BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM
--------------------
NGUYỄN THỊ HỒNG NGÂN
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS PHẠM VĂN NĂNG
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2011
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu, hình vẽ, đồ thị
Trang
Mở đầu .........................................................................................................................1
Chương 1: Tổng quan về năng lực cạnh tranh của các NHTM ............................4
1.1 Khái niệm về cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh .......4
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh .................................................................................4
1.1.2 Lợi thế cạnh tranh...........................................................................................4
1.1.3 Năng lực cạnh tranh........................................................................................4
1.2 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM ...............................4
1.2.1 Thị phần ..........................................................................................................5
1.2.2 Vị thế tài chính ...............................................................................................5
1.2.3 Quản lí và lãnh đạo .........................................................................................5
1.2.4 Khả năng nắm bắt thông tin............................................................................5
1.2.5 Sự đa dạng và giá cả sản phẩm dịch vụ ..........................................................5
1.2.6 Kênh phân phối ..............................................................................................6
1.2.7 Truyền tin và xúc tiến ....................................................................................6
1.2.8 Trình độ lao động ..........................................................................................6
1.2.9 Vị thế và danh tiếng .......................................................................................7
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTM .............7
1.3.1 Các nhân tố quốc tế ........................................................................................7
1.3.1.1 Các nhân tố thuộc về chính trị ....................................................................7
1.3.1.2 Đối thủ cạnh tranh quốc tế ..........................................................................8
1.3.2 Các nhân tố trong nước...................................................................................8
1.3.2.1 Các nhân tố kinh tế .....................................................................................8
1.3.2.2 Các nhân tố về chính trị - pháp luật ..........................................................9
1.3.2.3 Nhân tố về trình độ khoa học công nghệ ....................................................9
1.3.2.4 Các nhân tố về văn hóa, tâm lý xã hội ........................................................10
1.3.2.5 Các nhân tố thuộc môi trường ngành .........................................................10
1.4 Tính đặc thù trong cạnh tranh của ngân hàng thương mại .......................12
1.5 Các công cụ cạnh tranh của NHTM ..............................................................14
1.5.1 Cạnh tranh bằng chất lượng............................................................................14
1.5.2 Cạnh tranh bằng giá cả ...................................................................................15
1.5.3 Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối ..............................................................16
1.6 Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM các nước trên thế
giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho NHTMVN ..................................................16
CHƯƠNG 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện
nay.................................................................................................................................25
2.1 Khái quát thực trạng kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam trong những
năm qua .......................................................................................................................25
2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTMVN ..................................27
2.2.1 Năng lực thị phần ...........................................................................................27
2.2.2 Năng lực tài chính...........................................................................................31
2.2.3 Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức ...............................................................35
2.2.4 Năng lực cạnh tranh về công nghệ .................................................................30
2.2.5 Năng lực cạnh tranh về mở rộng và phát triển dịch vụ ..................................37
2.2.6 Năng lực cạnh tranh về hệ thống kênh phân phối, mạng lưới........................38
2.2.7 Năng lực cạnh tranh về thương hiệu...............................................................40
2.2.8 Năng lực về nguồn nhân lực...........................................................................42
2.2.9 Năng lực về tăng trưởng tín dụng................................................................... 44
2.3 Vận dụng mô hình SWOT để xác định ưu thế cạnh tranh của NHTMVN49
2.3.1 Những lợi thế.................................................................................................49
2.3.1.1 Mạng lưới ....................................................................................................49
2.3.1.2 Mối quan hệ khách hàng truyền thống ........................................................50
2.3.1.3 Nguồn nhân lực mới ....................................................................................50
2.3.1.4 Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định ...............................................................50
2.3.2 Những khó khăn ...........................................................................................51
2.3.2.1 Năng lực tài chính........................................................................................51
2.3.2.2 Vấn đề công nghệ ........................................................................................51
2.3.2.3 Khả năng đa dạng hóa dịch vụ ....................................................................51
2.3.2.4 Tâm lý hướng ngoại của khách hàng...........................................................52
2.3.3 Những cơ hội .................................................................................................52
2.3.4 Những thách thức .........................................................................................55
2.3.4.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước......................................................................55
2.3.4.2 Đối với các ngân hàng thương mại..............................................................55
CHƯƠNG 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh các NHTM Việt Nam.....59
3.1 Định hướng phát triển ngành ngân hàng Việt Nam.....................................59
3.1.1 Quy mô tài sản ................................................................................................59
3.1.2 Tăng trưởng tín dụng ......................................................................................59
3.1.3 Sự tăng trưởng mạnh của khối ngân hàng nước ngoài ..................................60
3.1.4 Sự chuyên biệt hóa ngày càng sâu sắc, chọn lối đi riêng trên những phân khúc
thị trường nhất định .....................................................................................................63
3.1.5. Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa và đa dạng hóa sản phẩm, hoạt động dịch vụ
tăng nhanh ....................................................................................................................64
3.1.6 Củng cố, gia tăng mạng lưới và cạnh tranh nguồn nhân lực chất lượng cao .64
3.1.7 Tăng nhanh tiến trình quốc tế hóa và nhanh chóng gia nhập làn sóng toàn cầu
hóa, thu hút ngoại lực và vươn ra các nước trong khu vực...........................................65
3.2 Giải pháp đối với các NHTM ........................................................................65
3.2.1 Tăng cường năng lực tài chính .......................................................................65
3.2.2 Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng. .....................................66
3.2.3 Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, phát triển mạng lưới hoạt động bền vững
3.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, chú trọng hoạt
động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
hiện đại dựa trên công nghệ hiện đại ...........................................................................67
3.2.5 Cơ cấu lại khu vực ngân hàng Việt Nam........................................................69
3.2.6 Nâng cao chất lượng tín dụng.........................................................................70
3.2.7 Liên doanh liên kết với các ngân hàng nước ngoài .......................................71
3.3 Kiến nghị với Chính phủ và Ngân hàng nhà nước .......................................72
3.3.1 Về phía Chính phủ .........................................................................................72
3.3.2 Về cải cách hệ thống NHNN ..........................................................................72
3.3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng ...................................................72
3.3.2.2 Nâng cao năng lực của NHNN về điều hành chính sách tiền tệ..................73
3.3.2.3 Nâng cao năng lực của NHNN về thanh tra, giám sát ngân hàng ...............75
3.3.3.4 Cần xác định rõ ràng ranh giới của cạnh tranh............................................76
Kết luận ............................................................................................................................... 78
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
I. Tiếng việt
CN Chi nhánh
CSTT Chính sách tiền tệ
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
DV Dịch vụ
EIB Ngân hàng xuất nhập khẩu
FCB NH Đệ Nhất
KH Khách hàng
Ngân hàng Đồng bằng Sông Cửu Long MHB
NH Ngân hàng
NAB Ngân hàng Nam Á
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng Thương mại
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
NHTMNN Ngân hàng Thương mại Nhà nước
NHTW Ngân hàng Trung Ương
NHNNg Ngân hàng Nước ngoài
NVB Ngân hàng Nam Việt
SEAB NH Đông Nam Á
STB Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
PGD Phòng giao dịch
TCB Ngân hàng Kỹ Thương
TCTD Tổ chức Tín dụng
WEB Ngân hàng Phương Tây
VBARD Ngân hàng Nông nghiệp
II. Tiếng Anh
ATM Máy rút tiền tự động
CAR Hệ số an toàn vốn tối thiểu
IAS Phân loại nợ theo chuẩn quốc tế
GATS Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
M&As sáp nhập và mua lại
VAS Phân loại nợ theo chuẩn Việt Nam
VAFI Hiệp hội các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
I. HÌNH VẼ
Hình 1: Các lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành ..................................12
II. BẢNG BIỂU
Bảng 1: Tỷ lệ nắm giữ của một số ngân hàng nước ngoài tại các ngân hàng TM trong
nước...............................................................................................................................31
Bảng 2: Tình hình tăng vốn của 10 NH chưa đáp ứng vào cuối năm 2010 ..................34
Bảng 3: Phần mềm hệ thống các NHTM Việt Nam đang áp dụng...............................37
Bảng 4: Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn của một số NHTM năm 2010.....43
Bảng 5: So sánh trung bình một số chỉ số của các NH Việt Nam với các nướctrong khu
vực .................................................................................................................................61
Bảng 6: Một số chỉ tiêu của các NH trong 2010 ...........................................................62
III. BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: So sánh tỷ lệ cho vay/huy động, cho vay/tài sản, cho vay/GDP của một số
nước tại 2010.................................................................................................................28
Biểu đồ 2: Thị phần huy động vốn; Biểu đồ 3: Thị phần cho vay................................29
Biểu đồ 4: Thị phần Tín dụng năm 2005-2010 .............................................................29
Biểu đồ 5: Số lượng Ngân hàng giai đoạn 2006-2010 và 11 Ngân hàng có VĐL 2010
trên 5.000 tỷ đồng .........................................................................................................32
Biểu đồ 6: Qui mô ngành NH của một số quốc gia; Biểu đồ 7: Hệ số CAR 2010 của
một số NH .....................................................................................................................35
Biểu đồ 8: Xếp hạng của 5 loại dịch vụ tại một số NHTM tiêu biểu............................38
Biểu đồ 9: Số lượng chi nhánh, phòng giao dịch và ATM của 12 NH lớn trong năm
2010...............................................................................................................................39
Biểu đồ 10: Top 10 tăng trưởng tài sản ngành NH; Biểu đồ 11: ATM, POS và thẻ
phát hành .......................................................................................................................39
Biểu đổ 12: Thi phần doanh số thẻ; Biểu đồ 13: Thị phần số lượng ATM 2010 .........40
Biểu đồ 14: Tăng trưởng tín dụng 2000-2010; Biểu đồ 15: Tăng trưởng huy động 2000-
2010...............................................................................................................................45
Biểu đồ 16: Tăng trưởng Tín dụng, huy động và GDP 2000-2010 ..............................45
Biều đồ 17: Cơ cấu thu nhập 2010 của 10 NH .............................................................46
Biểu đồ 18: Tăng trưởng lợi nhuận sau thuê của một số NH........................................47
Biểu đồ 19: Tỷ lệ nợ xấu hệ thống ngân hàng; Biểu đồ 20: Tỷ lệ nợ xấu một số NH
năm 2010 .......................................................................................................................30
Biểu đồ 21: Dự báo tỷ trọng tài sản ngành NH tài so với toàn thế giới trong 2050; Biểu
đồ 22: Dự báo tốc độ tăng sản trung bình hàng năm giai đoạn 2010-2050 ..................59
LỜI NÓI ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, hội nhập kinh tế thế giới trở thành một xu thế
tất yếu của thời đại và diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, Việt Nam
đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế như gia nhập khối ASEAN; tham
gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); ký kết hiệp định thương mại song
phương Việt Nam - Hoa Kỳ; tham gia vào các tổ chức kinh tế quan trọng khác cũng
như các hiệp định thúc đẩy thương mại song phương. Về phương diện vĩ mô, việc mở
cửa nền kinh tế có thể đem lại những thời cơ và thách thức.
Trong tiến trình chung đó của của nền kinh tế, các ngân hàng thương mại Việt
Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn về nguồn lực, công nghệ, thị trường..., mặt khác phải đối
mặt với những rủi ro và thách thức khi mức vốn hiện nay của các ngân hàng thương
mại (NHTM) Việt Nam thấp; trình độ quản lý còn hạn chế; các tiêu chuẩn về kiểm
toán, kế toán chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; trình độ công nghệ lạc hậu, dịch vụ
ngân hàng còn yếu kém…. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải
chủ động trong nhận thức, chuẩn bị chiến lược riêng cho mình và sẵn sàng tham gia
vào quá trình cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hóa.
Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển của hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam trong xu thế mới. Do đó, tôi chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
NHTM, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và các tiêu chí đánh giá năng
lực cạnh tranh của một NHTM.
- Phân tích đặc điểm và đánh giá khả năng cạnh tranh của của NHTM; khả năng
phát triển của NHTM và những tác động của hội nhập kinh tế đến lĩnh vực ngân hàng.
- Phân tích và đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của
các NHTM Việt Nam.
- Đề ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
NHTM Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại.
- Xu thế cạnh tranh của các NHTM và thực trạng năng lực cạnh tranh của các
NHTM Việt Nam hiện nay
- Giải pháp và những kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
NHTM trong bối cảnh hội nhập.
4. Phạm vi nghiên cứu: hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích - so sánh, tổng hợp
6. Tính thực tiễn của đề tài
Hệ thống hóa được những vấn đề cơ bản về hội nhập kinh tế Việt Nam, hội nhập
trong lĩnh vực ngân hàng, những nét đặc thù, quá trình phát triển, khả năng cạnh tranh
của hệ thống NHTM Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và hệ thống hóa
các vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, khái quát xu thế cạnh tranh
của các NHTM trong thời gian sắp tới, đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu,
những thời cơ và thách thức của các NHTM, đưa ra những giải pháp góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh của các NHTM, làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, học tập về chuyên ngành.
7. Kết cấu của luận văn
Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu như đã đề cập ở phần trên, toàn bộ nội dung
của đề tài sẽ được trình bày qua 3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Tổng quan về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam
- Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện nay
- Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NHTM
1.1 Khái niệm về cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm
mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất,
thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất
kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
1.1.2 Lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh là cái làm cho doanh nghiệp khác biệt hơn so với đối thủ
cạnh tranh hoặc làm những cái mình có mà đối thủ không có, nhờ đó doanh nghiệp đạt
được mục tiêu nhất định của mình.
1.1.3 Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là năng lực khai thác, huy động, quản lý và sử dụng các
nguồn lực có giới hạn như nhân lực, vật lực, tài lực v.v…và các điều kiện khách quan
khác.
Đối với NHTM thì do các sản phẩm của Ngân hàng mang tính đặc thù (kinh
doanh lọai hàng hóa đặc biệt là tiền tệ) nên năng lực cạnh tranh cũng mang tính đặc
thù. Tuy nhiên, NHTM cũng là một doanh nghiệp, cũng phải xem xét đến khả năng tối
đa hóa lợi nhuận. Do đó có thể định nghĩa: Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả
năng, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực có giới hạn nhằm mục đích đa dạng
và nâng cao chất lượng, tiện ích các dịch vụ tài chính Ngân hàng, từ đó đảm bảo cho
việc duy trì lợi nhuận và thị phần.
1.2 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
Việc đánh giá năng lực cạnh tranh của một NHTM nếu chỉ dừng lại ở định tính
thì không tránh khỏi các yếu tố cảm tính, vì thế cần phải có chỉ tiêu định lượng. Tuy
nhiên, khó có được một chỉ tiêu tổng hợp đo lường sức cạnh tranh của NHTM, do vậy
cần phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu:
1.2.1 Thị phần
Là phần thị trường mà NHTM đã chiếm được. Thị phần càng lớn càng thể hiện
năng lực cạnh tranh của Ngân hàng càng mạnh. Để tồn tại và có sức cạnh tranh, Ngân
hàng phải chiếm giữ được một phần thị trường bất kể nhiều hay ít, dù nó là địa
phương, quốc gia hay thế giới.
1.2.2 Vị thế tài chính
Vị thế tài chính của một Ngân hàng có tầm quan trọng tối cao trong việc nâng
cao vị thế cạnh tranh của NHTM. Khả năng nguồn tài chính mạnh cần được cân nhắc
khi đánh giá năng lực cạnh tranh các tham số: khả năng đáp ứng vốn cho nền kinh tế,
khả năng thanh toán, kết quả hoạt động, tỷ lệ nợ xấu…
1.2.3 Quản lí và lãnh đạo
Theo JP. Kotter, quản trị là sự đương đầu với tính phức hợp. Nhằm giải quyết
tính phức hợp, các nhà quản trị tiến hành việc hoạch định (xác định mục tiêu chung cho
tương lai, thiết lập các bước chi tiết đạt mục tiêu đó).
1.2.4 Khả năng nắm bắt thông tin
Ngày nay, sự bùng nổ của cuộc cách mạng thông tin đã khẳng định vai trò to lớn
của thông tin. Thông tin về khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ cùng loại; thông
tin về tâm lý và thị yếu khách hàng, thông tin về công nghệ mới; thông tin về giá cả sản
phẩm dịch vụ, về đối thủ cạnh tranh…có ý nghĩa quan trọng đến việc ra quyết định
kinh doanh của NHTM. Đủ thông tin và xử lý đúng thông tin, một mặt giúp cho Ngân
hàng hạn chế được rủi ro trong kinh doanh, một mặt qua thông tin có thể giúp Ngân
hàng tìm và tạo ra lợi thế trên thương trường, chuẩn bị đưa ra đúng thời điểm những
sản phẩm dịch vụ mới nhằm tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ tài
chính.
1.2.5 Sự đa dạng và giá cả sản phẩm dịch vụ
Đối với hàng hóa thông thường, người tiêu dùng khi mua hàng trước hết nghĩ
tới khả năng hàng hóa đáp ứng nhu cầu của họ, tới chất lượng mà nó có. Trong khi đó,
với vai trò là một loại hàng hoá đặc biệt, thì điều quan trọng là các sản phẩm dịch vụ
của Ngân hàng trước hết phải đa dạng để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Tiếp
theo, giá cả của sản phẩm dịch vụ phải đủ sức cạnh tranh được với sản phẩm dịch vụ
cùng loại trên thị trường.
1.2.6 Kênh phân phối
Kênh phân phối được coi là một trong những chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh
giá năng lực cạnh tranh của NHTM. Bởi lẽ: sản phẩm và giá cả đem đến cho khách
hàng những giá trị cơ bản, phù hợp với nhu cầu của họ; còn kênh phân phối hỗ trợ đưa
sản phẩm dịch vụ đó đến tận tay khách hàng và quyết định sự hài lòng của họ. Khi mức
độ hài lòng của khách hàng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh thì điều đó sẽ quyết định
cuối cùng khả năng chiếm lĩnh thị trường của chính Ngân hàng đó, tức là quyết định sự
thắng lợi trong cạnh tranh.
1.2.7 Truyền tin và xúc tiến
Tùy theo từng Ngân hàng cũng như mục tiêu của kế hoạch sản phẩm dịch vụ
khác nhau mà chi phí marketing cao hay thấp. Khi xem xét tỷ lệ chi phí marketing so
với tổng doanh thu, nếu chỉ tiêu này cao mà duy trì và mở rộng được thị phần so với
mục tiêu đề ra thì có nghĩa là việc đầu tư cho khâu marketing là hiệu quả. Còn nếu như
không đạt được mục tiêu thì Ngân hàng cần phải xem xét lại cơ cấu chi tiêu. Có thể
thay vì quảng cáo rầm rộ, Ngân hàng có thể đầu tư chiều sâu để tăng lợi ích lâu dài như
đầu tư cho chi phí nghiên cứu và phát triển.
1.2.8 Trình độ lao động
Việc phân tích chỉ tiêu này bao gồm những xem xét về trình độ lực lượng lao
động, năng suất công việc, những yêu cầu kỹ năng, đào tạo, các kế hoạch tuyển dụng,
điều kiện làm việc trong Ngân hàng, kể cả đánh giá về văn hoá Ngân hàng. Điểm hạn
chế điển hình về năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực này của các NHTM là sự thiếu
chuyên nghiệp về kỹ năng nghề nghiệp. Ngoài ra, vì sức mạnh của một doanh nghiệp
không phải chỉ tồn tại trong một số cá nhân hay một nhóm mà trong sự đoàn kết, nhất
trí hết mình vì sự sống còn của doanh nghiệp nên một môi trường làm việc tốt, một tinh
thần làm việc vì tập thể sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của doanh nghiệp.
1.2.9 Vị thế và danh tiếng
Khi các NHTM phát triển tốt hệ thống các chỉ tiêu nêu trên thì đồng thời cũng
sẽ tạo được vị thế và hình ảnh của riêng mình. Đến lượt nó, vị thế, hình ảnh, danh tiếng
của Ngân hàng lại tạo nên sức mạnh, tài sản vô hình để giành thắng lợi trong cạnh
tranh trên thị trường.
Tóm lại, cạnh tranh trong thương trường không phải là diệt trừ đối thủ của
mình, mà chính là phải mang lại cho khách hàng những giá trị cao hơn hoặc mới lạ hơn
để khách hàng lựa chọn mình chứ không lựa chọn các đối thủ cạnh tranh, và điều này
lại tùy thuộc vào năng lực cạnh tranh của chính bản thân mỗi Ngân hàng. Cạnh tranh
không phải chỉ là những hành động mang tính thời điểm mà là cả một quá trình tiếp
diễn không ngừng.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTM
Như đã đề cập ở trên, năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng vượt qua các
đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân chính Ngân hàng. Thông thường
người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại của Ngân hàng như: quy
mô vốn, sản phẩm dịch vụ, năng lực quản lý, trình độ công nghệ và lao động…như đã
nêu trên. Tuy nhiên, những khả năng này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố bên
ngoài, cả trong nước lẫn quốc tế. Vì vậy, cần phải phân tích thêm các nhân tố bên
ngoài có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTM, gồm các nhân tố sau :
1.3.1 Các nhân tố quốc tế
1.3.1.1 Các nhân tố thuộc về chính trị
Người ta cho rằng tổ chức chính trị quan trọng nhất là Nhà nước chủ quyền, do
nó có khả năng phát hành tiền tệ, đánh thuế và định ra các luật lệ trong một quốc gia.
Tuy nhiên trên thực tế vẫn có một số khía cạnh chính trị quan trọng vượt ra khỏi biên
giới quốc gia và tác động không nhỏ đến môi trường kinh doanh và khả năng cạnh
tranh của NHTM, như :
- Mối quan hệ giữa các Chính phủ: Khi mối quan hệ trở nên thù địch, thì sự mâu
thuẫn giữa hai chính phủ có thể phá hủy các mối quan hệ kinh doanh giữa hai nước.
Nếu mối quan hệ song phương được cải thiện sẽ thúc đẩy thương mại phát triển và tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh doanh phát triển, trong đó bao gồm cả lĩnh vực tài chính
Ngân hàng.
- Các tổ chức quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và vận
dụng các chính sách biểu lộ nguyện vọng chính trị của các quốc gia thành viên. Như
chính sách của Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới chịu tác động bởi quan điểm
của các nước công nghiệp phát triển, những nước có vai trò tài trợ chính cho các tổ
chức này.
- Hệ thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thỏa thuận được một loạt các
quốc gia tuân thủ có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Mặc dù, có
thể những hệ thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thỏa thuận này không ảnh
hưởng trực tiếp nhưng có ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc tạo ra môi trường kinh
doanh quốc tế ổn định và thuận lợi
1.3.1.2 Đối thủ cạnh tranh quốc tế
Ngày nay sự bành trướng của các định chế tài chính lớn của thế giới đang trở
thành mối đe dọa đối với các NHTM Việt Nam với tiềm lực nhỏ bé. Các định chế tài
chính này không chỉ có lợi thế về vốn, công nghệ mà còn với bề dày lịch sử phát triển
với kinh nghiệm, chuyên môn hoá và sự đa dạng về sản phẩm dịch vụ, sẽ có nhiều ưu
thế trong cạnh tranh.
1.3.2 Các nhân tố trong nước
1.3.2.1 Các nhân tố kinh tế
Bao gồm nhóm các nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đồng thời cũng là nguồn
khai thác cơ hội hấp dẫn đối với các NHTM. Các nhân tố bao gồm :
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: nếu tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao làm
cho thu nhập của dân cư tăng và nhu cầu sử dụng các tiện ích từ sản phẩm dịch vụ
Ngân hàng cũng tăng lên, đây là cơ hội cho những NMTM nắm bắt và đáp ứng được
nhu cầu này; mặt khác với nguồn thu nhập dồi dào, nhu cầu đầu tư của đại bộ phận dân
cư cũng tăng, và một phần lớn nguồn vốn này sẽ được đổ vào Ngân hàng nếu biết cách
khai thác hiệu quả.
- Lãi suất: lãi suất Ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của
khách hàng. Khi lãi suất vay Ngân hàng cao, chi phí đầu tư của khách hàng gia tăng do
phải trả lãi tiền vay nhiều và ngược lại. Do đó, yếu tố này cần được các NHTM cân
nhắc kỹ trong quá trình hoạch định chiến lược kinh doanh của mình.
- Lạm phát: lạm phát làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và gây nhiều biến động
trong nước. Do lạm phát, các khách hàng của Ngân hàng do không dự đoán trước được
điều gì sẽ xảy ra thường có tâm lý hạn chế đầu tư vì thế cũng tác động dây chuyền đến
hoạt động của NHTM.
1.3.2.2 Các nhân tố về chính trị - pháp luật
Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và ổn định là cơ sở đảm bảo
cho sự thuận lợi và bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh nói
chung và hoạt động của các NHTM nói riêng tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu
quả.
1.3.2.3 Nhân tố về trình độ khoa học công nghệ
Nhóm các nhân tố này có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên
sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa
học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của Ngân hàng, qua đó tạo nên sức cạnh
tranh của NHTM nói chung. Tuy nhiên trên thể giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh
về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm dịch vụ có hàm
lượng công nghệ cao. Đây là tiền đề để các NHTM nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình.
1.3.2.4 Các nhân tố về văn hóa, tâm lý xã hội
Đây là nhóm yếu tố quan trọng tạo lập nên lối sống của người tiêu dùng, đồng
thời cũng là cơ sở để cho các NHTM lựa chọn và điều chỉnh các quyết định kinh doanh
cũng như đưa ra các sản phẩm dịch vụ phù hợp.
1.3.2.5 Các nhân tố thuộc môi trường ngành
Các nhân tố này tác động đến môi trường hoạt động của Ngân hàng, vì vậy ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của NHTM. Ngành kinh doanh là ngành hoạt động
trong đó bao gồm các Ngân hàng cùng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể thay thế
lẫn nhau nhằm đáp ứng cùng một nhu cầu căn bản nào đó của người tiêu dùng.
Theo Michael Poter, trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh” (1985) và “Chiến lược
cạnh tranh” (1980) (Trường quản trị kinh doanh Harvard) đã đưa ra mô hình 5 lực
lượng cạnh tranh trong ngành kinh doanh bao gồm :
+ Nguy cơ do các đối thủ mới có tiềm năng gia nhập ngành kinh doanh;
+ Mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ cùng hoạt động trong ngành;
+ Khả năng mặc cả của người mua hàng (Quyền lực của Người mua)
+ Khả năng mặc cả của người cung cấp (Quyền lực của Nhà cung ứng)
+ Mức độ thay thế các sản phẩm trong ngành
(1) Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn : là các đơn vị, tổ chức hiện nay chưa xuất hiện
trên thị trường nhưng có khả năng cạnh tranh trong tương lai. Khả năng cạnh tranh của
đối thủ này được đánh giá qua việc rào cản ngăn chận việc gia nhập vào ngành, có
nghĩa là doanh nghiệp phải tốn kém nhiều hay ít để tham gia vào ngành kinh doanh.
Nếu phí tổn gia nhập ngành càng cao, rào cản ngăn chận gia nhập sẽ càng cao và
ngược lại. Các rào cản chủ yếu để ngăn chặn sự gia nhập ngành hoạt động là:
− Tính kinh tế nhờ quy mô
− Sự khác biệt hoá sản phẩm
− Nhu cầu vốn đầu tư tối thiểu
− Các lợi thể đặc biệt của các đối thủ hiện có
− Chính sách của Nhà nước
(2) Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành: là các định chế tài
chính đã có vị thế chắc chắn trên thị trường cùng ngành kinh doanh, nếu mức cạnh
tranh giữa họ càng cao, giá bán sẽ càng giảm, đưa đến mức lợi nhuận giảm. Do đó,
cạnh tranh về giá bán sản phẩm dịch vụ là nguy cơ đối với các Ngân hàng. Thông
thường cường độ cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại được quyết định bởi các yếu tố
sau :
− Số lượng và kết cấu các đối thủ cạnh tranh
− Tốc độ tăng trưởng của ngành
− Sự đa dạng của các đối thủ cạnh tranh
− Hàng rào cản trở rút lui
(3) Sức ép của nhà cung ứng : Nhà cung ứng trong lĩnh vực Ngân hàng chính là
những khách hàng có nguồn vốn dồi dào có nhu cầu đầu tư. Các nhà cung ứng có thế
lực mạnh khi họ có những điều kiện sau : nguồn vốn trong xã hội bị giảm bởi những
hành vi khác như đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản; khi có nhiều định chế tài
chính với các mức giá hấp dẫn khác nhau đem lại nhiều khả năng lựa chọn đối với nhà
cung ứng.
(4) Sức ép của khách hàng : khách hàng là từ chỉ chung cá nhân hay tổ chức
chấp nhận các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Khi khách hàng không bị ràng buộc
và có nhiều quyền chọn lựa giữa sản phẩm dịch vụ của các Ngân hàng khác nhau thì
sức ép của khách hàng càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng càng cao.
(5) Sự xuất hiện của các sản phẩm dịch vụ thay thế: những sản phẩm dịch vụ
thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các
doanh nghiệp trong cùng ngành. Sự sẵn có của các sản phẩm dịch vụ thay thể trên thị
trường là mối đe dọa trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức lợi
nhuận của các Ngân hàng.
Tóm lại tích hợp những chỉ tiêu và nhân tố trên chính là xác định tổng nội lực
của một NHTM trên những mục tiêu xác định với những đối thủ cạnh tranh xác định,
từ đó giúp chúng ta nhận dạng và đánh giá được đúng thực chất năng lực cạnh tranh
của một Ngân hàng cụ thể; đồng thời qua đó xác định những nhân tố quyết định thành
công để tập trung nỗ lực nhằm duy trì, nâng cao hay phát hiện những yếu kém cần phải
khắc phục để đạt đến được năng lực cạnh tranh bền vững.
1.4 Tính đặc thù trong cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, nó xuất hiện nhanh
chóng và trở nên gay gắt trong nền kinh tế thị trường, đối với các ngân hàng thương
mại đã nhận thức được rằng cạnh tranh là một môi trường tạo động lực thúc đẩy phát
triển và tăng hiệu quả kinh doanh. Kết quả của cạnh tranh sẽ xác định vị thế, quyết
định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi ngân hàng. Vì vậy mỗi ngân hàng đều cố
gắng chọn cho mình một chiến lược phù hợp để chiến thắng trong cạnh tranh.
Các ngân hàng thương mại không chỉ bị áp lực cạnh tranh từ các ngân hàng
thương mại mà còn từ tất cả các tổ chức tín dụng khác đang hoạt động kinh doanh trên
thương trường, với mục tiêu là để dành khách hàng, nhằm tăng thị phần tín dụng cũng
như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy vậy, so
với sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác cạnh tranh giữa các ngân hàng thương
mại có những đặc thù như sau:
Kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều
nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống, văn hóa … mỗi một nhân tố
này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng có tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến
môi trường kinh doanh chung. Ví dụ chỉ là một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể
gây ra cơn chấn động rất lớn về tâm lý, thậm chí đe dọa sự tồn vong của hệ thống các
tổ chức tín dụng. Một ngân hàng hoạt động kém thanh khoản cũng có thể trở thành
gánh nặng có các ngân hàng khác và dân chúng trên địa bàn. Vì vậy trong kinh doanh
việc cạnh tranh là để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần, nhưng cũng
không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn
tính đối thủ của mình, bởi vì đối thủ là các ngân hàng thương mại khác bị suy yếu dẫn
đến sụp đổ, thì những hậu quả mang lại thường là rất lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn
chính ngân hàng mình do tác động dây chuyền.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế,
chính trị, xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm,
cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác, đồng thời trong hoạt động kinh
doanh của mình các ngân hàng cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các
khách hàng chung. Chính vì thế nếu như một ngân hàng khó khăn trong thanh khoản,
có nguy cơ đổ vỡ thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các ngân hàng
thương mại khác. Không những thế các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị ảnh
hưởng lây lan. Đây là điều mà các ngân hàng thương mại không bao giờ mong muốn.
Trong hoạt động kinh doanh các ngân hàng luôn phải cạnh tranh lẫn nhau để dành lại
thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường cạnh
tranh lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống.
Do hoạt động của các ngân hàng có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi
mặt hoạt động kinh tế xã hội, cho nên để tránh sự hoạt động các ngân hàng thương mại
mạo hiểm có nguy cơ đổ vỡ hệ thống. Vì vậy ngân hàng Nhà nước đều giám sát chặt
chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn sự
cạnh tranh của các ngân hàng không giống các loại hình kinh doanh khác.
Hoạt động của các ngân hàng thương mại liên quan đến lưu chuyển tiền tệ,
không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các
hoạt động kinh tế đối ngoại, do vậy kinh doanh trong hệ thống ngân hàng phải chịu
nhiều yếu tố trong nước và quốc tế như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh
trong nước, các thông lệ quốc tế… Đặc biệt là sự chi phối mạnh mẽ của cơ sở tài chính,
trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định
đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng này. Điều đó cũng có nghĩa là sự cạnh
tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại trước hết phải chịu sự điều chỉnh rất nhiều
thông lệ, tập quán của địa phương. Sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ
thuật công nghệ thông tin đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối
thiểu, bởi vì một ngân hàng mở ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là
phải chấp nhận cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác đang hoạt động trong
cùng lĩnh vực
1.5 Các công cụ cạnh tranh của NHTM
1.5.1 Cạnh tranh bằng chất lượng
Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển như
vũ bão, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú đa dạng, tạo thuận lợi cho sự lựa chọn
của người tiêu dùng và đặt nhà sản xuất trước các áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt
và để chiến thắng trong cạnh tranh thì buộc các nhà sản xuất phải nghiên cứu vận dụng
nhiều phương thức và công cụ cạnh tranh khác nhau. Một công cụ quan trọng hay được
vận dụng hiện nay là nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp. Nhưng đối với
một số ngành, thì “chất lượng” lại có tính chất định tính hơn là định lượng và nó được
xác định chủ yếu thông qua sự kiểm định đánh giá của chính khách hàng sử dụng sản
phẩm dịch vụ đó. Vì thế, việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàm ý phải từng bước
thỏa mãn cao nhất những yêu cầu, đòi hỏi từ phía khách hàng.
Đối với các NHTM, để cạnh tranh bằng chất lượng phải xây dựng thật tốt chiến
lược bằng công nghệ và chiến lược nguồn nhân lực bên cạnh với việc kết hợp chiến
lược thị trường, chiến lược kinh doanh phù hợp. Chỉ có như vậy, các sản phẩm dịch vụ
mà NHTM cung ứng mới đáp ứng đúng và đầy đủ, kịp thời nhu cầu từ phía khách
hàng.
1.5.2 Cạnh tranh bằng giá cả
Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm, giá cả có vai trò quan trọng đối với quyết
định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả chính là lãi suất và mức phí áp dụng
cho các dịch vụ cung ứng cho các khách hàng của mình. Trong việc xác định mức lãi
suất và phí, các NHTM luôn phải đối mặt với những mâu thuẫn: Nếu như NHTM quan
tâm tới khả năng cạnh tranh để mở rộng thị phần, thì cần phải đưa ra các mức lãi suất
và phí ưu đãi cho các khách hàng của mình, tuy nhiên, điều này sẽ làm giảm thu nhập
của NHTM, thậm chí có thể khiến ngân hàng bị lỗ. Nhưng nếu NHTM chỉ chú trọng
đến thu nhập thì phải đưa ra mức lãi suất và phí sao cho đáp ứng được mục tiêu tăng
thu nhập, tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến ngân hàng sẽ bị mất dẫn khách hàng, giảm
thị phần trong kinh doanh, bởi suy cho cùng thì khách hàng luôn quan tâm tới mục tiêu
tối thượng trong kinh doanh trên thương trường làm tối đa hoá lợi nhuận, mà để đạt
được điều đó thì cần tiết giảm các chi phí đầu vào.
Điều này có nghĩa là cạnh tranh bằng giá cả đang trở thành một biện pháp nghèo
nàn nhất, vì nó làm giảm bớt lợi nhuận tiêu thu được của các NHTM. Xuất phát từ mâu
thuẫn trên, việc định giá theo đúng ngang giá trị thị trường sẽ cho phép các NHTM giữ
được khách hàng, duy trì và phát triển thị trường. Trên thực tế, việc vận dụng nhân tố
giá để cạnh tranh chỉ phù hợp khi xâm nhập thị trường mới và để vận dụng tốt công cụ
này, các NHTM thường đưa ra mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ nhằm
lôi kéo khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Lãi suất và phí là tín hiệu phản ánh tình
hình biến động của thị trường, là thông số qua đó các NHTM có thể nắm bắt được khả
năng thanh toán của khách hàng cũng như khả năng cạnh tranh của các đối thủ trên
thương trường.
Do vậy, việc xác định lãi suất trên thị trường là quan trọng, song theo dõi thông
tin phản hồi từ khách hàng là rất cần thiết để NHTM đưa ra mức lãi suất và phí có tính
cạnh tranh. Đôi khi lãi suất và phí mà các NHTM xác định chỉ thu được lợi nhuận nhỏ,
hoà vốn thậm chí chịu thua lỗ tạm thời. Khi thực sự chiếm lĩnh thị trường, cũng là lúc
NHTM lấy lại những gì đã chi phí trong cạnh tranh.
1.5.3 Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối
Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình kinh
doanh. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm chính là hình thức cạnh tranh phi giá cả và gây ra sự
chú ý và thu hút khách hàng. Sản phẩm dịch vụ của ngân hàng có một trong những đặc
tính là nhanh tàn lụi, không thể lưu trữ, nên việc xây dựng các kênh phân phối (mạng
lưới bán hàng) trở thành một vấn đề hết sức trọng yếu trong kinh doanh ở các ngân
hàng. Kênh phân phối là phương tiện trực tiếp đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng
đến KH, đồng thời giúp NH nắm bắt chính xác và kịp thời nhu cầu của KH, qua đó,
NH chủ động trong việc cải tiến, hoàn thiện sản phẩm DV, tạo điều kiện thuận lợi
trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.
1.6 Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM các nước trên thế giới
và rút ra bài học kinh nghiệm cho NHTMVN
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, làn sóng cải cách hệ thống
ngân hàng dâng lên mạnh mẽ vào những thập niên 80, 90 hình thành nên những tập
đoàn tư bản ngân hàng vững mạnh.
Phát triển tín dụng ngân hàng ở các nước trên thế giới thực chất là phát triển hệ
thống các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính nhằm động viên được hầu hết
các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế vào ngân hàng; đồng thời tiến hành phân
phối nguồn vốn tập trung được dưới hình thức cho vay hoặc đầu tư vào các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế nhằm mở rộng sản xuất, lưu thông hàng hóa và phát triển
hệ thống ngân hàng, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng.
Dưới đây là kinh nghiệm tổ chức về hệ thống ngân hàng, tài chính ở một số
nước châu Á điển hình:
1.6.1 Hệ thống ngân hàng Singapore
Điều kiện kinh tế xã hội
Với lợi thế địa lý chiến lược đường biển quốc tế, Singapore nằm ở vị trí giao
điểm giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, nơi hội tụ của các nhà buôn với tên
gọi “đô thị biển”, nhưng điều kiện tự nhiên có nhiều bất lợi như diện tích nhỏ chỉ
khoảng 640 km2, dân số khoảng 3,1 triệu người, hầu như không có tài nguyên phong
phú. Là một quốc gia trẻ đa sắc tộc được hình thành từ nền tảng người nhập cư từ
Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ, và châu Au, Singapore đã từng là thuộc địa của Anh
với việc thi hành chính sách tự do thương mại dựa trên cơ bản nguyên tắc pháp luật
hình thành nề nếp pháp luật trong kinh doanh. Được trao trả năm 1971, đến nay
Singapore trở thành trung tâm buôn bán, dịch vụ mậu dịch, tạo nên thu nhập chính của
đất nước này (chiếm 84% GDP) vào những năm 60, đồng thời ngày nay trở thành trung
tâm tài chính ngân hàng và thị trường tài chính quốc tế phát triển rất mạnh mẽ.
Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Thành tựu phát triển kinh tế của Singapore gắn liền với chính sách công nghiệp
hóa được thực hiện vào thập niên 60, hướng đến xuất khẩu, thay thế nhập khẩu kích
thích đầu tư nước ngoài tạo ra bước ngoặt phát triển công nghiệp.
Sự cải thiện nhanh kết cấu hạ tầng, ưu đãi thuế thúc đẩy các công ty xuyên quốc
gia phát triển ồ ạt đầu tư trực tiếp vào Singapore, tính đến cuối năm 80, tư bản nước
ngoài đã đóng góp 65% giá trị công nghiệp, 85% giá trị xuất khẩu trực tiếp tạo việc
làm cho 60% lực lượng lao động. Công nghiệp hoá của Singapore bắt đầu từ ngành
công nghiệp chế biến – chế tạo, dịch vụ như thực phẩm, may mặc, thuốc lá, sơn, đồ gỗ
… đây là những ngành mũi nhọn then chốt, tận dụng được những lợi thế vốn có của
mình vì Singapore không có tài nguyên quặng mỏ phong phú nên không thể phát triển
những ngành công nghiệp khai thác .
Bên cạnh đó, chiến lược công nghiệp hoá của Singapore bắt đầu từ xây dựng
những công ty sử dụng nhiều lao động kết hợp với sử dụng tư bản và kỹ thuật đầu tư
nước ngoài tạo lập nên nền công nghiệp hiện đại, đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài có
khả năng cạnh tranh cao, sau đó chuyển dần sang những ngành công nghiệp hiện đại sử
dụng chất xám cho những loại hình kỹ thuật hiện đại
Hệ thống ngân hàng ở Singapore trong quá trình công nghiệp hóa và hiện
đại hóa
Quá trình phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao trong quá trình công
nghiệp hoá của quốc gia này cần phải kể đến sự thành công của lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, những tòa nhà chọc trời tập trung ở khu vực trung tâm kinh tế lớn trở thành
biểu tượng hùng vĩ của ngành dịch vụ tài chính Singpore. Đến cuối thập niên 80 ở
Singapore đã có hơn 200 ngân hàng thương mại (commercial bank), và ngân hàng dịch
vụ thương mại (merchantbank) với vốn tự có lên đến 200 – 300 tỷ USD . Đến giữa
thập niên 90, Singapore đã có trên 140 ngân hàng thương mại sau giai đoạn cải cách
sắp xếp lại hệ thống ngân hàng nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh có khả
năng cung cấp đầy đủ dịch vụ tài chính đáp ứng cho nền kinh tế cùng với sự phát triển
của thị trường tài chính vững mạnh.
Hệ thống ngân hàng Singapore bao gồm Ủy ban tiền tệ Singapore, ngân hàng
thương mại, ngân hàng thương mại dịch vụ, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, công ty tài
chính…Trong đó Ủy ban tiền tệ Singapore do Bộ tài chính Singapore thành lập từ năm
1971 để giám sát các tổ chức tài chính và thực thi chính sách tiền tệ. Ủy ban tiền tệ
Singapore chịu trách nhiệm đối với tất cả các chức năng ngân hàng trung ương. Các
định chế tài chính còn lại hoạt động đẩy mạnh việc lôi cuốn các tổ chức tài chính nước
ngoài, để phát triển ngân hàng thương mại theo hướng ngân hàng hiện đại, chú trọng
đổi mới công nghệ và đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng yêu cầu dịch chuyển vốn trên thị
trường.
So với các nước trong khối ASEAN thì Singapore có thị trường tài chính phát
triển nhất, năm 1975 ở Singapore lãi suất tiền vay và tiền gửi trong nước đã được tự do
hóa. Năm 1978, việc kiểm soát hối đoái cũng đã được nới lỏng, đem lại việc tự do hóa
tài chính đầy đủ…. nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng Singapore huy động tối đa
nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn
vốn tiền tệ đã huy động được, đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa.
1.6.2 Hệ thống ngân hàng Thái Lan
Điều kiện kinh tế xã hội
Vương quốc Thái Lan là một quốc gia nằm ở trung tâm Đông – Nam A với diện
tích hơn 517.000 km2, dân số trên 60 triệu người với môi trường tự nhiên thuận lợi cho
phát triển nông nghiệp. Thái Lan là một quốc gia đa sắc tộc, trong đó người Thái chiếm
85%, điểm nổi bật trong lịch sử chính trị Thái Lan là vua Thái vẫn là trung tâm quyền
lực trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Mặc dù từ năm 1932 đến nay Thái
Lan đã trải qua 33 cuộc đảo chính, nhưng chế độ chính trị vẫn không thay đổi vẫn là
Nhà nước theo chế độ dân chủ nghị viện với sự định hướng phát triển chủ nghĩa tư
bản.
Quá trình công nghiệp hoá của Thái Lan
Quá trình công nghiệp hoá của Thái Lan diễn ra trong môi trường quốc tế khá
thuận lợi, Thái Lan được hưởng các nguồn lợi gián tiếp từ cuộc chiến tranh Đông
Dương thông qua việc Mỹ sử dụng Thái Lan như là căn cứ quân sự, với những khoản
viện trợ không hoàn lại.
Vào thập niên 60, Thái Lan bắt đầu chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập
khẩu chủ yếu dựa vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài làm thay đổi cơ cấu kinh tế, sản
xuất nông nghiệp năm 1960 chiếm tỷ trọng từ 60% GDP đến nay đã giảm xuống còn
30% GDP trong khi đó một số ngành công nghiệp mới đã xuất hiện có sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế như dệt, may, thuộc da, lắp ráp máy móc đã đưa nền kinh tế
Thái Lan thoát khỏi trì trệ vào đầu thập niên 80.
Chính phủ Thái Lan lấy xuất khẩu và dịch vụ làm đầu tàu cho tăng trưởng kinh
tế, trên cơ sở khai thác tiềm năng phát triển nông nghiệp đưa Thái Lan là nước xuất
khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới mang lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm tăng
dự trữ ngoại tệ quốc gia từ 16,5 tỷ USD năm 1985 lên đến 46,5 tỷ USD vào năm 1995.
Nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng khá cao theo nhịp độ kinh tế các nước công nghiệp,
giai đoạn 1986 –1990 tốc độ tăng trưởng bình quân là 10,4% đã in đậm dấu ấn của đầu
tư trực tiếp nước ngoài, năm 1990, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 8% GDP đến năm
1996 vốn đầu tư nước ngoài chiếm 14% GDP, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Thái
Lan lên đến 49 tỷ USD. Những năm tiếp theo của thập niên 90 cho đến nay tốc độ tăng
trưởng bình quân của Thái lan từ 7%- 9%, vốn đầu tư nước ngoài đến năm 1996 đã lên
đến 94,3 tỷ USD chiếm 55% GDP, tăng gấp hai lần dự trữ ngoại tệ quốc gia và cũng
trong giai đoạn này Thái Lan đã bắt đầu thực hiện chính sách đầu tư ra nước ngoài.
Tuy nhiên, sự gia tăng khoản nợ nước ngoài quá cao cùng với cơ cấu đầu tư
thiếu cân đối và để duy trì tốc độ tăng trưởng 8,4 %/năm từ thập niên 90 nền kinh tế
Thái Lan chuyển mạnh sang công nghiệp chế biến, điện tử, chất bán dẫn… nhưng giai
đoạn 1993-1996 diễn ra sự cạnh tranh gay gắt các loại hàng hóa này, Thái Lan đã
không kiểm soát được cán cân vãng lai dẫn đến mức mức thâm hụt là 7,4% / năm và do
Thái Lan đã áp dụng tỷ giá cố định USD ở mức 25 bạt trong suốt 13 năm đã dẫn bùng
nổ khủng hoảng tài chính năm 1997.
Hệ thống ngân hàng Thái Lan trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa
Hệ thống ngân hàng Thái Lan bao gồm Ngân hàng trung ương Thái Lan (Bank
of Thailand –BOT), ngân hàng thương mại, ngân hàng chuyên doanh nhà nước, các
công ty tài chính… Ngân hàng Thái Lan được thành lập từ năm 1942 được coi như là
ngân hàng trung tâm của cả nước; giữ vai trò ngân hàng của các ngân hàng và chịu ảnh
hưởng rất lớn của các chi nhánh ngân hàng phương Tây.
Luật ngân hàng Thái Lan cũng đã được thông qua năm 1962 và được bổ sung
sửa đổi vào năm 1979,1985, và 1992. Hệ thống ngân hàng ở Thái Lan phát triển mạnh
theo xu hướng xây dựng mô hình tập đoàn ngân hàng, nhiều ngân hàng trong nước đã
mở được các chi nhánh ở nước ngoài hoặc liên doanh với các ngân hàng ở nước ngoài.
Đến năm 1997, Thái Lan có 63 ngân hàng trong số đó có 10 ngân hàng thuộc sở hữu
nhà nước. Hoạt động của các ngân hàng thương mại đã đóng góp quan trọng đối với
nền kinh tế Thái Lan và đảm đương về vốn cho nhu cầu phát triển công nghiệp hóa –
hiện đại hóa. Bằng cách hạ lãi suất để mở rộng tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp
để đảm bảo nhu cầu vốn cho nông dân đặc biệt là vùng sâu vùng xa, Ngân hàng trung
ương Thái Lan có quyền kiểm soát chặt chẽ các ngân hàng thương mại trong lĩnh vực
cho vay nông nghiệp, bên cạnh đó Nhà nước thành lập Uỷ ban kiểm soát giá cả, tạo
điều kiện kiểm soát giá nông sản và khi cần Nhà nước kịp thời tham gia để bình ổn giá
thị trường.
Năm 1985, Thái Lan bắt đầu mở cửa cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài ồ ạt ,
các ngân hàng Thái Lan được phép trực tiếp vay ngoại tệ đáp ứng nhu cầu đầu tư để
đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và đặc biệt Thái Lan xây dựng các tổ hợp công
nghiệp với quy mô lớn. Bên cạnh đó, ngân hàng Thái lan còn tận dụng những nguồn
vốn tư bản ngắn hạn nước ngoài để bổ sung khoản trống giữa tiết kiệm có giới hạn
trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài, dư nợ vay nước ngoài không ngừng tăng lên
đến 1996 chiếm 55% GDP, riêng Ngân hàng quốc tế Thái Lan đã thu hút đến 50 tỷ
USD. Nằm trong xu thế toàn cầu hóa, thị trường chứng khoán Thái Lan phát triển
mạnh sôi động, đến năm 1995, trên 50% giao dịch thị trường chứng khoán do người
nước ngoài thực hiện. Thời kỳ này các ngân hàng Thái Lan phát triển mạnh mẽ nghiệp
vụ đầu tư vào thị trường tài chính do tỷ lệ vay vốn nước ngoài gia tăng, tỷ lệ lợi nhuận
trên vốn của ngân hàng đạt đến 25%, đến năm 1996, tài sản của hệ thống ngân hàng và
tổng giá trị của thị trường chứng khoán đạt đến 15% GDP, cho thấy cả hai hệ thống
trên đóng vai trò ngang nhau trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Sau khủng hoảng tài chính năm 1997, Thái Lan phải cho đóng cửa 58 chi nhánh
ngân hàng và công ty tài chính, tỷ lệ nợ xấu lên đến 15% . Chính phủ Thái Lan đang cố
gắng phân tán rủi ro bằng việc quy định về cho vay như hạn mức cho vay đối với một
khách hàng không quá 25% vốn tự có, các khoản nợ ngoài bảng tổng kết tài sản hạn
chế dưới 50% tổng số vốn, các ngân hàng không được đầu tư quá 20% tổng số vốn vào
cổ phiếu, giấy chứng nhận nợ của một công ty, tỷ lệ dự trữ thanh khoản theo quy định
là 7% trong đó 2% tiền gởi tại Ngân hàng trung ương, tối đa không quá 2,5% tiền mặt,
còn lại dưới dạng chứng khoán, bên cạnh đó ngân hàng phải thực hiện lập 100% dự
phòng đối với những tài sản có xếp loại đáng nghi ngờ và buộc các ngân hàng bị đóng
cửa phải tăng vốn điều lệ lên 15% tổng vốn thì mới có thể tiếp tục hoạt động. Với
những kiên quyết trong cải cách ngân hàng vừa qua đã giúp Thái Lan phục hồi sau
khủng hoảng .
1.6.3 Bài học kinh nghiệm
Qua kinh nghiệm một số nước trong khu vực, định hướng phát triển công
nghiệp hóa ở Việt Nam gần giống với các nước ASEAN, diễn ra trong môi trường
quốc tế thuận lợi, nền kinh tế thế giới đang trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế . Với sự chỉ đạo toàn diện của Đảng và Nhà nước , Việt Nam đã cố gắng tận
dụng triệt để lợi thế kinh tế vốn có, lấy nông nghiệp là xuất phát điểm, phát triển các
ngành công nghiệp chế biến, may mặc… hướng đến xuất khẩu, phát triển các ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động đến các ngành công nghiệp sử dụng chất xám,
trình độ công nghệ kỹ thuật cao, chiến lược xuất khẩu thay thế dần nhập khẩu, việc sử
dụng vốn và công nghệ nước ngoài là yếu tố then chốt chốt thực hiện công nghiệp hóa,
nhưng nếu sử dụng vốn đầu tư nước ngoài không hiệu quả, cơ cấu đầu tư bất ổn và
không hợp lý sẽ là nguyên nhân tiềm tàng dẫn đến khủng hoảng tài chính .
Từ chính sách kinh tế và sự phát triển của hệ thống ngân hàng của các nước
châu Á trong tiến trình công nghiệp hóa cần rút ra những bài học kinh nghiệm sau :
- Thứ nhất : Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối
vốn, trước hết để thực hiện thành công công nghiệp hoá- hiện đại hóa, Chính phủ nên
sớm có một khung pháp lý lành mạnh cho hệ thống tài chính, một khuôn khổ pháp lý
và cơ chế giám sát hữu hiệu hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng nội địa như Singapore.
Đồng thời, việc sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô cũng như những hạn chế mục tiêu
thời kỳ đầu là cần thiết để kìm chế sự bùng nổ cho vay, cho vay quá nhiều mà ngân
hàng khó kiểm soát được chất lượng tín dụng, hoặc đẩy mạnh tín dụng phát triển kinh
tế theo “kiểu bong bóng” là nguy cơ tổn thương của hệ thống ngân hàng.
-Thứ hai : Xây dựng hệ thống ngân hàng có tiềm lực vững mạnh, nhanh chóng
đa dạng các hình thức huy động vốn, cùng với đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính
nhằm khai thông vốn trong nước, đồng thời thu hút tư bản nước ngoài để đáp ứng vốn
và kỹ thuật cho quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có biện pháp
mở cửa đồng bộ cắt giảm thuế quan, chính sách ưu đãi tín dụng… để nâng cao chất
lượng tín dụng.
-Thứ ba: Khi định chế tài chính trong nước còn yếu kém, nhất là khi hệ thống
ngân hàng chưa đủ khả năng phân phối tín dụng một cách hữu hiệu, việc tự do hóa thị
trường vốn ngắn hạn là rất nguy hiểm. Dòng vốn tư bản ngắn hạn ồ ạt gây hiện tượng
“thừa vốn”, dẫn đến tình trạng lãng phí, hâm nóng thị trường bất động sản, và sự đảo
ngược dòng vốn này gây ra bất ổn trong thị trường tài chính.
- Thứ tư: Cần có sự can thiệp kịp thời của Chính phủ đối với hệ thống ngân
hàng, mở rộng tín dụng và thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất đối với những mặt hàng,
ngành công nghiệp ưu tiên hướng đến xuất khẩu, nhằm tạo động lực chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Vấn đề hỗ trợ lãi suất cho tín dụng cần phải có chương trình hành động
bước đi thích hợp với những chỉ tiêu cụ thể, với kinh nghiệm của các nước cần phải có
chế độ kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng để tránh nguy cơ thất thoát vốn. Tuy
nhiên nếu sự can thiệp quá mức mang tính áp đặt của Chính phủ vào hoạt động ngân
hàng sẽ trở nên bị gò bó, thiếu tính linh động, gây khó khăn cho ngân hàng trong tiến
trình hội nhập quốc tế.
- Thứ năm: Theo kinh nghiệm của một số nước như Thái Lan, Hàn Quốc … nên
thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu tài trợ những ngành nghề then chốt trọng điểm
hướng đến xuất khẩu và đổi mới công nghệ.
Nghiên cứu về thực tiễn chính sách phát triển kinh tế và ngân hàng tại các nước
châu Á đã chứng minh công nghiệp hóa là con đường tất yếu khách quan để các nước
thoát khỏi đói nghèo lạc hậu. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng hàng đầu
giải quyết nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa. Từ đặc điểm kinh tế xã hội Việt
Nam cùng với việc phát huy những kinh nghiệm quý báu là những bài học cần thiết để
phát triển hệ thống ngân hàng, khai thác, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong
quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Chương 1 đã nêu lên một cách khái quát về năng lực cạnh tranh của NHTM,
những tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM dựa trên chính những đặc
điểm của các NHTM và những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của NHTM.
Những cơ sở lý luận này là tiền đề để phân tích năng lực cạnh tranh của các
NHTM Việt Nam hiện nay, kế đó là đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC
NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Khái quát thực trạng kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam trong những năm
qua
Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống NHTM VN vào quá trình đổi
mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá là rất lớn. Các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan
trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức mua đồng tiền . Đến nay, vốn cho
sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn do các NHTM đáp ứng, với tổng tài sản của hệ thống
lên tới khoảng 140% GDP.
Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các NHTM VN đã tăng nhanh,
đã và đang từng bước chuyển dần hướng tới một hệ thống tương thích của các nền kinh
tế đang nổi và mới phát triển.
Sự lớn mạnh của hệ thống NHTM VN thể hiện ở sự tăng lên của vốn chủ sở
hữu, tổng tài sản, mức độ đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp và sự đóng góp của ngành
vào GDP hàng năm: về tổng vốn đăng ký đã tăng gấp 12 lần, tổng tài sản và tiền gửi
tăng hơn 16 lần và các khoản vay tăng khoảng 14 lần.
Các NHTM NN vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn,
đặc biệt trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế, của các doanh nghiệp. Chính họ là
kênh chuyển tải nhanh nhất các cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho các thành
phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển. Vì vậy, GDP của
sáu tháng đầu năm 2010 đã đạt khoảng 6,4%, mức tăng cao nhất kể từ quí 4 năm 2008
đến nay. Song thị phần của các nhóm NH này từng bước giảm và nhóm NHTM CP,
NH nước ngoài tăng, nhờ các cam kết mở cửa thị trường.
Năm 2009, lợi nhuận của các NH có mức tăng trưởng khá, tỉ suất lợi nhuận trên
tài sản (ROA) của 6 NH lớn nhất lên mức 1,9% Tỉ suất này năm 2008 là 1,5%. Tuy
nhiên, trong năm 2010, do những khó khăn từ nền kinh tế, đã ảnh hưởng đến khách
hàng có quan hệ tiền gửi và tiền vay tại các NH, ảnh hưởng đến tăng trưởng tài sản, 6
tháng đầu năm 2010, nhiều NH chưa đạt được tốc độ như năm 2009.
- Về phát triển các sản phẩm dịch vụ
Hệ thống NHTM VN đã phát triển khá nhanh về số lượng các NH và số lượng
chi nhánh/phòng giao dịch, cùng với quá trình hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ truyền
thống và phát triển các dịch vụ mới, nên doanh số và tỷ trọng dịch vụ tăng lên qua các
năm.
- Dịch vụ huy động vốn và cho vay: Đây vẫn là dịch vụ mang lại nguồn thu
chủ yếu cho các NHTM hiện nay và có mức tăng trưởng khá. Huy động vốn của các
NHTM có tăng trưởng khá qua các năm (trừ năm 2008, có giảm sút, do tác động từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) do việc đa dạng hóa sản phẩm huy động và phát
triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch. Măc dù có mạng lưới rộng và thương hiệu
mạnh, được người dân biết đến, nhưng tốc độ tăng trưởng về huy động vốn của các
NHTM CP có sự bứt phá mạnh, thị phần đã tăng lên 31,23% so với 21,3% năm 2006,
khiến cho thị phần của các NHTM NN giảm.
Hoạt động cho vay cũng có tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí còn tăng nóng
trong năm 2007 và năm 2008, một số NHTM CP có tốc độ tăng từ 60% trở lên. Nhưng
6 tháng đầu năm 2010, tăng trưởng tín dụng đạt 10,8%, nhưng đến cưới tháng 7, tốc độ
tăng trưởng đã khá hơn, với mức tăng gần 13,0% cho 7 tháng đầu năm 2010. So với tốc
độ tăng trưởng kinh tế, thì tốc độ tăng trưởng tín dụng gấp 5 đến 6 lần được cho là tăng
trưởng nóng, nhưng nhìn nhận một cách sâu sắc có thể thấy, nếu không có sự tăng
trưởng cao của tín dụng trong vài năm qua, thì không có được tốc độ tăng GDP như
ngày hôm nay.
Cho vay theo lĩnh vực kinh tế không thay đổi nhiều qua các năm. Trong tổng số
dư nợ cho vay của NH, nông lâm thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng trên
dưới 30%,tiếp theo là công nghiệp, thương mại và xây dựng.
- Dịch vụ thanh toán
Trong 3 năm trở lại đây, dịch vụ thanh toán đã có bước phát triển quan trọng.
Nhiều dịch vụ thanh toán mới đã ra đời, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người
sử dụng. Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất được triển khai tích cực, việc kết nối
hệ thống ATM, POS thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc đạt kết quả kích lệ.
3 liên minh thẻ Banknet, VNBC và Smartlink đã kết nối liên thông 10 thành viên là các
NHTM có số lượng thẻ phát hành chiếm 87% tổng số thẻ phát hành của các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán và 75% số lượng ATM trên toàn quốc là nền tảng quan
trọng cho việc thúc đẩy phát triển dịch vụ này.
Tính đến cuối tháng 7/2010, đã có trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ
và hơn 190 thương hiệu thẻ, gần 11.000 ATM phát hành trên phạm vi cả nước và
37.000 thiết bị chấp nhận thẻ POS. Các dịch vụ tiện ích đi kèm ngày càng được đa
dạng hóa như thẻ mua xăng dầu, thẻ mua hàng qua mạng, thanh toán tiền điện nước…;
việc triển khai thí điểm cung ứng phương tiện thanh toán “ví điện tử” của các tổ chức
không phải tổ chức tín dụng cũng có bước phát triển nhanh, trong đó số lượng phát
hành đạt gần 84.500 “ví điện tử” của 17 NH tham gia triển khai dịch vụ và được chấp
nhận thanh toán tại 119 đơn vị cung ứng hàng hóa dịch vụ.
Điều này đã góp phần phát triển mạnh mẽ thanh toán điện tử trong thời gian tới,
tạo tói quen thanh toán không dùng tiền mặt cho người dân. Tỷ lệ tiền mặt trong tổng
thanh toán có xu hướng giảm, từ 20,3% năm 2004 xuống còn 14,6% năm 2008 và
14,5% năm 2009. Sự phát triển của Hệ thống thanh toán điện tử liên NH có vai trò
quan trọng trọng việc nâng cấp cơ sở hạ tầng cho dịch vụ phát triển. Tài khoản cá nhân
có mức tăng trưởng hàng năm cao: 150% xét về số tài khoản và 120% xét về số dư. Số
lượng các tài khoản cá nhân đã tăng từ 135.000 năm 2000 lên khoảng 5 triệu vào năm
2005, trên 8 triệu vào năm 2007 và 14 triệu vào cuối năm 2009.
2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTMVN
2.2.1 Năng lực thị phần
Thị trường tín dụng Việt Nam phát triển rất mạnh trong những năm gần đây so
với các nước khác trong khu vực Châu Á. Theo số liệu của BMI, tỷ lệ cho vay/huy
động và cho vay/tài sản trong 2010 lên tới 130,7% và 76,6%, cao nhất trong các nước
tại Châu Á. Tuy nhiên, mức độ thâm nhập của ngành thể hiện qua tỷ lệ cho vay/GDP
vẫn chưa đạt được mức tương ứng, mặc dù có tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2005 –
2010. Tỷ lệ này tăng từ 60% trong 2005 lên 113,5% vào 2010, đứng sau một số nước ở
Châu Á như Trung Quốc (126,6%), Hồng Kông (194,2%), Malaysia (119,4%) và Đài
Loan (143,1%)
Khối NHTMNN chiếm ưu thế về vốn và nhà nước vẫn nắm quyền chi phối tại
một số NH đã cổ phần hóa. Hầu hết các NH trong khối này đều có lợi thế về qui mô
vốn, với tổng vốn điều lệ của 4 NH lớn tại 31/12/2010 là 64.037 tỷ đồng.
Biểu đồ 1: So sánh tỷ lệ cho vay/huy động, cho vay/tài sản, cho vay/GDP của một số nước tại 2010
Thị phần tín dụng của khối này đã sụt giảm đáng kể trong giai đoạn 2005 – 2010
mặc dù vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Riêng 4 NH là BIDV, Agribank (VBARD),
Vietcombank (VCB) và Viettinbank chiếm tới 48,3% tổng dư nợ cho vay của toàn
ngành trong năm 2010. Tính thêm NH Phát triển nhà ĐBSCL (MHB), tổng thị phần tín
dụng là 49,3%. Tuy nhiên, con số này thấp hơn nhiều so với 74,2% tại thời điểm 2005.
Thị phần huy động cũng sụt giảm từ 74,2% xuống 47,7% trong giai đoạn 2005 – 2010
Biểu đồ 2: Thị phần huy động vốn Biểu đồ 3: Thị phần cho vay
Biểu đồ 4: Thị phần Tín dụng năm 2005-2010
Khối NHTMCP có hoạt động linh hoạt và dần chiếm lĩnh thị phần của khối
NHTMNN: Các NHTMCP có cơ cấu cổ đông đa dạng hơn các NHTMNN, tập trung
vào hoạt động cho vay các DN vừa và nhỏ và hoạt động ngân hàng bán lẻ. Thị phần
của khối này tăng nhanh trong những năm gần đây do chiếm lĩnh được từ khối
NHTMNN, chiếm 37,1% thị phần tín dụng của toàn ngành trong năm 2010 với tổng số
vốn điều lệ lên tới 151.590 tỷ đồng.
Tuy nhiên, qui mô của nhóm NH này vẫn nhỏ hơn nhiều so với các NHTMNN.
Dẫn đầu về vốn điều lệ trong nhóm này là Eximbank (EIB) với 10.560 tỷ đồng, theo
sau đó là ACB với 9.377 tỷ đồng và Sacombank (STB) với 9.179 tỷ đồng. Một số
NHTMCP khác cũng có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ đồng bao gồm NH Quân đội (MB),
NH Kỹ thương (TCB), NH Hàng Hải Việt Nam (MSB) và NH Đông Nam Á (SEAB).
Hầu hết các NHTMCP còn lại đều có vốn điều lệ quanh mức 2.000 - 3.000 tỷ đồng.
Trong điều kiện lạm phát tăng cao của năm 2011, nhiều NH yếu về thanh khoản bắt
buộc phải huy động bằng mọi giá để đảm bảo hoạt động, dẫn đến tình trạng chạy đua
lãi suất như thời gian vừa qua.
Khối NHNNg và liên doanh có những động thái tích cực nhằm thâm nhập sâu
hơn vào thị trường Việt Nam: Thế mạnh của khối NH này là mảng ngân hàng bán lẻ
với chất lượng dịch vụ vượt trội và sản phẩm cung cấp đa dạng hơn so với các NHTM
trong nước. Đây cũng là mảng thị trường còn nhiều tiềm năng phát triển mà các NH
trong nước chưa khai thác được. Trong thời gian vừa qua, các NH lớn như HSBC,
Citibank (Citi), ANZ, Standard Chartered (S.C) và Deutsche Bank đều không ngừng
mở rộng hoạt động của mình. Citi và S.C chính thức triển khai hoạt động ngân hàng
bán lẻ tại Hà Nội vào tháng 10/2010, trong khi HSBC khai trương 2 chi nhánh mới tại
Đà Nẵng và Cần Thơ trong tháng 9/2010. Một loạt các chi nhánh NHNN khác như
Huanan, Chinatrust và Mizuho cũng tăng mạnh vốn được cấp vào thời điểm cuối năm
2010. Ngoài ra, một vài NHNNg vẫn đang nắm giữ cổ phần tại các NHTM trong nước.
Thị phần của khối NHNNg và liên doanh không có nhiều biến động, đặc biệt là
thị phần huy động do các NHNNg bị hạn chế về huy động vốn trên mức vốn được cấp.
Thị phần huy động và cho vay của nhóm NH này trong 2010 lần lượt là 8,9% và
13,6%. Mặc dù bắt đầu từ năm 2011, hạn chế về huy động tiền gửi được xóa bỏ nhưng
khối NH này sẽ cần một thời gian nhất định để có thể thay đổi miếng bánh thị phần do
về tương quan qui mô mạng lưới của các NHNNg vẫn còn rất nhỏ so với các NHTM
trong nước.
Bảng 1: Tỷ lệ nắm giữ của một số ngân hàng nước ngoài tại các ngân hàng
TM trong nước.
2.2.2 Năng lực tài chính
Ngành NH tăng trưởng nhanh cả về số lượng và qui mô tài sản trong giai đoạn
2006-2010. Tuy nhiên chỉ có 25,6% ngân hàng nội địa có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ
đồng. Thị phần tín dụng và huy động của khối Ngân Hàng Thương Mại Nhà nước
(NHTMNN) vẫn dẫn đầu, tuy nhiên sụt giảm mạnh do sự chiếm lĩnh của khối Ngân
hàng Thương mại (NHTMCP) trong 5 năm trở lại đây. Trong khi đó, khối Ngân hàng
nước ngoài (NHNNg) được gở bỏ hạn chế về huy động và bắt đầu tham gia cuộc cạnh
tranh thực sự bình đẳng với các NHTM trong nước kể từ đầu 2011.
Tính đến cuối năm 2010, thị trường Việt Nam có 101 Ngân hàng và chi nhánh
NH nước ngoài, bao gồm ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước, ngân hàng nước
ngoài (NHNNg) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong đó, chỉ có 11/43 (25,6%)
NHTM trong nước có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ đồng. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới (WB), Việt Nam hiện có quá nhiều ngân hàng có qui mô nhỏ, xuất phát điểm
là các NHTM nông thôn nhưng lại vươn ra hoạt động tại thành thị, do đó có tốc độ tăng
trưởng tài sản và danh mục cho vay phát triển quá nóng. Kèm theo đó là hệ thống quản
lý rủi ro và kỹ năng quản lý hoạt động ngân hàng còn tương đối kém, gây tác động
không tốt đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Biểu đồ 5: Số lượng NH giai đoạn 2006-2010 và 11 NH VĐL năm 2010 trên 5.000
tỷ đồng
Nguồn: VCBS Tổng hợp
Mặc dù tổng tài sản tăng trưởng nhanh, qui mô của các NH Việt Nam vẫn nhỏ
hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Theo số liệu của Bloomberg, trung bình 2 chỉ
tiêu tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của 8 NH niêm yết tại Việt Nam là 166.844 tỷ
đồng, thấp hơn mức trung bình của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia,
Ấn Độ, Thái Lan và Indonesia. Với qui mô tương đối nhỏ, các NH Việt Nam đều chịu
áp lực phải tăng cường qui mô nguồn vốn nhằm đảm bảo các chỉ số an toàn hoạt động.
NHNN hiện tại đang sử dụng hai công cụ chính để nâng cao khả năng an toàn vốn của
các NHTM: (1) quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu và (2) quy định về hệ số an toàn
vốn tối thiểu (CAR).
Tính đến thời điểm 31/12/2010, mới chỉ có 28/38 NHTMCP có vốn điều lệ từ
3.000 tỷ đồng trở lên. 10 ngân hàng còn lại có vốn điều lệ từ 1.500-2.800 tỷ đồng và
không thể tăng vốn đúng thời hạn do thị trường chứng khoán diễn biến không thuận
lợi. Chính vì vậy, NHNN đã phải gia hạn cho việc tăng vốn đến hết 31/12/2011.
Tính đến Tháng 8/2011, đã có thêm 4 NH hoàn thành việc tăng vốn là NH Đệ
Nhất (FCB), NH Nam Á (NAB), NH Phương Tây (WEB) và NH Nam Việt (NVB).
Tổng cộng số vốn tối thiểu mà 6 NH còn lại phải huy động đến hết năm 2011 là 5.310
tỷ đồng. Như vậy, trong trường hợp xấu nhất khi các NH này không hoàn thành được
việc tăng vốn trong năm nay, thì thanh khoản của hệ thống NH hầu như sẽ không bị
ảnh hưởng.
Bảng 2: Tình hình tăng vốn của 10 NH chưa đáp ứng vào cuối năm 2010
Tính đến cuối 2010, hầu hết các NHTM đã đáp ứng được yêu cầu về hệ số CAR
tối thiểu 9%. Một số ít các NH chưa đáp ứng được bao gồm VBARD (6,1%), Ngân
hàng Công Thương (8,6%) và NVB (8,9%), trong đó các Ngân hàng Công Thương và
NVB đều đã tiến hành tăng vốn trong thời gian vừa qua, do đó chúng tôi cho rằng tỷ lệ
CAR của các NH này đã đạt mức 9% tại thời điểm hiện tại.
Biểu đồ 6: Qui mô ngành NH của một Biểu đồ 7: Hệ số CAR 2010 của một số quốc gia số NH
2.2.3 Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức
Khả năng quản lý và điều hành của các NHTM là một câu hỏi lớn cho các nhà
Quản lý Nhà nước. Các NHTM Việt Nam thật sự lúng túng trong công tác quản lý và
điều hành sao cho ngân hàng có thể đảm bảo lợi nhuận, an toàn và ổn định khi mà sức
ép tăng trưởng rất mạnh trong tiến trình hội nhập tài chính. Một số ngân hàng đã phải
tìm biện pháp tư vấn từ các tổ chức tài chính quốc tế (nhưng đạt được hiệu quả thấp vì
các chuyên gia tư vấn không có cái nhìn thực tế đối với nền kinh tế Việt Nam nên hầu
như không chuẩn bị các bước chuyển tiếp cho công tác tái cơ cấu ngân hàng), hoặc
phải sử dụng biện pháp bán cổ phẩn cho các tổ chức tài chính, NHNHg để được
chuyển giao các phương pháp quản lý điều hành kinh doanh ngân hàng (Ngân hàng
TMCP Á Châu, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín).
Về cơ cấu tổ chức, các ngân hàng thương mại hiện nay đã có những bước cải
thiện đáng ghi nhận trong cơ cấu tổ chức vận hành, đặc biệt là các NHTMCP (ngân
hàng ACB, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng Quốc Tế, Ngân hàng
Techcombank). Tuy vậy, các cơ cấu tổ chức mới của các ngân hàng thật sự vẫn còn
nằm trong giai đoạn thử nghiệm, triển khai và điều chỉnh. Trên thực tế là các hoạt động
quản lý rủi ro của các ngân hàng này còn rất thiếu ổn định và thông suốt trong thông
tin, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng.
2.2.4 Năng lực công nghệ
Có thể nói công nghệ hiện đại là yếu tố quyết định sức cạnh tranh. Năng lực
công nghệ đi đối với khả năng phát triển mạng lưới và đa dạng hóa, phát triển sản
phẩm dịch vụ. Ngoài ra, trong công tác quản trị ngân hàng, công nghệ thông tin là yếu
tố quan trọng trong việc hoàn thiện và đưa ra các sản phẩm có tính đột phá cao trên thị
trường. Kế đến, yêu cầu tập trung và chia sẻ thông tin mạnh mẽ trong hoạt động hàng
ngày của ngân hàng là yêu cầu tất yếu cho công tác quản lý rủi ro hiệu quả và yêu cầu
này chỉ được thực hiện tốt nhất khi công nghệ thông tin được áp dụng một cách triệt để
nhất. Thực tế trên thế giới đã chứng minh việc xây dựng các quy trình quản lý rủi ro
với các chuẩn mực quốc tế chỉ có thể thực hiện một cách tốt nhất trên nền tảng công
nghệ hiện đại.
Sự phát triển về quy mô đi liền với hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Hầu hết
các NHTMCP đã và đang triển khai các chương trình phần mềm quản lý, phần mềm kế
toán và thanh toán, phần mềm giao dịch,... hiện đại của các hãng nổi tiếng trên thế giới
và do các hãng có uy tín cung cấp và lắp đặt.
Hiện nay, nhiều NHTMCP Việt Nam như Techcombank, VP bank, MB… rất
quan tâm và đầu tư lớn vào công nghệ ngân hàng. Chỉ trong vòng 2 năm gần đây, riêng
VP bank đã đầu tư gần 10 triệu USD cho công nghệ ngân hàng bao gồm việc nâng cấp
và sử dụng hệ thống Core Banking T24 của hãng Temenos (Thụy Sĩ) – hiện là hệ thống
được đánh giá cao nhất trong hệ thống các phần mềm ngân hàng. Với những sự đầu tư
này sẽ giúp các NH đáp ứng được sự đa dạng về nhu cầu của khách hàng, nâng cao khả
năng cạnh tranh trong các nghiệp vụ NHQT
Bảng 3: Phần mềm hệ thống các NHTM Việt Nam đang áp dụng
2.2.5 Năng lực cạnh tranh về mở rộng và phát triển dịch vụ
Việc các NHTM Việt Nam chưa phát huy hết hiệu quả của mạng lưới rộng khắp
cũng như trình độ nhân lực ngân hàng có giới hạn đã hạn chế sự phát triển các sản
phẩm dịch vụ với những tiện ích mới và phong phú hơn; và vì thế gây lãng phí rất lớn
đối với không chỉ ngân hàng mà còn cho cả khách hàng. Thật vậy, trong một thời gian
khá dài, người dân kể cả các đối tượng có trình độ như cán bộ công nhân viên chức,
nắm giữ các loại thẻ ngân hàng chỉ để “rút tiền lương hàng tháng”. Tình hình này thời
gian gần đây có vẻ khả quan hơn khi một số ngân hàng đã cung cấp thêm các dịch vụ,
tiện ích gia tăng như thanh toán hoá đơn, thu hộ tiền bán hàng, thấu chi,v.v…
Biểu đồ 8: Xếp hạng của 5 loại dịch vụ tại một số NHTM tiêu biểu
Trích từ cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu người tiêu dùng và doanh nghiệp
đã công bố năm 2008. Theo đó, có 7 mức xếp hạng theo thứ tự từ mức chất lượng cao nhất
(mức 1) đến mức chất lượng thấp nhất (mức 7).
Biểu đồ 18 cho thấy các NHTMCP luôn dẫn đầu về tính đột phá khi cho ra đời
những dòng sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng đặc biệt là
dòng sản phẩm thẻ, Dịch vụ tài khoản, sản phẩm liên quan đến vàng và ngoại tệ, v.v…
2.2.6 Năng lực cạnh tranh về hệ thống kênh phân phối, mạng lưới
Không chỉ phát triển về số lượng, qui mô mạng lưới của các NHTM cũng tăng
lên nhanh chóng. Tuy nhiên, số lượng chi nhánh, phòng giao dịch (CN, PGD) và ATM
của các NH còn khá chênh lệch nhau do chiến lược phát triển và đặc trưng của từng
ngân hàng. Riêng 4 NHTMNN đã chiếm 35,7% tổng số lượng ATM của toàn hệ thống.
VBARD giữ vai trò chủ đạo trong phát triển đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn nên có
mạng lưới hoạt động rộng khắp với 2.300 CN, PGD và 1.704 ATM trong năm 2010.
Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động ATM của Agribank chưa cao tương ứng với qui mô.
Trong khi đó, các NH như VCB và SEAB với thế mạnh là hoạt động thẻ có mạng lưới
ATM lớn thứ 3 và 4 trong khi qui mô về CN, PGD thấp hơn nhiều.
Biểu đồ 9: Số lượng chi nhánh, phòng giao dịch và ATM của 12 NH lớn
trong năm 2010
Theo số liệu của IMF, tổng tài sản của ngành đã tăng gấp 2 lần trong giai đoạn
2007 – 2010, từ 1.097 nghìn tỷ đồng (52,4 tỷ USD) lên 2.690 nghìn tỷ đồng (128,7 tỷ
USD). Con số này được dự báo sẽ tăng lên 3.667 nghỉn tỷ đồng (175,4 tỷ USD) vào
thời điểm cuối năm 2012. Việt Nam cũng nằm trong danh sách 10 quốc gia có tốc độ
tăng trưởng tài sản ngành NH nhanh nhất trên thế giới theo thống kê của The Banker,
đứng vị trí thứ 2 (chỉ sau Trung Quốc). Trong đó, Eximbank là NH duy nhất của Việt
Nam nằm trong tốp 25 NH tăng trưởng nhanh nhất về tài sản trong 2010, đứng ở vị trí
thứ 13.
Biểu đồ 10: Top 10 tăng trưởng tài sản Biểu đồ 11: ATM, POS và thẻ
ngành NH phát hành
Cùng với sự tăng trưởng về tài sản, mạng lưới ATM cũng như số lượng thẻ đã
tăng lên đáng kể. Số lượng ATM tăng mạnh từ 1.800 trong năm 2005 lên 11.700 trong
năm 2010, trong khi đó số lượng thẻ tín dụng và ghi nợ được phát hành cũng đã tăng
lên gấp đôi trong giai đoạn 2008-2010, đạt 31,7 triệu thẻ. Kết quả này đạt được nhờ thu
nhập bình quân mỗi hộ gia đình và nhu cầu đối với dịch vụ ngân hàng bán lẻ ngày càng
gia tăng. VBARD dẫn đầu thị trường về tổng số lượng thẻ phát hành với gần 6,4 triệu
thẻ, chiếm 20,2% thị phần trong năm 2010. Tiếp đến là ViettinBank đạt trên 5,7 triệu
thẻ, chiếm 18,1% thị phần. VCB đứng thứ 3 với trên 5,3 triệu thẻ, chiếm gần 17% thị
phần. SEAB và BIDV lần lượt xếp thứ 4 và 5 với hơn 5 triệu thẻ và 2,7 triệu thẻ, tương
đương 16,1% và 8,6% thị phần. Tuy nhiên, xét về hiệu quả hoạt động sử dụng thẻ,
VCB tiếp tục khẳng định vị trí dẫn đầu về doanh số thẻ các loại, chiếm 23,4% tổng
doanh số thẻ của ngành. VBARD vươn lên vị trí thứ 2 với gần 20% thị phần, doanh số
tăng gấp 3 lần so với 2009. Tiếp theo là ViettinBank và SEAB chiếm lần lượt 17% và
16% thị phần
Biểu đổ 12: Thi phần doanh số thẻ; Biểu đồ 13: Thị phần số lượng ATM 2010
2.2.7 Năng lực cạnh tranh về thương hiệu
Với sự nhận thức vai trò thiết yếu của thương hiệu trong môi trường cạnh tranh
khắc nghiệt, một số NHTM hàng đầu ở Việt Nam đã đẩy mạnh công tác xây dựng và
quảng bá thương hiệu, bước đầu tạo được thương hiệu riêng, đặc thù gắn với các sản
phẩm và thế mạnh riêng có. Chẳng hạn, Agribank với bề dày truyền thống hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân; BIDV trong tín dụng phát triển cơ
sở hạ tầng và xây dựng cơ bản; VCB với những sản phẩm có chất lượng cao trong
thanh toán nội địa và quốc tế; Sacombank, ACB với các dịch vụ liên quan đến vàng và
ngoại tệ, v.v…
Một thương hiệu nổi tiến đem đến cho khách hàng sự tin tưởng, hài lòng đối với
các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng; khẳng định sự phát triển bền vững của NH đó trong
hệ thống NH Việt Nam, góp phần tăng lợi thế cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Xây
dựng thương hiệu là quá trình lựa chọn và kết hợp các thuộc tính hữu hình cũng như vô
hình với mục đích để khác biệt hóa sản phẩm, dịch vụ hoặc tập đoàn một cách thức thú
vị, có ý nghĩa và hấp dẫn. Quảng bá, phát triển thương hiệu của các ngân hàng thương
mại có thể được thực hiện qua nhiều kênh như thông qua phát triển mạng lưới, đa dạng
hóa các dịch vụ sản phẩm,.....
Trong đó giải thưởng cũng là yếu tố quan trọng góp phần quảng bá cho thương
hiệu của các ngân hàng; đồng thời, nó cũng thúc đẩy các ngân hàng nỗ lực hơn để đạt
được các chuẩn mực cao của ngành tài chính. Tuy nhiên, các giải thưởng hiện nay chưa
được tuyên truyền rộng rãi, khả năng truyền thông ra ngoài của bản thân các ngân hàng
còn hạn chế, thực tế cho thấy giải thưởng chưa tỉ lệ thuận với sự tin tưởng của khách
hàng.
Trong điều kiện hội nhập, một số giải thưởng do các tạp chí tài chính nổi tiếng
của nước ngoài xét tặng thưởng được đánh giá cao về tính khách quan, trung thực của
nó. Kể cả các ngân hàng của các nước khác cũng luôn xem trọng giải thưởng này. Từ
năm 1995, Vietcombank đã có giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất tại Việt Nam” do Tạp
chí Asia Money trao tặng; tiếp đó là Habubank nhận giải “Ngân hàng xuất sắc nhất
năm 2006” từ Tạp chí The Banker; Sacombank cũng không thua kém, được Tạp chí
Euromoney trao tặng giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2007”; Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đã vinh dự là Ngân hàng duy nhất ở Việt
Nam trong năm 2007 được Bank of America trao tặng giải thưởng “Excellent Payment
Bank 2007”; ngày 14/4/2007, VPBank chính thức được trao danh hiệu “Nhãn hiệu nổi
tiếng Quốc gia 2007” do Hội Sở hữu Trí tuệ Việt Nam, Cục Sở hữu Trí tuệ, Viện Sở
hữu Trí tuệ phối hợp tổ chức …
Ông Charly Madan, Tổng Giám đốc Citi Việt Nam cho biết: “Việc số lượng các
ngân hàng trong nước đoạt giải tăng hàng năm là minh chứng rõ ràng nhất về sự tiến
bộ vượt bậc về chuyên môn ở cả hai khối ngân hàng nhà nước và ngân hàng cổ phần tại
Việt Nam. Sự tiến bộ rõ rệt về mặt năng lực đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế
sẽ giúp củng cố thêm khả năng cạnh tranh của các NHVN trên thị trường và giúp họ tự
tin hội nhập vào môi trường tài chính quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa
gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO”.
Việc được trao giải theo tiêu chí của nước ngoài cho thấy, các ngân hàng trong
nước đang ngày càng lớn mạnh, hội nhập với thế giới và tiếp cận được các tiêu chuẩn
hoạt động tài chính quốc tế. Tuy nhiên, các giải thưởng có ý nghĩa hơn khi xét trong
tương quan giữa các ngân hàng trong nước với nhau, vì giải thưởng được lựa chọn
riêng trong từng quốc gia và các NHVN vẫn còn non trẻ so với các ngân hàng trên thế
giới.
2.2.8 Năng lực cạnh tranh về nguồn nhân lực
Hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực tại các NHTM Việt Nam chưa cao, chưa
thật sự nhạy bén với những thay đổi của ngành, đặc biệt tại các NHTM khối nhà nước.
Mặc dù vậy vẫn phải khẳng định rằng trình độ lao động của các NHTM đã được
nâng lên đáng kể, tỷ lệ trên đại học và đại học trong cơ cấu lao động của các NHTM,
đặc biệt là khối cổ phần khá cao. Điều này chứng tỏ các NHTM cổ phần đang đẩy
mạnh vấn đề tìm kiếm, bổ sung thêm nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao, thậm chí xem đây là yếu tố tiên quyết để nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngân hàng.
Bảng 4: Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn của một số NHTM năm
2010
Đại học
Cao đẳng,
Ngân hàng
Tổng số
Trên
Trình độ
đại học
trung cấp
khác
lao động
Agribank
35.021
1,22%
71,63%
6,30%
20,85%
Vietinbank
17.758
1,77%
55,77%
6,37%
21,11%
BIDV
14.550
4,02%
74,43%
12,78%
8,77%
Vietcombank
10.401
3,44%
76,30%
10,59%
9,67%
MHB
3.023
71,00%
29,00%
Techcombank
4.624
82,00%
15,00%
3,00%
Eximbank
3.780
1,35%
62,07%
16,00%
20,58%
Sacombank
7.200
0,88%
58,94%
17,73%
22,45%
ACB
6.669
1,78%
85,41%
9,37%
3,44%
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thường niên của các NHTM năm 2010)
Mở rộng mạng lưới, phát triển quy mô, tăng số lượng nhân viên phải đi cùng với
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các NHTM ở nước ta hiện nay rất coi trọng việc
tuyển dụng nhân viên mới có chất lượng, loại trừ được việc nhận người vào làm việc
theo quan hệ.
Công tác đạo tào nhân viên nghiệp vụ theo hướng chuyên sâu sao cho nguồn
nhân lực có đủ chất lượng đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh cũng được các NH quan
tâm đúng mức. Trong điều kiện cạnh tranh mới như hiện nay, các ngân hàng nội địa
đang cố gắng hành động đó là tăng cường đội ngũ nhân lực thông qua cải thiện các chế
độ lương thưởng, trợ cấp cho nhân viên để giữ chân nhân viên cũ và tìm kiếm những
chuyên viên giỏi. Trong số đó, một hình thức thu hút và giữ chân nhân tài rất phổ biến
và hữu hiệu là bán ưu đãi cổ phần cho nhân viên.
Ngoài ra, việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp cũng được một số NHTM đặc
biệt coi trọng. Văn hóa doanh nghiệp là một nhân tố phi vật chất có ảnh hưởng quyết
định đến hiệu quả kinh doanh. Văn hóa doanh nghiệp được thể hiện bằng thái độ, tác
phong, bằng dân chủ và bằng định hướng kinh doanh của một ngân hàng thông qua kỹ
thuật tác nghiệp khi giao dịch với mọi khách hàng tiền gửi, tiền vay, khách hàng dịch
vụ khác như ATM, bằng trang phục,…là tổng hòa mọi các mối quan hệ trong nền kinh
doanh hiện đại.
Nói chung NHTM có một lực lượng lao động đủ về lượng và chất, đảm bảo cho
ngân hàng hoạt động tốt. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh trước thềm hội nhập,
vấn đề về nguồn nhân lực chất lượng cần phải luôn được coi trọng hơn nữa.
2.2.9 Năng lực cạnh tranh về tăng trưởng tín dụng
Với đặc trưng của một nền kinh tế mới nổi, tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy
động của Việt Nam luôn ở mức cao trên 20% trong suốt giai đoạn 2000 – 2010. Mức
tăng trung bình cho tín dụng và huy động trong giai đoạn này lần lượt là 31,55% và
28,91%, trong đó đỉnh điểm là năm 2007 với 53,89% và 47,64%. Tốc độ cung tiền M2
trong giai đoạn 2005 – 2010 cũng đạt trung bình 29,19%.
So với các nước trong khu vực, tăng trưởng tín dụng và M2 của Việt Nam cao
hơn nhiều so với Indonesia (14,5% và 12,4%) và Thái Lan (7% và 4%). Đây là một
trong những nhân tố đóng góp vào sự phát triển nhanh của nền kinh tế Việt Nam trong
giai đoạn này, thể hiện qua tốc độ tăng GDP trung bình là 7,15%, đạt đỉnh 8,5% vào
năm 2007. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng nóng cũng chính là một nguyên nhân dẫn
đến tình trạng bong bóng tài sản mà nhiều nước mới nổi như Việt Nam mắc phải khi
nguồn vốn chảy vào các lĩnh vực có rủi ro cao như bất động sản
Biểu đồ 14: Tăng trưởng tín dụng Biểu đồ 15: Tăng trưởng huy động
2000-2010 2000-2010
Biểu đồ 16: Tăng trưởng Tín dụng, huy động và GDP 2000-2010
Cơ cấu thu nhập chưa đa dạng, chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động tín dụng:
Nguồn thu nhập từ hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu nhập
của hầu hết các NHTM trong nước. Năm 2010, tỷ trọng trung bình thu nhập lãi trong
tổng thu nhập của 10 NH hàng đầu Việt Nam là 76,8%. Đối với một số NH có qui mô
nhỏ hơn, tỷ trọng này thậm chí còn lên tới hơn 90% (Liên Việt: 92,2%, Đại Dương:
103,5%, Nam Việt: 93,1%, Phát triển Mê Kông: 98,8%). Điều này cho thấy cơ cấu thu
nhập của hệ thống NH Việt Nam chưa có sự đa dạng, phụ thuộc nhiều vào hoạt động
tín dụng, kéo theo rủi ro về chất lượng tín dụng. Đồng thời, khi tăng trưởng tín dụng bị
hạn chế như tình hình hiện tại, thu nhập của các NH sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
Biều đồ 17: Cơ cấu thu nhập 2010 của 10 NH
Bắt đầu từ năm 2008, thị trường tài chính thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng bắt đầu gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy
nhiên, các NHTM Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng lợi nhuận tốt trong giai
đoạn này với trung bình tăng trưởng của 8 NHTM hàng đầu là 46% trong 2008, 59%
trong 2009 và 31% trong 2010. Kết quả kinh doanh của khối NH nước ngoài không
được công bố rộng rãi, tuy nhiên đại diện của khối này là HSBC Việt Nam đã đạt mức
tăng trưởng 40% lợi nhuận sau thuế trong năm 2010. Năm 2011 tiếp tục là một năm
khó khăn với ngành ngân hàng với những diễn biến kinh tế vĩ mô phức tạp trong 8
tháng đầu năm. Lợi nhuận của các NH được dự báo sẽ tăng trưởng chậm hơn so với
2010, tuy nhiên mức trung bình vẫn được duy trì trên 20%
Biểu đồ 18: Tăng trưởng lợi nhuận sau thuế của một số NH
Do ảnh hưởng của việc tăng trưởng tín dụng cao, nợ xấu luôn là một trong
những vấn đề nổi cộm của ngành Ngân hàng Việt Nam từ trước tới nay, trong đó có hai
vấn đề chính cần chú ý: (1) sự khác biệt trong cách phân loại nợ theo chuẩn Việt Nam
(VAS) và theo chuẩn quốc tế (IAS) và (2) sự gia tăng nợ xấu của toàn hệ thống trong
thời gian gần đây.
Có sự khác biệt tương đối lớn trong phân loại nợ giữa VAS và IAS: Theo số liệu
công bố của NHNN, tỷ lệ nợ xấu hiện nay của toàn hệ thống đang ở mức 3%, tăng so
với mức 2,5% vào cuối năm 2009. Theo đánh giá của NHNN thì con số 3% vẫn ở mức
an toàn và kiểm soát được. Tuy nhiên, theo tính toán của tổ chức xếp hạng tín nhiệm
Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu của các NH Việt Nam lên tới 13% tổng dư nợ và là một con
số đáng lo ngại. Nguyên nhân cơ bản của sự chênh lệch này chính là sự khác biệt trong
việc phân loại nợ theo chuẩn Việt Nam (VAS) và chuẩn quốc tế (IAS).
Hầu hết các NHTM tại Việt Nam hiện nay đều phân loại nợ dựa vào định lượng
mà thiếu đi phần định tính như tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Điều này dẫn đến việc phân loại nợ không phản ánh thực chất khoản nợ.
Đồng thời, các NH chỉ xếp phần nợ đến hạn không trả được vào nợ xấu, trong khi phần
còn lại của khoản nợ vẫn là nợ đủ tiêu chuẩn. Trong khi đó, theo IAS, nếu phần nợ đến
hạn không trả được thì toàn bộ khoản nợ phải được xếp vào nợ xấu.
Ngoài ra, một số NH Việt Nam còn biến nghiệp vụ gia hạn nợ, vốn là một
nghiệp vụ bình thường của NH, thành một hình thức để giảm tỷ lệ nợ xấu của mình do
nợ gia hạn không được tính vào nợ xấu. Đồng thời, không ít ngân hàng đã hạn chế
phân loại nợ xuống nhóm 3-5 để tránh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tránh ảnh
hưởng đến lợi nhuận của mình. Kết quả là sự chênh lệch giữa phân loại nợ xấu theo
VAS và IAS ngày càng lớn.
Rất ít NH áp dụng phân loại nợ định tính do còn nhiều bất cập: Mặc dù NHNN
đã đưa ra quy định về việc phân loại nợ theo Quyêt định 493/2005/QĐ-NHNN, trong
đó bao gồm cả phân loại theo định lượng (Điều 6) và định tính (Điều 7), tính đến thời
điểm hiện tại, chỉ có 3 NH tại Việt Nam đã thực hiện việc phân loại nợ định tính theo
Điều 7 là BIDV, Agribank và VCB. Nguyên nhân chủ yếu là do: (1) Các NH phải xây
dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để áp dụng phương pháp phân loại này
(2) Phân loại nợ theo định tính sẽ làm tỷ lệ nợ xấu cao gấp 2 – 3 lần so với định lượng
và (3) Bản thân việc phân loại nợ theo định tính cũng gặp phải nhiều điểm bất cập.
Tăng trưởng tín dụng nóng, cùng với chất lượng quản lý tín dụng không tốt của
các NHTM Việt Nam, là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng của nợ xấu trong thời
gian qua. Mặc dù ý thức được điều này, NHNN đã yêu cầu các NHTM hạn chế tăng
trưởng tín dụng quá cao, nhưng trong thực thế tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn luôn ở
mức trên 20% trong 10 năm gần đây. Đặc biệt, tăng trưởng tín dụng lên tới 53,89%
trong năm 2007, 37,73% trong 2009 trước khi hạ nhiệt xuống 27,65% trong 2010. Việc
cho vay ồ ạt trong những năm trước, cộng thêm với sự việc của Vinashin gần đây, đã
để lại nhiều hệ lụy, trong đó có việc gia tăng nợ xấu trong thời gian qua.
Tính đến tháng 6/2011, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ở mức 3,1%, tăng 50
điểm so với hồi cuối năm 2010, trong đó nợ nhóm 5 chiếm tới 47%. Đặc biệt, tỷ lệ nợ
xấu của các NH tại TPHCM lên tới 4,39%. Theo phát ngôn của NHNN, trong trường
hợp xấu nhất, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành có thể lên tới 5% vào cuối năm. Nếu trường hợp
này xảy ra, nợ xấu của 2011 thậm chí cao hơn rất nhiều so với mức 3,5% của năm bắt
đầu khủng hoảng 2008, và cũng là mức cao nhất từ 2003 đến nay
Biểu đồ 19: Tỷ lệ nợ xấu hệ thống Biểu đồ 20: Tỷ lệ nợ xấu một số NH
ngân hàng năm 2010
2.3 Vận dụng mô hình SWOT để xác định ưu thế cạnh tranh của NHTMVN
Việt Nam đã thành viên của WTO, môi trường kinh doanh của các ngân hàng
trong nước có sự thay đổi lớn, bởi chúng ta phải thực hiện những cam kết quốc tế theo
lộ trình ký kết. Đã và sẽ có nhiều NHNHg được phép hoạt động tại thị trường Việt
Nam trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng trong nước. Với sự thay đổi
đó, nhìn dưới góc độ đa chiều, ngành NHVN cũng được hưởng nhiều cơ hội cũng như
thách thức đối với hệ thống NH Việt Nam. Tận dụng những lợi thế sẵn có cũng như cơ
hội có được từ hội nhập, vượt qua những thách thức và khó khăn, ngành ngân hàng đã
và đang làm gì để thành công trong "sân chơi" mới này?
2.3.1 Những lợi thế
2.3.1.1 Mạng lưới
Trước hết, điểm mạnh của các ngân hàng trong nước là mạng lưới. Các NHTM
trong nước có một mạng lưới rộng khắp thông qua các chi nhánh và sở giao dịch. Các
NH nước ngoài có hạn chế về mạng lưới hoạt động, nên khả năng tiếp cận khách hàng
khó hơn các NHTMVN.
2.3.1.2 Mối quan hệ khách hàng truyền thống
Thứ hai, các ngân hàng trong nước đã thiết lập được mối quan hệ với các hệ
thống các khách hàng. Mỗi ngân hàng đã có hệ thống khách hàng truyền thống để
chăm sóc và ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ từ nhiều năm. Các NHTM trong nước
gần khách hàng hơn và do đó hiểu khách hàng hơn. Điều này đặc biệt thể hiện ở hiệu
quả của nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, của khả năng huy động vốn từ nhiều nguồn, của
hiệu quả tín dụng trung và ngắn hạn mà đối tượng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn
chiếm một tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu tín dụng của các NH. Sự hiểu biết về khách
hàng bản địa cũng là một lợi thế lớn giúp các ngân hàng có thể phát triển tốt mạng lưới
giao dịch.
2.3.1.3 Nguồn nhân lực mới
Thứ ba, nhờ vào chiến lược thu hút, đào tạo phát triển nhân lực mà ở thời điểm
hiện tại các NHTMVN sở hữu được một lực lượng lao động tương đối đủ về lượng và
đảm bảo về chất trong cả lực lượng nhân sự chủ chốt lẫn nhân sự tác nghiệp. Chiến
lược thu hút nhân sự có thể được thể hiện qua chế độ lương bổng, cơ hội thăng tiến
thông thoáng, linh hoạt; chính sách bán cổ phần ưu đãi cho nhân viên có thể nói là khả
năng thu hút nguồn nhân lực, ngay cả từ các NHNNg vốn được xem là NH có chế độ
lương hấp dẫn nhất.
2.3.1.4 Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định
Thứ tư, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và niềm tin của công chúng vào
NHTMVN ngày càng được nâng cao. Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và chắc chắn
trong những năm qua, lạm phát thấp và môi trường pháp lý thuận lợi cho việc kinh
doanh đã tạo cho các NH thực hiện chức năng trung gian tài chính một cách ổn định.
Nhờ sự ổn định vĩ mô, các NHTMVN có thể huy động ngày càng tăng từ các thành
phần kinh tế và cá nhân phục vụ cho vay tiêu dùng, thương mại, đầu tư, tạo lợi nhuận
và mở rộng mạng lưới hoạt động. Nhờ đó, các NHTMVN có thể huy động vốn dễ dàng
hơn các năm trước, góp phần làm tăng sự vững mạnh và an toàn của hệ thống, nâng
cao năng lực canh tranh.
2.3.2 Những khó khăn
2.3.2.1 Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của các NHTMVN vẫn còn non kém hơn so với khu vực và
quốc tế. Vốn (vốn điều lệ) tuy đã tăng mạnh so với trước đây nhung vẫn còn bé so với
khu vực và thế giới. Khả năng huy động vốn trong nội bộ nền kinh tế thấp, nhất là vốn
trung dài hạn và tiết kiệm nội địa, hầu hết các NHTMVN chưa có chiến lược kinh
doanh hợp lý để có thể vươn ra thị trường quốc tế. Theo dự đoán của VAFI - Hiệp hội
các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam, quy mô trung bình của hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam 5 năm tới chỉ vào khoảng 100 triệu USD/ngân hàng, đây là khoảng cách
rất xa so với mức trung bình 1-2 tỷ USD/ngân hàng ở các nước trong khu vực. Ngoài
ra, hệ thống kế toán kiểm toán ngân hàng vẫn chưa minh bạch, an ninh tài chính trong
ngân hàng còn chưa hình thành rõ nét. Những hạn chế này đòi hỏi các NH phải nhìn
thấy rõ và có những chiến lược và giải pháp cụ thể.
2.3.2.2 Vấn đề công nghệ
Công nghệ hiện đại là yếu tố cần thiết cho việc mở rộng phát triển mạng lưới,
phát triển sản phẩm dịch vụ cũng như công tác bảo mật thông tin NH. Mặc dù các
NHTMVN đã coi trọng và đầu tư nhiều vào công nghệ thông tin nhưng trên thực tế số
lượng các ngân hàng có các chương trình tin học hiện đại cũng còn hạn chế. Các
chương trình này vẫn chưa hoạt động một cách hoàn hảo, đặc biệt là các ngân hàng này
vẫn chưa chú trọng trong việc sử dụng các tiến bộ của hệ thống tin học mới vào công
tác phòng chống rủi ro tín dụng. Trong khi đó các NHNNg vượt khá xa trình độ công
nghệ ngân hàng với hệ thống máy móc thiết bị cũng như những ứng dụng công nghệ
thông tin trong nghiệp vụ ngân hàng.
2.3.2.3 Khả năng đa dạng hóa dịch vụ
Khả năng đa dạng hóa dịch vụ của các NHTMVN vẫn chưa thể so sánh với
NHNNg. Các NHNHg có thể mạnh về cung cấp dịch vụ, trong khi đó các ngân hàng
nội địa chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tín dụng. Theo HSBC, doanh thu từ thanh
toán quốc tế chiếm 1/3 tổng doanh thu của ngân hàng này, khách hàng là các công ty
Việt Nam cách đây 3 năm chỉ chiếm 3%, nay đã chiếm 50% trên tổng số khách hàng
của HSBC, dự đoán 3 năm nữa tăng lên 70%. Các NHTMVN đang nỗ lực phát triển
lĩnh vực dịch vụ nhưng việc ứng dụng các sản phẩm dịch vụ mới như các nghiệp vụ
phái sinh, kinh doanh ngoại hối,… vẫn còn kém hơn các NHNNg.
2.3.2.4 Tâm lý hướng ngoại của khách hàng
Đây là một khó khăn mới mà các NH cần phải chú ý. Đó là trong một cuộc khảo
sát gần đây của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) phối hợp với Bộ Kế
hoạch Đầu tư đưa ra con số bất ngờ, đó là 42% doanh nghiệp và 50% dân chúng được
hỏi đều trả lời rằng họ sẽ lựa chọn vay ở các ngân hàng nước ngoài hơn là các ngân
hàng nội địa khi mà chúng ta mở cửa tài chính. Và kết quả của một cuộc khảo sát khác
thì 50% doanh nghiệp và 62% dân chúng được hỏi cho rằng họ sẽ lựa chọn ngân hàng
nước ngoài để gửi tiền. Lý do là các ngân hàng này có tính chuyên nghiệp cao hơn, thủ
tục đơn giản hơn, dịch vụ tốt hơn và mức độ tin cậy cao hơn.
2.3.3 Những cơ hội
- Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân
hàng, nâng cao năng lực và hiệu quả trong điều hành và thực thi chính sách tiền tệ; đổi
mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá trên cơ sở thị trường, tạo động lực thúc đẩy
sự phát triển của thị trường tiền tệ; áp dụng các thông lệ tốt nhất trong quản trị ngân
hàng, các chuẩn mực về thông tin báo cáo tài chính, các tiêu chí trong phòng ngừa rủi
ro và an toàn hoạt động ngân hàng.
Gia nhập WTO sẽ tạo nên nhiều cơ hội phối hợp chính sách, trao đổi thông tin
và liên kết hành động giữa Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Trung Ương
(NHTW), các tổ chức tài chính đa phương, qua đó nâng cao sự an toàn trong hoạt động
của hệ thống NH Việt Nam và khả năng đối phó với những biến động của thị trường tài
chính, tiền tệ trong và ngoài nước.
- Sân chơi bình đẳng: Hội nhập quốc tế với việc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy cạnh
tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng, các NHTMVN sẽ phải hoạt
động theo nguyên tắc thị trường. Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ thúc đẩy hiệu quả
không chỉ trong huy động, phân bổ các nguồn vốn mà còn hiệu quả kinh doanh của
mỗi ngân hàng.
Mở cửa thị trường tài chính trong nước buộc các NHTMVN phải chuyên môn
hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, nhanh
chóng tiếp cận và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới. Qua đó, khai thác và áp dụng
hiệu quả hơn ưu thế của các loại hình ngân hàng nhằm mở rộng thị phần trên thị trường
tài chính trong nước và quốc tế. Nói cách khác, Các NH Việt Nam được tham gia vào
một “sân chơi” kinh doanh bình đẳng và mang tính chuyên nghiệp cao.
Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, đặc biệt là sau
năm 2010. Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng sẽ
ngày càng giảm và sự bảo hộ sẽ không còn nữa. Các ngân hàng tồn tại bằng chính "đôi
chân và khối óc" của mình. Nhà nước chủ yếu chỉ quản lý ở tầm vĩ mô thông qua cơ
chế chính sách. Chính bối cảnh đó sẽ tạo ra cho các NH Việt Nam sự năng động trong
hoạt động kinh doanh và có thể nói bắt buộc phải năng động để kinh doanh hiệu quả.
Đồng thời đây cũng là cơ hội để các ngân hàng thể hiện năng lực và trình độ của mình.
- Liên kết với NHNNg: Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo các cam kết
song phương và đa phương sẽ là điều kiện tốt để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực
tài chính, đồng thời các công nghệ ngân hàng, các kỹ năng quản lý tiên tiến được các
ngân hàng trong nước tiếp thu thông qua sự liên kết hợp tác kinh doanh. Sự tham gia
điều hành, quản trị các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố
quan trọng để cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh ở các ngân hàng
trong nước.
Các ngân hàng trong nước có nhiều cơ hội hơn nhận được sự hỗ trợ về tư vấn,
đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài.
Các ngân hàng trong nước sẽ có điều kiện tốt hơn để tăng cường về khả năng phòng
ngừa và xử lý rủi ro nhờ áp dụng công nghệ ngân hàng, kỹ năng quản trị và phát triển
sản phẩm mới.
Bên cạnh đó, nhờ có tiến trình hội nhập mạnh mẽ, các NH Việt Nam sẽ có cơ
hội để học hỏi kinh nghiệm, trình độ công nghệ, quản lý từ các NHNHg thường được
đánh giá là mạnh về tài chính, công nghệ và quản trị điều hành. Sự cọ xát trong hoạt
động kinh doanh cũng là cơ hội để các NH Việt Nam nâng mình lên một tầm cao mới.
- Cơ hội mở rộng thị trường nội địa, sản phẩm dịch vụ: Hơn thế nữa, khi Việt
Nam là thành viên của WTO, ngành ngân hàng cũng phát triển theo các ngành dịch vụ
khác. Nhìn vào sự phát triển của hệ thống ngân hàng của một quốc gia người ta có thể
đánh giá được sự phát triển kinh tế của quốc gia đó. Sự phát triển kinh tế và ngân hàng
luôn luôn liên quan với nhau. Ngân hàng là nhóm ngành dịch vụ được đánh giá là có
tác động nhiều nhất khi Việt Nam gia nhập WTO và tất nhiên sự tác động này mang
yếu tố tích cực tức là theo chiều hướng phát triển. Các giao dịch thương mại sẽ tăng lên
nhanh chóng.
Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đến Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Nhận thức
của người dân về việc sử dụng dịch vụ ngân hàng sẽ thay đổi. Theo nguồn của ngân
hàng thế giới (WB), số tài khoản cá nhân mở tại các ngân hàng tăng lên thành chóng.
Số tài khoản cá nhân hiện nay là hơn 6.000 tài khoản. Tuy nhiên, con số này chiếm tỷ
lệ rất nhỏ so với hơn 80 triệu dân Việt Nam. Trong tương lai con số này sẽ lớn hơn rất
nhiều.
Tất cả những yếu tố đó tạo ra cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng sản phẩm dịch
vụ cho ngành ngân hàng. Mở rộng thị trường nước ngoài không chỉ là thị trường trong
nước, sự hội nhập còn tạo ra cho các NHTM Việt Nam cơ hội mở rộng thị trường ra
nước ngoài theo quy định của các cam kết quốc tế. Sự hội nhập tạo điều kiện thuận lợi
cho các tổ chức tín dụng trong nước mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài thông
qua các hình thức cung cấp dịch vụ trong khuôn khổ WTO, đặc biệt là hiện diện
thương mại và cung cấp qua biên giới.
2.3.4 Những thách thức
2.3.4.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước
Hệ thống pháp luật ngân hàng còn thiếu, chưa đồng bộ và một số điểm chưa phù
hợp với thông lệ quốc tế. Hệ thống chính sách, pháp luật ngân hàng còn có phân biệt
đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng, giữa các nhóm ngân hàng, giữa ngân hàng
trong nước và NHNNg, tạo nên sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Những điều đó đặt ra
thách thức sửa đổi nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng thông thoáng theo
nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO.
Hệ thống pháp luật của Việt Nam còn chứa đựng nhiều hạn chế mang tính định
lượng áp dụng đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) trong nước và có những điểm chưa
phù hợp với quy định của GATS và Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Cơ cấu tổ chức
của NHNN chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động có hiệu lực của một hệ thống được
quản lý tập trung thống nhất.
Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng các giao dịch vốn, các luồng chu chuyển vốn sẽ rất
phức tạp làm tăng khả năng rủi ro hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, các công cụ chủ
yếu của chính sách tiền tệ chưa được đổi mới kịp thời, năng lực điều hành chính sách
tiền tệ cũng như giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN vẫn còn hạn chế, sự phối
hợp giữa các bộ, ngành liên quan trong quản lý vĩ mô chưa được chặt chẽ làm cho công
tác quản lý kém hiệu quả.
2.3.4.2 Đối với các ngân hàng thương mại
Sự lớn mạnh về năng lực tài chính của các NHNNg
Gia nhập WTO đồng nghĩa với sự gia tăng áp lực cạnh tranh từ phía các
NHNHg với năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ, trình độ quản lý và hệ thống sản
phẩm đa dạng, có chất lượng cao hơn và có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách
hàng. Hội nhập đồng nghĩa với việc xóa bỏ hoàn toàn hàng rào bảo hộ từ phía Nhà
nước. Tất các cả ngân hàng trong và ngoài nước đều tham gia trên một “sân chơi” kinh
doanh bình đẳng.
Các NHNHg thường mạnh về vốn, công nghệ tiến tiến, sản phẩm dịch vụ đa
dạng trong khi đó ngân hàng chúng ta tiềm lực vốn vẫn còn nhỏ bé, sản phẩm dịch vụ
đơn điệu, chủ yếu là những sản phẩm dịch vụ truyền thống, trình độ quản trị còn nhiều
bất cập. Trong quá trình hội nhập, lợi thế tìm tàng sẽ thuộc vào nhóm NHNHg và sức
ép cạnh tranh sẽ ngày càng lớn đối với các NHTM trong nước.
Các NHTM Việt Nam sẽ gặp khó khăn rất lớn do đồng thời phải hướng các hoạt
động ra thị trường bên ngoài và đồng thời phải cạnh tranh với các NHNHg tham gia
vào thị trường Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam mới chỉ đề cập đến một vài nội dung
của chính sách cạnh tranh, chưa có chính sách thống nhất để quản lý có hiệu quả hoạt
động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và hầu như chưa chú ý đến việc nghiên cứu
xây dựng chính sách nhà nước đối với cạnh tranh ngân hàng. Các ngân hàng chưa chú
trọng phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, công nghệ chưa được coi là công cụ
hàng đầu để nâng sức cạnh tranh, dịch vụ cung cấp vì thế còn nghèo nàn, thiếu an toàn.
Đồng thời, hệ thống ngân hàng đứng trước khó khăn trong việc chuyển đổi sang
áp dụng các chuẩn mực về an toàn theo thông lệ quốc tế như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu,
trích lập dự phòng rủi ro, phân loại nợ theo chuẩn mực kế toán quốc tế.
Sự xâm nhập ngày càng sâu rộng của NHNNg
Sự xâm nhập của các NHNNg và Việt Nam được thực hiện qua 2 hình thức, đó
là đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thông qua thành lập các chi nhánh ngân hàng 100%
vốn nước ngoài, thành lập chi nhánh NH nước ngoài tại Việt Nam,… và kế đến là đầu
tư gián tiếp dưới hình thức mua cổ phần ở các NH trong nước, trở thành những đối tác,
cổ đông chiến lược của các NH trong nước.
Hình thức đầu tư trực tiếp sẽ đảm bảo cho các NHNNg có được sự phát triển
bền vững trong dài hạn nhờ vào những cam kết mở cửa của ngành tài chính ngân hàng
Viêt Nam. Nhờ đó, các NHNNg có thể thâm nhập sâu hơn vào các lĩnh vực cung cấp
sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là từ sau năm 2010.
Việc góp vốn mua cổ phần của các NHNNg vào Việt Nam hiện nay vẫn còn ở
mức bị khống chế như tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của một tổ chức nước ngoài là 10%
tổng số cổ phần, và tất cả cổ đông nước ngoài sở hữu không quá 30%; giới hạn 10%
được nâng lên 15% đối với đối tác chiến lược và là 20% nếu có sự đồng ý của Thủ
Tướng Chính Phủ. Hiện tại với những giới hạn trên, các đối tác nước ngoài vẫn chưa
thể kiểm soát được các NH trong nước. Nhưng điều này có khả năng thay đổi khi mà
chúng được gỡ bỏ từ sau năm 2010. Khi các giới hạn khi gia nhập WTO được gỡ bỏ
hoàn toàn, nguy cơ có thể xảy ra là các NHNNg sẽ là người thôn tính chi phí các NH
trong nước và trở thành những ông chủ thật sự của một số NH thương mại trong nước
hiện nay.
Nhận xét:
Qua việc phân tích hiện trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM cũng như qua
việc phân tích mô hình SWOT, thì có thể khẳng định là các NHTMVN đã sẵn sàng cho
hội nhập kinh tế quốc tế với những lộ trình cam kết hay chưa? Có thể nói rằng các
NHTMVN vẫn còn đang ở giai đoạn đầu cho cuộc hội nhập, cuộc cạnh tranh khốc liệt
với các NHNNg mới thực sự diễn ra từ năm 2010. Đối với một số những NHTMCP
lớn như ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank, Vpbank, và gần đây có VIB
bank thì không thể phụ nhận rằng họ đã có một sự chuẩn bị khá tốt để đón đầu hội
nhập thông qua việc tăng năng lực tài chính, tăng năng lực công nghệ, nhân sự, phát
triển mạng lưới,… cộng với điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định hiện nay, hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng khá vững vàng.
Tuy nhiên, trong tương quan so sánh với NHNNg về mặt năng lực tài chính
cũng như những kinh nghiệm kinh doanh trên trường quốc tế,… nói chi đến các
NHTMVN có quy mô nhỏ mà ngay cả các NHTMVN có quy mô khá lớn kể trên cũng
không thể so sánh được. Ngoài ra, liệu các NHTMVN có thể vượt qua được những rào
cản khi mà điều kiện kinh tế vĩ mô có thể thay đổi trong tương lai không,…
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Bên cạnh thể hiện những khai lược về tình hình hoạt động kinh doanh của các
NHTM, chương 2 đã tập trung đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM
trong quá trình hội hập quốc tế. Qua đó, luận văn cũng rút ra những lợi thế cũng như
yếu điểm của khối NHTM này, đồng thời cũng phân tích những cơ hội và thách thức
mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Trong xu thế phát triển mới, định hướng phát
triển của khối NHTM cũng được phân tích sâu sắc để có thể định ra những hướng đi
đúng đắn.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC
NHTM VIỆT NAM
3.1 Định hướng phát triển ngành ngân hàng Việt Nam
3.1.1 Quy mô tài sản
Tài sản ngành NH Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao trong giai đoạn 2010 -
2050, tỷ trọng tài sản của ngành NH Việt Nam so với toàn thế giới sẽ tăng từ 0,2%
trong 2009 lên 1,4% trong 2050, đồng thời tốc độ tăng trưởng tài sản trung bình hàng
năm trong giai đoạn 2010 – 2050 của ngành NH Việt Nam dự báo đạt 9,3%, cao hơn
nhiều nước tại Châu Á như Indonesia, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản và ngang
bằng với Ấn Độ. Việc tăng trưởng nhanh về qui mô tài sản của ngành NH Việt Nam
trong những năm tới một mặt cho thấy triển vọng phát triển tốt của ngành nhưng mặt
khác cũng đòi hỏi việc nâng cao chất lượng quản lý tài sản để có thể đạt được khả năng
sinh lời tương ứng với qui mô đó
Biểu đồ 21: Dự báo tỷ trọng tài sản ngành NH; Biểu đồ 22: Dự báo tốc độ tăng tài
so với toàn thế giới trong 2050 sản trung bình hàng năm giai đoạn 2010-2050
3.1.2 Tăng trưởng tín dụng
Tăng trưởng tín dụng sẽ được duy trì ở mức thận trọng: Thực tế những gì đang
diễn ra trong 2010 cho thấy việc tăng trưởng tín dụng nóng và kiểm soát chất lượng các
khoản vay không tốt là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng lạm
phát và bong bóng tài sản như hiện nay. Do đó, bắt đầu từ 2011 NHNN đã hạn chế tốc
độ tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là với một số ngành có độ rủi ro cao nhằm khắc phục
tình trạng trên. Chúng tôi cho rằng, trong những năm tiếp theo, NHNN sẽ tiếp tục thận
trọng với chính sách tín dụng chung của toàn ngành và không để xảy ra tình trạng tăng
trưởng nóng như trong những năm vừa qua.
3.1.3 Sự tăng trưởng mạnh của khối ngân hàng nước ngoài
Năm 2011 sẽ là năm đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của khối NH nước
ngoài khi được đối xử bình đằng như các NHTM trong nước. Mặc dù chưa thể tăng
ngay thị phần tín dụng và huy động trong ngắn hạn do mạng lưới hoạt động còn khiêm
tốn, nhưng việc không bị hạn chế về huy động tiền gửi sẽ là cơ sở để khối này mở rộng
hoạt động kinh doanh của mình và tiếp cận với nhiều phân khúc khách hàng hơn. Dẫn
đầu trong khối này sẽ là các NH đã có mặt từ lâu và am hiểu thị trường Việt Nam như
HSBC, ANZ và Standard Chartered.
Cạnh tranh gay gắt từ khối NH nước ngoài sẽ buộc các NH trong nước phải tiếp
tục cải thiện về công nghệ, quản trị doanh nghiệp và tính minh bạch. Lợi thế về công
nghệ chính là nền tảng để các NH nước ngoài cung cấp được các sản phẩm, dịch vụ
tinh vi và hữu dụng hơn, từ đó phát triển mạnh mảng ngân hàng bán lẻ và đạt được
biện lợi nhuận cao hơn so với các NH trong nước. Trong đó, phát triển dịch vụ thẻ là
một trong những mũi nhọn của mảng kinh doanh này.
Theo đánh giá của NHNN, trong năm 2010 có tới 80 – 85% giao dịch bằng tiền
mặt bởi được thực hiện bởi các khách hàng cá nhân, trong khi giao dịch bằng thẻ chỉ
chiếm khoảng 5%. Nguyên nhân được lý giải là do sự đầu tư chưa đúng mức của các
NHTM trong nước vào hệ thống ATM và POS. Tuy nhiên, cuối năm 2010, Banknet và
Smartlink, hai liên minh thẻ lớn nhất tại Việt Nam đã kết nối liên thông mạng ATM và
POS cho các NH thuộc 2 hệ thống, đồng thời Banknet và VNBC (CTCP Thẻ thông
minh Vina) cũng đã kết nối liên thông hệ thống POS vào tháng 11/2010. Chúng tôi cho
rằng đây là một bằng chứng cho thấy các NHTM trong nước đang nỗ lực cải tiến hệ
thống công nghệ của mình, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán thẻ và giao dịch trực
tuyến của khách hàng dưới sức ép cạnh tranh của các NH nước ngoài.
Thông qua việc ban hành Luật TCTD 2010, NHNN cũng đã thể hiện quyết tâm
cải thiện tính minh bạch và khả năng quản trị của các NH trong nước, tập trung vào
việc đẩy mạnh tổ chức quản lý các tổ chức tín dụng nhằm tiến gần hơn với chuẩn quốc
tế. Đồng thời, Thông tư 09 quy định về việc công bố thông tin hiện tại đang được lấy ý
kiến để hoàn chỉnh và thay thế theo hướng mở rộng phạm vi và phân lớp các đối tượng
điều chỉnh. Đây cũng là tiền đề để nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của các
Doanh Nghiệp nói chung và các NH nói riêng trong thời gian tới
Bảng 5: So sánh trung bình một số chỉ số của các NH Việt Nam với các
nước trong khu vực
Bảng 6: Một số chỉ tiêu của các NH trong 2010
3.1.4 Sự chuyên biệt hóa ngày càng sâu sắc, chọn lối đi riêng trên những phân
khúc thị trường nhất định
Do điều kiện nguồn lực về vốn, nhân lực, công nghệ,… của các NHTMCP vẫn
còn hạn chế so với các NHNNg nên nếu đầu tư dàn trãi, không tập trung được nguồn
lực thì hiệu quả cạnh tranh sẽ không cao. Các NH sẽ phải tập trung hơn vào những mũi
nhọn chiến lược của mình vừa để giữ vững thị phần hoặc ưu thế của mình trong từng
phân khúc thị trường nhất định. Các phân khúc thị trường có thể phân theo tính
chất/cấp độ dịch vụ hoặc nhóm khách hàng hoặc lĩnh vực ngành nghề.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế là sự xuất hiện của các loại NH chuyên
biệt như NH thanh toán, NH bán buôn/NH đầu tư, ngân hàng bán lẻ,... Hiện tại một số
NH đã xác định rất rõ hướng đi chiến lược của mình như Seabank hướng đến là 1 NH
đầu tư, Sacombank và Vpbank đều hướng đến là một NH bán lẻ, BIDV và VCB hướng
đến trở thành tập đoàn tài chính đa năng,... trong đó đối với các NHTMCP thì mảng
dịch vụ bán lẻ là phù hợp và hấp dẫn hơn nhưng tính cạnh tranh cũng không kém phần
gay gắt.
3.1.5 Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa và đa dạng hóa sản phẩm, hoạt động dịch vụ
tăng nhanh
Cộng nghệ hiện đai quyết định sức cạnh tranh và đầu tư vào công nghệ là hướng
ưu tiên số 1 nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và tiết kiệm chi phí, tối đa hóa khả năng
xử lý và hiệu quả quản lý nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng. Sự phát triển đa dạng
hóa các dịch vụ NH là tất yếu bởi cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu của
các khách hàng sẽ ngày càng đa dạng hơn, khó tính hơn và chỉ có bằng cách ứng dụng
công nghệ hiện đại mới có thể đáp ứng được những nhu cầu này. Theo thống kê không
chính thức, chỉ riêng lĩnh vực bán lẻ của các NH trên thế giới có tới hơn 3.000 dịch vụ
trong khi các NH Việt Nam mới chỉ đáp ứng được phần rất nhỏ, khoảng 200 dịch vụ.
Đồng thời, các NH này ngày càng chuyên biệt hóa sản phẩm của mình với những gói
sản phẩm dịch vụ riêng cho từng đối tượng khách hàng khác nhau.
Hiện tại các NHTMCP đang rất quyết liệt đi theo hướng này. Techcombank là
NH đầu tiên triển khai dịch vụ thanh toán qua mạng, ACB đã triển khai tín dụng qua
mạng internet… đã chứng tỏ năng lực công nghệ và quản trị hệ thống của các NH này
có tiến bộ vượt bậc.
3.1.6 Củng cố, gia tăng mạng lưới và cạnh tranh nguồn nhân lực chất lượng cao
Trong thời gian qua, nhiều NHTMCP đã có tốc độ phát triển nhân lực khá cao,
từ 30% đến 70% nhờ vào chính sách thu hút, đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong
đó sức hấp dẫn về chế độ đãi ngộ và cơ hội thăng tiến ngày càng được gia tăng trong
khu vực tư nhân này. Tới đây, trong bối cảnh thị trường lao động ngày càng hoàn thiện,
cạnh tranh nguồn nhân lực sẽ tiếp tục gắt gao hơn và sức hút nhân tài không chỉ dừng ở
lương hay cổ phần mà sẽ còn là về nhà ở, hỗ trợ dịch vụ bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe
chất lượng cao, phương tiện đi lại, tín dụng cho nhân viên, du lịch và đào tạo tại nước
ngoài, hỗ trợ dịch vụ gia đình cho nhân viên,....Những vấn đề này đang và sẽ tiếp tục
nóng bỏng, là dấu chấm hỏi lớn đối với các nhà quản lý NH để có thể thu hút và giữ
chân nhân tài.
3.1.7 Tăng nhanh tiến trình quốc tế hóa và nhanh chóng gia nhập làn sóng toàn
cầu hóa, thu hút ngoại lực và vươn ra các nước trong khu vực
Hiện nay, các NH Việt nam đang tăng cường thu hút ngoại lực như vốn, công
nghệ kỹ thuật, nhân lực trình độ cao,... thông qua việc bán một phần vốn cho các đối
tác chiến lược nước ngoài, hợp tác liên kết với với các hãng lớn của nước ngoài nhằm
mở rộng quy mô, nâng cao sức cạnh tranh và gia tăng giá trị của mình thể hiện qua sự
hợp tác quốc tế giữa Sacombank-ANZ, Eximbank-Sumitomo Mitsui (Nhật),
SouthernBank-AmcorpBhd(Malaysia), ACB-StandardCharter, Habubank-Deutche
Bank, Vpbank-OCBC, Techcombank-HSBC,...
Một xu hướng lớn của các NHTMCP Việt Nam là sẽ nhanh chóng đi vào và
bước qua giai đoạn quốc tế hóa, tiến tới hoạt động NH mang màu sắc toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa sẽ xóa nhòa ranh giới địa lý và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn hiện diện
thương mại theo quan niệm của WTO. Trong giai đoạn trước mắt, các NH Việt Nam sẽ
tiến vào thị trường Lào, Campuchia và miền Nam Trung Quốc. Sự khởi sắc Lào-Việt
bank, Việt-Thái, văn phòng đại diện Sacombank tại Trung Quốc,... cùng với tham vọng
niêm yết tại thị trường nước ngoài của ACB, Sacombank,... là dấu hiệu manh nha của
xu hướng này. Trong bối cảnh thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với các nước này
đang tăng nhanh đáng kể thì hợp tác mang tính toàn cầu hóa là một bước đi hoàn toàn
đúng đắn.
3.2 Giải pháp đối với các NHTM
3.2.1 Tăng cường năng lực tài chính theo hướng tăng quy mô vốn điều lệ, đảm bảo
mức an toàn vốn theo chuẩn mực quốc tế và tuân thủ pháp luật ngân hàng Việt Nam.
Theo đó, các NHTM cần xác định một tỷ lệ hợp lý lợi nhuận ròng được sử dụng hằng
năm để tăng vốn điều lệ hoặc có thể tiến hành sáp nhập và mua lại (M&As) các ngân
hàng nhỏ để hình thành nên một ngân hàng có tiềm lực tài chính lớn hơn. Thật vậy,
hoạt động M&As là một trong những phương thức quan trọng để nâng cao năng lực
cạnh tranh của các NHTM nội địa Việt Nam thông qua việc gia tăng giá trị và nâng cao
hiệu quả quản trị rủi ro trước sự cạnh tranh khốc liệt của những tập đoàn tài chính
khổng lồ nước ngoài khi mà Việt Nam đang hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế quốc tế
và thực hiện các cam kết mở cửa thị trường.
Năng lực tài chính của các NHTM nước ta nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số
đều còn là thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính,
các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử
lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng
cạnh tranh và chống rủi ro.
Đối với các NHTM nhà nước, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành
cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt
được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.
Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất,
phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém, không thể
tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu
hồi giấy phép hoạt động.
3.2.2 Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng
Cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng
hiện đại. Hơn nữa, cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế,
nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc
tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán
bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.
3.2.3 Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, phát triển mạng lưới hoạt động bền
vững
Xây dựng và phát triển sản phẩm mới với những tiện tích mới và phong phú
hơn. Thật vậy, phát triển sản phẩm mới là một trong những yếu tố quyết định năng lực
cạnh tranh của NHTM bởi vì suy cho cùng các NHTM cạnh tranh lẫn nhau thông qua
chuỗi các sản phẩm cung ứng của họ. Ngoài ra, sản phẩm dịch vụ ngân hàng không có
tính độc quyền, dễ bị sao chép, vì vậy các ngân hàng chỉ có thể tạo thế mạnh hay sự
khác biệt cho ngân hàng bằng cách sử dụng các dịch vụ cộng thêm. Để nâng cao năng
lực cạnh tranh của sản phẩm, NHTM cần xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm mới
và có sự đầu tư thỏa đáng trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
Ngoài ra, tiếp tục hoàn thiện công nghệ, mở rộng các loại sản phẩm mới trên cơ
sở đảm bảo tính chính xác, kịp thời, bảo mật và an toàn.
Rà soát lại hệ thống kênh phân phối, đầu tư có trọng điểm, có chiến lược dài
hạn, không chạy theo số lượng, tránh tình trạng dư thừa, gây khó khăn cho triển khai
đồng bộ, hiện đại hóa công nghệ, gây sự lãng phí trong giao dịch, chi phí cố định và
nhân sự.
Xây dựng, củng cố và phát triển thương hiệu ngân hàng. Thương hiệu của ngân
hàng khẳng định vị thế của nó trên thị trường. Vị thế của ngân hàng được thể hiện qua
thị phần sản phẩm so với sản phẩm cùng loại, uy tín thương hiệu sản phẩm đối với
khách hàng, sự hoàn hảo của các dịch vụ và được đo bằng thị phần của các sản phẩm
dịch vụ đó trên thị trường. Theo đó, ngân hàng cần cố gắng theo đuổi chiến lược phát
triển thương hiệu riêng, đặc thù gắn với các sản phẩm và thế mạnh riêng có.
3.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, chú trọng hoạt
động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân
hàng hiện đại dựa trên công nghệ hiện đại
Công nghệ ngân hàng nước ta dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn
bị đánh giá là yếu kém. Hiện nay, nhiều ngân hàng đã triển khai các phần mềm hiện đại
với chức năng hoạt động giao dịch trực tuyến (Online), tạo thêm nhiều sản phẩm gia
tăng cho khách hàng trong quá trình giao dịch với ngân hàng. Nhìn chung, các phần
mềm mà một số NHTM đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều
ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển
khai xong, một số bộ phận lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công
nghệ đó.
Cùng với việc hiện đại hoá công nghệ, các NHTM cần có chính sách khai thác
công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa
trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự
đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo sản phẩm đến khách hàng.
Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và
hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra, các NHTM cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thủ
tục vay vốn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng.
Xác định khách hàng mục tiêu, xây dựng chiến lược khách hàng và tăng cường
phát triển mạng lưới
Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn
bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách
hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao
dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng
phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng,
thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.
Các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên việc tạo ra
sự khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lược thu hút tiền gửi, cần xây dựng một hệ
thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử dụng tài
khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo thuận lợi
tối đa cho khách hàng.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh tín dụng cần tạo được quy trình cung cấp linh hoạt
sản phẩm của ngân hàng, đặc biệt đối với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện
cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.
Cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời,
xây dựng chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ
yếu của NHTM, thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp.
3.2.5 Cơ cấu lại khu vực ngân hàng Việt Nam
Thực trạng trên cho thấy, khu vực ngân hàng Việt Nam đang đứng trước yêu
cầu về tái cơ cấu mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, do khu vực ngân hàng là một
cấu phần quan trọng của nền kinh tế nên việc cơ cấu lại cần được nhìn nhận trên
phương diện tổng thể. Do đó, nội dung và trọng tâm cơ cấu lại khu vực ngân hàng Việt
Nam hiện nay không chỉ từ góc độ vi mô (từng ngân hàng) mà cả từ góc độ vĩ mô (Nhà
nước/Chính phủ).
Trước tiên, trên phương diện vĩ mô, vấn đề mục tiêu tăng trưởng kinh tế cũng
cần phải được “cơ cấu lại” theo hướng mới là không nên đặt ra mục tiêu tăng trưởng
kinh tế cao bằng mọi giá mà thay vào đó là một mức tăng trưởng hợp lý, bền vững. Khi
đó áp lực tăng trưởng kinh tế không đè nặng lên hệ thống ngân hàng, làm cho khu vực
này dễ tổn thương và kém hiệu quả. Một số cơ cấu vĩ mô khác cũng cần được cơ cấu
lại để đảm bảo phát triển và tăng trưởng bền vững như cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu
ngành sản xuất, cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngân sách…
Cũng trên phương diện vĩ mô, cần phải cơ cấu lại hệ thống luật pháp tài chính,
ngân hàng. Hiện Luật các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các
quy định khác đang được xem xét sửa đổi một cách cơ bản. Việc cơ cấu lại NHNN
cũng nên được đặt ra theo lộ trình sửa đổi Luật NHNN, để đảm bảo cơ quan này hoạt
động theo đúng chức năng của một ngân hàng trung ương hiện đại. Việc sửa đổi Luật
các tổ chức tín dụng cần đưa vấn đề cải cách quản trị vào một cách tương ứng nhằm cải
cách, chuyển đổi mô hình quản trị tại các NHTM cổ phần theo mô hình quản trị hiên
đại, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, cũng cần tăng cường quản trị, quản lý đối với cả hệ thống ngân hàng
trên phương diện vĩ mô và vi mô. Đến nay, vốn tự có của các NHTM đã được cải thiện
đáng kể (hầu hết các NHTM có tỷ lệ an toàn vốn đạt và vượt 8%). Tuy nhiên vấn đề
quản trị và quản lý đã và đang đặt ra yêu cầu cơ cấu lại. Vấn đề quản trị cần được cải
thiện để đảm bảo các NHTM cổ phần hoạt động theo đúng nguyên tắc của một công ty
cổ phần và công ty đại chúng: chế độ công bố thông tin, báo cáo tài chính; quyền của
các cổ đông nhỏ lẻ; vấn đề chuyển đổi NHTMNN sau cổ phần hóa sang công ty cổ
phần thực sự… Về mặt quản lý, cải thiện quản lý rủi ro thanh khoản (như hệ thống
ALCO) cần được đặt ra như một yêu cầu bắt buộc đối với các NHTM hiện nay để đảm
bảo các NHTM có thể chịu đựng được các cú sốc...
Về phương diện vi mô, các ngân hàng cần tiến hành cơ cấu lại thị trường, sản
phẩm và cơ cấu tài sản cho phù hợp với năng lực quản lý của mình, đảm bảo phát triển
hiệu quả và bền vững. Với cơ cấu tài sản và sản phẩm như hiện nay, hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam rất dễ bị tổn thương (như năm 2008). Đối với các NHTM
Nhà nước vừa mới cổ phần hóa cần tập trung cải thiện quản trị tại ngân hàng này theo
chuẩn quốc tế vì nơi đây tập trung nguồn lực lớn của Nhà nước, coi đây là hình mẫu về
quản trị ngân hàng hiện đại ở Việt Nam.
3.2.6 Nâng cao chất lượng tín dụng
Xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng
Để nâng cao chất lượng tín dụng, các NHTMCP cần xây dựng riêng cho mình
một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng, chủ yếu bao gồm:
- Xác lập mục tiêu tín dụng trong đó mức độ rủi ro từ hoạt động tín dụng phải
đo lường được. Đồng thời, chất lượng của dự nợ tín dụng nội bảng và ngoại
bảng đặc biệt coi trọng trong hoạt động tín dụng của NHTMCP.
- Xây dựng chiến lược quản lý rủi ro tín dụng
- Xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng
- Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng có hiệu lực bao gồm bộ phận
quản lý tín dụng và bộ phận kiểm soát nội bộ.
- Thực hiện giám sát và quản lý rủi ro, trong đó bao gồm: (1) Nhận biết rủi ro
trong hoạt động tín dụng và xác định các biện pháp hạn chế; (2) Đo lường rủi ro; (3)
Giám sát và quản lý rủi ro trước cho vay, trong đó coi trọng công tác hoạch định kinh
doanh và nghiên cứu thị trường; chức năng thẩm định cần được tách biệt; công tác tập
trung phê duyệt tín dụng.
- Quản lý và giám sát rủi ro tín dụng trong và sau cho vay, bao gồm: (1)
Kiểm tra và lưu trữ hồ sơ tín dụng; (2) Kiểm tra sau cho vay; (3) Đo lường mức độ tập
trung/phân tán trong danh mục các khoản cấp tín dụng
- Xây dựng biện pháp phòng ngừa từ xa
Biện pháp xử lý nợ xấu
Nợ xấu cũng là yếu tố phản ánh chất lượng tín dụng. Hiện nay tình trạng nợ xấu
và vấn đề xử lý nợ xấu vẫn luôn thật sự gian nan đối với các NHTM Việt Nam nói
chung và các NHTMCP nói riêng. Việc xử lý nợ xấu, lành mạnh hoá tình hình tài
chính tại các NHTMCP cũng cần phải được đặc biệt quan tâm.
Tuỳ vào đặc điểm của từng giao dịch, của từng NH, có thể có nhiều phương
pháp khác nhau. Sau đây là một số biện pháp xử lý
3.2.7 Liên doanh liên kết với các ngân hàng nước ngoài
Xu hướng tìm kiếm đối tác để hợp tác chiến lược giữa các NHTM Việt Nam và các
ngân hàng nước ngoài cũng là hình thành và có xu hướng phát triển nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh. Việc khuyến khích và mở rộng việc tham gia của các ngân hàng
nước ngoài, tập đoàn tài chính quốc tế, các tập đoàn lớn trong nước, mua cổ phần, trở
thành cổ đông chiến lược của các NHTMCP của Việt Nam là hết sức cần thiết, để thúc
đẩy cải cách hơn nữa và minh bạch thực sự các hoạt động quản lý, hoạt động kinh
doanh của khối ngân hàng thương mại này. Thời gian qua có không ít sự lo lắng trong
dư luận về sức ép cạnh tranh trên thị trường dịch vụ tài chính tiền tệ khi Việt Nam thực
hiện đầy đủ các cam kết của Hiệp định thương mại Việt Mỹ và cam kết của WTO.
Nhiều người lo ngại cho rằng các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ bị cạnh tranh
mạnh mẽ và gặp nhiều khó khăn khi các ngân hàng nước ngoài ồ ạt đến Việt Nam.
Song trong thực tế thì không thể không diễn ra một chiều như vậy. Để mở rộng kinh
doanh tại Việt Nam, các tập đoàn tài chính – ngân hàng nước ngoài đã và đang tăng
cường hợp tác, liên doanh, liên kết với các ngân hàng và các tổ chức tài chính của Việt
Nam. Đồng thời các ngân hàng, công ty chứng khoán... của Việt Nam cũng chủ động,
sẵn sàng và nhạy bén, thực hiện nhiều sự hợp tác có hiệu quả. Đây cũng chính là giải
pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế, chứ không chỉ
hiểu cạnh tranh là sự thôn tính, chèn ép lẫn nhau.
3.3 Kiến nghị với Chính phủ và Ngân hàng nhà nước
3.3.1 Về phía Chính phủ
Trước hết cần cải cách Doanh nghiệp nhà nước, tạo ra sân chơi bình đẳng hơn
cho các doanh nghiệp. Việc bảo hộ cho khu vực DNNN là nguyên nhân chính gây ra
nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ xấu tại các NHTM nhà nước cao. Chính vì vậy, nếu không
kiên quyết đẩy mạnh tiến trình cải cách DNNN thì việc cải thiện năng lực cạnh tranh
của nền kinđộh tế nói chung và các NHTM nói riêng sẽ khó thực hiện.
Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ ban hành Luật
Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đưa luật này trở thành công cụ để Chính phủ kiểm
soát họat động cạnh tranh.
Thứ ba, thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài
chính. Tự do hoá tài chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện cải cách
cơ cấu và tự do hoá thương mại. Nếu có được lộ trình hội nhập tài chính thích hợp sẽ
đảm bảo hệ thống tài chính hội nhập hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh mà không bị
vướng vào các dạng khủng hoảng tài chính - ngân hàng khác nhau.
Thứ tư, khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện
hoạt động của thị trường chứng khoán, xác định cụ thể lộ trình mở cửa thị trường tài
chính - ngân hàng.
3.3.2 Về cải cách hệ thống NHNN
3.3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng
Cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam cần tiến hành sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện hệ thống pháp luật ngân hàng như sau:
Sửa đổi Luật NHNN, Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác
có liên quan để đảm bảo NHNN Việt Nam trở thành ngân hàng trung ương hiện đại,
tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động
kinh doanh. Hai luật này đang trong quá trình dự thảo, dự kiến
Xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung các quy định pháp luật ngân hàng về cấp phép
hiện diện thương mại, về tổ chức, hoạt động, quản trị, điều hành của các tổ chức tín
dụng kể cả trong và ngoài nước hướng tới nguyên tắc không phân biệt đối xử, phù hợp
với các cam kết và lộ trình gia nhập WTO, các quy định pháp luật cần tuân thủ nguyên
tắc minh bạch hoá và có thể dự báo.
Rà soát danh mục các dịch vụ tài chính - ngân hàng theo Phụ lục về dịch vụ tài
chính – ngân hàng của GATS để xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định, đảm bảo
các tổ chức tín dụng được thực hiện đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng theo GATS và thông lệ quốc tế;
Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý cho các mô hình tổ chức tín dụng mới, các
tổ chức có hoạt động mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức tín dụng
(công ty xếp hạng tín dụng, công ty môi giới tiền tệ) nhằm phát triển hệ thống các tổ
chức tín dụng. Các Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính,
công ty tài chính sẽ được ban hành mới thay thế cho các văn bản pháp quy cũ về vấn
đề này
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối, cải cách hệ thống kế toán ngân
hàng phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế. Hoàn thiện các quy định về thanh toán
không dùng tiền mặt; và tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các nghiệp vụ và dịch
vụ ngân hàng mới (quản lý ngân quỹ, quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ uỷ thác,
các sản phẩm phái sinh, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thuê mua tài chính…).
3.3.2.2 Nâng cao năng lực của NHNN về điều hành chính sách tiền tệ
Trong điều kiện mở cửa dịch vụ ngân hàng, NHNN cần nâng cao năng lực xây
dựng và thực thi chính sách tiền tệ thông qua những biện pháp dự kiến được triển khai
từ nay đến năm 2010 như sau:
Thành lập Ban Điều hành thị trường tiền tệ để tăng cường sự thống nhất, phối
hợp giữa các Vụ, Cục trong điều hành CSTT;
Hoàn thiện các cơ chế điều hành các công cụ CSTT nhằm nâng cao hiệu quả
điều tiết tiền tệ của từng công cụ, tăng cường vai trò chủ đạo của nghiệp vụ thị trường
mở trong điều hành CSTT; gắn điều hành tỷ giá với lãi suất; gắn điều hành nội tệ với
điều hành ngoại tệ; nghiên cứu, lựa chọn lãi suất chủ đạo của NHNN để định hướng và
điều tiết lãi suất thị trường;
Phát triển thị trường tiền tệ an toàn hiệu quả, tạo cơ sở quan trọng cho việc tiếp
nhận và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế;
Nâng cấp và đồng bộ hóa máy móc thiết bị, chương trình phần mềm ứng dụng
nối mạng các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ và đấu thầu tín phiếu, trái phiếu
chính phủ qua NHNN;
Tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối theo hướng kiểm
soát có chọn lọc các giao dịch vốn (Việt Nam đã tự do hoá hoàn toàn đối với giao dịch
vãng lai), giảm dần tình trạng đô-la hoá, cho phép các tổ chức và cá nhân được tham
gia rộng rãi hơn vào các giao dịch hối đoái, kể cả các nghiệp
vụ phái sinh;
Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ ngành theo hướng hiện đại hoá, đảm bảo
nắm bắt kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin về tiền tệ, tín dụng, tăng cường phối hợp
trao đổi thông tin với các Bộ, Ngành để phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ;
Tăng cường vai trò công tác thống kê, nâng cao năng lực thu thập tổng hợp
thông tin trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và cán cân thanh toán phục vụ
xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia; và
Đổi mới một cách căn bản công tác dự báo và xây dựng CSTT hàng năm theo
hướng áp dụng mô hình kinh tế lượng vào phân tích dự báo và lượng hóa các mục tiêu
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ; Nâng cao năng lực phân tích và dự báo tiền tệ, dự
báo lạm phát.
3.3.2.3 Nâng cao năng lực của NHNN về thanh tra, giám sát ngân hàng
Cấu trúc lại mô hình tổ chức và chức năng hệ thống thanh tra theo chiều dọc
gồm cả 4 khâu: cấp phép và các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, giám sát từ
xa, thanh tra tại chỗ, xử lý vi phạm.
Hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ
quốc tế, đồng thời đảm bảo việc tuân thủ các quy định này; ban hành quy định mới về
đánh giá xếp hạng TCTD;
Xây dựng khuôn khổ, quy trình và phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ
sở rủi ro; xây dựng sổ tay thanh tra tại chỗ các TCTD Việt Nam để các thanh tra viên
sử dụng như cẩm nang thanh tra, giám sát; thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để phát
hiện các TCTD đang gặp khó khăn thông qua giám sát thiết lập hệ thống cảnh báo sớm
để phát hiện các TCTD đang gặp khó khăn thông qua giám sát từ xa và xếp hạng
TCTD; và
Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam và
Trung tâm Thông tin Tín dụng trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng
nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các TCTD và hoạt động giám sát rủi ro của
NHNN đối với các TCTD.
Ngoài ra, NNHH đẩy mạnh công tác phổ biến thông tin, tuyên truyền về Hội
nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực
ngân hàng
Thông qua các hình thức khác nhau như tổ chức các buổi họp báo, thuyết trình,
cung cấp thông tin cho báo chí... để phổ biến, giải thích các cam kết gia nhập WTO về
lĩnh vực dịch vụ ngân hàng trong hệ thống NHVN, bao gồm NHNN và hệ thống các tổ
chức tín dụng Việt Nam từ trung ương tới địa phương.
Định kỳ công bố các chương trình, kế hoạch hành động của ngành liên quan tới
việc thực thi các cam kết song phương và đa phương.
3.3.2.4 Cần xác định rõ ràng ranh giới của cạnh tranh
“Theo cam kết gia nhập WTO thì quá trình liên kết, sáp nhập chắc chắn sẽ xảy
ra quyết liệt hơn trong vòng 5-10 năm tới. Trường hợp một ngân hàng nước ngoài vừa
có chi nhánh vừa mua cổ phần của một ngân hàng và việc cho phép ngân hàng 100%
vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam sẽ tạo ra cùng lúc một ngân hàng có 3
hình thức hiện diện. Đó là quan hệ giữa chi nhánh, quan hệ ngân hàng mua cổ phần tại
một ngân hàng hay nhiều ngân hàng và quan hệ đối với ngân hàng 100% vốn nước
ngoài.
Vấn đề đặt ra rất lớn là xử lý mối quan hệ giữa các ngân hàng trong vấn đề cạnh
tranh như thế nào? Ngay cả quan hệ giữa các ngân hàng trong nước, giữa các ngân
hàng cổ phần và giữa các ngân hàng quốc doanh với ngân hàng cổ phần thì tỉ lệ sở hữu
giữa các ngân hàng với nhau ra sao cũng đang được đặt ra.
Ví dụ như một ngân hàng sở hữu 10% cổ phần của ngân hàng khác, thậm chí 20-30%
thì rõ ràng xuất hiện xu hướng hai ngân hàng đó hình thành sự liên kết và chia sẻ thị
trường và cũng là thống lĩnh thị trường chứ không còn là cạnh tranh nữa. Đó là những
vấn đề NHNN đang rất quan tâm để xây dựng một khung pháp lý mối quan hệ giữa các
tổ chức tín dụng khác nhau trong bối cạnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh.
Thực tế, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước trong xử lý các hành vi cạnh
tranh là cần thiết nhưng để áp dụng vào điều kiện hiện tại của Việt Nam cũng còn phụ
thuộc vào quá trình phát triển khuôn khổ pháp lý và thể chế. Ví dụ như hình thức sáp
nhập ngân hàng giữa các nước EU vẫn xảy ra hàng ngày. Trong khi đó ở Việt Nam hầu
như không có hoặc rất ít và mất nhiều thời gian. Ngay cả việc xét thế nào là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh cũng phải cân nhắc.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 khép lại với những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
các NHTM trong xu thế hội nhập. Những giải pháp được nêu trên dù chỉ mang tính
khái quát, chưa thật sự đi sâu vào từng giải pháp cụ thể. Đó là những nền tảng cơ bản
cho những định hướng phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt
Nam trong xu thế hội nhập.
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tất yếu và bắt buộc đối với Việt Nam trên
bước đường phát triển. Chúng ta đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội kinh tế trên
thế giới như ASEAN, ASEM, APEC, Hiệp định thương mại Việt Mỹ và nhất là WTO.
Hội nhập sẽ mở ra cho chúng ta không ít những cơ hội nhưng cũng đầy cam go và
thách thức. Ngành ngân hàng nói chung cũng không thoát khỏi xu thế đó. Với điểm
xuất phát điểm thấp, vừa trải qua một quá trình cơ cấu và sắp xếp lại, dù đã có những
thành công nhất định, nhưng nhìn chung những yếu tố mang tính nền tảng của cạnh
tranh vẫn còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu của ngành ngân hàng hiện đại.
Trong giai đoạn hội nhập, cạnh tranh được xem là tất yếu là sự sống còn của mỗi
tổ chức, để vươn ra thị trường nước ngoài, các NHTM Việt Nam thực sự còn phải có
nhiều nỗ lực trong việc củng cố, nâng cao năng lực tài chính, nâng cao trình độ quản lý
và chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng các công nghệ hiện đại để phát triển đa dạng
sản phẩm dịch vụ và đẩy mạnh xây dựng thương hiệu của mình hướng ra nước ngoài.
Với sự giới hạn về nhiều mặt, bản thân tác giả cũng chỉ đưa ra một số giải pháp
mang tính khái quát để hoàn thiện và nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của các
NHTM Việt Nam trên cơ sở những điểm mạnh, điểm yếu, những thời cơ và thách thức
trong mối tương quan về “sức” giữa các ngân hàng trong nước, cùng với những xu thế
mới của hội nhập mà các ngân hàng sẽ và phải hướng đến để tạo dựng vị thế trên thị
trường.
Dù đã rất cố gắng để hoàn thiện tốt nghiên cứu của mình. Nhưng, đề tài chắc chắn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý của quý Thầy, Cô để đề tài
luận văn được tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước.
2. Báo cáo thường niên của VCB, BIDV, VPBannk, ACB…
3. Lê Văn Tư, Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, NXB Thanh niên, 2009
4. Nguyễn Văn Bình: “Đổi mới thanh tra NH theo kịp thời đại”. Kỷ yếu Hội thảo
NHNN – Uỷ Ban Kinh tế & Ngân sách của Quốc Hội: vai trò của hệ thống NH trong
20 năm đổi mới ở Việt nam.
5. Phạm Thanh Bình: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam
trong điều kiện hội nhập KTQT”. Kỷ yếu Hội thảo NHNN – Uỷ ban kinh tế & ngân
sách của Quốc Hội: vai trò của hệ thống NH trong 20 năm đổi mới ở Việt nam.
6. Phân tích Công ty cổ phần chứng khoán VCBS (2010)
7. Website Hiệp Hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA)
Tiếng Anh
1. A. Ambastha and K. Momaya (2004); “Competitiveness of Firms: Review of
theory, frameworks and models”; Singapore Management Review,
2. Cristian Marzavan và Mihaela Gaman (2009), The impact of financial crisis on the
universal bank model.
2. De Carmoy, H. (1990); Global Banking Strategy, Oxford: Basil Blackwell.
3. Heffernan S. (2005); Modern Banking; John Wiley & Sons Ltd. London.
4. Michael E. Porter: “ The competitive advantage of nations “, The Free Press, 1990.
5. Porter. Michael (1990); The Competitive Advantage of Nations. London