BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM

--------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG NGÂN

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS PHẠM VĂN NĂNG

TP.Hồ Chí Minh – Năm 2011

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt

Danh mục các bảng biểu, hình vẽ, đồ thị

Trang

Mở đầu .........................................................................................................................1

Chương 1: Tổng quan về năng lực cạnh tranh của các NHTM ............................4

1.1 Khái niệm về cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh .......4

1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh .................................................................................4

1.1.2 Lợi thế cạnh tranh...........................................................................................4

1.1.3 Năng lực cạnh tranh........................................................................................4

1.2 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM ...............................4

1.2.1 Thị phần ..........................................................................................................5

1.2.2 Vị thế tài chính ...............................................................................................5

1.2.3 Quản lí và lãnh đạo .........................................................................................5

1.2.4 Khả năng nắm bắt thông tin............................................................................5

1.2.5 Sự đa dạng và giá cả sản phẩm dịch vụ ..........................................................5

1.2.6 Kênh phân phối ..............................................................................................6

1.2.7 Truyền tin và xúc tiến ....................................................................................6

1.2.8 Trình độ lao động ..........................................................................................6

1.2.9 Vị thế và danh tiếng .......................................................................................7

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTM .............7

1.3.1 Các nhân tố quốc tế ........................................................................................7

1.3.1.1 Các nhân tố thuộc về chính trị ....................................................................7

1.3.1.2 Đối thủ cạnh tranh quốc tế ..........................................................................8

1.3.2 Các nhân tố trong nước...................................................................................8

1.3.2.1 Các nhân tố kinh tế .....................................................................................8

1.3.2.2 Các nhân tố về chính trị - pháp luật ..........................................................9

1.3.2.3 Nhân tố về trình độ khoa học công nghệ ....................................................9

1.3.2.4 Các nhân tố về văn hóa, tâm lý xã hội ........................................................10

1.3.2.5 Các nhân tố thuộc môi trường ngành .........................................................10

1.4 Tính đặc thù trong cạnh tranh của ngân hàng thương mại .......................12

1.5 Các công cụ cạnh tranh của NHTM ..............................................................14

1.5.1 Cạnh tranh bằng chất lượng............................................................................14

1.5.2 Cạnh tranh bằng giá cả ...................................................................................15

1.5.3 Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối ..............................................................16

1.6 Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM các nước trên thế

giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho NHTMVN ..................................................16

CHƯƠNG 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện

nay.................................................................................................................................25

2.1 Khái quát thực trạng kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam trong những

năm qua .......................................................................................................................25

2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTMVN ..................................27

2.2.1 Năng lực thị phần ...........................................................................................27

2.2.2 Năng lực tài chính...........................................................................................31

2.2.3 Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức ...............................................................35

2.2.4 Năng lực cạnh tranh về công nghệ .................................................................30

2.2.5 Năng lực cạnh tranh về mở rộng và phát triển dịch vụ ..................................37

2.2.6 Năng lực cạnh tranh về hệ thống kênh phân phối, mạng lưới........................38

2.2.7 Năng lực cạnh tranh về thương hiệu...............................................................40

2.2.8 Năng lực về nguồn nhân lực...........................................................................42

2.2.9 Năng lực về tăng trưởng tín dụng................................................................... 44

2.3 Vận dụng mô hình SWOT để xác định ưu thế cạnh tranh của NHTMVN49

2.3.1 Những lợi thế.................................................................................................49

2.3.1.1 Mạng lưới ....................................................................................................49

2.3.1.2 Mối quan hệ khách hàng truyền thống ........................................................50

2.3.1.3 Nguồn nhân lực mới ....................................................................................50

2.3.1.4 Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định ...............................................................50

2.3.2 Những khó khăn ...........................................................................................51

2.3.2.1 Năng lực tài chính........................................................................................51

2.3.2.2 Vấn đề công nghệ ........................................................................................51

2.3.2.3 Khả năng đa dạng hóa dịch vụ ....................................................................51

2.3.2.4 Tâm lý hướng ngoại của khách hàng...........................................................52

2.3.3 Những cơ hội .................................................................................................52

2.3.4 Những thách thức .........................................................................................55

2.3.4.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước......................................................................55

2.3.4.2 Đối với các ngân hàng thương mại..............................................................55

CHƯƠNG 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh các NHTM Việt Nam.....59

3.1 Định hướng phát triển ngành ngân hàng Việt Nam.....................................59

3.1.1 Quy mô tài sản ................................................................................................59

3.1.2 Tăng trưởng tín dụng ......................................................................................59

3.1.3 Sự tăng trưởng mạnh của khối ngân hàng nước ngoài ..................................60

3.1.4 Sự chuyên biệt hóa ngày càng sâu sắc, chọn lối đi riêng trên những phân khúc

thị trường nhất định .....................................................................................................63

3.1.5. Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa và đa dạng hóa sản phẩm, hoạt động dịch vụ

tăng nhanh ....................................................................................................................64

3.1.6 Củng cố, gia tăng mạng lưới và cạnh tranh nguồn nhân lực chất lượng cao .64

3.1.7 Tăng nhanh tiến trình quốc tế hóa và nhanh chóng gia nhập làn sóng toàn cầu

hóa, thu hút ngoại lực và vươn ra các nước trong khu vực...........................................65

3.2 Giải pháp đối với các NHTM ........................................................................65

3.2.1 Tăng cường năng lực tài chính .......................................................................65

3.2.2 Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng. .....................................66

3.2.3 Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, phát triển mạng lưới hoạt động bền vững

3.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, chú trọng hoạt

động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng

hiện đại dựa trên công nghệ hiện đại ...........................................................................67

3.2.5 Cơ cấu lại khu vực ngân hàng Việt Nam........................................................69

3.2.6 Nâng cao chất lượng tín dụng.........................................................................70

3.2.7 Liên doanh liên kết với các ngân hàng nước ngoài .......................................71

3.3 Kiến nghị với Chính phủ và Ngân hàng nhà nước .......................................72

3.3.1 Về phía Chính phủ .........................................................................................72

3.3.2 Về cải cách hệ thống NHNN ..........................................................................72

3.3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng ...................................................72

3.3.2.2 Nâng cao năng lực của NHNN về điều hành chính sách tiền tệ..................73

3.3.2.3 Nâng cao năng lực của NHNN về thanh tra, giám sát ngân hàng ...............75

3.3.3.4 Cần xác định rõ ràng ranh giới của cạnh tranh............................................76

Kết luận ............................................................................................................................... 78

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

I. Tiếng việt

CN Chi nhánh

CSTT Chính sách tiền tệ

DNNN Doanh nghiệp Nhà nước

DV Dịch vụ

EIB Ngân hàng xuất nhập khẩu

FCB NH Đệ Nhất

KH Khách hàng

Ngân hàng Đồng bằng Sông Cửu Long MHB

NH Ngân hàng

NAB Ngân hàng Nam Á

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NHTM Ngân hàng Thương mại

NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần

NHTMNN Ngân hàng Thương mại Nhà nước

NHTW Ngân hàng Trung Ương

NHNNg Ngân hàng Nước ngoài

NVB Ngân hàng Nam Việt

SEAB NH Đông Nam Á

STB Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín

PGD Phòng giao dịch

TCB Ngân hàng Kỹ Thương

TCTD Tổ chức Tín dụng

WEB Ngân hàng Phương Tây

VBARD Ngân hàng Nông nghiệp

II. Tiếng Anh

ATM Máy rút tiền tự động

CAR Hệ số an toàn vốn tối thiểu

IAS Phân loại nợ theo chuẩn quốc tế

GATS Hiệp định chung về thương mại dịch vụ

M&As sáp nhập và mua lại

VAS Phân loại nợ theo chuẩn Việt Nam

VAFI Hiệp hội các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam

WB Ngân hàng Thế giới

WTO Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

I. HÌNH VẼ

Hình 1: Các lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành ..................................12

II. BẢNG BIỂU

Bảng 1: Tỷ lệ nắm giữ của một số ngân hàng nước ngoài tại các ngân hàng TM trong

nước...............................................................................................................................31

Bảng 2: Tình hình tăng vốn của 10 NH chưa đáp ứng vào cuối năm 2010 ..................34

Bảng 3: Phần mềm hệ thống các NHTM Việt Nam đang áp dụng...............................37

Bảng 4: Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn của một số NHTM năm 2010.....43

Bảng 5: So sánh trung bình một số chỉ số của các NH Việt Nam với các nướctrong khu

vực .................................................................................................................................61

Bảng 6: Một số chỉ tiêu của các NH trong 2010 ...........................................................62

III. BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: So sánh tỷ lệ cho vay/huy động, cho vay/tài sản, cho vay/GDP của một số

nước tại 2010.................................................................................................................28

Biểu đồ 2: Thị phần huy động vốn; Biểu đồ 3: Thị phần cho vay................................29

Biểu đồ 4: Thị phần Tín dụng năm 2005-2010 .............................................................29

Biểu đồ 5: Số lượng Ngân hàng giai đoạn 2006-2010 và 11 Ngân hàng có VĐL 2010

trên 5.000 tỷ đồng .........................................................................................................32

Biểu đồ 6: Qui mô ngành NH của một số quốc gia; Biểu đồ 7: Hệ số CAR 2010 của

một số NH .....................................................................................................................35

Biểu đồ 8: Xếp hạng của 5 loại dịch vụ tại một số NHTM tiêu biểu............................38

Biểu đồ 9: Số lượng chi nhánh, phòng giao dịch và ATM của 12 NH lớn trong năm

2010...............................................................................................................................39

Biểu đồ 10: Top 10 tăng trưởng tài sản ngành NH; Biểu đồ 11: ATM, POS và thẻ

phát hành .......................................................................................................................39

Biểu đổ 12: Thi phần doanh số thẻ; Biểu đồ 13: Thị phần số lượng ATM 2010 .........40

Biểu đồ 14: Tăng trưởng tín dụng 2000-2010; Biểu đồ 15: Tăng trưởng huy động 2000-

2010...............................................................................................................................45

Biểu đồ 16: Tăng trưởng Tín dụng, huy động và GDP 2000-2010 ..............................45

Biều đồ 17: Cơ cấu thu nhập 2010 của 10 NH .............................................................46

Biểu đồ 18: Tăng trưởng lợi nhuận sau thuê của một số NH........................................47

Biểu đồ 19: Tỷ lệ nợ xấu hệ thống ngân hàng; Biểu đồ 20: Tỷ lệ nợ xấu một số NH

năm 2010 .......................................................................................................................30

Biểu đồ 21: Dự báo tỷ trọng tài sản ngành NH tài so với toàn thế giới trong 2050; Biểu

đồ 22: Dự báo tốc độ tăng sản trung bình hàng năm giai đoạn 2010-2050 ..................59

LỜI NÓI ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Trong khoảng 20 năm trở lại đây, hội nhập kinh tế thế giới trở thành một xu thế

tất yếu của thời đại và diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, Việt Nam

đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế như gia nhập khối ASEAN; tham

gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); ký kết hiệp định thương mại song

phương Việt Nam - Hoa Kỳ; tham gia vào các tổ chức kinh tế quan trọng khác cũng

như các hiệp định thúc đẩy thương mại song phương. Về phương diện vĩ mô, việc mở

cửa nền kinh tế có thể đem lại những thời cơ và thách thức.

Trong tiến trình chung đó của của nền kinh tế, các ngân hàng thương mại Việt

Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn về nguồn lực, công nghệ, thị trường..., mặt khác phải đối

mặt với những rủi ro và thách thức khi mức vốn hiện nay của các ngân hàng thương

mại (NHTM) Việt Nam thấp; trình độ quản lý còn hạn chế; các tiêu chuẩn về kiểm

toán, kế toán chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; trình độ công nghệ lạc hậu, dịch vụ

ngân hàng còn yếu kém…. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải

chủ động trong nhận thức, chuẩn bị chiến lược riêng cho mình và sẵn sàng tham gia

vào quá trình cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hóa.

Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển của hệ thống ngân hàng

thương mại Việt Nam trong xu thế mới. Do đó, tôi chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao

năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của

NHTM, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và các tiêu chí đánh giá năng

lực cạnh tranh của một NHTM.

- Phân tích đặc điểm và đánh giá khả năng cạnh tranh của của NHTM; khả năng

phát triển của NHTM và những tác động của hội nhập kinh tế đến lĩnh vực ngân hàng.

- Phân tích và đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của

các NHTM Việt Nam.

- Đề ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các

NHTM Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.

3. Đối tượng nghiên cứu

- Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân hàng

thương mại.

- Xu thế cạnh tranh của các NHTM và thực trạng năng lực cạnh tranh của các

NHTM Việt Nam hiện nay

- Giải pháp và những kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các

NHTM trong bối cảnh hội nhập.

4. Phạm vi nghiên cứu: hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là

- Phương pháp thống kê

- Phương pháp phân tích - so sánh, tổng hợp

6. Tính thực tiễn của đề tài

Hệ thống hóa được những vấn đề cơ bản về hội nhập kinh tế Việt Nam, hội nhập

trong lĩnh vực ngân hàng, những nét đặc thù, quá trình phát triển, khả năng cạnh tranh

của hệ thống NHTM Việt Nam.

Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và hệ thống hóa

các vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, khái quát xu thế cạnh tranh

của các NHTM trong thời gian sắp tới, đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu,

những thời cơ và thách thức của các NHTM, đưa ra những giải pháp góp phần nâng

cao năng lực cạnh tranh của các NHTM, làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên

cứu, học tập về chuyên ngành.

7. Kết cấu của luận văn

Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu như đã đề cập ở phần trên, toàn bộ nội dung

của đề tài sẽ được trình bày qua 3 chương, cụ thể như sau:

- Chương 1: Tổng quan về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam

- Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện nay

- Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NHTM

1.1 Khái niệm về cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh

1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh

Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm

mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông

thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất,

thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất

kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.

1.1.2 Lợi thế cạnh tranh

Lợi thế cạnh tranh là cái làm cho doanh nghiệp khác biệt hơn so với đối thủ

cạnh tranh hoặc làm những cái mình có mà đối thủ không có, nhờ đó doanh nghiệp đạt

được mục tiêu nhất định của mình.

1.1.3 Năng lực cạnh tranh

Năng lực cạnh tranh là năng lực khai thác, huy động, quản lý và sử dụng các

nguồn lực có giới hạn như nhân lực, vật lực, tài lực v.v…và các điều kiện khách quan

khác.

Đối với NHTM thì do các sản phẩm của Ngân hàng mang tính đặc thù (kinh

doanh lọai hàng hóa đặc biệt là tiền tệ) nên năng lực cạnh tranh cũng mang tính đặc

thù. Tuy nhiên, NHTM cũng là một doanh nghiệp, cũng phải xem xét đến khả năng tối

đa hóa lợi nhuận. Do đó có thể định nghĩa: Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả

năng, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực có giới hạn nhằm mục đích đa dạng

và nâng cao chất lượng, tiện ích các dịch vụ tài chính Ngân hàng, từ đó đảm bảo cho

việc duy trì lợi nhuận và thị phần.

1.2 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM

Việc đánh giá năng lực cạnh tranh của một NHTM nếu chỉ dừng lại ở định tính

thì không tránh khỏi các yếu tố cảm tính, vì thế cần phải có chỉ tiêu định lượng. Tuy

nhiên, khó có được một chỉ tiêu tổng hợp đo lường sức cạnh tranh của NHTM, do vậy

cần phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu:

1.2.1 Thị phần

Là phần thị trường mà NHTM đã chiếm được. Thị phần càng lớn càng thể hiện

năng lực cạnh tranh của Ngân hàng càng mạnh. Để tồn tại và có sức cạnh tranh, Ngân

hàng phải chiếm giữ được một phần thị trường bất kể nhiều hay ít, dù nó là địa

phương, quốc gia hay thế giới.

1.2.2 Vị thế tài chính

Vị thế tài chính của một Ngân hàng có tầm quan trọng tối cao trong việc nâng

cao vị thế cạnh tranh của NHTM. Khả năng nguồn tài chính mạnh cần được cân nhắc

khi đánh giá năng lực cạnh tranh các tham số: khả năng đáp ứng vốn cho nền kinh tế,

khả năng thanh toán, kết quả hoạt động, tỷ lệ nợ xấu…

1.2.3 Quản lí và lãnh đạo

Theo JP. Kotter, quản trị là sự đương đầu với tính phức hợp. Nhằm giải quyết

tính phức hợp, các nhà quản trị tiến hành việc hoạch định (xác định mục tiêu chung cho

tương lai, thiết lập các bước chi tiết đạt mục tiêu đó).

1.2.4 Khả năng nắm bắt thông tin

Ngày nay, sự bùng nổ của cuộc cách mạng thông tin đã khẳng định vai trò to lớn

của thông tin. Thông tin về khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ cùng loại; thông

tin về tâm lý và thị yếu khách hàng, thông tin về công nghệ mới; thông tin về giá cả sản

phẩm dịch vụ, về đối thủ cạnh tranh…có ý nghĩa quan trọng đến việc ra quyết định

kinh doanh của NHTM. Đủ thông tin và xử lý đúng thông tin, một mặt giúp cho Ngân

hàng hạn chế được rủi ro trong kinh doanh, một mặt qua thông tin có thể giúp Ngân

hàng tìm và tạo ra lợi thế trên thương trường, chuẩn bị đưa ra đúng thời điểm những

sản phẩm dịch vụ mới nhằm tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ tài

chính.

1.2.5 Sự đa dạng và giá cả sản phẩm dịch vụ

Đối với hàng hóa thông thường, người tiêu dùng khi mua hàng trước hết nghĩ

tới khả năng hàng hóa đáp ứng nhu cầu của họ, tới chất lượng mà nó có. Trong khi đó,

với vai trò là một loại hàng hoá đặc biệt, thì điều quan trọng là các sản phẩm dịch vụ

của Ngân hàng trước hết phải đa dạng để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Tiếp

theo, giá cả của sản phẩm dịch vụ phải đủ sức cạnh tranh được với sản phẩm dịch vụ

cùng loại trên thị trường.

1.2.6 Kênh phân phối

Kênh phân phối được coi là một trong những chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh

giá năng lực cạnh tranh của NHTM. Bởi lẽ: sản phẩm và giá cả đem đến cho khách

hàng những giá trị cơ bản, phù hợp với nhu cầu của họ; còn kênh phân phối hỗ trợ đưa

sản phẩm dịch vụ đó đến tận tay khách hàng và quyết định sự hài lòng của họ. Khi mức

độ hài lòng của khách hàng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh thì điều đó sẽ quyết định

cuối cùng khả năng chiếm lĩnh thị trường của chính Ngân hàng đó, tức là quyết định sự

thắng lợi trong cạnh tranh.

1.2.7 Truyền tin và xúc tiến

Tùy theo từng Ngân hàng cũng như mục tiêu của kế hoạch sản phẩm dịch vụ

khác nhau mà chi phí marketing cao hay thấp. Khi xem xét tỷ lệ chi phí marketing so

với tổng doanh thu, nếu chỉ tiêu này cao mà duy trì và mở rộng được thị phần so với

mục tiêu đề ra thì có nghĩa là việc đầu tư cho khâu marketing là hiệu quả. Còn nếu như

không đạt được mục tiêu thì Ngân hàng cần phải xem xét lại cơ cấu chi tiêu. Có thể

thay vì quảng cáo rầm rộ, Ngân hàng có thể đầu tư chiều sâu để tăng lợi ích lâu dài như

đầu tư cho chi phí nghiên cứu và phát triển.

1.2.8 Trình độ lao động

Việc phân tích chỉ tiêu này bao gồm những xem xét về trình độ lực lượng lao

động, năng suất công việc, những yêu cầu kỹ năng, đào tạo, các kế hoạch tuyển dụng,

điều kiện làm việc trong Ngân hàng, kể cả đánh giá về văn hoá Ngân hàng. Điểm hạn

chế điển hình về năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực này của các NHTM là sự thiếu

chuyên nghiệp về kỹ năng nghề nghiệp. Ngoài ra, vì sức mạnh của một doanh nghiệp

không phải chỉ tồn tại trong một số cá nhân hay một nhóm mà trong sự đoàn kết, nhất

trí hết mình vì sự sống còn của doanh nghiệp nên một môi trường làm việc tốt, một tinh

thần làm việc vì tập thể sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của doanh nghiệp.

1.2.9 Vị thế và danh tiếng

Khi các NHTM phát triển tốt hệ thống các chỉ tiêu nêu trên thì đồng thời cũng

sẽ tạo được vị thế và hình ảnh của riêng mình. Đến lượt nó, vị thế, hình ảnh, danh tiếng

của Ngân hàng lại tạo nên sức mạnh, tài sản vô hình để giành thắng lợi trong cạnh

tranh trên thị trường.

Tóm lại, cạnh tranh trong thương trường không phải là diệt trừ đối thủ của

mình, mà chính là phải mang lại cho khách hàng những giá trị cao hơn hoặc mới lạ hơn

để khách hàng lựa chọn mình chứ không lựa chọn các đối thủ cạnh tranh, và điều này

lại tùy thuộc vào năng lực cạnh tranh của chính bản thân mỗi Ngân hàng. Cạnh tranh

không phải chỉ là những hành động mang tính thời điểm mà là cả một quá trình tiếp

diễn không ngừng.

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTM

Như đã đề cập ở trên, năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng vượt qua các

đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân chính Ngân hàng. Thông thường

người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại của Ngân hàng như: quy

mô vốn, sản phẩm dịch vụ, năng lực quản lý, trình độ công nghệ và lao động…như đã

nêu trên. Tuy nhiên, những khả năng này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố bên

ngoài, cả trong nước lẫn quốc tế. Vì vậy, cần phải phân tích thêm các nhân tố bên

ngoài có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTM, gồm các nhân tố sau :

1.3.1 Các nhân tố quốc tế

1.3.1.1 Các nhân tố thuộc về chính trị

Người ta cho rằng tổ chức chính trị quan trọng nhất là Nhà nước chủ quyền, do

nó có khả năng phát hành tiền tệ, đánh thuế và định ra các luật lệ trong một quốc gia.

Tuy nhiên trên thực tế vẫn có một số khía cạnh chính trị quan trọng vượt ra khỏi biên

giới quốc gia và tác động không nhỏ đến môi trường kinh doanh và khả năng cạnh

tranh của NHTM, như :

- Mối quan hệ giữa các Chính phủ: Khi mối quan hệ trở nên thù địch, thì sự mâu

thuẫn giữa hai chính phủ có thể phá hủy các mối quan hệ kinh doanh giữa hai nước.

Nếu mối quan hệ song phương được cải thiện sẽ thúc đẩy thương mại phát triển và tạo

điều kiện thuận lợi cho kinh doanh phát triển, trong đó bao gồm cả lĩnh vực tài chính

Ngân hàng.

- Các tổ chức quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và vận

dụng các chính sách biểu lộ nguyện vọng chính trị của các quốc gia thành viên. Như

chính sách của Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới chịu tác động bởi quan điểm

của các nước công nghiệp phát triển, những nước có vai trò tài trợ chính cho các tổ

chức này.

- Hệ thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thỏa thuận được một loạt các

quốc gia tuân thủ có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Mặc dù, có

thể những hệ thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thỏa thuận này không ảnh

hưởng trực tiếp nhưng có ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc tạo ra môi trường kinh

doanh quốc tế ổn định và thuận lợi

1.3.1.2 Đối thủ cạnh tranh quốc tế

Ngày nay sự bành trướng của các định chế tài chính lớn của thế giới đang trở

thành mối đe dọa đối với các NHTM Việt Nam với tiềm lực nhỏ bé. Các định chế tài

chính này không chỉ có lợi thế về vốn, công nghệ mà còn với bề dày lịch sử phát triển

với kinh nghiệm, chuyên môn hoá và sự đa dạng về sản phẩm dịch vụ, sẽ có nhiều ưu

thế trong cạnh tranh.

1.3.2 Các nhân tố trong nước

1.3.2.1 Các nhân tố kinh tế

Bao gồm nhóm các nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đồng thời cũng là nguồn

khai thác cơ hội hấp dẫn đối với các NHTM. Các nhân tố bao gồm :

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: nếu tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao làm

cho thu nhập của dân cư tăng và nhu cầu sử dụng các tiện ích từ sản phẩm dịch vụ

Ngân hàng cũng tăng lên, đây là cơ hội cho những NMTM nắm bắt và đáp ứng được

nhu cầu này; mặt khác với nguồn thu nhập dồi dào, nhu cầu đầu tư của đại bộ phận dân

cư cũng tăng, và một phần lớn nguồn vốn này sẽ được đổ vào Ngân hàng nếu biết cách

khai thác hiệu quả.

- Lãi suất: lãi suất Ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của

khách hàng. Khi lãi suất vay Ngân hàng cao, chi phí đầu tư của khách hàng gia tăng do

phải trả lãi tiền vay nhiều và ngược lại. Do đó, yếu tố này cần được các NHTM cân

nhắc kỹ trong quá trình hoạch định chiến lược kinh doanh của mình.

- Lạm phát: lạm phát làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và gây nhiều biến động

trong nước. Do lạm phát, các khách hàng của Ngân hàng do không dự đoán trước được

điều gì sẽ xảy ra thường có tâm lý hạn chế đầu tư vì thế cũng tác động dây chuyền đến

hoạt động của NHTM.

1.3.2.2 Các nhân tố về chính trị - pháp luật

Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và ổn định là cơ sở đảm bảo

cho sự thuận lợi và bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh nói

chung và hoạt động của các NHTM nói riêng tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu

quả.

1.3.2.3 Nhân tố về trình độ khoa học công nghệ

Nhóm các nhân tố này có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên

sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa

học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của Ngân hàng, qua đó tạo nên sức cạnh

tranh của NHTM nói chung. Tuy nhiên trên thể giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh

về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm dịch vụ có hàm

lượng công nghệ cao. Đây là tiền đề để các NHTM nâng cao năng lực cạnh tranh của

mình.

1.3.2.4 Các nhân tố về văn hóa, tâm lý xã hội

Đây là nhóm yếu tố quan trọng tạo lập nên lối sống của người tiêu dùng, đồng

thời cũng là cơ sở để cho các NHTM lựa chọn và điều chỉnh các quyết định kinh doanh

cũng như đưa ra các sản phẩm dịch vụ phù hợp.

1.3.2.5 Các nhân tố thuộc môi trường ngành

Các nhân tố này tác động đến môi trường hoạt động của Ngân hàng, vì vậy ảnh

hưởng đến năng lực cạnh tranh của NHTM. Ngành kinh doanh là ngành hoạt động

trong đó bao gồm các Ngân hàng cùng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể thay thế

lẫn nhau nhằm đáp ứng cùng một nhu cầu căn bản nào đó của người tiêu dùng.

Theo Michael Poter, trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh” (1985) và “Chiến lược

cạnh tranh” (1980) (Trường quản trị kinh doanh Harvard) đã đưa ra mô hình 5 lực

lượng cạnh tranh trong ngành kinh doanh bao gồm :

+ Nguy cơ do các đối thủ mới có tiềm năng gia nhập ngành kinh doanh;

+ Mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ cùng hoạt động trong ngành;

+ Khả năng mặc cả của người mua hàng (Quyền lực của Người mua)

+ Khả năng mặc cả của người cung cấp (Quyền lực của Nhà cung ứng)

+ Mức độ thay thế các sản phẩm trong ngành

(1) Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn : là các đơn vị, tổ chức hiện nay chưa xuất hiện

trên thị trường nhưng có khả năng cạnh tranh trong tương lai. Khả năng cạnh tranh của

đối thủ này được đánh giá qua việc rào cản ngăn chận việc gia nhập vào ngành, có

nghĩa là doanh nghiệp phải tốn kém nhiều hay ít để tham gia vào ngành kinh doanh.

Nếu phí tổn gia nhập ngành càng cao, rào cản ngăn chận gia nhập sẽ càng cao và

ngược lại. Các rào cản chủ yếu để ngăn chặn sự gia nhập ngành hoạt động là:

− Tính kinh tế nhờ quy mô

− Sự khác biệt hoá sản phẩm

− Nhu cầu vốn đầu tư tối thiểu

− Các lợi thể đặc biệt của các đối thủ hiện có

− Chính sách của Nhà nước

(2) Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành: là các định chế tài

chính đã có vị thế chắc chắn trên thị trường cùng ngành kinh doanh, nếu mức cạnh

tranh giữa họ càng cao, giá bán sẽ càng giảm, đưa đến mức lợi nhuận giảm. Do đó,

cạnh tranh về giá bán sản phẩm dịch vụ là nguy cơ đối với các Ngân hàng. Thông

thường cường độ cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại được quyết định bởi các yếu tố

sau :

− Số lượng và kết cấu các đối thủ cạnh tranh

− Tốc độ tăng trưởng của ngành

− Sự đa dạng của các đối thủ cạnh tranh

− Hàng rào cản trở rút lui

(3) Sức ép của nhà cung ứng : Nhà cung ứng trong lĩnh vực Ngân hàng chính là

những khách hàng có nguồn vốn dồi dào có nhu cầu đầu tư. Các nhà cung ứng có thế

lực mạnh khi họ có những điều kiện sau : nguồn vốn trong xã hội bị giảm bởi những

hành vi khác như đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản; khi có nhiều định chế tài

chính với các mức giá hấp dẫn khác nhau đem lại nhiều khả năng lựa chọn đối với nhà

cung ứng.

(4) Sức ép của khách hàng : khách hàng là từ chỉ chung cá nhân hay tổ chức

chấp nhận các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Khi khách hàng không bị ràng buộc

và có nhiều quyền chọn lựa giữa sản phẩm dịch vụ của các Ngân hàng khác nhau thì

sức ép của khách hàng càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng càng cao.

(5) Sự xuất hiện của các sản phẩm dịch vụ thay thế: những sản phẩm dịch vụ

thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các

doanh nghiệp trong cùng ngành. Sự sẵn có của các sản phẩm dịch vụ thay thể trên thị

trường là mối đe dọa trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức lợi

nhuận của các Ngân hàng.

Tóm lại tích hợp những chỉ tiêu và nhân tố trên chính là xác định tổng nội lực

của một NHTM trên những mục tiêu xác định với những đối thủ cạnh tranh xác định,

từ đó giúp chúng ta nhận dạng và đánh giá được đúng thực chất năng lực cạnh tranh

của một Ngân hàng cụ thể; đồng thời qua đó xác định những nhân tố quyết định thành

công để tập trung nỗ lực nhằm duy trì, nâng cao hay phát hiện những yếu kém cần phải

khắc phục để đạt đến được năng lực cạnh tranh bền vững.

1.4 Tính đặc thù trong cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, nó xuất hiện nhanh

chóng và trở nên gay gắt trong nền kinh tế thị trường, đối với các ngân hàng thương

mại đã nhận thức được rằng cạnh tranh là một môi trường tạo động lực thúc đẩy phát

triển và tăng hiệu quả kinh doanh. Kết quả của cạnh tranh sẽ xác định vị thế, quyết

định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi ngân hàng. Vì vậy mỗi ngân hàng đều cố

gắng chọn cho mình một chiến lược phù hợp để chiến thắng trong cạnh tranh.

Các ngân hàng thương mại không chỉ bị áp lực cạnh tranh từ các ngân hàng

thương mại mà còn từ tất cả các tổ chức tín dụng khác đang hoạt động kinh doanh trên

thương trường, với mục tiêu là để dành khách hàng, nhằm tăng thị phần tín dụng cũng

như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy vậy, so

với sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác cạnh tranh giữa các ngân hàng thương

mại có những đặc thù như sau:

Kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều

nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống, văn hóa … mỗi một nhân tố

này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng có tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến

môi trường kinh doanh chung. Ví dụ chỉ là một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể

gây ra cơn chấn động rất lớn về tâm lý, thậm chí đe dọa sự tồn vong của hệ thống các

tổ chức tín dụng. Một ngân hàng hoạt động kém thanh khoản cũng có thể trở thành

gánh nặng có các ngân hàng khác và dân chúng trên địa bàn. Vì vậy trong kinh doanh

việc cạnh tranh là để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần, nhưng cũng

không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn

tính đối thủ của mình, bởi vì đối thủ là các ngân hàng thương mại khác bị suy yếu dẫn

đến sụp đổ, thì những hậu quả mang lại thường là rất lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn

chính ngân hàng mình do tác động dây chuyền.

Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế,

chính trị, xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm,

cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác, đồng thời trong hoạt động kinh

doanh của mình các ngân hàng cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các

khách hàng chung. Chính vì thế nếu như một ngân hàng khó khăn trong thanh khoản,

có nguy cơ đổ vỡ thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các ngân hàng

thương mại khác. Không những thế các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị ảnh

hưởng lây lan. Đây là điều mà các ngân hàng thương mại không bao giờ mong muốn.

Trong hoạt động kinh doanh các ngân hàng luôn phải cạnh tranh lẫn nhau để dành lại

thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường cạnh

tranh lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống.

Do hoạt động của các ngân hàng có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi

mặt hoạt động kinh tế xã hội, cho nên để tránh sự hoạt động các ngân hàng thương mại

mạo hiểm có nguy cơ đổ vỡ hệ thống. Vì vậy ngân hàng Nhà nước đều giám sát chặt

chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn sự

cạnh tranh của các ngân hàng không giống các loại hình kinh doanh khác.

Hoạt động của các ngân hàng thương mại liên quan đến lưu chuyển tiền tệ,

không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các

hoạt động kinh tế đối ngoại, do vậy kinh doanh trong hệ thống ngân hàng phải chịu

nhiều yếu tố trong nước và quốc tế như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh

trong nước, các thông lệ quốc tế… Đặc biệt là sự chi phối mạnh mẽ của cơ sở tài chính,

trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định

đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng này. Điều đó cũng có nghĩa là sự cạnh

tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại trước hết phải chịu sự điều chỉnh rất nhiều

thông lệ, tập quán của địa phương. Sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ

thuật công nghệ thông tin đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối

thiểu, bởi vì một ngân hàng mở ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là

phải chấp nhận cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác đang hoạt động trong

cùng lĩnh vực

1.5 Các công cụ cạnh tranh của NHTM

1.5.1 Cạnh tranh bằng chất lượng

Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển như

vũ bão, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú đa dạng, tạo thuận lợi cho sự lựa chọn

của người tiêu dùng và đặt nhà sản xuất trước các áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt

và để chiến thắng trong cạnh tranh thì buộc các nhà sản xuất phải nghiên cứu vận dụng

nhiều phương thức và công cụ cạnh tranh khác nhau. Một công cụ quan trọng hay được

vận dụng hiện nay là nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp. Nhưng đối với

một số ngành, thì “chất lượng” lại có tính chất định tính hơn là định lượng và nó được

xác định chủ yếu thông qua sự kiểm định đánh giá của chính khách hàng sử dụng sản

phẩm dịch vụ đó. Vì thế, việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàm ý phải từng bước

thỏa mãn cao nhất những yêu cầu, đòi hỏi từ phía khách hàng.

Đối với các NHTM, để cạnh tranh bằng chất lượng phải xây dựng thật tốt chiến

lược bằng công nghệ và chiến lược nguồn nhân lực bên cạnh với việc kết hợp chiến

lược thị trường, chiến lược kinh doanh phù hợp. Chỉ có như vậy, các sản phẩm dịch vụ

mà NHTM cung ứng mới đáp ứng đúng và đầy đủ, kịp thời nhu cầu từ phía khách

hàng.

1.5.2 Cạnh tranh bằng giá cả

Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm, giá cả có vai trò quan trọng đối với quyết

định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả chính là lãi suất và mức phí áp dụng

cho các dịch vụ cung ứng cho các khách hàng của mình. Trong việc xác định mức lãi

suất và phí, các NHTM luôn phải đối mặt với những mâu thuẫn: Nếu như NHTM quan

tâm tới khả năng cạnh tranh để mở rộng thị phần, thì cần phải đưa ra các mức lãi suất

và phí ưu đãi cho các khách hàng của mình, tuy nhiên, điều này sẽ làm giảm thu nhập

của NHTM, thậm chí có thể khiến ngân hàng bị lỗ. Nhưng nếu NHTM chỉ chú trọng

đến thu nhập thì phải đưa ra mức lãi suất và phí sao cho đáp ứng được mục tiêu tăng

thu nhập, tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến ngân hàng sẽ bị mất dẫn khách hàng, giảm

thị phần trong kinh doanh, bởi suy cho cùng thì khách hàng luôn quan tâm tới mục tiêu

tối thượng trong kinh doanh trên thương trường làm tối đa hoá lợi nhuận, mà để đạt

được điều đó thì cần tiết giảm các chi phí đầu vào.

Điều này có nghĩa là cạnh tranh bằng giá cả đang trở thành một biện pháp nghèo

nàn nhất, vì nó làm giảm bớt lợi nhuận tiêu thu được của các NHTM. Xuất phát từ mâu

thuẫn trên, việc định giá theo đúng ngang giá trị thị trường sẽ cho phép các NHTM giữ

được khách hàng, duy trì và phát triển thị trường. Trên thực tế, việc vận dụng nhân tố

giá để cạnh tranh chỉ phù hợp khi xâm nhập thị trường mới và để vận dụng tốt công cụ

này, các NHTM thường đưa ra mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ nhằm

lôi kéo khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Lãi suất và phí là tín hiệu phản ánh tình

hình biến động của thị trường, là thông số qua đó các NHTM có thể nắm bắt được khả

năng thanh toán của khách hàng cũng như khả năng cạnh tranh của các đối thủ trên

thương trường.

Do vậy, việc xác định lãi suất trên thị trường là quan trọng, song theo dõi thông

tin phản hồi từ khách hàng là rất cần thiết để NHTM đưa ra mức lãi suất và phí có tính

cạnh tranh. Đôi khi lãi suất và phí mà các NHTM xác định chỉ thu được lợi nhuận nhỏ,

hoà vốn thậm chí chịu thua lỗ tạm thời. Khi thực sự chiếm lĩnh thị trường, cũng là lúc

NHTM lấy lại những gì đã chi phí trong cạnh tranh.

1.5.3 Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối

Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình kinh

doanh. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm chính là hình thức cạnh tranh phi giá cả và gây ra sự

chú ý và thu hút khách hàng. Sản phẩm dịch vụ của ngân hàng có một trong những đặc

tính là nhanh tàn lụi, không thể lưu trữ, nên việc xây dựng các kênh phân phối (mạng

lưới bán hàng) trở thành một vấn đề hết sức trọng yếu trong kinh doanh ở các ngân

hàng. Kênh phân phối là phương tiện trực tiếp đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng

đến KH, đồng thời giúp NH nắm bắt chính xác và kịp thời nhu cầu của KH, qua đó,

NH chủ động trong việc cải tiến, hoàn thiện sản phẩm DV, tạo điều kiện thuận lợi

trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.

1.6 Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM các nước trên thế giới

và rút ra bài học kinh nghiệm cho NHTMVN

Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, làn sóng cải cách hệ thống

ngân hàng dâng lên mạnh mẽ vào những thập niên 80, 90 hình thành nên những tập

đoàn tư bản ngân hàng vững mạnh.

Phát triển tín dụng ngân hàng ở các nước trên thế giới thực chất là phát triển hệ

thống các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính nhằm động viên được hầu hết

các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế vào ngân hàng; đồng thời tiến hành phân

phối nguồn vốn tập trung được dưới hình thức cho vay hoặc đầu tư vào các doanh

nghiệp, các tổ chức kinh tế nhằm mở rộng sản xuất, lưu thông hàng hóa và phát triển

hệ thống ngân hàng, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng.

Dưới đây là kinh nghiệm tổ chức về hệ thống ngân hàng, tài chính ở một số

nước châu Á điển hình:

1.6.1 Hệ thống ngân hàng Singapore

Điều kiện kinh tế xã hội

Với lợi thế địa lý chiến lược đường biển quốc tế, Singapore nằm ở vị trí giao

điểm giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, nơi hội tụ của các nhà buôn với tên

gọi “đô thị biển”, nhưng điều kiện tự nhiên có nhiều bất lợi như diện tích nhỏ chỉ

khoảng 640 km2, dân số khoảng 3,1 triệu người, hầu như không có tài nguyên phong

phú. Là một quốc gia trẻ đa sắc tộc được hình thành từ nền tảng người nhập cư từ

Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ, và châu Au, Singapore đã từng là thuộc địa của Anh

với việc thi hành chính sách tự do thương mại dựa trên cơ bản nguyên tắc pháp luật

hình thành nề nếp pháp luật trong kinh doanh. Được trao trả năm 1971, đến nay

Singapore trở thành trung tâm buôn bán, dịch vụ mậu dịch, tạo nên thu nhập chính của

đất nước này (chiếm 84% GDP) vào những năm 60, đồng thời ngày nay trở thành trung

tâm tài chính ngân hàng và thị trường tài chính quốc tế phát triển rất mạnh mẽ.

Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa

Thành tựu phát triển kinh tế của Singapore gắn liền với chính sách công nghiệp

hóa được thực hiện vào thập niên 60, hướng đến xuất khẩu, thay thế nhập khẩu kích

thích đầu tư nước ngoài tạo ra bước ngoặt phát triển công nghiệp.

Sự cải thiện nhanh kết cấu hạ tầng, ưu đãi thuế thúc đẩy các công ty xuyên quốc

gia phát triển ồ ạt đầu tư trực tiếp vào Singapore, tính đến cuối năm 80, tư bản nước

ngoài đã đóng góp 65% giá trị công nghiệp, 85% giá trị xuất khẩu trực tiếp tạo việc

làm cho 60% lực lượng lao động. Công nghiệp hoá của Singapore bắt đầu từ ngành

công nghiệp chế biến – chế tạo, dịch vụ như thực phẩm, may mặc, thuốc lá, sơn, đồ gỗ

… đây là những ngành mũi nhọn then chốt, tận dụng được những lợi thế vốn có của

mình vì Singapore không có tài nguyên quặng mỏ phong phú nên không thể phát triển

những ngành công nghiệp khai thác .

Bên cạnh đó, chiến lược công nghiệp hoá của Singapore bắt đầu từ xây dựng

những công ty sử dụng nhiều lao động kết hợp với sử dụng tư bản và kỹ thuật đầu tư

nước ngoài tạo lập nên nền công nghiệp hiện đại, đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài có

khả năng cạnh tranh cao, sau đó chuyển dần sang những ngành công nghiệp hiện đại sử

dụng chất xám cho những loại hình kỹ thuật hiện đại

Hệ thống ngân hàng ở Singapore trong quá trình công nghiệp hóa và hiện

đại hóa

Quá trình phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao trong quá trình công

nghiệp hoá của quốc gia này cần phải kể đến sự thành công của lĩnh vực tài chính,

ngân hàng, những tòa nhà chọc trời tập trung ở khu vực trung tâm kinh tế lớn trở thành

biểu tượng hùng vĩ của ngành dịch vụ tài chính Singpore. Đến cuối thập niên 80 ở

Singapore đã có hơn 200 ngân hàng thương mại (commercial bank), và ngân hàng dịch

vụ thương mại (merchantbank) với vốn tự có lên đến 200 – 300 tỷ USD . Đến giữa

thập niên 90, Singapore đã có trên 140 ngân hàng thương mại sau giai đoạn cải cách

sắp xếp lại hệ thống ngân hàng nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh có khả

năng cung cấp đầy đủ dịch vụ tài chính đáp ứng cho nền kinh tế cùng với sự phát triển

của thị trường tài chính vững mạnh.

Hệ thống ngân hàng Singapore bao gồm Ủy ban tiền tệ Singapore, ngân hàng

thương mại, ngân hàng thương mại dịch vụ, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, công ty tài

chính…Trong đó Ủy ban tiền tệ Singapore do Bộ tài chính Singapore thành lập từ năm

1971 để giám sát các tổ chức tài chính và thực thi chính sách tiền tệ. Ủy ban tiền tệ

Singapore chịu trách nhiệm đối với tất cả các chức năng ngân hàng trung ương. Các

định chế tài chính còn lại hoạt động đẩy mạnh việc lôi cuốn các tổ chức tài chính nước

ngoài, để phát triển ngân hàng thương mại theo hướng ngân hàng hiện đại, chú trọng

đổi mới công nghệ và đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng yêu cầu dịch chuyển vốn trên thị

trường.

So với các nước trong khối ASEAN thì Singapore có thị trường tài chính phát

triển nhất, năm 1975 ở Singapore lãi suất tiền vay và tiền gửi trong nước đã được tự do

hóa. Năm 1978, việc kiểm soát hối đoái cũng đã được nới lỏng, đem lại việc tự do hóa

tài chính đầy đủ…. nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng Singapore huy động tối đa

nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn

vốn tiền tệ đã huy động được, đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình công nghiệp hóa và

hiện đại hóa.

1.6.2 Hệ thống ngân hàng Thái Lan

Điều kiện kinh tế xã hội

Vương quốc Thái Lan là một quốc gia nằm ở trung tâm Đông – Nam A với diện

tích hơn 517.000 km2, dân số trên 60 triệu người với môi trường tự nhiên thuận lợi cho

phát triển nông nghiệp. Thái Lan là một quốc gia đa sắc tộc, trong đó người Thái chiếm

85%, điểm nổi bật trong lịch sử chính trị Thái Lan là vua Thái vẫn là trung tâm quyền

lực trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Mặc dù từ năm 1932 đến nay Thái

Lan đã trải qua 33 cuộc đảo chính, nhưng chế độ chính trị vẫn không thay đổi vẫn là

Nhà nước theo chế độ dân chủ nghị viện với sự định hướng phát triển chủ nghĩa tư

bản.

Quá trình công nghiệp hoá của Thái Lan

Quá trình công nghiệp hoá của Thái Lan diễn ra trong môi trường quốc tế khá

thuận lợi, Thái Lan được hưởng các nguồn lợi gián tiếp từ cuộc chiến tranh Đông

Dương thông qua việc Mỹ sử dụng Thái Lan như là căn cứ quân sự, với những khoản

viện trợ không hoàn lại.

Vào thập niên 60, Thái Lan bắt đầu chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập

khẩu chủ yếu dựa vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài làm thay đổi cơ cấu kinh tế, sản

xuất nông nghiệp năm 1960 chiếm tỷ trọng từ 60% GDP đến nay đã giảm xuống còn

30% GDP trong khi đó một số ngành công nghiệp mới đã xuất hiện có sức cạnh tranh

trên thị trường quốc tế như dệt, may, thuộc da, lắp ráp máy móc đã đưa nền kinh tế

Thái Lan thoát khỏi trì trệ vào đầu thập niên 80.

Chính phủ Thái Lan lấy xuất khẩu và dịch vụ làm đầu tàu cho tăng trưởng kinh

tế, trên cơ sở khai thác tiềm năng phát triển nông nghiệp đưa Thái Lan là nước xuất

khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới mang lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm tăng

dự trữ ngoại tệ quốc gia từ 16,5 tỷ USD năm 1985 lên đến 46,5 tỷ USD vào năm 1995.

Nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng khá cao theo nhịp độ kinh tế các nước công nghiệp,

giai đoạn 1986 –1990 tốc độ tăng trưởng bình quân là 10,4% đã in đậm dấu ấn của đầu

tư trực tiếp nước ngoài, năm 1990, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 8% GDP đến năm

1996 vốn đầu tư nước ngoài chiếm 14% GDP, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Thái

Lan lên đến 49 tỷ USD. Những năm tiếp theo của thập niên 90 cho đến nay tốc độ tăng

trưởng bình quân của Thái lan từ 7%- 9%, vốn đầu tư nước ngoài đến năm 1996 đã lên

đến 94,3 tỷ USD chiếm 55% GDP, tăng gấp hai lần dự trữ ngoại tệ quốc gia và cũng

trong giai đoạn này Thái Lan đã bắt đầu thực hiện chính sách đầu tư ra nước ngoài.

Tuy nhiên, sự gia tăng khoản nợ nước ngoài quá cao cùng với cơ cấu đầu tư

thiếu cân đối và để duy trì tốc độ tăng trưởng 8,4 %/năm từ thập niên 90 nền kinh tế

Thái Lan chuyển mạnh sang công nghiệp chế biến, điện tử, chất bán dẫn… nhưng giai

đoạn 1993-1996 diễn ra sự cạnh tranh gay gắt các loại hàng hóa này, Thái Lan đã

không kiểm soát được cán cân vãng lai dẫn đến mức mức thâm hụt là 7,4% / năm và do

Thái Lan đã áp dụng tỷ giá cố định USD ở mức 25 bạt trong suốt 13 năm đã dẫn bùng

nổ khủng hoảng tài chính năm 1997.

Hệ thống ngân hàng Thái Lan trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại

hóa

Hệ thống ngân hàng Thái Lan bao gồm Ngân hàng trung ương Thái Lan (Bank

of Thailand –BOT), ngân hàng thương mại, ngân hàng chuyên doanh nhà nước, các

công ty tài chính… Ngân hàng Thái Lan được thành lập từ năm 1942 được coi như là

ngân hàng trung tâm của cả nước; giữ vai trò ngân hàng của các ngân hàng và chịu ảnh

hưởng rất lớn của các chi nhánh ngân hàng phương Tây.

Luật ngân hàng Thái Lan cũng đã được thông qua năm 1962 và được bổ sung

sửa đổi vào năm 1979,1985, và 1992. Hệ thống ngân hàng ở Thái Lan phát triển mạnh

theo xu hướng xây dựng mô hình tập đoàn ngân hàng, nhiều ngân hàng trong nước đã

mở được các chi nhánh ở nước ngoài hoặc liên doanh với các ngân hàng ở nước ngoài.

Đến năm 1997, Thái Lan có 63 ngân hàng trong số đó có 10 ngân hàng thuộc sở hữu

nhà nước. Hoạt động của các ngân hàng thương mại đã đóng góp quan trọng đối với

nền kinh tế Thái Lan và đảm đương về vốn cho nhu cầu phát triển công nghiệp hóa –

hiện đại hóa. Bằng cách hạ lãi suất để mở rộng tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp

để đảm bảo nhu cầu vốn cho nông dân đặc biệt là vùng sâu vùng xa, Ngân hàng trung

ương Thái Lan có quyền kiểm soát chặt chẽ các ngân hàng thương mại trong lĩnh vực

cho vay nông nghiệp, bên cạnh đó Nhà nước thành lập Uỷ ban kiểm soát giá cả, tạo

điều kiện kiểm soát giá nông sản và khi cần Nhà nước kịp thời tham gia để bình ổn giá

thị trường.

Năm 1985, Thái Lan bắt đầu mở cửa cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài ồ ạt ,

các ngân hàng Thái Lan được phép trực tiếp vay ngoại tệ đáp ứng nhu cầu đầu tư để

đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và đặc biệt Thái Lan xây dựng các tổ hợp công

nghiệp với quy mô lớn. Bên cạnh đó, ngân hàng Thái lan còn tận dụng những nguồn

vốn tư bản ngắn hạn nước ngoài để bổ sung khoản trống giữa tiết kiệm có giới hạn

trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài, dư nợ vay nước ngoài không ngừng tăng lên

đến 1996 chiếm 55% GDP, riêng Ngân hàng quốc tế Thái Lan đã thu hút đến 50 tỷ

USD. Nằm trong xu thế toàn cầu hóa, thị trường chứng khoán Thái Lan phát triển

mạnh sôi động, đến năm 1995, trên 50% giao dịch thị trường chứng khoán do người

nước ngoài thực hiện. Thời kỳ này các ngân hàng Thái Lan phát triển mạnh mẽ nghiệp

vụ đầu tư vào thị trường tài chính do tỷ lệ vay vốn nước ngoài gia tăng, tỷ lệ lợi nhuận

trên vốn của ngân hàng đạt đến 25%, đến năm 1996, tài sản của hệ thống ngân hàng và

tổng giá trị của thị trường chứng khoán đạt đến 15% GDP, cho thấy cả hai hệ thống

trên đóng vai trò ngang nhau trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế.

Sau khủng hoảng tài chính năm 1997, Thái Lan phải cho đóng cửa 58 chi nhánh

ngân hàng và công ty tài chính, tỷ lệ nợ xấu lên đến 15% . Chính phủ Thái Lan đang cố

gắng phân tán rủi ro bằng việc quy định về cho vay như hạn mức cho vay đối với một

khách hàng không quá 25% vốn tự có, các khoản nợ ngoài bảng tổng kết tài sản hạn

chế dưới 50% tổng số vốn, các ngân hàng không được đầu tư quá 20% tổng số vốn vào

cổ phiếu, giấy chứng nhận nợ của một công ty, tỷ lệ dự trữ thanh khoản theo quy định

là 7% trong đó 2% tiền gởi tại Ngân hàng trung ương, tối đa không quá 2,5% tiền mặt,

còn lại dưới dạng chứng khoán, bên cạnh đó ngân hàng phải thực hiện lập 100% dự

phòng đối với những tài sản có xếp loại đáng nghi ngờ và buộc các ngân hàng bị đóng

cửa phải tăng vốn điều lệ lên 15% tổng vốn thì mới có thể tiếp tục hoạt động. Với

những kiên quyết trong cải cách ngân hàng vừa qua đã giúp Thái Lan phục hồi sau

khủng hoảng .

1.6.3 Bài học kinh nghiệm

Qua kinh nghiệm một số nước trong khu vực, định hướng phát triển công

nghiệp hóa ở Việt Nam gần giống với các nước ASEAN, diễn ra trong môi trường

quốc tế thuận lợi, nền kinh tế thế giới đang trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế . Với sự chỉ đạo toàn diện của Đảng và Nhà nước , Việt Nam đã cố gắng tận

dụng triệt để lợi thế kinh tế vốn có, lấy nông nghiệp là xuất phát điểm, phát triển các

ngành công nghiệp chế biến, may mặc… hướng đến xuất khẩu, phát triển các ngành

công nghiệp sử dụng nhiều lao động đến các ngành công nghiệp sử dụng chất xám,

trình độ công nghệ kỹ thuật cao, chiến lược xuất khẩu thay thế dần nhập khẩu, việc sử

dụng vốn và công nghệ nước ngoài là yếu tố then chốt chốt thực hiện công nghiệp hóa,

nhưng nếu sử dụng vốn đầu tư nước ngoài không hiệu quả, cơ cấu đầu tư bất ổn và

không hợp lý sẽ là nguyên nhân tiềm tàng dẫn đến khủng hoảng tài chính .

Từ chính sách kinh tế và sự phát triển của hệ thống ngân hàng của các nước

châu Á trong tiến trình công nghiệp hóa cần rút ra những bài học kinh nghiệm sau :

- Thứ nhất : Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối

vốn, trước hết để thực hiện thành công công nghiệp hoá- hiện đại hóa, Chính phủ nên

sớm có một khung pháp lý lành mạnh cho hệ thống tài chính, một khuôn khổ pháp lý

và cơ chế giám sát hữu hiệu hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng nội địa như Singapore.

Đồng thời, việc sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô cũng như những hạn chế mục tiêu

thời kỳ đầu là cần thiết để kìm chế sự bùng nổ cho vay, cho vay quá nhiều mà ngân

hàng khó kiểm soát được chất lượng tín dụng, hoặc đẩy mạnh tín dụng phát triển kinh

tế theo “kiểu bong bóng” là nguy cơ tổn thương của hệ thống ngân hàng.

-Thứ hai : Xây dựng hệ thống ngân hàng có tiềm lực vững mạnh, nhanh chóng

đa dạng các hình thức huy động vốn, cùng với đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính

nhằm khai thông vốn trong nước, đồng thời thu hút tư bản nước ngoài để đáp ứng vốn

và kỹ thuật cho quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có biện pháp

mở cửa đồng bộ cắt giảm thuế quan, chính sách ưu đãi tín dụng… để nâng cao chất

lượng tín dụng.

-Thứ ba: Khi định chế tài chính trong nước còn yếu kém, nhất là khi hệ thống

ngân hàng chưa đủ khả năng phân phối tín dụng một cách hữu hiệu, việc tự do hóa thị

trường vốn ngắn hạn là rất nguy hiểm. Dòng vốn tư bản ngắn hạn ồ ạt gây hiện tượng

“thừa vốn”, dẫn đến tình trạng lãng phí, hâm nóng thị trường bất động sản, và sự đảo

ngược dòng vốn này gây ra bất ổn trong thị trường tài chính.

- Thứ tư: Cần có sự can thiệp kịp thời của Chính phủ đối với hệ thống ngân

hàng, mở rộng tín dụng và thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất đối với những mặt hàng,

ngành công nghiệp ưu tiên hướng đến xuất khẩu, nhằm tạo động lực chuyển dịch cơ

cấu kinh tế. Vấn đề hỗ trợ lãi suất cho tín dụng cần phải có chương trình hành động

bước đi thích hợp với những chỉ tiêu cụ thể, với kinh nghiệm của các nước cần phải có

chế độ kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng để tránh nguy cơ thất thoát vốn. Tuy

nhiên nếu sự can thiệp quá mức mang tính áp đặt của Chính phủ vào hoạt động ngân

hàng sẽ trở nên bị gò bó, thiếu tính linh động, gây khó khăn cho ngân hàng trong tiến

trình hội nhập quốc tế.

- Thứ năm: Theo kinh nghiệm của một số nước như Thái Lan, Hàn Quốc … nên

thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu tài trợ những ngành nghề then chốt trọng điểm

hướng đến xuất khẩu và đổi mới công nghệ.

Nghiên cứu về thực tiễn chính sách phát triển kinh tế và ngân hàng tại các nước

châu Á đã chứng minh công nghiệp hóa là con đường tất yếu khách quan để các nước

thoát khỏi đói nghèo lạc hậu. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng hàng đầu

giải quyết nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa. Từ đặc điểm kinh tế xã hội Việt

Nam cùng với việc phát huy những kinh nghiệm quý báu là những bài học cần thiết để

phát triển hệ thống ngân hàng, khai thác, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong

quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa Việt Nam.

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

Chương 1 đã nêu lên một cách khái quát về năng lực cạnh tranh của NHTM,

những tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM dựa trên chính những đặc

điểm của các NHTM và những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của NHTM.

Những cơ sở lý luận này là tiền đề để phân tích năng lực cạnh tranh của các

NHTM Việt Nam hiện nay, kế đó là đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực

cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC

NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Khái quát thực trạng kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam trong những năm

qua

Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống NHTM VN vào quá trình đổi

mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại

hoá là rất lớn. Các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan

trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức mua đồng tiền . Đến nay, vốn cho

sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn do các NHTM đáp ứng, với tổng tài sản của hệ thống

lên tới khoảng 140% GDP.

Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các NHTM VN đã tăng nhanh,

đã và đang từng bước chuyển dần hướng tới một hệ thống tương thích của các nền kinh

tế đang nổi và mới phát triển.

Sự lớn mạnh của hệ thống NHTM VN thể hiện ở sự tăng lên của vốn chủ sở

hữu, tổng tài sản, mức độ đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp và sự đóng góp của ngành

vào GDP hàng năm: về tổng vốn đăng ký đã tăng gấp 12 lần, tổng tài sản và tiền gửi

tăng hơn 16 lần và các khoản vay tăng khoảng 14 lần.

Các NHTM NN vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn,

đặc biệt trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế, của các doanh nghiệp. Chính họ là

kênh chuyển tải nhanh nhất các cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho các thành

phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển. Vì vậy, GDP của

sáu tháng đầu năm 2010 đã đạt khoảng 6,4%, mức tăng cao nhất kể từ quí 4 năm 2008

đến nay. Song thị phần của các nhóm NH này từng bước giảm và nhóm NHTM CP,

NH nước ngoài tăng, nhờ các cam kết mở cửa thị trường.

Năm 2009, lợi nhuận của các NH có mức tăng trưởng khá, tỉ suất lợi nhuận trên

tài sản (ROA) của 6 NH lớn nhất lên mức 1,9% Tỉ suất này năm 2008 là 1,5%. Tuy

nhiên, trong năm 2010, do những khó khăn từ nền kinh tế, đã ảnh hưởng đến khách

hàng có quan hệ tiền gửi và tiền vay tại các NH, ảnh hưởng đến tăng trưởng tài sản, 6

tháng đầu năm 2010, nhiều NH chưa đạt được tốc độ như năm 2009.

- Về phát triển các sản phẩm dịch vụ

Hệ thống NHTM VN đã phát triển khá nhanh về số lượng các NH và số lượng

chi nhánh/phòng giao dịch, cùng với quá trình hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ truyền

thống và phát triển các dịch vụ mới, nên doanh số và tỷ trọng dịch vụ tăng lên qua các

năm.

- Dịch vụ huy động vốn và cho vay: Đây vẫn là dịch vụ mang lại nguồn thu

chủ yếu cho các NHTM hiện nay và có mức tăng trưởng khá. Huy động vốn của các

NHTM có tăng trưởng khá qua các năm (trừ năm 2008, có giảm sút, do tác động từ

cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) do việc đa dạng hóa sản phẩm huy động và phát

triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch. Măc dù có mạng lưới rộng và thương hiệu

mạnh, được người dân biết đến, nhưng tốc độ tăng trưởng về huy động vốn của các

NHTM CP có sự bứt phá mạnh, thị phần đã tăng lên 31,23% so với 21,3% năm 2006,

khiến cho thị phần của các NHTM NN giảm.

Hoạt động cho vay cũng có tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí còn tăng nóng

trong năm 2007 và năm 2008, một số NHTM CP có tốc độ tăng từ 60% trở lên. Nhưng

6 tháng đầu năm 2010, tăng trưởng tín dụng đạt 10,8%, nhưng đến cưới tháng 7, tốc độ

tăng trưởng đã khá hơn, với mức tăng gần 13,0% cho 7 tháng đầu năm 2010. So với tốc

độ tăng trưởng kinh tế, thì tốc độ tăng trưởng tín dụng gấp 5 đến 6 lần được cho là tăng

trưởng nóng, nhưng nhìn nhận một cách sâu sắc có thể thấy, nếu không có sự tăng

trưởng cao của tín dụng trong vài năm qua, thì không có được tốc độ tăng GDP như

ngày hôm nay.

Cho vay theo lĩnh vực kinh tế không thay đổi nhiều qua các năm. Trong tổng số

dư nợ cho vay của NH, nông lâm thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng trên

dưới 30%,tiếp theo là công nghiệp, thương mại và xây dựng.

- Dịch vụ thanh toán

Trong 3 năm trở lại đây, dịch vụ thanh toán đã có bước phát triển quan trọng.

Nhiều dịch vụ thanh toán mới đã ra đời, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người

sử dụng. Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất được triển khai tích cực, việc kết nối

hệ thống ATM, POS thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc đạt kết quả kích lệ.

3 liên minh thẻ Banknet, VNBC và Smartlink đã kết nối liên thông 10 thành viên là các

NHTM có số lượng thẻ phát hành chiếm 87% tổng số thẻ phát hành của các tổ chức

cung ứng dịch vụ thanh toán và 75% số lượng ATM trên toàn quốc là nền tảng quan

trọng cho việc thúc đẩy phát triển dịch vụ này.

Tính đến cuối tháng 7/2010, đã có trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ

và hơn 190 thương hiệu thẻ, gần 11.000 ATM phát hành trên phạm vi cả nước và

37.000 thiết bị chấp nhận thẻ POS. Các dịch vụ tiện ích đi kèm ngày càng được đa

dạng hóa như thẻ mua xăng dầu, thẻ mua hàng qua mạng, thanh toán tiền điện nước…;

việc triển khai thí điểm cung ứng phương tiện thanh toán “ví điện tử” của các tổ chức

không phải tổ chức tín dụng cũng có bước phát triển nhanh, trong đó số lượng phát

hành đạt gần 84.500 “ví điện tử” của 17 NH tham gia triển khai dịch vụ và được chấp

nhận thanh toán tại 119 đơn vị cung ứng hàng hóa dịch vụ.

Điều này đã góp phần phát triển mạnh mẽ thanh toán điện tử trong thời gian tới,

tạo tói quen thanh toán không dùng tiền mặt cho người dân. Tỷ lệ tiền mặt trong tổng

thanh toán có xu hướng giảm, từ 20,3% năm 2004 xuống còn 14,6% năm 2008 và

14,5% năm 2009. Sự phát triển của Hệ thống thanh toán điện tử liên NH có vai trò

quan trọng trọng việc nâng cấp cơ sở hạ tầng cho dịch vụ phát triển. Tài khoản cá nhân

có mức tăng trưởng hàng năm cao: 150% xét về số tài khoản và 120% xét về số dư. Số

lượng các tài khoản cá nhân đã tăng từ 135.000 năm 2000 lên khoảng 5 triệu vào năm

2005, trên 8 triệu vào năm 2007 và 14 triệu vào cuối năm 2009.

2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTMVN

2.2.1 Năng lực thị phần

Thị trường tín dụng Việt Nam phát triển rất mạnh trong những năm gần đây so

với các nước khác trong khu vực Châu Á. Theo số liệu của BMI, tỷ lệ cho vay/huy

động và cho vay/tài sản trong 2010 lên tới 130,7% và 76,6%, cao nhất trong các nước

tại Châu Á. Tuy nhiên, mức độ thâm nhập của ngành thể hiện qua tỷ lệ cho vay/GDP

vẫn chưa đạt được mức tương ứng, mặc dù có tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2005 –

2010. Tỷ lệ này tăng từ 60% trong 2005 lên 113,5% vào 2010, đứng sau một số nước ở

Châu Á như Trung Quốc (126,6%), Hồng Kông (194,2%), Malaysia (119,4%) và Đài

Loan (143,1%)

Khối NHTMNN chiếm ưu thế về vốn và nhà nước vẫn nắm quyền chi phối tại

một số NH đã cổ phần hóa. Hầu hết các NH trong khối này đều có lợi thế về qui mô

vốn, với tổng vốn điều lệ của 4 NH lớn tại 31/12/2010 là 64.037 tỷ đồng.

Biểu đồ 1: So sánh tỷ lệ cho vay/huy động, cho vay/tài sản, cho vay/GDP của một số nước tại 2010

Thị phần tín dụng của khối này đã sụt giảm đáng kể trong giai đoạn 2005 – 2010

mặc dù vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Riêng 4 NH là BIDV, Agribank (VBARD),

Vietcombank (VCB) và Viettinbank chiếm tới 48,3% tổng dư nợ cho vay của toàn

ngành trong năm 2010. Tính thêm NH Phát triển nhà ĐBSCL (MHB), tổng thị phần tín

dụng là 49,3%. Tuy nhiên, con số này thấp hơn nhiều so với 74,2% tại thời điểm 2005.

Thị phần huy động cũng sụt giảm từ 74,2% xuống 47,7% trong giai đoạn 2005 – 2010

Biểu đồ 2: Thị phần huy động vốn Biểu đồ 3: Thị phần cho vay

Biểu đồ 4: Thị phần Tín dụng năm 2005-2010

Khối NHTMCP có hoạt động linh hoạt và dần chiếm lĩnh thị phần của khối

NHTMNN: Các NHTMCP có cơ cấu cổ đông đa dạng hơn các NHTMNN, tập trung

vào hoạt động cho vay các DN vừa và nhỏ và hoạt động ngân hàng bán lẻ. Thị phần

của khối này tăng nhanh trong những năm gần đây do chiếm lĩnh được từ khối

NHTMNN, chiếm 37,1% thị phần tín dụng của toàn ngành trong năm 2010 với tổng số

vốn điều lệ lên tới 151.590 tỷ đồng.

Tuy nhiên, qui mô của nhóm NH này vẫn nhỏ hơn nhiều so với các NHTMNN.

Dẫn đầu về vốn điều lệ trong nhóm này là Eximbank (EIB) với 10.560 tỷ đồng, theo

sau đó là ACB với 9.377 tỷ đồng và Sacombank (STB) với 9.179 tỷ đồng. Một số

NHTMCP khác cũng có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ đồng bao gồm NH Quân đội (MB),

NH Kỹ thương (TCB), NH Hàng Hải Việt Nam (MSB) và NH Đông Nam Á (SEAB).

Hầu hết các NHTMCP còn lại đều có vốn điều lệ quanh mức 2.000 - 3.000 tỷ đồng.

Trong điều kiện lạm phát tăng cao của năm 2011, nhiều NH yếu về thanh khoản bắt

buộc phải huy động bằng mọi giá để đảm bảo hoạt động, dẫn đến tình trạng chạy đua

lãi suất như thời gian vừa qua.

Khối NHNNg và liên doanh có những động thái tích cực nhằm thâm nhập sâu

hơn vào thị trường Việt Nam: Thế mạnh của khối NH này là mảng ngân hàng bán lẻ

với chất lượng dịch vụ vượt trội và sản phẩm cung cấp đa dạng hơn so với các NHTM

trong nước. Đây cũng là mảng thị trường còn nhiều tiềm năng phát triển mà các NH

trong nước chưa khai thác được. Trong thời gian vừa qua, các NH lớn như HSBC,

Citibank (Citi), ANZ, Standard Chartered (S.C) và Deutsche Bank đều không ngừng

mở rộng hoạt động của mình. Citi và S.C chính thức triển khai hoạt động ngân hàng

bán lẻ tại Hà Nội vào tháng 10/2010, trong khi HSBC khai trương 2 chi nhánh mới tại

Đà Nẵng và Cần Thơ trong tháng 9/2010. Một loạt các chi nhánh NHNN khác như

Huanan, Chinatrust và Mizuho cũng tăng mạnh vốn được cấp vào thời điểm cuối năm

2010. Ngoài ra, một vài NHNNg vẫn đang nắm giữ cổ phần tại các NHTM trong nước.

Thị phần của khối NHNNg và liên doanh không có nhiều biến động, đặc biệt là

thị phần huy động do các NHNNg bị hạn chế về huy động vốn trên mức vốn được cấp.

Thị phần huy động và cho vay của nhóm NH này trong 2010 lần lượt là 8,9% và

13,6%. Mặc dù bắt đầu từ năm 2011, hạn chế về huy động tiền gửi được xóa bỏ nhưng

khối NH này sẽ cần một thời gian nhất định để có thể thay đổi miếng bánh thị phần do

về tương quan qui mô mạng lưới của các NHNNg vẫn còn rất nhỏ so với các NHTM

trong nước.

Bảng 1: Tỷ lệ nắm giữ của một số ngân hàng nước ngoài tại các ngân hàng

TM trong nước.

2.2.2 Năng lực tài chính

Ngành NH tăng trưởng nhanh cả về số lượng và qui mô tài sản trong giai đoạn

2006-2010. Tuy nhiên chỉ có 25,6% ngân hàng nội địa có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ

đồng. Thị phần tín dụng và huy động của khối Ngân Hàng Thương Mại Nhà nước

(NHTMNN) vẫn dẫn đầu, tuy nhiên sụt giảm mạnh do sự chiếm lĩnh của khối Ngân

hàng Thương mại (NHTMCP) trong 5 năm trở lại đây. Trong khi đó, khối Ngân hàng

nước ngoài (NHNNg) được gở bỏ hạn chế về huy động và bắt đầu tham gia cuộc cạnh

tranh thực sự bình đẳng với các NHTM trong nước kể từ đầu 2011.

Tính đến cuối năm 2010, thị trường Việt Nam có 101 Ngân hàng và chi nhánh

NH nước ngoài, bao gồm ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước, ngân hàng nước

ngoài (NHNNg) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong đó, chỉ có 11/43 (25,6%)

NHTM trong nước có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ đồng. Theo đánh giá của Ngân hàng

Thế giới (WB), Việt Nam hiện có quá nhiều ngân hàng có qui mô nhỏ, xuất phát điểm

là các NHTM nông thôn nhưng lại vươn ra hoạt động tại thành thị, do đó có tốc độ tăng

trưởng tài sản và danh mục cho vay phát triển quá nóng. Kèm theo đó là hệ thống quản

lý rủi ro và kỹ năng quản lý hoạt động ngân hàng còn tương đối kém, gây tác động

không tốt đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng.

Biểu đồ 5: Số lượng NH giai đoạn 2006-2010 và 11 NH VĐL năm 2010 trên 5.000

tỷ đồng

Nguồn: VCBS Tổng hợp

Mặc dù tổng tài sản tăng trưởng nhanh, qui mô của các NH Việt Nam vẫn nhỏ

hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Theo số liệu của Bloomberg, trung bình 2 chỉ

tiêu tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của 8 NH niêm yết tại Việt Nam là 166.844 tỷ

đồng, thấp hơn mức trung bình của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia,

Ấn Độ, Thái Lan và Indonesia. Với qui mô tương đối nhỏ, các NH Việt Nam đều chịu

áp lực phải tăng cường qui mô nguồn vốn nhằm đảm bảo các chỉ số an toàn hoạt động.

NHNN hiện tại đang sử dụng hai công cụ chính để nâng cao khả năng an toàn vốn của

các NHTM: (1) quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu và (2) quy định về hệ số an toàn

vốn tối thiểu (CAR).

Tính đến thời điểm 31/12/2010, mới chỉ có 28/38 NHTMCP có vốn điều lệ từ

3.000 tỷ đồng trở lên. 10 ngân hàng còn lại có vốn điều lệ từ 1.500-2.800 tỷ đồng và

không thể tăng vốn đúng thời hạn do thị trường chứng khoán diễn biến không thuận

lợi. Chính vì vậy, NHNN đã phải gia hạn cho việc tăng vốn đến hết 31/12/2011.

Tính đến Tháng 8/2011, đã có thêm 4 NH hoàn thành việc tăng vốn là NH Đệ

Nhất (FCB), NH Nam Á (NAB), NH Phương Tây (WEB) và NH Nam Việt (NVB).

Tổng cộng số vốn tối thiểu mà 6 NH còn lại phải huy động đến hết năm 2011 là 5.310

tỷ đồng. Như vậy, trong trường hợp xấu nhất khi các NH này không hoàn thành được

việc tăng vốn trong năm nay, thì thanh khoản của hệ thống NH hầu như sẽ không bị

ảnh hưởng.

Bảng 2: Tình hình tăng vốn của 10 NH chưa đáp ứng vào cuối năm 2010

Tính đến cuối 2010, hầu hết các NHTM đã đáp ứng được yêu cầu về hệ số CAR

tối thiểu 9%. Một số ít các NH chưa đáp ứng được bao gồm VBARD (6,1%), Ngân

hàng Công Thương (8,6%) và NVB (8,9%), trong đó các Ngân hàng Công Thương và

NVB đều đã tiến hành tăng vốn trong thời gian vừa qua, do đó chúng tôi cho rằng tỷ lệ

CAR của các NH này đã đạt mức 9% tại thời điểm hiện tại.

Biểu đồ 6: Qui mô ngành NH của một Biểu đồ 7: Hệ số CAR 2010 của một số quốc gia số NH

2.2.3 Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức

Khả năng quản lý và điều hành của các NHTM là một câu hỏi lớn cho các nhà

Quản lý Nhà nước. Các NHTM Việt Nam thật sự lúng túng trong công tác quản lý và

điều hành sao cho ngân hàng có thể đảm bảo lợi nhuận, an toàn và ổn định khi mà sức

ép tăng trưởng rất mạnh trong tiến trình hội nhập tài chính. Một số ngân hàng đã phải

tìm biện pháp tư vấn từ các tổ chức tài chính quốc tế (nhưng đạt được hiệu quả thấp vì

các chuyên gia tư vấn không có cái nhìn thực tế đối với nền kinh tế Việt Nam nên hầu

như không chuẩn bị các bước chuyển tiếp cho công tác tái cơ cấu ngân hàng), hoặc

phải sử dụng biện pháp bán cổ phẩn cho các tổ chức tài chính, NHNHg để được

chuyển giao các phương pháp quản lý điều hành kinh doanh ngân hàng (Ngân hàng

TMCP Á Châu, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín).

Về cơ cấu tổ chức, các ngân hàng thương mại hiện nay đã có những bước cải

thiện đáng ghi nhận trong cơ cấu tổ chức vận hành, đặc biệt là các NHTMCP (ngân

hàng ACB, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng Quốc Tế, Ngân hàng

Techcombank). Tuy vậy, các cơ cấu tổ chức mới của các ngân hàng thật sự vẫn còn

nằm trong giai đoạn thử nghiệm, triển khai và điều chỉnh. Trên thực tế là các hoạt động

quản lý rủi ro của các ngân hàng này còn rất thiếu ổn định và thông suốt trong thông

tin, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng.

2.2.4 Năng lực công nghệ

Có thể nói công nghệ hiện đại là yếu tố quyết định sức cạnh tranh. Năng lực

công nghệ đi đối với khả năng phát triển mạng lưới và đa dạng hóa, phát triển sản

phẩm dịch vụ. Ngoài ra, trong công tác quản trị ngân hàng, công nghệ thông tin là yếu

tố quan trọng trong việc hoàn thiện và đưa ra các sản phẩm có tính đột phá cao trên thị

trường. Kế đến, yêu cầu tập trung và chia sẻ thông tin mạnh mẽ trong hoạt động hàng

ngày của ngân hàng là yêu cầu tất yếu cho công tác quản lý rủi ro hiệu quả và yêu cầu

này chỉ được thực hiện tốt nhất khi công nghệ thông tin được áp dụng một cách triệt để

nhất. Thực tế trên thế giới đã chứng minh việc xây dựng các quy trình quản lý rủi ro

với các chuẩn mực quốc tế chỉ có thể thực hiện một cách tốt nhất trên nền tảng công

nghệ hiện đại.

Sự phát triển về quy mô đi liền với hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Hầu hết

các NHTMCP đã và đang triển khai các chương trình phần mềm quản lý, phần mềm kế

toán và thanh toán, phần mềm giao dịch,... hiện đại của các hãng nổi tiếng trên thế giới

và do các hãng có uy tín cung cấp và lắp đặt.

Hiện nay, nhiều NHTMCP Việt Nam như Techcombank, VP bank, MB… rất

quan tâm và đầu tư lớn vào công nghệ ngân hàng. Chỉ trong vòng 2 năm gần đây, riêng

VP bank đã đầu tư gần 10 triệu USD cho công nghệ ngân hàng bao gồm việc nâng cấp

và sử dụng hệ thống Core Banking T24 của hãng Temenos (Thụy Sĩ) – hiện là hệ thống

được đánh giá cao nhất trong hệ thống các phần mềm ngân hàng. Với những sự đầu tư

này sẽ giúp các NH đáp ứng được sự đa dạng về nhu cầu của khách hàng, nâng cao khả

năng cạnh tranh trong các nghiệp vụ NHQT

Bảng 3: Phần mềm hệ thống các NHTM Việt Nam đang áp dụng

2.2.5 Năng lực cạnh tranh về mở rộng và phát triển dịch vụ

Việc các NHTM Việt Nam chưa phát huy hết hiệu quả của mạng lưới rộng khắp

cũng như trình độ nhân lực ngân hàng có giới hạn đã hạn chế sự phát triển các sản

phẩm dịch vụ với những tiện ích mới và phong phú hơn; và vì thế gây lãng phí rất lớn

đối với không chỉ ngân hàng mà còn cho cả khách hàng. Thật vậy, trong một thời gian

khá dài, người dân kể cả các đối tượng có trình độ như cán bộ công nhân viên chức,

nắm giữ các loại thẻ ngân hàng chỉ để “rút tiền lương hàng tháng”. Tình hình này thời

gian gần đây có vẻ khả quan hơn khi một số ngân hàng đã cung cấp thêm các dịch vụ,

tiện ích gia tăng như thanh toán hoá đơn, thu hộ tiền bán hàng, thấu chi,v.v…

Biểu đồ 8: Xếp hạng của 5 loại dịch vụ tại một số NHTM tiêu biểu

Trích từ cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu người tiêu dùng và doanh nghiệp

đã công bố năm 2008. Theo đó, có 7 mức xếp hạng theo thứ tự từ mức chất lượng cao nhất

(mức 1) đến mức chất lượng thấp nhất (mức 7).

Biểu đồ 18 cho thấy các NHTMCP luôn dẫn đầu về tính đột phá khi cho ra đời

những dòng sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng đặc biệt là

dòng sản phẩm thẻ, Dịch vụ tài khoản, sản phẩm liên quan đến vàng và ngoại tệ, v.v…

2.2.6 Năng lực cạnh tranh về hệ thống kênh phân phối, mạng lưới

Không chỉ phát triển về số lượng, qui mô mạng lưới của các NHTM cũng tăng

lên nhanh chóng. Tuy nhiên, số lượng chi nhánh, phòng giao dịch (CN, PGD) và ATM

của các NH còn khá chênh lệch nhau do chiến lược phát triển và đặc trưng của từng

ngân hàng. Riêng 4 NHTMNN đã chiếm 35,7% tổng số lượng ATM của toàn hệ thống.

VBARD giữ vai trò chủ đạo trong phát triển đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn nên có

mạng lưới hoạt động rộng khắp với 2.300 CN, PGD và 1.704 ATM trong năm 2010.

Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động ATM của Agribank chưa cao tương ứng với qui mô.

Trong khi đó, các NH như VCB và SEAB với thế mạnh là hoạt động thẻ có mạng lưới

ATM lớn thứ 3 và 4 trong khi qui mô về CN, PGD thấp hơn nhiều.

Biểu đồ 9: Số lượng chi nhánh, phòng giao dịch và ATM của 12 NH lớn

trong năm 2010

Theo số liệu của IMF, tổng tài sản của ngành đã tăng gấp 2 lần trong giai đoạn

2007 – 2010, từ 1.097 nghìn tỷ đồng (52,4 tỷ USD) lên 2.690 nghìn tỷ đồng (128,7 tỷ

USD). Con số này được dự báo sẽ tăng lên 3.667 nghỉn tỷ đồng (175,4 tỷ USD) vào

thời điểm cuối năm 2012. Việt Nam cũng nằm trong danh sách 10 quốc gia có tốc độ

tăng trưởng tài sản ngành NH nhanh nhất trên thế giới theo thống kê của The Banker,

đứng vị trí thứ 2 (chỉ sau Trung Quốc). Trong đó, Eximbank là NH duy nhất của Việt

Nam nằm trong tốp 25 NH tăng trưởng nhanh nhất về tài sản trong 2010, đứng ở vị trí

thứ 13.

Biểu đồ 10: Top 10 tăng trưởng tài sản Biểu đồ 11: ATM, POS và thẻ

ngành NH phát hành

Cùng với sự tăng trưởng về tài sản, mạng lưới ATM cũng như số lượng thẻ đã

tăng lên đáng kể. Số lượng ATM tăng mạnh từ 1.800 trong năm 2005 lên 11.700 trong

năm 2010, trong khi đó số lượng thẻ tín dụng và ghi nợ được phát hành cũng đã tăng

lên gấp đôi trong giai đoạn 2008-2010, đạt 31,7 triệu thẻ. Kết quả này đạt được nhờ thu

nhập bình quân mỗi hộ gia đình và nhu cầu đối với dịch vụ ngân hàng bán lẻ ngày càng

gia tăng. VBARD dẫn đầu thị trường về tổng số lượng thẻ phát hành với gần 6,4 triệu

thẻ, chiếm 20,2% thị phần trong năm 2010. Tiếp đến là ViettinBank đạt trên 5,7 triệu

thẻ, chiếm 18,1% thị phần. VCB đứng thứ 3 với trên 5,3 triệu thẻ, chiếm gần 17% thị

phần. SEAB và BIDV lần lượt xếp thứ 4 và 5 với hơn 5 triệu thẻ và 2,7 triệu thẻ, tương

đương 16,1% và 8,6% thị phần. Tuy nhiên, xét về hiệu quả hoạt động sử dụng thẻ,

VCB tiếp tục khẳng định vị trí dẫn đầu về doanh số thẻ các loại, chiếm 23,4% tổng

doanh số thẻ của ngành. VBARD vươn lên vị trí thứ 2 với gần 20% thị phần, doanh số

tăng gấp 3 lần so với 2009. Tiếp theo là ViettinBank và SEAB chiếm lần lượt 17% và

16% thị phần

Biểu đổ 12: Thi phần doanh số thẻ; Biểu đồ 13: Thị phần số lượng ATM 2010

2.2.7 Năng lực cạnh tranh về thương hiệu

Với sự nhận thức vai trò thiết yếu của thương hiệu trong môi trường cạnh tranh

khắc nghiệt, một số NHTM hàng đầu ở Việt Nam đã đẩy mạnh công tác xây dựng và

quảng bá thương hiệu, bước đầu tạo được thương hiệu riêng, đặc thù gắn với các sản

phẩm và thế mạnh riêng có. Chẳng hạn, Agribank với bề dày truyền thống hoạt động

trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân; BIDV trong tín dụng phát triển cơ

sở hạ tầng và xây dựng cơ bản; VCB với những sản phẩm có chất lượng cao trong

thanh toán nội địa và quốc tế; Sacombank, ACB với các dịch vụ liên quan đến vàng và

ngoại tệ, v.v…

Một thương hiệu nổi tiến đem đến cho khách hàng sự tin tưởng, hài lòng đối với

các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng; khẳng định sự phát triển bền vững của NH đó trong

hệ thống NH Việt Nam, góp phần tăng lợi thế cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Xây

dựng thương hiệu là quá trình lựa chọn và kết hợp các thuộc tính hữu hình cũng như vô

hình với mục đích để khác biệt hóa sản phẩm, dịch vụ hoặc tập đoàn một cách thức thú

vị, có ý nghĩa và hấp dẫn. Quảng bá, phát triển thương hiệu của các ngân hàng thương

mại có thể được thực hiện qua nhiều kênh như thông qua phát triển mạng lưới, đa dạng

hóa các dịch vụ sản phẩm,.....

Trong đó giải thưởng cũng là yếu tố quan trọng góp phần quảng bá cho thương

hiệu của các ngân hàng; đồng thời, nó cũng thúc đẩy các ngân hàng nỗ lực hơn để đạt

được các chuẩn mực cao của ngành tài chính. Tuy nhiên, các giải thưởng hiện nay chưa

được tuyên truyền rộng rãi, khả năng truyền thông ra ngoài của bản thân các ngân hàng

còn hạn chế, thực tế cho thấy giải thưởng chưa tỉ lệ thuận với sự tin tưởng của khách

hàng.

Trong điều kiện hội nhập, một số giải thưởng do các tạp chí tài chính nổi tiếng

của nước ngoài xét tặng thưởng được đánh giá cao về tính khách quan, trung thực của

nó. Kể cả các ngân hàng của các nước khác cũng luôn xem trọng giải thưởng này. Từ

năm 1995, Vietcombank đã có giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất tại Việt Nam” do Tạp

chí Asia Money trao tặng; tiếp đó là Habubank nhận giải “Ngân hàng xuất sắc nhất

năm 2006” từ Tạp chí The Banker; Sacombank cũng không thua kém, được Tạp chí

Euromoney trao tặng giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2007”; Ngân hàng

TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đã vinh dự là Ngân hàng duy nhất ở Việt

Nam trong năm 2007 được Bank of America trao tặng giải thưởng “Excellent Payment

Bank 2007”; ngày 14/4/2007, VPBank chính thức được trao danh hiệu “Nhãn hiệu nổi

tiếng Quốc gia 2007” do Hội Sở hữu Trí tuệ Việt Nam, Cục Sở hữu Trí tuệ, Viện Sở

hữu Trí tuệ phối hợp tổ chức …

Ông Charly Madan, Tổng Giám đốc Citi Việt Nam cho biết: “Việc số lượng các

ngân hàng trong nước đoạt giải tăng hàng năm là minh chứng rõ ràng nhất về sự tiến

bộ vượt bậc về chuyên môn ở cả hai khối ngân hàng nhà nước và ngân hàng cổ phần tại

Việt Nam. Sự tiến bộ rõ rệt về mặt năng lực đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế

sẽ giúp củng cố thêm khả năng cạnh tranh của các NHVN trên thị trường và giúp họ tự

tin hội nhập vào môi trường tài chính quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa

gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO”.

Việc được trao giải theo tiêu chí của nước ngoài cho thấy, các ngân hàng trong

nước đang ngày càng lớn mạnh, hội nhập với thế giới và tiếp cận được các tiêu chuẩn

hoạt động tài chính quốc tế. Tuy nhiên, các giải thưởng có ý nghĩa hơn khi xét trong

tương quan giữa các ngân hàng trong nước với nhau, vì giải thưởng được lựa chọn

riêng trong từng quốc gia và các NHVN vẫn còn non trẻ so với các ngân hàng trên thế

giới.

2.2.8 Năng lực cạnh tranh về nguồn nhân lực

Hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực tại các NHTM Việt Nam chưa cao, chưa

thật sự nhạy bén với những thay đổi của ngành, đặc biệt tại các NHTM khối nhà nước.

Mặc dù vậy vẫn phải khẳng định rằng trình độ lao động của các NHTM đã được

nâng lên đáng kể, tỷ lệ trên đại học và đại học trong cơ cấu lao động của các NHTM,

đặc biệt là khối cổ phần khá cao. Điều này chứng tỏ các NHTM cổ phần đang đẩy

mạnh vấn đề tìm kiếm, bổ sung thêm nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực

chất lượng cao, thậm chí xem đây là yếu tố tiên quyết để nâng cao năng lực cạnh tranh

của ngân hàng.

Bảng 4: Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn của một số NHTM năm

2010

Đại học

Cao đẳng,

Ngân hàng

Tổng số

Trên

Trình độ

đại học

trung cấp

khác

lao động

Agribank

35.021

1,22%

71,63%

6,30%

20,85%

Vietinbank

17.758

1,77%

55,77%

6,37%

21,11%

BIDV

14.550

4,02%

74,43%

12,78%

8,77%

Vietcombank

10.401

3,44%

76,30%

10,59%

9,67%

MHB

3.023

71,00%

29,00%

Techcombank

4.624

82,00%

15,00%

3,00%

Eximbank

3.780

1,35%

62,07%

16,00%

20,58%

Sacombank

7.200

0,88%

58,94%

17,73%

22,45%

ACB

6.669

1,78%

85,41%

9,37%

3,44%

(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thường niên của các NHTM năm 2010)

Mở rộng mạng lưới, phát triển quy mô, tăng số lượng nhân viên phải đi cùng với

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các NHTM ở nước ta hiện nay rất coi trọng việc

tuyển dụng nhân viên mới có chất lượng, loại trừ được việc nhận người vào làm việc

theo quan hệ.

Công tác đạo tào nhân viên nghiệp vụ theo hướng chuyên sâu sao cho nguồn

nhân lực có đủ chất lượng đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh cũng được các NH quan

tâm đúng mức. Trong điều kiện cạnh tranh mới như hiện nay, các ngân hàng nội địa

đang cố gắng hành động đó là tăng cường đội ngũ nhân lực thông qua cải thiện các chế

độ lương thưởng, trợ cấp cho nhân viên để giữ chân nhân viên cũ và tìm kiếm những

chuyên viên giỏi. Trong số đó, một hình thức thu hút và giữ chân nhân tài rất phổ biến

và hữu hiệu là bán ưu đãi cổ phần cho nhân viên.

Ngoài ra, việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp cũng được một số NHTM đặc

biệt coi trọng. Văn hóa doanh nghiệp là một nhân tố phi vật chất có ảnh hưởng quyết

định đến hiệu quả kinh doanh. Văn hóa doanh nghiệp được thể hiện bằng thái độ, tác

phong, bằng dân chủ và bằng định hướng kinh doanh của một ngân hàng thông qua kỹ

thuật tác nghiệp khi giao dịch với mọi khách hàng tiền gửi, tiền vay, khách hàng dịch

vụ khác như ATM, bằng trang phục,…là tổng hòa mọi các mối quan hệ trong nền kinh

doanh hiện đại.

Nói chung NHTM có một lực lượng lao động đủ về lượng và chất, đảm bảo cho

ngân hàng hoạt động tốt. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh trước thềm hội nhập,

vấn đề về nguồn nhân lực chất lượng cần phải luôn được coi trọng hơn nữa.

2.2.9 Năng lực cạnh tranh về tăng trưởng tín dụng

Với đặc trưng của một nền kinh tế mới nổi, tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy

động của Việt Nam luôn ở mức cao trên 20% trong suốt giai đoạn 2000 – 2010. Mức

tăng trung bình cho tín dụng và huy động trong giai đoạn này lần lượt là 31,55% và

28,91%, trong đó đỉnh điểm là năm 2007 với 53,89% và 47,64%. Tốc độ cung tiền M2

trong giai đoạn 2005 – 2010 cũng đạt trung bình 29,19%.

So với các nước trong khu vực, tăng trưởng tín dụng và M2 của Việt Nam cao

hơn nhiều so với Indonesia (14,5% và 12,4%) và Thái Lan (7% và 4%). Đây là một

trong những nhân tố đóng góp vào sự phát triển nhanh của nền kinh tế Việt Nam trong

giai đoạn này, thể hiện qua tốc độ tăng GDP trung bình là 7,15%, đạt đỉnh 8,5% vào

năm 2007. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng nóng cũng chính là một nguyên nhân dẫn

đến tình trạng bong bóng tài sản mà nhiều nước mới nổi như Việt Nam mắc phải khi

nguồn vốn chảy vào các lĩnh vực có rủi ro cao như bất động sản

Biểu đồ 14: Tăng trưởng tín dụng Biểu đồ 15: Tăng trưởng huy động

2000-2010 2000-2010

Biểu đồ 16: Tăng trưởng Tín dụng, huy động và GDP 2000-2010

Cơ cấu thu nhập chưa đa dạng, chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động tín dụng:

Nguồn thu nhập từ hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu nhập

của hầu hết các NHTM trong nước. Năm 2010, tỷ trọng trung bình thu nhập lãi trong

tổng thu nhập của 10 NH hàng đầu Việt Nam là 76,8%. Đối với một số NH có qui mô

nhỏ hơn, tỷ trọng này thậm chí còn lên tới hơn 90% (Liên Việt: 92,2%, Đại Dương:

103,5%, Nam Việt: 93,1%, Phát triển Mê Kông: 98,8%). Điều này cho thấy cơ cấu thu

nhập của hệ thống NH Việt Nam chưa có sự đa dạng, phụ thuộc nhiều vào hoạt động

tín dụng, kéo theo rủi ro về chất lượng tín dụng. Đồng thời, khi tăng trưởng tín dụng bị

hạn chế như tình hình hiện tại, thu nhập của các NH sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.

Biều đồ 17: Cơ cấu thu nhập 2010 của 10 NH

Bắt đầu từ năm 2008, thị trường tài chính thế giới nói chung và Việt Nam nói

riêng bắt đầu gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy

nhiên, các NHTM Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng lợi nhuận tốt trong giai

đoạn này với trung bình tăng trưởng của 8 NHTM hàng đầu là 46% trong 2008, 59%

trong 2009 và 31% trong 2010. Kết quả kinh doanh của khối NH nước ngoài không

được công bố rộng rãi, tuy nhiên đại diện của khối này là HSBC Việt Nam đã đạt mức

tăng trưởng 40% lợi nhuận sau thuế trong năm 2010. Năm 2011 tiếp tục là một năm

khó khăn với ngành ngân hàng với những diễn biến kinh tế vĩ mô phức tạp trong 8

tháng đầu năm. Lợi nhuận của các NH được dự báo sẽ tăng trưởng chậm hơn so với

2010, tuy nhiên mức trung bình vẫn được duy trì trên 20%

Biểu đồ 18: Tăng trưởng lợi nhuận sau thuế của một số NH

Do ảnh hưởng của việc tăng trưởng tín dụng cao, nợ xấu luôn là một trong

những vấn đề nổi cộm của ngành Ngân hàng Việt Nam từ trước tới nay, trong đó có hai

vấn đề chính cần chú ý: (1) sự khác biệt trong cách phân loại nợ theo chuẩn Việt Nam

(VAS) và theo chuẩn quốc tế (IAS) và (2) sự gia tăng nợ xấu của toàn hệ thống trong

thời gian gần đây.

Có sự khác biệt tương đối lớn trong phân loại nợ giữa VAS và IAS: Theo số liệu

công bố của NHNN, tỷ lệ nợ xấu hiện nay của toàn hệ thống đang ở mức 3%, tăng so

với mức 2,5% vào cuối năm 2009. Theo đánh giá của NHNN thì con số 3% vẫn ở mức

an toàn và kiểm soát được. Tuy nhiên, theo tính toán của tổ chức xếp hạng tín nhiệm

Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu của các NH Việt Nam lên tới 13% tổng dư nợ và là một con

số đáng lo ngại. Nguyên nhân cơ bản của sự chênh lệch này chính là sự khác biệt trong

việc phân loại nợ theo chuẩn Việt Nam (VAS) và chuẩn quốc tế (IAS).

Hầu hết các NHTM tại Việt Nam hiện nay đều phân loại nợ dựa vào định lượng

mà thiếu đi phần định tính như tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp. Điều này dẫn đến việc phân loại nợ không phản ánh thực chất khoản nợ.

Đồng thời, các NH chỉ xếp phần nợ đến hạn không trả được vào nợ xấu, trong khi phần

còn lại của khoản nợ vẫn là nợ đủ tiêu chuẩn. Trong khi đó, theo IAS, nếu phần nợ đến

hạn không trả được thì toàn bộ khoản nợ phải được xếp vào nợ xấu.

Ngoài ra, một số NH Việt Nam còn biến nghiệp vụ gia hạn nợ, vốn là một

nghiệp vụ bình thường của NH, thành một hình thức để giảm tỷ lệ nợ xấu của mình do

nợ gia hạn không được tính vào nợ xấu. Đồng thời, không ít ngân hàng đã hạn chế

phân loại nợ xuống nhóm 3-5 để tránh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tránh ảnh

hưởng đến lợi nhuận của mình. Kết quả là sự chênh lệch giữa phân loại nợ xấu theo

VAS và IAS ngày càng lớn.

Rất ít NH áp dụng phân loại nợ định tính do còn nhiều bất cập: Mặc dù NHNN

đã đưa ra quy định về việc phân loại nợ theo Quyêt định 493/2005/QĐ-NHNN, trong

đó bao gồm cả phân loại theo định lượng (Điều 6) và định tính (Điều 7), tính đến thời

điểm hiện tại, chỉ có 3 NH tại Việt Nam đã thực hiện việc phân loại nợ định tính theo

Điều 7 là BIDV, Agribank và VCB. Nguyên nhân chủ yếu là do: (1) Các NH phải xây

dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để áp dụng phương pháp phân loại này

(2) Phân loại nợ theo định tính sẽ làm tỷ lệ nợ xấu cao gấp 2 – 3 lần so với định lượng

và (3) Bản thân việc phân loại nợ theo định tính cũng gặp phải nhiều điểm bất cập.

Tăng trưởng tín dụng nóng, cùng với chất lượng quản lý tín dụng không tốt của

các NHTM Việt Nam, là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng của nợ xấu trong thời

gian qua. Mặc dù ý thức được điều này, NHNN đã yêu cầu các NHTM hạn chế tăng

trưởng tín dụng quá cao, nhưng trong thực thế tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn luôn ở

mức trên 20% trong 10 năm gần đây. Đặc biệt, tăng trưởng tín dụng lên tới 53,89%

trong năm 2007, 37,73% trong 2009 trước khi hạ nhiệt xuống 27,65% trong 2010. Việc

cho vay ồ ạt trong những năm trước, cộng thêm với sự việc của Vinashin gần đây, đã

để lại nhiều hệ lụy, trong đó có việc gia tăng nợ xấu trong thời gian qua.

Tính đến tháng 6/2011, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ở mức 3,1%, tăng 50

điểm so với hồi cuối năm 2010, trong đó nợ nhóm 5 chiếm tới 47%. Đặc biệt, tỷ lệ nợ

xấu của các NH tại TPHCM lên tới 4,39%. Theo phát ngôn của NHNN, trong trường

hợp xấu nhất, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành có thể lên tới 5% vào cuối năm. Nếu trường hợp

này xảy ra, nợ xấu của 2011 thậm chí cao hơn rất nhiều so với mức 3,5% của năm bắt

đầu khủng hoảng 2008, và cũng là mức cao nhất từ 2003 đến nay

Biểu đồ 19: Tỷ lệ nợ xấu hệ thống Biểu đồ 20: Tỷ lệ nợ xấu một số NH

ngân hàng năm 2010

2.3 Vận dụng mô hình SWOT để xác định ưu thế cạnh tranh của NHTMVN

Việt Nam đã thành viên của WTO, môi trường kinh doanh của các ngân hàng

trong nước có sự thay đổi lớn, bởi chúng ta phải thực hiện những cam kết quốc tế theo

lộ trình ký kết. Đã và sẽ có nhiều NHNHg được phép hoạt động tại thị trường Việt

Nam trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng trong nước. Với sự thay đổi

đó, nhìn dưới góc độ đa chiều, ngành NHVN cũng được hưởng nhiều cơ hội cũng như

thách thức đối với hệ thống NH Việt Nam. Tận dụng những lợi thế sẵn có cũng như cơ

hội có được từ hội nhập, vượt qua những thách thức và khó khăn, ngành ngân hàng đã

và đang làm gì để thành công trong "sân chơi" mới này?

2.3.1 Những lợi thế

2.3.1.1 Mạng lưới

Trước hết, điểm mạnh của các ngân hàng trong nước là mạng lưới. Các NHTM

trong nước có một mạng lưới rộng khắp thông qua các chi nhánh và sở giao dịch. Các

NH nước ngoài có hạn chế về mạng lưới hoạt động, nên khả năng tiếp cận khách hàng

khó hơn các NHTMVN.

2.3.1.2 Mối quan hệ khách hàng truyền thống

Thứ hai, các ngân hàng trong nước đã thiết lập được mối quan hệ với các hệ

thống các khách hàng. Mỗi ngân hàng đã có hệ thống khách hàng truyền thống để

chăm sóc và ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ từ nhiều năm. Các NHTM trong nước

gần khách hàng hơn và do đó hiểu khách hàng hơn. Điều này đặc biệt thể hiện ở hiệu

quả của nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, của khả năng huy động vốn từ nhiều nguồn, của

hiệu quả tín dụng trung và ngắn hạn mà đối tượng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn

chiếm một tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu tín dụng của các NH. Sự hiểu biết về khách

hàng bản địa cũng là một lợi thế lớn giúp các ngân hàng có thể phát triển tốt mạng lưới

giao dịch.

2.3.1.3 Nguồn nhân lực mới

Thứ ba, nhờ vào chiến lược thu hút, đào tạo phát triển nhân lực mà ở thời điểm

hiện tại các NHTMVN sở hữu được một lực lượng lao động tương đối đủ về lượng và

đảm bảo về chất trong cả lực lượng nhân sự chủ chốt lẫn nhân sự tác nghiệp. Chiến

lược thu hút nhân sự có thể được thể hiện qua chế độ lương bổng, cơ hội thăng tiến

thông thoáng, linh hoạt; chính sách bán cổ phần ưu đãi cho nhân viên có thể nói là khả

năng thu hút nguồn nhân lực, ngay cả từ các NHNNg vốn được xem là NH có chế độ

lương hấp dẫn nhất.

2.3.1.4 Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định

Thứ tư, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và niềm tin của công chúng vào

NHTMVN ngày càng được nâng cao. Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và chắc chắn

trong những năm qua, lạm phát thấp và môi trường pháp lý thuận lợi cho việc kinh

doanh đã tạo cho các NH thực hiện chức năng trung gian tài chính một cách ổn định.

Nhờ sự ổn định vĩ mô, các NHTMVN có thể huy động ngày càng tăng từ các thành

phần kinh tế và cá nhân phục vụ cho vay tiêu dùng, thương mại, đầu tư, tạo lợi nhuận

và mở rộng mạng lưới hoạt động. Nhờ đó, các NHTMVN có thể huy động vốn dễ dàng

hơn các năm trước, góp phần làm tăng sự vững mạnh và an toàn của hệ thống, nâng

cao năng lực canh tranh.

2.3.2 Những khó khăn

2.3.2.1 Năng lực tài chính

Năng lực tài chính của các NHTMVN vẫn còn non kém hơn so với khu vực và

quốc tế. Vốn (vốn điều lệ) tuy đã tăng mạnh so với trước đây nhung vẫn còn bé so với

khu vực và thế giới. Khả năng huy động vốn trong nội bộ nền kinh tế thấp, nhất là vốn

trung dài hạn và tiết kiệm nội địa, hầu hết các NHTMVN chưa có chiến lược kinh

doanh hợp lý để có thể vươn ra thị trường quốc tế. Theo dự đoán của VAFI - Hiệp hội

các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam, quy mô trung bình của hệ thống ngân hàng thương

mại Việt Nam 5 năm tới chỉ vào khoảng 100 triệu USD/ngân hàng, đây là khoảng cách

rất xa so với mức trung bình 1-2 tỷ USD/ngân hàng ở các nước trong khu vực. Ngoài

ra, hệ thống kế toán kiểm toán ngân hàng vẫn chưa minh bạch, an ninh tài chính trong

ngân hàng còn chưa hình thành rõ nét. Những hạn chế này đòi hỏi các NH phải nhìn

thấy rõ và có những chiến lược và giải pháp cụ thể.

2.3.2.2 Vấn đề công nghệ

Công nghệ hiện đại là yếu tố cần thiết cho việc mở rộng phát triển mạng lưới,

phát triển sản phẩm dịch vụ cũng như công tác bảo mật thông tin NH. Mặc dù các

NHTMVN đã coi trọng và đầu tư nhiều vào công nghệ thông tin nhưng trên thực tế số

lượng các ngân hàng có các chương trình tin học hiện đại cũng còn hạn chế. Các

chương trình này vẫn chưa hoạt động một cách hoàn hảo, đặc biệt là các ngân hàng này

vẫn chưa chú trọng trong việc sử dụng các tiến bộ của hệ thống tin học mới vào công

tác phòng chống rủi ro tín dụng. Trong khi đó các NHNNg vượt khá xa trình độ công

nghệ ngân hàng với hệ thống máy móc thiết bị cũng như những ứng dụng công nghệ

thông tin trong nghiệp vụ ngân hàng.

2.3.2.3 Khả năng đa dạng hóa dịch vụ

Khả năng đa dạng hóa dịch vụ của các NHTMVN vẫn chưa thể so sánh với

NHNNg. Các NHNHg có thể mạnh về cung cấp dịch vụ, trong khi đó các ngân hàng

nội địa chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tín dụng. Theo HSBC, doanh thu từ thanh

toán quốc tế chiếm 1/3 tổng doanh thu của ngân hàng này, khách hàng là các công ty

Việt Nam cách đây 3 năm chỉ chiếm 3%, nay đã chiếm 50% trên tổng số khách hàng

của HSBC, dự đoán 3 năm nữa tăng lên 70%. Các NHTMVN đang nỗ lực phát triển

lĩnh vực dịch vụ nhưng việc ứng dụng các sản phẩm dịch vụ mới như các nghiệp vụ

phái sinh, kinh doanh ngoại hối,… vẫn còn kém hơn các NHNNg.

2.3.2.4 Tâm lý hướng ngoại của khách hàng

Đây là một khó khăn mới mà các NH cần phải chú ý. Đó là trong một cuộc khảo

sát gần đây của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) phối hợp với Bộ Kế

hoạch Đầu tư đưa ra con số bất ngờ, đó là 42% doanh nghiệp và 50% dân chúng được

hỏi đều trả lời rằng họ sẽ lựa chọn vay ở các ngân hàng nước ngoài hơn là các ngân

hàng nội địa khi mà chúng ta mở cửa tài chính. Và kết quả của một cuộc khảo sát khác

thì 50% doanh nghiệp và 62% dân chúng được hỏi cho rằng họ sẽ lựa chọn ngân hàng

nước ngoài để gửi tiền. Lý do là các ngân hàng này có tính chuyên nghiệp cao hơn, thủ

tục đơn giản hơn, dịch vụ tốt hơn và mức độ tin cậy cao hơn.

2.3.3 Những cơ hội

- Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân

hàng, nâng cao năng lực và hiệu quả trong điều hành và thực thi chính sách tiền tệ; đổi

mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá trên cơ sở thị trường, tạo động lực thúc đẩy

sự phát triển của thị trường tiền tệ; áp dụng các thông lệ tốt nhất trong quản trị ngân

hàng, các chuẩn mực về thông tin báo cáo tài chính, các tiêu chí trong phòng ngừa rủi

ro và an toàn hoạt động ngân hàng.

Gia nhập WTO sẽ tạo nên nhiều cơ hội phối hợp chính sách, trao đổi thông tin

và liên kết hành động giữa Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Trung Ương

(NHTW), các tổ chức tài chính đa phương, qua đó nâng cao sự an toàn trong hoạt động

của hệ thống NH Việt Nam và khả năng đối phó với những biến động của thị trường tài

chính, tiền tệ trong và ngoài nước.

- Sân chơi bình đẳng: Hội nhập quốc tế với việc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy cạnh

tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng, các NHTMVN sẽ phải hoạt

động theo nguyên tắc thị trường. Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ thúc đẩy hiệu quả

không chỉ trong huy động, phân bổ các nguồn vốn mà còn hiệu quả kinh doanh của

mỗi ngân hàng.

Mở cửa thị trường tài chính trong nước buộc các NHTMVN phải chuyên môn

hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, nhanh

chóng tiếp cận và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới. Qua đó, khai thác và áp dụng

hiệu quả hơn ưu thế của các loại hình ngân hàng nhằm mở rộng thị phần trên thị trường

tài chính trong nước và quốc tế. Nói cách khác, Các NH Việt Nam được tham gia vào

một “sân chơi” kinh doanh bình đẳng và mang tính chuyên nghiệp cao.

Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, đặc biệt là sau

năm 2010. Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng sẽ

ngày càng giảm và sự bảo hộ sẽ không còn nữa. Các ngân hàng tồn tại bằng chính "đôi

chân và khối óc" của mình. Nhà nước chủ yếu chỉ quản lý ở tầm vĩ mô thông qua cơ

chế chính sách. Chính bối cảnh đó sẽ tạo ra cho các NH Việt Nam sự năng động trong

hoạt động kinh doanh và có thể nói bắt buộc phải năng động để kinh doanh hiệu quả.

Đồng thời đây cũng là cơ hội để các ngân hàng thể hiện năng lực và trình độ của mình.

- Liên kết với NHNNg: Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo các cam kết

song phương và đa phương sẽ là điều kiện tốt để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực

tài chính, đồng thời các công nghệ ngân hàng, các kỹ năng quản lý tiên tiến được các

ngân hàng trong nước tiếp thu thông qua sự liên kết hợp tác kinh doanh. Sự tham gia

điều hành, quản trị các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố

quan trọng để cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh ở các ngân hàng

trong nước.

Các ngân hàng trong nước có nhiều cơ hội hơn nhận được sự hỗ trợ về tư vấn,

đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài.

Các ngân hàng trong nước sẽ có điều kiện tốt hơn để tăng cường về khả năng phòng

ngừa và xử lý rủi ro nhờ áp dụng công nghệ ngân hàng, kỹ năng quản trị và phát triển

sản phẩm mới.

Bên cạnh đó, nhờ có tiến trình hội nhập mạnh mẽ, các NH Việt Nam sẽ có cơ

hội để học hỏi kinh nghiệm, trình độ công nghệ, quản lý từ các NHNHg thường được

đánh giá là mạnh về tài chính, công nghệ và quản trị điều hành. Sự cọ xát trong hoạt

động kinh doanh cũng là cơ hội để các NH Việt Nam nâng mình lên một tầm cao mới.

- Cơ hội mở rộng thị trường nội địa, sản phẩm dịch vụ: Hơn thế nữa, khi Việt

Nam là thành viên của WTO, ngành ngân hàng cũng phát triển theo các ngành dịch vụ

khác. Nhìn vào sự phát triển của hệ thống ngân hàng của một quốc gia người ta có thể

đánh giá được sự phát triển kinh tế của quốc gia đó. Sự phát triển kinh tế và ngân hàng

luôn luôn liên quan với nhau. Ngân hàng là nhóm ngành dịch vụ được đánh giá là có

tác động nhiều nhất khi Việt Nam gia nhập WTO và tất nhiên sự tác động này mang

yếu tố tích cực tức là theo chiều hướng phát triển. Các giao dịch thương mại sẽ tăng lên

nhanh chóng.

Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đến Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Nhận thức

của người dân về việc sử dụng dịch vụ ngân hàng sẽ thay đổi. Theo nguồn của ngân

hàng thế giới (WB), số tài khoản cá nhân mở tại các ngân hàng tăng lên thành chóng.

Số tài khoản cá nhân hiện nay là hơn 6.000 tài khoản. Tuy nhiên, con số này chiếm tỷ

lệ rất nhỏ so với hơn 80 triệu dân Việt Nam. Trong tương lai con số này sẽ lớn hơn rất

nhiều.

Tất cả những yếu tố đó tạo ra cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng sản phẩm dịch

vụ cho ngành ngân hàng. Mở rộng thị trường nước ngoài không chỉ là thị trường trong

nước, sự hội nhập còn tạo ra cho các NHTM Việt Nam cơ hội mở rộng thị trường ra

nước ngoài theo quy định của các cam kết quốc tế. Sự hội nhập tạo điều kiện thuận lợi

cho các tổ chức tín dụng trong nước mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài thông

qua các hình thức cung cấp dịch vụ trong khuôn khổ WTO, đặc biệt là hiện diện

thương mại và cung cấp qua biên giới.

2.3.4 Những thách thức

2.3.4.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước

Hệ thống pháp luật ngân hàng còn thiếu, chưa đồng bộ và một số điểm chưa phù

hợp với thông lệ quốc tế. Hệ thống chính sách, pháp luật ngân hàng còn có phân biệt

đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng, giữa các nhóm ngân hàng, giữa ngân hàng

trong nước và NHNNg, tạo nên sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Những điều đó đặt ra

thách thức sửa đổi nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng thông thoáng theo

nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO.

Hệ thống pháp luật của Việt Nam còn chứa đựng nhiều hạn chế mang tính định

lượng áp dụng đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) trong nước và có những điểm chưa

phù hợp với quy định của GATS và Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Cơ cấu tổ chức

của NHNN chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động có hiệu lực của một hệ thống được

quản lý tập trung thống nhất.

Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng các giao dịch vốn, các luồng chu chuyển vốn sẽ rất

phức tạp làm tăng khả năng rủi ro hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, các công cụ chủ

yếu của chính sách tiền tệ chưa được đổi mới kịp thời, năng lực điều hành chính sách

tiền tệ cũng như giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN vẫn còn hạn chế, sự phối

hợp giữa các bộ, ngành liên quan trong quản lý vĩ mô chưa được chặt chẽ làm cho công

tác quản lý kém hiệu quả.

2.3.4.2 Đối với các ngân hàng thương mại

Sự lớn mạnh về năng lực tài chính của các NHNNg

Gia nhập WTO đồng nghĩa với sự gia tăng áp lực cạnh tranh từ phía các

NHNHg với năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ, trình độ quản lý và hệ thống sản

phẩm đa dạng, có chất lượng cao hơn và có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách

hàng. Hội nhập đồng nghĩa với việc xóa bỏ hoàn toàn hàng rào bảo hộ từ phía Nhà

nước. Tất các cả ngân hàng trong và ngoài nước đều tham gia trên một “sân chơi” kinh

doanh bình đẳng.

Các NHNHg thường mạnh về vốn, công nghệ tiến tiến, sản phẩm dịch vụ đa

dạng trong khi đó ngân hàng chúng ta tiềm lực vốn vẫn còn nhỏ bé, sản phẩm dịch vụ

đơn điệu, chủ yếu là những sản phẩm dịch vụ truyền thống, trình độ quản trị còn nhiều

bất cập. Trong quá trình hội nhập, lợi thế tìm tàng sẽ thuộc vào nhóm NHNHg và sức

ép cạnh tranh sẽ ngày càng lớn đối với các NHTM trong nước.

Các NHTM Việt Nam sẽ gặp khó khăn rất lớn do đồng thời phải hướng các hoạt

động ra thị trường bên ngoài và đồng thời phải cạnh tranh với các NHNHg tham gia

vào thị trường Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam mới chỉ đề cập đến một vài nội dung

của chính sách cạnh tranh, chưa có chính sách thống nhất để quản lý có hiệu quả hoạt

động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và hầu như chưa chú ý đến việc nghiên cứu

xây dựng chính sách nhà nước đối với cạnh tranh ngân hàng. Các ngân hàng chưa chú

trọng phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, công nghệ chưa được coi là công cụ

hàng đầu để nâng sức cạnh tranh, dịch vụ cung cấp vì thế còn nghèo nàn, thiếu an toàn.

Đồng thời, hệ thống ngân hàng đứng trước khó khăn trong việc chuyển đổi sang

áp dụng các chuẩn mực về an toàn theo thông lệ quốc tế như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu,

trích lập dự phòng rủi ro, phân loại nợ theo chuẩn mực kế toán quốc tế.

Sự xâm nhập ngày càng sâu rộng của NHNNg

Sự xâm nhập của các NHNNg và Việt Nam được thực hiện qua 2 hình thức, đó

là đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thông qua thành lập các chi nhánh ngân hàng 100%

vốn nước ngoài, thành lập chi nhánh NH nước ngoài tại Việt Nam,… và kế đến là đầu

tư gián tiếp dưới hình thức mua cổ phần ở các NH trong nước, trở thành những đối tác,

cổ đông chiến lược của các NH trong nước.

Hình thức đầu tư trực tiếp sẽ đảm bảo cho các NHNNg có được sự phát triển

bền vững trong dài hạn nhờ vào những cam kết mở cửa của ngành tài chính ngân hàng

Viêt Nam. Nhờ đó, các NHNNg có thể thâm nhập sâu hơn vào các lĩnh vực cung cấp

sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là từ sau năm 2010.

Việc góp vốn mua cổ phần của các NHNNg vào Việt Nam hiện nay vẫn còn ở

mức bị khống chế như tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của một tổ chức nước ngoài là 10%

tổng số cổ phần, và tất cả cổ đông nước ngoài sở hữu không quá 30%; giới hạn 10%

được nâng lên 15% đối với đối tác chiến lược và là 20% nếu có sự đồng ý của Thủ

Tướng Chính Phủ. Hiện tại với những giới hạn trên, các đối tác nước ngoài vẫn chưa

thể kiểm soát được các NH trong nước. Nhưng điều này có khả năng thay đổi khi mà

chúng được gỡ bỏ từ sau năm 2010. Khi các giới hạn khi gia nhập WTO được gỡ bỏ

hoàn toàn, nguy cơ có thể xảy ra là các NHNNg sẽ là người thôn tính chi phí các NH

trong nước và trở thành những ông chủ thật sự của một số NH thương mại trong nước

hiện nay.

Nhận xét:

Qua việc phân tích hiện trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM cũng như qua

việc phân tích mô hình SWOT, thì có thể khẳng định là các NHTMVN đã sẵn sàng cho

hội nhập kinh tế quốc tế với những lộ trình cam kết hay chưa? Có thể nói rằng các

NHTMVN vẫn còn đang ở giai đoạn đầu cho cuộc hội nhập, cuộc cạnh tranh khốc liệt

với các NHNNg mới thực sự diễn ra từ năm 2010. Đối với một số những NHTMCP

lớn như ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank, Vpbank, và gần đây có VIB

bank thì không thể phụ nhận rằng họ đã có một sự chuẩn bị khá tốt để đón đầu hội

nhập thông qua việc tăng năng lực tài chính, tăng năng lực công nghệ, nhân sự, phát

triển mạng lưới,… cộng với điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định hiện nay, hoạt động kinh

doanh của các ngân hàng khá vững vàng.

Tuy nhiên, trong tương quan so sánh với NHNNg về mặt năng lực tài chính

cũng như những kinh nghiệm kinh doanh trên trường quốc tế,… nói chi đến các

NHTMVN có quy mô nhỏ mà ngay cả các NHTMVN có quy mô khá lớn kể trên cũng

không thể so sánh được. Ngoài ra, liệu các NHTMVN có thể vượt qua được những rào

cản khi mà điều kiện kinh tế vĩ mô có thể thay đổi trong tương lai không,…

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Bên cạnh thể hiện những khai lược về tình hình hoạt động kinh doanh của các

NHTM, chương 2 đã tập trung đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM

trong quá trình hội hập quốc tế. Qua đó, luận văn cũng rút ra những lợi thế cũng như

yếu điểm của khối NHTM này, đồng thời cũng phân tích những cơ hội và thách thức

mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Trong xu thế phát triển mới, định hướng phát

triển của khối NHTM cũng được phân tích sâu sắc để có thể định ra những hướng đi

đúng đắn.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC

NHTM VIỆT NAM

3.1 Định hướng phát triển ngành ngân hàng Việt Nam

3.1.1 Quy mô tài sản

Tài sản ngành NH Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao trong giai đoạn 2010 -

2050, tỷ trọng tài sản của ngành NH Việt Nam so với toàn thế giới sẽ tăng từ 0,2%

trong 2009 lên 1,4% trong 2050, đồng thời tốc độ tăng trưởng tài sản trung bình hàng

năm trong giai đoạn 2010 – 2050 của ngành NH Việt Nam dự báo đạt 9,3%, cao hơn

nhiều nước tại Châu Á như Indonesia, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản và ngang

bằng với Ấn Độ. Việc tăng trưởng nhanh về qui mô tài sản của ngành NH Việt Nam

trong những năm tới một mặt cho thấy triển vọng phát triển tốt của ngành nhưng mặt

khác cũng đòi hỏi việc nâng cao chất lượng quản lý tài sản để có thể đạt được khả năng

sinh lời tương ứng với qui mô đó

Biểu đồ 21: Dự báo tỷ trọng tài sản ngành NH; Biểu đồ 22: Dự báo tốc độ tăng tài

so với toàn thế giới trong 2050 sản trung bình hàng năm giai đoạn 2010-2050

3.1.2 Tăng trưởng tín dụng

Tăng trưởng tín dụng sẽ được duy trì ở mức thận trọng: Thực tế những gì đang

diễn ra trong 2010 cho thấy việc tăng trưởng tín dụng nóng và kiểm soát chất lượng các

khoản vay không tốt là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng lạm

phát và bong bóng tài sản như hiện nay. Do đó, bắt đầu từ 2011 NHNN đã hạn chế tốc

độ tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là với một số ngành có độ rủi ro cao nhằm khắc phục

tình trạng trên. Chúng tôi cho rằng, trong những năm tiếp theo, NHNN sẽ tiếp tục thận

trọng với chính sách tín dụng chung của toàn ngành và không để xảy ra tình trạng tăng

trưởng nóng như trong những năm vừa qua.

3.1.3 Sự tăng trưởng mạnh của khối ngân hàng nước ngoài

Năm 2011 sẽ là năm đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của khối NH nước

ngoài khi được đối xử bình đằng như các NHTM trong nước. Mặc dù chưa thể tăng

ngay thị phần tín dụng và huy động trong ngắn hạn do mạng lưới hoạt động còn khiêm

tốn, nhưng việc không bị hạn chế về huy động tiền gửi sẽ là cơ sở để khối này mở rộng

hoạt động kinh doanh của mình và tiếp cận với nhiều phân khúc khách hàng hơn. Dẫn

đầu trong khối này sẽ là các NH đã có mặt từ lâu và am hiểu thị trường Việt Nam như

HSBC, ANZ và Standard Chartered.

Cạnh tranh gay gắt từ khối NH nước ngoài sẽ buộc các NH trong nước phải tiếp

tục cải thiện về công nghệ, quản trị doanh nghiệp và tính minh bạch. Lợi thế về công

nghệ chính là nền tảng để các NH nước ngoài cung cấp được các sản phẩm, dịch vụ

tinh vi và hữu dụng hơn, từ đó phát triển mạnh mảng ngân hàng bán lẻ và đạt được

biện lợi nhuận cao hơn so với các NH trong nước. Trong đó, phát triển dịch vụ thẻ là

một trong những mũi nhọn của mảng kinh doanh này.

Theo đánh giá của NHNN, trong năm 2010 có tới 80 – 85% giao dịch bằng tiền

mặt bởi được thực hiện bởi các khách hàng cá nhân, trong khi giao dịch bằng thẻ chỉ

chiếm khoảng 5%. Nguyên nhân được lý giải là do sự đầu tư chưa đúng mức của các

NHTM trong nước vào hệ thống ATM và POS. Tuy nhiên, cuối năm 2010, Banknet và

Smartlink, hai liên minh thẻ lớn nhất tại Việt Nam đã kết nối liên thông mạng ATM và

POS cho các NH thuộc 2 hệ thống, đồng thời Banknet và VNBC (CTCP Thẻ thông

minh Vina) cũng đã kết nối liên thông hệ thống POS vào tháng 11/2010. Chúng tôi cho

rằng đây là một bằng chứng cho thấy các NHTM trong nước đang nỗ lực cải tiến hệ

thống công nghệ của mình, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán thẻ và giao dịch trực

tuyến của khách hàng dưới sức ép cạnh tranh của các NH nước ngoài.

Thông qua việc ban hành Luật TCTD 2010, NHNN cũng đã thể hiện quyết tâm

cải thiện tính minh bạch và khả năng quản trị của các NH trong nước, tập trung vào

việc đẩy mạnh tổ chức quản lý các tổ chức tín dụng nhằm tiến gần hơn với chuẩn quốc

tế. Đồng thời, Thông tư 09 quy định về việc công bố thông tin hiện tại đang được lấy ý

kiến để hoàn chỉnh và thay thế theo hướng mở rộng phạm vi và phân lớp các đối tượng

điều chỉnh. Đây cũng là tiền đề để nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của các

Doanh Nghiệp nói chung và các NH nói riêng trong thời gian tới

Bảng 5: So sánh trung bình một số chỉ số của các NH Việt Nam với các

nước trong khu vực

Bảng 6: Một số chỉ tiêu của các NH trong 2010

3.1.4 Sự chuyên biệt hóa ngày càng sâu sắc, chọn lối đi riêng trên những phân

khúc thị trường nhất định

Do điều kiện nguồn lực về vốn, nhân lực, công nghệ,… của các NHTMCP vẫn

còn hạn chế so với các NHNNg nên nếu đầu tư dàn trãi, không tập trung được nguồn

lực thì hiệu quả cạnh tranh sẽ không cao. Các NH sẽ phải tập trung hơn vào những mũi

nhọn chiến lược của mình vừa để giữ vững thị phần hoặc ưu thế của mình trong từng

phân khúc thị trường nhất định. Các phân khúc thị trường có thể phân theo tính

chất/cấp độ dịch vụ hoặc nhóm khách hàng hoặc lĩnh vực ngành nghề.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế là sự xuất hiện của các loại NH chuyên

biệt như NH thanh toán, NH bán buôn/NH đầu tư, ngân hàng bán lẻ,... Hiện tại một số

NH đã xác định rất rõ hướng đi chiến lược của mình như Seabank hướng đến là 1 NH

đầu tư, Sacombank và Vpbank đều hướng đến là một NH bán lẻ, BIDV và VCB hướng

đến trở thành tập đoàn tài chính đa năng,... trong đó đối với các NHTMCP thì mảng

dịch vụ bán lẻ là phù hợp và hấp dẫn hơn nhưng tính cạnh tranh cũng không kém phần

gay gắt.

3.1.5 Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa và đa dạng hóa sản phẩm, hoạt động dịch vụ

tăng nhanh

Cộng nghệ hiện đai quyết định sức cạnh tranh và đầu tư vào công nghệ là hướng

ưu tiên số 1 nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và tiết kiệm chi phí, tối đa hóa khả năng

xử lý và hiệu quả quản lý nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng. Sự phát triển đa dạng

hóa các dịch vụ NH là tất yếu bởi cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu của

các khách hàng sẽ ngày càng đa dạng hơn, khó tính hơn và chỉ có bằng cách ứng dụng

công nghệ hiện đại mới có thể đáp ứng được những nhu cầu này. Theo thống kê không

chính thức, chỉ riêng lĩnh vực bán lẻ của các NH trên thế giới có tới hơn 3.000 dịch vụ

trong khi các NH Việt Nam mới chỉ đáp ứng được phần rất nhỏ, khoảng 200 dịch vụ.

Đồng thời, các NH này ngày càng chuyên biệt hóa sản phẩm của mình với những gói

sản phẩm dịch vụ riêng cho từng đối tượng khách hàng khác nhau.

Hiện tại các NHTMCP đang rất quyết liệt đi theo hướng này. Techcombank là

NH đầu tiên triển khai dịch vụ thanh toán qua mạng, ACB đã triển khai tín dụng qua

mạng internet… đã chứng tỏ năng lực công nghệ và quản trị hệ thống của các NH này

có tiến bộ vượt bậc.

3.1.6 Củng cố, gia tăng mạng lưới và cạnh tranh nguồn nhân lực chất lượng cao

Trong thời gian qua, nhiều NHTMCP đã có tốc độ phát triển nhân lực khá cao,

từ 30% đến 70% nhờ vào chính sách thu hút, đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong

đó sức hấp dẫn về chế độ đãi ngộ và cơ hội thăng tiến ngày càng được gia tăng trong

khu vực tư nhân này. Tới đây, trong bối cảnh thị trường lao động ngày càng hoàn thiện,

cạnh tranh nguồn nhân lực sẽ tiếp tục gắt gao hơn và sức hút nhân tài không chỉ dừng ở

lương hay cổ phần mà sẽ còn là về nhà ở, hỗ trợ dịch vụ bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe

chất lượng cao, phương tiện đi lại, tín dụng cho nhân viên, du lịch và đào tạo tại nước

ngoài, hỗ trợ dịch vụ gia đình cho nhân viên,....Những vấn đề này đang và sẽ tiếp tục

nóng bỏng, là dấu chấm hỏi lớn đối với các nhà quản lý NH để có thể thu hút và giữ

chân nhân tài.

3.1.7 Tăng nhanh tiến trình quốc tế hóa và nhanh chóng gia nhập làn sóng toàn

cầu hóa, thu hút ngoại lực và vươn ra các nước trong khu vực

Hiện nay, các NH Việt nam đang tăng cường thu hút ngoại lực như vốn, công

nghệ kỹ thuật, nhân lực trình độ cao,... thông qua việc bán một phần vốn cho các đối

tác chiến lược nước ngoài, hợp tác liên kết với với các hãng lớn của nước ngoài nhằm

mở rộng quy mô, nâng cao sức cạnh tranh và gia tăng giá trị của mình thể hiện qua sự

hợp tác quốc tế giữa Sacombank-ANZ, Eximbank-Sumitomo Mitsui (Nhật),

SouthernBank-AmcorpBhd(Malaysia), ACB-StandardCharter, Habubank-Deutche

Bank, Vpbank-OCBC, Techcombank-HSBC,...

Một xu hướng lớn của các NHTMCP Việt Nam là sẽ nhanh chóng đi vào và

bước qua giai đoạn quốc tế hóa, tiến tới hoạt động NH mang màu sắc toàn cầu hóa.

Toàn cầu hóa sẽ xóa nhòa ranh giới địa lý và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn hiện diện

thương mại theo quan niệm của WTO. Trong giai đoạn trước mắt, các NH Việt Nam sẽ

tiến vào thị trường Lào, Campuchia và miền Nam Trung Quốc. Sự khởi sắc Lào-Việt

bank, Việt-Thái, văn phòng đại diện Sacombank tại Trung Quốc,... cùng với tham vọng

niêm yết tại thị trường nước ngoài của ACB, Sacombank,... là dấu hiệu manh nha của

xu hướng này. Trong bối cảnh thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với các nước này

đang tăng nhanh đáng kể thì hợp tác mang tính toàn cầu hóa là một bước đi hoàn toàn

đúng đắn.

3.2 Giải pháp đối với các NHTM

3.2.1 Tăng cường năng lực tài chính theo hướng tăng quy mô vốn điều lệ, đảm bảo

mức an toàn vốn theo chuẩn mực quốc tế và tuân thủ pháp luật ngân hàng Việt Nam.

Theo đó, các NHTM cần xác định một tỷ lệ hợp lý lợi nhuận ròng được sử dụng hằng

năm để tăng vốn điều lệ hoặc có thể tiến hành sáp nhập và mua lại (M&As) các ngân

hàng nhỏ để hình thành nên một ngân hàng có tiềm lực tài chính lớn hơn. Thật vậy,

hoạt động M&As là một trong những phương thức quan trọng để nâng cao năng lực

cạnh tranh của các NHTM nội địa Việt Nam thông qua việc gia tăng giá trị và nâng cao

hiệu quả quản trị rủi ro trước sự cạnh tranh khốc liệt của những tập đoàn tài chính

khổng lồ nước ngoài khi mà Việt Nam đang hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế quốc tế

và thực hiện các cam kết mở cửa thị trường.

Năng lực tài chính của các NHTM nước ta nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số

đều còn là thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính,

các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử

lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng

cạnh tranh và chống rủi ro.

Đối với các NHTM nhà nước, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành

cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt

được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.

Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất,

phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém, không thể

tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu

hồi giấy phép hoạt động.

3.2.2 Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng

Cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng

hiện đại. Hơn nữa, cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế,

nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc

tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán

bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.

3.2.3 Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, phát triển mạng lưới hoạt động bền

vững

Xây dựng và phát triển sản phẩm mới với những tiện tích mới và phong phú

hơn. Thật vậy, phát triển sản phẩm mới là một trong những yếu tố quyết định năng lực

cạnh tranh của NHTM bởi vì suy cho cùng các NHTM cạnh tranh lẫn nhau thông qua

chuỗi các sản phẩm cung ứng của họ. Ngoài ra, sản phẩm dịch vụ ngân hàng không có

tính độc quyền, dễ bị sao chép, vì vậy các ngân hàng chỉ có thể tạo thế mạnh hay sự

khác biệt cho ngân hàng bằng cách sử dụng các dịch vụ cộng thêm. Để nâng cao năng

lực cạnh tranh của sản phẩm, NHTM cần xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm mới

và có sự đầu tư thỏa đáng trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.

Ngoài ra, tiếp tục hoàn thiện công nghệ, mở rộng các loại sản phẩm mới trên cơ

sở đảm bảo tính chính xác, kịp thời, bảo mật và an toàn.

Rà soát lại hệ thống kênh phân phối, đầu tư có trọng điểm, có chiến lược dài

hạn, không chạy theo số lượng, tránh tình trạng dư thừa, gây khó khăn cho triển khai

đồng bộ, hiện đại hóa công nghệ, gây sự lãng phí trong giao dịch, chi phí cố định và

nhân sự.

Xây dựng, củng cố và phát triển thương hiệu ngân hàng. Thương hiệu của ngân

hàng khẳng định vị thế của nó trên thị trường. Vị thế của ngân hàng được thể hiện qua

thị phần sản phẩm so với sản phẩm cùng loại, uy tín thương hiệu sản phẩm đối với

khách hàng, sự hoàn hảo của các dịch vụ và được đo bằng thị phần của các sản phẩm

dịch vụ đó trên thị trường. Theo đó, ngân hàng cần cố gắng theo đuổi chiến lược phát

triển thương hiệu riêng, đặc thù gắn với các sản phẩm và thế mạnh riêng có.

3.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, chú trọng hoạt

động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân

hàng hiện đại dựa trên công nghệ hiện đại

Công nghệ ngân hàng nước ta dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn

bị đánh giá là yếu kém. Hiện nay, nhiều ngân hàng đã triển khai các phần mềm hiện đại

với chức năng hoạt động giao dịch trực tuyến (Online), tạo thêm nhiều sản phẩm gia

tăng cho khách hàng trong quá trình giao dịch với ngân hàng. Nhìn chung, các phần

mềm mà một số NHTM đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều

ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển

khai xong, một số bộ phận lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công

nghệ đó.

Cùng với việc hiện đại hoá công nghệ, các NHTM cần có chính sách khai thác

công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa

trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự

đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo sản phẩm đến khách hàng.

Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và

hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động.

Ngoài ra, các NHTM cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thủ

tục vay vốn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng.

Xác định khách hàng mục tiêu, xây dựng chiến lược khách hàng và tăng cường

phát triển mạng lưới

Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn

bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách

hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao

dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng

phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng,

thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.

Các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên việc tạo ra

sự khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lược thu hút tiền gửi, cần xây dựng một hệ

thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử dụng tài

khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo thuận lợi

tối đa cho khách hàng.

Bên cạnh đó, để đẩy mạnh tín dụng cần tạo được quy trình cung cấp linh hoạt

sản phẩm của ngân hàng, đặc biệt đối với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện

cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.

Cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời,

xây dựng chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ

yếu của NHTM, thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp.

3.2.5 Cơ cấu lại khu vực ngân hàng Việt Nam

Thực trạng trên cho thấy, khu vực ngân hàng Việt Nam đang đứng trước yêu

cầu về tái cơ cấu mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, do khu vực ngân hàng là một

cấu phần quan trọng của nền kinh tế nên việc cơ cấu lại cần được nhìn nhận trên

phương diện tổng thể. Do đó, nội dung và trọng tâm cơ cấu lại khu vực ngân hàng Việt

Nam hiện nay không chỉ từ góc độ vi mô (từng ngân hàng) mà cả từ góc độ vĩ mô (Nhà

nước/Chính phủ).

Trước tiên, trên phương diện vĩ mô, vấn đề mục tiêu tăng trưởng kinh tế cũng

cần phải được “cơ cấu lại” theo hướng mới là không nên đặt ra mục tiêu tăng trưởng

kinh tế cao bằng mọi giá mà thay vào đó là một mức tăng trưởng hợp lý, bền vững. Khi

đó áp lực tăng trưởng kinh tế không đè nặng lên hệ thống ngân hàng, làm cho khu vực

này dễ tổn thương và kém hiệu quả. Một số cơ cấu vĩ mô khác cũng cần được cơ cấu

lại để đảm bảo phát triển và tăng trưởng bền vững như cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu

ngành sản xuất, cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngân sách…

Cũng trên phương diện vĩ mô, cần phải cơ cấu lại hệ thống luật pháp tài chính,

ngân hàng. Hiện Luật các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các

quy định khác đang được xem xét sửa đổi một cách cơ bản. Việc cơ cấu lại NHNN

cũng nên được đặt ra theo lộ trình sửa đổi Luật NHNN, để đảm bảo cơ quan này hoạt

động theo đúng chức năng của một ngân hàng trung ương hiện đại. Việc sửa đổi Luật

các tổ chức tín dụng cần đưa vấn đề cải cách quản trị vào một cách tương ứng nhằm cải

cách, chuyển đổi mô hình quản trị tại các NHTM cổ phần theo mô hình quản trị hiên

đại, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.

Ngoài ra, cũng cần tăng cường quản trị, quản lý đối với cả hệ thống ngân hàng

trên phương diện vĩ mô và vi mô. Đến nay, vốn tự có của các NHTM đã được cải thiện

đáng kể (hầu hết các NHTM có tỷ lệ an toàn vốn đạt và vượt 8%). Tuy nhiên vấn đề

quản trị và quản lý đã và đang đặt ra yêu cầu cơ cấu lại. Vấn đề quản trị cần được cải

thiện để đảm bảo các NHTM cổ phần hoạt động theo đúng nguyên tắc của một công ty

cổ phần và công ty đại chúng: chế độ công bố thông tin, báo cáo tài chính; quyền của

các cổ đông nhỏ lẻ; vấn đề chuyển đổi NHTMNN sau cổ phần hóa sang công ty cổ

phần thực sự… Về mặt quản lý, cải thiện quản lý rủi ro thanh khoản (như hệ thống

ALCO) cần được đặt ra như một yêu cầu bắt buộc đối với các NHTM hiện nay để đảm

bảo các NHTM có thể chịu đựng được các cú sốc...

Về phương diện vi mô, các ngân hàng cần tiến hành cơ cấu lại thị trường, sản

phẩm và cơ cấu tài sản cho phù hợp với năng lực quản lý của mình, đảm bảo phát triển

hiệu quả và bền vững. Với cơ cấu tài sản và sản phẩm như hiện nay, hệ thống ngân

hàng thương mại Việt Nam rất dễ bị tổn thương (như năm 2008). Đối với các NHTM

Nhà nước vừa mới cổ phần hóa cần tập trung cải thiện quản trị tại ngân hàng này theo

chuẩn quốc tế vì nơi đây tập trung nguồn lực lớn của Nhà nước, coi đây là hình mẫu về

quản trị ngân hàng hiện đại ở Việt Nam.

3.2.6 Nâng cao chất lượng tín dụng

Xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng

Để nâng cao chất lượng tín dụng, các NHTMCP cần xây dựng riêng cho mình

một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng, chủ yếu bao gồm:

- Xác lập mục tiêu tín dụng trong đó mức độ rủi ro từ hoạt động tín dụng phải

đo lường được. Đồng thời, chất lượng của dự nợ tín dụng nội bảng và ngoại

bảng đặc biệt coi trọng trong hoạt động tín dụng của NHTMCP.

- Xây dựng chiến lược quản lý rủi ro tín dụng

- Xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng

- Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng có hiệu lực bao gồm bộ phận

quản lý tín dụng và bộ phận kiểm soát nội bộ.

- Thực hiện giám sát và quản lý rủi ro, trong đó bao gồm: (1) Nhận biết rủi ro

trong hoạt động tín dụng và xác định các biện pháp hạn chế; (2) Đo lường rủi ro; (3)

Giám sát và quản lý rủi ro trước cho vay, trong đó coi trọng công tác hoạch định kinh

doanh và nghiên cứu thị trường; chức năng thẩm định cần được tách biệt; công tác tập

trung phê duyệt tín dụng.

- Quản lý và giám sát rủi ro tín dụng trong và sau cho vay, bao gồm: (1)

Kiểm tra và lưu trữ hồ sơ tín dụng; (2) Kiểm tra sau cho vay; (3) Đo lường mức độ tập

trung/phân tán trong danh mục các khoản cấp tín dụng

- Xây dựng biện pháp phòng ngừa từ xa

Biện pháp xử lý nợ xấu

Nợ xấu cũng là yếu tố phản ánh chất lượng tín dụng. Hiện nay tình trạng nợ xấu

và vấn đề xử lý nợ xấu vẫn luôn thật sự gian nan đối với các NHTM Việt Nam nói

chung và các NHTMCP nói riêng. Việc xử lý nợ xấu, lành mạnh hoá tình hình tài

chính tại các NHTMCP cũng cần phải được đặc biệt quan tâm.

Tuỳ vào đặc điểm của từng giao dịch, của từng NH, có thể có nhiều phương

pháp khác nhau. Sau đây là một số biện pháp xử lý

3.2.7 Liên doanh liên kết với các ngân hàng nước ngoài

Xu hướng tìm kiếm đối tác để hợp tác chiến lược giữa các NHTM Việt Nam và các

ngân hàng nước ngoài cũng là hình thành và có xu hướng phát triển nhằm nâng cao

năng lực cạnh tranh. Việc khuyến khích và mở rộng việc tham gia của các ngân hàng

nước ngoài, tập đoàn tài chính quốc tế, các tập đoàn lớn trong nước, mua cổ phần, trở

thành cổ đông chiến lược của các NHTMCP của Việt Nam là hết sức cần thiết, để thúc

đẩy cải cách hơn nữa và minh bạch thực sự các hoạt động quản lý, hoạt động kinh

doanh của khối ngân hàng thương mại này. Thời gian qua có không ít sự lo lắng trong

dư luận về sức ép cạnh tranh trên thị trường dịch vụ tài chính tiền tệ khi Việt Nam thực

hiện đầy đủ các cam kết của Hiệp định thương mại Việt Mỹ và cam kết của WTO.

Nhiều người lo ngại cho rằng các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ bị cạnh tranh

mạnh mẽ và gặp nhiều khó khăn khi các ngân hàng nước ngoài ồ ạt đến Việt Nam.

Song trong thực tế thì không thể không diễn ra một chiều như vậy. Để mở rộng kinh

doanh tại Việt Nam, các tập đoàn tài chính – ngân hàng nước ngoài đã và đang tăng

cường hợp tác, liên doanh, liên kết với các ngân hàng và các tổ chức tài chính của Việt

Nam. Đồng thời các ngân hàng, công ty chứng khoán... của Việt Nam cũng chủ động,

sẵn sàng và nhạy bén, thực hiện nhiều sự hợp tác có hiệu quả. Đây cũng chính là giải

pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế, chứ không chỉ

hiểu cạnh tranh là sự thôn tính, chèn ép lẫn nhau.

3.3 Kiến nghị với Chính phủ và Ngân hàng nhà nước

3.3.1 Về phía Chính phủ

Trước hết cần cải cách Doanh nghiệp nhà nước, tạo ra sân chơi bình đẳng hơn

cho các doanh nghiệp. Việc bảo hộ cho khu vực DNNN là nguyên nhân chính gây ra

nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ xấu tại các NHTM nhà nước cao. Chính vì vậy, nếu không

kiên quyết đẩy mạnh tiến trình cải cách DNNN thì việc cải thiện năng lực cạnh tranh

của nền kinđộh tế nói chung và các NHTM nói riêng sẽ khó thực hiện.

Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ ban hành Luật

Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đưa luật này trở thành công cụ để Chính phủ kiểm

soát họat động cạnh tranh.

Thứ ba, thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài

chính. Tự do hoá tài chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện cải cách

cơ cấu và tự do hoá thương mại. Nếu có được lộ trình hội nhập tài chính thích hợp sẽ

đảm bảo hệ thống tài chính hội nhập hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh mà không bị

vướng vào các dạng khủng hoảng tài chính - ngân hàng khác nhau.

Thứ tư, khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện

hoạt động của thị trường chứng khoán, xác định cụ thể lộ trình mở cửa thị trường tài

chính - ngân hàng.

3.3.2 Về cải cách hệ thống NHNN

3.3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng

Cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam cần tiến hành sửa đổi, bổ sung và hoàn

thiện hệ thống pháp luật ngân hàng như sau:

Sửa đổi Luật NHNN, Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác

có liên quan để đảm bảo NHNN Việt Nam trở thành ngân hàng trung ương hiện đại,

tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động

kinh doanh. Hai luật này đang trong quá trình dự thảo, dự kiến

Xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung các quy định pháp luật ngân hàng về cấp phép

hiện diện thương mại, về tổ chức, hoạt động, quản trị, điều hành của các tổ chức tín

dụng kể cả trong và ngoài nước hướng tới nguyên tắc không phân biệt đối xử, phù hợp

với các cam kết và lộ trình gia nhập WTO, các quy định pháp luật cần tuân thủ nguyên

tắc minh bạch hoá và có thể dự báo.

Rà soát danh mục các dịch vụ tài chính - ngân hàng theo Phụ lục về dịch vụ tài

chính – ngân hàng của GATS để xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định, đảm bảo

các tổ chức tín dụng được thực hiện đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ

ngân hàng theo GATS và thông lệ quốc tế;

Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý cho các mô hình tổ chức tín dụng mới, các

tổ chức có hoạt động mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức tín dụng

(công ty xếp hạng tín dụng, công ty môi giới tiền tệ) nhằm phát triển hệ thống các tổ

chức tín dụng. Các Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính,

công ty tài chính sẽ được ban hành mới thay thế cho các văn bản pháp quy cũ về vấn

đề này

Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối, cải cách hệ thống kế toán ngân

hàng phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế. Hoàn thiện các quy định về thanh toán

không dùng tiền mặt; và tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các nghiệp vụ và dịch

vụ ngân hàng mới (quản lý ngân quỹ, quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ uỷ thác,

các sản phẩm phái sinh, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thuê mua tài chính…).

3.3.2.2 Nâng cao năng lực của NHNN về điều hành chính sách tiền tệ

Trong điều kiện mở cửa dịch vụ ngân hàng, NHNN cần nâng cao năng lực xây

dựng và thực thi chính sách tiền tệ thông qua những biện pháp dự kiến được triển khai

từ nay đến năm 2010 như sau:

Thành lập Ban Điều hành thị trường tiền tệ để tăng cường sự thống nhất, phối

hợp giữa các Vụ, Cục trong điều hành CSTT;

Hoàn thiện các cơ chế điều hành các công cụ CSTT nhằm nâng cao hiệu quả

điều tiết tiền tệ của từng công cụ, tăng cường vai trò chủ đạo của nghiệp vụ thị trường

mở trong điều hành CSTT; gắn điều hành tỷ giá với lãi suất; gắn điều hành nội tệ với

điều hành ngoại tệ; nghiên cứu, lựa chọn lãi suất chủ đạo của NHNN để định hướng và

điều tiết lãi suất thị trường;

Phát triển thị trường tiền tệ an toàn hiệu quả, tạo cơ sở quan trọng cho việc tiếp

nhận và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế;

Nâng cấp và đồng bộ hóa máy móc thiết bị, chương trình phần mềm ứng dụng

nối mạng các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ và đấu thầu tín phiếu, trái phiếu

chính phủ qua NHNN;

Tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối theo hướng kiểm

soát có chọn lọc các giao dịch vốn (Việt Nam đã tự do hoá hoàn toàn đối với giao dịch

vãng lai), giảm dần tình trạng đô-la hoá, cho phép các tổ chức và cá nhân được tham

gia rộng rãi hơn vào các giao dịch hối đoái, kể cả các nghiệp

vụ phái sinh;

Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ ngành theo hướng hiện đại hoá, đảm bảo

nắm bắt kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin về tiền tệ, tín dụng, tăng cường phối hợp

trao đổi thông tin với các Bộ, Ngành để phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ;

Tăng cường vai trò công tác thống kê, nâng cao năng lực thu thập tổng hợp

thông tin trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và cán cân thanh toán phục vụ

xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia; và

Đổi mới một cách căn bản công tác dự báo và xây dựng CSTT hàng năm theo

hướng áp dụng mô hình kinh tế lượng vào phân tích dự báo và lượng hóa các mục tiêu

chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ; Nâng cao năng lực phân tích và dự báo tiền tệ, dự

báo lạm phát.

3.3.2.3 Nâng cao năng lực của NHNN về thanh tra, giám sát ngân hàng

Cấu trúc lại mô hình tổ chức và chức năng hệ thống thanh tra theo chiều dọc

gồm cả 4 khâu: cấp phép và các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, giám sát từ

xa, thanh tra tại chỗ, xử lý vi phạm.

Hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ

quốc tế, đồng thời đảm bảo việc tuân thủ các quy định này; ban hành quy định mới về

đánh giá xếp hạng TCTD;

Xây dựng khuôn khổ, quy trình và phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ

sở rủi ro; xây dựng sổ tay thanh tra tại chỗ các TCTD Việt Nam để các thanh tra viên

sử dụng như cẩm nang thanh tra, giám sát; thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để phát

hiện các TCTD đang gặp khó khăn thông qua giám sát thiết lập hệ thống cảnh báo sớm

để phát hiện các TCTD đang gặp khó khăn thông qua giám sát từ xa và xếp hạng

TCTD; và

Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam và

Trung tâm Thông tin Tín dụng trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng

nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các TCTD và hoạt động giám sát rủi ro của

NHNN đối với các TCTD.

Ngoài ra, NNHH đẩy mạnh công tác phổ biến thông tin, tuyên truyền về Hội

nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực

ngân hàng

Thông qua các hình thức khác nhau như tổ chức các buổi họp báo, thuyết trình,

cung cấp thông tin cho báo chí... để phổ biến, giải thích các cam kết gia nhập WTO về

lĩnh vực dịch vụ ngân hàng trong hệ thống NHVN, bao gồm NHNN và hệ thống các tổ

chức tín dụng Việt Nam từ trung ương tới địa phương.

Định kỳ công bố các chương trình, kế hoạch hành động của ngành liên quan tới

việc thực thi các cam kết song phương và đa phương.

3.3.2.4 Cần xác định rõ ràng ranh giới của cạnh tranh

“Theo cam kết gia nhập WTO thì quá trình liên kết, sáp nhập chắc chắn sẽ xảy

ra quyết liệt hơn trong vòng 5-10 năm tới. Trường hợp một ngân hàng nước ngoài vừa

có chi nhánh vừa mua cổ phần của một ngân hàng và việc cho phép ngân hàng 100%

vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam sẽ tạo ra cùng lúc một ngân hàng có 3

hình thức hiện diện. Đó là quan hệ giữa chi nhánh, quan hệ ngân hàng mua cổ phần tại

một ngân hàng hay nhiều ngân hàng và quan hệ đối với ngân hàng 100% vốn nước

ngoài.

Vấn đề đặt ra rất lớn là xử lý mối quan hệ giữa các ngân hàng trong vấn đề cạnh

tranh như thế nào? Ngay cả quan hệ giữa các ngân hàng trong nước, giữa các ngân

hàng cổ phần và giữa các ngân hàng quốc doanh với ngân hàng cổ phần thì tỉ lệ sở hữu

giữa các ngân hàng với nhau ra sao cũng đang được đặt ra.

Ví dụ như một ngân hàng sở hữu 10% cổ phần của ngân hàng khác, thậm chí 20-30%

thì rõ ràng xuất hiện xu hướng hai ngân hàng đó hình thành sự liên kết và chia sẻ thị

trường và cũng là thống lĩnh thị trường chứ không còn là cạnh tranh nữa. Đó là những

vấn đề NHNN đang rất quan tâm để xây dựng một khung pháp lý mối quan hệ giữa các

tổ chức tín dụng khác nhau trong bối cạnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh.

Thực tế, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước trong xử lý các hành vi cạnh

tranh là cần thiết nhưng để áp dụng vào điều kiện hiện tại của Việt Nam cũng còn phụ

thuộc vào quá trình phát triển khuôn khổ pháp lý và thể chế. Ví dụ như hình thức sáp

nhập ngân hàng giữa các nước EU vẫn xảy ra hàng ngày. Trong khi đó ở Việt Nam hầu

như không có hoặc rất ít và mất nhiều thời gian. Ngay cả việc xét thế nào là hành vi

cạnh tranh không lành mạnh cũng phải cân nhắc.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3 khép lại với những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của

các NHTM trong xu thế hội nhập. Những giải pháp được nêu trên dù chỉ mang tính

khái quát, chưa thật sự đi sâu vào từng giải pháp cụ thể. Đó là những nền tảng cơ bản

cho những định hướng phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt

Nam trong xu thế hội nhập.

KẾT LUẬN

Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tất yếu và bắt buộc đối với Việt Nam trên

bước đường phát triển. Chúng ta đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội kinh tế trên

thế giới như ASEAN, ASEM, APEC, Hiệp định thương mại Việt Mỹ và nhất là WTO.

Hội nhập sẽ mở ra cho chúng ta không ít những cơ hội nhưng cũng đầy cam go và

thách thức. Ngành ngân hàng nói chung cũng không thoát khỏi xu thế đó. Với điểm

xuất phát điểm thấp, vừa trải qua một quá trình cơ cấu và sắp xếp lại, dù đã có những

thành công nhất định, nhưng nhìn chung những yếu tố mang tính nền tảng của cạnh

tranh vẫn còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu của ngành ngân hàng hiện đại.

Trong giai đoạn hội nhập, cạnh tranh được xem là tất yếu là sự sống còn của mỗi

tổ chức, để vươn ra thị trường nước ngoài, các NHTM Việt Nam thực sự còn phải có

nhiều nỗ lực trong việc củng cố, nâng cao năng lực tài chính, nâng cao trình độ quản lý

và chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng các công nghệ hiện đại để phát triển đa dạng

sản phẩm dịch vụ và đẩy mạnh xây dựng thương hiệu của mình hướng ra nước ngoài.

Với sự giới hạn về nhiều mặt, bản thân tác giả cũng chỉ đưa ra một số giải pháp

mang tính khái quát để hoàn thiện và nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của các

NHTM Việt Nam trên cơ sở những điểm mạnh, điểm yếu, những thời cơ và thách thức

trong mối tương quan về “sức” giữa các ngân hàng trong nước, cùng với những xu thế

mới của hội nhập mà các ngân hàng sẽ và phải hướng đến để tạo dựng vị thế trên thị

trường.

Dù đã rất cố gắng để hoàn thiện tốt nghiên cứu của mình. Nhưng, đề tài chắc chắn

không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý của quý Thầy, Cô để đề tài

luận văn được tốt hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước.

2. Báo cáo thường niên của VCB, BIDV, VPBannk, ACB…

3. Lê Văn Tư, Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, NXB Thanh niên, 2009

4. Nguyễn Văn Bình: “Đổi mới thanh tra NH theo kịp thời đại”. Kỷ yếu Hội thảo

NHNN – Uỷ Ban Kinh tế & Ngân sách của Quốc Hội: vai trò của hệ thống NH trong

20 năm đổi mới ở Việt nam.

5. Phạm Thanh Bình: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam

trong điều kiện hội nhập KTQT”. Kỷ yếu Hội thảo NHNN – Uỷ ban kinh tế & ngân

sách của Quốc Hội: vai trò của hệ thống NH trong 20 năm đổi mới ở Việt nam.

6. Phân tích Công ty cổ phần chứng khoán VCBS (2010)

7. Website Hiệp Hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA)

Tiếng Anh

1. A. Ambastha and K. Momaya (2004); “Competitiveness of Firms: Review of

theory, frameworks and models”; Singapore Management Review,

2. Cristian Marzavan và Mihaela Gaman (2009), The impact of financial crisis on the

universal bank model.

2. De Carmoy, H. (1990); Global Banking Strategy, Oxford: Basil Blackwell.

3. Heffernan S. (2005); Modern Banking; John Wiley & Sons Ltd. London.

4. Michael E. Porter: “ The competitive advantage of nations “, The Free Press, 1990.

5. Porter. Michael (1990); The Competitive Advantage of Nations. London