BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM -----oOo----- DƯƠNG THỊ HIỀN GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG HIỆP ƯỚC BASEL II TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh - Năm 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM -----oOo----- DƯƠNG THỊ HIỀN GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG HIỆP ƯỚC BASEL II TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài Chính Ngân Hàng
Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS – TS PHẠM VĂN NĂNG TP. Hồ Chí Minh - Năm 2011
i
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những thông tin và
nội dung nêu trong đề tài đều dựa trên nghiên cứu thực tế và hoàn toàn đúng với
nguồn trích dẫn.
Tác giả đề tài: Dương Thị Hiền
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... vi
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................................. vi
2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................. vii
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. vii
CHƯƠNG 1: HIỆP ƯỚC BASEL II VÀ VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NHTM ................................................................................................... 1
1.1.Tổng quan về rủi ro và quản trị rủi ro của hệ thống NHTM ........................................ 1
1.1.1. Các loại rủi ro chính trong hoạt động của NHTM ............................................... 1
1.1.1.2. Rủi ro thanh khoản ...................................................................................... 1
1.1.1.3. Rủi ro thị trường.......................................................................................... 2
1.1.1.4.Rủi ro tác nghiệp .......................................................................................... 2
1.1.2. Quản trị rủi ro. Sự cần thiết của quản trị rủi ro: .................................................. 2
1.1.2.1. Quản trị rủi ro trong hoạt động NHTM: ....................................................... 2
1.1.2.2. Sự cần thiết của quản trị rủi ro trong hoạt động NHTM ............................... 4
1.2. Hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro ngân hàng ......................................................... 5
1.2.1. Hiệp ước Basel I ................................................................................................ 5
1.2.2. Bộ 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát hoạt động ngân hàng................................. 8
1.2.3. Hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro ngân hàng ............................................... 8
1.2.4. Nội dung của Basel II......................................................................................... 9
1.2.4.1. Trụ cột thứ nhất – Các yêu cầu vốn tối thiểu ................................................ 9
1.2.4.2. Trụ cột thứ hai - Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất lượng quản lý rủi ro của ngân hàng ........................................................................ 14
1.2.4.3. Trụ cột thứ ba – Tuân thủ kỷ luật thị trường .............................................. 15
1.2.5. Phạm vi và lộ trình áp dụng Basel II................................................................. 15
1.2.6. Thiếu sót của Basel I cùng những sửa đổi của Basel II so với Basel I ............... 16
1.2.7. Tính hữu ích của việc vận dụng Basel II trong quản trị rủi ro của các NHTM ... 19
Kết luận chương 1 ......................................................................................................... 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG BASEL II TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM .................................................................................... 21
2.1. Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM VN ...................................................... 21
2.2. Nhận diện rủi ro trong hoạt động của hệ thống NHTM VN hiện nay – Nguyên nhân và tác động .................................................................................................................... 27
2.2.1. Rủi ro tín dụng ................................................................................................. 27
2.3. Hoạt động quản trị rủi ro của các NHTM VN thời gian qua .................................... 33
iii
2.3.1. Quản trị rủi ro tín dụng..................................................................................... 33
2.3.2. Quản trị rủi ro thanh khoản .............................................................................. 35
2.3.3.Quản trị rủi ro ngoại hối .................................................................................... 36
2.3.4.Quản trị rủi ro lãi suất ....................................................................................... 36
2.4. Hoạt động quản trị rủi ro theo Basel II tại NHTM Việt Nam ................................... 36
2.4.1. Thực trạng ứng dụng Basel II trong hoạt động quản trị rủi ro của hệ thống NHTM VN ................................................................................................................ 36
2.4.2.1.Nội dung Basel II quá phức tạp .................................................................. 45
2.4.2.2. Chi phí thực hiện ứng dụng Basel II quá lớn .............................................. 46
2.4.2.3. Yêu cầu của Basel II về vốn khá cao ......................................................... 46
2.4.2.4. Chưa có văn bản hướng dẫn về việc thực hiện Basel II .............................. 47
2.4.2.5. NHTM VN chưa đáp ứng điều kiện của Basel II ....................................... 47
2.4.2.6. Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu .............................................. 48
2.4.2.7. Chất lượng nguồn nhân lực ....................................................................... 48
2.4.2.8. Thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp ........................... 49
2.4.2.9. Minh bạch thông tin .................................................................................. 50
2.4.2.10. Hạn chế về năng lực giám sát .................................................................. 50
2.4.2.11. Vấn đề cơ sở pháp lý nền tảng ................................................................. 52
2.4.2.12. Nhận thức của ban lãnh đạo NHTM trước những rủi ro trong hoạt động ngân hàng .............................................................................................................. 53
Kết luận chương 2 ......................................................................................................... 53
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG HIỆP ƯỚC BASEL II TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM ................. 55
3.1. Sự cần thiết ứng dụng Hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tại các NHTM VN .... 55
3.2. Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước .................................................................. 56
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật ............................................................. 56
3.2.2. Nâng cao chất lượng thông tín tín dụng ............................................................ 58
3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra kiểm soát, giám sát ngân hàng ................ 59
3.2.4. Nâng cao tính tin cậy của các tổ chức định mức tín nhiệm................................ 61
3.2.5. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các NHTM Nhà nước ................................... 61
3.2.6. Tăng tính chủ động và sức mạnh tài chính cho các NHTM ............................... 62
3.3. Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại........................................................... 64
3.3.1. Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ ................................................... 64
3.3.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ............................................................... 65
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin .......................................................................... 66
3.3.4. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin .............................................................. 67
3.3.5. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán ............................... 67
3.3.6. Khuyến khích tính chủ động, giám sát và minh bạch thông tin ......................... 68
iv
3.3.7. Cải tiến quy trình quản trị rủi ro ....................................................................... 68
Kết luận chương 3 ......................................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 71
PHỤ LỤC..................................................................................................................... 73
v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
AFTA: Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
CAR: Tỷ lệ vốn tối thiểu
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNN: Ngân hàng nhà nước
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
RWA: Tài sản có rủi ro
TCTD: Tổ chức tín dụng
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản ............................................................ 7
Bảng 1.2. Hệ số β trong phương pháp chuẩn đối với rủi ro hoạt động .................. 12
Bảng 1.3. Lộ trình hiệp ước Basel ...................................................................... 16
Bảng 1.4. So sánh điểm cơ bản giữa Hiệp ước Basel I và Basel II ...................... 18
Bảng 2.1. Thị phần tín dụng của các NHTM giai đoạn 2006-2009....................... 24
Bảng 2.2: Chỉ số CAR của NH Đầu tư và Phát triển qua các năm 2005 – 2009….52
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ PHƯƠNG TRÌNH
Phương trình 1.1 Tỷ lệ vốn tối thiểu .................................................................... 7
Phương trình 1.2 Tài sản có rủi ro (RWA) ............................................................ 7
Phương trình 1.3 Tỷ lệ vốn tối thiểu theo Basel II ................................................ 9
Phương trình 1.4 Vốn dự phòng cho rủi ro hoạt động theo phương pháp chỉ số cơ bản
............................................................................................................................ 12
Phương trình 1.5 Vốn dự phòng cho rủi ro hoạt động theo phương pháp chuẩn ... 13
Biểu đồ 2.1. Tăng trưởng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng ở các NHTM Việt
Nam từ 2004-2010 .............................................................................................. 22
vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập quốc tế sẽ mang lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ
thống tài chính nói riêng nhiều lợi ích nhưng cũng không ít rủi ro. Ngành Ngân
hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ khai thác các ngân hàng nước ngoài về vốn,
công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ … Đồng thời, tiến trình
hội nhập cũng tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính minh
bạch của hệ thống NHTM, đáp ứng các cam kết với các định chế và tổ chức
thương mại quốc tế, tạo ra nhiều thuận lợi và cơ hội cho các ngân hàng Việt Nam
phát triển thành một hệ thống ngân hàng hoạt động năng động, an toàn, hiệu quả,
phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của
hệ thống ngân hàng, các loại rủi ro đã và đang phát triển cùng với sự phát triển các
loại hình sản phẩm dịch vụ ngân hàng, trong khi đó cơ chế quản lý và hệ thống
thông tin giám sát ngân hàng còn rất đơn giản, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế,
chưa có hiệu quả và hiệu lực để bảo đảm việc tuân thủ nghiêm pháp luật về ngân
hàng và sự an toàn của hệ thống ngân hàng, nhất là trong việc ngăn chặn và cảnh
báo sớm các rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng Việt Nam
còn gặp phải một số khó khăn về mặt pháp lý, hệ thống pháp luật trong nước, thể
chế thị trường còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất quán, còn nhiều bất cập so
với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng.
Vì vậy, việc nâng cao năng lực và hiệu quả quản trị rủi ro nhằm đảm bảo
phát triển bền vững là nhiệm vụ cấp bách đối với tất cả NHTM. Cần tiếp cận với
các thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực quản trị rủi ro. Một trong những điều
ước quốc tế được các nhà quản trị ngân hàng đặc biệt quan tâm chính là hiệp ước
quốc tế về an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng – còn được biết thông dụng với
tên gọi Hiệp ước Basel, đã được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng làm chuẩn
mực để đánh giá và giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng nước mình. Hiện
nay hiệp ước Basel đã có phiên bản hai, phiên bản ba cập nhật, đổi mới một số nội
dung hơn so với phiên bản thứ nhất trước đó. Riêng đối với Việt Nam, việc ứng
dụng hiệp ước Basel trong công tác giám sát và quản trị ngân hàng vẫn còn nhiều
vii
vướng mắc, nên vẫn chỉ mới dừng lại ở việc lựa chọn một số tiêu chí đơn giản
trong phiên bản thứ nhất của hiệp ước để vận dụng và vẫn chưa tiếp cận nhiều với
phiên bản hai, phiên bản ba. Điều này thực tế cũng gây khó khăn ít nhiều cho quá
trình hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng của chúng ta. Basel II sắp tới sẽ không chỉ
có các nước phát triển áp dụng mà là cả các thị trường mới nổi, trong đó có Việt
Nam sẽ phải thực hiện những quy định chung này. Do đó, cần thiết phải nghiên
cứu các tư tưởng cơ bản của Basel để có thể vận dụng đơn giản hơn nhưng vẫn
hiệu quả cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Đó cũng chính là lý do tác giả chọn đề
tài nghiên cứu: “Giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng hiệp ước Basel II
trong quản trị rủi ro của NHTM Việt Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu giải quyết 3 vấn đề cơ bản:
Nghiên cứu các chuẩn mực và quy định trong hiệp ước Basel để làm cơ sở ứng
dụng Basel II trong quản trị rủi ro của hệ thống NHTM Việt Nam.
Phân tích tình hình hoạt động của NHTM trong thời gian qua, những vấn đề cần
lưu ý trong công tác quản trị rủi ro của các ngân hàng, để từ đó phân tích những
khó khăn mà hệ thống NHTM Việt Nam đã, đang và có thể sẽ gặp phải khi ứng
dụng Basel II.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng hiệp ước Basel II
trong quản trị rủi ro của NHTM Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trên thực tế, hiệp ước Basel II có rất nhiều quy tắc và chuẩn mực liên quan đến
quy trình giám sát hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các chuẩn mực giám sát hoạt
động của các tập đoàn tài chính – ngân hàng. Tuy nhiên, trong điều kiện nghiên
cứu của mình, đề tài chỉ giới hạn thực hiện nghiên cứu các chuẩn mực mang tính
định lượng liên quan đến an toàn vốn nhằm giúp hệ thống ngân hàng đối phó với
rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Chuẩn mực về quy trình giám
sát hoạt động của hệ thống ngân hàng và chuẩn mực về các quy tắc thị trường xin
được để lại cho phần nghiên cứu chuyên sâu hơn sau này.
viii
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp nghiên cứu
thống kê, so sánh, phân tích…đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết
và làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong luận văn.
Ngoài ra, hệ thống cơ sở dữ liệu thứ cấp cũng được sử dụng có chọn lọc nhằm giúp
đề tài có thể phân tích và đánh giá vấn đề một cách khách quan nhất. Nguồn dữ
liệu thứ cấp này chủ yếu được thu thập từ các báo cáo ngành và báo cáo thường
niên của ngân hàng Nhà nước, của các NHTM do chính tác giả tổng hợp và xử lý
theo yêu cầu của từng chuyên mục. Ngoài ra, nguồn số liệu từ các tạp chí chuyên
ngành có uy tín như Tạp chí Tài chính, tạp chí Ngân hàng, tạp chí Thị trường tiền
tệ, Thời báo Kinh tế Việt Nam và các website của cơ quan nhà nước, chính quyền
thành phố… cũng được sử dụng làm nguồn dữ liệu thứ cấp cho đề tài.
5. Nội dung đề tài
Đề tài được trình bày trong phạm vi bốn chương:
Mở đầu: Giới thiệu đề tài, bao gồm các nội dung liên quan đến việc làm rõ đối
tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu được sử
dụng trong đề tài và khả năng áp dụng đề tài trong thực tế.
Chương 1: Hiệp ước Basel II và vấn đề quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM.
Chương 2: Thực trạng ứng dụng hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro của các
NHTM Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng Hiệp ước Basel II trong quản trị
rủi ro của các NHTM Việt Nam.
6. Ý nghĩa đề tài nghiên cứu
Sau quá trình nghiên cứu và nhận được sự góp ý của các thầy cô để hoàn thiện
hơn, hy vọng rằng đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu trong lĩnh
vực giám sát và quản trị hoạt động ngân hàng.
Ngoài ra, các cơ quan thanh tra và giám sát ngân hàng nhà nước, các cơ quan chịu
trách nhiệm quản lý hoạt động của các ngân hàng thương mại cũng có thể xem xét
sử dụng những thông tin nghiên cứu của đề tài nhằm hoàn thiện hơn quy trình
thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng.
1
CHƯƠNG 1: HIỆP ƯỚC BASEL II VÀ VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NHTM
1.1.Tổng quan về rủi ro và quản trị rủi ro của hệ thống NHTM
1.1.1. Các loại rủi ro chính trong hoạt động của NHTM
Trên thực tế, rủi ro ngân hàng có thể xuất hiện tại tất cả các nghiệp vụ của ngân
hàng như: thanh toán, tín dụng, tiền gửi, ngoại tệ, đầu tư... Vì vậy, vấn đề rủi ro
ngân hàng luôn được các ngân hàng tại các nước phát triển đặc biệt chú trọng
nghiên cứu, phân tích, thậm chí ngay cả khi nền kinh tế đang rất ổn định. Rủi ro
trong hoạt động của các NHTM rất đa dạng, có thể kể ra các loại rủi ro cơ bản sau:
1.1.1.1.Rủi ro tín dụng
Là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên
thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho
ngân hàng.
Như vậy có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ
trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả
năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay,
chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh,
bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và
rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân
hàng.
1.1.1.2. Rủi ro thanh khoản
Đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả,
không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay mượn để
đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
Nói một cách khác rủi ro thanh khoản là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp
ứng các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán, hoặc vì một biến cố nào đó mà
khách hàng rút tiền ào ạt.
2
1.1.1.3. Rủi ro thị trường
Là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường
hay những biến động của thị trường làm ảnh hưởng đến lãi suất, tỷ giá ngoại hối,
giá chứng khoán mà ngân hàng đang đầu tư...Ví dụ: giảm giá các khoản đầu tư
chứng khoán.
1.1.1.4.Rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp là nguy cơ tổn thất trực tiếp hoặc gián tiếp do cán bộ ngân hàng,
quá trình xử lý và hệ thống nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động hoặc do
các sự kiện bên ngoài tác động vào hoạt động ngân hàng. Ví dụ: giao dịch viên
chọn nhầm loại tiền tệ trong chuyển tiền.
Thực tiễn ở các nước phát triển đã cho thấy tất cả các loại rủi ro nêu trên đều có
thể được nhận diện, đo lường để đưa ra các cảnh báo, từ đó xây dựng những
phương án nhằm ngăn ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất các thiệt hại rủi ro gây
ra. Để làm được điều này, các NHTM cần phải xây dựng được một hệ thống chính
sách quản lý rủi ro có hiệu quả và phải nhận thức được rằng “Quản lý rủi ro là một
quá trình liên tục cần được thực hiện ở mọi cấp độ của một tổ chức tài chính và là
yêu cầu bắt buộc để các tổ chức tài chính có thể đạt được các mục tiêu đề ra và duy
trì khả năng tồn tại và sự minh bạch về tài chính” (Trích Chính sách quản lý rủi ro
của Uỷ ban Basel).
1.1.2. Quản trị rủi ro. Sự cần thiết của quản trị rủi ro:
1.1.2.1. Quản trị rủi ro trong hoạt động NHTM:
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là những biến cố không mong đợi
mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận
thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn
thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ
thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất
mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro.
Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là việc theo dõi quá trình sử dụng vốn
của ngân hàng với nhiệm vụ chủ yếu là kiểm soát và hạn chế các loại rủi ro phát
sinh cũng như đưa ra giải pháp xử lý rủi ro hiệu quả nhất, thông qua xác định
3
tương quan hợp lý giữa vốn tự có của ngân hàng với mức độ mạo hiểm trong sử
dụng vốn của ngân hàng.
Quản trị rủi ro ngân hàng được dựa trên hàng loạt những nguyên tắc, trong đó bao
gồm 9 nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc chấp nhận rủi ro
Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép
Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt
Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập
Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính
Nguyên tắc hiệu quả kinh tế
Nguyên tắc hợp lý về thời gian
Nguyên tắc hợp lý với chiến lược chung của ngân hàng
Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép
Quản trị rủi ro bao gồm các bước: Nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi
ro, kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và tài trợ rủi ro.
- Nhận dạng rủi ro
Để quản trị rủi ro trước hết phải nhận dạng được rủi ro. Nhận dạng rủi ro là quá
trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nhận dạng rủi ro bao gồm các công việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường
hoạt động và toàn bộ mọi hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các
rủi ro, không chỉ những loại rủi ro đã và đang xảy ra, mà còn dự báo được những
dạng rủi ro mới có thể xuất hiện đối với ngân hàng, trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp kiểm soát và tài trợ rủi ro thích hợp .
Để nhận dạng rủi ro, nhà quản trị phải lập được bảng liệt kê tất cả các dạng rủi ro
đã, đang và sẽ có thể xuất hiện đối với ngân hàng bằng các phương pháp sau: lập
bảng câu hỏi nghiên cứu về rủi ro và tiến hành điều tra, phân tích các báo cáo tài
chính, phương pháp lưu đồ, thanh tra hiện trường, phân tích các hợp đồng, làm
việc với các cơ quan Nhà nước, các ban, ngành có liên quan.
- Phân tích rủi ro
4
Phân tích rủi ro là phải xác định được những nguyên nhân gây ra rủi ro. Đây là
một công việc phức tạp, bởi mỗi rủi ro không chỉ do một nguyên nhân duy nhất
gây ra mà thường do nhiều nguyên nhân gây ra.
Phân tích rủi ro là nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro. Trên cơ
sở tìm ra các nguyên nhân, tác động đến các nguyên nhân thay đổi chúng. Từ đó sẽ
phòng ngừa rủi ro.
- Đo lường rủi ro
Để đo lường rủi ro, cần thu thập số liệu và phân tích, đánh giá. Trên cơ sở kết quả
thu thập được, lập ma trận đo lường rủi ro.
Để đánh giá mức độ quan trọng của rủi ro đối với ngân hàng người ta sử dụng cả 2
tiêu chí: Tần suất xuất hiện của rủi ro và biên độ của rủi ro-mức độ nghiêm trọng
của tổn thất. Trong đó tiêu chí thứ 2 đóng vai trò quyết định.
- Kiểm soát – Phòng ngừa rủi ro
Công việc trọng tâm của công tác quản trị là kiểm soát rủi ro. Kiểm soát rủi ro là
việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt
động để ngăn ngừa, né tránh hoặc giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng
không mong đợi có thể xảy ra với ngân hàng. Có các biện pháp kiểm soát rủi ro
như: các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất, chuyển
giao rủi ro, đa dạng rủi ro, quản trị thông tin…
- Tài trợ rủi ro
Khi rủi ro đã xảy ra, trước hết cần theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về
tài sản, về nguồn nhân lực, về giá trị pháp lý. Sau đó cần có những biện pháp tài
trợ rủi ro thích hợp. Các biện pháp này được chia làm 2 nhóm: tự khắc phục rủi ro
và chuyển giao rủi ro.
1.1.2.2. Sự cần thiết của quản trị rủi ro trong hoạt động NHTM
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của NHTM.
Hoạt động ngân hàng là tất yếu khách quan và hết sức cần thiết đối với các
chủ thể và sự phát triển, ổn định chung của nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, các hoạt động ngân hàng ngày cảng mở rộng và phát triển
làm cho các NHTM trở thành người bạn đồng hành với cuộc sống của người dân
5
và doanh nghiệp. Song một khi tiến hành hoạt động kinh doanh, NHTM luôn phải
đương đầu với rủi ro, do vậy chấp nhận mở rộng và phát triển hoạt động ngân hàng
đồng nghĩa với việc xuất hiện thêm các loại rủi ro có thể xảy ra, cách chấp nhận
tích cực và hiệu quả nhất chính là thực hiện các biện pháp quản trị rủi ro.
Hiệu quả kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro xảy ra, nếu
không chú trọng củng cố và nâng cao năng lực quản trị rủi ro, các NHTM không
thể tồn tại và phát triển một cách bền vững.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị rủi ro là điều kiện quan trọng để nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.
Giữa năng lực quản trị rủi ro và hiệu quả hoạt động kinh doanh có mối quan
hệ tác động thúc đẩy lẫn nhau. Hoạt động kinh doanh được mở rộng và phát triển
là điều kiện cần thiết cho việc nâng cao doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng. Do
vậy, quản trị rủi ro tốt là điều kiện bảo đảm cho hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng và nhờ vào hiệu quả kinh doanh cao, ngân hàng có điều kiện chú trọng và
củng cố năng lực quản trị rủi ro. Quản trị rủi ro được xem là một nội dung của
quản trị kinh doanh NHTM và là một yêu cầu đối với các cấp lãnh đạo, những
người chịu trách nhiệm quản trị và điều hành ngân hàng. Vì vậy, nâng cao năng
lực quản trị rủi ro có ý nghĩa quan trọng đối với nâng cao chất lượng quản trị kinh
doanh của các NHTM.
Thứ ba, xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đòi hỏi phải nâng cao năng
lực quản trị rủi ro.
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đòi hỏi các NHTM phải nâng cao năng lực
quản trị rủi ro để đương đầu với áp lực cạnh tranh ngày càng cao hơn về phạm vi
và mức độ, hoạt động kinh doanh trong môi trường tự do bình đẳng nhưng với quy
luật hà khắc hơn, nguy cơ rủi ro cao hơn với những diễn biến phức tạp hơn.
Trong bối cảnh đó, việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các NHTM
không chỉ là vấn đề sống còn đối với bản thân mỗi ngân hàng mà còn là yêu cầu
chung để đảm bảo an toàn cho cả hệ thống tài chính mỗi quốc gia, mỗi khu vực và
trên toàn cầu.
1.2. Hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro ngân hàng
1.2.1. Hiệp ước Basel I
6
Hiệp ước Basel I được ra đời sau cuộc họp của Ủy ban Basel về giám sát hoạt
động ngân hàng vào tháng 7 năm 1988, trong đó đưa ra các chuẩn mực vốn quốc tế
và các phương pháp đo lường vốn. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm
nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là
mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Mục đích của Basel I
nhằm: củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế và thiết lập một
hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không
lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế
chung nhất về vốn và tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Basel I yêu cầu các ngân
hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với
những rủi ro có thể xảy ra. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại:
Vốn loại 1 (vốn cơ bản): Vốn loại 1 bao gồm lượng vốn dự trữ sẵn có và các
nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay.
Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): Vốn cấp 2 bao gồm tất cả các vốn khác như các khoản
lợi nhuận trên tài sản đầu tư, nợ dài hạn với kỳ hạn lớn hơn 5 năm và các khoản dự
phòng ẩn (như trợ cấp cho các khoản vay và trợ cấp cho các khoản cho thuê). Tuy
nhiên, các khoản nợ ngắn hạn không có bảo đảm không bao gồm trong định nghĩa
về vốn này.
Tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 chính là vốn tự có.
Vốn tự có phải đảm bảo các giới hạn sau: Tổng vốn cấp 2 được đưa vào tính toán
tỷ lệ đủ vốn không được quá 100% vốn cấp 1; nợ thứ cấp tối đa bằng 50% vốn cấp
1; dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tài sản có rủi ro; dự trữ tài sản đánh giá lại
được chiết khấu 55%; thời gian đáo hạn còn lại của nợ thứ cấp tối thiểu là 5 năm;
vốn ngân hàng không bao gồm vốn vô hình (goodwill).
Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối thiểu cần
có để bù đắp cho rủi ro. Thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng
trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ
rủi ro tín dụng, và vì vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định
là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một
ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi ro tín dụng của ngân hàng đó.
7
Phương trình 1.1
Tỷ lệ vốn tối thiểu (cid:4666)CAR(cid:4667) (cid:3404) (cid:1846)ổ(cid:1866)(cid:1859) (cid:1874)ố(cid:1866) (cid:1872)à(cid:1861) (cid:1871)ả(cid:1866) (cid:1855)ó (cid:1870)ủ(cid:1861) (cid:1870)(cid:1867)
Phương trình 1.2
Tài sản có rủi ro (RWA)= Tài sản* Trọng số rủi ro
Theo đó, các trọng số rủi ro khác nhau với các loại tài sản khác nhau sẽ cho ra
những yêu cầu về vốn khác nhau như bảng sau:
Bảng 1.1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản
Trọng số rủi ro Phân loại tài sản
Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng. 0% Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính.
Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn 20% Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước
50% Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh
100% nghiệp, các khoản nợ từ các nước kém phát triển, các
khoản vay thế chấp cổ phiếu, bất động sản,…
Theo biến đổi của thị trường, năm 1996, Hiệp ước Basel I được sửa đổi có tính đến
rủi ro thị trường. Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và
rủi ro thị trường cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá
trị thị trường do có sự biến động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là
những thay đổi về giá trị của một loại tài sản nhất định. Có bốn loại biến số kinh tế
làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, chứng khoán và
hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính theo hai phương thức hoặc là bằng mô
hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu rủi ro nội bộ của các
ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu ngân hàng thoả
mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định trong Basel.
8
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996
vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã
không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ
ngày càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
1.2.2. Bộ 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát hoạt động ngân hàng
Để bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của các TCTD, đặc biệt là đối với
những tập đoàn ngân hàng lớn có phạm vi hoạt động quốc tế, từ năm 1999, Uỷ ban
Basel đã đề ra 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu. Bộ nguyên
tắc cơ bản bao hàm một số nội dung chủ yếu liên quan đến việc giám sát ngân
hàng, bao gồm:
- Nguyên tắc về điều kiện cho việc giám sát ngân hàng hiệu quả: nguyên tắc 1.
- Nguyên tắc về cấp phép và cơ cấu: từ nguyên tắc 2 đến 5.
- Nguyên tắc về quy định và yêu cầu thận trọng: từ nguyên tắc 6 đến 15.
- Nguyên tắc về giám sát hoạt động ngân hàng: từ nguyên tắc 16 đến 20.
- Nguyên tắc về yêu cầu thông tin: nguyên tắc 21.
- Nguyên tắc về quyền hạn hợp pháp của chuyên gia giám sát: nguyên tắc 22.
- Nguyên tắc về ngân hàng xuyên biên giới: từ nguyên tắc 23đến 25.
Chi tiết các nội dung trong Bộ 25 nguyên tắc về giám sát ngân hàng hiệu quả (xem
phần phụ lục)
1.2.3. Hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro ngân hàng
Xu thế phát triển hiện nay là các ngân hàng dần dần sáp nhập với nhau để tạo
thành những tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh cao và có tiềm lực mạnh về tài
chính, công nghệ, các ngân hàng không chỉ hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế, mở rộng mạng lưới ngân hàng dưới hình thức
hoạt động của ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy, một số qui định trong Basel I đã
không còn phù hợp khi áp dụng tại những ngân hàng này, đòi hỏi phải có một sự
cải tiến toàn diện trong việc xây dựng các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro và
giám sát hoạt động ngân hàng.
Trước đòi hỏi của xu hướng phát triển này, để bảo đảm an toàn trong hoạt động
ngân hàng của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân hàng
lớn có phạm vi hoạt động quốc tế, Basel II đã ra đời. Đây là hiệp ước quốc tế về
9
tiêu chuẩn an toàn vốn, tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc
khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Nó được xem là giải pháp
nâng cao các chuẩn mực hoạt động ngân hàng nói chung với những yêu cầu về
quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường.
1.2.4. Nội dung của Basel II
Basel II bao gồm ba trụ cột:
1.2.4.1. Trụ cột thứ nhất – Các yêu cầu vốn tối thiểu
Hiệp ước Basel II tạo một bước hoàn thiện hơn trong việc xác định tỷ lệ an toàn
vốn nhằm khắc phục các hạn chế của Basel I và khuyến khích các ngân hàng thực
hiện phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến hơn.
Phương trình 1.3
Tỉ lệ vốn tối thiểu (cid:3404) Tổng vốn tự có (cid:4666)giống Basle I(cid:4667) RR tín dụng (cid:3397) RR thị trường (cid:3397) RR hoạt động
Vốn tự có: vẫn được định nghĩa như trong hiệp ước Basel 1988
Tài sản có rủi ro: Tổng tài sản có rủi ro được xác định bằng cách lấy nhu cầu vốn
đối với rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động nhân với 12.5 (điều này tương đương
với việc là tỷ lệ vốn tối thiểu bằng 8%) cộng với kết quả tính toán của tài sản có rủi
ro xét đối với rủi ro tín dụng.
Các phương pháp đo lường rủi ro: bao gồm:
• Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng
- Phương pháp chuẩn hóa (Standardized): tài sản có rủi ro (RWA) được áp dung
các hệ số rủi ro khác nhau do tổ chức xếp hạng quy định.
- Phương pháp dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ cơ bản (F-IRB): tài sản có rủi ro
được tính dựa trên những dữ liệu nội bộ về xác suất vỡ nợ (PD-probability of
default) và tổn thất ước tính (LGD-loss given default).
- Phương pháp dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ tiên tiến (A-IRB): tài sản có rủi
ro được tính dựa trên PD và LGD từ dữ liệu nội bộ nhưng cách tính phức tạp hơn.
Phương pháp IRB này là một trong những nhân tố rất mới và đặc biệt của Basel II,
cho phép tự bản thân các ngân hàng quyết định và ước tính những thành tố trong
công thức tính toán nhu cầu vốn của họ. Từ đó, hệ số rủi ro hay phần tỉ lệ vốn sẽ
quyết định thông qua sự kết hợp của các yếu tố đầu vào định lượng do cả ngân
10
hàng lẫn cơ quan giám sát đưa ra cũng như các hàm số rủi ro được chỉ định bởi cơ
quan giám sát. Phương pháp luận mới này phù hợp cho ngân hàng với nhiều quy
mô khác nhau, nhiều cấu trúc doanh nghiệp khác nhau và danh mục rủi ro khác
nhau.
• Các phương pháp đo lường rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường theo Ủy ban Basel đó là rủi ro xảy ra sự mất mát trong trạng thái
giao dịch khi giá cả biến động thất thường. Thông thường rủi ro thị trường sẽ gắn
liền với bốn loại rủi ro cơ bản trên các giao dịch sổ sách đó là rủi ro lãi suất, trạng
thái vốn, rủi ro tỷ giá và rủi ro hàng hoá.
Vốn tự có theo quy định của Basel I bao gồm vốn cổ phần và lợi nhuận giữ lại
(vốn cấp 1) & vốn bổ sung vốn cơ bản (vốn cấp 2). Tuy nhiên, quy định của Basel
II khi đánh giá rủi ro thị trường cho phép các ngân hàng tính thêm phần vốn cấp 3
(tier 3) gồm các khoản nợ phụ thuộc ngắn hạn với mục đích dự trữ. Theo đó, các
ngân hàng chỉ được sử dụng vốn cấp 3 để đối phó với rủi ro thị trường, còn các
loại rủi ro tín dụng và rủi ro gây ra từ phía đối tác chỉ được xem xét trong phạm vi
vốn tự có theo quy định của Basel I. Vốn cấp 3 này bị giới hạn 250% vốn cấp 1
dùng để đối phó với rủi ro thị trường. Có nghĩa là có thể chỉ có 28.5% rủi ro thị
trường cần vốn cấp 1 đảm bảo. Nếu có vốn cấp 2 bảo đảm cho rủi ro thị trường,
vốn cấp 3 cũng bị chi phối theo tỷ lệ giới hạn 250% vốn cấp 2.
Việc tính toán yêu cầu vốn đối với rủi ro thị trường được thực hiện bằng cách lấy
phần ước tính rủi ro thị trường nhân với 12.5 và cộng vào kết quả tổng tài sản có
rủi ro tương ứng với rủi ro tín dụng. Rủi ro thị trường được đo lường phổ biến
bằng giá trị VaR (value-at-risk).
• Phương pháp chuẩn
Yêu cầu vốn đối phó với rủi ro thị trường theo phương pháp chuẩn sẽ được xem
xét đối với từng yếu tố rủi ro bao gồm: rủi ro lãi suất, rủi ro trạng thái vốn, rủi ro tỷ
giá và rủi ro hàng hóa. Các quy định cụ thể về cách tính toán yêu cầu vốn tối thiểu
đối phó với bốn loại rủi ro này theo phương pháp chuẩn được quy định chi tiết
trong phần A (từ A1 đến A5) của tài liệu “Amendment to the Capital Accord to
incorporate market risks” do Ủy ban Basel thông qua vào tháng 11 năm 2005.
11
Đối với rủi ro tỷ giá, các ngân hàng sẽ theo dõi trạng thái ròng đối với mỗi loại tiền
bằng cách tổng hợp trạng thái các giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn, giao dịch
bảo đảm, vị thế thu nhập/chi phí của giao dịch giao sau…Riêng đối với các rủi ro
tỷ giá trên một danh mục các loại tiền kể cả vàng cho phép ngân hàng lựa chọn
giữa phương pháp truyền thống với phương pháp “shorthand” (trao tay) trong đó
xem xét tất cả loại tiền như nhau
• Phương pháp mô hình nội bộ
Để có thể sử dụng phương pháp mô hình nội bộ khi đánh giá rủi ro thị trường, các
ngân hàng thương mại cần được sự chấp thuận từ phía cơ quan giám sát ngân
hàng.
Yêu cầu tối thiểu mà mỗi ngân hàng phải đáp ứng bao gồm:
- Phải có hệ thống quản trị rủi ro tương thích, hiện đại và đầy đủ dữ liệu cần
thiết.
- Có đủ số lượng chuyên viên được trang bị kỹ năng sử dụng các mô hình
phức tạp không chỉ trong giao dịch mà còn trong quản trị rủi ro, kiểm toán. Mô
hình của ngân hàng được cơ quan giám sát đánh giá có chất lượng, đã qua kiểm
định về tính hợp lý và chính xác khi đo lường rủi ro.
Một khi đã được chấp thuận thực hiện phương pháp mô hình nội bộ, các ngân hàng
sẽ xây dựng mô hình quản trị rủi ro theo các tiêu chuẩn như:
Đối với rủi ro lãi suất, phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất của
mỗi đồng tiền liên quan đến danh mục đầu tư của ngân hàng trên cơ sở nhạy cảm
rủi ro lãi suất kể cả các khoản mục trong và ngoài bảng cân đối kế toán.
Đối với rủi ro tỷ giá (bao gồm cả biến động giá vàng), hệ thống quản trị rủi ro phải
kết hợp các nhân tố rủi ro liên quan đến từng loại tiền riêng lẻ
Đối với sự biến động giá cả của các loại hàng hóa: ít nhất phải thiết kế được hệ
thống theo dõi biến động giá cả loại hàng hóa đó trên phạm vi thế giới, vị thế mua
bán hoặc lời lỗ đối với từng giao dịch liên quan đến sự biến động này.
Trên cơ sở những tiêu chuẩn về mô hình quản trị rủi ro này, các ngân hàng sẽ xác
định được giá trị VaR của mỗi giao dịch, của các danh mục và của toàn bộ hoạt
động ngân hàng. Độ tin cậy của việc tính toán này theo yêu cầu phải đạt tối thiểu
99%.
12
• Các phương pháp đo lường rủi ro hoạt động
Các ngân hàng được lựa chọn một trong ba cách tính nhu cầu vốn cần thiết đối phó
rủi ro hoạt động với mức độ phức tạp và nhạy cảm với rủi ro tăng dần bao gồm:
Phương pháp chỉ số cơ bản (BIA – The Basic Indicator Approach);
Phương pháp chuẩn (The Standard Approach);
Phương pháp nâng cao (AMA – Advanced Measurement Approaches).
• Phương pháp chỉ số cơ bản BIA:
Theo phương pháp chỉ số cơ bản, để tính toán lượng vốn tối thiểu cần đảm bảo đối
với rủi ro hoạt động, ngân hàng lấy tổng thu nhập bình quân hàng năm trong 3 năm
gần nhất nhân với 0,15 (hệ số này do Uỷ ban Basel qui định, thể hiện tương quan
giữa mức vốn tối thiểu chung của toàn hệ thống với mức chỉ số chung của toàn hệ
thống). Tổng thu nhập này bằng thu nhập thuần từ tiền lãi cộng với thu nhập thuần
không phải từ tiền lãi, là thu nhập trước khi trích lập dự phòng, không bao gồm các
khoản lỗ/lãi thu được từ kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và các khoản thu nhập
bất thường. Công thức tính hệ số vốn KBIA như sau:
Phương trình 1.4
(cid:2780) (cid:1785)(cid:2886)(cid:2893)(cid:2885) (cid:3404) ∑ (cid:1814)(cid:2880)(cid:2778)
(cid:1781)(cid:1783)(cid:1814) (cid:1814)
∗ (cid:2745)
KBIA: yêu cầu vốn tính theo phương pháp BIA
GI: lợi nhuận ròng bình quân hàng năm (> 0), qua 3 năm trước đó
n: số lần 3 năm có lợi nhuận ròng > 0
α = 15%, do Ủy ban qui định • Phương pháp chuẩn
Áp dụng theo phương pháp chuẩn, hoạt động ngân hàng được chia làm 8 nhóm
nghiệp vụ bao gồm: tài trợ doanh nghiệp, bán hàng và giao dịch, nghiệp vụ ngân
hàng bán lẻ, nghiệp vụ ngân hàng thương mại, dịch vụ thanh toán, dịch vụ đại lý,
quản trị tài sản và môi giới. Trong mỗi nhóm, lợi nhuận gộp là một chỉ số phổ biến
coi như một thước đo cho hoạt động và như vậy cũng là căn cứ xác định mức độ
rủi ro hoạt động. Yêu cầu vốn được tính toán bằng cách nhân lợi nhuận gộp này
với một hệ số (gọi là beta) tương ứng với từng nhóm. Hệ số beta này đại diện cho
mối quan hệ về độ mở của ngành công nghiệp giữa thiệt hại từ rủi ro hoạt động với
từng nhóm nghiệp vụ và tổng thể lợi nhuận gộp của nhóm đó. Cần chú ý rằng
13
trong phương pháp chuẩn, lợi nhuận gộp được đo cho từng loại nghiệp vụ chứ
không phải theo từng loại tổ chức. Lượng vốn tối thiểu đối với rủi ro hoạt động của
toàn ngân hàng sẽ bằng tổng vốn tối thiểu của từng lĩnh vực kinh doanh; tương
quan giữa mức vốn cần có với mức thu nhập của từng lĩnh vực kinh doanh.
Tổng yêu cầu vốn được tính theo phương pháp cộng giản đơn yêu cầu vốn trung
bình từng 3 năm một cho mỗi loại nghiệp vụ trong mỗi năm. Tổng yêu cầu vốn có
thể mô tả như sau :
Phương trình 1.5
KTSA = ∑ (GI1-8 x β 1-8)
Trong đó
KTSA là yêu cầu vốn theo phương pháp chuẩn
GI1-8 lợi nhuận gộp trong năm cho trước, định nghĩa giống như phương pháp
BIA đối với từng nhóm nghiệp vụ trong số 8 nhóm
β1-8 tỷ lệ phần trăm cố định do Ủy ban Basel đưa ra liên quan đến mức độ vốn
yêu cầu cho từng mức độ lợi nhuận ròng đối với mỗi nhóm nghiệp vụ. Giá trị của β
được cho ở bảng sau :
Bảng 1.2. Hệ số β trong phương pháp chuẩn đối với rủi ro hoạt động
Nghiệp vụ Hệ số beta (β)
Tài trợ doanh nghiệp (β1) 18%
Giao dịch và bán hàng (β2) 18%
Ngân hàng bán lẻ (β3) 12%
Nghiệp vụ ngân hàng thương mại (β4) 15%
Dịch vụ thanh toán (β5) 18%
Dịch vụ đại lý (β6) 15%
Quản trị tài sản (β7) 12%
Môi giới (β8) 12%
Nguồn: Theo Basel 2004, p14017 • Phương pháp đo lường nâng cao
Theo phương pháp này, mức vốn tối thiểu ngân hàng cần duy trì sẽ tương
đương với mức rủi ro mà ngân hàng tính toán được bằng hệ thống đo lường rủi ro
14
hoạt động nội bộ của ngân hàng. Tuy nhiên, để áp dụng phương pháp này, một
ngân hàng phải đảm bảo các tiêu chuẩn định tính và định lượng do Uỷ ban đề ra và
phải được cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng chấp thuận.
Khi hoạt động của ngân hàng càng phức tạp thì cần phải áp dụng phương pháp có
độ phức tạp cao hơn, đồng thời không cho phép các ngân hàng chuyển ngược trở
lại phương pháp đơn giản một khi đã được chấp thuận sử dụng các phương pháp
nâng cao. Ngược lại, nếu các ngân hàng được đánh giá là không đủ điều kiện để
tiếp tục sử dụng phương pháp nâng cao thì cần phải quay trở về phương pháp cơ
bản cho đến khi đáp ứng được những yêu cầu này.
1.2.4.2. Trụ cột thứ hai - Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc
đánh giá chất lượng quản lý rủi ro của ngân hàng
Trụ cột này tập trung vào việc xây dựng hệ thống quản lý rủi ro. Quy trình kiểm tra
kiểm soát trong Basel II không chỉ để đảm bảo rằng ngân hàng có đủ vốn để giải
quyết tất cả các rủi ro trong hoạt động kinh doanh mà còn khuyến khích ngân hàng
phát triển và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro tốt hơn trong việc kiểm soát và
quản lý các rủi ro.
Bốn nguyên tắc chính của trụ cột II:
Nguyên tắc 1: các ngân hàng cần có một quy trình đánh giá mức độ vốn nội bộ
theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược duy trì mức vốn của họ.
Trong nội dung này, quản lý ngân hàng phải gánh trách nhiệm cơ bản đối với việc
khẳng định rằng ngân hàng có vốn để hỗ trợ các rủi ro xảy ra. Quá trình quản lý rủi
ro ngân hàng bao gồm các nội dung sau: giám sát quản lý của ban giám đốc và cấp
cao; đánh giá vốn chắc chắn; đánh giá về rủi ro toàn diện, thanh tra và báo cáo;
kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Nguyên tắc 2: các tổ chức giám sát cần rà soát, kiểm tra và đánh giá lại quy trình
đánh giá về yêu cầu vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng
của họ để thanh tra và khẳng định sự tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Các tổ chức giám
sát cần thực hiện hành động giám sát phù hợp nếu các ngân hàng không hài lòng
với kết quả của quy trình này. Các tổ chức giám sát cần kiểm tra các nội dung sau:
kiểm tra tính đầy đủ vốn của các đánh giá rủi ro, đánh giá về tính đầy đủ vốn, đánh
15
giá về môi trường kiểm soát, kiểm tra giám sát về sự tuân thủ các tiêu chuẩn tối
thiểu, đáp ứng giám sát.
Nguyên tắc 3: các tổ chức giám sát cần kỳ vọng các ngân hàng hoạt động trên các
tỷ lệ vốn yêu cầu tối thiểu và khuyến nghị ngân hàng cần duy trì mức vốn cao hơn
mức tối thiểu theo quy định.
Nguyên tắc 4: các tổ chức giám sát sẽ tìm cách thâm nhập vào những giai đoạn đầu
tiên để ngăn chặn mức vốn giảm xống dưới mức tối thiểu và có thể yêu cầu sửa đổi
ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
1.2.4.3. Trụ cột thứ ba – Tuân thủ kỷ luật thị trường
Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc
thị trường.Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các
ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy
đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi
ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng
đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa
ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách
minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy
vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
1.2.5. Phạm vi và lộ trình áp dụng Basel II
Hiệp ước Basel II được xác định là có khả năng áp dụng cho các ngân hàng và tổ
chức quốc tế trên cơ sở hợp nhất hoặc sáp nhập. Nghĩa là hiệp ước này nhằm bảo
toàn vốn tốt nhất cho các ngân hàng có nhiều công ty con hoặc chi nhánh.
Đối với các ngân hàng chưa đáp ứng được những yêu cầu do hiệp ước Basel II chỉ
định ra bao gồm cấp độ về tập đoàn ngân hàng, hoạt động ngân hàng mang tính
quốc tế hoặc trên cơ sở hợp nhất, sáp nhập thì sẽ có lộ trình 3 năm để chuẩn bị
những điều kiện đầy đủ trước khi áp dụng theo hiệp ước Basel II. Ngoài ra, vì một
trong những mục tiêu quan trọng của việc giám sát theo chuẩn mực của hiệp ước
Basel là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền nên cần phải luôn chắc rằng những
cách đo lường và tính toán về vốn tối thiểu đảm bảo sẵn sàng cho nhu cầu của
16
người gửi tiền. Theo đó, những thành viên chịu trách nhiệm giám sát hoạt động
ngân hàng cần phải kiểm tra thường xuyên các ngân hàng tư nhân, ngân hàng đơn lẻ.
Bảng 1.3. Lộ trình hiệp ước Basel
Tháng 7/1988 Basel I được ban hành
Cuối năm 1992 Hoàn tất văn bản hướng dẫn & triển khai Basle I
Tháng 6/1999 Basel II được công bố với phần cẩm nang thứ nhất
Tháng 1/2001 Phần cẩm nang thứ hai (Second Consultative Package
Cuối tháng 5/2001 Thời hạn cuối cùng để các đơn vị gửi ý kiến
Cuối năm 2001 Thời hạn cuối cùng để các đơn vị gửi ý kiến
Cuối năm 2004 Hoàn tất việc triển khai & hướng dẫn Basel II
Cuối năm 2006 Đưa vào áp dụng đầy đủ cho các ngân hàng đủ tiêu
chuẩn (các quốc gia thuộc nhóm OECD)
Nguồn: The New Basel Capital Accord: an explanatory note, January 2001
1.2.6. Thiếu sót của Basel I cùng những sửa đổi của Basel II so với Basel I
Mặc dù Basel I đã giúp quản trị ngân hàng hiệu quả hơn, đảm bảo khả năng chống
đỡ của ngân hàng với rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên qua quá trình dài áp dụng với xu
thế phát triển như vũ bão của hệ thống ngân hàng trên thế giới thì Basel I với bản
sửa đổi năm 1996 vẫn có nhiều điểm hạn chế:
Thứ nhất, phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số rủi ro chưa
chi tiết cho rủi ro theo đối tác (ví dụ khả năng tài chính của khách hàng) hoặc theo
đặc điểm của khoản tín dụng (ví dụ như theo thời hạn). Điều này chỉ ra rằng có thể
các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng có thể đang đối mặt với các loại rủi
ro khác nhau, ở mức độ khác nhau.
Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lý thuyết về
đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Tuy nhiên
theo Basel I, quy định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt
động kinh doanh đa dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (
nhiều rủi ro hơn). Một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một
17
danh mục đầu tư được đa dạng hóa, với cùng một giá trị ( ví dụ không có sự khác
biệt nào giữa một khoản vay $100 và 100 khoản vay $1).
Thứ ba, Việc quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% mới chỉ giúp đảm bảo an toàn
cho rủi ro tín dụng, trong khi bỏ qua các loại rủi ro khác đang ngày càng trở nên
quan trọng đối với NHTM như: rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động.
Những sửa đổi của Basel II so với Basel I:
So với hiệp ước Basel I, Basel II được xem là thể hiện một sự linh động hơn đối với
việc xử lý các tình huống khác nhau để xác định nhu cầu vốn tối thiểu cho từng khoản
mục tài sản có rủi ro của các ngân hàng thương mại, đồng thời những tiêu chuẩn do
hiệp ước Basel II đưa ra cũng có mức độ nhạy cảm hơn với rủi ro thông qua xử lý các
biến xác suất và kỳ vọng. Hiệp ước Basel II tạo một bước hoàn thiện hơn trong việc
xác định tỷ lệ an toàn vốn nhằm khắc phục các hạn chế của Basel I và khuyến khích
các ngân hàng thực hiện phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến hơn.
Hiệp ước Basel II đưa ra một loạt các phương án lựa chọn, cho phép quyền tự
quyết rất lớn trong giám sát hoạt động ngân hàng. Hiệp ước Basel II bao gồm một
loạt các chuẩn mực giám sát nhằm hoàn thiện các kỹ thuật quản trị rủi ro và được
cấu trúc theo 3 cấp độ:
Cấp độ I (Pillar I): Quy định yêu cầu tỷ lệ vốn tối thiểu đối với rủi ro tín dụng và
rủi ro hoạt động
Cấp độ II (Pillar II): Đưa ra các hướng dẫn liên quan đến quá trình giám sát
Cấp độ III (Pillar III): Yêu cầu các ngân hàng cung cấp thông tin cơ bản liên quan
đến vốn, rủi ro để đảm bảo khuyến khích các nguyên tắc của thị trường
Xét về phạm vi áp dụng nói chung của Basel II sẽ rộng hơn so với Basel I, bao
gồm không chỉ các ngân hàng quốc tế mà cả các công ty mẹ, hay thay đổi định
nghĩa về tài sản điều chỉnh theo rủi ro. Đối với rủi ro tín dụng, nếu như Basel I đưa
ra một phương pháp chung thì Basel II lại đưa ra các lựa chọn.
Ưu điểm của Basel II so với Basel I
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy
nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các
phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát
và kỷ luật trên nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc
18
gia được tăng lên bởi họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến
đặc điểm rủi ro cụ thể của nó.
- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả
các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các
biện pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
- Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm
hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng
lên và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách
rủi ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-
operation and Development). Basel II quy định từ 0 – 150 hoặc hơn và không có
đặc quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa
nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ,
đảm bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
Bảng 1.4. So sánh điểm cơ bản giữa Hiệp ước Basel I và Basel II
Hiệp ước Basel I Hiệp ước Basel II
Cấu trúc và nội Yêu cầu vốn tối thiểu Ba cột trụ nhấn mạnh hơn về phương
dung pháp luận nội bộ của ngân hàng, xem xét
đánh giá, và quy luật thị trường
Tính linh động Một quy định cho tất cả Linh hoạt hơn, một loạt các cách tiếp
cận, khuyến khích quản lý rủi ro tốt hơn của ứng dụng
Đo đạc rủi ro quá sơ bộ Nhạy cảm hơn với rủi ro
Nhạy cảm với rủi ro
Trọng số rủi ro
0~100, ưu đãi hơn với các nước OECD
0~150 hoặc hơn, không có đặc quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài
Chỉ hỗ trợ và đảm bảo Nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo,
phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế Kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng
19
1.2.7. Tính hữu ích của việc vận dụng Basel II trong quản trị rủi ro của các
NHTM
Hiệp ước Basel II là một loạt các quy tắc nhằm điều chỉnh hoạt động ngân hàng đa
quốc gia. Ngày nay, dường như không một ngân hàng nào có thể tách rời mà
không có mối liên hệ với các ngân hàng trên thế giới. Do vậy, hiểu biết và áp dụng
những quy định Basel II là rất quan trọng đối với sự phát triển và hoạt động của
các ngân hàng.
Trong xu thế hội nhập và tự do hóa hoạt động ngân hàng với nhiều loại hình dịch
vụ ngân hàng mới, áp dụng Basel II là yêu cầu cấp thiết và bắt buộc đối với mọi
NHTM, trên cơ sở đó sẽ tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro.
Với sự phát triển của thị trường vốn và yêu cầu của hội nhập quốc tế, nguồn thông
tin về các ngân hàng ngày càng công khai và minh bạch, việc tăng vốn ngày càng
khó khăn hơn, đòi hỏi mỗi ngân hàng phải quan tâm đặc biệt đến hiệu quả sử dụng
vốn và khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng, càng mở rộng qui mô và loại hình
dịch vụ thì ngân hàng càng phải chủ động trong việc đối mặt với rủi ro. Trong khi
hoạt động ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng lo ngại do hệ thống quản trị
điều hành và quản trị kinh doanh của các NHTM còn nhiều yếu kém, các ngân
hàng cần thường xuyên đánh giá thực trạng tình hình tài chính để kịp thời có biện
điều chỉnh và can thiệp cần thiết, qua đó có thể ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro.
Các ngân hàng có đủ vốn và được quản lý rủi ro tốt sẽ: ổn định hơn và có khả năng
trụ vững trong những thời kỳ suy thoái, làm cho khu vực tài chính phản ứng tốt
hơn và ít nhạy cảm hơn với chu kỳ kinh tế, cho phép khu vực tài chính hoạt động
tốt hơn như một căn cứ cho sự phát triển bền vững của cả nền kinh tế.
Ứng dụng Basel II giúp các ngân hàng quản trị rủi ro tốt hơn: sử dụng ít vốn một
cách tiềm năng để bù đắp các rủi ro, quản lý kinh doanh tốt hơn, quản lý vốn hiệu
quả hơn, nâng cao lợi nhuận trên vốn.
Kết luận chương 1
Sự ra đời của Hiệp ước Basel đã giúp các ngân hàng thương mại cũng như cơ quan
giám sát của các ngân hàng có thêm nhiều sự lựa chọn để xây dựng và thiết lập hệ
thống quản trị rủi ro của mình. Những phương pháp như phương pháp
chuẩn,phương pháp IRB cơ bản và nâng cao, phương pháp chỉ số cơ bản, phương
20
pháp mô hình nội bộ, phương pháp nâng cao đã trở nên quen thuộc tại nhiều quốc
gia, trở thành những công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc quản trị rủi ro hiệu quả, giúp
hạn chế phần nào tổn thất trong quá trình hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại.
Trên cơ sở nghiên cứu những chuẩn mực trong hiệp ước Basel, phần tiếp theo sau
đây sẽ tiến hành tìm hiểu việc ứng dụng Basel trong hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam, đồng thời phân tích khó khăn mà các ngân hàng gặp phải trong quá
trình ứng dụng.
21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG BASEL II TRONG
QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
2.1. Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM VN
Hệ thống NHTM là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt
Nam. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống NHTMVN không ngừng
đổi mới, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, tạo mọi điều kiện thuận lợi đáp ứng
đầy đủ các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế. Các
NHTM ngày càng phát triển mạnh và đa dạng dưới hình thức NHTM quốc doanh,
NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
• Số lượng các ngân hàng ngày càng tăng
Bước sang năm 2011, mọi rào cản đối với các ngân hàng nước ngoài theo cam kết
khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) năm 2007 được tháo bỏ.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc khuyến khích và thu hút
đầu tư nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cấp giấy phép hoạt động cho
các tổ chức tài chính và ngân hàng của nhiều nước vào Việt Nam để hoạt động.
Năm 2010 chứng kiến sự mở rộng qui mô và phạm vi hoạt động của các ngân hàng
ngoại tại Việt Nam. Sau một thời gian ngắn, các ngân hàng này hoạt động đều hiệu
quả và đang có những tín hiệu khác cho thấy, các ngân hàng ngoại bắt đầu “xâm
chiếm” sang lĩnh vực khách nội. Áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt với các ngân
hàng ngoại sẽ là “cú hích” cho sự phát triển của các ngân hàng Việt Nam nếu
không muốn bị thua trên sân nhà.
Hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài trên thị trường Việt
Nam đang ngày càng mở rộng, nhất là từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Đến
nay, có 5 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 48 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, 8 công ty cho thuê tài chính, 56 văn phòng đại diện nước
ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Các tổ chức này đều là những ngân hàng và tổ
chức tài chính lớn, có uy tín và độ an toàn cao, có khả năng cạnh tranh tốt. Mặc dù
thị phần hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) nước ngoài vẫn còn ở mức
22
khiêm tốn (khoảng 10%), nhưng có vị trí quan trọng trong hệ thống các định chế
tài chính tại Việt Nam. Các TCTD nước ngoài là kênh truyền dẫn vào Việt Nam
các công nghệ ngân hàng hiện đại và kinh nghiệm quản trị ngân hàng tiên tiến,
đồng thời bổ sung nguồn tài chính không nhỏ cho thị trường tài chính Việt Nam.
Năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã phát triển 14 chi nhánh trên cả nước. Bên
cạnh đó là thường xuyên tung ra những sản phẩm, dịch vụ với nhiều tiện ích. Chẳng
hạn tại Ngân hàng HSBC, mạng lưới dịch vụ đã mở rộng từ hai chi nhánh trong năm
2009 lên 12 điểm giao dịch, đã đáp ứng nhu cầu của các khách hàng cá nhân và khách
hàng doanh nghiệp với các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thuận tiện và đạt chất
lượng hàng đầu. Hiện Ngân hàng HSBC Việt Nam đã có hơn 1.300 nhân viên làm
việc tại tất cả các vị trí, so với con số hơn 1.000 nhân viên vào năm trước.
• Tình hình huy động vốn
Từ những năm 90, lượng vốn huy động qua hệ thống NHTM tăng trưởng không
ngừng với tốc độ nhanh và vững chắc. Lượng vốn huy động của toàn hệ thống qua
các năm đều tăng với mức trung bình từ 25-30%/năm.
Huy động vốn của các NHTM có tăng trưởng khá qua các năm (trừ năm 2008, có
giảm sút, do tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) do việc đa dạng hóa
sản phẩm huy động và phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch. Măc dù có
mạng lưới rộng và thương hiệu mạnh, được người dân biết đến, nhưng tốc độ tăng
trưởng về huy động vốn của các NHTM CP có sự bứt phá mạnh, thị phần đã tăng
lên 31,23% so với 21,3% năm 2006, khiến cho thị phần của các NHTM NN giảm.
Biểu đồ 2.1 : Tăng trưởng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng ở VN
Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNN
23
• Hoạt động tín dụng
Các NHTM NN vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn, đặc
biệt trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế, của các doanh nghiệp. Chính họ là
kênh chuyển tải nhanh nhất các cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho các
thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển.
Hoạt động cho vay có tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí còn tăng nóng trong năm
2007 và năm 2008, một số NHTM CP có tốc độ tăng từ 60% trở lên. Năm 2009
với biết bao gánh nặng đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Gánh nặng từ cuộc
khủng hoảng bên ngoài, gánh nặng từ trách nhiệm mà Chính phủ đặt lên vai với
vai trò làm kênh dẫn xuất các chính sách tài khoá, tiền tệ phục vụ tăng trưởng kinh
tế, ưu tiên hàng đầu của Nhà nước trong bối cảnh suy thoái chung toàn cầu. Điều
này đặt ra nhiều cơ hội, nhưng sẽ có rủi ro nếu các ngân hàng thương mại (NHTM)
không có một quy trình kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng. Nhận thức
được những khó khăn này, rất nhiều ngân hàng đã thận trọng hơn với các khoản
cho vay, tìm mọi cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; đề phòng và miễn dịch
với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; tập
trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển
trong tương lai. Đồng thời, chủ động chuyển hướng sang các dịch vụ ngân hàng
bán lẻ và dịch vụ phi tín dụng. Tính chung cả hệ thống, tăng trưởng tín dụng đến
hết tháng 11/2009 là khoảng 34% trong khi năm 2008, con số này chỉ ở mức 21-
22%. Đến cuối tháng 7, tốc độ tăng trưởng gần 13,0%. Hoạt động tín dụng của các
NHTM đã được mở rộng tới tất cả các thành phần kinh tế, dưới các hình thức cho
vay ngày một đa dạng: cho vay vốn lưu động, cho vay vốn cố định, tín dụng thuê
mua,… Cho vay theo lĩnh vực kinh tế không thay đổi nhiều qua các năm. Trong
tổng số dư nợ cho vay của NH, nông lâm thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất,
khoảng trên dưới 30% tiếp theo là công nghiệp, thương mại và xây dựng. Đặc biệt,
việc chuyển hướng mở rộng cho vay tiêu dùng thực sự là một hướng kích cầu có
hiệu quả. Mặc dù duy trì được mức tăng trưởng dư nợ trong năm cao song các
ngân hàng vẫn kiểm soát được rủi ro ở mức độ an toàn. Tỷ lệ nợ quá hạn luôn
được kiềm chế ở mức thấp.
24
Bảng 2.1. Thị phần tín dụng của các NHTM (đơn vị %)
Loại hình TCTD 2006 2007 2008 2009
NHTM Nhà nước 67,1 59,7 58,2 49,93
NHTM CP 19,6 27,5 26,54 30,4
Chi nhánh NHNN 8,3 8,56 10,27 12,8
NH liên doanh 1,39 1,2 1,3 1,48
Nguồn: Báo cáo số 49/BC-NHNN năm 2009 của NH Nhà nước về việc rà soát 10
năm thực hiện Luật các TCTD.
• Lợi nhuận
Năm 2009, lợi nhuận của các NH có mức tăng trưởng khá, tỉ suất lợi nhuận trên tài
sản (ROA) của 6 NH lớn nhất lên mức 1,9% Tỉ suất này năm 2008 là 1,5%
Mặc dù các ngân hàng đều cho rằng năm 2010 là năm khó khăn, nhưng hầu hết
đều đạt lợi nhuận cao. Như Ngân hàng ACB có lợi nhuận trước thuế là 3.100 tỉ
đồng, tăng 9% so với 2009; Techcombank đạt 2.750 tỉ đồng, tăng 21%; Ngân hàng
Hàng Hải (Maritime Bank) đạt 1.706 tỉ đồng, tăng 151%; An Bình đạt 638 tỉ đồng,
tăng 55%, và VPBank đạt 700 tỉ đồng, tăng 100%.
Đáng chú ý là hai ngân hàng quốc doanh vừa cổ phần hóa là Vietcombank và
VietinBank lại đạt lợi nhuận cao trong năm 2010. Vietcombank đạt lợi nhuận
5.425 tỉ đồng, tăng 21% so với năm 2009 và VietinBank đạt 4.500 tỉ đồng lợi
nhuận trước thuế, tăng đến 26% so với năm trước đó..
• Vốn điều lệ
Áp lực tăng vốn điều lệ đối với các NHTM cổ phần trong năm 2010 là không nhỏ.
Theo quy định tại Nghị định số 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
22/11/2006, mức vốn điều lệ áp dụng cho các NHTM cổ phần đến cuối năm 2008
tối thiểu là 1.000 tỷ đồng và cuối năm 2010 là 3.000 tỷ đồng. Đối với các NHTM
cổ phần không phải chịu những áp lực phải tăng vốn vì chạy đua với thời gian như
các ngân hàng nhỏ thì họ lại phải chạy đua với chất lượng sản phẩm dịch vụ nhằm
khẳng định thương hiệu của mình trong bước phát triển mới. Tăng vốn là cần thiết
25
nhưng phải tính toán hết sức thận trọng bởi quy mô vốn lớn lại có thể dẫn tới hiệu
suất sử dụng trên từng đồng vốn thấp, do vậy, kế hoạch tăng vốn phải gắn liền với
chiến lược phát triển hợp lý.
• Cạnh tranh giữa các ngân hàng
Trong những năm qua, ngành Ngân hàng đã có nhiều đổi mới, song đến nay, hệ
thống ngân hàng Việt Nam vẫn ở giai đoạn phát triển ban đầu, năng lực tài chính
của nhiều NHTM còn yếu, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro.
Thêm vào đó, hiện nay dịch vụ ngân hàng của các NHTM Việt Nam còn đơn điệu,
nghèo nàn, tính tiện lợi chưa cao, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các
khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ
ngân hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho các
ngân hàng, các nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới
kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Hơn nữa, phần lớn các NHTM thiếu
chiến lược kinh doanh hiệu quả, bền vững. Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ
còn yếu, thiếu tính độc lập; hệ thống thông tin báo cáo tài chính, kế toán và thông
tin quản lý còn chưa đạt tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Đội ngũ lao động của các NHTM Việt Nam khá đông nhưng trình độ chuyên môn
nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của điều kiện hội nhập. Cơ cấu tổ chức
trong nội bộ nhiều NHTM còn lạc hậu, không phù hợp với các chuẩn mực quản lý
hiện đại đã được áp dụng phổ biến ở các nước trong nhiều năm qua.
Ngoài ra, các chỉ số và chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các
NHTM Việt Nam đều thua kém các ngân hàng trong khu vực. Nếu tính đến những
khoản khoanh nợ và nợ khó đòi thì nhiều NHTM Việt Nam đang ở tình trạng thua
lỗ. Rõ ràng, mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt khi các ngân hàng không chỉ
phải cạnh tranh với nhau mà cả với các ngân hàng ngoại. Có thể thấy, khi những
rào cản đối với các ngân hàng nước ngoài được tháo bỏ sẽ mở ra một sân chơi lành
mạnh hơn cho các ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài sẽ được phát triển tự do
hơn trên mảng tài chính ngân hàng trong khi các ngân hàng nội sẽ không ngừng cải
tiến sản phẩm và nâng cao dịch vụ của mình để cùng cạnh tranh. Đây cũng được
coi như “cú hích” về cạnh tranh để các ngân hàng thương mại Việt Nam đi lên. Và
nếu một trong số các nhà băng Việt Nam chưa có sự chuẩn bị kỹ và năng lực cạnh
26
tranh còn yếu kém sẽ bị đào thải và lúc đó phải sáp nhập hoặc bán lại. Thị trường
sẽ sàng lọc và những ngân hàng nào quản trị tốt, năng lực cạnh tranh cao sẽ tồn tại
và phát triển mạnh.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ thúc đẩy hiệu quả không chỉ trong huy động,
phân bổ các nguồn vốn mà còn hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng. Khả năng
cạnh tranh của các ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết hợp tác với
nước ngoài trong chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và khai thác thị
trường.
Hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh do mở rộng khả năng tiếp cận của
các ngân hàng đối với các khu vực thị trường mới, các nhóm khách hàng có mức
độ rủi ro thấp. Các ngân hàng nội sẽ có thêm cơ hội học hỏi kinh nghiệm, nâng cao
trình độ công nghệ và quản trị ngân hàng, đồng thời các ngân hàng trong nước còn
có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng
vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội.
Hội nhập kinh tế cũng góp phần thúc đẩy quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư, tạo
điều kiện giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) phát triển các mối quan hệ đại
lý, thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, hợp tác đầu tư và trao đổi công nghệ...
Hơn nữa, việc Việt Nam gia nhập WTO cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong
nước chủ động trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường để tồn
tại và phát triển, không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng hoạt động ra nước ngoài.
Ngoài ra, việc mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng sẽ thúc đẩy NHNN nâng cao
năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, chia sẻ thông tin với
các ngân hàng trung ương khác.
Đứng trước áp lực cạnh tranh từ phía các ngân hàng nước ngoài với năng lực tài
chính cao hơn, có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Hệ thống ngân
hàng Việt Nam cần đáp ứng các chuẩn mực về an toàn theo thông lệ quốc tế như tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu, trích lập dự phòng rủi ro, phân loại nợ theo chuẩn mực kế
toán quốc tế. Ngoài ra, hội nhập quốc tế với việc gia nhập WTO có thể mang đến
rủi ro về khách hàng cho các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc mở cửa thị
trường hơn đặt các doanh nghiệp Việt Nam (khách hàng) trước nguy cơ bị cạnh
27
tranh, có thể dẫn tới mất thị phần, kinh doanh thua lỗ và phá sản, rủi ro tăng cao do
những tác động từ bên ngoài (từ thị trường tài chính khu vực và thế giới).
Để tạo thế cân bằng trước sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng, điều quan trọng là
hệ thống ngân hàng trong nước phải tiếp tục quyết tâm thực hiện mục tiêu cải
cách, nâng cao năng lực tài chính, hoạt động và quản trị ngân hàng, đa dạng hoá
các sản phẩm dịch vụ và khai thác tối đa các khoảng trống hiện nay trong thị
trường dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, vai trò quản lý, điều tiết của Ngân hàng
Nhà nước cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để tạo thế cân bằng cho sự phát
triển và lớn mạnh của hệ thống ngân hàng trong nước.
Không chỉ phải cạnh tranh nội ngành, các ngân hàng còn phải cạnh tranh với các
kênh đầu tư khác như chứng khoán, vàng, bất động sản trong việc thu hút vốn để
đảm bảo khả năng thanh khoản vì hiện nay tiền gửi vẫn là nguồn vốn huy động chủ
yếu, chiếm tỷ trọng lớn tổng vốn tín dụng của các ngân hàng.
Thách thức càng nhiều, nỗ lực càng phải lớn hơn để không chỉ tồn tại mà còn phải
phát triển. Những bài học từ tài chính Mỹ có lẽ là bài học đắt giá cho ngành Ngân
hàng Việt Nam.
2.2. Nhận diện rủi ro trong hoạt động của hệ thống NHTM VN hiện nay –
Nguyên nhân và tác động
Hoạt động ngân hàng luôn song hành với các rủi ro. Mức lợi nhuận luôn tỉ lệ thuận
với độ rủi ro. Có rất nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, trong đó
rủi ro tín dụng, hoạt động và thanh khoản là những rủi ro chính mà các ngân hàng
Việt Nam đối mặt
2.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro dẫn đến tổn thất tài sản trong trường hợp khách hàng vay
vốn hay được cấp tín dụng không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ
những cam kết nêu tại hợp đồng tín dụng đã ký với ngân hàng.
Thực tế hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian
qua cho thấy chất lượng tín dụng chưa tốt, hiệu quả tín dụng chưa cao, tỷ lệ nợ quá
hạn còn cao.
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng:
28
Về phía ngân hàng, đầu tiên phải kể đến là việc ngân hàng không chấp hành
nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay.
Nguyên nhân thứ hai là chính sách và quy trình cho vay còn lỏng lẻo, chưa chú
trọng đến phân tích khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc
phương pháp xem xét, phân tích còn hạn chế, chưa chính xác, việc giám sát và
quản lý nợ sau khi cho vay chưa chặt chẽ, tinh thần đạo đức và trình độ chuyên
môn của cán bộ tín dụng còn hạn chế.
Về phía khách hàng vay vốn, có những nguyên nhân khách quan và cả chủ quan.
Nguyên nhân khách quan xuất phát từ những tác động bên ngoài như thiên tai, hỏa
hoạn, do sự ổn định của nền kinh tế chưa chắc chắn, chính sách quản lý kinh tế
thay đổi đột ngột, do hành lang pháp lý chưa phù hợp, do biến động của thị trường
trong và ngoài nước, do quan hệ cung cầu hàng hóa thay đổi.
Nguyên nhân chủ quan là vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp còn rất ít so với nhu cầu. Năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin
thị trường và các đối tác, trong đó cũng phải kể đến việc thiếu thiện chí trả nợ vay
ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn.
Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ
nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất
khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng
bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ
bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận
trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
Rủi ro hoạt động
Rủi ro hoạt động còn được gọi là rủi ro tác nghiệp hay rủi ro vận hành là rủi ro từ
việc không tuân thủ theo quy trình xử lý nội bộ nghiêm ngặt, do hoạt động của con
người hoặc do hệ thống hay là những sự kiện khách quan bên ngoài. Rủi ro hoạt
động bao gồm cả rủi ro pháp lý nhưng loại trừ về rủi ro chiến lược và rủi ro uy tín.
Rủi ro hoạt động có mặt trong hầu hết các hoạt động của ngân hàng nhưng lại khó
29
lường nhất. Như vậy, mỗi ngân hàng thương mại nói chung và các NHTM Việt
Nam nói riêng đều có nhu cầu xác định được mức độ rủi ro hoạt động này nhằm có
biện pháp phòng ngừa hoặc đối phó kịp thời.
Nguyên nhân gây ra rủi ro hoạt động có thể khái quát như sau:
• Rủi ro từ bên trong nội bộ ngân hàng
Rủi ro do cán bộ ngân hàng: Thực hiện các nghiệp vụ, nhiệm vụ không được ủy
quyền hoặc phê duyệt vượt quá thẩm quyền cho phép; không tuân thủ theo quy
định, quy trình nghiệp vụ của NHTM, NHNN và các văn bản pháp luật hiện hành;
không tuân thủ các quy định, quy trình của hệ thống hỗ trợ, không hỗ trợ kịp thời
và hỗ trợ hiệu quả, có hành động gây khó khăn cho bộ phận nghiệp vụ; không chấp
hành nội quy cơ quan; hợp đồng lao động và các văn bản pháp luật đối với người
lao động nơi công sở như: an toàn lao động, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
phòng chống tham nhũng...; có hành vi lừa đảo hoặc hành động phạm tội, cấu kết
với đối tượng bên ngoài gây thiệt hại cho NHTM.
Rủi ro do quy định, quy trình nghiệp vụ: có nhiều điểm bất cập, chưa hoàn chỉnh,
tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng gây thiệt hại cho ngân hàng.
Rủi ro từ hệ thống hỗ trợ:
Rủi ro từ hệ thống công nghệ thông tin: Do dữ liệu không đầy đủ hoặc hệ thống
bảo mật thông tin không an toàn; do thiết kế hệ thống không phù hợp, gián đoạn
của hệ thống (xử lí, truyền thông, thông tin) và/hoặc do các phần mềm, các chương
trình hỗ trợ cài đặt trong hệ thống lỗi thời, hỏng hóc hoặc không hoạt động.
Rủi ro từ các hệ thống hỗ trợ khác: Do việc chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ chưa kịp
thời, chưa hiệu quả hoặc chồng chéo gây khó khăn, ách tắc cho bộ phận nghiệp vụ;
do cơ chế, quy chế và công tác hỗ trợ không phù hợp, chưa đáp ứng các yêu cầu hỗ
trợ cho bộ phận nghiệp vụ.
• Rủi ro do các hoạt động bên ngoài
Rủi ro do hành vi lừa đảo, trộm cắp, phạm tội của các đối tượng bên ngoài NHTM
(hành động phá hoại, đánh bom...).
Rủi ro do các sự kiện bên ngoài do tự nhiên (động đất, bão...) gây gián đoạn, thiệt
hại cho các hoạt động kinh doanh của NHTM.
30
Rủi ro các văn bản, quy định của chính phủ, các ban hành liên quan có sự thay đổi
hoặc có những quy định mới làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Tóm lại, rủi ro hoạt động sẽ làm giảm uy tín ngân hàng, tạo ra tâm lí hoang mang,
mất lòng tin ở bộ phận lớn khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân, có thể gây
nên làn sóng rút tiền ồ ạt từ ngân hàng, đồng thời những ngân hàng khác có cơ hội
thu hút khách hàng từ ngân hàng đang bị rủi ro. Nghiêm trọng hơn những đối tác
của ngân hàng bắt đầu thay đổi chính sách hợp tác, cũng như rút vốn đầu tư (đối
với ngân hàng liên doanh), nếu là ngân hàng cổ phần lớn thì giá cổ phiếu giảm
mạnh có thể làm ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán. Ngoài ảnh hưởng trực
tiếp đến ngân hàng bị rủi ro, còn tác động dây chuyền trong các hệ thống NHTM.
Nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời thì hậu quả sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tình hình kinh tế của quốc gia, trong khu vực và trên thế giới.
Rủi ro thanh khoản
Đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả,
không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay mượn để
đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản:
Thứ nhất, do tăng trưởng tín dụng quá nóng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn cao
hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ huy động vốn. Sự tăng trưởng tín quá
nóng của các ngân hàng thương mại đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lí, tập
trung lớn vào đầu tư bất động sản chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi
thị trường bị đóng băng, tạo sự mất cân đối về kì hạn giữa tài sản có và tài sản nợ
do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Chính
vì điều này đã tạo ra rủi ro thanh khoản cao đối với ngân hàng thương mại.
Thứ hai, công tác dự báo và phân tích thị trường của các NHTM Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Các NHTM còn có tư tưởng ỷ lại quá nhiều vào cơ chế nhà nước,
trong khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an
toàn còn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến của thị trường nên đã
dự phòng vốn thanh khoản và điều chỉnh kịp thời, không bị động trước những tác
động của thị trường.
31
Thứ ba, tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán còn
yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách
hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc chuyển tiền gửi sang các NHTM khác
dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
Thứ tư, vấn đề quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt: do sự yếu kém từ
quản trị tài sản nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu
hiệu…Ngân hàng Nhà nước rất khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng
như sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của
mình.
Thứ năm, xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân
khiến “Các ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết hiệu quả tính
thanh khoản của các ngân hàng”. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, lại chưa
minh bạch, một số khách hàng (kể cả pháp nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng này
và chuyển sang ngân hàng khác, người dân rút tiền để mua vàng, mua đô la Mỹ để
tích trữ … đã làm tăng tính bất ổn của thị trường nội và ngoại tệ, gây khó khăn
cho chính khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ gửi và vay tiền tại ngân hàng...
Liên quan đến rủi ro thanh khoản, có chuyên gia ngân hàng cho rằng có mối quan
hệ giữa lãi suất và thanh khoản . Mỗi khi thanh khoản hệ thống có vấn đề, lãi suất,
đặc biệt là lãi suất huy động và lãi suất liên ngân hàng lại bị đẩy lên cao khiến
ngân hàng rủi ro về thu nhập và giá trị tài sản của ngân hàng chịu ảnh hưởng bất
lợi của những biến động lãi suất. Từ đó, lại dẫn đến rủi ro thanh khoản. Đây là một
cái vòng luẩn quẩn, nếu không có khung quản trị rủi ro thì các ngân hàng không
thể thoát ra được.
Rủi ro thị trường
Tại Việt Nam, sự tổn thất từ các giao dịch liên quan đến rủi ro thị trường cũng là
một điểm đáng báo động. Khi mà thời gian gần đây, nhiều giao dịch ngoại hối và
giao dịch kinh doanh trên các sản phẩm tài chính phái sinh đã được một số ngân
hàng báo cáo lỗ sau một khoảng thời gian rất lâu kể từ khi giao dịch thực tế xảy ra.
Điều này có nghĩa là hoặc bản thân những nhà quản trị cấp cao của các ngân hàng
này không có khả năng phát hiện được vì hệ thống thông tin báo cáo không đầy đủ,
hoặc vì một số mục đích riêng nên dù có nhận biết nhưng vẫn không báo cáo cho
32
cơ quan giám sát chủ quản. Nếu tiếp tục duy trì cách quản lý danh mục đầu tư theo
kiểu này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam.
Rủi ro lãi suất:
Rủi ro về lãi suất xảy ra khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, tính thanh khoản giữa vốn
huy động và việc sử dụng vốn huy động của ngân hàng trong điều kiện lãi suất thị
trường thay đổi ngoài dự kiến, điều này dẫn đến khả năng giảm thu nhập của ngân
hàng so với dự tính.
Rủi ro lãi suất là một trong những đặc thù của NHTM. Rủi ro lãi suất có ảnh
hưởng rất lớn đến thu nhập cũng như giá trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng vì thu
nhập từ lãi và chi phí từ lãi là những nguồn thu và các khoản chi chủ yếu của các
NHTM. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất trong kinh doanh ngân hàng là do sự
không phù hợp về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ cùng với những biến động
bất lợi của lãi suất. Trong môi trường cạnh tranh cao giữa các ngân hàng như hiện
nay thì điều này càng có điều kiện để bộc lộ, đơn giản là vì cơ hội để tìm kiếm đầu
vào và đầu ra cho hoạt động của ngân hàng ngày càng thu hẹp, do đó sẽ không cho
phép các ngân hàng có nhiều lựa chọn cơ hội đầu tư như mong muốn về quy mô,
kỳ hạn…, việc tìm kiếm đầu vào cũng có chung những đặc điểm như thế.
Rủi ro tỷ giá:
Trong môi trường toàn cầu hóa nền kinh tế, đặc biệt là hội nhập trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng, kinh doanh ngoại tệ là nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động của
các NHTM nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và nâng cao khả năng sinh lời
cho ngân hàng. Việc tham gia các giao dịch ngoại hối ngày càng gia tăng đã đặt
các NHTM trước nguy cơ rủi ro tỷ giá do sự biến động của tỷ giá và do các ngân
hàng thường xuyên không cân bằng về trạng thái ngoại tệ.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tỷ giá của các NHTM Việt Nam là do trạng thái ngoại
hối không cân xứng, tức là có sự chênh lệch giá trị tài sản Có và tài sản Nợ ngoại
hối hoặc chênh lệch giữa doanh số mua vào và bán ra của đồng tiền nước ngoài.
Nguyên nhân khách quan khác là do sự biến động tỷ giá theo chiều hướng bất lợi
đối với ngân hàng. Nguyên nhân của sự biến động này là: cung-cầu ngoại tệ trên
33
thị trường, cán cân thanh toán quốc tế, chính sách thuế quan, năng suất lao động,
tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước, lãi suất đồng ngoại tệ và nội tệ.
Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro
tỷ giá đối với các NHTM. Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên qua các năm
theo chiều hướng của đồng Việt Nam có giá trị sụt giảm so với đồng tiền nước
ngoài. Qua theo dõi cho thấy: Trong suốt một khoảng thời gian khá dài, tỷ giá
VND/USD chỉ biến động tăng một chiều với một biên độ hẹp, thêm vào đó thị
trường ngoại hối Việt Nam luôn rơi vào tình trạng khan hiếm ngoại tệ. Các doanh
nghiệp nhập khẩu chỉ muốn tìm mọi cách kí hợp đồng kì hạn mua ngoại tệ để đảm
bảo thanh toán hợp đồng xuất nhập khẩu.
2.3. Hoạt động quản trị rủi ro của các NHTM VN thời gian qua
Sự an toàn và toàn vẹn của hệ thống ngân hàng bị đe dọa do sự gia tăng rủi ro và
tội phạm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Tự do hóa thị trường dịch vụ ngân
hàng và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ đã thúc
đẩy dịch vụ ngân hàng phát triển về số lượng và chất lượng, cải thiện các tiện ích
và tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn cho người tiêu dùng, nhưng đằng sau đó tiềm ẩn
nhiều loại rủi ro, tội phạm mới, tinh vi hơn, phức tạp hơn.
Nhìn lại thời gian qua chúng ta có thể thấy rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng là đáng báo động thể hiện ở sự gia tăng nợ xấu ở các NHTM, các vụ án kinh
tế có liên quan đến lĩnh vực hoạt động ngân hàng, rủi ro tiềm ẩn (rủi ro thị trường,
rủi ro hoạt động...) có nguy cơ bùng phát, rủi ro thị trường ngày càng lớn khi thị
trường tài chính Việt Nam được tự do hóa và mở cửa theo cam kết trong khuôn
khổ WTO do biến động lãi suất, tỷ giá và giá cả tài sản tài chính trên thị trường
trong nước và quốc tế, kể cả rủi ro lây nhiễm khủng hoảng từ bên ngoài. Điều này
cho thấy công tác quản lý rủi ro của các NHTM trong thời gian qua đạt hiệu quả
chưa cao.
2.3.1. Quản trị rủi ro tín dụng
Chưa có nhiều tổ chức tín dụng xây dựng chiến lược tín dụng tổng thể và kế
hoạch khả thi để thực hiện chiến lược này, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc
phát triển nguồn lực và ưu tiên đầu tư chiều sâu để tạo vị thế cạnh tranh cho từng
tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng chưa xác định được chính xác mức độ rủi ro
34
hiện có và rủi ro tiềm tàng do một số hạn chế như phân loại nợ theo tiêu chí định
lượng là chủ yếu, dẫn tới tỷ lệ nợ xấu chưa phản ánh đúng chất lượng tín dụng
thực tế; hệ thống thông tin quản trị còn yếu, chưa hỗ trợ việc phân tích chất lượng
tín dụng; chưa lượng hoá được rủi ro tín dụng của các đối tác thanh toán; chưa
đánh giá thường xuyên năng lực của cán bộ tín dụng và mức độ ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng. Nhiều tổ chức tín dụng đã xây dựng cẩm nang tín dụng nhưng
chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả việc thực hiện cẩm nang này. Hệ thống
xếp hạng tín dụng là cốt lõi của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng, nhưng chưa có
nhiều tổ chức tín dụng xây dựng được hệ thống này để hỗ trợ việc thẩm định, áp
dụng chính sách khách hàng, giám sát khách hàng, phân loại nợ trên cơ sở kết hợp
phân tích yếu tố định tính và định lượng theo thông lệ quốc tế. Chức năng kiểm tra
tín dụng độc lập chưa được phát huy và sử dụng hiệu quả. Hiện nay, các NHTM
VN đều rất chú trọng đến quản lý rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, thông tin tín dụng
đang là một hạn chế, các yêu cầu về thông tin phục vụ phân tích tín dụng vẫn chưa
được đáp ứng đáng tin cậy, đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời. Các thông tin về báo
cáo tài chính của doanh nghiệp chưa bị bắt buộc phải qua kiểm toán do vậy độ
chính xác của báo cáo chưa cao.
Việc tìm kiếm thông tin cực kỳ khó khăn, tình trạng thông tin bất cân xứng là phổ
biến (cán bộ tín dụng chủ yếu lấy thông tin từ chính sự khai báo của khách hàng).
Thiếu các trung tâm dữ liệu khách hàng cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiêp vừa và
nhỏ.. (Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN mới chỉ cung cấp thông tin về
doanh nghiệp).
Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả và bền vững, góp phần tăng
trưởng kinh tế, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu của Uỷ ban Basel
(Basel II) về quản trị rủi ro trong hoạt động Ngân hàng, NHNN đã ban hành một
số văn bản liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm ngăn ngừa và hạn
chế rủi ro, như:
- Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/4/2005 yêu cầu các NHTM tuân thủ đúng
các quy định về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán
và bảo đảm tiền vay, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy
35
động vốn, đảm bảo chú trọng đến công tác quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát nội
bộ;
- Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005 của Thống đốc NHNN sửa đổi
bổ sung Quy chế cho vay của NHTM đối với khách hàng. Các nội dung được sửa
đổi quy định theo hướng trao nhiều quyền phán quyết, hoặc tạo cơ sở pháp lý cho
TCTD chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh – Ví dụ: việc cơ cấu lại thời
hạn trả nợ là do NHTM tự xem xét, quyết định trên cơ sở khả năng tài chính của
mình và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng;
- Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc NHNN ban
hành Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của NHTM;
- Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều
của quyết định 457.
- Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN ban
hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động Ngân hàng của TCTD.
- Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều
của quyết định 493.
Nội dung của các quyết định trên yêu cầu các tổ chức tín dụng áp dụng các trọng
số rủi ro của tài sản, tiến dần đến những đánh giá mang các yếu tố định tính, xây
dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, dự phòng được chia thành dự phòng
chung và dự phòng cụ thể.
- Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 và thông tư 19 năm 2010 quy
định mới về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
2.3.2. Quản trị rủi ro thanh khoản
Các chiến lược quản lý thanh khoản của hầu hết các tổ chức tín dụng đều rất bao
quát. Các tổ chức tín dụng chưa có công cụ phù hợp để lượng hoá rủi ro, báo cáo
phục vụ quản lý thanh khoản chủ yếu là ngắn hạn (thường dưới 2 tuần), thiếu các
báo cáo phân tích dài hạn để phục vụ mục tiêu huy động và sử dụng nguồn vốn
hiệu quả. Mặc dù cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro thanh khoản đã được xây dựng,
nhưng việc vận hành nó chưa hiệu quả, vai trò của ALCO còn mờ nhạt. Các công
cụ như phân tích và quản trị độ lệch thời gian, tình huống, rủi ro tập trung, ảnh
36
hưởng của các cam kết cho vay chưa giải ngân… chưa được áp dụng phổ biến và
linh hoạt. Rất ít tổ chức tín dụng xây dựng kế hoạch (giả định) đối phó tình trạng
khủng hoảng thanh khoản, nếu có xây dựng thì cũng chưa được luyện tập và cập
nhật thường xuyên, liên tục.
2.3.3. Quản trị rủi ro ngoại hối
Hầu hết các tổ chức tín dụng trong nước chưa xây dựng được chiến lược quản lý
rủi ro ngoại hối. Trình độ và kinh nghiệm quản lý rủi ro ngoại hối còn hạn chế, hệ
thống thông tin quản lý chưa hỗ trợ được việc lập báo cáo phục vụ quản lý rủi ro
ngoại hối. Các bước kiểm soát và chính sách quản lý nội bộ còn khá sơ sài, chủ
yếu là theo hướng tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước.
2.3.4. Quản trị rủi ro lãi suất
Các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được chính sách lãi suất phù hợp với mức độ
rủi ro và hoạt động của tổ chức tín dụng, chính sách lãi suất hiện nay của các tổ
chức tín dụng rất dễ bị dẫn dắt bởi các yếu tố thị trường; chưa lượng hoá được rủi
ro lãi suất cho cơ cấu tài sản nợ - có hiện tại của tổ chức tín dụng. Hệ thống thông
tin quản lý chưa hỗ trợ được việc lập báo cáo phục vụ quản lý rủi ro lãi suất. Hầu
hết các tổ chức tín dụng đều chưa có các công cụ nhằm phân tích độ nhạy của lãi
suất để xác định ảnh hưởng của việc thay đổi lãi suất đối với kết quả hoạt động
kinh doanh khi thị trường thay đổi.
2.4. Hoạt động quản trị rủi ro theo Basel II tại NHTM Việt Nam
2.4.1. Thực trạng ứng dụng Basel II trong hoạt động quản trị rủi ro của hệ
thống NHTM VN
Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và thực hiện lộ trình cam kết mở cửa thị trường tài chính,
hoạt động ngân hàng đã có những biến chuyển sâu sắc cả về lượng và chất: số
lượng chi nhánh, quy mô vốn, các giao dịch liên kết chứng khoán - ngân hàng, bảo
hiểm - ngân hàng, các giao dịch quốc tế ngày càng tăng. Những thay đổi này vừa
đem đến những tác động tích cực vừa chứa đựng nhiều rủi ro và đòi hỏi bản thân
các ngân hàng phải quản trị rủi ro hiệu quả cũng như đòi hỏi các cơ quan giám sát
phải đánh giá được thực trạng rủi ro cũng như việc tuân thủ nguyên tắc giám sát
ngân hàng để từ đó có giải pháp giám sát hiệu quả. Hiện tại hệ thống NHTM Việt
37
Nam đang áp dụng theo phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng dựa trên Hiệp ước
Basel I và mới chỉ thực hiện được một phần Basel I. Hoạt động thanh tra, giám sát
của Ngân hàng nhà nước đang đặt mục tiêu là đến năm 2010 sẽ vận dụng đầy đủ
các quy tắc giám sát của Basel I.
Thực trạng tuân thủ 25 nguyên tắc giám sát ngân hàng theo tiêu chuẩn Basel II của
cơ quan giám sát chuyên ngành ngân hàng và các ngân hàng thương mại Việt
Nam:
Nguyên tắc 1 - Mục đích, tính độc lập, quyền hạn, tính minh bạch và sự hợp
tác: tuân thủ một phần
Hành lang pháp lý hiện nay chưa đảm bảo tính độc lập cần thiết cho cơ quan giám
sát ngân hàng vì cơ quan giám sát ngân hàng cùng lúc chịu sự quản lý của nhiều cơ
quan và chịu chi phối của nhiều luật. Bên cạnh đó, quyền hạn kiểm tra tính tuân
thủ của hệ thống ngân hàng cũng như kiểm tra khi có nghi vấn về tính an toàn và
bền vững của hệ thống cũng chưa được đảm bảo. Điều này thể hiện thông qua các
hành lang pháp lý sau:
- Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) năm 1997 và Luật NHNN năm 2010 (Luật
số 46/2010/QH12) đều quy định NHNN là một cơ quan ngang Bộ; Thanh tra
NHNN, nay là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN là cơ
quan chịu trách nhiệm chính trong việc giám sát hoạt động ngân hàng;
- Quyết định 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/05/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam;
- Chỉ thị số 03/2008/CT-NHNN ngày 22/4/2008 về việc tăng cường công tác
thanh tra, giám sát của NHNN;
- Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra;
- Quyết định số 1765/2004/QĐ-NHNN ngày 23/12/2004 về việc ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng;
38
- Thông tư của NHNN Việt Nam số 04/2000/TT-NHNN3 ngày 28/03/2000 hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 04/09/1999 của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động của thanh tra Ngân hàng.
Nguyên tắc 2 - Các hoạt động được phép: tuân thủ một phần
Điều 2 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 chưa có một danh sách chi tiết các
hoạt động ngân hàng được phép thực hiện: hiện tại, các ngân hàng chỉ thực hiện
các dịch vụ được ghi trong giấy phép thành lập và hoạt động, khi triển khai các
dịch vụ mới phải xin phép NHNN, chưa quy định rõ những loại hình dịch vụ nào
các tổ chức khác được cung cấp và cũng chưa quy định cụ thể cách thức cấp giấy
phép để thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho các tổ chức khác.
Nguyên tắc 3 - Các tiêu chí cấp phép: tuân thủ một phần
Thông tư 09/2010/TT-NHNN ngày 26/03/2010 quy định về giấy phép thành lập và
hoạt động NHTMCP đã tuân thủ các tiêu chí trên.
Nguyên tắc 4 - Chuyển quyền sở hữu lớn: tuân thủ một phần
NHNN đã ban hành Thông tư 06/2010/TT-NHNN ngày 26/2/2010 hướng dẫn về
tổ chức, quản trị, điều hành, vốn điều lệ, chuyển nhượng cổ phần, bổ sung, sửa đổi
giấy phép, điều lệ của NHTM.
Nguyên tắc 5 - Giao dịch mua lại lớn: tuân thủ một phần
Thông tư 04/2010/TT-NHNN ngày 11/2/2010 của NHNN quy định việc sáp nhập,
hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng (TCTD), thông tư chưa nêu rõ thế nào là giao
dịch mua lại lớn. Thực tế chưa có giao dịch nào thực hiện theo Thông tư 04 nên
khó đánh giá tính tuân thủ của các NHTM đối với Thông tư này.
Quyết định số 13/2008/QĐ-NHNN ngày 29/4/2008 về mạng lưới hoạt động của
NHTM đã quy định đầy đủ các nội dung của nguyên tắc trên. Việc mở chi nhánh,
phòng giao dịch ở nước ngoài đã tuân thủ Quyết định 13.
Nguyên tắc 6 - An toàn vốn tối thiểu: tuân thủ một phần
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số 47/2010/QH12) đã quy định tỷ lệ an
toàn vốn;
39
Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2004 (được bổ sung bằng Quyết
định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 và Quyết định 34/2008/QĐ-NHNN ngày
05/12/2008) hướng dẫn cụ thể việc tính toán tỷ lệ này.
Thông tư số 13/TT-NHNN ngày 20/5/2010 (có hiệu lực từ 01/10/2010) thay thế
Quyết định 457, nâng tỷ lệ an toàn an toàn vốn lên 9% thay vì 8% và yêu cầu các
TCTD duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và hợp nhất.
Thông tư 19/TT-NHNN ngày 27/09/2010 và thông tư 22/TT-NHNN ngày
30/08/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13 cho sát với thực tiễn
hơn.
Hiệm nay tỷ lệ an toàn vốn vẫn chưa được tính theo tiêu chuẩn quốc tế, mà chỉ
dừng lại theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam.
Nguyên tắc 7 - Quy trình quản trị rủi ro: tuân thủ một phần
NHNN đã ban hành quy định về đánh giá rủi ro, quy định về hệ thống quản trị rủi
ro. Tuy nhiên, chưa đảm bảo rằng các ngân hàng tuân thủ việc xây dựng quy trình
quản trị cũng như các mô hình quản trị có phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp
của tổ chức vì phần lớn các ngân hàng chưa có hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ,
do vậy, rất khó để đánh giá rủi ro để từ đó trích lập dự phòng cho tương xứng.
Nguyên tắc 8 - Rủi ro tín dụng: tuân thủ một phần
NHNN đã ban hành Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và bổ
sung bằng Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về phân loại nợ, trích
lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
TCTD.
Hiện nay, rất ít các ngân hàng phân loại nợ định tính theo Điều 7 QĐ 493, nguyên
nhân là do: tăng tỷ lệ nợ xấu, phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để
hỗ trợ việc phân loại nợ và quản lý chất lượng tín dụng.
Nguyên tắc 9 - Tài sản có rủi ro, dự phòng và dự trữ: tuân thủ một phần
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và bổ sung bằng Quyết định
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 đã quy định việc trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD.
40
Nguyên tắc 10 - Giới hạn mức cho vay: tuân thủ một phần
Điều 8, Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định về giới hạn cho vay, trong đó quy
định: TCTD không được cấp tín dụng cho công ty trực thuộc là doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh chứng khoán; TCTD không được cho vay không có bảo đảm để
đầu tư, kinh doanh chứng khoán; tổng dư nợ cho vay và chiết khấu giấy tờ có giá
đối với tất cả khách hàng nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán không vượt quá
20% vốn điều lệ của TCTD.
Chính sách cho vay hiện nay chưa hoàn toàn theo nguyên tắc thị trường biểu hiện
qua việc các NHTM, đặc biệt là NHTM có cổ phần chi phối của Nhà nước thường
hướng theo các chính sách cho vay như đánh bắt xa bờ, mía đường, cà phê
Arabica... mà số liệu thống kê lại cho thấy các chính sách này không hiệu quả, dẫn
đến rủi ro cao cho ngân hàng.
Nguyên tắc 11 - Rủi ro đối với nhóm khách hàng có liên quan: tuân thủ một
phần
Điều 7, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 đã quy định về xác định
nhóm khách hàng có liên quan và việc xác định nhóm khách hàng liên quan sẽ do
các ngân hàng tự xác định và báo cáo cho NHNN.
Phần lớn các ngân hàng tuân thủ nguyên tắc này, tuy nhiên, vẫn còn một số ngân
hàng đã vì lợi nhuận mà bỏ qua các nguyên tắc quản trị rủi ro, dẫn đến việc cho
vay các nhóm khách hàng có liên quan vượt hạn mức quy định. Ngoài ra, các ngân
hàng cũng có xu hướng cho các thành viên của cùng tập đoàn nhà nước vay với dư
nợ lớn hoặc cho vay cùng nhóm khách hàng kinh doanh bất động sản, kinh doanh
chứng khoán với mức dư nợ cao.
41
Nguyên tắc 12 - Rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển đổi: chưa tuân thủ Việt Nam chưa có công cụ hiệu quả để đo lường và giám sát rủi ro quốc gia và rủi
ro chuyển đổi
Nguyên tắc 13, 14, 15, 16 - Rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro tác
nghiệp, rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng: tuân thủ một phần
NHNN đã ban hành Quyết định 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 về Quy chế
kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD và Quyết định 37/2006/QĐ-NHNN ngày
01/8/2006 về Quy chế kiểm toán nội bộ của TCTD.
NHNN cũng ban hành các văn bản quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động của TCTD gồm:
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính trên tiền gửi được NHNN thay đổi thường xuyên tùy
từng thời kỳ cụ thể theo thời hạn, loại tiền, loại ngân hàng;
- Giới hạn tín dụng được quy định trong Điều 8, Thông tư 13/2010/TT-NHNN; tỷ
lệ khả năng chi trả (thanh khoản) quy định trong Điều 12, Thông tư 13/2010/TT-
NHNN;
- Tỷ lệ giới hạn góp vốn, mua cổ phần quy định trong Điều 11, Thông tư
13/2010/TT-NHNN;
- Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động quy định trong Điều 18, Thông tư
13/2010/TT-NHNN;
- Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài
hạn được quy định trong Thông tư số 15/2009/TT-NHNN; (vii) tỷ lệ đủ vốn đã đề
cập ở trên.
Trên thực tế, các NHTM đã xây dựng hệ thống quản lý rủi ro nhưng mới ở bước
ban đầu, vừa nghiên cứu kinh nghiệm của những ngân hàng nước ngoài cũng như
rút kinh nghiệm về quản trị rủi ro từ những biến động trên thị trường tiền tệ những
năm vừa qua.
Nguyên tắc 17- Kiểm tra và kiểm toán nội bộ: tuân thủ một phần
42
NHNN đã ban hành Quyết định 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 về Quy chế
kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD và Quyết định 37/2006/QĐ-NHNN ngày
01/8/2006 về Quy chế kiểm toán nội bộ của TCTD.
Nội dung của hai quyết định này đã tiến gần đến chuẩn quốc tế. Các ngân hàng đều
có hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ nhưng quy mô và mức độ phù hợp với
loại hình kinh doanh chưa được đánh giá. Kết quả kiểm toán, kiểm soát nội bộ
mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng ít nhiều cũng hỗ trợ cho công tác
quản trị rủi ro.
Nguyên tắc 18 - Lạm dụng các dịch vụ tài chính: tuân thủ một phần
NHNN đã xây dựng các văn bản liên quan đến phòng chống rửa tiền như :
- Quyết định 1654/QĐ-NHNN ngày 14/7/2009 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng, chống rửa tiền do Thống đốc NHNN Việt Nam
ban hành;
- Quyết định số 1002/QĐ-NHNN ngày 08/7/2005 của Thống đốc NHNN Việt
Nam về thành lập Trung tâm thông tin chống rửa tiền thuộc NHNN;
- Thông tư số 22/2009/TT-NHNN của NHNN hướng dẫn thực hiện các biện pháp
phòng, chống rửa tiền và một số văn bản khác liên quan đến thanh toán không
dùng tiền mặt.
Tuy nhiên, việc đảm bảo các ngân hàng có chính sách và quy trình, bao gồm các
quy tắc nghiêm ngặt về nhận biết khách hàng, nâng cao các tiêu chuẩn đạo đức
nghề nghiệp trong lĩnh vực tài chính và bảo vệ ngân hàng không bị lợi dụng vào
các hoạt động phạm pháp chưa được quy định.
Nguyên tắc 19 - Phương pháp giám sát: tuân thủ một phần
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã xây dựng các tiêu chí đánh giá ngân
hàng theo tiêu chuẩn CAMELS, từng bước triển khai áp dụng phương pháp thanh
tra trên cơ sở rủi ro theo thông lệ quốc tế và đã tiến hành thanh tra thử nghiệm theo
phương pháp này tại một số TCTD và đạt được những kết quả bước đầu khá khả
quan. Tuy nhiên, sự thay đổi trong cơ chế vận hành hoạt động giám sát ngân hàng
cũng như hành lang pháp lý chưa đáp ứng được.
43
Nguyên tắc 20 - Kỹ thuật giám sát: tuân thủ một phần
NHNN đã ban hành nhiều chỉ thị yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm chỉnh các
biện pháp kiểm soát nhằm đảm bảo an toàn như:
- Chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN ngày 23/5/2006 về việc tăng cường các biện pháp
phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các TCTD,
- Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN về việc kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và
cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán,
- Công văn số 5137/NHNN-TT ngày 08/7/2010 gửi các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán nhằm xử lý, ngăn chặn thanh toán cho cá độ quốc tế và nhiều văn bản
khác.
NHNN cũng đã tăng cường thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định của
pháp luật đối với hoạt động kinh doanh của TCTD, phát hiện và xử lý kịp thời các
trường hợp vi phạm các quy định về an toàn tín dụng. Cơ quan Thanh tra, giám sát
ngân hàng mới chỉ thực hiện thanh tra, giám sát tại chỗ trên diện rộng, buộc các
ngân hàng tuân thủ các quy định về tỷ lệ an toàn, hoạt động giám sát từ xa còn yếu
do chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu thống kê, báo cáo và cơ chế cảnh báo sớm.
Nguyên tắc 21 - Thông tin giám sát: tuân thủ một phần
NHNN đã ban hành các văn bản về thực hiện chế độ báo cáo thống kê như:
- Quyết định số 477/2004/QĐ-NHNN ngày 28/4/2004 của Thống đốc NHNN về
việc ban hành Chế độ Báo cáo thống kê áp dụng cho các đơn vị thuộc NHNN và
các TCTD,
- Quyết định số 1747/2005/QĐ-NHNN ngày 01/12/2005 về việc sửa đổi bổ sung
một số điều của Quyết định số 477,
- Chỉ thị 02/2007/CT-NHNN ngày 20/03/2007 về việc tăng cường các biện pháp
nâng cao chất lượng báo cáo thống kê trong ngành ngân hàng
Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ báo cáo chưa đầy đủ, hệ thống và chưa đảm bảo
chất lượng, chưa có sự thay đổi nhiều về biện pháp chế tài cũng như về chất lượng
của các báo cáo. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân nhưng thực tiễn cho thấy
các cơ quan quản lý thường không chủ động thu thập mà đòi hỏi các ngân hàng
44
phải báo cáo, trong đó có những chỉ tiêu báo cáo này đã thống kê nhưng báo cáo
khác lại yêu cầu cung cấp khiến cho các NHTM mất khá nhiều thời gian cho việc
lập báo cáo dẫn đến các ngân hàng chỉ báo cáo mang tính đối phó chứ không chú
trọng đến chất lượng báo cáo.
Nguyên tắc 22 - Kế toán và công bố công khai: tuân thủ một phần
NHNN ban hành Quyết định số 121/2005/QĐ-NHNN về Quy chế kiểm toán độc
lập đối với các TCTD ngày 02/02/2005 và Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN
ngày 18/4/2007 về việc ban hành Chế độ Báo cáo tài chính áp dụng đối với các
TCTD. Chế độ Báo cáo tài chính này được đánh giá là phù hợp với các chuẩn mực
kế toán Việt Nam và phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế.
NHNN cũng đã ban hành các quy định bảo đảm sự giám sát của công chúng đối
với kết quả hoạt động của TCTD như Quy định về việc công bố công khai báo cáo
tài chính của NHTMCP ban hành kèm theo Quyết định số 1407/2004/QĐ-NHNN
ngày 1/11/2004 của NHNN (sau đó bổ sung bằng Quyết định 09/2006/QĐ-NHNN
ngày 20/02/2006).
Trên thực tế, việc tuân thủ quy định này của các NHTM còn nhiều bất cập như:
công bố không đúng mẫu, công bố trễ hạn, hoặc có sai sót mặc dù đã có kiểm toán
hoặc số liệu không khớp giữa báo cáo công bố trên website ngân hàng và công bố
trên tạp chí/báo. Ngoài ra, khó thu thập được đầy đủ báo cáo tài chính vì mỗi ngân
hàng đăng ở một báo/tạp chí khác nhau và không phải ngân hàng nào cũng đưa báo
cáo tài chính lên website của mình. Sự không tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt
Nam và tiêu chuẩn thế giới trong việc giám sát dựa trên rủi ro khiến cho công tác
giám sát gặp nhiều khó khăn vì không đánh giá đúng thực chất của tình trạng rủi
ro, gây khó khăn trong so sánh giữa ngân hàng này với ngân hàng khác. Bên cạnh
đó, hệ thống kế toán áp dụng đối với các TCTD Việt Nam được Hiệp hội Kế toán
và kiểm toán Việt Nam đánh giá mới chỉ tuân thủ khoảng 50% chuẩn mực kế toán
quốc tế do Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành các chuẩn mực kế toán về trình bày,
ghi nhận và đo lường công cụ tài chính.
Nguyên tắc 23- Quyền xử lý vi phạm của cơ quan quản lý nhà nước: chưa tuân
thủ
45
Điều 37, Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng chỉ cho
phép Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được quyền thanh tra ngân hàng
nhưng không có quyền xử lý vi phạm, quyền truy tố cũng như quyền thu hồi giấy
phép hoạt động, mà chỉ có quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật, kiến nghị với Thống đốc và cơ quan có thẩm quyền biện pháp xử lý và
các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Nguyên tắc 24 - Giám sát hợp nhất: chưa tuân thủ
Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia mới được thành lập theo Quyết định số
34/2008/QĐ-TTg ngày 03/3/200, có Quy chế tổ chức và hoạt động theo Quyết
định 79/2009/QĐ-TTg ngày 18/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Ủy ban Giám
sát Tài chính Quốc gia đang xây dựng hệ thống thông tin và hệ thống chỉ tiêu giám
sát an toàn toàn hệ thống, chưa triển khai nhiều hoạt động trong khi đòi hỏi giám
sát hợp nhất lại khá phức tạp nên việc giám sát hợp nhất cho tới thời điểm này vẫn
còn quá nhiều bất cập, đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết.
Nguyên tắc 25 – Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước nước sở tại và nước
nguyên xứ: tuân thủ một phần.
Hoạt động giám sát của NHNN vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu
trong nguyên tắc 25 và đang trong quá trình thực hiện.
2.4.2. Những khó khăn từ việc áp dụng Basel II trong quản trị rủi ro của hệ
thống NHTM VN
2.4.2.1.Nội dung Basel II quá phức tạp
Một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc tiếp cận các quy tắc trong hiệp ước
Basel (kể cả phiên bản I và II) chính sự khác biệt về ngôn ngữ. Ngôn ngữ được thể
hiện trong hiệp ước Basel là tiếng Anh, hoàn toàn chưa có một tài liệu nghiên cứu
hoặc dịch thuật chính thức nào về hiệp ước Basel bằng tiếng Việt. Vì vậy, cho dù
rất nhiều chuyên gia quản lý ngân hàng muốn tiếp cận nhưng cũng rất khó khăn.
Mỗi văn bản ban hành từ Ủy ban Basel kể cả là văn bản chính thức lẫn những văn
bản bổ sung hướng dẫn thi hành đều có độ dài từ 400 đến hơn 500 trang giấy,
những thuật ngữ được sử dụng cũng thật sự không dễ hiểu, là những từ mới và từ
46
khó. Ngoài ra, một khối lượng đồ sộ các văn bản của Basel với nhiều công thức
tính toán phức tạp, chưa gần gũi với tình hình thực tế trong hoạt động của hệ thống
ngân hàng Việt Nam cùng là lý do để các chuyên gia chưa dành nhiều thời gian
tìm hiểu và nghiên cứu. Sự phức tạp này thể hiện ở cả trong cách tính toán và vận
dụng lẫn trong việc xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý khách hàng. Đối
với phương pháp được coi là đơn giản và dễ áp dụng nhất – phương pháp chuẩn thì
mỗi khách hàng đến giao dịch với ngân hàng cũng phải được lưu trữ thông tin đầy
đủ nhằm phục vụ cho việc đánh giá, chấm điểm khách hàng đó. Như vậy sẽ có rất
nhiều hệ số rủi ro được áp dụng cho mỗi khách hàng với từng loại giao dịch khác
nhau. Thực tế, mỗi ngân hàng có đến vài trăm ngàn khách hàng, mỗi khách hàng
lại có vài trăm giao dịch các loại, vấn đề tính toán nhu cầu vốn tối thiểu cho hoạt
động của ngân hàng thực sự trở thành một bài toán không đơn giản. Đối với hai
phương pháp còn lại là IRB cơ bản vào IRB nâng thì quá phức tạp, các công thức
tính toán hệ số rủi ro là những công thức dựa trên toán học phức tạp bao gồm toán
thống kê, xác suất và kinh tế lượng.
2.4.2.2. Chi phí thực hiện ứng dụng Basel II quá lớn
Một trong những khó khăn ảnh hưởng đến việc quyết định áp dụng Basel II vào hệ
thống giám sát và quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam đó chính
là chi phí vận hành theo toàn bộ chuẩn mực của Basel II quá lớn. Theo ước tính,
các ngân hàng thương mại cỡ nhỏ phải tốn xấp xỉ 10 triệu Đô la Mỹ, tương đương
với 160 tỷ đồng Việt Nam, khoảng 15% vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại
cổ phần. Trong khi đó, nếu là ngân hàng cỡ lớn thì chi phí vận hành hệ thống Basel
này có thể lên đến 200 triệu Đô la Mỹ, tương đương với 3,200 tỷ đồng Việt Nam,
cao hơn mức vốn pháp định của các NHTM Nhà nước theo nghị định 141 của
Chính phủ.
2.4.2.3. Yêu cầu của Basel II về vốn khá cao
Hiệp ước Basel II nhằm điều chỉnh hoạt động của các tập đoàn ngân hàng hoạt
động trên phạm vi đa quốc gia, vì vậy yêu cầu an toàn vốn là một trong những mục
tiêu đặt lên hàng đầu đối với những ngân hàng này. Vốn này nhằm giảm thiểu đến
mức tối đa khả năng xảy ra vỡ nợ đối với các ngân hàng. Mặc dù tỷ lệ vốn an toàn
tối thiểu vẫn giữ mức 8% nhưng trên thực tế, các ngân hàng phải duy trì mức vốn
47
cao hơn so với mức quy định ở Basel I bởi các ngân hàng phải bổ sung thêm vốn
để dự phòng các rủi ro hoạt động. Điều này sẽ cực kỳ bất lợi cho các ngân hàng
Việt Nam vì rủi ro hoạt động thấp hơn các ngân hàng quốc tế lớn nhưng lại vẫn
phải áp dụng chung một mức vốn dự phòng rủi ro hoạt động là 20% tổng doanh
thu. Một bất lợi khác, đó là hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều không được
xếp hạng; do đó, các khoản vay đối với các doanh nghiệp này sẽ chịu mức rủi ro
100%.
2.4.2.4. Chưa có văn bản hướng dẫn về việc thực hiện Basel II
Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện hiệu quả chức năng quản lý nhà nước ở lĩnh
vực là đầu mối soạn thảo và ban hành các văn bản thống nhất về quản lý rủi ro
trong hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, tuân thủ những tiêu chí
hướng dẫn trong hệ thống quản lý rủi ro của Uỷ ban Basel, những tiêu chí đang
được hầu hết các ngân hàng thương mại trên thế giới áp dụng.
Theo quy định trong hiệp ước Basel II , các NHTM được lựa chọn một trong ba
phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng và tính toán tỷ lệ an toàn vốn theo từng
phương pháp với sự đồng ý của cơ quan giám sát và phù hợp với năng lực hiện tại
của từng ngân hàng. Trên thực tế, Việt Nam hiện nay chưa có một văn bản nào
hướng dẫn về việc thực hiện một trong ba phương pháp này cho các NHTM hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam.
2.4.2.5. NHTM VN chưa đáp ứng điều kiện của Basel II
Hệ thống quản trị rủi ro hiện đại (ARMS- Advanced Risk Management Systems)
được ứng dụng đặc biệt đối với các ngân hàng sử dụng phương pháp IRB nội bộ.
Khi sử dụng phương pháp IRB cơ bản, các ngân hàng phải ước tính được xác suất
vỡ nợ (PD), thiệt hại do vỡ nợ (LGD) dựa trên các đặc điểm về điều kiện tài chính,
tài sản đảm bảo, năng lực hoạt động. Còn đối với phương pháp IRB nâng cao thì
ngoài hai yếu tố này ra, các ngân hàng còn cần ước tính được giá trị đáo hạn hiệu
dụng M, và giá trị hoạt động khi vỡ nợ EAD. Và những thông tin như vậy chỉ có
thể tận dụng cùng với dữ liệu quá khứ để ước tính yêu cầu vốn cho các khoản vay
đặc biệt và toàn bộ danh mục cho vay của ngân hàng. Mặc dù các ngân hàng đều
đã có hệ thống quản trị rủi ro tín dụng riêng cho mình và nếu cần thiết thì điều
chỉnh cho phù hợp với phương pháp nâng cao nhưng để phát triển và sử dụng được
48
một hệ thống quản trị rủi ro hiện đại như ARMS thì có rất ít ngân hàng lớn trên thế
giới đủ khả năng làm được điều này, đó là một bài toán khó cả về chi phí thực hiện
lẫn hệ thống thông tin hỗ trợ và năng lực quản trị của các ngân hàng. Yêu cầu về
cơ sở dữ liệu đã vượt quá khả năng của rất nhiều ngân hàng. Do vậy, không có gì
ngạc nhiên khi chỉ có một số ít ngân hàng hiện nay có thể áp dụng.
2.4.2.6. Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu
Khó khăn tiếp theo là môi trường thông tin, trong đó tính minh bạch, chính xác, rõ
ràng của các thông tin và độ tin cậy của các cơ quan cung cấp tại Việt Nam còn rất
nhiều hạn chế. Mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà
nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong cung cấp
thông tin về khách hàng, thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung
cấp các thông tin cảnh báo…, góp phần quan trọng cho sự phát triển của ngành
ngân hàng Việt Nam vì mục tiêu an toàn, hiệu quả nhưng những đòi hỏi về thông
tin của các ngân hàng vẫn chưa được đáp ứng một cách đáng tin cậy, nhanh chóng
và kịp thời. Các thông tin về báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa bị bắt buộc
phải qua kiểm toán nên độ chính xác của các báo cáo chưa cao. Việc tìm kiếm
thông tin cực kỳ khó khăn và tình trạng thông tin bất cân xứng vẫn là một tồn tại
chưa thể khắc phục được trên thị trường tài chính Việt Nam. Quy trình cấp tín
dụng mới lại yêu cầu tách bạch chức năng bán hàng và chức năng thẩm định tín
dụng, do đó, cán bộ thẩm định không tiếp xúc khách hàng (để đảm bảo tính khách
quan) nên phải có đầy đủ các thông tin để có thể đưa ra các quyết định tín dụng
đúng đắn và hợp lý.
2.4.2.7. Chất lượng nguồn nhân lực
Đội ngũ cán bộ chuyên môn của NHTM vẫn còn bất cập, dù trong quá trình hoạt
động, thực hiện hiện đại hoá ngân hàng, các NHTM đều có quan tâm đến việc đào
tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ của mình. Thực tế vẫn còn một bộ phận cán bộ
ngân hàng chuyên môn kém trong lĩnh vực được phân công nên không thể đề xuất
những cảnh báo, biện pháp phòng ngừa rủi ro một cách khoa học và chuẩn xác
trong quyết định cấp tín dụng. Dù đã tăng về số lượng lẫn chất lượng lao động,
nhưng nhân sự ngành ngân hàng vẫn trong tình trạng: chất lượng lao động cấp
quản lý khan hiếm (biểu hiện qua hiện tượng chảy máu chất xám, thay đổi lãnh
49
đạo liên tục), lao động cấp nhân viên chưa chuẩn (thể hiện qua việc bố trí sai công
việc, ưu tiên cho “người nhà” vào làm việc…).
2.4.2.8. Thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp
Hiệp ước Basel II dựa vào rất nhiều yếu tố để có thể xác định được hệ số rủi ro cho
từng khoản mục tài sản liên quan đến từng nhóm đối tượng khác nhau, mà một
trong những yếu tố này chính là kết quả xếp hạng tín nhiệm đáng tin cậy của một
tổ chức độc lập. Hiện nay thực tế là mỗi ngân hàng thương mại Việt Nam đều đang
từng bước xây dựng một hệ thống xếp hạng tín nhiệm cho từng nhóm đối tượng
khách hàng. Tuy nhiên việc xếp hạng này chủ yếu nhằm phục vụ quá trình thẩm
định, ra quyết định cho vay của ngân hàng, rất ít được chia sẻ thông tin hay phổ
biến rộng rãi bên ngoài, từ đó dẫn đến mạnh ngân hàng nào thì ngân hàng đó tự lo
và kết quả là đôi khi sự đánh giá còn mang nặng về yếu tố chủ quan, cảm giác hơn
là khách quan. Ngoài ra, nó còn dẫn đến những kết luận thiếu chính xác chỉ vì lý
do là thông tin không đầy đủ.
Riêng đối với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đang hoạt động ở Việt Nam đều còn
rất non trẻ đối với một lĩnh vực cũng còn hết sức mới mẻ, như vậy để xây dựng
được một hệ thống cơ sở dữ liệu thật sự đủ lớn, đa dạng, có chất lượng và được
chấp thuận rộng rãi thì sẽ phải mất một khoảng thời gian đáng kể. Đó là chưa nói
đến những tiêu chuẩn và hệ thống xếp loại của các tổ chức này đều đang tạm thời
sử dụng từ các tổ chức khác nhau trên thế giới chứ chưa thể xây dựng được một hệ
thống chỉ tiêu thống nhất cho Việt Nam, mà sự vay mượn này cũng sẽ ít nhiều gây
khó khăn trong việc áp dụng vào tính toán đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Basel II quy định tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu gắn chặt chẽ với mức độ rủi ro của tài
sản ngân hàng. Bản thân mức độ rủi ro của tài sản còn tính đến nhiều yếu tố như
độ tín nhiệm của khách hàng, thời hạn khoản vay, độ tập trung của các khoản vay
vào một nhóm khách hàng nhất định.
Tuy nhiên, phương pháp chuẩn hoá được đưa ra trong Hiệp ước lại quá nhấn mạnh
vai trò của cơ quan xếp hạng trong việc phân loại rủi ro tài sản. Trong khi đó, kinh
nghiệm cho thấy, các công ty lớn trong ngành xếp hạng độ tín nhiệm có tương đối
lớn số vụ xếp hạng không chính xác.
50
Ngoài ra, nhiều nước trên thế giới đặc biệt là ở Việt Nam, hầu hết các doanh
nghiệp không được xếp hạng. Điều này dẫn tới bất lợi cho các ngân hàng Việt
Nam vì tất cả các khoản vay khách hàng không được xếp hạng sẽ bị áp dụng mức
độ rủi ro là 100%. Thêm vào đó, việc Basel II cho rằng những công ty không xếp
hạng ít rủi ro hơn những công ty được xếp hạng là không hoàn toàn chính xác.
2.4.2.9. Minh bạch thông tin
Các thông tin trên thị trường chứng khoán và thị trường vốn là hết sức quan trọng
nếu một hệ thống ngân hàng muốn áp dụng theo các chuẩn mực của Basel II
nhưng rất khó cho các ngân hàng trông đợi sự hỗ trợ thông tin xử lý từ thị trường
chứng khoán để áp dụng vào công tác quản trị rủi ro của mình.
Các thông tin kinh tế vĩ mô và vi mô khác vẫn là một vấn đề khó không chỉ riêng
đối với hệ thống ngân hàng. Vấn đề công bố thông tin đã được cải thiện hơn rất
nhiều trong thời gian gần đây thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo,
đài, internet, đặc biệt là trên một số website chính thức của các bộ ban ngành như
bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cổng giao dịch điện tử của Chính
phủ, chính quyền thành phố và các tỉnh. Tuy nhiên, thông thường những báo cáo
này thường được lập dưới dạng báo cáo năm, và có độ trễ tương đối lớn với thời
gian xảy ra các sự kiện, như vậy rất khó hỗ trợ cho các ngân hàng trong việc dự
báo, đánh giá và phòng ngừa rủi ro. Những thông tin thống kê chuyên biệt để tạo
cơ sở dữ liệu cho các ngân hàng hiện nay rất ít, ngoài trung tâm thông tin tín dụng
CIC ra, hầu như không còn tổ chức nào có khả năng đứng ra thu thập và cung cấp
thông tin.
Như vậy, vấn đề thiếu thông tin cũng như không được hỗ trợ đầy đủ về mặt thông
tin là một trong những khó khăn lớn nhất mà các ngân hàng thương mại Việt Nam
gặp phải khi áp dụng theo những chuẩn mực mới của hiệp ước Basel
2.4.2.10. Hạn chế về năng lực giám sát
Hệ thống quản lý, giám sát ngân hàng Việt Nam đang đứng trước các nguy cơ,
thách thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa tài chính:
Thứ nhất, tụt hậu trong hội nhập quốc tế do hầu hết các nguyên tắc, chuẩn mực
quốc tế về thể chế và vận hành hệ thống giám sát tài chính - ngân hàng chưa được
tuân thủ. Nguy cơ tụt hậu đặt ra ngay cả về năng lực của cơ quan quản lý, giám sát
51
so với yêu cầu thực tiễn quản lý, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng và trình độ
phát triển của các định chế tài chính. Không ít hoạt động và dịch vụ ngân hàng mà
cơ quan thẩm quyền chưa thể quản lý và giám sát một cách hữu hiệu. Năng lực cán
bộ so với yêu cầu quản lý mới còn khoảng cách đáng kể. Năng lực phát hiện, xử lý
vi phạm còn hạn chế, trong khi chế tài xử lý vi phạm chưa đủ. Nội dung, phương
pháp thanh tra đã có đổi mới nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý hệ thống
ngân hàng hiện đại. Một số thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng đã
được áp dụng ở Việt Nam, song chưa đồng bộ và không triệt để dẫn đến cách nhìn
nhận, đánh giá hệ thống ngân hàng chưa phản ánh đầy đủ thực trạng tình hình. Mô
hình tổ chức Thanh tra Ngân hàng và hệ thống pháp luật về thanh tra, giám sát
ngân hàng còn bất cập so với các thông lệ tốt và chuẩn mực quốc tế về giám sát
ngân hàng (Basel), nhất là so với yêu cầu thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro.
Theo kết quả khảo sát do Công ty Tư vấn Ernst & Young tiến hành năm 2006 để
đánh giá mức độ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu
của Ủy ban Giám sát ngân hàng quốc tế Basel, có tới 19 trong số 25 nguyên tắc
phần lớn không tuân thủ, chủ yếu là các nguyên tắc liên quan đến điều kiện tiên
quyết bảo đảm giám sát ngân hàng hữu hiệu.
Thứ hai, cấu trúc thể chế giám sát thị trường tài chính không phù hợp mức độ hội
tụ và phát triển hợp nhất của thị trường tài chính trong nước. Thị trường chứng
khoán phát triển rất nhanh nhờ những nỗ lực đổi mới và triển vọng kinh tế sáng
sủa của Việt Nam. Nhiều TCTD tham gia hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm,
chứng khoán và ngược lại nhiều định chế tài chính phi ngân hàng có khả năng gia
nhập thị trường dịch vụ ngân hàng. Theo quyền hạn, nhiệm vụ quản lý nhà nước,
NHNN thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng và Bộ Tài chính thanh tra, giám
sát thị trường chứng khoán, bảo hiểm. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa NHNN và Bộ
Tài chính còn nhiều hạn chế trong việc thanh tra, giám sát toàn bộ thị trường tài
chính. Ðiều này có nghĩa rằng sự an toàn, ổn định của từng khu vực thị trường tài
chính cũng như toàn bộ thị trường tài chính dễ bị tổn thương do các cơ quan thanh
tra, giám sát không thể kiểm soát được toàn bộ các rủi ro của thị trường tài chính.
Sự tổn thương của khu vực nào đó trên thị trường tài chính, đặc biệt là hệ thống
các TCTD đều có khả năng lan tỏa đến khu vực còn lại của thị trường tài chính.
52
2.4.2.11. Vấn đề cơ sở pháp lý nền tảng
Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang bối rối trong việc thực hiện
theo các chuẩn mực kế toán của Việt Nam và các chuẩn mực kế toán quốc tế. Nếu
tính theo chuẩn mực kế toán quốc tế thì tỷ lệ an toàn vốn CAR của các ngân hàng
thương mại Việt nam có một sự sai lệch khá xa.
Ví dụ sau đây sẽ cho thấy rõ điều này:
Chỉ số CAR của ngân hàng Đầu tư và Phát triển qua các năm 2005 – 2009
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009
Chỉ số CAR (%) 6,86% 9,1% - 8,94% 9,53%
theo VAS
Chỉ số CAR (%) 3,36% 5,9% 6,7% 6,5% 7,55%
theo IFRS
Nguồn: BIDV- Trích lại từ bài “Giám sát ngân hàng theo Basel 2 và việc tuân thủ
của Việt nam (Tác giả: Hạ Thị Thiều Dao).
Số liệu của các ngân hàng khác nhau có thể khác nhau nhưng có thể thấy một
điểm chung là chuẩn mực kế toán Việt nam có nhiều điểm khác biệt so với chuẩn
mực kế toán quốc tế. Và có một thực tế đã được bàn luận nhiều là ngay cả chuẩn
mực kế toán Việt nam cũng chưa được thực hiện một cách đầy đủ ở các doanh
nghiệp. Vì vậy, thiết nghĩ cần có một sự khảo sát toàn diện về khả năng tuân thủ
các tiêu chuẩn của Basel II và cao hơn nữa là Basel 3 nói chung và khả năng tuân
thủ tiêu chuẩn an toàn vốn nói riêng theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế.
Đối với một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động lâu năm tại Việt Nam
như ngân hàng HSBC, ngân hàng Citygroup, ANZ… thì những ngân hàng này đều
có hai hệ thống báo cáo sổ sách kế toán, một hệ thống theo chuẩn mực kế toán Việt
Nam VAS dùng để báo cáo với ngân hàng nhà nước Việt Nam và cơ quan thuế,
một hệ thống theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS dùng phục vụ cho công tác quản
trị ngân hàng. Điều này tạo ra một sự lãng phí rất lớn trong việc duy trì cùng một
lúc hai hệ thống nhưng không làm khác được bởi nhận định chung của các chuyên
gia ngân hàng là hai hệ thống này còn quá nhiều điểm khác biệt, khó có thể nhập
chung. Trong khi đó, hiện nay các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng
53
thương mại nói riêng ở Việt Nam đang bước vào một sân chơi chung với những
luật lệ này và xây dựng cho mình hệ thống báo cáo tương thích thì sẽ rất bị thiệt
thòi về khả năng cạnh tranh cũng như khả năng chống đỡ rủi ro.
2.4.2.12. Nhận thức của ban lãnh đạo NHTM trước những rủi ro trong
hoạt động ngân hàng
Việc ứng dụng Basel II đòi hỏi bản thân các NHTM Việt Nam phải có một nền
tảng quản trị rủi ro bền vững, có quy trình quản trị rủi ro chặt chẽ. Tuy nhiên việc
này lại phụ thuộc vào nhận thức của ban lãnh đạo trước những rủi ro trong hoạt
động ngân hàng. Trong điều kiện hiện tại thì có rất ít cán bộ lãnh đạo ngân hàng có
kiến thức đầy đủ về nội dung hiệp ước Basel, tạo ra nhận thức về quản trị rủi ro đối
với toàn thể nhân viên ngân hàng là một thách thức, là nhân tố quan trọng để đảm
bảo thành công khi ngân hàng quyết định áp dụng hệ thống và quy tắc quản trị rủi
ro tốt nhất.
Kết luận chương 2
Trong thời gian vừa qua, nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng tăng trưởng hiệu quả,
an toàn và bền vững, đồng thời nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, hệ thống ngân
hàng Việt Nam cũng đã từng bước áp dụng Hiệp ước Basel trong công tác quản trị
rủi ro ngân hàng như: quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, quy định về trích lập dự
phòng cho rủi ro tín dụng… Tuy nhiên, hệ thống quản trị rủi ro của các NHTM
VN mới chỉ dừng lại ở việc ứng dụng Basel I, chưa ứng dụng các phương pháp
đánh giá rủi ro theo quy định trong Basel II.
Chúng ta có thể thấy rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là đáng báo
động thể hiện ở sự gia tăng nợ xấu ở các NHTM, các vụ án kinh tế có liên quan
đến lĩnh vực hoạt động ngân hàng, rủi ro tiềm ẩn (rủi ro thị trường, rủi ro hoạt
động...) có nguy cơ bùng phát. Điều này cho thấy công tác quản lý rủi ro của các
NHTM trong thời gian qua đạt hiệu quả chưa cao, đặc biệt là rủi ro tín dụng và rủi
ro thanh khoản. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, một số nhu cầu
về việc mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động cũng như mạng lưới chi nhánh ngân
hàng đã trở nên hết sức cần thiết. Từ đó, dẫn đến đòi hỏi phát triển hệ thống quản
54
trị rủi ro tương thích với quy mô. Một số quy định trong hiệp ước Basel I ngày nay
không còn phù hợp đối với nhiều quốc gia. Và các ngân hàng Việt Nam muốn phát
triển bền vững trong hệ thống cần nâng cao khả năng chống đỡ rủi ro thông qua
việc xác định nhu cầu vốn phù hợp với nhiều loại rủi ro khác ngoài rủi ro tín dụng
như rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Muốn làm được điều này, ngân hàng Việt
Nam cần xem xét đến khả năng áp dụng hiệp ước Basel II vào hoạt động của mình.
55
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG
DỤNG HIỆP ƯỚC BASEL II TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO
TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
3.1. Sự cần thiết ứng dụng Hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tại các
NHTM VN
Trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính – ngân hàng với
nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, việc áp dụng Basel II tại Việt Nam là yêu
cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro đối với các
ngân hàng thương mại:
• Trong hoạt động kinh doanh của NHTM có nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan mang lại rủi ro. Rủi ro mang lại những tổn thất cho ngân hàng, ví dụ như:
Giảm vốn kinh doanh ( khách hàng ồ ạt rút tiền tại NH Phương Nam năm 2005);
Bồi thường (NH NNo&PTNT năm 2008- trả nhầm sổ tiết kiệm cho kẻ trộm 276
triệu đồng); Nghĩa vụ pháp lý (Societe Generate năm 2008); Tổn thất tới tài sản
(HSBC tại Argentina năm 2001); Tổn thất uy tín (Societe Generate năm 2008);
Mất thị phần, mất khách hàng ( ngân hàng UBS trong việc giúp các khách hàng
Mỹ trốn thuế thu nhập năm 2008); Sụp đổ, phá sản (Barings-NH Anh năm 1995
và Lehman Brothers năm 2008). Vì vậy, trước yêu cầu tăng cường quản lý rủi ro
theo thông lệ quốc tế, việc ứng dụng Hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam là hoàn toàn phù hợp.
• Bên cạnh đó bối cảnh cạnh tranh và hội nhập thị trường tài chính đòi hỏi
ngành ngân hàng phải có những cải cách mạnh mẽ theo chuẩn mực quốc tế để
nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong từng hoạt động dịch vụ.
Trong nước:
- Cổ phần hoá NHTM và hội nhập WTO, môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt, khách hàng ngày càng khó tính hơn, chỉ cần một lỗi xảy ra cũng đủ để mất thị
phần;
- Tìm kiếm cổ đông chiến lược, nếu không có hệ thống quản lý rủi ro vững mạnh
thì không ai dám đầu tư;
56
- Mục tiêu của các NHTM đều trở thành các tập đoàn tài chính, ngày càng nhiều
rủi ro mới phát sinh;
- Nếu ngân hàng không quản lý rủi ro tốt, dự phòng rủi ro tăng cao sẽ ảnh hưởng
đến tính thanh khoản.
Thế giới:
- Khủng hoảng tín dụng nhà đất dưới chuẩn tại Mỹ cùng sự sụp đổ của các ngân
hàng lớn là hồi chuông cảnh báo cho những ngân hàng và tổ chức tín dụng về việc
chấp nhận rủi ro quá mức để kiếm tìm lợi nhuận;
- Yêu cầu của Ủy ban giám sát các hoạt động ngân hàng Basel về việc các ngân
hàng quản trị ba loại rủi ro chủ yếu: tín dụng, thị trường và hoạt động.
Như vậy, việc ứng dụng các nguyên tắc Basel trong quản trị rủi ro cần được nhìn
nhận đúng đắn và tích cực hơn, không phải là việc làm để tuân thủ quy định mà là
việc làm tạo ra giá trị tăng thêm cho ngân hàng.
3.2. Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn
mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Xây dựng môi trường pháp
luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng minh bạch và công bằng nhằm thúc
đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng. Các chính sách và
quy định pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng góp phần tạo môi trường lành
mạnh và động lực cho các TCTD, doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất
kinh doanh. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi trong lĩnh vực ngân hàng
và phân biệt đối xử giữa các TCTD. Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tăng cường hiệu lực những chế tài pháp lý, kinh
tế và hành chính bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của các TCTD. Hạn chế và tiến tới xoá bỏ việc hình sự hóa các
quan hệ kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng.
Để Nhà nước có thể kiểm soát được trạng thái rủi ro của các định chế tài chính
ngân hàng, thực hiện ngăn ngừa một cuộc khủng hoảng tài chính-ngân hàng tương
tự như cuộc khủng khoảng vừa qua đối với nền kinh tế Việt Nam, khuôn khổ pháp
lý hiện hành của Việt Nam về quản trị rủi ro đối với các định chế TC-NH cần được
57
hoàn thiện trên ba phương diện của quản trị rủi ro là phòng, đo lường và chống rủi
ro trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu một cách sáng tạo những nguyên tắc quản lý rủi
ro của Uỷ ban basel về giám sát ngân hàng phù hợp với điều kiện, thực tiễn của
Việt Nam mà trước hết là đối với rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản, NHNN cần
có những quy định buộc các NHTM chú trọng quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro
thanh khoản và có biện pháp chế tài buộc tuân thủ các quy định này
- Về phòng ngừa rủi ro:
Đối với RRTD: nghiên cứu hoàn thiện, bổ sung những qui định cẩn trọng của pháp
luật về: các điều kiện cấp tín dụng; kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả
nợ; về các biện pháp kỷ luật tài chính nhằm giảm thiểu khả năng xảy ra việc
khách hàng không trả được nợ đúng hạn hay không trả được nợ cho định chế TC-
NH
Đối với rủi ro thanh khoản: pháp luật hướng vào việc hoàn thiện chiến lược và
kịch bản tác nghiệp phòng chống rủi ro thanh khoản của NHTM nhằm đảm bảo
NHTM chủ động ứng phó được với mọi tình huống có thể xảy ra, đồng thời tạo
một khuôn khổ pháp lý thông thoáng cho việc phát triển thị trường chứng khoán,
thị trường tiền tệ, thị trường mua bán nợ nhằm làm tăng tính thanh khoản của các
tài sản của NHTM cũng như góp phần tạo môi trường thuận lợi cho việc tác
nghiệp phòng chống rủi ro thanh khoản của NHTM. Vai trò của NHNN trong việc
tái cấp vốn, trong việc dự báo vĩ mô cũng phải được hoàn thiện để hỗ trợ cho định
chế NHTM trong việc phòng ngừa rủi ro thanh khoản
-Về đo lường rủi ro:
Đối với RRTD: hoàn thiện các chuẩn mực (hay tiêu chuẩn) pháp lý cho việc đo
lường khả năng xảy ra rủi ro của các khoản nợ và theo phương châm lượng hoá
đến mức cao nhất có thể các tiêu chuẩn để chống việc các định chế TC-NH che
giấu nợ xấu và dễ dàng cho việc kiểm tra, giám sát của NHNN. Theo đó, Nhà nước
buộc các định chế tài chính-ngân hàng tự xây dựng cho mình một phương pháp
hay một hệ thống tiêu chuẩn đo lường RRTD thoả mãn những yêu cầu tối thiểu bắt
buộc chung do Nhà nước đặt ra đối với các định chế tài chính-ngân hàng theo tinh
thần đảm bảo kết quả xếp hạng các khoản nợ không phản ánh quá chất lượng thực
của chúng để góp phần đảm bảo dự phòng rủi ro tín dụng ở mức tối thiểu bù đắp đ-
58
ược những tổn thất xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào và trong bất kỳ trạng thái nào
của nền kinh tế.
Đối với rủi ro thanh khoản: hoàn thiện việc kiểm tra, đánh giá của NHNN đối với
chiến lược và kịch bản tác nghiệp phòng chống rủi ro thanh khoản của các NHTM
- Về chống rủi ro:
Đối với RRTD: hoàn thiện các chuẩn mực pháp lý cho việc tính toán nguồn tài
chính bù đắp rủi ro theo tinh thần đảm bảo dự phòng RR tín dụng không dưới mức
bù đắp được những tổn thất tín dụng xảy ra tại bất kỳ thời điểm nào và trước bất kỳ
biến động nào của nền kinh tế; theo đó, khắc phục những bất hợp lý và những lỗ
hổng trong các qui định của pháp luật về việc xác định giá trị tài sản đảm bảo khấu
trừ khi tính dự phòng RRTD, tránh việc các định chế TC-NH lợi dụng để giảm l-
ượng dự phòng RRTD phải lập.
Đối với rủi ro thanh khoản: hoàn thiện cơ sở pháp lý cho sự can thiệp, kiểm soát
của NHNN đối với các NHTM xảy ra rủi ro thanh khoản, hoàn thiện pháp luật về
phá sản đối với các NHTM.
Bên cạnh đó NHNN cần xây dựng các quy định riêng cho các loại hình ngân hàng
cũng như phi ngân hàng về các nghiệp vụ cụ thể mà từng đối tượng này được thực
hiện, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi thị trường xuất hiện ngày càng nhiều
sản phẩm liên kết chứng khoán - ngân hàng, bảo hiểm - ngân hàng; các ngân hàng
Việt Nam có xu hướng phát triển thành tập đoàn ngân hàng, mở chi nhánh, công ty
con dẫn đến các mối liên kết giữa các chi nhánh và công ty trong tập đoàn ngày
càng trở nên chằng chịt; các dịch vụ ngân hàng ngày càng phức tạp, đa dạng.
3.2.2. Nâng cao chất lượng thông tín tín dụng
Nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tín dụng tại Trung tâm Thông tin tín dụng
của NHNN nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin cập nhật và chính xác về khách hàng.
Cần có những biện pháp tuyên truyền thích hợp để các NHTM nhận thấy rõ quyền
lợi và nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng.
Ban hành các văn bản hướng dẫn việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm ở
từng ngân hàng cũng như việc thành lập và hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm độc lập. Đối với các ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cũng cần nêu rõ điều
kiện tiên quyết để có thể xây dựng một hệ thống xếp hạng tín nhiệm độc lập.
59
Những ngân hàng nào không đạt yêu cầu sẽ phải sử dụng kết quả xếp hạng tín
nhiệm độc lập của một tổ chức có uy tín do ngân hàng Nhà nước chỉ định. Định
kỳ, ngân hàng Nhà nước cũng hướng dẫn các ngân hàng thương mại bổ sung kịp
thời các tiêu chí xếp hạng dựa trên chuẩn mực Basel II. Đối với các tổ chức xếp
hạng tín nhiệm độc lập, cho phép thành lập với nhiều hình thức sở hữu khác nhau
những cũng phải giám sát chặt chẽ để bảo đảm chất lượng của các kết quả xếp
hạng tín nhiệm này. Không để xảy ra tình trạng thông đồng giữa tổ chức xếp hạng
với tổ chức được xếp hạng. Những tiêu chí của tổ chức xếp hạng này cũng phải
phù hợp với Hiệp ước Basel.
Tăng cường các quy chế công bố thông tin, nâng cao chất lượng và mức độ tin cậy
của thông tin thông qua cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm toán độc
lập.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra kiểm soát, giám sát ngân hàng
Đổi mới phương pháp, quy trình thanh tra, giám sát ngân hàng đi đôi với hoàn
thiện các quy định an toàn, các biện pháp thận trọng trong hoạt động ngân hàng
dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ tiên tiến và các nguyên tắc cơ bản về giám sát
ngân hàng hữu hiệu của Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel và các chuẩn mực quốc
tế về giám sát ngân hàng Basel I, từng bước tiến tới thực hiện các nguyên tắc,
chuẩn mực cơ bản theo Hiệp ước vốn mới (Basel II) sau năm 2010. Tập trung nâng
cao căn bản năng lực của NHNN trong việc cảnh báo và xử lý rủi ro trong hoạt
động ngân hàng; triển khai phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro;
kết hợp chặt chẽ giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, giám sát an toàn vi mô
với giám sát an toàn vĩ mô. Hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro gây ra tổn
thất về tài chính, vì vậy phương châm hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng phải
lấy cảnh báo, phát hiện sớm, phòng ngừa các rủi ro, vi phạm làm trọng tâm thay vì
chỉ dựa vào việc thanh tra tại chỗ (thanh tra tuân thủ) để phát hiện sai phạm đã xảy
ra và tổn thất đã hiện hữu. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra, giám
sát ngân hàng với cơ quan thanh tra, giám sát tài chính phi ngân hàng trong nước,
cơ quan giám sát tài chính nước ngoài để từng bước triển khai các hình thức giám
sát hợp nhất các TCTD hoạt động đa năng, các tập đoàn tài chính - ngân hàng và
giám sát chặt chẽ các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
60
Theo hiệp ước Basel, ngân hàng Nhà nước đóng vai trò là cơ quan giám sát ngân
hàng giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định cho hoạt động của toàn hệ
thống ngân hàng, bao gồm cả mạng lưới các chi nhánh của ngân hàng nước ngoài
cũng như ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Vì vậy, ngân hàng Nhà nước được
quyền chủ động rất lớn, bao gồm chủ động trong việc đưa ra quy định chi tiết cho
toàn hệ thống, cấp phép hoặc ngừng cấp phép cho mỗi ngân hàng khi muốn lựa
chọn một phương pháp đánh giá rủi ro, đồng thời có quyền ra phán quyết tối cao
đối với tổ chức tín dụng. Khi phát hiện những sai phạm so với nội dung cấp phép.
Để đảm nhiệm được trách nhiệm nặng nề này, trong thời gian tới cần nâng cao
hiệu quả hoạt động thanh tra kiểm soát và giám sát ngân hàng của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
Tập trung cải cách và phát triển hệ thống giám sát ngân hàng theo các nội
dung chủ yếu sau:
- Đổi mới mô hình tổ chức của Thanh tra NHNN hiện nay theo hướng tập
trung, thống nhất, chuyên nghiệp và phù hợp với chuẩn mực quốc tế về thanh tra,
giám sát ngân hàng (Basel); thành lập Cục Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng
thuộc cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNN. Tập trung nâng cao năng lực và đổi mới
triệt để phương pháp giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, đồng thời nâng cao chất lượng,
hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa;
- Mở rộng danh mục các đối tượng chịu sự thanh tra, giám sát của NHNN;
- Hoàn thiện quy chế kiểm toán độc lập đối với các TCTD cho phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. Hoàn thiện quy chế về tổ chức và hoạt
động của cơ quan kiểm toán nội bộ và hệ thống kiểm soát nội bộ trong các TCTD;
- Xây dựng và triển khai khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh tra, giám
sát dựa trên cơ sở tổng hợp và rủi ro. Xây dựng hệ thống giám sát rủi ro trong hoạt
động ngân hàng có khả năng cảnh báo sớm đối với các TCTD có vấn đề và các rủi
ro trong hoạt động ngân hàng. Ban hành quy định mới đánh giá, xếp hạng các
TCTD theo tiêu chuẩn CAMEL(S);
- Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của Trung tâm Thông tin tín dụng
trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng nhằm hỗ trợ hoạt động kinh
doanh của các TCTD và hoạt động giám sát của NHNN đối với các TCTD;
61
- Rà soát và hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp hơn với
thông lệ tốt, chuẩn mực quốc tế và đảm bảo việc tuân thủ nghiêm túc các quy định này,
đặc biệt là quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. Ban hành quy
định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản trị nói chung và quản lý
rủi ro nói riêng áp dụng đối với các TCTD.
- Phát triển đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát đủ về số lượng và có trình độ
nghiệp vụ cao, có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, được trang bị đầy đủ kiến
thức về pháp luật, quản lý và các công cụ thực thi nhiệm vụ;
- Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tham gia các hiệp ước, thoả thuận
quốc tế về giám sát ngân hàng và an toàn hệ thống tài chính. Tăng cường trao đổi
thông tin với các cơ quan giám sát ngân hàng nước ngoài.
3.2.4. Nâng cao tính tin cậy của các tổ chức định mức tín nhiệm
Xếp hạng tín nhiệm được thực hiện trên trọng số rủi ro quốc gia và trọng số rủi ro
công ty. Tuy vậy, việc đánh giá và xếp hạng rủi ro của nước ta vẫn còn những
điểm chưa đồng nhất dựa trên những tiêu chuẩn xếp hạng rủi ro khác nhau căn cứ
vào các mô hình xếp hạng rủi ro như: mô hình ICRG ( International country risk
guide, mô hình Beta quốc gia, …. ). Điều này có thể xuất phát từ những quan
điểm khác nhau trong đánh giá rủi ro nhưng nguyên nhân quan trọng hơn hết là
tính minh bạch và sự thống nhất trong các thông tin được công bố. Vấn đề này
cũng tồn tại trong các xếp hạng tin nhiệm đối với các công ty, vì vậy để đảm bảo
độ tin cậy của bảng xếp hạng này làm cơ sở cho quản trị rủi ro của các ngân hàng
thương mại, các doanh nghiệp cần gia tăng tính trung thực, kịp thời và chịu trách
nhiệm về các thông tin do mình công bố, đồng thời, Nhà nước cần có những biện
pháp chế tài thích đáng trong những trường hợp vi phạm các quy định về công bố
thông tin, tránh tình trạng giơ cao đánh khẽ như thời gian qua.
3.2.5. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các NHTM Nhà nước
Báo cáo nghiên cứu “Hội nhập quốc tế trong hệ thống ngân hàng” tháng 5 năm
2005, được soạn thảo bởi Trung tâm kinh tế (Center for InternationalEconomics,
TS. Jenny Gordon, Ông Bob Warrner), Công ty TNHH tư vấn Erskinomics
(Erskinomics Consulting Pty Limited, Alex Erskine, Chuyên gia tư vấn trưởng
quốc tế), Vietbid (Nguyễn Thanh Hà, Phạm Quang Thành, Nguyễn Vân Anh) cho
62
rằng, sự chi phối của sở hữu nhà nước trong các ngân hàng là không tương thích
với một hệ thống ngân hàng có sự cạnh tranh cao. Một hệ thống ngân hàng hiệu
quả cần có mức độ cạnh tranh cao; do vậy, nếu có sở hữu nhà nước thì ngân hàng
này phải có khả năng hoạt động như một pháp nhân độc lập. Thực tế ở Việt Nam
cho thấy, sự chi phối của các ngân hàng thương mại nhà nước trong hệ thống ngân
hàng là khá lớn. Điều này được xem là một điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt
Nam. Không còn sự lựa chọn nào khác là phải tiến hành cổ phần hoá các ngân
hàng thương mại nhà nước để tăng năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của
các ngân hàng này. Một điểm cần lưu ý ở đây là, việc cổ phần hoá các ngân hàng
thương mại nhà nước phải thay đổi được cách thức quản trị ngân hàng, tránh tình
trạng “bình mới rượu cũ”. Cùng với tiến trình hội nhập và các cam kết quốc tế, có
thể giảm dần tỷ lệ nắm giữ vốn cổ phần của nhà nước trong các ngân hàng này sau
khi cổ phần hoá. Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên tắc thận
trọng, bảo đảm ổn định kinh tế – xã hội và an toàn hệ thống, cho phép các nhà đầu
tư nước ngoài, nhất là các ngân hàng hàng đầu trên thế giới mua cổ phiếu và tham
gia quản trị, điều hành các NHTM Việt Nam.
Trong 5 ngân hàng thương mại nhà nước thì Vietcombank và Vietinbank đã được
cổ phần hóa và đang niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HoSE).
Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu long (MHB) vừa được phê duyệt
cổ phần hóa với phương án bán 31.9% vốn điều lệ, cổ đông Nhà nước nắm giữ
68.1% vốn. Trước đó, NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
(Agribank) cũng đã được phê duyệt chuyển đổi thành công ty TNHH một thành
viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn; và có nhiều thông tin cho thấy ngân hàng
quốc doanh còn lại NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đang lên kế hoạch
cổ phần hóa.
3.2.6. Tăng tính chủ động và sức mạnh tài chính cho các NHTM
Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, Việt Nam cần xây dựng một hệ
thống ngân hàng có uy tín, đủ năng lực cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả cao, an
toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư.
Lành mạnh hoá và nâng cao một cách nhanh chóng và căn bản năng lực tài chính
của các NHTM để bảo đảm các NHTM có đủ năng lực tài chính (về quy mô và chất
63
lượng). Tiếp tục tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng
và khả năng sinh lời của tài sản có; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản
có. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối của các NHTMNN.
Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái
phiếu; sáp nhập; hợp nhất; mua lại. Kiên quyết xử lý các NHTMCP yếu kém và có
khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải
thể, phá sản các NHTMCP theo quy định pháp luật, song đảm bảo không gây tác
động lớn về mặt kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho các NHTM mua, bán, hợp
nhất, sáp nhập để tăng khả năng cạnh tranh và quy mô hoạt động. Bảo đảm duy trì
mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong dài hạn.
Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn
định kinh tế - xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài, đặc biệt là các ngân hàng có tiềm lực tài chính, công nghệ, quản lý và uy tín
mua cổ phiếu, tham gia quản trị, điều hành NHTM Việt Nam. Về lâu dài, nhà nước
chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc tỷ lệ cổ phần lớn tại một số ít NHTMNN
được cổ phần hoá tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng và yêu cầu quản lý,
bảo đảm an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao nguyên tắc
thương mại, kỷ luật thị trường trong hoạt động của các NHTM.
Vấn đề nợ khó đòi cũng được đặt ra đòi hỏi các ngân hàng đưa ra biện pháp giải
quyết trong tiến trình nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Các nước trong khu
vực đều có những biện pháp riêng của mình để giải quyết. Tuy nhiên, giải pháp
chung của các nước trong khu vực là thành lập một công ty riêng để giải quyết
vấn đề tài chính, các khoản nợ khó đòi sẽ được chuyển đến công ty này.
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý đối với các NHTMNN và các TCTD khác. Theo
đó, các TCTD được thực sự tự chủ (về tài chính, hoạt động, quản trị điều hành, tổ
chức bộ máy, nhân sự), hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và được
hoạt động trong khuôn khổ pháp lý minh bạch, công khai, bình đẳng. Quan hệ giữa
NHNN với các TCTD không chỉ là quan hệ quản lý nhà nước mà còn là quan hệ
kinh tế trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường, minh bạch, xoá bỏ bao cấp,
đặc quyền, thiên vị và độc quyền kinh doanh. Xoá bỏ cơ chế đại diện chủ sở hữu
64
của NHNN đối với các NHTMNN. NHNN đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo lập
môi trường thuận lợi cho hoạt động tiền tệ, ngân hàng thông qua việc ban hành các
quy định, chính sách, điều tiết thị trường tiền tệ và tổ chức thực hiện giám sát an
toàn cũng như việc chấp hành các quy định pháp luật trong hoạt động tiền tệ, ngân
hàng.
3.3. Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại
3.3.1. Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
Nâng cao tính thực tiễn và khả năng đánh giá chính xác của hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ, thực hiện xếp hạng tín dụng theo định kỳ và duy trì một cách liên tục
để làm cơ sở trong xây dựng chính sách khách hàng về giới hạn tín dụng, áp dụng
hình thức bảo đảm tiền vay thích hợp, các định hướng tín dụng với từng khách
hàng. Xếp hạng tín dụng là một công cụ hiệu quả, mang tính khoa học trong quản
trị rủi ro tín dụng thông qua lượng hóa các đánh giá và đưa ra các quyết định phù
hợp. Hệ thống xếp hạng tín dụng khách hàng mới được các ngân hàng Việt Nam
ứng dụng trong một vài năm trở lại đây và còn cần nhiều trải nghiệm để sửa đổi,
hiệu chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế. Do đó, hoàn thiện hệ thống xếp hạng
tín dụng nội bộ đang và sẽ là một trong những công việc trọng tâm để nâng cao
chất lượng tín dụng.
Hiện nay, phần lớn các ngân hàng thương mại thực hiện phân loại nợ, trích dự
phòng rủi ro theo Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm
2005 của Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng. Các nội dung của Quyết định trên nhìn chung đã tiếp cận được với cách
phân loại nợ và trích lập dự phòng của các ngân hàng trên thế giới. Việc thực hiện
Quyết định này đã giúp các ngân hàng thương mại đánh giá đúng, trung thực hơn
chất lượng các khoản tín dụng; từ đó, trích lập dự phòng hạn chế thấp nhất rủi ro
có thể xảy ra. Tuy nhiên, các quy định tại Điều 6 Quyết định nêu trên mang tính
định lượng, do vậy cũng có khiếm khuyết nhất định. Ví dụ, có những khoản nợ
chưa phải nợ quá hạn, nếu theo Điều 6 là nợ nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn); nhưng có
nhiều thông tin không tốt về doanh nghiệp mà ngân hàng thu thập được, trong
trường hợp này ngân hàng có thể chuyển khoản nợ trên sang nhóm nợ có mức độ
65
rủi ro cao hơn. Như vậy, các ngân hàng Việt Nam nên tự xây dựng cho ngân hàng
mình hệ thống đánh giá nội bộ riêng theo Điều 7 Quyết định 493/2005/QĐ-
NHNN, trong đó có các chỉ tiêu định tính, nhằm phòng ngừa, hạn chế tốt nhất rủi
ro có thể xảy ra đối với các khoản cho vay.
3.3.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Vấn đề thường gặp phải không riêng đối với Việt Nam, mà với hầu hết các nền
kinh tế mới nổi nói chung đó là không có đủ đội ngũ chuyên viên có chất lượng
cao để phục vụ trong cả khu vực công và khu vực tư. Những chuyên viên này cần
có một sự am hiểu sâu rộng về các vấn đề kinh tế vĩ mô, kế toán, tài chính cũng
như có khả năng phân tích cả định tính lẫn định lượng, khả năng kiểm tra định
lượng, dự báo, đánh giá và quản trị rủi ro. Trong thời gian sắp tới, vấn đề này cần
được cải thiện cấp bách để tạo nên sự ổn định an toàn cần thiết cho hoạt động của
khu vực tài chính.
Nhằm đáp ứng kịp thời cho những nhu cầu về nhân lực trước mắt, cần có sự phối
hợp liên thông giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại
trong hệ thống cùng với các chuyên gia nhiều kinh nghiệm từ ngân hàng BIS khu
vực Châu Á. Các tổ chức này có thể phối hợp với các đơn vị liên quan thường
xuyên tổ chức các khoá đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cập nhật để nâng cao năng
lực đánh giá, đo lường, phân tích, kiểm soát rủi ro tín dụng cho cán bộ nhân viên.
Theo lời khuyên của các chuyên gia về quản trị rủi ro tín dụng thì sẽ không có
phương pháp phân tích phức tạp nào có thể thay thế được kinh nghiệm và đánh giá
chuyên môn của những người phụ trách trong lĩnh vực quản trị rủi ro.
Ngoài ra, cần xây dựng chiến lược đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực trung và
dài hạn có đủ khả năng đón đầu phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam trong thời gian tới. Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức Tài chính - Tiền tệ
quốc tế để tận dụng nguồn vốn, kỹ thuật cũng như kỹ năng và kiến thức xử lý
Chế độ ưu đãi cần thiết đối với những chuyên viên, cán bộ trong lĩnh vực ngân
hàng cũng cần được quan tâm. Tránh để xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám”
trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Đồng thời nâng cao đạo đức nghề nghiệp và
trách nhiệm của cán bộ ngân hàng.
66
Đối với các ngân hàng cần có trung tâm đào tạo được trang bị hiện đại, nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ sở đào tạo trong ngành ngân hàng. Chương trình
đào tạo phải thiết thực, cụ thể nhằm trau dồi, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ của ngân
hàng hiện đại. Tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất
là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc
tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc
tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.
Ngoài ra, một giải pháp cũng tương đối khả thi trong việc tạo điều kiện tiếp cận
kiến thức mới cho các chuyên gia ngân hàng đó chính là Ngân hàng Nhà nước sẽ
chủ động trong việc đặt hàng nhiều đề tài nghiên cứu với sự tham gia phối hợp của
những người có kinh nghiệm thực tế và những người am hiểu lý thuyết. Sự phối
hợp này sẽ tạo ra một sản phẩm có chất lượng, có ý nghĩa tham khảo cho hầu hết
các ngân hàng.
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin
Ngân hàng cần phải xây dựng hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại, ổn
định. Thường xuyên kiểm tra bảo trì, bảo dưỡng kịp thời để đảm bảo hoạt động ổn
định trong mọi trường hợp. Tăng cường hệ thống thông tin thị trường tài chính để
hạn chế rủi ro bất cân đối thông tin, tạo cơ sở tốt cho các cơ quan giám sát thực
hiện tốt vai trò giám sát của mình. Theo đó, một vấn đề đặt ra hiện nay là cần đổi
mới hệ thống thông tin thị trường ở rất nhiều khía cạnh, từ các đơn vị báo cáo đến
các đơn vị sử dụng báo cáo. Đối với các đơn vị sử dụng báo cáo, cụ thể là giữa các
cơ quan thực hiện chức năng giám sát hoạt động của thị trường tài chính cần có sự
chia sẻ thông tin, chuẩn hoá các công tin đánh giá sức khoẻ của thị trường, để
tránh tình trạng các đơn vị báo cáo phải báo cáo quá nhiều nơi với những tiêu chí
khác nhau cho một mục đích giám sát, dẫn đến chất lượng báo cáo không đảm bảo.
Thông tin thị trường tài chính được chuẩn hoá và đảm bảo tính chính xác, kịp thời
có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giám sát và hạn chế
rủi ro bất đối xứng về thông tin.
Đồng thời, ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin và phân tích thông tin toàn
diện, cung ứng nguồn thông tin chính xác, đáng tin cậy cho các bộ phận chuyên
môn có liên quan. Các phân tích về ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đang được
67
các ngân hàng bắt đầu thực hiện để xây dựng kho dữ liệu phân tích tín dụng nhưng
chưa được đầy đủ và thiếu tính kết nối, hỗ trợ giữa các ngân hàng trong chia sẻ
thông tin. Sự hợp tác một cách toàn diện giữa các ngân hàng trong xây dựng và
chia sẻ cơ sở dữ liệu thông tin về doanh nghiệp, về ngành là con đường ngắn nhất
để hoàn thiện hệ thống thông tin và giảm chi phí khai thác thông tin một cách hợp
lý nhất.
3.3.4. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin
- Tiếp tục nâng cấp mạng diện rộng và hạ tầng công nghệ thông tin với các giải
pháp kỹ thuật và phương thức truyền thông phù hợp với trình độ phát triển của hệ
thống ngân hàng Việt Nam và các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Hoàn thiện và phát
triển các mô thức quản lý nghiệp vụ ngân hàng cơ bản; các quy trình, thủ tục quản lý
và tác nghiệp theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế; đồng thời theo hướng hiện đại, tự
động hoá và được tích hợp trong hệ thống quản trị ngân hàng hoàn chỉnh và tập trung;
- Tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng.
Triển khai các đề án cải tạo, nâng cấp các giải pháp an ninh mạng, bảo mật dữ liệu,
bảo đảm an toàn tài sản và hoạt động của NHNN và các TCTD. Xây dựng hệ thống
bảo mật thông tin, dữ liệu và an toàn mạng, trong đó khẩn trương hoàn thành và đưa
vào sử dụng các Trung tâm Dữ liệu dự phòng hay Trung tâm Phục hồi thảm hoạ của
NHNN và các TCTD. Nghiên cứu và xây dựng chiến lược về đường truyền dữ liệu,
liên kết với mạng thông tin quốc gia để tạo thế chủ động cho ngành ngân hàng;
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin, thống kê, báo cáo nội bộ ngành ngân
hàng để xây dựng được hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu quốc gia hiện đại,
tập trung và thống nhất. Triển khai mạng thông tin nội bộ rộng khắp toàn hệ thống
trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ mạng.
3.3.5. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán
Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và phải xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh
tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút
khách hàng trong nước. Phát triển hạ tầng công nghệ ngân hàng hiện đại ngang
tầm với các nước trong khu vực dựa trên cơ sở ứng dụng có hiệu quả công nghệ
thông tin, điện tử tiên tiến và các chuẩn mực, thông lệ quốc tế phù hợp với điều
kiện Việt Nam. Hiện đại hoá toàn diện, đồng bộ công nghệ ngân hàng của NHNN
68
và các TCTD trên các mặt về nghiệp vụ, quản lý và phương tiện kỹ thuật. Tiếp cận
nhanh, vận hành có hiệu quả và làm chủ được các ứng dụng công nghệ ngân hàng
tiên tiến. Đầu tư vào công nghệ hiện đại có thể làm tăng chi phí ban đầu, nhưng sẽ
giảm chi phí nghiệp vụ trong dài hạn, thu hút nhiều khách hàng, quản trị được rủi
ro do thông tin nhanh chóng, công tác điều hành hiệu quả.
3.3.6. Khuyến khích tính chủ động, giám sát và minh bạch thông tin
Điều hành ngân hàng thời hội nhập nên dựa vào những trụ cột cơ bản theo tinh
thần của Hiệp ước Basel II, đó là khuyến khích tính chủ động, giám sát và minh
bạch thông tin. Theo đó, các ngân hàng thương mại tự chọn cách thức tính toán, đo
lường rủi ro cho mình, thiết lập chương trình quản trị rủi ro riêng (dựa trên một số
phương pháp hiện đại, được dùng rộng rãi nhưng “vừa sức” với khả năng ứng
dụng của ngân hàng Việt Nam cũng như khả năng giám sát của NHNN), rồi gửi
bản đề xuất ấy cho NHNN. NHNN sẽ xem xét, có các điều chỉnh cần thiết, rồi xem
đó là một bản hợp đồng ghi nhớ mà ngân hàng thương mại phải tuân thủ, NHNN
sẽ định kỳ yêu cầu báo cáo, kiểm tra giám sát việc tuân thủ bản hợp đồng ấy.
Mặt khác, chính ngân hàng thương mại phải gia tăng tính minh bạch trong các báo
cáo của mình, “trình bày” cho công chúng rõ hơn về những rủi ro mà mình chấp
nhận, các cách thức quản trị, mức độ vốn dự phòng của mình cho các rủi ro...
Chính điều này sẽ tạo ra một “kỷ luật thị trường” cho các ngân hàng, nếu ngân
hàng hoạt động quá rủi ro thì tự động cổ đông sẽ “trừng phạt” bằng cách bán cổ
phiếu đi, hạn mức tín nhiệm của ngân hàng sẽ thấp, và ngân hàng khác sẽ nhăm
nhe “nuốt chửng” ngân hàng đó.
3.3.7. Cải tiến quy trình quản trị rủi ro
Các NHTM cần phải chuẩn hóa mô hình tổ chức theo mô hình thông lệ quốc tế,
mô hình tổ chức tập trung hướng tới khách hàng, theo đó Hội sở chính tập trung
quản lý và xử lý tác nghiệp kinh doanh của ngân hàng, các chi nhánh tập trung vào
việc bán các sản phẩm cho khách hàng và thực hiện chính sách chăm sóc khách
hàng.
Đổi mới cơ cấu quản trị theo tiêu chuẩn quốc tế: nhất quán hệ thống chính sách,
tập trung quản trị rủi ro, phân chia trách nhiệm cụ thể và thù lao tương xứng.
69
Kết luận chương 3
Từ việc phân tích tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng đến việc tìm hiểu
những khó khăn mà các ngân hàng có thể gặp phải trong quá trình vận dụng theo
chuẩn mực của hiệp ước Basel, trong chương 3 đề tài cố gắng đưa ra một số giải
pháp có ý nghĩa trong việc nâng cao hiệu quả ứng dụng Basel II tại các NHTM
Việt Nam. Để làm được điều này ngoài sự nỗ lực của chính bản thân các NHTM
cần phải có sự hỗ trợ từ phía NHNN thông qua các thông tư, quyết định và nhất là
một hành lang pháp lý thông thoáng từ đó giúp các NHTM VN ngày càng vững
mạnh hơn trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
70
KẾT LUẬN
Vấn đề hiện nay mà hệ thống ngân hàng Việt Nam gặp phải cũng giống như ở các
nền kinh tế mới nổi khác, đó chính là sự chưa ổn định về hệ thống luật pháp cũng
như hoạt động ngân hàng. Còn có rất nhiều biến động mang tính chất thay đổi toàn
diện ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng. Vì vậy, trong giai đoạn vừa qua, hệ
thống ngân hàng Việt Nam chưa có điều kiện để hoàn thiện các cơ sở hạ tầng tài
chính, hệ thống công nghệ thông tin cũng như hệ thống văn bản pháp luật phục vụ
nhu cầu ứng dụng Hiệp ước Basel mới. Ngoài ra, sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất
lượng cao làm việc trong lĩnh vực ngân hàng cũng là một trong những nguyên
nhân gây khó khăn cho quá trình vận dụng những mô hình quản trị rủi ro hiện đại
vào hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thông qua toàn bộ nội dung đề tài từ chương 1 đến chương 3, từ việc phân tích
tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng đến việc tìm hiểu những khó khăn mà
các ngân hàng có thể gặp phải trong quá trình vận dụng theo chuẩn mực của hiệp
ước Basel, đề tài cố gắng đề ra một số giải pháp có ý nghĩa trong việc nâng cao
hiệu quả ứng dụng Basel tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt:
1. Ths. Nguyễn Tuấn Anh (2009), “Mối quan hệ giữa hoạt động của ngân hàng
thương mại và tăng trưởng kinh tế”, Tạp chí ngân hàng, (18/2009).
2. Nguyễn Văn Bình (2007), “Một số thách thức đối với hệ thống thanh tra,
giám sát ngân hàng trong tình hình mới”, Tạp chí Ngân hàng, (01/2007), Hà
Nội.
3. TS.Hạ Thị Thiều Dao (2010), “Giám sát ngân hàng theo Basel 2 và việc tuân
thủ của Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (15/2010).
4. PGS.TS. Trần Huy Hoàng (2008), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB
Lao động – Xã hội.
5. PGS.TS. Trần Huy Hoàng (2008), “Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của
ngân hàng thương mại để phát triển bền vững”, Tạp chí phát triển kinh tế, số
212 tháng 6-2008.
6. PGS.TS. Nguyễn Thị Liên Hoa (2007), “Hiệp ước Basel mới với vấn đề
kiểm soát rủi ro trong các ngân hàng thương mại”, Tạp chí phát triển kinh tế,
(8/2007).
7. Khúc Quang Huy (2007), “Basel II- Sự thống nhất quốc tế về đo lường và
các tiêu chuẩn vốn”, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội
8. ThS. Nguyễn Thị Minh Huệ (2009),“Thực trạng hoạt động giám sát của
Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với ngân hàng thương mại”
9. Nguyễn Đại Lai, Bình luận và giới thiệu khái quát 25 nguyên tắc cơ bản của
Ủy ban Basel về Thanh tra – Giám sát ngân hàng, www.sbv.gov.vn
10. PGS.TS. Trần Hoàng Ngân & Ths. Nguyễn Thị Thuỳ Linh, 2007, “Xây
dựng chuẩn mực cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong quá trình hội
nhập”, Tạp chí phát triển kinh tế, (12/2007)
11. Nguyễn Thanh Phong, “Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
72
12. TS. Lê Thanh Tâm và Phạm Bích Liên(2009), “Quản trị rủi ro hoạt động:
kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với các ngân hàng thương mại Việt
Nam”.
13. TS. Nguyễn Thị Kim Thanh (2009), “Cam kết mở cửa thị trường tài chính
VN và yêu cầu hoàn thiện, nâng cao năng lực giám sát tài chính vĩ mô”
14. Ngân hàng nhà nước, 2008, “Quản lý rủi ro hoạt động và khả năng áp dụng
Basel II tại Việt nam”, www.sbv.gov.vn cập nhật ngày 21/10/2008.
15. Ngân hàng nhà nước, 2010, “Quy định mới về tỷ lệ an toàn vốn: Tiệm cận
chuẩn quốc tế ”, www.sbv.gov.vn cập nhật ngày 28/05/2010.
16. Quyết định 457/2005/QĐ – NHNN, Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động của tổ chức tín dụng, ngày 19 tháng 4 năm 2005.
17. Quyết định 03/2007/QĐ-NHNN, Sửa đổi bổ sung quyết định 457/2005/QĐ-
NHNN qui định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, ngày
19 tháng 1 năm 2007.
18. Quyết định 112/2006/QĐ-TTg, ngày 24/05/2006, Đề án phát triển ngành
ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
19. Các website www.sbv.gov.vn, www.vneconomy.vn
Tiếng Anh
1. Benton E.Gup, The New Basel Capital Accord, Thomson
2. Basel Committee on Banking Supervision, Amendment to the Capital
Accord to incorporate market risks, November 2005
73
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
25 NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
HIỆU QUẢ CỦA UỶ BAN BASEL
Nguyên tắc 1 - Mục đích, tính độc lập, quyền hạn, tính minh bạch và sự
hợp tác: Một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả phải phân định trách nhiệm rõ
ràng và mục đích của mỗi đơn vị có thẩm quyền giám sát ngân hàng. Mỗi đơn vị
phải có sự hoạt động độc lập, các quy trình minh bạch, có lực lượng nhân sự đầy
đủ và được quản lý phù hợp, phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước nhiệm vụ được
giao. Một khuôn khổ pháp lý phù hợp đối với việc giám sát hệ thống ngân hàng
cũng rất cần thiết, bao gồm cả các điều liên quan đến cấp phép thành lập mới các
ngân hàng và việc giám sát liên tục hoạt động của hệ thống ngân hàng; quyền hạn
kiểm tra tính tuân thủ của hệ thống ngân hàng cũng như kiểm tra khi có nghi vấn
về tính an toàn và bền vững của hệ thống. Các quy định về chia sẻ thông tin giữa
các cơ quan quản lý nhà nước và quy định về bảo mật các thông tin cũng cần phải
được quy định rõ ràng.
Nguyên tắc 2 – Các hoạt động được phép: Các hoạt động được phép của
các tổ chức được cấp phép và chịu sự giám sát dưới tên gọi ngân hàng phải được
quy định rõ ràng và việc sử dụng cụm từ “ngân hàng” ở tên gọi của tổ chức phải
được kiểm soát gắt gao.
Nguyên tắc 3 – Các tiêu chí cấp phép: Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền cấp phép phải có quyền đề ra các tiêu chí và từ chối đơn xin cấp Giấy phép
thành lập nếu hồ sơ không đáp ứng được các tiêu chuẩn đề ra. Quá trình cấp phép
tối thiểu phải có sự đánh giá về cơ cấu chủ sở hữu và quản trị ngân hàng, trong đó
bao gồm sự phù hợp và khả năng của các thành viên Hội đồng quản trị cũng như
Ban điều hành ngân hàng, chiến lược và kế hoạch hoạt động của ngân hàng, hệ
thống kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro, điều kiện tài chính dự kiến, bao gồm cả
vốn gốc. Nếu chủ sở hữu là hoặc tổ chức mẹ là một ngân hàng nước ngoài, ngân
hàng đó phải được cơ quan giám sát nước nguyên xứ chấp thuận trước.
74
Nguyên tắc 4 - Chuyển quyền sở hữu lớn: Cơ quan quản lý nhà nước phải
có quyền xem xét và từ chối bất cứ đề xuất chuyển nhượng quyền sở hữu lớn hoặc
chuyển nhượng quyền kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp tại các ngân hàng hiện
hữu cho một bên khác.
Nguyên tắc 5 – Giao dịch mua lại lớn: Cơ quan quản lý nhà nước phải có
quyền chuẩn y các giao dịch mua lại lớn hoặc quyết định đầu tư lớn của ngân
hàng, ngược lại các tiêu chí đã nêu, bao gồm cả việc thành lập các hoạt động
xuyên quốc gia, và phải đảm bảo được rằng, các giao dịch hoặc thay đổi cơ cấu
không ảnh hưởng đến an toàn của ngân hàng, không đem đến cho ngân hàng các
rủi ro không đáng có hoặc gây cản trở đến việc giám sát hệ thống ngân hàng hiệu
quả.
Nguyên tắc 6 – An toàn vốn tối thiểu: Cơ quan quản lý nhà nước phải đưa
ra các quy định về an toàn vốn tối thiểu phù hợp đối với các ngân hàng để phản
ánh được những rủi ro mà ngân hàng gặp phải, và phải quy định rõ ràng về thành
phần của vốn, đảm bảo rằng vốn phải có khả năng chịu được lỗ. Tối thiểu là đối
với các ngân hàng hoạt động quốc tế, các quy định này không được thấp hơn mức
mà Uỷ ban Basel quy định.
Nguyên tắc 7 – Quy trình quản trị rủi ro: Cơ quan quản lý nhà nước phải
đảm bảo rằng, ngân hàng và tập đoàn ngân hàng phải có hệ thống quản trị rủi ro
toàn diện (bao gồm cả khả năng kiểm soát rủi ro của Hội đồng quản trị và Ban điều
hành) để phát hiện, đánh giá, xử lý và kiểm soát, giảm thiểu tất cả các rủi ro để
đánh giá tổng thể mức độ đủ vốn của ngân hàng trước các danh mục rủi ro. Các
quy trình quản trị rủi ro này phải phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp của tổ
chức.
Nguyên tắc 8 - Rủi ro tín dụng: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo
rằng các ngân hàng có một quy chế quản lý rủi ro tín dụng cân nhắc tới các rủi ro
của tổ chức với các chính sách an toàn, các quy trình quản lý rủi ro nhằm phát
hiện, đo lường, kiểm tra và kiểm soát rủi ro tín dụng (bao gồm cả rủi ro tác
nghiệp). Điều này cũng bao gồm việc cho vay và đầu tư, đánh giá chất lượng của
75
các khoản nợ và đầu tư, đồng thời tạo ra một hệ thống quản trị rủi ro liên tục đối
với các khoản nợ và khoản mục đầu tư đó.
Nguyên tắc 9 – Tài sản có rủi ro, dự phòng và dự trữ: Cơ quan quản lý
cần đảm bảo rằng ngân hàng phải xây dựng các chính sách đảm bảo an toàn tối
thiểu cho việc quản lý các tài sản có rủi ro, xác định mức dự phòng và dự trữ đủ
cho tổ chức.
Nguyên tắc 10 - Giới hạn mức cho vay: Cơ quan quản lý rủi ro phải đảm
bảo rằng ngân hàng phải có các chính sách và hệ thống quản trị rủi ro nhằm nhận
dạng, quản lý các khoản cho vay lớn trong danh mục, cơ quan quan lý đồng thời
cần phải xây dựng các giới hạn cho vay nhằm hạn chế các ngân hàng tập trung cho
vay một khách hàng hoặc nhóm các khách hàng có liên quan.
Nguyên tắc 11 - Rủi ro đối với nhóm khách hàng có liên quan: Nhằm hạn
chế việc cho vay (bao gồm các khoản nợ nội bảng và ngoại bảng) nhóm khách
hàng có liên quan và xác định sự xung đột về lợi ích, cơ quan quản lý cần có
những quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng và một nhóm khách
hàng có liên quan, các khoản cho vay này phải được kiểm soát chặt chẽ, đồng thời
cần phải có các bước phù hợp nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi ro, việc xóa các
khoản nợ này được thực hiện theo các chính sách và quy trình chuẩn mẫu.
Nguyên tắc 12 – Rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển đổi: Cơ quan quản lý
nhà nước phải đảm bảo rằng các ngân hàng có các chính sách và quy trình xác
định, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển đổi trong các
hoạt động cho vay và đầu tư quốc tế, và đồng thời các ngân hàng phải trích lập dự
phòng cho các rủi ro này.
Nguyên tắc 13 – Rủi ro thị trường: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm
bảo rằng các ngân hàng có các chính sách và quy trình xác định chính xác, đo
lường, theo dõi và kiểm soát được các rủi ro thị trường; cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền đặt ra các định mức cụ thể và/hoặc có thể dùng một khoản vốn cụ
thể để xử lý rủi ro thị trường nếu có lý do chính đáng.
Nguyên tắc 14 – Rủi ro thanh khoản: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm
bảo rằng các ngân hàng có một chiến lược quản lý khả năng chi trả có thể tính toán
76
được mọi rủi ro của tổ chức, ngân hàng phải có chính sách và quy trình để xác
định, đo lường, theo dõi và kiểm soát được rủi ro thanh khoản, và quản lý được
khả năng chi trả của mình hàng ngày. Cơ quan quản lý nhà nước phải yêu cầu các
ngân hàng có kế hoạch sẵn sàng đối ứng với các vấn đề về thanh khoản có thể phát
sinh bất ngờ.
Nguyên tắc 15: Rủi ro tác nghiệp (rủi ro hoạt động): Cơ quan quản lý nhà
nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có chính sách và quy trình quản lý rủi ro
để nhận dạng, đánh giá, kiểm tra và kiểm soát/giảm thiểu rủi ro hoạt động. Các
chính sách và quy trình quản lý rủi ro này phải phù hợp với quy mô và mức độ
phức tạp của tổ chức.
Nguyên tắc 16: Rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng: Cơ quan quản lý
nhà nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có hệ thống quản trị rủi ro có hiệu quả
nhằm nhận dạng, đo lường và kiểm tra, kiểm soát rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân
hàng, bao gồm một chiến lược được Hội đồng quản trị phê duyệt và được thực
hiện bởi ban quản lý cấp cao; chiến lược này cũng cần phải phù hợp với quy mô và
mức độ phức tạp của tổ chức của loại rủi ro.
Nguyên tắc 17: Kiểm tra và kiểm toán nội bộ: Cơ quan quản lý nhà nước
phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán
nội bộ phù hợp với quy mô và mức độ phù hợp với loại hình kinh doanh của tổ
chức.
Nguyên tắc 18 – Lạm dụng các dịch vụ tài chính: Cơ quan quản lý nhà
nước phải đảm bảo được rằng các ngân hàng có chính sách và quy trình, bao gồm
các quy tắc nghiêm ngặt về “nhận biết khách hàng”, nâng cao các tiêu chuẩn đạo
đức nghề nghiệp trong lĩnh vực tài chính và bảo vệ ngân hàng không bị lợi dụng,
một cách vô tình hay cố ý, vào các hoạt động phạm pháp.
Nguyên tắc 19 – Phương pháp giám sát: Một hệ thống giám sát ngân hàng
hiệu quả yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng và duy trì sự hiểu biết
sâu sắc về hoạt động của từng ngân hàng và tập đoàn ngân hàng, đồng thời cả hệ
thống ngân hàng, tập trung vào sự an toàn và tính bền vững, cũng như sự ổn định
của toàn hệ thống ngân hàng.
77
Nguyên tắc 20 – Kỹ thuật giám sát: Một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu
quả phải bao gồm cả thanh tra tại chỗ và kiểm soát từ xa và sự liên hệ mật thiết
giữa cơ quan quản lý nhà nước với ban điều hành của ngân hàng.
Nguyên tắc 21 – Thông tin giám sát: Cơ quan quản lý nhà nước phải có
các phương tiện thu thập, xem xét và phân tích các báo cáo về an toàn hoạt động
và các chỉ số thống kê do các ngân hàng gửi về trên cơ sở đơn lẻ và tổng hợp, đồng
thời phải có phương tiện để xác minh tính trung thực của các báo cáo này thông
qua hoặc là thanh tra tại chỗ hoặc thuê các chuyên gia độc lập.
Nguyên tắc 22 – Kế toán và công bố công khai: Cơ quan quản lý nhà nước
phải đảm bảo được rằng mỗi ngân hàng phải duy trì việc ghi chép sổ sách đầy đủ
và theo đúng các chuẩn mực kế toán được quốc tế công nhận, và công bố công
khai thường xuyên các thông tin phản ánh đúng tình trạng tài chính và lợi nhuận
của ngân hàng.
Nguyên tắc 23- Quyền xử lý vi phạm của cơ quan quản lý nhà nước: Cơ
quan quản lý nhà nước phải có công cụ hỗ trợ họ đưa ra các biện pháp xử lý vi
phạm kịp thời. Trong đó bao gồm khả năng thu hồi Giấy phép hoạt động hoặc cảnh
báo việc thu hồi Giấy phép hoạt động.
Nguyên tắc 24 – Giám sát hợp nhất: Một yếu tố nhạy cảm của việc giám sát
hệ thống ngân hàng là cơ quan quản lý nhà nước giám sát các tập đoàn ngân hàng trên
cơ sở hợp nhất, theo dõi sát sao, và áp dụng tất cả các quy tắc đảm bảo an toàn đối với
tất cả các khía cạnh kinh doanh mà tập đoàn thực hiện trên toàn cầu.
Nguyên tắc 25 – Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước nước sở tại và
nước nguyên xứ: Việc giám sát hợp nhất xuyên biên giới đòi hỏi sự hợp tác và
trao đổi thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước nước sở tại với các cơ quan quản
lý có liên quan, chủ yếu là các cơ quan quản lý nhà nước của nước nguyên xứ. Các
cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng phải yêu cầu các hoạt động tại
nước sở tại của ngân hàng nước ngoài được thực hiện theo cùng một tiêu chuẩn
như đối với các tổ chức trong nước.