ quan chuyên kiểm tra và

giám sát việc chấp hành pháp luật”. [19, tr.1151]

Từ điển Luật học không đưa ra khái niệm về VKSND mà chỉ

khái niệm: “VKSND tối cao là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp trên phạm vi cả nước góp phần bảo đảm cho pháp

luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. [30, tr.855]

Luật Tổ chức VKSND năm 2014 khái niệm: “VKSND là cơ quan thực

hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam”. [21]

Từ các khái niệm trên, có thể hiểu: Viện kiểm sát nhân dân là một trong

những bộ phận hợp thành hệ thống cơ quan của bộ máy nhà nước của Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có chức năng thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cũng như các hệ thống cơ quan khác, Viện

kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc tổ

chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí, chức

năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân

25

được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc riêng, nhằm bảo đảm cho

các Viện kiểm sát hoạt động có hiệu quả cao hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu

thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. VKSND có nhiệm vụ

bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo

vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất.

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về tổ chức của

VKSND như sau: Tổ chức của VKSND là việc bố trí, sắp xếp lại thành một

chỉnh thể thống nhất với cơ cấu, số lượng hợp lý, gồm đội ngũ cán bộ, công

chức có phẩm chất, năng lực để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố

và kiểm sát hoạt động tư pháp một cách hiệu quả.

1.2.2. Đặc điểm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân

Thứ nhất, tổ chức của VKSND được thành lập từ VKSND tối cao đến

VKSND cấp tỉnh, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ

thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt

động nhằm thực thi công vụ.

Trong tổ chức và hoạt động bộ máy Nhà nước pháp quyền của nước ta,

hệ thống cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng được tổ chức và

hoạt động theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: “Nhà

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân”.

Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công

nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm

soátgiữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

26

pháp, tư pháp. [20]

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, VKSND là một cơ quan trong

hệ thống cơ quan của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam. Do đó, cũng

như các hệ thống cơ quan khác, VKSND được tổ chức và hoạt động trên cơ

sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung.

Song, do có vị trí, chức năng, nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các

VKSND được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù. Điều đó

không có nghĩa là tách hệ thống VKSND ra khỏi bộ máy nhà nước ta, mà

nhằm bảo đảm cho nó hoạt động có hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu

thực hiện nhiệm vụ tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Những nguyên tắc về tổ

chức và hoạt động của VKSND được quy định tại Điều 109 Hiến pháp năm

2013 và Điều 7 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Đó là nguyên tắc tập trung

thống nhất lãnh đạo trong ngành, nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt

động của VKSND và nguyên tắc kết hợp vai trò lãnh đạo của Viện trưởng với

quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng của Ủy

ban kiểm sát.

Vì vậy, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung

cũng như VKSND nói riêng đều có sự thống nhất từ trên xuống dưới và có

mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm thực thi công vụ một cách hiệu quả.

Thứ hai, tổ chức của VKSND là cơ sở cho công tác tổ chức cán bộ

nhằm nâng cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của VKSND để thực hiện các

chức năng và nhiệm vụ của mình.

Công cuộc cải cách tư pháp hiện nay đã đặt ra yêu cầu ngày càng cao

đối với cán bộ, công chức ngành KSND. VKSND là cơ quan với chức năng

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đảm bao không để

xảy ra oan sai hay bỏ lọt tội phạm, bảo vệ pháp luật và quyền con người,

quyền công dân, góp phần trong đấu tranh, phòng chống tội phạm, do đó, đòi

27

hỏi mỗi một cơ quan, đơn vị, ngoài vai trò của người đứng đầu mỗi cơ quan,

đơn vị thì cần phải có một đội ngũ công chức, Kiểm sát viên “Vững về chính

trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương

và trách nhiệm”. Vì vậy, trên cơ sở tổ chức của VKSND, công tác tổ chức cán

bộ cần đảm bảo mỗi cán bộ Kiểm sát có đủ năng lực, trình độ, ý thức trách

nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, qua đó để nâng cao vị trí, vai trò và trách nhiệm

của VKSND trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.

Thứ ba, tổ chức của VKSND được thiết lập là để thực hiện những chức

năng, nhiệm vụ được giao trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát

hoạt động tư pháp

Để một hệ thống VKSND có thể thực hiện có hiệu quả chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì hệ thống cơ quan

Viện kiểm sát phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung,

thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào

các cơ quan chính quyền địa phương. Do đó, việc tổ chức của VKSND các

cấp cũng phải bảo đảm quán triệt các nguyên tắc trên để thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ của mình.

Thứ tư, tổ chức của VKSND là cơ sở để đánh giá chất lượng thực thi

nhiệm vụ của cán bộ, công chức trong các công tác và hoạt động của Ngành

Tổ chức của VKSND một cách khoa học, khách quan, công khai, minh bạch trên

cơ sở triển khai và thực hiện có hiệu quả Luật Tổ chức VKSND năm 2014, các

văn bản hướng dẫn thi hành, các khâu công tác tổ chức cán bộ với nhiều quy

định mới đã làm tăng lên trách nhiệm, thẩm quyền của cán bộ, công chức trong

ngành Kiểm sát, qua đó đánh giá được ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách

nhiệm cũng như chất lượng thực thi nhiệm vụ trong công tác và hoạt động của

Ngành.

1.2.3. Nguyên tắc, vai trò tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân

28

1.2.3.1.Nguyên tắc tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân

 Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành

Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành bắt nguồn từ

nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp luật.

Nguyên tắc này mang tính đặc thù của ngành kiểm sát, là một nguyên tắc hiến

định và được quy định từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Nguyên tắc này cũng

bảo đảm cho ngành kiểm sát được tổ chức theo một chỉnh thể thống nhất và

hoạt động được tập trung thống nhất theo chiều dọc từ người lãnh đạo cao

nhất cho đến các cấp, các cán bộ của ngành kiểm sát. Nội dung nguyên tắc

được thể hiện như sau:

- Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành đề cao vai trò

của người đứng đầu ngành kiểm sát. Theo đó, Viện trưởng VKSND tối cao

được trao thẩm quyền rất rộng để bảo đảm tính thống nhất trong lãnh đạo, chỉ

đạo, điều hành với tư cách là người đứng đầu ngành, chịu trách nhiệm về toàn

bộ hệ thống VKSND. Bên cạnh đó, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới phải

chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của Viện kiểm sát cấp mình và chịu

trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND cấp trên. Cụ thể, tại Khoản 1 Điều

109 Hiến pháp năm 2014 quy định: Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng

lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát

cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân tối cao.

Tại Khoản 5, 6 Điều 63 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định

nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKSND tối cao: “Viện trưởng VKSND

tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên

trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp, Điều tra viên các ngạch, Kiểm tra viên các

ngạch; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc

29

thẩm quyền”.Các chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền như Viện

trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, cấp tỉnh, cấp tỉnh;

Viện trưởng VKS quân sự quân khu và khu vực, Phó viện trưởng Viện kiểm

sát quân sự trung ương, quân khu và khu vực đều do Viện trưởng VKSND tối

cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

Như vậy, tất cả các VKSND từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống

nhất. Mọi hoạt động của VKSND, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo của

Viện trưởng. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu trách nhiệm cá nhân về toàn

bộ hoạt động của VKS do mình lãnh đạo trước Viện trưởng VKSND cấp trên

và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Viện trưởng

VKSND tối cao chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc

hội, Chủ tịch nước (Khoản 12 Điều 63 Luật Tổ chức VKSND năm 2014).

- Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành còn được thể

hiện bằng việc lãnh đạo, chỉ đạo của Viện kiểm sát cấp trên và Viện trưởng

Viện kiểm sát cấp trên đối với Viện kiểm sát cấp dưới và Viện trưởng Viện

kiểm sát cấp dưới. Cụ thể, theo Khoản 1 Điều 7 Luật Tổ chức VKSND năm

2014 quy định: “Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm

minh vi phạm pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới. Viện trưởng Viện kiểm

sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ quyết định trái pháp luật của Viện

trưởng Viện kiểm sát cấp dưới”.

Việc thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành bảo

đảm cho các cấp Viện kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện

nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư

pháp.

Mặt khác, nhấn mạnh nguyên tắc này nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân

của Viện trưởng, là người có quyền và trách nhiệm quyết định các vấn đề

thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát và chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi

30

của mình không có nghĩa là loại trừ nguyên tắc tập trung dân chủ ra khỏi hoạt

động của Viện kiểm sát nhân dân. Phải thấy rằng, bên cạnh Viện trưởng còn

có Ủy ban kiểm sát. Theo Khoản 2 Điều 7 Luật Tổ chức VKSND năm 2014

quy định: “Tại VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKSQS

Trung ương, VKSQS quân khu và tương đương thành lập Ủy ban kiểm sát để

thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý kiến về

các vụ án, vụ việc trước khi Viện trưởng quyết định”

Như vậy, quy định này vừa bảo đảm mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ

của tập thể, vừa hạn chế những thiếu sót của Viện trưởng và đề cao trách

nhiệm của Viện trưởng. Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong

ngành được xác lập trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của VKSND, đồng thời,

cũng là một trong những căn cứ để phân biệt về tổ chức và hoạt động của

VKSND với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.

 Nguyên tắc độc lập

Nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của VKSND bắt nguồn

từ nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước theo Hiến pháp năm 2013, nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành

một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.

Nội dung nguyên tắc này thể hiện như sau:

- Các VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc

lập, chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, không chịu sự chi phối bởi các cơ

quan nhà nước, tổ chức, cá nhân, mà chỉ chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện

trưởng VKSND tối cao, sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND cùng cấp. Điều

đó có nghĩa là các cơ quan, tổ chức, cá nhân không có quyền can thiệp vào

hoạt động của VKSND. Mặt khác, về mặt tổ chức, Viện trưởng VKSND tối

cao quyết định bộ máy và biên chế của VKSND các cấp; bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên các Viện

31

kiểm sát các cấp. Do đó, VKSND có bộ máy tổ chức độc lập, không chịu sự

chi phối từ bất cứ cơ quan nhà nước nào.

- Nguyên tắc độc lập được bảo đảm bằng việc nghiêm cấm hành vi can

thiệp vào hoạt động nghiệp vụ của VKSND, điều này quy định trong Luật Tổ

chức VKSND năm 2014: “Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân cản trở,

can thiệp vào hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp

của Viện kiểm sát nhân dân; lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống cán

bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân

dân” (Khoản 3 Điều 9).

- Nguyên tắc độc lập còn được bảo đảm bằng hoạt động nghiệp vụ một

cách độc lập của Kiểm sát viên, nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoặc can

thiệp trái pháp luật vào hoạt động của Kiểm sát viên. Theo đó tại Khoản 2

Điều 109 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Khi thực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ

đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”. Như vậy, Kiểm sát viên tuân

theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định

của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm

sát hoạt động tư pháp. Mặt khác, nguyên tắc này phải phù hợp với nguyên tắc

tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, bảo đảm sự lãnh đạo của

Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống

nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thực hiện nguyên tắc

này có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức và hoạt động của VKSND nhằm bảo

đảm cho VKSND có đầy đủ điều kiện và căn cứ để thực hiện chức năng,

nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

 Nguyên tắc kết hợp vai trò lãnh đạo của Viện trưởng với quyền thảo

luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng của Ủy ban kiểm sát

Nguyên tắc này được quy định từ Luật tổ chức VKSND năm 1960, tuy

32

nhiên, lúc này, Ủy ban kiểm sát chỉ có vai trò tư vấn cho Viện trưởng chứ

không có quyền quyết định. Đến Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức

VKSND năm 1992, vai trò của Ủy ban kiểm sát được đề cao, theo đó, Ủy ban

kiểm sát có quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan

trọng.

Hiến pháp năm 2013 đã không đề cập đến Ủy ban kiểm sát, nhằm thu

hẹp thẩm quyền của Ủy ban kiểm sát, theo xu hướng chỉ là cơ quan tư vấn

cho Viện trưởng và quyết định một số vấn đề quan trọng. Luật Tổ chức

VKSND năm 2014 đã quy định về Ủy ban kiểm sát trên cơ sở tổ chức hệ

thống bốn cấp Viện kiểm sát, cụ thể như sau: Tại Viện kiểm sát nhân dân tối

cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát quân

sự quân khu và tương đương thành lập Ủy ban kiểm sát để thảo luận và quyết

định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý kiến về các vụ án, vụ việc

trước khi Viện trưởng quyết định (Khoản 2 Điều 7).

Như vậy, Ủy ban kiểm sát được thành lập tại năm đơn vị Viện kiểm sát

đó là: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân

sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương.

Ủy ban kiểm sát VKSND tối cao được quy định trong Luật Tổ chức

VKSND năm 2014, như sau: “Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực

hiện thẩm quyền. Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số

thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực

hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng” (Khoản 3 Điều 43).

“Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban

kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc

dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để

33

Viện trưởng xem xét, quyết định” (Khoản 4 Điều 43).

So với Luật Tổ chức VKSND năm 2002, Ủy ban kiểm sát theo Luật Tổ

chức VKSND năm 2014 đã thu hẹp thẩm quyền, đồng thời đề cao vai trò của

Viện trưởng như:

- Tại Khoản 3 Điều 43 không quy định trong trường hợp “nếu Viện

trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên ủy ban kiểm sát thì thực

hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Uỷ ban thường vụ

Quốc hội hoặc Chủ tịch nước” (Điều 32 Luật Tổ chức VKSND năm 2002).

Quy định này cho thấy, vai trò, trách nhiệm của Viện trưởng VKSND tối cao

là người có quyền cao nhất trong việc quyết định những vấn đề quan trọng

cùng với Ủy ban kiểm sát.

- Tại Khoản 4 Điều 43, Ủy ban kiểm sát chỉ thảo luận, cho ý kiến để

Viện trưởng xem xét, quyết định, tức là thẩm quyền quyết định cuối cùng là

của Viện trưởng, mà Ủy ban kiểm sát chỉ tham gia với vai trò cơ quan tư vấn,

tham mưu, phụ giúp cho Viện trưởng đưa ra quyết định.

Đối với các Ủy ban kiểm sát của VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh,

VKS quân sự trung ương và VKS quân sự quân khu và tương đương được quy

định tại các điều 45, 47, 53, 55 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, giống như

quy định của Ủy ban kiểm sát VKSND tối cao về vai trò tư vấn cho viện

trưởng là theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, Ủy

ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ

việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp

để Viện trưởng xem xét, quyết định; Về nghị quyết của Ủy ban kiểm sát cũng

phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành, trường hợp biểu

quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Tuy

nhiên, nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban

kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo

34

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Như vậy, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 ghi nhận nguyên tắc này

một cách cụ thể và chi tiết. Trong tổ chức và hoạt động của VKSND, vai trò

của Ủy ban kiểm sát là cần thiết, với trí tuệ tập thể, thành viên của Ủy ban

kiểm sát đều là những Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiều

kinh nghiệm thực tiễn và quản lý, chỉ đạo, điều hành, vì vậy, có thể tham gia

thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự,

hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thýõng mại, lao động phức tạp. Đồng thời,

phát huy sức mạnh tập thể của Ủy ban kiểm sát trong công tác tham mưu, tư

vấn để thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng cùng với

quyết định của Viện trưởng sẽ mang lại hiệu quả cao trong hoạt động lãnh

đạo, chỉ đạo, điều hành VKSND tối cao và Viện kiểm sát các cấp.

1.2.3.2. Vai trò tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân

Thứ nhất, trong các cơ quan hành chính nói chung cũng VKSND nói

riêng, mỗi cơ quan, đơn vị đều có mục tiêu, nhiệm vụ chính trị được Đảng và

Nhà nước giao phó. Và để thực hiện và hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ

đó, trước hết cần phải tổ chức bộ máy Nhà nước một cách hiệu quả, trong đó

người đứng đầu cơ quan trực tiếp tổ chức quản lý trong việc bố trí, sắp xếp

nhân lực sao cho phù hợp với từng nhiệm vụ cụ thể nhằm đảm bảo sự phối

hợp nhịp nhàng để thực hiện các mục tiêu đề ra hay nhiệm vụ được giao. Như

vậy, có thể thấy vai trò quan trọng trong việc tổ chức của bất kì một cơ quan

Nhà nước hay tổ chức nào, sẽ quyết định toàn bộ quá trình hoạt động cũng

như hiệu quả đạt được của cơ quan, tổ chức đó.

Thứ hai, tổ chức của VKSND nhằm quản lý xã hội theo pháp luật, bao

gồm hệ thống các văn bản pháp luật là cơ sở để quản lý Nhà nước. Theo đó,

trên cơ sở hệ thống pháp luật chung và thống nhất, người đứng đầu đơn vị mà

ở đây là Viện trưởng VKSND dựa vào đó để có thể tổ chức bộ máy một cách

35

hoàn thiện và hiệu quả nhất.

Thứ ba, tổ chức của VKSND có chức năng xác định rõ trách nhiệm và

cách thức thể hiện vai trò của mỗi cán bộ Kiểm sát trong việc thực hiện công

vụ. Khi việc tổ chức đã hoàn chỉnh, sẽ làm cho mỗi cán bộ, công chức hiểu rõ

những yêu cầu của đơn vị đối với họ thông qua các quy tắc, quy trình làm

việc. Ngoài ra, tổ chức của VKSND còn góp phần xử lý thông tin để ra quyết

định và giải quyết các vấn đề của mình.

1.3. Khái quát về đổi mới tổ chức và hoạt động viện kiểm sát

nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

1.3.1. Đặc điểm đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong tiến

trình cải cách tư pháp

Tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp. Trên

thế giới, mỗi quốc gia có cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực riêng cho

nhà nước của mình. Đối với hầu hết các nhà nước tư sản đều tổ chức và thực

hiện quyền lực nhà nước theo học thuyết tam quyền phân lập. Theo đó, quyền

lực nhà nước được phân chia thành ba nhánh độc lập, giao cho ba hệ thống cơ

quan khác nhau thực hiện, trong khi thực hiện quyền lực có sự đối trọng và

chế ước lẫn nhau. Ở những nước này không có cơ quan Viện kiểm sát nhân

dân, mà chỉ có cơ quan Viện công tố và cơ quan này cũng không phải là một

hệ thống độc lập mà nó có thể nằm trong Tòa án hoặc chịu sự quản lý của Bộ

Tư pháp hay của Chính phủ. Chức năng cơ bản của Viện công tố của các

nước này là đưa kẻ phạm tội ra trước Tòa án và thực hiện sự buộc tội đối với

hành vi phạm tội của người đó.

Đối với các nước tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo học

thuyết tập quyền (Việt Nam là một trong những quốc gia thuộc nhóm này) thì

tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực

nhà nước thông qua cơ quan đại diện của mình là Quốc hội và Hội đồng nhân

36

dân các cấp. Trong bộ máy nhà nước của các quốc gia này tồn tại một hệ

thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân có vị trí độc lập, trực thuộc Quốc hội.

Viện kiểm sát nhân dân được giao chức năng thực hành quyền công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật.

Xem xét vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trên phương diện trong mối

quan hệ với các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam theo qui định của pháp luật hiện hành có thể thấy vị

trí của Viện kiểm sát nhân dân với các cơ quan nhà nước khác như sau:

Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Quốc hội: Quốc hội là cơ

quan quyền lực cao nhất. Quốc hội thành lập ra Viện kiểm sát nhân dân và

giao cho Viện kiểm sát nhân dân chức năng thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp. Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng

Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội thực hiện việc giám sát tối cao đối

với toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời

gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy

ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước, trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu

cầu của đại biểu Quốc hội.

Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Chính phủ: Chính phủ là

cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhất của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, Chính phủ và Viện kiểm sát

nhân dân đều là những cơ quan do Quốc hội thành lập, nhưng đây là hai hệ

thống cơ quan độc lập về tổ chức bộ máy, biên chế và chức năng, nhiệm vụ.

Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Chính phủ và

Viện kiểm sát nhân dân phải có cơ chế phối hợp tốt để thực hiện các mục tiêu

chung của đất nước.

Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân dân: Viện

37

kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân là các cơ quan tư pháp do Quốc hội

thành lập và được Quốc hội giao cho các chức năng khác nhau. Viện kiểm sát

nhân dân độc lập với Tòa án nhân dân về tổ chức bộ máy và biên chế. Viện

kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật quá trình xét xử, thi hành

án hình sự của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc

giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động, các vụ án hành chính và các việc khác theo qui định của pháp luật.

Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân địa phương với các cơ quan

chính quyền địa phương và Hội đồng nhân dân cùng cấp: Viện kiểm sát nhân

dân là hệ thống cơ quan do Quốc hội thành lập, thừa hành quyền lực từ Quốc

hội, không thừa hành quyền lực từ chính quyền địa phương. Viện kiểm sát

nhân dân địa phương độc lập với cơ quan chính quyền địa phương về tổ chức

bộ máy, biên chế, tài chính và độc lập về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Viện kiểm sát nhân

dân địa phương thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch

công tác của Viện kiểm sát cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa

phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm

báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp, trả lời chất vấn, kiến

nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp về các công việc có

liên quan.

Là một cơ quan trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước,

Viện kiểm sát nhân dân cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung về tổ

chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất

và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan bảo vệ pháp chế, Viện

kiểm sát nhân dân còn được tổ chức và hoạt động theo một nguyên tắc đặc

thù, đó là nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất trong ngành. Nguyên tắc

38

lãnh đạo tập trung thống nhất đã chi phối nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng

lãnh đạo; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân các địa phương chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao. Do đó, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân được tổ

chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất.

Nguyên tắc tập trung thống nhất đảm bảo cho các Viện kiểm sát nhân

dân địa phương được tổ chức và hoạt động một cách tập trung, thống nhất và

độc lập theo ngành dọc, không lệ thuộc hay chịu sự can thiệp nào từ phía các

cơ quan Nhà nước ở địa phương. Đây là một nguyên tắc hết sức quan trọng,

xuất phát từ tính chất và nhiệm vụ của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân

dân trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi xác định vị trí

của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước cần có nhận thức đúng về

những vấn đề sau:

Tuy Viện kiểm sát nhân dân địa phương không chịu sự chỉ đạo của

chính quyền sở tại, nhưng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương không

phải là một bộ phận tách rời mọi hoạt động của địa phương. Viện kiểm sát

nhân dân địa phương còn phải chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương

và sự giám sát của nhân dân địa phương. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân

dân cũng phải phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Do đó, tổ chức và

hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân địa phương phải kết hợp chặt chẽ và

đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống

nhất trong ngành.

Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là cấp vừa trực tiếp thực hiện

công tác kiểm sát theo thẩm quyền cấp mình, mặt khác vừa có nhiệm vụ chỉ

đạo trực tiếp đối với Viện kiểm sát cấp tỉnh nên tổ chức bộ máy cần phải có

39

cơ cấu phù hợp để thực hiện cả hai hoạt động đó. Đối với Viện kiểm sát nhân

dân cấp tỉnh là cấp cơ sở, cấp trực tiếp thực hiện phần lớn các nội dung của

công tác kiểm sát theo thẩm quyền. Viện kiểm sát cấp tỉnh cần tập trung thực

hiện tốt các mục tiêu công tác cụ thể mà Viện kiểm sát cấp trên đề ra. Do đó,

cấp tỉnh cần được tăng cường và tạo điều kiện về mọi mặt để có thể hoàn

thành tốt nhiệm vụ của mình.

Để đảm bảo Viện kiểm sát các cấp hoàn thành chức năng, nhiệm vụ

trong tiến trình cải cách tư pháp thì hệ thống cơ quan Viện kiểm sát cần phải

được tổ chức theo nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất, không phụ thuộc

và chịu sự can thiệp nào của chính quyền địa phương. Nguyên tắc tập trung

thống nhất đòi hỏi phải xác định đúng đắn vai trò và trách nhiệm của từng cấp

kiểm sát. Các Viện kiểm sát cấp trên cần tăng cường sự lãnh đạo, công tác

kiểm tra đối với cấp dưới. Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần thực hiện tốt

vai trò là trung tâm chỉ đạo mọi hoạt động của hệ thống cơ quan Viện kiểm

sát nhân dân.

Trong hệ thống cơ quan nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ

bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền

làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính

mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Thực hiện nhiệm

vụ này, Viện kiểm sát nhân dân là một trong những cơ quan thể hiện trực tiếp

bản chất của nhà nước ta, là bộ phận không thể thiếu trong bộ máy nhà nước.

Bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực

nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà

nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các cơ

quan Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân được phân công trực tiếp thực

hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan bảo

vệ pháp luật. Do đó, có thể xem Tòa án và Viện kiểm sát như là những bộ

40

phận truyền tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong pháp luật vào đời sống

xã hội thông qua hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của những cơ quan

này. Điều này cũng có nghĩa hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước một

phần chi phối bởi hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp, trong đó có Viện

kiểm sát nhân dân.

Thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm đầu

của thời kỳ đổi mới cho thấy cần tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện

kiểm sát nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả

các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Hiến pháp năm 1992 khẳng định

đường lối của Đảng và Nhà nước là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế cùng phát

triển. Cùng với sự hình thành cơ chế kinh tế mới đòi hỏi sự thay đổi, ra đời

của hàng loạt chế định pháp luật phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.

Nhà nước thừa nhận quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, sự bình đẳng giữa các

thành phần kinh tế. Đổi mới nền kinh tế đã bắt đầu bằng sự phát triển của

hàng loạt các doanh nghiệp với mọi hình thức tổ chức, hoạt động. Mặt khác,

yêu cầu cải cách hành chính và cải cách tư pháp cần phân định rõ phạm vi,

chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tổ chức trong bộ máy nhà nước, của cơ

quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.

Những ý kiến, quan điểm về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện

kiểm sát nhân dân được đề cập khi tiến hành cải cách tư pháp trong thời kỳ

đổi mới đất nước, đặc biệt là khi tiến hành đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.

Những bước đi ban đầu của nền kinh tế chuyển đổi với không ít những lựa

chọn, những thay đổi, từ cơ chế chính sách đến vấn đề pháp lý để có thể định

hình từng bước phát triển của nền kinh tế thị trường. Đó là quá trình trăn trở,

tháo gỡ dần những vướng mắc trên mọi phương diện để có thể xây dựng được

một thể chế hoàn chỉnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

41

nghĩa. Những vấn đề đó đã ảnh hưởng không nhỏ khi xác định vai trò, chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung và Viện

kiểm sát nhân dân nói riêng.

Năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được tiến

hành trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Những

thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã khẳng định đường

lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa

xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định tiếp tục thực hiện

công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp một cách triệt để, toàn diện

hơn để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã thể chế

hoá nghĩamục tiêu Nghị quyết của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền,

xác định đúng đắn vị trí, vai trò, hệ thống các cơ quan tư pháp trong bộ máy

nhà nước, định hướng xây dựng một nền tư pháp dân chủ, vững mạnh. Một

trong những nội dung về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp năm

1992 (sửa đổi) là sự điều chỉnh một bước về chức năng, nhiệm vụ của Viện

kiểm sát nhân dân. Việc điều chỉnh chức năng của Viện kiểm sát trong Hiến

pháp không phải là vấn đề mới nảy sinh trong quá trình xây dựng, soạn thảo

Hiến pháp sửa đổi, mà ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VII, những ý kiến liên

quan đến chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đã

được đề cập, thảo luận trên nhiều diễn đàn về lý luận cũng như thực tiễn.

Không chỉ đề cập đến sự chồng chéo chức năng thanh tra của cơ quan Thanh

tra với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát mà vấn

đề có tính trực diện hơn đối với sự tồn tại của chức năng này trong điều kiện

đổi mới. Trong mối tương quan chung giữa các cơ quan trong bộ máy nhà

nước với những chức năng mà Viện kiểm sát đang thực hiện dường như Viện

kiểm sát đang nắm giữ quá nhiều quyền lực chi phối trên nhiều lĩnh vực của

42

đời sống xã hội từ tư pháp đến thể chế quản lý kinh tế, quản lý hành chính

nhà nước. Hệ quả của sự đánh giá này đã dẫn tới việc có người đặt ra câu hỏi

phải chăng Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan siêu quyền lực và như thế

là trái với tổ chức và hoạt động của một nhà nước được xây dựng trên

nguyên tắc dân chủ.

Quá trình sửa đổi Hiến pháp, vấn đề chức năng của Viện kiểm sát nhân

dân được xem xét trên nhiều phương diện, không chỉ ở giác độ quyền lực

rộng lớn của Viện kiểm sát trong đời sống xã hội hay sự chồng chéo chức

năng với cơ quan Thanh tra mà cả những ảnh hưởng từ hoạt động của Viện

kiểm sát tới nền kinh tế thị trường. Ở vào thời điểm nền kinh tế đã trải qua 15

năm đổi mới với những thành tựu và sự ổn định bước đầu về cơ cấu kinh tế,

phương thức tổ chức hoạt động, một thể chế kinh tế được xác lập bởi hàng

loạt văn bản pháp luật về kinh tế đã đưa nền kinh tế bước sang giai đoạn phát

triển có định hướng trên cơ sở khuôn khổ của pháp luật. Trong quá trình đó,

sự hình thành hệ thống pháp luật kinh tế là quá trình không ngừng sửa đổi, bổ

sung để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Trong điều kiện vận hành

nền kinh tế thị trường vẫn đang tiếp tục có sự tìm tòi, thử nghiệm và không

ngừng đổi mới để có sự phát triển phù hợp, vững chắc; bên cạnh những ưu

điểm của việc bảo đảm sự tuân thủ pháp luật qua hoạt động kiểm sát chung

của Viện kiểm sát nhân dân thì mặt khác dường như đã tạo ra lực cản vô hình

đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự phản ứng ở những mức độ khác nhau

của các nhà quản lý, các nhà kinh doanh đối với hoạt động thực hiện chức

năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát đã đặt vấn đề về thực tiễn của việc có

cần thiết tồn tại chức năng này của Viện kiểm sát hay không. Xét một cách

biện chứng, khi pháp luật phù hợp với kinh tế sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế

và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển. Chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật nhằm bảo đảm pháp luật được tuân thủ, nhưng trong điều kiện hệ

43

thống pháp luật chưa hoàn thiện thì chính nó trở thành nguyên nhân làm hạn

chế tác dụng, ý nghĩa của việc thực hiện chức năng này. Sự cần thiết duy trì

hay xóa bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát cần được xem xét từ

nhiều phương diện khác nhau cả về lý luận và thực tiễn.

Nhìn vấn đề ở phương diện hẹp hơn để đánh giá thực trạng của ngành

kiểm sát về lực lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát (về năng lực, trình độ, về số

lượng…), quy mô tổ chức bộ máy ngành kiểm sát, cơ sở vật chất, phương tiện

kỹ thuật còn nhiều hạn chế, bất cập. Trong khi, Viện kiểm sát đang phải thực

hiện nhiều trọng trách trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội thì với điều

kiện hiện có, việc thực hiện tốt tất cả những chức năng, nhiệm vụ được giao

thực sự là khó khăn đối với Viện kiểm sát.

1.3.2. Các quan điểm về đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

1.3.2.1. Quan điểm phân định rõ hoạt động kiểm sát chung của Viện

kiểm sát nhân dân với hoạt động thanh tra của cơ quan Thanh tra

Theo quan điểm này, thực tiễn tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

nhân dân ở nước ta hơn 45 năm qua đã khẳng định sự cần thiết khách quan

tồn tại hệ thống Viện kiểm sát nhân dân với hai chức năng không thể tách rời

là chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát chung). Việc đổi mới tổ chức và

nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay cần xuất

phát từ những thành tựu đã đạt được và theo hướng phân định rõ hoạt động

kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân với hoạt động thanh tra của cơ

quan Thanh tra, từng bước nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động công tố,

bảo đảm cho thắng lợi của nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm. Những

người theo quan điểm này cho rằng, so với thời gian trước đây hơn 45 năm, ở

nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi trong tất cả các lĩnh vực của đời sống

xã hội theo xu hướng giữ vững ổn định và phát triển, đóng góp vào thành tựu

44

chung đó có vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân. Hiện nay, với

mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân thì việc bảo đảm cho các văn bản pháp luật do Quốc

hội ban hành được nghiêm chỉnh tuân thủ, để đảm bảo cho tính thống nhất

của pháp luật trong cả nước, để nhanh chóng phát hiện các vi phạm pháp luật

trong việc thực hiện, áp dụng pháp luật và ban hành các văn bản quản lí của

các cơ quan hành pháp thì Quốc hội phải có một cơ quan thay mặt Quốc hội

thực hiện chức năng giám sát việc thi hành pháp luật đối với các cơ quan hành

pháp từ trên xuống dưới. Cơ quan đó phải trực thuộc Quốc hội, do Quốc hội

thành lập chứ không thể trực thuộc Chính phủ - cơ quan hành pháp. Hoạt

động kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ phía cơ quan nhân danh cơ

quan lập pháp hoàn toàn khác với hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan

nhân danh cơ quan hành pháp. Đồng nhất hai loại hoạt động nêu trên và thậm

chí còn chuyển hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật do Viện kiểm sát

nhân dân thực hiện sang cho cơ quan Thanh tra là hoàn toàn sai lầm bởi việc

đó đã tước đi hoặc hạ thấp vai trò kiểm tra, giám sát của Quốc hội đối với quá

trình thực hiện Hiến pháp, các văn bản luật hoặc văn bản dưới luật do chính

Quốc hội hoặc ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành. Trong quá trình thực

hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật, khi phát hiện thấy có vi phạm và tội

phạm thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền xử líư vi phạm và tội phạm theo

qui định của pháp luật. Và vì lẽ đó chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp

luật không thể tách rời chức năng công tố. Mặt khác, đúng là hoạt động công

tố là một trong những nội dung của hoạt động áp dụng pháp luật (hành pháp)

nhưng nếu thành lập Viện công tố chỉ với chức năng công tố và đặt cơ quan

này trực thuộc Chính phủ có nghĩa là đã tách rời hai chức năng nói trên và vô

hình chung đã làm cho quá trình giải quyết các vi phạm và tội phạm thêm

phức tạp và làm bộ máy nhà nước thêm cồng kềnh (cho dù có thành lập Viện

45

công tố trực thuộc Chính phủ thì vẫn phải có một cơ quan trực thuộc Quốc hội

để để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan hành

pháp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân). Qua

nghiên cứu so sánh vị trí, vai trò và địa vị pháp lí giữa Viện kiểm sát của nước

ta với các Viện công tố hoặc Viện kiểm sát ở một số nước khác, cho thấy

chúng ta còn chưa có những cơ chế, điều kiện cần thiết để Viện kiểm sát có

thể thực thi nhiệm vụ đúng với vị trí của cơ quan này. Với vai trò là cơ quan

thực hiện quyền lực của Quốc hội để tiến hành hoạt động giám sát hoạt động

áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang

và công dân đáng lẽ các quyết định của Viện kiểm sát phải có uy quyền hơn,

thế nhưng trong thực tế lại không phải như vậy. Nhiều quyết định, kiến nghị,

thậm chí kháng nghị của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát chung đã

không được thực hiện hoặc không được thực hiện nghiêm chỉnh. Nguyên

nhân của tình trạng trên có nhiều nhưng trong đó phải kể đến sự thiếu hiểu

biết pháp luật cũng như quan niệm không đúng của một số người khi họ cho

rằng chức vụ trong Đảng luôn quan trọng hơn chức vụ trong bộ máy nhà

nước, người không có chức vụ hoặc có chức vụ nhỏ trong Đảng không thể

yêu cầu hoặc kiến nghị, kháng nghị gì với người có chức vụ trong Đảng cao

hơn kể cả trong trường hợp pháp luật có qui định như vậy. Để khắc phục tình

trạng trên, giải pháp đầu tiên là Hiến pháp và pháp luật phải thể chế hóa vị trí,

vai trò của Viện kiểm sát đúng với vị trí cần phải có của nó. Cần phải mở

rộng hơn nữa thẩm quyền của Viện kiểm sát so với qui định của Hiến pháp và

pháp luật hiện hành. Do đó, theo quan điểm này cho rằng cần trả lại cho Viện

kiểm sát chức năng, nhiệm vụ như đã từng tồn tại trong thực tế ở nước ta từ

năm 1960 đến năm 2002. Và vấn đề đặt ra là cần phải có những biện pháp đổi

mới để nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hiện hai chức

năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính,

46

kinh tế, xã hội chứ không chỉ đơn thuần là kiểm sát các hoạt động tư pháp như

hiện nay.

1.3.2.2. Quan điểm chuyển hệ thống Viện công tố trực thuộc Chính phủ

sang hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trực thuộc Quốc hội

Theo quan điểm này, việc chuyển hệ thống Viện công tố trực thuộc

Chính phủ sang hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trực thuộc Quốc hội theo

Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 là

hợp lí nhưng do từ đó đến nay vì giao thêm cho Viện kiểm sát chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội

của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân nên

trong thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân đã không thể thực hiện tốt hai

chức năng này. Để khắc phục tình trạng trên đây cần đổi mới tổ chức và hoạt

động của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng giữ nguyên mô hình tổ chức và

hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng về cơ bản giữ nguyên tên

gọi, mô hình tổ chức bộ máy nhưng cắt giảm bớt chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể

là Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng công tố và chức năng kiểm sát

các hoạt động tư pháp. Và như vậy, Viện kiểm sát nhân dân mới có thể tập

trung làm tốt chức năng công tố mà bấy lâu nay Viện kiểm sát còn chưa hoàn

toàn đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với công tác này. Quan điểm này đã

được chính thức chấp nhận và được thể hiện trong các qui định của Hiến pháp

năm 1992 (sửa đổi) và trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.

Và theo đó đến nay, Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ thực hiện chức năng

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà không thực hiện chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội

của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân nữa.

1.2.3. Quan điểm Viện kiểm sát nhân dân sẽ được tổ chức lại thành

Viện công tố trực thuộc cơ quan hành pháp là Chính phủ

47

Quan điểm này cho rằng, tổ chức và hoạt động của ngành Kiểm sát cần

quay lại mô hình tồn tại trước năm 1960. Theo quan điểm này, Viện kiểm sát

nhân dân sẽ được tổ chức lại thành Viện công tố trực thuộc cơ quan hành

pháp là Chính phủ với chức năng, nhiệm vụ như trước đây là chỉ thực hiện

chức năng công tố chứ không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội của các cơ quan nhà nước,

tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân như nó đã từng làm trong thời

gian hơn 40 năm qua. Còn hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật do

Quốc hội trực tiếp thực hiện và công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội của các cơ quan nhà nước, tổ chức

xã hội, đơn vị vũ trang và công dân trước đây do Viện kiểm sát thực hiện nay

giao cho cơ quan Thanh tra các cấp tiến hành. Theo quan điểm này, nội dung

của chức năng công tố thực chất là hoạt động hành pháp, vì vậy bản thân nó

phải do một hệ thống các cơ quan hành pháp thực hiện và hợp lưí hơn cả là

thành lập Viện công tố trực thuộc Chính phủ để thực hiện chức năng này. Còn

nội dung của chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành

chính, kinh tế, xã hội của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ

trang và công dân không khác hoạt động thanh tra của cơ quan Thanh tra và

vì thế song song với việc thành lập hệ thống Viện công tố thì đồng thời cũng

chuyển chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành

chính, kinh tế xã hội cho cơ quan Thanh tra các cấp thực hiện. Cũng theo

quan điểm này, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

theo hướng thành lập Viện công tố như mô hình đã tồn tại ở nước ta trước

năm 1960 nhưng đồng thời cũng phải kế thừa những ưu điểm đã được khẳng

định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong

những năm qua và có sự tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên

thế giới phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

48

Kết luận chương 1

Trải qua 60 năm thành lập và hoạt động, từ các bản Hiến pháp năm

1980, Luật tổ chức VKSND năm 1981, Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi,

bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 1992,

năm 2002 và năm 2014 đã và đang tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan

trọng của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm pháp chế thông qua công tác thực

hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Và để

thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp có hiệu quả, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát được tổ chức và hoạt động

theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc

lập, không lệ thuộc vào các cơ quan chính quyền địa phương. Cơ cấu tổ chức

bộ máy của Viện kiểm sát các cấp phải bảo đảm quán triệt các nguyên tắc

trên. việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp

vừa phải phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án, vừa phải thực hiện hiệu

quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp;

tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt

động điều tra. Trong quá trình thực hiện, việc bám sát yêu cầu này là rất quan

trọng, có tính quyết định đến sự thành công, vì nếu chỉ chú ý đến yêu cầu về

mặt tổ chức là Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ

chức của Tòa án, mà không tính đến yêu cầu bảo đảm tốt hơn các điều kiện để

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tăng cường trách nhiệm công tố trong

hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra

49

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN

DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

2.1. Cơ sở pháp lý về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnh

2.1.1. Hệ thống và cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnh

2.1.1.1. Hệ thống của Viện kiểm sát nhân dân

Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì đến năm 2010, Viện kiểm sát

được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án. Trong Nghị quyết số

49-NQ/TW chỉ rõ, tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không

phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Để thực hiện những nhiệm vụ đó và nhằm

đảm bảo chức năng hoạt động, VKSND phải tổ chức bộ máy cơ quan của

mình trong đó mỗi bộ phận đảm nhận những khâu công tác nhất định và một

trong những điểm mới của Hiến pháp 2013 là chỉ đưa ra tính định hướng mà

không quy định cụ thể và chi tiết như các bản Hiến pháp trước. Thể chế hóa

chủ trương đổi mới hệ thống tổ chức VKSND theo Kết luận số 79-KL/TW, vì

thế, cơ cấu tổ chức của VKSND không còn được quy định chi tiết trong Hiến

pháp mà sẽ chỉ quy định cụ thể tại Chương III Luật tổ chức VKSND năm

2014. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 quy định về hệ thống VKSND gồm:

VKSND tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định (khoản 2 Điều 107).

Cụ thể hóa quy định trên, Điều 40 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định

về hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm:

- VKSND tối cao.

- VKSND cấp cao: hiện nay có 03 VKSND cấp cao đặt tại 03 thành

phố lớn là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

50

- VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là

VKSND cấp tỉnh): Mỗi tỉnh sẽ có một VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương vậy nên cả nước có 63 Viện kiểm sát ở cấp này.

- VKSND tỉnh, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (sau

đây gọi là VKSND cấp tỉnh): Hiện nay trên cả nước có khoảng 191 Viện kiểm

sát cấp tỉnh.

- Viện kiểm sát quân sự các cấp: Trong đó bao gồm Viện kiểm sát

quân sự Trung ương, Viện kiểm sát cấp quân khu và Viện kiểm sát quân sự ở

các cấp Khu vực.

Như vậy, so với Luật Tổ chức VKSND năm 2002 thì Luật Tổ chức

VKSND năm 2014 đã quy định thành bốn cấp Viện kiểm sát, tức là có quy

định thêm VKSND cấp cao, bên cạnh Viện kiểm sát quân sự các cấp vẫn

được giữ nguyên như trước. Theo Điều 51, Luật Tổ chức VKSND năm 2014,

hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ương;

Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Viện kiểm sát quân sự khu

vực.

Tương ứng với mỗi VKS các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền riêng theo tổ chức hệ thống, được cụ thể trong Luật Tổ chức VKSND

năm 2014:

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh

và thống nhất;

- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án nhân dân cấp cao;

- Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa

51

phương mình. (Điều 41)

- Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân

được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công tố,

kiểm sát hoạt động tư pháp trong quân đội (Điều 50).

VKSND là một cơ quan trong bộ máy nhà nước có chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND có nhiệm vụ bảo

vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất. Cụ thể là:

2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

* Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Tổ chức bộ máy của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn

phòng; Các phòng và tương đương (Khoản 1 Điều 46 Luật Tổ chức VKSND

năm 2014).

- Ủy ban kiểm sát

Theo Điều 47 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Ủy ban kiểm sát

VKSND cấp tỉnh được quy định như sau:

+ Về thành phần, Uỷ ban kiểm sát VKSND cấp tỉnh gồm có: Viện

trưởng; Các Phó Viện trưởng; một số Kiểm sát viên.

+ Về số lượng thành viên Uỷ ban kiểm sát, các Kiểm sát viên do Viện

trưởng VKSND tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSND cấp

tỉnh.

+ Về thẩm quyền, Ủy ban kiểm sát VKSND cấp tỉnh thảo luận và quyết

định những vấn đề quan trọng như: Việc thực hiện chương trình, kế hoạch

công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định của VKSND tối cao; việc thực hiện

chương trình, kế hoạch công tác của VKSND cấp cao; Báo cáo tổng kết công

52

tác với VKSND cấp trên, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng

cấp; Xét tuyển người đang công tác tại VKSND cấp tỉnh và cấp tỉnh đủ điều

kiện dự thi vào ngạch KSV cao cấp, KSV trung cấp, KSV sơ cấp; Xem xét, đề

nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Kiểm

sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp đang công tác

tại VKSND cấp tỉnh và cấp tỉnh.

+ Về vấn đề biểu quyết: Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá

nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang

nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng

không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì thực hiện

theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng VKSND tối

cao.

+ Về công tác tham mưu, tư vấn: Theo đề nghị của Viện trưởng

VKSND cấp tỉnh, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự,

vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương

mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.

Bên cạnh Ủy ban kiểm sát, VKSND cấp tỉnh còn có các đơn vị nghiệp

vụ là các phòng và tương đương.

Thành phần của VKSND cấp tỉnh có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,

Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.

 Viện trưởng VKSND cấp tỉnh

Theo quy định tại Điều 66 Luật TCVKSND năm 2014 thì Viện trưởng

VKSND cấp tỉnh do Viện trưởng VKSND bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

Nhiệm kì của Viện trưởng VKSND cấp tỉnh là 05 năm, kể từ ngày được bổ

nhiệm và có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

+ Chỉ đạo, điều hành, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế

hoạch công tác của Viện kiểm sát cấp tỉnh; quyết định các vấn đề về công tác

53

của VKSND cấp tỉnh, quyết định các vấn đề về công tác của VKSND cấp

tỉnh; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của VKSND cấp tỉnh và cấp dưới

trực thuộc trước Viện trưởng VKSND tối cao; báo cáo công tác của Viện

trưởng VKSND cấp tỉnh và cấp dưới trực thuộc trước Viện trưởng VKSND

tối cao; báo cáo công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của

VKSND cấp tỉnh và cấp dưới trực thuộc trước Viện trưởng VKSND tối cao;

+ Chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra hoạt động của VKSND cấp

tỉnh trực thuộc;

+ Báo cáo trước Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương về công tác của VKSND cấp mình và cấp dưới; trả lời chất vấn, kiến

nghị, yêu cầu của đại biểu hội đồng nhân dân cùng cấp;

+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

 Các Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh

Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh do Viện trưởng VKSND tối cao bổ

nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ là 05 năm kể từ ngày được bổ nhiệm

và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, theo sự phân

công hoặc ủy quyền của Viện trưởng VKSND cấp mình chịu trách nhiệm về

việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trước Viện trưởng VKSND cấp mình và

pháp luật.

* Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi

chung là Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh)

VKSND cấp tỉnh gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, các Kiểm

sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác. Hiện tại

VKSND cấp tỉnh chưa thành lập văn phòng và không có Ủy ban kiểm sát.

VKSND cấp tỉnh thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong

phạm vi địa phương mình.

 Viện trưởng VKSND cấp tỉnh

54

Theo quy định tại Điều 67 Luật TC VKSND năm 2014 thì Viện trưởng

VKSND cấp tỉnh do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm,

cách chức và có nhiệm kỳ là 05 năm kể từ ngày được bổ nhiệm và có những

nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công

tác, quyết định các vấn đề về công tác của VKSND cấp mình và thực hiện các

nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy đjnh của pháp luật; chịu trách nhiệm và

báo cáo công tác trước Viện trưởng VKSND cấp tỉnh; báo cáo công tác thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử với Viện trưởng VKSND cấp cao khi

có yêu cầu;

- Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn, kiến

nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.

 Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh

Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh do Viện trưởng do Viện trưởng

VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và có nhiệm kỳ là 05 năm

kể từ ngày được bổ nhiệm.

Ngoài ra, Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn theo quy định của pháp luật, theo sự phân công hoặc ủy quyền của Viện

trưởng VKSND cấp mình; chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiêm vụ,

quyền hạn trước Viện trưởng VKSND cấp mình và trước pháp luật.

2.1.2. Các chức danh tư pháp trong hệ thống tổ chức của Viện

kiểm sát nhân dân

2.1.2.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

Theo quy định tại Điều 74 Luật Tổ chức VKSND năm 2014: “KSV là

người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Như vậy, theo khái

55

niệm trên, có thể thấy, trong hệ thống các chức danh tư pháp ở nước ta, ở mỗi

cơ quan khác lại có các chức danh tương ứng với chức năng, nhiệm vụ của cơ

quan đó. KSV là một chức danh tư pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân bên

cạnh Điều tra viên, Kiểm tra viên VKSND.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên: Nhiệm vụ, quyền hạn của

Kiểm sát viên được quy định tại Điều 83, Luật Tổ chức VKSND năm 2014, cụ

thể như sau:

+ Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, KSV tuân

theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND. Kiểm sát viên

tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết

định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và

kiểm sát hoạt động tư pháp.

Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định của Viện trưởng VKSND. Khi

có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì KSV có quyền từ chối

nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng;

trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và

Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả

của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng VKSND cấp trên có

thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật

về quyết định của mình.

Viện trưởng VKSND có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với

vi phạm pháp luật của KSV khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có quyền rút,

đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của KSV.

+ Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của KSV khi thực hành quyền công tố,

kiểm sát hoạt động tư pháp do luật định. Theo đó, thực hành quyền công tố là

một trong những chức năng quan trọng nhất của KSV và là một trong những

chức năng của VKSND, KSV thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự

56

để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội và được thực

hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiển nghị khởi tố và

trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Cùng với nhiệm vụ thực

hành quyền công tố, KSV có nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm kiểm

sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân

trong hoạt động tư pháp.

Ngoài ra, KSV còn có các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật

cán bộ, công chức và Điều 83 Luật Tổ chức VKSND. Thêm vào đó, KSV

phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật, có cuộc sống

lành mạnh, tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng; tham gia tuyên truyền,

phổ biến pháp luật; giữ gìn bí mật Nhà nước và bí mật công tác, tôn trọng và

chịu sự giám sát của nhân dân.

+ Trong vụ việc có nhiều KSV tham gia giải quyết thì KSV ở ngạch

thấp hơn phải tuân theo sự phân công, chỉ đạo của KSV ở ngạch cao hơn.

+ Khi thực hiện nhiệm vụ, KSV có quyền ra quyết định, kết luận, yêu

cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật.

- Ngạch, nhiệm kỳ Kiểm sát viên

Điều 76 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, quy định Ngạch Kiểm sát

viên VKSND gồm có:

+ Kiểm sát viên VKSND tối cao;

+ Kiểm sát viên cao cấp;

+ Kiểm sát viên trung cấp;

+ Kiểm sát viên sơ cấp.

Ở VKSND tối cao có thể được bố trí bốn ngạch KSV; ở Viện kiểm sát

quân sự trung ương có Viện trưởng là Kiểm sát viên VKSND tối cao và có

thể được bố trí các ngạch KSV cao cấp, trung cấp, sơ cấp; các Viện kiểm sát

khác có thể được bố trí các ngạch Kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp.

57

Theo Điều 82 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, nhiệm kỳ của KSV

được quy định như sau: KSV được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm;

trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.

2.1.2.2. Kiểm tra viên Viện kiểm sát nhân dân

Kiểm tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để

giúp KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; thực hiện các

nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng VKSND

(Khoản 1 Điều 90 Luật Tổ chức VKSND năm 2014).

- Ngạch Kiểm tra viên: Theo Khoản 2 Điều 90 Luật Tổ chức VKSND

năm 2014, Kiểm tra viên có các ngạch sau đây: Kiểm tra viên; Kiểm tra viên

chính; Kiểm tra viên cao cấp. Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 3 Điều 90

Luật Tổ chức VKSND năm 2014, tiêu chuẩn bổ nhiệm, điều kiện nâng ngạch

Kiểm tra viên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên: Theo Khoản 4 Điều 90 Luật

Tổ chức VKSND năm 2014, kiểm tra viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau

đây:

+ Nghiên cứu hồ sơ vụ, việc và báo cáo kết quả với Kiểm sát viên;

+ Lập hồ sơ kiểm sát vụ, việc;

+ Giúp KSV thực hiện hoạt động khác khi thực hành quyền công tố,

kiểm sát hoạt động tư pháp;

+ Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện

trưởng.

KTV chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Kiểm sát viên và trước

Viện trưởng VKSND về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có

hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý

kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

58

2.1.2.3. Điều tra viên Viện kiểm sát nhân dân

Theo quy định của Luật Tổ chức VKSD năm 2014, ĐTV VKSND là

một chức danh pháp lý được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, đặc biệt

theo khoản 1 Điều 45 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy

định: ĐTV là người được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ Điều tra hình sự. ĐTV

VKSND có 03 ngạch bao gồm: ĐTV sơ cấp, ĐTV trung cấp và ĐTV cao cấp.

ĐTV là một chức danh tư pháp theo đó nhiệm kỳ của ĐTV cũng giống

như các chức danh tư pháp khác của VKSND và có những nhiệm vụ, quyền

hạn theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014.

2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân

2.1.3.1. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân

VKSND là một thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước. Tại khoản

1 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định: “VKSND thực hành quyền công tố,

kiểm sát hoạt động tư pháp”. Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy

định: “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư

pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, theo Hiến

pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND có hai chức

năng, đó là: chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt

động tư pháp. Cụ thể là:

2.1.3.2.Chức năng thực hành quyền công tố

Quyền công tố là quyền buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội.

Quyền buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội thể hiện ở quyền của

Nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết để tìm ra người phạm tội và truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó ra trước Tòa án để xét xử và thực

hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao

cho VKSND thực hiện.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014:

59

“Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để

thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện

ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong

suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.

Như vậy, quyền công tố là quyền của Nhà nước trong việc truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội.

Về nội dung thực hành quyền công tố: Khi thực hiện chức năng thực

hành quyền công tố, VKSND có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

- Yęu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án

trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của

CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

- Trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do

BLTTHS quy định;

- Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện

pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố

theo quy định của BLTTHS;

- Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,

điều tra của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra;

- Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, Cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;

- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm

rõ tội phạm, người phạm tội;

- Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,

tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội

60

đối với người phạm tội;

- Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về

tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật;

- Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy

tố;

- Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;

- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp VKSND

phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội (Tùy thuộc vào thời điểm

kháng nghị mà Viện kiểm sát có thể thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục

phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm);

- Thực hiện nhiệm vụ quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với

người phạm tội theo quy định của BLTTHS.

Về phạm vi thực hành quyền công tố: Tại khoản 1 Điều 3 Luật

TCVKSND 2014 đã xác định: “Thực hành quyền công tố… được thực hiện

ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong

suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Như vậy,

VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kết thúc khi chấm dứt việc xét xử của

Tòa án hoặc khi có quyết định đình chỉ vụ án.

Về mục đích của chức năng thực hành quyền công tố: Theo quy định tại

khoản 2 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND thực hành

quyền công tố nhằm bảo đảm:

- Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm

tội;

- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế

61

quyền con người, quyền công dân trái luật.

2.1.3.3. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND

Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014:

“Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp

pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt

động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trongsuốt quá trình giải quyết vụ án hình

sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia

đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo

quy định của pháp luật.”. Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong

những hình thức kiểm soát quyền lực tư pháp của Nhà nước để kiểm sát tính

hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt

động tư pháp. Ở nước ta, quyền kiểm sát hoạt động tư pháp được Nhà nước

giao cho Viện kiểm sát thực hiện.

Về nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp: Khi thực hiện chức năng kiểm

sát hoạt động tư pháp, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo

đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp

thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu

để VKSND kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt

động tư pháp;

- Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm

pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp;

- Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư

pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa

62

vi phạm pháp luật và tội phạm;

- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến

nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành

vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác

trong hoạt động tư pháp.

Trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm

quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm

quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị. Cơ quan, người có

thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của VKSND theo quy định của pháp

luật.

- Kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật

Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong

hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường

hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này thì VKSND kiến nghị cơ quan,

tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người

vi phạm pháp luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì

kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp

phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân liên

quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND theo

quy định của pháp luật;

- Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp;

giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền;

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư

pháp theo quy định của pháp luật.

Về phạm vi kiểm sát hoạt động tư pháp: Kiểm sát hoạt động tư pháp

được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội

63

phạm, kiến nghị khởi tố và trongsuốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong

việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh

doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố

cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của

pháp luật.

Về mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp: VKSND kiểm sát hoạt

động tư pháp nhằm bảo đảm:

- Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp

khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật;

- Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm

giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của

pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị

bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải

được tôn trọng và bảo vệ;

- Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi

hành nghiêm chỉnh;

- Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện,

xử lý kịp thời, nghiêm minh.

2.1.3.4. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân

Theo quy định tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp 2013 và khoản 2 Điều 2

Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKSND có các nhiệm vụ sau đây:

- Nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật:

Để thực hiện nhiệm vụ này, Viện kiểm sát có trách nhiệm bảo đảm phát

hiện và xử lý kịp thời mọi tội phạm và người phạm tội, việc xử lý thông tin về

64

tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng pháp luật, không để lọt tội

phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; kịp thời yêu cầu, kiến

nghị, kháng nghị những hành vi, quyết định có vi phạm Hiến pháp và pháp

luật.

- Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân:

Khi thực hiện chức năng được giao, Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ

quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định, bảo

đảm không ai bị bắt, giam giữ, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân

một cách trái pháp luật, kịp thời áp dụng các biện pháp do luật định để khắc

phục các hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền

trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền

con người, quyền công dân.

- Nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa:

Khi thực hiện chức năng được giao, Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa, kịp thời phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các hành

vi về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây

thiệt hại đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân:

Thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm

sát hoạt động tư pháp, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh mọi tội phạm

và thực hiện quyền hạn để loại trừ các vi phạm trong hoạt động tư pháp, hoạt

động của Viện kiểm sát góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm.

- Nhiệm vụ góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm

chỉnh và thống nhất:

Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong

65

việc khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, trong việc giải quyết vụ án

hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư

pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật là hoạt động

góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

2.2. Nội dung đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

thực hiện chiến lược cải cách tư pháp

2.2.1. Phương hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân tiền đề cho việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp

* Đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/ 6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp và Kế hoạch số 05-KH/CCTP của Ban chỉ đạo cải cách tư

pháp trung ương về triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ rõ

nhiệm vụ chính của Viện kiểm sát nhân dân là tập trung làm tốt chức năng

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ

mà Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra là: Viện kiểm sát các cấp

thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện

ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không

bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Nâng cao

chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với

luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Để thực hiện

nhiệm vụ này. Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tiếp tục đổi mới, kiện toàn

tổ chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân các cấp theo lộ trình cải

cách tư pháp. Các nội dung cụ thể là:

- Kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị thực hành quyền công tố và

66

kiểm sát hoạt động tư pháp ở Viện kiểm sát nhân dân các cấp, đảm bảo thống

nhất, đồng bộ và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Theo đó,

thành lập mới một số đơn vị chức năng cấp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, đó là:

+ Thành lập mới Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án

tham nhũng theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng: Việc thành lập

đơn vị này là nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc đấu tranh phòng, chống tham

nhũng hiện nay. Mặt khác, đảm bảo sự đồng bộ với tổ chức của các cơ quan

khác được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện

nay.

+ Thành lập mới Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án

ma túy trên cơ sở tách ra từ Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra

các vụ án an ninh, ma túy. Việc thành lập đơn vị này là nhằm phù hợp với yêu

cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy và đảm bảo sự đồng bộ với tổ

chức Cơ quan điều tra của Bộ Công an theo quy định của Pháp lệnh tổ chức

điều tra hình sự năm 2004.

+ Thành lập mới Vụ hợp tác quốc tế. Việc thành lập đơn vị này xuất từ

tình thực tiễn là năng lực tham gia giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài

của các cơ quan tư pháp nói chung và của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng

còn rất hạn chế, nhất là trong điều kiện giao lưu quốc tế của nước ta hiện nay

và những năm tiếp theo. Đơn vị này ngoài việc thực hiện chức năng tham

mưu, quản lý về hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của ngành Kiểm sát

nhân dân thì còn có nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu để cùng với các đơn vị

chức năng của Việt Nam như Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư

pháp, Bộ Ngoại giao và phối hợp với cơ quan tư pháp của nước ngoài trong

việc tăng cường năng lực giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài trong điều

kiện đất nước mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế, nhất là khi nước ta gia

67

nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

+ Thành lập mới Vụ thi đua khen thưởng của ngành Kiểm sát nhân dân.

Đơn vị này có chức năng tham mưu, quản lý về công tác thi đua khen thưởng

trong ngành Kiểm sát nhân dân. Việc tăng cường công tác thi đua khen

thưởng trong giai đoạn hiện nay là cần thiết nhằm động viên cán bộ, công

chức trong ngành thực hiện tốt công tác chuyên môn nghiệp vụ nhất là trong

điều kiện cải cách tư pháp hiện nay.

Trên cơ sở thành lập mới một số đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, cũng cần xem xét, lựa chọn để triển khai thành lập đơn vị tương

ứng ở cấp dưới của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương. Theo đó, ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có thể thành lập thêm

hai phòng nghiệp vụ là: Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ

thẩm án tham nhũng và Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ

thẩm án ma túy.

- Tổ chức sơ kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện tăng thẩm quyền cho

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; đồng thời phối hợp với các cơ quan tư pháp

tiếp tục lựa chọn trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định danh sách các

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có đủ điều kiện để tăng thẩm quyền theo quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng dân sự năm

2004 theo lộ trình tăng thẩm quyền đã xác định.

- Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát trong sạch, vững mạnh.

Năng cao chất lượng công tác tuyển chọn, qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng

chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo tuyển chọn đủ cán bộ cho Viện kiểm sát cấp

tỉnh đáp ứng nhu cầu cho việc tăng thẩm quyền. Tiếp tục thực hiện công tác

luân chuyển, điều động cán bộ theo chủ trương của Đảng, tăng cường kiểm

sát viên có năng lực cho Viện kiểm sát nhân dân các địa phương. Đồng thời,

68

nghiên cứu phương án thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào chức danh kiểm

sát viên; nghiên cứu phương án tăng thời hạn bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm không

thời hạn đối với chức danh kiểm sát viên, điều tra viên của Viện kiểm sát

nhân dân; nghiên cứu đề án đổi mới chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ đối

với cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân theo lộ trình chung.

* Những định hướng trọng tâm cần tập trung nghiên cứu để làm cơ sở

cho việc đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân .

Theo lộ trình Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp thì từ sau năm 2010, việc đổi mới tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân theo định hướng chuyển Viện kiểm sát nhân dân thành Viện công

tố. Do đó, việc nghiên cứu vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ

chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy làm việc của Viện công tố cần phải

được khẩn trương nghiên cứu làm rõ về một số nội dung cơ bản sau:

Một là, cần phải nghiên cứu để xác định vị trí của Viện công tố trong

bộ máy nhà nước trong tiến trình cải cách tư pháp là Viện công tố trực thuộc

Chính phủ hay trực thuộc Quốc hội như hiện nay. Trong đó, phải chú trọng đề

cao tính độc lập trong hành xử quyền công tố và việc bảo vệ lợi ích công.

Tính độc lập của các quyết định công tố là một yếu tố không thể thiếu nhằm

tạo nên tính khách quan thực sự của hệ thống tư pháp với tính cách là "đơn vị

bảo vệ lợi ích xã hội", phù hợp với xu hướng chung mà các nước mong muốn

để các công tố viên phải được hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hoàn

toàn độc lập mà không phải chịu bất cứ một sự can thiệp nào.

Hai là, cần xác định chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố trong tố

tụng hình sự theo hướng là trung tâm quyết định tố tụng trong giai đoạn điều

tra, truy tố tội phạm. Theo đó, Viện công tố có các thẩm quyền cơ bản là:

Quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định các biện pháp ngăn

chặn trong giai đoạn điều tra; quyết định các hoạt động thu thập chứng cứ và

69

truy tìm thủ phạm; quyết định việc kết thúc điều tra, điều tra lại theo chế độ

dự thẩm; quyết định truy tố tội phạm hay không truy tố.

Ba là, về vị trí, vai trò của Viện công tố trong tố tụng dân sự, hành

chính, lao động, kinh doanh, thương mại và trong thi hành án khi Viện công

tố không thực hiện việc kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án tại phiên tòa xét

xử các vụ án dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh, thương mại thì cần

nghiên cứu cơ chế để Viện công tố có trách nhiệm và có các quyền năng tố

tụng cần thiết để bảo vệ lợi ích công như Viện công tố các nước, đó là các

quyền: khởi tố, tham gia phiên tòa, kháng nghị những bản án, quyết định

không có căn cứ và trái pháp luật; trực tiếp quyết định thi hành án trong một

số trường hợp…. Viện công tố thực hiện một số nhiệm vụ trong các lĩnh vực

này là nhân danh công quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm

chủ của nhân dân, phù hợp với trình độ dân trí, truyền thống pháp lý và xu

hướng chung của các nước trong điều kiện hội nhập.

Bốn là, nghiên cứu vai trò của Viện công tố trong việc chủ trì nghiên

cứu, phân tích tội phạm, đề xuất với Đảng và Nhà nước về hoàn thiện chính

sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm

tham nhũng. Nghiên cứu việc thành lập Viện nghiên cứu tội phạm quốc gia

trực thuộc Viện công tố trung ương.

Năm là, về mô hình tổ chức của Viện công tố theo yêu cầu cải cách tư

pháp phải được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhưng phải

đồng bộ với tổ chức Cơ quan điều tra, bảo đảm chủ trương tăng cường trách

nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. Theo đó, cần nghiên cứu xây dựng

mô hình Viện công tố bốn cấp tương ứng với bốn cấp của Tòa án hay chỉ ba

là cấp phúc thẩm, thượng thẩm và cấp trung ương tương ứng với Tòa án, còn

Viện công tố cấp khu vực thì tương ứng với Cơ quan điều tra? Nghiên cứu cơ

cấu bộ máy của Viện công tố các cấp về các bộ phận nghiệp vụ, tham mưu,

70

giúp việc; nghiên cứu cơ cấu của hệ thống tổ chức công tố, cơ sở đào tạo, bồi

dưỡng chức cán bộ, nghiên cứu khoa học.

Sáu là, nghiên cứu các cơ chế tổ chức và hoạt động của Viện công tố để

nâng cao tính chủ động, độc lập trong tố tụng của mỗi cấp công tố nhưng phải

bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của toàn bộ hệ thống. Nghiên cứu

nguyên tắc độc lập quyết định truy tố hay không truy tố tội phạm bảo đảm sự

linh hoạt của chính sách công tố trong tinh thần vừa tôn trọng luật pháp vừa tính

đến lợi ích của công chúng, tập trung xử lý các vụ án phạm tội nghiêm trọng,

phức tạp có hiệu quả. Nguyên tắc độc lập quyết định truy tố hay không truy tố

được qui định trong khuôn khổ pháp luật và công khai về chính sách công tố do

Tổng công tố trưởng đề ra và để thực tiễn áp dụng nguyên tắc này không bị lợi

dụng thì phải có cơ chế kiểm soát, có giải thích và được thông báo công khai.

Bảy là, về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp và việc phân

định các thẩm quyền này trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố theo

hướng cần nghiên cứu để phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với

thẩm quyền tư pháp của các chức danh pháp lý trong Viện công tố. Đặt vấn đề

này là do xuất phát từ thực tế hiện nay đã có sự không rõ ràng trong việc xác

định các thẩm quyền này dẫn tới gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong khi

thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi chức danh và việc xác định trách

nhiệm pháp lý của từng chức danh trong những trường hợp cụ thể.

Tám là, về mối quan hệ giữa Viện công tố với Ủy ban tư pháp của

Quốc hội (nếu cơ quan này được Quốc hội thành lập trong thời gian tới) và

Hội đồng nhân dân các cấp thì cần nghiên cứu các vấn đề: Ủy ban tư pháp của

Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp giám sát hoạt động của hệ thống công

tố được thực hiện theo cơ chế nào? giám sát chung hay giám sát sự việc cụ thể

và khi giám sát sự việc có quyền kết luận tính đúng, sai của những quyết định

công tố và yêu cầu Viện công tố phải xem xét lại nhưng Viện công tố có

71

quyền không tuân theo kết luận của Ủy ban tư pháp không? cơ chế giám sát

của Hội đồng nhân dân về công tác thực hành quyền công tố của Viện công tố

các địa phương được tiến hành theo phương thức nào?

Chín là, cần nghiên cứu đề án về xây dựng đội ngũ công tố viên trong

sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.

Thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân các cấp luôn chú trọng và có

nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công tác đào tạo

cán bộ nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành. Tuy nhiên, thực

trạng đội ngũ cán bộ, công tác đào tạo cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại,

hạn chế so với yêu cầu đặt ra. Với mục tiêu xây dựng đội ngũ công tố viên

trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp cần phải tiến

hành một số công việc sau:

- Nghiên cứu đề xuất cơ cấu cán bộ Viện công tố theo hướng đa chức

danh, bảo đảm phù hợp với chức năng công tố và việc tăng cường công tố

viên theo yêu cầu cải cách tư pháp. Các chức danh cơ bản là công tố viên, trợ

lý công tố viên,…

- Nghiên cứu mở rộng nguồn để bổ nhiệm công tố viên theo hướng

không chỉ là cán bộ trong ngành như hiện nay mà từ còn các nguồn khác như

luật sư, điều tra viên, thẩm phán… Đồng thời, đa dạng hình thức để lựa chọn

người bổ nhiệm công tố viên, bảo đảm chọn đúng và chính xác những người

cần cho sự nghiệp công tố của đất nước. Công tố viên phải có năng lực nghiệp

vụ và nắm chắc luật pháp, dũng cảm đấu tranh vì công lý. Đổi mới hình thức

thi tuyển bằng sát hạch thực tiễn giải quyết các vụ việc, hoặc bằng con đường

đánh giá, chấm điểm chất lượng, hiệu quả lao động của người cần bổ nhiệm,

khắc phục bệnh quan liêu trong xét bổ nhiệm. Nghiên cứu cơ chế loại bỏ

những công tố viên không có khả năng làm việc, khắc phục tình trạng đồng

nhất chính sách xã hội với chế độ của công tố viên.

72

- Nghiên cứu việc tăng thời hạn bổ nhiệm đối với công tố viên gắn với

cơ chế tuyển chọn công tố viên theo hướng bổ nhiệm không thời hạn (hiện

nay thời hạn bổ nhiệm là 5 năm sau đó xét bổ nhiệm lại thường là thủ tục).

Nâng độ tuổi nghỉ hưu cho các chức danh tư pháp, trong đó có chức danh

công tố viên do đặc thù của lao động tư pháp là kinh nghiệm thực tiễn và tâm

lý cuộc sống, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế.

- Đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng công tố viên đáp ứng yêu

cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố trong tiến trình cải cách

tư pháp và hội nhập quốc tế. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và nâng cao năng

lực điều tra, kỹ năng công tố, trình độ ngoại ngữ và tin học. Công tố viên

trong thời gian tới phải được đào tạo và bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ

điều tra tội phạm mới có thể hoàn thành nhiệm vụ công tố chỉ đạo điều tra,

tăng cường tranh tụng tại phiên tòa.

- Nghiên cứu đổi mới các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công tố viên đủ

năng lực để giảng dạy và nghiên cứu về kỹ năng công tố, phương pháp điều

tra tội phạm, thống kê hình sự và nghiên cứu tội phạm học.

- Nghiên cứu đổi mới chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ cho ngũ

cán bộ, công tố viên. Lương và chế độ đãi ngộ phải phù hợp với đặc thù của

hoạt động công tố và trong bối cảnh chung của sự phát triển kinh tế, có tính

đến khả năng phát triển kinh tế của từng địa phương. Nghiên cứu cơ chế khen

thưởng bổ nhiệm trước thời hạn đối với công tố viên có sáng kiến, có thành

tích xuất sắc trong công tác.

2.2.2. Những vấn đề đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân từ

sau năm 2010

Với những nội dung nghiên cứu như đã nêu ở trên, có thể đề xuất về mô

hình Viện công tố trong cải cách tư pháp từ những nội dung có liên quan như sau:

* Vị trí của Viện công tố trong bộ máy nhà nước trong điều kiện cải

73

cách tư pháp.

Trong điều kiện cải cách tư pháp, vị trí của Viện công tố trong bộ máy

nhà nước là một cơ quan ngang bộ và trực thuộc Chính phủ tức là thuộc cơ

quan hành pháp. Viện công tố các địa phương được tổ chức và hoạt động theo

nguyên tắc tập trung lãnh đạo thống nhất trong ngành, không chịu sự chỉ đạo

của chính quyền địa phương. Ưu điểm của phương án này là đảm bảo tính độc

lập, tính thống nhất chỉ đạo của cơ quan hành pháp trong quản lý nhà nước về

đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong một nhà nước vận hành theo nguyên

tắc pháp quyền thì Viện công tố phải hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật để thực hiện quyền lực nhà nước của hệ thống hành pháp khi phán quyết

những hành vi tội phạm sẽ không gặp phải sự can thiệp, trở ngại nào. Tính

độc lập của các quyết định công tố là một yếu tố không thể thiếu nhằm tạo

nên tính khách quan thực sự của hệ thống công tố với tính cách là đơn vị bảo

vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ lợi ích xã hội, phù hợp với xu hướng chung của

các nước trên thế giới trong điều kiện hội nhập và giao lưu quốc tế

* Về nguyên tắc tổ chức của hệ thống cơ quan Viện công tố.

Về nguyên tắc tổ chức của hệ thống cơ quan Viện công tố cần tiếp tục

áp dụng nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành. Viện trưởng Viện công

tố cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện công tố cấp trên và chịu sự

lãnh đạo thống nhất của Tổng công tố trưởng. Viện công tố các cấp hợp thành

một hệ thống thống nhất trực thuộc Chính phủ. Ưu điểm của nguyên tắc này

là để hoạt động công tố của Viện công tố không bị lệ thuộc, can thiệp của

chính quyền địa phương, đảm bảo tính độc lập khi truy cứu trách nhiệm đối

với người phạm tội, đảm bảo tính thống nhất của việc thực thi pháp luật trong

đấu tranh phòng chống, tội phạm.

* Về vai trò của Viện công tố trong giai đoạn điều tra.

Theo mô hình này, Viện công tố chỉ đạo hoạt động điều tra ngay từ

74

đầu, tức là công tố viên quyết định mở cuộc điều tra theo trình tự tố tụng, chỉ

đạo điều tra viên thu thập các bằng chứng buộc tội và truy tìm thủ phạm.

Căn cứ vào tổng kết thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra trong Văn

kiện đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết số 49 của Bộ

Chính trị, thì cần lựa chọn mô hình công tố mạnh có quyền chỉ đạo hoạt

động điều tra theo hướng:

- Viện công tố có trách nhiệm là đầu mối tiếp nhận và quyết định việc

phân loại, xử lý tất cả các tin báo, tố giác về phạm tội do cơ quan, tổ chức và

cá nhân cung cấp. Cơ quan điều tra thực hiện việc xác minh tin báo, tố giác về

tội phạm theo mệnh lệnh của Viện công tố. Viện công tố phải là cơ quan trực

tiếp ra tất cả các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trên cơ sở kết quả

xác minh của Cơ quan điều tra.

- Mọi mệnh lệnh của Viện công tố có giá trị bắt buộc đối với Cơ quan

điều tra; nếu không đồng ý thì Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành nhưng có

quyền kiến nghị Viện công tố cấp trên xem xét. Khi tiến hành các hoạt động

điều tra thì điều tra viên phải do công tố viên điều hành, chỉ đạo trực tiếp;

công tố viên có quyền yêu cầu điều tra viên thu thập chứng cứ và truy tìm thủ

phạm. Để thực hiện được nội dung này cần xác lập cơ chế pháp lý để điều tra

viên hoàn thành trách nhiệm tố tụng của mình trong mối quan hệ ràng buộc

với công tố viên.

- Viện công tố trực tiếp ra các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can,

quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, thay cho

việc phê chuẩn các lệnh, quyết định đó của Cơ quan điều tra như hiện nay;

quyết định việc thu nhập chứng cứ và truy tìm thủ phạm; quyết định việc kết

thúc điều tra; có quyền điều tra lại theo chế độ dự thẩm; quyết định truy tố

hay không truy tố một tội phạm. Thực hiện cơ chế này vừa đơn giản, thuận

lợi về mặt thủ tục, tiết kiệm và đảm bảo tính nghiêm minh của văn bản tố

75

tụng do Viện công tố ban hành; đồng thời khắc phục được tình trạng trả hồ

sơ để điều tra bổ sung làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài; mặt khác,

qua đó nêu cao trách nhiệm của Viện công tố, của Cơ quan điều tra trong

đấu tranh chống tội phạm.

* Vai trò của Viện công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.

- Tăng cường năng lực của công tố viên thực hành quyền công tố tại

phiên tòa xét xử, đảm bảo tranh tụng dân chủ với người bào chữa và những

người tham gia tố tụng khác. Công tố viên phải nắm chắc hồ sơ chứng cứ,

theo dõi chặt chẽ diễn biến tại phiên tòa để hỏi và luận tội một cách xác đáng,

tranh luận có trọng tâm, thuyết phục, góp phần làm sáng tỏ mọi tình tiết của

vụ án. Kết thúc phiên tòa xét xử, nếu thấy rằng Tòa án áp dụng pháp luật hình

sự không đúng hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì công tố viên

báo cáo Viện trưởng ra kháng nghị yêu cầu Tòa cấp trên thụ lý, giải quyết.

- Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là đúng đắn và cần

thiết trong bảo vệ công lý. Nhưng để chống lạm quyền, độc đoán trong việc

Tòa án ra phán quyết thì tất yếu phải có sự giám sát mang tính pháp lý mà

quyền kháng nghị của Viện công tố đối với bản án, quyết định của Tòa án

chính là phương thức dùng quyền lực để chế ước quyền lực, đảm bảo sự công

bằng, bình đẳng trong việc xét xử vụ án hình sự, đảm bảo công lý. Quan niệm

cho rằng bỏ việc kiểm sát xét xử của Viện công tố tại phiên tòa chỉ đúng với ý

nghĩa là bỏ kiểm sát hành vi và các quyết định tố tụng của Tòa án trước và

trong khi xét xử tại phiên tòa, còn các quyết định tố tụng của Tòa án sau khi

xét xử thì vẫn là đối tượng phải có sự giám sát của Viện công tố. Pháp luật

hiện hành đã giao cho Viện kiểm sát nhân dân quyền kháng nghị đối với bản

án, quyết định của Tòa án là phù hợp với xu hướng chung về tư pháp của các

nước phát triển. Điều này cần phải được tiếp tục kế thừa khi quy định nhiệm

vụ, quyền hạn của Viện công tố nước ta trong tiến trình cải cách tư pháp.

76

* Vai trò của Viện công tố trong tố tụng dân sự, lao động, hành chính,

kinh doanh, thương mại.

Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ thì

có xu hướng càng giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào việc dân sự mà đề

cao nguyên tắc các đương sự tự định đoạt là đúng đắn và cần thiết. Các cơ

quan công quyền kể cả cơ quan hành chính và tư pháp phải tạo mọi điều kiện

cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền dân sự của họ. Tuy nhiên, do trình

độ dân trí và việc quản lý nhà nước đối với các giấy tờ chứng nhận về qyền sở

hữu tài sản, sở hữu trí tuệ có liên quan đến việc giải quyết các vụ việc dân sự

ở nước ta còn yếu kém, bất cập; trình độ và năng lực của đội ngũ Thẩm phán

cũng còn hạn chế, nên trong một số loại việc dân sự mà đương sự không có

khả năng thực hiện được các quyền để bảo vệ lợi ích của mình trước Tòa án

hoặc trong những trường hợp bên nguyên đơn, bên bị đơn cùng thỏa thuận để

gây thiệt hại cho lợi ích của người thứ ba, lợi ích công cộng thì cần thiết phải

có sự tham gia của Viện công tố để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể

này. Thực tiễn hiện nay việc giải quyết các tranh chấp dân sự của Tòa án là

lĩnh vực đang có nhiều bức xúc của xã hội đòi hỏi phải có sự tham gia của

Viện công tố trong những trường hợp nhất định.

Việc quy định Viện công tố có quyền đại diện lợi ích công cộng đưa

một số loại tranh chấp dân sự nhất định ra tòa và Viện công tố là người đại

diện cho công quyền tranh tụng tại phiên tòa không chỉ bảo vệ quyền lợi cá

nhân mà quan trọng hơn còn là để bảo vệ lợi ích công chúng. Việc khẳng định

vai trò của Viện công tố trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, hành

chính, lao động, kinh doanh, thương mại liên quan đến lợi ích công cộng sẽ

tạo động lực thúc đẩy các quan hệ dân sự, kinh tế phát triển lành mạnh hướng

tới mục tiêu đảm bảo công bằng, bình đẳng và công lý xã hội. Điều đó cũng

phù hợp với truyền thống pháp lý của nước ta và xu hướng chung trong luật

77

pháp của nhiều nước trên thế giới đều có quy định Viện công tố trong một số

trường hợp đại diện cho lợi ích công cộng đưa vụ việc dân sự ra tòa. Cũng

xuất phát từ việc Viện công tố có quyền đại diện lợi ích công cộng, bảo vệ lợi

ích công cộng, do đó, cần qui định quyền kháng nghị của Viện công tố đối với

các bản án, quyết định về dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh, thương

mại và trong thi hành án khi các bản án, quyết định đó khi có vi phạm pháp

luật và ảnh hưởng đến lợi ích công cộng.

* Vai trò của Viện công tố trong lĩnh vực phòng vi phạm và tội phạm.

Thông qua thực hiện chức năng công tố trong đấu tranh phòng, chống

tội phạm, Viện công tố đề xuất những kiến nghị với các cơ quan có thẩm

quyền áp dụng các biện pháp khắc phục những sơ hở trong quản lý nhà nước,

kinh tế, xã hội và áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Viện công tố đóng vai tṛ

trung tâm trong việc chủ tŕ nghiên cứu, phân tích tội phạm, đề xuất với Đảng

và Nhà nước về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng, chống tội

phạm nhất là tội phạm về tham nhũng. Do đó, về tổ chức bộ máy cần thành

lập Viện nghiên cứu phòng ngừa tội phạm quốc gia trực thuộc Viện công tố

tối cao.

* Về mô hình tổ chức của Viện công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.

Căn cứ vào yêu cầu cải cách tư pháp được ghi trong Nghị quyết số

49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp

thì Viện công tố phải được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án.

Theo đó hệ thống Viện công tố nếu chỉ phù hợp với tổ chức Tòa án thì gồm 4

cấp là:

- Viện công tố khu vực: Được tổ chức ở một (nơi có số lượng án nhiều)

hoặc một số đơn vị hành chính cấp tỉnh (nơi có số lượng án không nhiều).

Nhiệm vụ chủ yếu của các Viện công tố này là thực hành quyền công tố trong

giai đoạn điều tra và thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các

78

vụ án thuộc thẩm quyền của cấp tỉnh như hiện nay.

- Viện công tố phúc thẩm: Đặt tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương có nhiệm vụ chủ yếu là thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử

phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo,

kháng nghị và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và giai đoạn

xét xử sơ thẩm một số vụ án do luật qui định phải được điều tra, truy tố, xét

xử sơ thẩm ở cấp tỉnh.

- Viện công tố thượng thẩm: Có nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại

các phiên tòa phúc thẩm các vụ án mà Tòa án cấp phúc thẩm xét xử sơ thẩm

vụ án đó theo thẩm quyền. Viện công tố thượng thẩm đặt tại các vùng phù

hợp với tổ chức Tòa án thượng thẩm.

- Viện công tố tối cao: Viện công tố tối cao có trụ sở đặt tại Hà Nội có

nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm thực hành quyền công tố, hướng dẫn áp dụng

pháp luật thống nhất, tham gia các phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa

án nhân dân tối cao.

Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của hệ thống Viện công tố cần tính đến sự

đồng bộ với tổ chức Cơ quan điều tra nhằm thực hiện chủ trương của Đảng là

gắn kết hoạt động công tố với hoạt động điều tra, tăng cường trách nhiệm

công tố trong hoạt động điều tra và cũng là để nâng cao chất lượng tranh tụng

của công tố viên tại phiên tòa. Vì vậy, mô hình tổ chức Cơ quan điều tra cũng

phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo sự phù hợp với tổ chức của hệ

thống Viện công tố và tổ chức của hệ thống Tòa án

* Về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp và việc phân định

các thẩm quyền đó trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố.

Theo đó, các quyền hạn tư pháp chủ yếu tập trung vào chức danh công

tố viên; còn các chức danh Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện công tố là chủ

yếu thực hiện chức năng quản lý hành chính trong đơn vị, chỉ thực hiện tố

79

tụng khi cần thiết đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp và khi trực tiếp

thực hiện hoạt động tố tụng thì với tư cách tố tụng là công tố viên. Do đó, cần

nghiên cứu phương án để đảm bảo tính khả thi theo hướng xây dựng chế độ

công tố viên mạnh đủ khả năng đảm nhiệm quyền ra về cơ bản các quyết định

tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện công tố. Làm như vậy vừa phân định được

thẩm quyền tố tụng và thẩm quyền hành chính, vừa bảo đảm tính pháp quyền

trong hoạt động công tố, nâng cao tính chủ động và tự chịu tránh nhiệm của

mỗi chức danh, khắc phục tình trạng quan liêu hoặc quá tải về công việc của

Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp hiện nay. Để làm được

điều này, công tố viên phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức điều tra tội

phạm mới có thể hoàn thành trách nhiệm trong điều kiện cải cách tư pháp với

nhiệm vụ là công tố viên chỉ đạo hoạt động điều tra.

* Về hoàn thiện và xây dựng mối quan hệ giữa Viện công tố với Hội

đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban tư pháp của Quốc hội, đảm bảo thực

hiện cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân, của Ủy ban tư pháp đối với tổ

chức và hoạt động của hệ thống Viện công tố.

2.3.Thực trạng thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông theo tiến trình cải cách tư pháp

2.3.1. Khái quát tình hình của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk

Nông

2.3.1.1. Khái lược quá trình hình thành và phát triển của VKSND tỉnh

Đắk Nông

Căn cứ Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003, kỳ họp thứ 4,

Quốc hội khóa XI về việc chia tách và điều chỉnh địa giới hành chính một số

tỉnh thì tỉnh Đắk Lắk được chia tách thành 02 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông;

cùng với sự chia tách đó, VKSND tỉnh Đắk Nông được thành lập và đi vào

hoạt động theo Quyết định số 14/2004/QĐ- TCCB ngày 15/01/2004 của

80

VKSND tối cao.

Thời gian đầu đơn vị chỉ có 54 công chức và người lao động; đa số

công chức ở VKSND tỉnh được điều động từ VKSND các tỉnh của tỉnh Đắk

Lắk (chỉ có 08 đồng

chí công tác tại VKSND tỉnh). Cơ cấu bộ máy gồm có 05 phòng và 05

VKSND tỉnh trực thuộc. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng, trụ sở làm việc còn

phải đi thuê, đời sống của công chức và người lao động gặp muôn vàn khó

khăn, thiếu thốn, một số đồng chí phải ở nhà thuê, số còn lại ăn ở tập thể, ngủ

giường tầng…điều đó đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư của cán bộ,

công chức, cá biệt có trường hợp đã không giữ vững bản lĩnh, dao động trước

khó khăn, thiếu thốn nên đã xin nghỉ việc, xin chuyển công công tác trở về lại

Đắk Lắk hoặc đi các tỉnh, thành phố khác, do đó đã ảnh hưởng rất lớn đến kết

quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, được sự quan tâm, lãnh đạo,

chỉ đạo kịp thời của Ban cán sự đảng VKSND tối cao, của Thường trực Tỉnh

uỷ Đắk Nông, VKSND tỉnh đã từng bước ổn định bộ máy, đội ngũ cán bộ,

công chức từng bước ổn định tâm lý và tư tưởng, xác định trách nhiệm với

Ngành nên đã bắt tay thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, góp phần

giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương và

đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

2.3.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Đắk Nông

Cùng với tiến trình phát triển và hội nhập, bên cạnh những thành tựu

kinh tế - xã hội, tình hình vi phạm và tội phạm tại địa phương cũng diễn biến

phức tạp; quy mô và tính chất tội phạm ngày càng gia tăng, nghiêm trọng hơn,

hậu quả nặng nề hơn. Trước tình hình đó, toàn ngành đã đổi mới tư duy, tổ

chức bộ máy và biện pháp công tác, đấu tranh ngày càng hiệu quả đối với các

tội phạm.

81

Ngoài ra, trong những năm đầu xây dựng tỉnh Đắk Nông, công tác quy

hoạch, giải phóng mặt bằng, đền bù, hỗ trợ tái định cư diễn ra trên diện rộng,

công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn có hạn chế, thiếu sót, là một

trong những nguyên nhân dẫn đến xảy ra nhiều vụ việc tranh chấp liên quan

đến lĩnh vực đất đai, khiếu kiện về công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của

cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương, cá biệt xảy ra một số vụ việc

rất phức tạp, nguy cơ trở thành điểm nóng. Tuy nhiên xác định công tác kiểm

sát là nhiệm vụ chính trị nên VKSND đã chủ động tham mưu cho cấp ủy,

chính quyền địa phương giải quyết được nhiều vụ, việc phức tạp ngay tại cơ

sở; đồng thời tăng cường công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành

chính, vụ việc dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, nhằm đảm bảo

việc giải quyết được khách quan, đúng pháp luật. Thực hiện tốt việc kiểm sát

chặt chẽ các bản án, quyết định của Tòa án, tổng hợp vi phạm, chú trọng nâng

cao chất lượng, số lượng các bản kháng nghị, kiến nghị yêu cầu cơ quan hữu

quan khắc phục nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật được thống nhất và

toàn diện.

2.3.2. Thực trạng tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk

Nông

2.3.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk

Nông

VKSND tỉnh Đắk Nông hiện có 08 phòng trực thuộc và 08 VKSND

cấp tỉnh, trong đó VKSND tỉnh Đắk Nông hiện có 01 đồng chí Viện trưởng,

03 đồng chí Phó Viện trưởng, Ủy ban kiểm sát (gồm 6/7 thành viên), các

phòng đều có Kiểm sát viên các ngạch; Kiểm tra viên, công chức khác và

người lao động. 08 VKSND cấp tỉnh đều được cơ cấu 01 Viện trưởng, 02 Phó

Viện trưởng theo quy định, VKSND các tỉnh thành lập các bộ phận công tác

như Văn phòng tổng hợp; bộ phận thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt

82

động tư pháp trong lĩnh vực hình sự; bộ phận Kiểm sát hoạt động tư pháp

trong lĩnh vực dân sự, hành chính.Biên chế đơn vị hiện có là 143/144

chỉ tiêu được phân bổ (Trong đó, cấp tỉnh là 56 biên chế, cấp tỉnh là 87 biên

chế) và 33 hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP của Chính

phủ.Toàn tỉnh có 126 người làm nghiệp vụ kiểm sát (chiếm 88%); trong đó có

06 Thạc sỹ Luật, 118 người có trình độ Cử nhân Luật, 01 người có trình độ

trung cấp kiểm sát, 02 người tốt nghiệp Đại học khác (hệ chính quy) và 17

công chức làm công tác khác như văn thư, lưu trữ, kế toán (chiếm 12%). Có

10 công chức là người dân tộc thiểu số (chiếm 6,9%); 33 công chức có trình

độ cao cấp Lý luận chính trị (chiếm 24%); 21 công chức có trình độ Trung

cấp lý luận chính trị (chiếm 14,6%).

Theo đó, hệ thống tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nông đã rút ngắn lại

so với năm 2015 là có 10 phòng và 08 đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

với số biên chế được giao là 150 người; trong đó VKSND tỉnh có 49/53 biên

chế và VKSND cấp tỉnh có 96/97 biên chế.

2.3.2.2. Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Đắk Nông nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp

* Về công tác thực hành quyền công tố

- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong

việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 12 Luật

Tổ chức VKSND năm 2014)

Lãnh đạo VKSND tỉnh Đắk Nông đã chỉ đạo, chủ động đề ra nhiều giải

pháp đồng bộ nhằm thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn khi thực

hành quyền công tố, kiểm sát chặt chẽ, đầy đủ việc tiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT và các Cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ

luật tố tụng hình sự. Tăng cường công tác phối hợp với CQĐT và các cơ quan

83

hữu quan để kịp thời nắm bắt tình hình vi phạm, tội phạm, công tác phân loại,

xử lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm; bảo đảm kiểm sát 100% tố giác, tin

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được cơ quan chức năng thụ lý giải quyết.

Thận trọng trong việc phê chuẩn các Lệnh, Quyết định của CQĐT đảm bảo

tính có căn cứ và đúng pháp luật, kiên quyết không phê chuẩn các Lệnh,

Quyết định của CQĐT khi không đảm bảo tính căn cứ và chưa đúng theo quy

định của pháp luật.

VKSND tỉnh Đắk Nông đã THQCT, thụ lý kiểm sát: 4.711 tin (số mới:

4.697 tin). Đã giải quyết: 4.584 tin (khởi tố vụ án: 2.974 tin; không khởi tố vụ

án: 1.498 tin; tạm đình chỉ: 112 tin). Đang giải quyết: 127 tin. Trong đó, đã từ

chối phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp: 03 trường hợp; Không phê chuẩn gia hạn

tạm giữ: 01 trường hợp; Hủy bỏ Quyết định tạm giữ: 46 trường hợp;

VKSND đã chủ động phối hợp chặt chẽ với CQĐT nắm và phân loại

nguồn tin về tội phạm, kiểm sát chặt chẽ việc xử lý, giải quyết; kịp thời yêu

cầu CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án hình sự khi đủ căn cứ; lập đầy đủ hồ sơ

kiểm sát tin báo theo quy định của Ngành. Qua công tác kiểm sát đã trực tiếp

ban hành quyết định khởi tố 01 vụ/01 bị can và yêu cầu CQĐT tiến hành điều

tra theo thẩm quyền; yêu cầu CQĐT khởi tố 02 vụ/02 bị can (CQĐT đã khởi

tố 02 vụ/02 bị can).

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự (Điều 14 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)

VKSND đã triển khai thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn theo quy

định của pháp luật và các biện pháp nhằm chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm;

tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra; kiên

quyết thực hiện các quyền yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can, hủy bỏ các

quyết định không có căn cứ của CQĐT. Nắm chắc tiến độ điều tra; kịp thời đề

ra yêu cầu điều tra; chủ động thực hiện một số hoạt động điều tra, trực tiếp hỏi

84

cung; phân công Kiểm sát viên tham gia đầy đủ các hoạt động khám nghiệm

hiện trường, khám xét, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra...của Điều tra

viên. Kiểm sát và quản lý chặt chẽ các trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ điều

tra; thường xuyên rà soát, đôn đốc việc bắt truy nã và yêu cầu CQĐT xác minh,

bảo đảm các vụ án tạm đình chỉ điều tra phải được xử lý ngay khi có đủ căn cứ,

không để xảy ra việc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.

Trong kỳ, đã thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra: 3.554

vụ/6.716 bị can (số mới: 3.117 vụ/6.073 bị can). Đã giải quyết: 3.387

vụ/6.348 bị can (Kết thúc điều tra đề nghị truy tố: 2.858 vụ/6.037 bị can;

Đình chỉ: 142 vụ/236 bị can; Tạm đình chỉ: 387 vụ/75 bị can). Hiện đang giải

quyết: 167 vụ/368 bị can (tại thời điểm lấy số liệu).

Trong kỳ, VKS đã phối hợp với CQĐT xác lập 108 vụ án trọng điểm;

KSV tham gia kiểm sát 100% các hoạt điều tra bắt buộc theo quy định của

pháp luật; tích cực thực hiện các hoạt động hỏi cung, lấy lời khai….; ban hành

2.404 yêu cầu điều tra vụ án đảm bảo kịp thời, sát nội dung vụ án. Đã hủy 01

quyết định thay đổi QĐ KTBC; Hủy 11 QĐ KTVA, 29 QĐ KTBC, 34 QĐ

không KTVA, 02 QĐ đình chỉ điều tra. VKS quyết định khởi tố 06 vụ/09 bị

can và yêu cầu CQĐT điều tra theo thẩm quyền; không phê chuẩn việc bắt

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp 11 trường hợp, gia hạn tạm giữ 06

trường hợp, Lệnh bắt, tạm giam 15 trường hợp. Yêu cầu CQĐT khởi tố 26

vụ/59 bị can, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố 12 vụ/13 bị can; yêu cầu bổ

sung tài liệu chứng cứ để xem xét phê chuẩn và kiểm sát khởi tố 81 vụ/41 bị

can. Yêu cầu bắt bị can để tạm gia 11 trường hợp; yêu cầu hủy 03 Quyết định

KTVA.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong

giai đoạn truy tố (Điều 16 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)

VKSND đã chú trọng triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm tăng

85

cường trách nhiệm công tố; bảo đảm sự thận trọng, khách quan, toàn diện

trong việc đánh giá chứng cứ làm cơ sở vững chắc cho việc truy tố; phần lớn

các bị can đều được Kiểm sát viên tham gia hỏi cung hoặc trực tiếp hỏi cung

trước khi VKS ban hành quyết định truy tố hoặc yêu cầu xử lý theo quy định

của pháp luật. Do vậy, các quyết định truy tố của VKS đều đảm bảo thời hạn,

tính có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật; kể cả các

trường hợp đình chỉ, tạm đình chỉ trong giai đoạn truy tố.

Trong kỳ, đã thụ lý: 2.895 vụ/6.121 bị can (số mới: 2.858 vụ/6.037 bị

can). Đã giải quyết: 2.857 vụ/6.031 bị can, trong đó: Quyết định truy tố: 2.811

vụ/5.950 bị can; Đình chỉ: 44 vụ/79 bị can; tạm đình chỉ: 02 vụ/02 bị can.

Hiện đang giải quyết tại thời điểm lấy số liệu: 38 vụ/90 bị can.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong

giai đoạn xét xử vụ án hình sự (Điều 18 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)

Trong công tác này, khi thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử sơ

thẩm án hình sự: 2.885 vụ/6.109 bị cáo (số mới: 2.811 vụ/5.954 bị cáo). Đã

giải quyết: 2.790 vụ/5.825 bị cáo (Xét xử: 2.772 vụ/5.786 bị cáo; đình chỉ: 18

vụ/39 bị cáo). Hiện đang giải quyết tại thời điểm lấy số liệu: 95 vụ/284 bị cáo.

Khi thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử phúc thẩm án hình sự bao

gồm: 686 vụ/1.172 bị cáo (số mới 670 vụ/1.151 bị cáo). Đã giải quyết: 681

vụ/1.167 bị cáo (Xét xử: 616 vụ/1.053 bị cáo; Đình chỉ: 65 vụ/114 bị cáo).

Hiện đang giải quyết tại thời điểm lấy số liệu: 05 vụ/05 bị cáo.

- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện

oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội: Không có

* Về công tác kiểm sát hoạt động tư pháp

- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 13 Luật Tổ chức

VKSND năm 2014)

86

Trong công tác này, VKSND đã kiểm sát 100% nguồn tin về tội phạm

do cơ quan có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Tiến hành 78 cuộc kiểm sát trực

tiếp việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố,

đã ban hành kết luận; Ban hành 101 kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm

trong hoạt động tiếp nhận, thụ lý giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến

nghị khởi tố tại CQĐT Công an cùng cấp, đối với các vi phạm phổ biến như:

chưa kịp thời thông báo việc tiếp nhận giải quyết nguồn tin về tội phạm cho

VKS cùng cấp; chậm ban hành Quyết định phân công ĐTV giải quyết tố giác,

tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; vi phạm về thời hạn giải quyết nguồn

tin tội phạm; vi phạm về thời hạn đề nghị gia hạn thời hạn giải quyết nguồn

tin tội phạm, vi phạm trong việc thu thập và bảo quản vật chứng… Ban hành

18 kiến nghị phòng ngừa vi phạm, tội phạm. Tất cả các kiến nghị, yêu cầu đều

được cơ quan hữu quan tiếp thu, khắc phục

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự

(Điều 15 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)

Qua công tác kiểm sát, VKSND đã thực hiện tốt công tác tổng hợp vi

phạm, kịp thời ban hành 73 kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm trong hoạt

động điều tra của cơ quan chức năng, về các vi phạm điển hình như: Trong

nhiều vụ án các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập (KSV không

trực tiếp kiểm sát theo quy định) còn chậm gửi đến Viện kiểm sát để kiểm sát

việc lập hồ sơ vụ án; vi phạm về việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát

trong giai đoạn điều tra dẫn đến phải trả hồ sơ điều tra bổ sung; vi phạm thời

hạn điều tra; các quyết định trưng cầu giám định, định giá không gửi cho

VKS… và ban hành 29 kiến nghị đối với chính quyền địa phương trong công

tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm trên địa bàn.

87

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự

(Điều 19 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)

Trong các năm công tác, kết quả đạt được trong công tác này như sau:

+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự

của Tòa án: Đã thực hiện kiểm sát chặt chẽ quy định các thủ tục tố tụng tại

phiên tòa theo quy của Bộ Luật tố tụng hình sự. VKS luôn nêu cao tinh thần

trách nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ

thẩm các vụ án hình sự, qua đó Viện kiểm sát đã hạn chế những vi phạm của

CQĐT và Tòa án, thực hiện tốt công tác tổng hợp vi phạm kịp thời ban hành

kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục vi phạm.

+ Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án: VKSND đã kiểm sát 2134

bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 606 bản án, quyết

ðịnh phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông

+ Kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người

tham gia tố tụng vi phạm pháp luật: Không

+ Kháng nghị: Tổng số kháng nghị của VKSND là 122 vụ/ 236 bị cáo.

Đã giải quyết 121 vụ/ 235 bị cáo trong đó: đình chỉ xét xử: 21 vụ/ 43 bị cáo;

xét xử 100 vụ/192 bị cáo, Tòa án chấp nhận kháng nghị: 82 vụ đạt tỷ lệ 82%

(vượt 10% so với chỉ tiêu Nghị quyết Quốc hội số 37). Kháng nghị của

VKSND chủ yêu đề nghị tăng hình phạt đối với những bản án của TAND cấp

tỉnh áp dụng hình phạt chưa nghiêm khắc đối với những bị cáo có tiền án, tiền

sự hoặc mức hình phạt chưa tương xứng với hành vi, hậu quả mà bị cáo đã

gây ra; ngoài ra, cũng có một số vụ án áp dụng sai khoản, điểm của Điều luật,

thậm chí áp dụng sai về tội danh, một số vụ án cấp sơ thẩm chưa điều tra làm

rõ cần kháng nghị đề nghị hủy án để điều tra lại… Trong số kháng nghị nêu

trên, không có vụ án nào bị kháng nghị do có vi phạm nghiêm trọng về thủ

88

tục tố tụng.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc tạm

giữ, tạm giam (Điều 22 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)

+ Kiểm sát việc bắt, tạm giữ: 3.603 người. Đã giải quyết: 3.591 người

(trong đó: Khởi tố chuyển tạm giam: 2.147 người; Khởi tố áp dụng biện pháp

ngăn chặn khác: 1.136 người; Truy nã chuyển tạm giam: 216 người; Trả tự

do: 92 người). Chết: 02 người (do bệnh lý). Đang tạm giữ (tại thời điểm lấy số

liệu): 10 người.

+ Kiểm sát việc tạm giam: 5.289 người. Cơ quan chức năng đã giải

quyết: 4.846 người (trong đó: Hủy bỏ biện pháp tạm giam: 504 người; Thay

đổi biện pháp ngăn chặn khác: 757 người; Trả tự do do có QĐ đình chỉ: 24

người; HĐXX trả tự do: 203 người; Hết án trong thời gian chờ chuyển

CHA: 112 người; chuyển chấp hành án:

3.241 người; tử hình; 02 người; bắt buộc chữa bệnh: 03 người. Chết: 02

người (do bệnh lý). Đang tạm giam (tại thời điểm lấy số liệu): 441 người.

+ Kiểm sát thi hành án hình sự:

 Tử hình: 07 người. Chuyển xuống chung thân: 01 người. Đã thi hành

02 người. Chưa thi hành 04 người.

 Tổng số bị án tù chung thân: 12 trường hợp. Đã thi hành.

 Tù có thời hạn: 3.327 bị án. Đã thi hành: 3.236 bị án. Chưa thi hành:

91 bị án (Hoãn thi hành án: 41 bị án; trốn truy nã: 17; chờ xét hoãn: 08;

trong thời gian tự nguyện THA: 24; phạm tội mới: 01).

+ Tổng số phạm nhân chấp hành án: 2.921 phạm nhân. Đã giải quyết:

1.720 phạm nhân. Chết: 06 phạm nhân. Đang chấp hành án (tại thời điểm lấy

số liệu): 1.195 phạm nhân.

+ Án treo, cải tạo không giam giữ: 1.673 bị án. Đã thi hành án: 1.218

bị án. Bị án phạm tội mới trong thời gian thử thách và bị phạt tù: 17 bị án. Bị

89

án chết: 04 bị án. Hiện đang còn trong thời gian thử thách: 434 bị án (tại thời

điểm lấy số liệu)

Hoạt động kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự trong kỳ:

Đã tiến hành 495 cuộc kiểm sát trực tiếp việc tuân theo pháp luật trong công

tác tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và 31 cuộc kiểm tra việc thực hiện

kiến nghị của VKS tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Cơ quan THAHS Công an

cùng cấp, Trại Giam Đăk Plao và UBND cấp xã (kết thúc các cuộc kiểm sát,

đều đã ban hành kết luận, kiến nghị chấm dứt sai phạm trên và được chấp

nhận). Hàng năm, đối với UBND cấp xã không tiến hành kiểm sát trực tiếp,

VKS cấp tỉnh đều ban hành công văn yêu cầu tự kiểm tra và báo cáo cho Viện

kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành án hình sự tại địa

phương. Bên cạnh đó, hàng năm Viện kiểm sát đều ban hành văn bản yêu cầu

tự kiểm tra việc thực hiện kiến nghị của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp

luật trong công tác thi hành án hình sự tại UBND cấp xã mà VKS đã tiến hành

kiểm sát trực tiếp.

+ Ban hành 276 kiến nghị và 110 kháng nghị yêu cầu khắc phục vi

phạm đối với các cơ quan hữu quan trong công tác tạm giữ, tạm giam và thi

hành án hình sự (được chấp nhận, khắc phục)

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam (Điều

23 Luật Tổ chức VKSND năm 2014): Trong kỳ qua công tác kiểm sát không

tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.

- Thi hành các quy định về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND

khi kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình

+ Công tác kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu: Tổng thụ

lý kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu: 76 đơn.

+ Công tác kiểm sát thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc:

VKSND đã thụ lý kiểm sát giai đoạn sơ thẩm: 15.026 vụ, việc. Đã giải

90

quyết: 13.654 vụ, việc (trong đó, công nhận sự thỏa thuận của đương sự:

6.224 vụ, việc; đình chỉ giải quyết: 5.207 vụ, việc; xét xử, mở phiên họp:

2.086 vụ, việc; tạm đình chỉ: 137 vụ, việc). Hiện còn (tại thời điểm lấy số

liệu): 1.372 vụ, việc.

VKSND đã thụ lý kiểm sát giai đoạn phúc thẩm: 531 vụ, việc. Đã giải

quyết: 514 vụ, việc (trong đó, Đình chỉ giải quyết: 40 vụ, việc; xét xử: 474 vụ,

việc). Đang giải quyết (tại thời điểm lấy số liệu): 17 vụ, việc.

- Thi hành các quy định về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND

khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, kinh doanh, thương mại, lao

động và những việc khác theo quy định của pháp luật

+ Công tác kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu:Kiểm sát

việc trả lại 18/18 đơn khởi kiện. Không ban hành kiến nghị nào về việc trả lại

đơn khởi kiện. Tham gia 06/06 phiên họp xét khiếu nại trả lại đơn khởi kiện.

+ Công tác kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án hành chính, vụ việc

kinh doanh, thương mại, lao động:

 VKSND đã thụ lý kiểm sát giai đoạn sơ thẩm: 559 vụ, việc. Đã giải

quyết: 545 vụ, việc (trong đó, công nhận sự thỏa thuận của đương sự: 121 vụ,

việc; đình chỉ giải quyết: 263 vụ, việc; xét xử, mở phiên họp: 157 vụ, việc;

tạm đình chỉ: 04 vụ, việc). Hiện đang giải quyết (tại thời điểm lấy số liệu): 14

vụ, việc.

 VKSND đã thụ lý kiểm sát giai đoạn phúc thẩm: 59 vụ, việc. Đã giải

quyết: 58 vụ, việc (trong đó, đình chỉ giải quyết: 02 vụ, việc; xét xử, mở phiên

họp: 56 vụ, việc). Hiện đang giải quyết (tại thời điểm lấy số liệu): 01 vụ.

+ Công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính của

TAND:Kiểm sát việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành

chính tại Tòa án nhân dân: 193 việc. Đã giải quyết: 191 việc (mở phiên họp,

trong đó chấp nhận đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: 173 việc; đưa vào cơ sở

91

giáo dục: 11 việc; đình chỉ: 03 việc; không chấp nhận: 04 việc). Còn tồn: 02

việc.

+ Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại quyết định xử lý hành chính: Thụ

lý kiểm sát: 05 việc. Đã giải quyết; 05 việc (trong đó: chấp nhận một phần

khiếu nại sửa QĐ: 01 việc; giữ nguyên QĐ của TA cấp tỉnh: 03 việc).

+ Công tác kiểm sát trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn,

miễn chấp hành thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại: Thụ lý

kiểm sát: 525 việc. Đã giải quyết: 525 việc (chấp nhận).

+ Kiểm sát việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản: 01 việc. Đã giải

quyết.

- Thi hành các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn khi kiểm sát thi hành

án dân sự, thi hành án hành chính

VKSND tỉnh Đắk Nông đã thụ lý kiểm sát: 23.545

việc/2.051.758.831.000 đồng (mới 17.922 việc/29.941.781.568.000 đồng). Đã

giải quyết xong: 19.410 việc/1.040.914.567.000 đồng. Đang giải quyết (tại

thời điểm lấy số liệu): 4.135 việc/1.010.844.264.000 đồng (số chưa có điều

kiện THA: 1.816 việc/564.083.782.000 đồng).

VKSND tỉnh Đắk Nông đã triển khai thực hiện đồng bộ các phương

thức kiểm sát để chủ động kiểm sát đầy đủ, trực tiếp hoạt động THADS tại

địa phương. Đã thực hiện 62 cuộc kiểm sát trực tiếp công tác THADS tại cơ

quan thi hành án địa phương. Qua công tác kiểm sát đã ban hành 11 yêu cầu

đối với cơ quan THADS ban hành quyết định THA; 19 yêu cầu đối với Tòa

án về việc chuyển bản án, quyết định có hiệu lực thi hành cho cơ quan THA;

23 yêu cầu cơ quan THA tự kiểm tra công tác THADS, báo cáo kết quả cho

VKS. Lập hồ sơ kiểm sát 100% vụ việc THA nhất là đối với các vụ việc

cưỡng chế, kê biên tài sản; kiểm sát chặt chẽ việc tịch thu sung công quỹ nhà

nước, tiêu hủy vật chứng, bán đấu giá tài sản…; kiểm sát phân loại vụviệc,

92

xác minh THA, quyết định ủy thác và thông báo ủy thác THA đầy đủ, đúng

quy định pháp luật. Chủ động phối hợp với cơ quan THA đẩy nhanh tiến độ

giải quyết các vụ việc phức tạp, kéo dài; xét miễn, giảm THA đối với các

khoản tiền thu nộp ngân sách nhà nước.Thông qua công tác kiểm sát, VKS đã

phát hiện nhiều vi phạm trong công tác THADS, hành chính của Tòa án, cơ

quan THADS và các cơ quan có liên quan, đã ban hành 102 kiến nghị, 10

kháng nghị yêu cầu cơ quan chức năng khắc phục.

* Công tác khác của VKSND:

- Công tác thống kê tội phạm, xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục

pháp luật

VKSND tỉnh Đắk Nông đã kịp thời quán triệt thực hiện thống nhất các

quy định của Thông tư liên tịch số 05/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-

BCA-BQP ngày 12/11/2018 về “Quy định phối hợp giữa các cơ quan trong

thực hiện thống kê hình sự” và hệ thống chỉ tiêu, biểu mẫu thống kê hình sự

liên ngành mới sửa đổi, bổ sung; lập, đối chiếu và gửi đầy đủ báo cáo thống

kê liên ngành và phụ lục liên ngành theo quy định; thực hiện tốt công tác báo

cáo thống kê tội phạm, báo cáo thống kê liên ngành đảm bảo đầy đủ, chính

xác và kịp thời. Quản lý, cập nhật vào sổ, số lệnh, các quyết định tố tụng hình

sự đảm bảo chính xác. Lãnh đạo đơn vị đã chỉ đạo VKS tăng cường ứng

dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.

Cùng với việc nâng cao chất lượng công tác kiểm sát, thời gian qua,

VKSND tỉnh Đắk Nông luôn quan tâm, chú trọng đến công tác phổ biến giáo

dục pháp luật thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, nhằm

nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân, góp phần

phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Đồng thời đơn vị còn phổ biến,

quán triệt đầy đủ nội dụng các Bộ luật, Luật, như: Bộ luật Hình sự, BLTTHS,

Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi

93

hành tạm giữ, tạm giam và Luật Tổ chức cơ quan điều tra Hình sự trong

ngành Kiểm sát nhân dân…đến toàn thể công chức trong Ngành, tạo sự

chuyển biến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả công tác khi thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của Ngành; Thêm vào đó, trang thông tin điện tử VKSND tỉnh Đắk

Nông thực hiện hiệu quả việc đăng tải thông tin, bài viết, các quy định pháp

luật, quy định của Ngành đảm bảo chất lượng về nội dung, phong phú về hình

thức, chuyên mục phục vụ tốt việc nghiên cứu trao đổi thông tin nghiệp vụ

cho công chức, Kiểm sát viên cũng như phổ biến, giáo dục pháp luật cho

người dân.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế

và các công tác khác

+ Về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, KSV: Trong công

tác này, tại VKSND tỉnh Đắk Nông đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hằng

năm, số lượng công chức, KSV được đào tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng, gắn

với quy hoạch, sử dụng công chức. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng vẫn chưa

thực sự gắn với cơ cấu phát triển của tỉnh, chưa chú trọng đúng mức đến đào

tạo, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, tỷ lệ công chức đào tạo trên đại học còn

thấp, chủ yếu tập trung và hệ đào tạo tại chức.

+ Về công tác tuyển dụng đội ngũ công chức, KSV: VKSND tỉnh Đắk

Nông đã chủ trương tuyển những người có đủ tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu

ngạch công chức cần tuyển, phù hợp với yêu cầu của cơ quan, đơn vị.

VKSND tỉnh Đắk Nông đã áp dụng 02 hình thức thi tuyển công chức một

cách công khai và hình thức xét tuyển trên cơ sở hợp đồng trong chỉ tiêu biên

chế hoặc hợp đồng không thời hạn. Công tác thi tuyển được tổ chức theo đợt

tuyển dụng và được thực hiện ngày một chặt chẽ.

+ Về công tác quy hoạch đội ngũ công chức, KSV: Trong công tác này,

VKSND tỉnh Đắk Nông đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác

94

quy hoạch cán bộ công chức Đảng ủy, lãnh đạo VKSND tỉnh Đắk Nông đã

triển khai thực hiện nghiêm túc công tác xây dựng quy hoạch cán bộ công

chức từ năm 2015. Từ đó đến nay, Phòng tổ chức cán bộ thường xuyên rà

soát hằng năm, bổ sung quy hoạch CBCC thuộc diện quản lý của VKSND

tỉnh Đắk Nông và thực hiện hệ thống quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo

từng giai đoạn như 2016 – 2021 và giai đoạn 2021 – 2026.

Đơn vị đã tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt lấy ý kiến góp ý và bỏ

phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Lãnh đạo Viện theo quy định, kết quả:

Các đồng chí Lãnh đạo VKSND tỉnh đều đạt số phiếu tín nhiệm. Thực hiện

quy trình rà soát quy hoạch định kỳ năm 2019, bổ sung, đưa ra khỏi quy

hoạch đối với các trường hợp không đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định

giai đoạn 2016 - 2021 và giai đoạn 2021 – 2026 đảm bảo đúng quy định.

+ Về công tác bổ nhiệm, bố trí, luân chuyển, điều động đội ngũ công chức,

KSV: Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, công tác bổ nhiệm, bố trí,

điều động đội ngũ công chức, KSV của VKSND tỉnh Đắk Nông đã được thực

hiện đúng quy chế, quy định, quy trình, đúng đối tượng, cơ cấu, đảm bảo công

khai, dân chủ và yêu cầu Đảng lãnh đạo, quản lý công tác cán bộ; đồng thời

đáp ứng được yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy và yêu cầu

công tác của các cơ quan, đơn vị. Cụ thể như sau:

Công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại: thực hiện quy định của Đảng, Nhà

nước và của Ngành, trong 5 năm qua, VKSND tỉnh đã đề nghị và được Viện

trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm 01 Phó Viện trưởng VKSND tỉnh, 02 Viện

trưởng VKSND cấp tỉnh, 10 Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, 63 Kiểm sát

viên; đã bổ nhiệm 05 Trưởng phòng, 09 Phó Trưởng phòng thuộc VKSND

tỉnh, 42 Kiểm tra viên. Đồng thời, thực hiện quy trình bổ nhiệm lại chức vụ,

chức danh tư pháp đối với các trường hợp đủ điều kiện theo quy định.

Công tác điều động, luân chuyển: Lãnh đạo VKSND tỉnh thường

95

xuyên chú trọng đến công tác điều động. Luân chuyển công chức nhằm tạo

điều kiện cho công chức được tiếp xúc, trau dồi kinh nghiệm công tác trong

nhiều lĩnh vực để phát huy năng lực, sở trường công tác của bản thân. Trên cơ

sở Kế hoạch điều động, luân chuyển công chức trong ngành KSND tỉnh Đắk

Nông; trong thời gian qua Lãnh đạo VKSND tỉnh đã thực hiện điều động,

luân chuyển đối với 64 công chức (trong đó có 22 công chức giữ chức vụ lãnh

đạo quản lý) giữa VKSND . Ngoài ra, đơn vị đã thực hiện tốt công tác quy

hoạch, tinh giản biên chế, nhận xét đánh giá công chức.

Công tác đánh giá, phân loại và chế độ dành cho đội ngũ công chức,

KSV: Từ năm 2015 đến năm 2019, kết quả đánh giá đội ngũ công chức, KSV

VKSND tỉnh Đắk Nông đánh giá hằng năm, đa số cán bộ, công chức đạt mức

hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong đó, đội ngũ công

chức, KSV có trình độ, năng lực tương đối đồng đều, đáp ứng tốt nhiệm vụ

được giao.

Việc đảm bảo chế độ, chính sách cho công chức, viên chức và người

lao động là nhiệm vụ thường xuyên được đơn vị chú trọng thực hiện có nề

nếp, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho công chức và người lao động

trong Ngành. Việc thực hiện dân chủ trong nội bộ cơ quan luôn được Lãnh

đạo Viện quan tâm và coi đây là một trong những vấn đề trọng tâm trong

công tác tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành, góp phần hoàn thành tốt nhiệm

vụ chính trị được giao. Ban hành Quy chế dân chủ mới phù hợp với Luật Tổ

chức VKSND năm 2014 và đồng thời tăng cường kỷ luật nghiệp vụ, quản lư

chặt chẽ đội ngũ công chức; nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu; tăng

cường công tác giám sát của tổ chức đảng và các tổ chức đoàn thể; lắng nghe

ý kiến của quần chúng, nhân dân; đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, kịp

thời phát hiện vi phạm để xử lý.

Công tác thi tuyển chức danh tư pháp: Thực hiện Quy chế về thi tuyển

96

KSV sơ cấp, KSV trung cấp, KSV cao cấp trong ngành KSND và Kế hoạch

thi tuyển của VKSND tối cao, đơn vị đã triển khai đến toàn thể công chức

trong ngành để đăng ký giam gia thi tuyển; sau đó Ủy ban kiểm sát VKSND

tỉnh sẽ xét chọn và cử công chức đủ điều kiện tham gia thi tuyển chức danh tư

pháp do VKSND tối cao tổ chức. Trong thời gian qua, đơn vị đã cử 76 công

chức tham gia các kỳ thi tuyển chọn KSV cao cấp, KSV trung cấp, KSV sơ

cấp. Các đồng chí được cử tham gia các kỳ thi đều đạt được kết quả cao; 63

công chức đã được VKSND tối cao bổ nhiệm chức danh KSV các ngạch (các

công chức còn lại không được bổ nhiệm do tỷ lệ cạnh tranh). Việc tổ chức thi

tuyển chức danh tư pháp trong ngành KSND đã góp phần nâng cao chất lượng

đội ngũ KSV và góp phần khắc phục dần tình trạng thiếu KSV tại đơn vị.

2.4. Những hạn chế của việc đổi mới tổ chức và hoạt động Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách tư

pháp

2.4.1. Những bất cập trong việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và

sự giám sát của Hội đồng nhân dân

Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp về

chính trị, tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp ủy Ðảng buông lỏng

lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp… Phân công

đồng chí cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm

Viện trưởng Viện kiểm sát và Chánh án Tòa án các cấp. Xây dựng và hoàn

thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy Đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những

vụ, việc quan trọng, phức tạp; cơ chế phối hợp làm việc giữa các tổ chức đảng

với các cơ quan tư pháp và các ban, ngành có liên quan theo hướng cấp ủy

định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Xác định

rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp ủy viên trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác

tư pháp [16].

97

Tác giả nhận thấy từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính

trị về Chiến lược cải cách tư pháp thì sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa

phương đối với các Viện kiểm sát nhân dân quận, tỉnh trong thời gian qua

là rất sâu sát. Cấp ủy Đảng ở địa phương thường xuyên quan tâm chỉ đạo các

cơ quan tư pháp quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng thời báo cáo

kết quả thực hiện về các trọng tâm công tác tư pháp, về việc thực hiện nhiệm

vụ chính trị được giao, về củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, đào tạo bồi

dưỡng nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên. Hàng

năm, Cấp ủy đều có báo cáo kết quả công tác cải cách tư pháp và đề ra nhiệm

vụ trọng tâm của năm tới. Sự lãnh đạo của Cấp ủy hiện nay đối với các Viện

kiểm sát là ổn định. Tuy nhiên, trong thời gian tới, nếu thành lập Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Đắk Nông thì khó khăn, vướng mắc đặt ra là cấp ủy nào sẽ

lãnh đạo cơ quan này cũng như việc cơ cấu vào cấp ủy đối với Viện trưởng

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông.

Về yêu cầu giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với Viện kiểm

sát, theo quy định hiện hành, Quy định "Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân

địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi

hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân"

[37]. Quy định này khởi nguồn từ nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về

nhân dân. Chức năng đại diện của Hội đồng nhân dân yêu cầu Viện trưởng Viện

kiểm sát địa phương phải báo cáo tình hình thi hành pháp luật trên địa bàn. Chức

năng giám sát của Hội đồng nhân dân yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát địa

phương phải trả lời chất vấn của đại biểu. Tinh thần này cho thấy dù hệ thống

Viện kiểm sát được tổ chức theo mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động tỉnh

Đắk Nông hay đơn vị hành chính, thì sự giám sát của cơ quan đại diện phải

được coi là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu. Đối với mô hình

đổi mới tổ chức và hoạt động tổ chức theo đơn vị hành chính, mỗi năm hai lần

98

theo kỳ họp, Viện trưởng các Viện kiểm sát địa phương trình bày báo cáo và

trả lời chất vấn trước Hội đồng nhân dân địa phương, nhằm bảo đảm nguyên

tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề này lại trở nên

phức tạp một khi hệ thống Viện kiểm sát tổ chức theo mô hình đổi mới tổ

chức và hoạt động tỉnh Đắk Nông. Nếu thành lập Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Đắk Nông thì thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sẽ không còn. Hội đồng nhân dân là cơ

quan đại diện của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu, miễn

nhiệm và bãi nhiệm theo các nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ

phiếu kín. Do đó, hệ thống cơ quan này phải được tổ chức theo mô hình đổi mới

tổ chức và hoạt động đơn vị hành chính lãnh thổ (tỉnh, tỉnh, xã). Như vậy, khi mô

hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được

tổ chức thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông có phạm vi

địa hạt bao gồm một số đơn vị hành chính lãnh thổ, sẽ thực hiện việc báo cáo

và trả lời chất vấn trước Hội đồng nhân dân địa phương nào. Nếu việc thay

đổi cơ chế và thẩm quyền giám sát đối với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk

Nông không được thực hiện đồng bộ, Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh

không được tăng cường tương ứng thì việc phát hiện các sai sót của Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Đắk Nông trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được

giao sẽ không kịp thời. Rõ ràng, quy phạm Hiến định này cần phải được xem

xét, một khi lựa chọn mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động tổ chức theo tỉnh

Đắk Nông cho hệ thống Viện kiểm sát. Và đây không chỉ là vấn đề của hệ

thống Viện kiểm sát, mà còn có ý nghĩa quan trọng với hệ thống Tòa án - cơ

quan được Đảng xác định là trọng tâm của nội dung hoàn thiện tổ chức, bộ

máy các cơ quan tư pháp.

2.4.2. Sự thiếu đồng bộ trong việc đổi mới hệ thống các cơ quan

tư pháp

99

Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì việc giải quyết, xử

lý các vụ án hình sự là một quy trình thống nhất, đồng bộ và kết quả hoạt

động của cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan mật thiết với nhau; từ khởi

tố, điều tra của Cơ quan điều tra, đến việc truy tố của Viện kiểm sát và xét xử

của Tòa án cho đến thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật của Cơ quan

thi hành án.

Tòa án là cơ quan xét xử, để đảm bảo tính độc lập của Tòa án trong

hoạt động xét xử thì việc tổ chức hệ thống Tòa án như Nghị quyết số 49-NQ/TW

của Bộ Chính trị là một phương án phù hợp, có tính khả thi do hoạt động xét

xử mang tính độc lập cao và tương đối ổn định, lại không bị lệ thuộc vào hoạt

động của các cơ quan tư pháp khác.

Khác với Tòa án, Viện kiểm sát với chức năng thực hành quyền công tố

và kiểm sát hoạt động tư pháp nên trong hoạt động thực hiện chức năng,

nhiệm vụ phải gắn với Cơ quan điều tra hàng ngày để nghiên cứu hồ sơ, kiểm

sát các hoạt động điều tra. Nếu tổ chức của Viện kiểm sát theo hệ thống tổ

chức của Tòa án, thì tương ứng với Tòa án tỉnh Đắk Nông sẽ có Viện kiểm sát

tỉnh Đắk Nông. Trường hợp Viện kiểm sát tỉnh Đắk Nông được tổ chức ở một

đơn vị hành chính thì sẽ không có trở ngại gì, nhưng nếu Viện kiểm sát tỉnh

Đắk Nông được tổ chức ở một số đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong khi Cơ

quan điều tra vẫn giữ nguyên theo mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động hiện

nay như Nghị quyết số 49-NQ/TW đã nêu thì hoạt động của Viện kiểm sát

tỉnh Đắk Nông sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Thử

hình dung một Kiểm sát viên cùng một lúc phải thực hành quyền công tố và

kiểm sát điều tra đối với nhiều vụ án do Cơ quan điều tra của các tỉnh khác

nhau trong tỉnh Đắk Nông điều tra, thì khó có thể hoàn thành nhiệm vụ, vì sẽ

không đủ thời gian để đi hết Cơ quan điều tra tỉnh này sang Cơ quan điều tra

tỉnh khác để nghiên cứu hồ sơ và kiểm sát các hoạt động điều tra của Điều tra

100

viên; đặc biệt là các hoạt động đòi hỏi tính kịp thời như kiểm sát khám

nghiệm hiện trường, kiểm sát khám nghiệm tử thi, phê chuẩn lệnh bắt khẩn

cấp.

Trên thực tế, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông có những đặc thù riêng, phạm vi công

tác rộng hơn so với Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh Đắk Nông bởi lẽ quan hệ

giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông với Cơ quan điều tra là hoạt động

thường xuyên hàng ngày, phối hợp xử lý nhiều tình huống đột xuất như tham

gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; kiểm sát tin báo tố giác tội

phạm, kiểm sát các hoạt động điều tra, kiểm sát nhà tạm giữ... Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Đắk Nông còn có quan hệ công tác thường xuyên với Cục thi

hành án cấp tỉnh, tổ chức các hoạt động kiểm sát thi hành án đến địa bàn cấp

xã. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đến các đơn vị Công an cấp tỉnh

để thực hiện các hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát nhà tạm giữ và có nơi

phải đi hàng trăm km (như ở miền núi, vùng sâu, vùng xa) để thực hiện các

hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và các

hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp khác nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn,

cần có giải pháp khắc phục.

Như vậy có thể thấy tính chất, đặc điểm của hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp hoàn toàn khác với hoạt

động xét xử của Tòa án chỉ là nghiên cứu hồ sơ và tổ chức xét xử tại chỗ nên

sẽ là thách thức lớn nếu cơ quan điều tra không được tổ chức theo mô hình

của Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh Đắk Nông và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Đắk Nông. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu mô hình đổi mới tổ chức và hoạt

động tổ chức của cơ quan điều tra, trong đó có việc thành lập cơ quan điều tra

tỉnh Đắk Nông nhằm tạo sự gắn kết giữa điều tra và công tố, bảo đảm đồng

bộ trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự; đồng thời, đảm bảo sự

101

rành mạch giữa cơ quan điều tra tố tụng với cơ quan công an làm nhiệm vụ

quản lý hành chính.

2.4.3. Những bất cập về tổ chức cán bộ

Biên chế cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sẽ chủ yếu

là đội ngũ cán bộ của Viện kiểm sát cấp tỉnh, do đó cần thiết phải có sự điều

chỉnh giữa các đơn vị để đảm bảo sự phù hợp về số lượng và chất lượng. Khi

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được thành lập tất yếu sẽ có sự bố trí,

sắp xếp lại đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên và công chức cũng như đòi

hỏi phải tăng biên chế, số lượng Kiểm sát viên các cấp, trong đó có việc sửa

đổi ngạch bậc kiểm sát viên để có thể bố trí Kiểm sát viên cao cấp ở các Viện

kiểm sát tỉnh Đắk Nông trọng điểm, thụ lý giải quyết số lượng án lớn. Trong

công tác tổ chức cán bộ thì đây là vấn đề nhạy cảm, tác động đến tâm lý của

cán bộ, và cũng là một khó khăn cần có cách giải quyết tốt.

Đối với những nơi mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được

thành lập trên cơ sở hợp nhất từ hai Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên sẽ

phải sắp xếp lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp với mô hình đổi mới tổ chức và

hoạt động mới, cụ thể là giảm bớt số lượng cán bộ lãnh đạo, điều chỉnh, phân

công lại nhiệm vụ và giải quyết chế độ chính sách đối với một số cán bộ.

Điều này sẽ nảy sinh nhiều vấn đề nhạy cảm và phức tạp về bố trí cán bộ

như: Nhu cầu cán bộ lãnh đạo quản lý giảm sẽ dôi ra một số người không bố

trí được như chức vụ cũ bởi lẽ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông chỉ cơ

cấu 01 Viện trưởng và một số Phó Viện trưởng mà không bố trí hết được số

cán bộ lãnh đạo Viện kiểm sát cấp tỉnh hiện nay giữ chức vụ lãnh đạo. Vì vậy,

ở những nơi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được sáp nhập từ một số

Viện kiểm sát cấp tỉnh phải thực hiện tốt việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo quản

lý đáp ứng yêu cầu.

Ngoài ra, việc thay đổi địa điểm đặt trụ sở sẽ dẫn đến tình trạng có

102

nhiều người phải công tác xa nhà, khó khăn trong việc đi lại, từ đó nhu cầu

nhà công vụ tăng lên và vấn đề bố trí phân công nhà công vụ cho cán bộ kiểm

sát cũng gặp nhiều trở ngại nhất là trong điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu

thốn như hiện nay.

2.4.4. Những bất cập về cơ sở vật chất

Trong điều kiện kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn như giai đoạn hiện

nay thì việc đáp ứng ngay nhu cầu kinh phí đầu tư đồng loạt cho Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Đắk Nông là điều không dễ dàng. Để giải quyết khó khăn

này, trong quá trình chuẩn bị cần tính toán hết nhu cầu, đối chiếu với khả

năng đáp ứng của ngân sách để xác định phương án, lộ trình phù hợp. Nếu

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông được thành lập mà các điều kiện nói

trên không được đáp ứng kịp thời sẽ gây nên xáo trộn lớn, ảnh hưởng đến chất

lượng, hiệu quả các hoạt động tư pháp ở cấp giải quyết tuyệt đại đa số các loại

vụ việc tư pháp trong thực tế, và như thế mục tiêu cải cách tư pháp đặt ra có

thể không đạt được. Thời gian qua, sau khi tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân

dân, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, các cơ quan này đã được đầu tư đáng

kể về trụ sở. Do đó quá trình thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh Đắk

Nông và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông cần tính toán đến việc sử

dụng tối đa nguồn lực này để tránh lãng phí.

Nguyên nhân chính của những khó khăn nêu trên là do tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông là chủ trương lớn nên việc tổ chức thực

hiện sẽ không tránh khỏi nhiều vấn đề phát sinh phức tạp liên quan đến quan

điểm, tư tưởng và các điều kiện về kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất, trang

thiết bị và giải quyết các vấn đề liên quan đến việc điều chỉnh tổ chức bộ máy,

sắp xếp lại đội ngũ cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở những nơi

phải sát nhập. Bên cạnh đó việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt của một số

cấp ủy, tổ chức đảng ở trung ương và địa phương còn yếu. Một số cán bộ,

103

đảng viên, trong đó có cả cán bộ, đảng viên thuộc các cơ quan tư pháp không

nắm vững mục tiêu, yêu cầu của việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Đắk Nông theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 79-

KL/TW của Bộ Chính trị. Trong quá trình triển khai công tác chuẩn bị thực

hiện sự phối, kết hợp thiếu chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, nhất là trong

việc xây dựng các tiêu chí thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh Đắk Nông,

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đã dẫn đến việc không thống nhất

trong việc xác định địa hạt tư pháp của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát

nhân dân.

Như vậy, bên cạnh một số thuận lợi như được sự quan tâm chỉ đạo,

lãnh đạo kịp thời của Đảng; phù hợp với bối cảnh đẩy mạnh toàn diện công

cuộc đổi mới đất nước; phù hợp với chủ trương tăng cường thẩm quyền cho

Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; có những bài học kinh

nghiệm quý giá từ lịch sử tổ chức Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân

ở nước ta cũng như tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, quá

trình triển khai thành lập Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông còn gặp phải

rất nhiều khó khăn, thử thách. Từ những vấn đề thực tiễn đặt ra nêu trên đòi

hỏi việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (và Tòa án nhân

dân sơ thẩm tỉnh Đắk Nông) phải được nghiên cứu hết sức cẩn trọng, đánh giá

tác động về nhiều mặt để có phương án hợp lý, đảm bảo tính khả thi cao.

104

Kết luận chương 2

Trên cơ sở vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKSND, tổ chức bộ máy và

công tác quản lư, chỉ đạo điều hành của VKSND tỉnh Đắk Nông đang từng

bước được hoàn thiện để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ trong tình hình

mới. Đồng thời, tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nông ngày càng được hoàn

thiện và củng cố, trong đó đơn vị đã xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các

quy chế hoạt động nghiệp vụ và quản lý để thống nhất trong toàn ngành, bảo

đảm phù hợp với các quy định của pháp luật.

Trong những năm qua, VKSND tỉnh Đắk Nông đã và đang phấn đấu

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của VKSND, qua đó đã đạt được những kết

quả nhất định và mang lại nhiều thành tích cho đơn vị. Tuy nhiên, vẫn còn

một số hạn chế như là cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa hợp lý;

công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp vẫn còn một

số khó khăn, vướng mắc do sự phối hợp chưa tốt giữa các cơ quan tố tụng và

các cơ quan ban ngành.

Ngoài ra, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, thi tuyển, bổ nhiệm, khen

thưởng đối với công chức, KSV của đơn vị trong những năm qua đã đạt được

những thành tựu đáng kể, số lượng công chức trong Ngành được đào tạo đã

tăng lên để đáp ứng kịp thời yêu cầu thực thi nhiệm vụ trong tình hình mới,

gắn đào tạo với quy hoạch cán bộ để thực hiện tốt những nhiệm vụ, quyền hạn

mà Đảng và Nhà nước giao phó.

105

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐỔI MỚI

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH

ĐẮK NÔNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

3.1.1. Phát huy hơn nữa vai trò của người đứng đầu trong công tác

chỉ đạo, điều hành, phân bổ công chức

Ngày 16/5/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg

xác định công tác dân vận là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Cơ quan

hành chính nhà nước, chính quyền các cấp phải thường xuyên quán triệt sâu

sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về

công tác dân vận; chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức công

tác dân vận gắn với thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và cũng nhấn mạnh việc

đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, tăng cường hiệu lực, hiệu quả

công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp.

Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp

cách mạng của Đảng và dân tộc.

3.1.2. Quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và

pháp luật của Nhà nước về việc quản lý đội ngũ công chức, Kiểm sát viên

đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới

Nghị quyết đại biểu đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định

việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và là khâu đột phá

mang tính chiến lược và đảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất

nước. Đặc biệt là đối với ngành Kiểm sát nhân dân, công tác cán bộ luôn là

vấn đề then chốt trong xây dựng và phát triển Ngành. Trong đó, chiến lược

xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho ngành cũng như đào tạo, bồi

106

dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn

nghiệp vụ cho công chức có ý nghĩa hết sức quan trọng đến việc nâng cao

hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành.

Thứ nhất, có thể khẳng định rằng đội ngũ công chức, KSV là nhân tố

quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác tổ chức cán bộ, công chức là

khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng

và quản lý đội ngũ công chức, kSV có nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công

việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa

học, chặt chẽ và hiệu quả.

Thứ hai, thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh

đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ công chức, KSV

trong hệ thống chính trị. Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,

thường xuyên đổi mới tổ chức cán bộ để phù hợp với tình hình thực tiễn.

Thứ ba, việc quản lý đội ngũ công chức, KSV phải xuất phát từ yêu

cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới nhưng vẫn thực hiện những quy định về chế độ

tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ đối với công chức, KSV một cách hợp

lý.

Thứ tư, việc đổi mới công tác đánh giá, nhận xét đối với công chức để

đảm bảo trung thực, khách quan và phản ánh đúng kết quả thực thi công vụ

Thứ năm, cần thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, nâng cao ý thức,

trách nhiệm, kỷ cương và tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức, KSV để

lại bước chuyển biến tích cực trong lề lối làm việc của từng công chức với

tinh thần phục vụ nhân dân và lấy sự hài lòng của người dân để đánh giá mức

độ hoàn thành nhiệm vụ của công chức cũng như người lao động.

3.1.3. Phát huy vai trò của cấp ủy và các tổ chức chính trị, xã hội

trong tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cũng như công tác quản lý đội

ngũ công chức

107

Đảng ủy cũng như Lãnh đạo của VKSND cấp tỉnh đã xác định tổ chức

của VKSND cấp tỉnh mà trong đó công tác quản lý đội ngũ công chức, KSV

phải luôn quán triệt và chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối cũng như

chính sách của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ trương và

hướng dẫn của VKSND tối cao. Do đó, quản lý đội ngũ công chức, KSV là

công việc của toàn Đảng, lãnh đạo và của từng Đảng viên, công chức của

VKSND cấp tỉnh. Trong đó, tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện

công khai, minh bạch trong tổ chức của Viện kiểm sát.

3.1.3. Thực hiện cải cách tư pháp phải đảm bảo thống nhất với Hiến

Pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014

Để thực hiện những nhiệm vụ đó và nhằm đảm bảo chức năng hoạt

động, VKSND phải tổ chức bộ máy cơ quan của mình trong đó mỗi bộ phận

đảm nhận những khâu công tác nhất định và một trong những điểm mới của

Hiến pháp 2013 là chỉ đưa ra tính định hướng mà không quy định cụ thể và

chi tiết như các bản Hiến pháp trước. Thể chế hóa chủ trương đổi mới hệ

thống tổ chức VKSND theo Kết luận số 79-KL/TW, vì thế, cơ cấu tổ chức

của VKSND không còn được quy định chi tiết trong Hiến pháp mà sẽ chỉ quy

định cụ thể tại Chương III Luật tổ chức VKSND năm 2014. Theo đó, Hiến

pháp năm 2013 quy định về hệ thống VKSND gồm: VKSND tối cao và các

Viện kiểm sát khác do luật định (khoản 2 Điều 107). Cụ thể hóa quy định

trên, Điều 40 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về hệ thống Viện

kiểm sát nhân dân gồm:

-

VKSND tối cao.

- VKSND cấp cao: hiện nay có 03 VKSND cấp cao đặt tại 03

thành phố lớn là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

- VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi

là VKSND cấp tỉnh): Mỗi tỉnh sẽ có một VKSND cấp tỉnh, thành

108

phố trực thuộc Trung ương vậy nên cả nước có 63 Viện kiểm sát ở

cấp này.

- VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương (sau đây gọi là VKSND cấp huyện): Hiện nay trên cả nước có

khoảng 191 Viện kiểm sát cấp huyện.

- Viện kiểm sát quân sự các cấp: Trong đó bao gồm Viện kiểm

sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát cấp quân khu và Viện kiểm

sát quân sự ở các cấp Khu vực.

Như vậy, so với Luật Tổ chức VKSND năm 2002 thì Luật Tổ chức

VKSND năm 2014 đã quy định thành bốn cấp Viện kiểm sát, tức là có

quy định thêm VKSND cấp cao, bên cạnh Viện kiểm sát quân sự các cấp

vẫn được giữ nguyên như trước. Theo Điều 51, Luật Tổ chức VKSND

năm 2014, hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát quân sự

Trung ương; Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Viện kiểm

sát quân sự khu vực.

Tương ứng với mỗi VKS các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ,

thẩm quyền riêng theo tổ chức hệ thống, được cụ thể trong Luật Tổ chức

VKSND năm 2014:

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm

chỉnh và thống nhất;

- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết

của Tòa án nhân dân cấp cao;

- Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện

thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa

phương mình. (Điều 41)

109

- Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân

được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công

tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong quân đội (Điều 50).

VKSND là một cơ quan trong bộ máy nhà nước có chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND có nhiệm vụ bảo

vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất

3.2. Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm

sát nhân dân cấp tỉnh đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp

3.2.1. Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, các bộ luật, các luật và các văn

bản dưới luật có liên quan

- Sửa đổi Hiến pháp: Hiến pháp là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất

của nhà nước, trong đó có quy định về các cơ quan nhà nước, chức năng,

nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan đó. Do đó, khi

VKSND với tư cách là một cơ quan nhà nước mới thay thế cơ quan Viện

kiểm sát nhân dân được qui định trong Hiến pháp hiện hành thì đòi hỏi phải

được ghi nhận trong Hiến pháp sửa đổi. Trong Hiến pháp sửa đổi phải có

những qui định về vị trí, vai trò của VKSND trong bộ máy nhà nước. Đồng

thời, cần có qui định chung nhất và cơ bản nhất về chức năng, nhiệm vụ,

nguyên tắc tổ chức và hoạt động VKSND.

- Ban hành Luật VKSND: Trong tương lai, VKSND là một cơ quan nhà

nước mới được thành lập có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, có hệ thống

tổ chức khác hẳn so với Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật

hiện hành. Do đó, cần thiết phải ban hành luật mới với tên gọi dự kiến là Luật

VKSND thay thế Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành. Luật này

110

cần xây dựng theo hướng qui định bao quát tất cả những vấn đề cơ bản về tổ

chức và hoạt động của VKSND mà cần thiết phải điều chỉnh dưới hình thức

văn bản luật, khắc phục tình trạng phải điều chỉnh cả bằng hình thức văn bản

pháp lệnh đối với những lĩnh vực cần phải được điều chỉnh bằng luật như hiện

nay (Pháp lệnh kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân).

- Xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự mới: Nghiên cứu những vấn đề lý

luận và thực tiễn để xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự mới theo hướng xác

định rõ vị trí, vai trò của VKSND trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp. Bộ luật tố tụng hình sự mới là bộ luật cơ bản và quan trọng nhất

liên quan trực tiếp đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong

tương lai, do đó cần được quan tâm nghiên cứu đúng mức khi xây dựng Bộ

luật này theo các tiêu chí cơ bản sau:

+ Trong Bộ luật tố tụng hình sự mới cần phân định rõ thẩm quyền

quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố

tụng theo hướng tăng quyền cho điều tra viên, công tố viên và Thẩm phán để

họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu tránh

nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.

+ Nghiên cứu phương án hạn chế việc tạm giam, thu hẹp đối tượng

người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam. Theo đó,

cần có qui định không áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số tội trong

Bộ luật h́ nh sự. Về thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, theo

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành có 7 người có quyền ra lệnh

tạm giam: Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân

dân và Hội đồng xét xử. Như vậy, hiện nay ở nước ta có nhiều chủ thể có

quyền này. Tham khảo vấn đề này trong tố tụng hình sự các nước trên thế giới

cho thấy có nước giao cho VKSND, có nước thì giao cho Tòa án. Theo yêu

111

cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay và với mô hình VKSND như đã nêu ở

trên thì việc giao thẩm quyền này cho VKSND là phù hợp.

+ Nghiên cứu các phương án để tăng cường trách nhiệm của VKSND

trong hoạt động điều tra gắn kết giữa hoạt động công tố và hoạt động điều tra

ngay từ đầu, bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và cũng là nâng cao chất lượng tố

tụng của công tố viên tại phiên tòa nhằm chống làm oan người vô tội. Cần có

quy định VKSND trực tiếp ra quyết định tố tụng thay cho việc phê chuẩn các

quyết định tố tụng như hiện nay. Đồng thời, xác lập cơ chế công tố viên chỉ

đạo hoạt động điều tra và chỉ đạo điều tra viên trong hoạt động tố tụng, vì

chính công tố viên là người chịu trách nhiệm buộc tội thì phải có quyền chỉ đạo

thu thập chứng cứ, bắt giữ và truy tìm thủ phạm, còn việc thực hiện các biện

pháp nghiệp vụ điều tra như thế nào là công việc của điều tra viên.

+ Đồng thời cần qui định cơ chế VKSND quản lý điều tra viên về mặt

tố tụng, qua đó gắn với việc Cơ quan điều tra bổ nhiệm, đề bạt điều tra viên,

đảm bảo tăng cường trách nhiệm của điều tra viên trong việc thực hiện các

yêu cầu điều tra của công tố viên.

+ Nghiên cứu cơ chế mở rộng khả năng tranh tụng tại phiên tòa mà

trọng tâm là đổi mới việc luận tội, xét hỏi, tranh luận của công tố viên tại

phiên tòa xét xử các vụ án hình sự gắn với việc đổi mới trình tự, thủ tục xét

xử tại phiên tòa. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, Thẩm

phán hỏi là chính và hỏi trước về hành vi và theo trình tự vụ việc. Trên thực tế

có nhiều điểm không hợp lý khi thực hiện vấn đề này, do đó cần thay đổi trình

tự, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa theo hướng vừa đơn giản về thủ tục vừa nâng

cao về hiệu quả tranh tụng, bảo đảm phán quyết của Tòa án khách quan, chính

xác. Theo phương án này thì công tố viên viên hỏi là chính, sau đó đến người

bào chữa, Thẩm phán chỉ hỏi những điểm còn mâu thuẫn và chưa rõ về vụ án.

+ Nghiên cứu phương án nâng cao chất lượng kháng nghị của VKSND

112

theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự; quy định chặt chẽ

những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị

đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, khắc phục

tình trạng hiện nay là hiệu quả kháng nghị của Viện kiểm sát thì hạn chế trong

khi tỷ lệ án bị cải sửa hoặc án bị hủy do kháng cáo nhiều mà Viện kiểm sát

không có kháng nghị; đồng thời cũng tránh tình trạng kháng nghị của

VKSND tràn lan, thiếu căn cứ dẫn đến Tòa án bác kháng nghị.

+ Nghiên cứu, xây dựng cơ chế xét xử theo chế độ một Thẩm phán và

hoàn thiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất

định theo thủ tục rút gọn: Hiện nay các vụ án theo thủ tục rút gọn mới chỉ rút

gọn về thời gian, chưa rút gọn về thủ tục và chỉ rút gọn ở giai đoạn sơ thẩm.

Do đó, cần qui định cụ thể cơ chế bắt buộc phải áp dụng thủ tục rút gọn khi

vụ án đủ điều kiện và vai trò quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thuộc về

VKSND.

- Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004: Căn cứ theo chức

năng, nhiệm vụ của VKSND trong tương lai theo mô hình VKSND như đã

nêu ở trên thì VKSND không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp

đối với việc giải quyết các quyết các vụ việc dân sự, lao động, hành chính,

kinh doanh, thương mại nữa mà VKSND chỉ có trách nhiệm thực hiện những

quyền năng tố tụng cần thiết để bảo vệ lợi ích công như khởi tố, tham gia

phiên tòa, kháng nghị những bản án, quyết định không có căn cứ và trái pháp

luật; trực tiếp quyết định thi hành án trong một số trường hợp nhất định. Do

đó, cần sửa đổi, bổ sung các qui định có liên quan về vấn đề này trong Bộ luật

tố tụng dân sự.

- Sửa đổi, bổ sung các bộ luật, các luật và các văn bản pháp luật khác

có liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND: Theo quy định của pháp

luật hiện hành, liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân

113

dân được qui định rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, do đó khi xác lập tổ

chức và hoạt động của VKSND trên thực tế thì cần phải sửa đổi, bổ sung các

văn bản này cho đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất.

3.2.2. Ban hành mới, sửa đổi, bổ sung, thay thế các qui chế nghiệp

vụ về tổ chức và hoạt động của VKSND

Để VKSND được tổ chức và hoạt động trên thực tế, đòi hỏi phải có một

hệ thống các qui chế nghiệp vụ, qui chế về quản lý và các qui định cụ thể về

tổ chức và hoạt động điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong nội bộ ngành. Do

đó, khi VKSND được xác lập trên thực tế phải tiến hành việc ban hành mới

hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế các qui định hiện hành. Cụ thể gồm các lĩnh

vực cơ bản sau:

- Qui chế về tổ chức bộ máy và hoạt động của các đơn vị công tác trong

hệ thống VKSND.

- Qui chế về thông tin, báo cáo, quản lý công tác trong hệ thống

VKSND.

- Qui chế về công tác thực hành quyền công tố trong việc điều tra các

vụ án hình sự.

- Qui chế về công tác thực hành quyền công tố trong việc xét xử các vụ

án hình sự.

- Qui chế về công tác công tố trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và

giáo dục ngýời chấp hành án phạt tù.

- Qui chế về công tác công tố trong việc thi hành án.

- Qui chế về công tác công tố đối với các vụ án dân sự, lao động, hành

chính, kinh doanh, thương mại.

3.2.3. Về tổ chức bộ máy

Để đảm bảo hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg có hiệu

quả khi triển khai trên thực tế cần thiết phải nghiên cứu tổ chức các đơn vị

114

cấp phòng tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, nhất là ở những nơi có sự

hợp nhất từ hai hay nhiều đơn vị cấp cấp tỉnh thành một cấp tỉnhg hoặc những

nơi tuy chỉ thành lập từ 1 đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh hiện nay

nhưng khối lượng công việc lớn, số cán bộ đông và địa bàn phức tạp. Việc

thành lập các đơn vị cấp phòng tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg vừa tăng

cường hiệu quả công tác quản lý, điều hành, đảm bảo tính chuyên sâu, phù

hợp với dự kiến thành lập các tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân sơ thẩm

cấp tỉnhg và cũng là một giải pháp để bố trí sắp xếp cán bộ.

3.2.4. Về đội ngũ cán bộ

* Về bố trí sắp xếp cán bộ

Từ nay đến năm 2014, đề nghị cơ quan có thẩm quyền quan tâm tăng

biên chế, số lượng Kiểm sát viên các cấp để chuẩn bị nguồn cán bộ cho việc

thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg. Về việc bố trí, sắp xếp lại cán bộ

là một trong những vấn đề khá phức tạp trong quá trình thành lập Viện kiểm

sát nhân dân cấp tỉnhg. Tác giả đề xuất giải quyết theo hướng như sau:

Thứ nhất, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý:

- Do quy mô tổ chức bộ máy, cán bộ cũng như phạm vi địa hạt tư pháp

lớn hơn, nên việc lựa chọn Viện trưởng của Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnhg không nên nhất thiết chỉ lựa chọn trong số cán bộ lãnh đạo, quản lý của

các Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh được hợp nhất vào cấp tỉnhg, mà có

thể lựa chọn từ cán bộ có năng lực hơn của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,

hoặc các đơn vị khác.

- Tổ chức các đơn vị cấp phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnhg. Theo đó, một số phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh

trước đây có thể bổ nhiệm làm trưởng phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân

cấp tỉnhg với chế độ tương đương để đảm bảo chính sách cán bộ.

Thứ hai, bố trí cán bộ, công chức khác: Về cơ bản, cán bộ thuộc Viện

115

kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg sẽ trên cơ sở cán bộ thuộc Viện kiểm sát nhân

dân cấp cấp tỉnh hợp thành. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức lại, trong điều

kiện cho phép cần điều chỉnh hợp lý số lượng, chất lượng cán bộ phù hợp với

yêu cầu công việc của từng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg.

* Về chính sách cán bộ

Khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, để giải quyết hợp lý

vấn đề chính sách cán bộ, tác giả đề xuất như sau:

- Phụ cấp trách nhiệm cho các chức danh lãnh đạo, quản lý của Viện

kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg phải khác so với mô hình đổi mới tổ chức và hoạt

động Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh hiện nay vì trách nhiệm cao hơn.

Mức phù hợp là phụ cấp chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnhg tương đương phụ cấp trưởng phòng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh;

phụ cấp chức vụ Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg tương

đương phụ cấp phó trưởng phòng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hiện nay.

- Phụ cấp trách nhiệm cho các chức danh lãnh đạo, quản lý cấp phòng

thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg (trưởng phòng, phó phòng) nên bằng

phụ cấp chức vụ của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

cấp cấp tỉnh hiện nay. Mức phụ cấp này vừa phù hợp với cấp độ trách nhiệm;

vừa đảm bảo những người đang là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân cấp cấp tỉnh hiện nay, nếu không bố trí vào chức vụ Viện trưởng

hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg thì có thể bố trí chức

vụ trưởng phòng hoặc phó phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg và

mức phụ cấp vẫn tương đương với chức vụ cũ.

- Cần xây dựng lại chính sách tiền lương, phụ cấp trách nhiệm, phụ

cấp thâm niên ngành Kiểm sát nhân dân nói chung, trong đó đặc biệt quan

tâm đối với cán bộ thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, tương xứng với

khối lượng công việc, trách nhiệm công vụ, cường độ lao động của cán bộ

116

công tác ở cấp này.

* Về chính sách thu hút cán bộ

Cần sớm ban hành quy định về chế độ tiền lương, phụ cấp và các chế

độ ưu đãi đặc thù khác đối với cán bộ, công chức ngành kiểm sát nhằm bảo

đảm cuộc sống và động viên cán bộ, công chức yên tâm công tác. Trước mắt

đề nghị quan tâm thực hiện việc hỗ trợ kinh phí hoạt động cho Viện kiểm sát

nhân dân ở những nơi có khoản vượt thu ngân sách của địa phương, theo tinh

thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Về lâu dài, để đảm bảo thu

hút và thực hiện điều động cán bộ, công chức yên tâm công tác tại miền núi,

vùng sâu vùng xa, cần bố trí nhà công vụ, có chính sách nhà ở đối với cán bộ

công tác ở vùng núi, nơi đặc biệt khó khăn.

3.2.5.Về cơ sở vật chất

Để đáp ứng cơ sở vật chất cho việc xây dựng mô hình đổi mới tổ chức và

hoạt động Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, cần thiết phải có kế hoạch và

phương án tổng thể về trụ sở làm việc, nhà công vụ; phương tiện công tác và

kinh phí hoạt động. Cụ thể như sau:

* Về trụ sở làm việc, nhà công vụ

Việc đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của các đơn vị trong ngành kiểm

sát cần có sự kế thừa hệ thống trụ sở hiện có, kết hợp với việc đầu tư xây

dựng cải tạo mở rộng, xây dựng mới cho phù hợp, tránh lãng phí; phù hợp với

quy hoạch của địa phương, của Ngành và đảm bảo hoạt động bình thường của

các đơn vị.

Trên cơ sở số lượng, địa hạt tư pháp và địa điểm đặt trụ sở của các Viện

kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg, cần lập dự án đầu tư tổng thể việc quy hoạch, bố

trí đất và đầu tư xây dựng trụ sở cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh theo

hướng hiện đại (đảm bảo quy mô và các yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật, trang thiết

bị...). Trong đó, phân loại quy mô trụ sở làm việc, nhà công vụ của Viện kiểm

117

sát nhân dân cấp tỉnhg theo nhóm, phù hợp với quy mô biên chế, khối lượng

công việc, đặc điểm vùng miền để phù hợp với thực tế.

Để góp phần khắc phục khó khăn cho ngân sách nhà nước trong giai

đoạn hiện nay, trước mắt cần đầu tư xây mới trụ sở cho những Viện kiểm sát

nhân dân cấp tỉnhg được hợp nhất từ 2 đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp

cấp tỉnh trở lên, đã xác định rõ được địa điểm, địa hạt tư pháp mà trụ sở chưa

có hoặc chưa đáp ứng nhu cầu cho hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

cấp tỉnhg. Đối với những nơi giữ nguyên địa hạt hành chính theo đơn vị cấp

cấp tỉnh hiện nay, chỉ đổi tên thành Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg mà trụ

sở vẫn đáp ứng nhu cầu trước mắt thì chưa đầu tư xây dựng mới. Đối với

những Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg tuy được hợp nhất từ 2 đơn vị Viện

kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh trở lên, nhưng trụ sở của Viện kiểm sát nhân

dân cấp cấp tỉnh nơi đóng trụ sở của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg trước

mắt có thể đáp ứng được thì tạm thời sử dụng, nếu cần thiết thì cải tạo mở

rộng để sử dụng trong một thời gian ngắn, sau đó sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng

mới theo lộ trình.

Bên cạnh đó, đối với những Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg được sáp

nhập từ 2 đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh trở lên, vì công chức

của Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh nơi không đặt trụ sở sẽ phải công tác

xa nhà, trực nghiệp vụ... nên nhà ở công vụ cần thiết phải được chuẩn bị khẩn

trương trước khi quyết định thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg.

* Về phương tiện công tác

Tất cả các Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đều cần được trang bị phương

tiện ô tô và các trang thiết bị khác để đáp ứng yêu cầu mới. Tại những đơn vị có

quy mô cán bộ lớn, địa bàn rộng, khối lượng công việc nhiều cần được trang bị

từ 2 ô tô trở lên để đáp ứng nhu cầu đi lại thường xuyên của cán bộ, kiểm sát

viên khi làm nhiệm vụ. Ngoài ra, các phương tiện làm việc, phương tiện liên lạc

118

phục vụ nhu cầu công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg cần được trang

bị theo hướng hiện đại.

* Về kinh phí hoạt động

Với mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động tổ chức lớn hơn, địa hạt tư

pháp rộng hơn, khối lượng công việc, số lượng cán bộ tập trung đông hơn,

nhu cầu sử dụng phương tiện nhiều hơn thì nhu cầu kinh phí hoạt động

thường xuyên của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg sẽ tăng thêm. Nguồn kinh

phí này cần được tính toán cụ thể cho từng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg

được phân loại theo quy mô cán bộ, khối lượng công việc, đặc điểm địa hình.

Để có thời gian chuẩn bị về cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí cho

hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg thì việc sáp nhập một số đơn

vị Viện kiểm sát nhân dân cấp cấp tỉnh vào một cấp tỉnhg không nên thực hiện

đồng loạt một lần mà giai đoạn đầu thực hiện ở những nơi có điều kiện thuận

lợi; đối với những nơi chưa đủ điều kiện thì trước mắt chuyển đổi mỗi đơn vị

cấp cấp tỉnh thành một cấp tỉnhg, khi chuẩn bị đủ điều kiện sẽ thành lập Viện

kiểm sát nhân dân cấp tỉnhg có quy mô lớn hơn.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đổi mới tổ chức và hoạt của

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng nhu cầu cải cách tư

pháp trong thời gian tới

3.3.1. Tăng cường sự Lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Lãnh

đạo trong tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông

Cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng đối với tổ

chức của VKSND, giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp,

toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ công chức, KSV trên cơ sở phát

huy vai trò người đứng đầu. trong đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa công tác cán

bộ với công tác tư tưởng, công tác tổ chức với công tác kiểm tra, giám sát để

nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, KSV. Trong quá trình thực hiện

119

nhiệm vụ, cần bám sát hướng dẫn, chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

và Tỉnh ủy. Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong Ngành để triển khai, thực

hiện tốt trong tổ chức của VKSND.

3.3.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về tổ chức của Viện kiểm

sát

- Cần bổ sung các quy định về cơ cấu tổ chức cán bộ của VKSND các

cấp theo hướng bao quát đầy đủ các đơn vị, bộ phận thuộc cơ cấu bộ máy và

cơ cấu đội ngũ công chức của VKSND ở từng cấp

- Đề nghị liên ngành tố tụng Trung ương thống nhất nội dung, các Quy

chế phối hợp trong các Ngành đồng thời hướng dẫn một cách chặt chẽ để

VKSND các cấp có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

3.3.3. Giải pháp về tăng cường sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của

Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ phận tham mưu về

tổ chức của VKSND

Tổ chức của VKSND là một công việc khó khăn, phức tạp, có thể đụng

chạm đến quyền lợi cũng như tình cảm của công chức trong ngành. Do đó,

hoạt động của bộ phận làm công tác này cần phải được quan tâm, chú trọng

hơn nữa để có thể làm việc một cách chất lượng và hiệu quả. Vì vậy, cần:

+ Lựa chọn, bố trí công chức có năng lực, trình độ và kinh nghiệm thực

tiễn, nhạy bén, sáng tạo, chuyên nghiệp trong khả năng nắm bắt, tổng hợp,

phân tích, đánh giá và dự báo tình hình, có khả năng sử dụng công nghệ thông

tin, điều phối công việc tốt cho công tác tham mưu.

+ Nghiên cứu, xây dựng chương trình đào tạo và bồi dưỡng kiến thức

về công tác lãnh đạo, quản lý và tham mưu trong ngành Kiểm sát.

- Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với tổ

chức của VKSND

120

Mặc dù phòng Thanh tra VKSND tỉnh Đắk Nông chỉ mới thành lập (từ

tháng 12/2017) nhưng có thể thấy công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám

sát đối với tổ chức của VKSND có vai trò rất quan trọng giúp đội ngũ công

chức, KSV thấy được sự quan tâm, theo dõi thường xuyên của Đảng ủy, Lãnh

đạo VKSND tỉnh Đắk Nông, từ đó tạo cho đội ngũ công chức, KSV ý thức

thường xuyên phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện bản thân đáp ứng nhiệm vụ và

có cơ hội phát triển. Do đó, cần tập trung công tác thanh tra hơn nữa, đồng

thời kiểm tra đột xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra để

phòng ngừa vi phạm; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quản lý chặt chẽ đội ngũ

cán bộ, công chức, qua đó để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm đối với công

chức vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật đồng thời gắn với trách nhiệm của

người đứng đầu cơ quan, đơn vị, lãnh đạo phụ trách không làm hết trách

nhiệm để xảy ra vi phạm phải xử lý kỷ luật. Vì vậy, quá trình thực thi công vụ

của đội ngũ công chức, KSV của tỉnh sẽ nâng cao hiệu quả.

3.3.4. Kiện toàn tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Đắk Nông

- Đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, bố trí và sử dụng

công chức, KSV trong Ngành

Trước hết, cần phải xác định rõ công chức đặc biệt cán bộ Kiểm sát là

những người làm việc trong một môi trường đặc thù, áp lực công việc cũng

như yêu cầu, trách nhiệm rất cao. Do đó, ngay từ công tác tuyển dụng công

chức, cần phải cải cách phương thức thi tuyển để có thể chọn ra được những

công chức có trình độ, hiểu biết sâu về kiến thức pháp luật cũng như kiến thức

xã hội, có khả năng về ngoại ngữ, tin học, có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh

chính trị vì những cán bộ được tuyển dụng tương lại sẽ là những Kiểm sát

viên thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa, vì vậy cần phải đặc

biệt chú trọng đến công tác sơ tuyển để đảm bảo những người sắp được

121

tuyển dụng không bị khiếm khuyết về hình thể, không nói lắp, thể hiện được

khả năng diễn thuyết, hùng biện trước đám đông, như vậy mới có thể thực

hiện tốt những nhiệm vụ được giao phó và bản lĩnh của cán bộ Kiểm sát.

Sau khi tuyển dụng sẽ đến quá trình bố trí, sử dụng công chức, do đó

cần phải tính tới sự phù hợp về năng lực, chuyên môn và phẩm chất đạo đức

của từng người để đảm bảo tính hợp lý, khoa học trong việc bố trí và sử dụng

công chức. Để thực hiện tốt khâu này, đơn vị chủ quản có thể phân công công

chức thử thách qua nhiều nhiệm vụ, nhiều khâu công tác khác nhau để tránh

việc bị đóng khung tại một khâu công tác nhất định sẽ làm giảm ý chí phấn

đấu, học hỏi cũng như gây nên tâm lý nhàm chán trong quá trình công tác.

122

Kết luận chương 3

Qua gần 10 năm toàn ngành Kiểm sát nhân dân triển khai thực hiện

Hiến pháp 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014, Quyết định, Quy chế của

Ngành các quy định khác của pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự

Đảng, Lãnh đạo VKSND tối cao, sự quan tâm của chính quyền địa phương,

Lãnh đạo đơn vị VKSND tỉnh Đắk Nông đã quán triệt đối với công chức trên

toàn tỉnh luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và các công tác mà Đảng và

Nhà nước giao phó, trên cơ sở những kết quả đạt được và những hạn chế còn

tồn tại trong tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nông, tác giả đã đưa ra một số

biện pháp cụ thể nhằm phát huy các thành tựu và khắc phục những hạn chế

thiếu sót, khó khăn để qua đó giúp cho tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nông

ngày một hoàn thiện và thực hiện một cách hiệu quả để đáp ứng được những

yêu cầu, nhiệm vụ được đặt ra trong tình hình mới.

123

KẾT LUẬN

Qua quá trình phát triển từ ngày thành lập đến nay, tổ chức của Viện

kiểm sát nhân dân đã không ngừng đổi mới, từng bước được hoàn thiện, củng

cố, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật

định. Từng bước hệ thống tổ chức, bộ máy cơ quan Viện kiểm sát các cấp đã

ði vào ổn định hoạt động theo một quy trình đồng bộ, thống nhất, đạt hiệu quả

trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Tuy nhiên, quá trình vận hành và trước những nhu cầu, nhiệm vụ mới

cho thấy cơ cấu tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã bộc lộ một

số điểm chưa hợp lý, bất cập. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân

dân cần phải có sự bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu mới.

Xuất phát từ yêu cầu tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân thành 2

cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp, trong đó trọng tâm là xây dựng Tòa án nhân dân sơ thẩm tỉnh

Đắk Nông và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, luận văn đã làm rõ

những vấn đề chung nhất về bối cảnh, quan điểm và nội dung cải cách tư

pháp, nắm vững những thành tựu và hạn chế trong tổ chức và hoạt động của

Viện kiểm sát nhân dân thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận văn đã có những lý

giải khoa học về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng mô hình đổi mới

tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông. Đồng thời, luận

văn đã chỉ ra những điểm ưu việt của mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động

này so với mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân cấp

cấp tỉnh hiện nay, đó là nâng cao vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh Đắk Nông trong hệ thống các cơ quan nhà nước; góp phần thu gọn đầu

mối các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, tạo điều kiện để Nhà nước tập trung

nguồn lực về tài chính để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang

thiết bị và phương tiện làm việc cho các cơ quan này; có điều kiện để hiện đại

124

hóa hệ thống tư pháp, bảo đảm việc đầu tư có hiệu quả, tiết kiệm ngân sách,

khắc phục được tình trạng đầu tư manh mún, dàn trải như hiện nay; tập trung

nguồn lực con người, có điều kiện để tổ chức lại nhiệm vụ theo hướng chuyên

môn hóa từng lĩnh vực, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực,

phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ và cải thiện thái độ, trách nhiệm của

cán bộ, công chức tư pháp, giúp cho người dân dễ tiếp cận với cơ quan tư

pháp và cán bộ tư pháp gần dân hơn. Bên cạnh đó, luận văn làm rõ những

thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức đặt ra đối với ngành Kiểm sát trong

việc xây dựng mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh Đắk Nông.

Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn của việc xây dựng mô

hình đổi mới tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông,

luận văn đã đưa ra một số phương hướng để xây dựng mô hình đổi mới tổ

chức và hoạt động này như đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng; đảm bảo sự giám

sát của Hội đồng nhân dân; đảm bảo quyền của người dân trong việc tiếp cận

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, đảm bảo sự đồng bộ của các cơ quan

tư pháp; hoàn thiện cơ sở pháp lý, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và cơ sở

vật chất. Trong đó, tác giả cho rằng đảm bảo quyền của người dân trong việc

tiếp cận Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông là phương hướng quan trọng

nhất khi thiết lập mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động này bởi bảo đảm quyền

con người, quyền công dân là mục tiêu trung tâm của Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa.

125

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2004), Báo cáo sơ kết hai năm triển

khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về

"một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới", Hà

Nội.

2. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp - Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(2006), Kế hoạch số 05-KH/CCTP về thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của

Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (giai đoạn 2006 -

2010) , Hà Nội.

3. Ban Nội chính Trung ương Đảng (2002), Đổi mới và tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh

chống tội phạm, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.

4. Lê Cảm (2005), "Bàn về tổ chức quyền tư pháp - nội dung cơ bản của

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Kiểm sát, (23).

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 08-11

của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các

cơ quan bảo vệ pháp luật, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban

Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21-3 của

Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực

hiện trong năm 2000, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3

126

của Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần

thực hiện trong năm 2000, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ

đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

26/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà

Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7

về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều

tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/05/2005 về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, Hà Nội.

18. Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong

cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu lập pháp, (7).

19. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Sự hạn chế quyền lực

nhà nước, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

20. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận

chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

127

21. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội

23. Nguyễn Bắc Sơn (2005), Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức

quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

Luận án Tiến sĩ, trường Đại học Kinh tế Quốc dân

24. Lại Hợp Việt (2016) “Bàn về vai trò, trách nhiệm của đơn vị và cán

bộ quản lý nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát các cấp”, Tạp chí Kiểm sát, số 14.

25. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2015), Báo cáo tổng kết

năm 2015, Đắk Nông.

26. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2016), Báo cáo tổng kết

năm 2016, Đắk Nông.

27. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2017), Báo cáo tổng kết

năm 2017, Đắk Nông.

28. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2018), Báo cáo tổng kết

năm 2018, Đắk Nông.

29. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2019), Báo cáo tổng kết

năm 2019, Đắk Nông.

30. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2020), Báo cáo tổng kết 05

năm thi hành Luật tổ chức VKSND giai đoạn 2015 – 2020, Đắk Nông.