VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN THỊ PHƯỢNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA DI SẢN
THỪA KẾ LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN THỊ PHƯỢNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA DI SẢN
THỪA KẾ LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI NGỌC CƯỜNG
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi
với sự hướng dẫn khoa học của TS. Bùi Ngọc Cường, tất cả các tài liệu đã
được công bố đầy đủ, nội dung của Luận văn là trung thực.
Học viên
Phan Thị Phượng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và nghiên cứu đề tài luận văn
này, tôi xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy nhiệt tình của các thầy giáo, cô
giáo – Học viện khoa học xã hội.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành đến thầy giáo
hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Ngọc Cường, người đã dành nhiều thời gian,
tâm huyết tận tình hướng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu, hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong Hội đồng chấm luận
văn đã dành nhiều thời gian và công sức chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình
hoàn thành luận văn này.
Học viên
Phan Thị Phượng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ..... 7
1.1. Khái quát tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng
đất .................................................................................................... 7
1.2. Pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất .................................................................................... 18
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp về chia di
sản thừa kế là quyền sử dụng đất .................................................. 24
Chương 2: PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA
DI SẢN THỪA KẾ LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI
NGUYÊN .............................................................................................. 29
2.1. Nội dung cơ bản pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di sản
thừa kế là quyền sử dụng đất ........................................................ 29
2.2. Thực tiễn hoạt động xét xử tranh chấp về chia di sản là quyền
sử dụng đất tại Tòa án Nhân dân tỉnh Thái Nguyên ..................... 49
2.3. Những kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại trong giải quyết
tranh chấp về chia di sản là quyền sử dụng đất ............................ 54
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAOHIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT .................................................................................... 61
3.1. Yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật giải quyết tranh chấp
về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất ................................. 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di
sản thừa kế là quyền sử dụng đất .................................................. 63
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết tranh
chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất ......................... 66
KẾT LUẬN .......................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 73
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật dân sự
BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự
QSDĐ Quyền sử dụng đất
TAND Tòa án Nhân dân
UBND Ủy ban Nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thừa kế là một trong những hình thức chuyển giao tài sản lâu đời, xuất
hiện gần như ngay sau khi con người bắt đầu có sự chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Hiện nay, thừa kế đã trở thành quyền con người được pháp luật
bảo vệ. Trước tiên, đây là quyền mang tính Hiến định: “Quyền sở hữu tư
nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”[16].Thừa kế tài sản là một
chế định pháp luật quan trọng trong Bộ luật dân sự Việt Nam 2015 (BLDS),
thể hiện sự bảo hộ của Nhà nước đối với quyền sở hữu tài sản riêng của cá
nhân. Di sản thừa kế của công dân được để lại rất phong phú về chủng loại,
đa dạng về tính năng sử dụng bao gồm: động sản, bất động sản (BĐS). Theo
quy định của pháp luật Việt Nam, quyền sử dụng đất (QSDĐ) cũng được xác
định là di sản thừa kế khi người sử dụng đất (người SDĐ) chết. Tính nhân
văn trong các quy định về thừa kế QSDĐ thể hiện nước ta là quê hương của
nghề trồng lúa nước truyền thống,đã bao đời nay, con người Việt Nam gắn
bó máu thịt với mảnh đất canh tác, họ sinh ra lớn lên và trưởng thành từ chính
mảnh đất đó. Cha mẹ nuôi dưỡng con cái, lớn lên con cái có nghĩa vụ phụng
dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ cũng chính từ mảnh đất này. Vì vậy, việc
pháp luật công nhận thừa kế QSDĐ là sự ghi nhận truyền thống mang đậm
tính nhân văn tốt đẹp của người Việt Nam, đó là đất đai được chuyển giao từ
thế hệ này sang thế hệ khác tiếp tục sử dụng, là sự tiếp nối truyền thống cần
cù, chăm chỉ lao động của người nông dân và đảm bảo cho đất đai được sử
dụng ổn định, liên tục, lâu dài và có hiệu quả, tránh gây xáo trộn trong quá
trình SDĐ.
Trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu, chế định về thừa kế QSDĐ được xây dựng và hoàn thiện. Luật đất
đai 2013 có các quy định về quyền thừa kế QSDĐ. Tiếp đó, BLDS năm 2015
1
cũng dành một chương đề cập về thừa kế QSDĐ dưới góc độ quyền tài sản
tư của cá nhân.
Tuy nhiên hiện nay cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh
tế, đất đai ngày càng trở nên có giá trị và người dân nhận thức được sâu sắc
về giá trị của đất dẫn đến việc thừa kế QSDĐ cũng phát sinh nhiều tranh
chấp, khiếu kiện phức tạp. Hậu quả của tranh chấp về chia di sản thừa kế là
QSDĐ để lại rất nặng nề, không chỉ phá vỡ sự ổn định, không khí hòa thuận,
đầm ấm trong gia đình, gây ra sự mâu thuẫn, mối bất hòa giữa anh chị em
ruột, họ hàng với nhau mà còn lôi kéo cả gia đình, dòng họ lao vào cuộc
chiến pháp lý kéo dài… Để khắc phục những tồn tại, bất cập và nâng cao
hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp chia di sản thừa
kế là QSDĐ tại TAND tỉnh Thái Nguyên thì cần phải có sự nghiên cứu, đánh
giá một cách đầy đủ, hệ thống, toàn diện về vấn đề này.
Với những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “Giải quyết tranh
chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất từ thực tiễn Tòa án nhân
dân tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tại Việt Nam đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu vềgiải quyết
tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất dưới mức độ cử nhân
luật, thạc sỹ luật học, tiến sỹ luật học, giáo trình giảng dạy môn pháp luật có
liên quan và một số bài đăng trên tạp chí chuyên ngành. Cụ thể như:
Cuốn sách "Tìm hiểu về pháp luật thừa kế" của Mai Văn Duẩn, xuất
bản năm 2003;
TS. Phùng Trung Tập – thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam
từ năm 1945 đến nay, Nxb Tư pháp, Hà nội -2004;Tưởng Duy Lượng- Bình
luận về một số vụ án hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-
2005; "Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 2003
2
và Bộ luật dân sự năm 2005", Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Văn
Phước (2007), trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; "Những vướng mắc
khi áp dụng chế định thừa kế" của Th.S Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí lập pháp
số 7/2008; Luận án Tiến sĩ Luật học của Phạm Văn Tuyết về chế định thừa
kế theo di chúc, TS. Phùng Trung Tập- Luật thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội
-2008; "Về một vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất có nhiều quan
điểm giải quyết khác nhau" của ThS. Lê Văn Luật, tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 10 (211) năm 2009... "Một số vướng mấc trong giải quyết tranh chấp
chia thừa kế theo pháp luật mà có một phần di sản thừa kế là quyền sử dụng
đất và tài sản trên đất đã hết thời hiệu" của Nguyễn Ánh Dương, tạp chí Tòa
án nhân dân kỳ II tháng 12/2013 (số 24); "Pháp luật về thừa kế quyền sử
dụng đất", Luận văn thạc sỹ luật học của Lê Hoàng Anh, trường Đại học
Luật Hà Nội (2013); "Pháp luật vềgiải quyết tranh chấp về chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất tại thành phố Hà Nội"¸ Luận văn thạc sỹ luật học
của Nguyễn Thị Hương, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2014; "Thời hiệu
khởi kiện giải quyết tranh chấp thừa kế từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân
dân tại Thành phố Hồ Chí Minh", luận văn thạc sỹ luật học của Phan Mạnh
Cường, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm 2015; "Pháp luật về
quyền thừa kế quyền sử dụng đất", khóa luận tốt nghiệp của Lê Mỹ Duyên,
trường Đại học Luật Hà Nội (2016)... các tập hệ thống hóa văn bản pháp luật
về dân sự, hôn nhân và gia đình nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng của
Tòa án nhân dân tối cao; các tập công bố phán quyết của Tòa án về xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ án dân sự của Toà án nhân dân tối cao
(trong đó có các vụ án về tranh chấp thừa kế QSDĐ),…
Ngoài ra, nghiên cứu tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất nói chung
có nhiều luận văn cử nhân, cao học đã đề cập đến ở nhiều mức độ, phạm vi
khác nhau.
3
Tuy nhiên, tìm hiểu, đánh giá pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
đai tư thực tiễn của TAND tỉnh Thái Nguyên một cách hệ thống, thì chưa có
công trình ở cấp độ thạc sĩ Luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là tập trung nghiên cứugiải quyết tranh chấp về
chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất theo các quy định của Luật đất đai,
Bộ luật Dân sự... Qua đó chỉ ra đượcgiải quyết tranh chấp về chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất tại TAND tỉnh Thái Nguyên còn tồn tại, sai sót và
đồng thời đưa ra những bất cập thiếu sót của luật để đề xuất, kiến nghị, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết và xét xử của Tòa án đồng thời hoàn
thiện các quy định của pháp luật về giải quyết thừa kế quyền sử dụng đất tại
Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu
sau:
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác giải quyết, xét xử về tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất và thực tiễn giải quyết tại TAND tỉnh Thái Nguyên.
Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết thừa kế quyền sử
dụng đất và thực tiễn giải quyết tại TAND tỉnh Thái Nguyên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm: các quy định của pháp
luật hiện hành về thừa kế,giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất tại Tòa án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung của luận văn không đi sâu nghiên cứu những quy định của
pháp luật về thừa kế mà chỉ tập trung nghiên cứu vềgiải quyết tranh chấp về
4
chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất tại Tòa án hai cấp tỉnh Thái Nguyên
từ năm 2014 đến năm 2018. Qua đó, phân tích đánh giá đối chiếu với những
quy định pháp luật có liên quan đếngiải quyết tranh chấp về chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 2013, BLTTDS năm 2015,
BLDS năm 2015 và việcgiải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất tại Tòa án tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên theo quy định của
BLTTDS.
Luận văn không nghiên cứu một loại đất ở nói riêng theo phân loại của
Luật đất đai mà nghiên cứugiải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất gồm đất ở, đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm
là di sản thừa kế, đối tượng tài sản được giải quyết trong tranh chấp thừa kế.
Thuật ngữ “Quyền sử dụng đất” sử dụng trong phạm vi luận văn này được
hiểu bao gồm ba loại đất nói trên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lê nin là chủ nghĩa duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, luận văn sử dụng phương pháp nghiên
cứu khoa học như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cùng được sử dụng
có chọn lọc để bình luận trong quá trình nghiên cứu.
Các số liệu của TAND tỉnh Thái Nguyên được tham khảo để việc
nghiên cứu toàn diện và sâu sắc hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn là công trình nghiên cứu đề
cập một cách tương đối hệ thống và toàn diện vấn đề: Giải quyết tranh chấp
vè chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất tại Tòa án bằng các quy định Việt
Nam, qua đó, bổ sung thêm vào kho tàng lý luận của pháp luật dân sự, tố
5
tụng dân sự, luật đất đai … Góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam.
Về thực tiễn: Qua nghiên cứu “Giải quyết tranh chấp về chia di sản
thừa kế là quyền sử dụng đất từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên”
luận văn đã phân tích khái quát thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói
riêng để rút ra những nhận xét, đánh giá và nguyên nhân cơ bản, từ đó kiến
nghị hoàn thiện Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam, đồng
thời đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu; kết luận; danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm ba chương với nội dung như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp chia di sản
thừa kế là quyền sử dụng đất
Chương 2. Pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất và thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án Nhân dân tỉnh
Thái Nguyên
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Khái quát tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng
đất
1.1.1. Khái quát về thừa kế quyền sử dụng đất và chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất
1.1.1.1. Khái niệm về thừa kế quyền sử dụng đất
Trong đời sống thực tiễn, tài sản do cá nhân làm ra thuộc sở hữu của
riêng họ. Pháp luật công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân đối với tài
sản. Điều này có nghĩa là chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản của mình. Thậm chí trong trường hợp chết, họ cũng có toàn
quyền quyết định việc để lại tài sản của mình cho những người còn sống tiếp
tục chiếm hữu, sử dụng. Pháp luật gọi việc này là thừa kế. Theo Từ điển Luật
học do Viện khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp biên soạn: “Thừa kế làsự chuyển
dịch tài sản của người chết cho người còn sống. Thừa kế luôn gắn với sở
hữu. Sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế và thừa kế là phương tiện để duy
trì, củng cố quan hệ sở hữu. Pháp luật quy định hai hình thức thừa kế: Thừa
kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật”.
Trong lĩnh vực đất đai, vấn đề thừa kế QSDĐ được đặt ra khi Luật đất
đai năm 1993 được ban hành. Việc ra đời chế định thừa kế QSDĐ nhằm đảm
bảo tính ổn định, lâu dài trong việc SDĐ của hộ gia đình, cá nhân và gắn kết
chặt chẽ người lao động với đất đai – tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Vấn
đề thừa kế QSDĐ được giải quyết trong các công trình khoa học pháp lý cụ
thể:
- TheoTừ điển Luật học do Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp biên
soạn: “Thừa kế quyền sử dụng đất của người chết cho người còn sống. Ở
7
Việt Nam, với đặc thù đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người
đại diện chủ sở hữu. Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình,
cá nhân. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản chung của hộ gia đình hoặc
quyền tài sản riêng của cá nhân. Bởi vậy, khi cá nhân hoặc thành viên trong
hộ gia đình chết thì quyền sử dụng đất của họ được để thừa kế theo di chúc
hoặc theo phápluật”
- Theo Từ điển Giải thích Thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật
Hà Nội: “Thừa kế quyền sử dụng đất: Chuyển quyền sử dụng đất của người
chết sang cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật phù hợp với
các quy định của BLDS và pháp luật về đất đai”
Như vậy, thừa kế QSDĐ là việc chuyển QSDĐ của người chết cho
người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật tuân theo các quy định của
BLDS và pháp luật đất đai.
1.1.1.2. Đặc điểm của thừa kế quyền sử dụng đất
Tìm hiểu về thừa kế QSDĐ cho thấy dạng thừa kế này mang một số
đặc điểm cơ bản sau đây:
(i) Thứ nhất, cũng giống như thừa kế các tài sản khác, thừa kế QSDĐ
bao giờ cũng gắn liền với một sự kiện pháp lý, đó là người SDĐ chết. Điều
này có nghĩa là thừa kế QSDĐ chỉ đặt ra khi người có QSDĐ chết.
Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của chế độ sở hữu đất đai ở nước ta:
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước
giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và họ được cấp
giấy chứng nhận QSDĐ. Vì vậy, trong trường hợp này, di sản để lại thừa kế
không phải là đất đai (vật) mà là QSDĐ (quyền sử dụng vật hay còn gọi là
vật quyền). Hơn nữa, do tính chất đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai nên việc để lại thừa kế QSDĐ không chỉ tuân theo các quy định về thừa
kế của BLDS năm 2015 mà còn phải phù hợp với các quy định của pháp luật
đất đai được đề cập tại khoản 1 điều 106 Luật đất đai năm 2013.
8
(ii) Thứ hai, thừa kế QSDĐ là trường hợp đặc biệt của chuyển QSDĐ.
Tính đặc biệt này thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Việc chuyển giao QSDĐ cho người khác luôn gắn liền với một sự
kiện pháp lý là người có QSDĐ chết.
- Người nhận QSDĐ trong trường hợp thừa kế QSDĐ không phải
nộp bất kì một khoản tiền nào cho người có QSDĐ chuyển giao cho mình.
- Sự chuyển dịch QSDĐ trong trường hợp thừa kế QSDĐ chỉ được
thực hiện trong phạm vi và đối tượng hẹp: Đó là những người có quan hệ
huyết thống; quan hệ hôn nhân; quan hệ nuôi dưỡng hoặc có nghĩa vụ kinh
tế trực tiếp với nhau.
(iii) Thứ ba, không phải bất cứ chủ thể SDĐ nào cũng có quyền để
thừa kế QSDĐ mà chỉ các chủ thể sau đây mới được pháp luật cho hưởng
quyền năng này:
- Hộ gia đình, cá nhân SDĐ không phải là đất thuê.
- Hộ gia đình, cá nhân được nhà nước cho thuê đất trước ngày
1/7/2004 (ngày Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành) mà đã trả tiền
thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm
mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm.
- Hộ gia đình, cá nhân SDĐ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho
phép chuyển mục đích SDĐ từ không thu tiền SDĐ sang đất có thu tiền SDĐ.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua nhà ở gắn liền với
QSDĐ tại Việt Nam.
(iv) Thứ tư, bên cạnh việc tuân thủ các quy định về thừa kế của BLDS
năm 2015, thừa kế QSDĐ còn phải thực hiện đúng các quy định tại khoản 1
điều 167 Luật đất đai năm 2013.
9
1.1.1.3. Phân loại thừa kế quyền sử dụng đất:
(i) Thừa kế theo di chúc
Theo quy định của luật dân sự, thừa kế theo di chúc được hiểu là sự
chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống thông qua một di chúc.
Pháp luật công nhận quyền để lại thừa kế theo di chúc của công dân được xem
là việc thể hiện tôn trọng quyền định đoạt của chủ thể sử dụng đất. Theo đó, họ
hoàn toàn có thể thể hiện sự định đoạt này bởi hành vi pháp lý đơn phương, đó
là để lại di chúc. Di chúc được xem là sự thể hiện ý chí của người chết, qua đó,
họ có quyền chỉ định một người được thừa kế truất quyền hưởng thừa kế của
những người khác, phân định tài sản, giao nghĩa vụ tài sản cho những người
được thừa kế… Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người để lại di chúc có
quyền để lại thừa kế cho bất kỳ ai và truất quyền hưởng thừa kế của bất kỳ ai,
mà cần phải tuân theo những quy định của pháp luật.
Người để lại di chúc cần tuân thủ những quy định của pháp luật về
hình thức và nội dung của di chúc, theo đó, di chúc thường được thể hiện
bằng văn bản và có những điều kiện nhất định để đảm bảo tính hợp pháp
như: người để lại di chúc minh mẫn, làm di chúc trên cơ sở tự nguyện… Thời
điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm mở thừa kế được đánh dấu bằng
sự kiện người để lại di chúc qua đời và để được hưởng thừa kế thì những
người thừa kế phải còn sống và thời điểm đó, di sản phải còn tồn tại.
Bên cạnh đó, người được hưởng thừa kế phải là một cá nhân xác định,
phải có tên trong di chúc. Tuy nhiên trên thực tế có những người mặc dù không
có tên trong di chúc nhưng vẫn được hưởng di chúc theo Điều 644 BLDS 2015,
bao gồm các trường hợp sau: “1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; 2.
Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”. Theo đó, những chủ thể
này được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của người thừa kế theo pháp
luật nếu phần di sản được chia theo pháp luật mà không chỉ định họ hoặc chỉ
10
định cho họ hưởng ít hơn hai phần ba suất đó. Trừ trường hợp họ là người từ
chối di sản hoặc không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 621 hoặc
Khoản 1 Điều 620 BLDS 2015.
Một điều kiện quan trọng là đối với thừa kế theo di chúc thì người thừa
kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời
điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm người để lại di sản qua
đời (Điều 613 BLDS 2015).
Như vậy, nhận thấy, Nhà nước luôn bảo đảm quyền tự do ý chí của
người thừa kế quyền sử dụng đất, tuy nhiên, sự tự do ấy phải nằm trong
khuôn khổ cho phép của pháp luật, hay nói cách khác là phù hợp với ý chí
của Nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào người để lại di
sản cũng có thể thể hiện ý chí của mình, hoặc sự thể hiện đó là không phù
hợp với các quy định của pháp luật vì nhiều lý do khác nhau. Chính vì thế,
pháp luật có quy định nội dung thừa kế theo pháp luật.
(ii) Thừa kế theo pháp luật
Trường hợp thừa kế theo pháp luật đối với quyền sử dụng đất cũng có
nội dung tương tự và được xác định theo những quy định của Bộ luật Dân
sự. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp thừa kế khi không có di
chúc, hoặc di chúc không hợp pháp, hoặc những người thừa kế theo di chúc
đều chết trước chết cùng thời điểm với người lập di chúc, hoặc người được
chỉ định trong di chúc không có quyền được hưởng di sản thừa kế. Thừa kế
theo pháp luật cũng được áp dụng với phần quyền sử dụng đất không được
định đoạt trong di chúc, hoặc liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực
pháp luật, hoặc liên quan người được hưởng thừa kế theo di chúc, nhưng họ
không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người lập di sản.
11
Những người được thừa kế theo pháp luật là những người thuộc diện
thừa kế và hàng thừa kế theo quy định tại Điều 651 của BLDS 2015, thuộc
trường hợp thừa kế thế vị theo Điều 652 BLDS 2015, thuộc trường hợp nằm
trong quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ theo
Điều 653, thuộc trường hợp nằm trong quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế theo Điều 654 . Theo quy định tại Điều 651 của BLDS 2015,
những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự như sau:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là ông nội , bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột , cô ruột, dì ruột , chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không
còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Trong trường hợp nếu người hưởng thừa kế chết trước người để lại di
sản, thì việc xác định những người thừa kế thế vị sẽ căn cứ theo Điều 652
của BLDS2015.
Như vậy, phạm vi của trường hợp thừa kế theo pháp luật hẹp hơn rất nhiều
so với trường hợp thừa kế theo di chúc. Việc đưa ra những quy định về thừa kế
theo pháp luật có ý nghĩa hạn chế việc để thừa kế một cách tràn lan, dẫn đến tình
12
trạng sử dụng không đúng quy hoạch, ảnh hưởng đến diện tích đất nông nghiệp,
tình trạng tích tụ đất đai thông qua các quan hệ chuyển quyền.
Nhận thấy, pháp luật dân sự cũng như pháp luật đất đai đã có điểm
thay đổi đáng kể khi không còn quy định các điều kiện cụ thể đối với từng loại
đất được đưa vào quan hệ thừa kế nữa. Nếu như BLDS năm 1995 đưa ra những
quy định về điều kiện được thừa kế sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng
năm, nuôi trồng thủy sản, đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất
lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở (Điều 740, Điều 741, Điều 742, Điều 743 của
BLDS năm 1995) thì đến Bộ luật Dân sự 2005 và hiện nay là Bộ luật Dân sự
2015 không còn những quy định cụ thể riêng biệt đối với từng loại đất này. Việc
phân chia như trước đây cũng như việc quy định về quyền tiếp tục sử dụng đất
của các thành viên trong hộ gia đình tại Điều 744 của BLDS năm 1995 thực
chất là có ý nghĩa thực tế rất hạn chế, đó là chưa kể đến quy định ở Điều 740
của BLDS năm 1995 đã tạo ra một sự bất hợp lí khi quy định về điều kiện được
thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy
sản. Đó là một người thuộc đối tượng được hưởng thừa kế, tuy nhiên khi mở
thừa kế họ “không có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích” như đang
ở trong quân ngũ, hay đang thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, thì có chia
thừa kế quyền sử dụng đất trong trường hợp này cho họ hay không? Qua đó,
việc đưa ra cụm từ “sử dụng đất đúng mục đích” còn chưa rõ ràng, cụ thể, gây
ra những nhầm lẫn trên thực tế.
Nhận thức rõ những hạn chế này, Luật Đất đai 2013 đã xác định quyền
sử dụng đất là một loại tài sản, theo đó “Cá nhân có quyền để thừa kế quyền
sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Bên cạnh đó, Hộ
gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền
sử dụng đất của thành viên đó cũng được để thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật.
13
Như vậy, so với các quy định của pháp luật trước kia, phạm vi người
hưởng thừa kế quyền sử dụng đất hiện nay được mở rộng hơn. Điều này là
hoàn toàn phù hợp với thực tế khách quan của quan hệ thừa kế, đồng thời
cũng khẳng định được chính sách pháp luật linh hoạt, mềm dẻo của Nhà nước
ta.
1.1.2. Khái quát về tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử
dụng đất
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp về chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất
Thực tiễn cuộc sống tồn tại nhiều loại tranh chấp khác nhau, tùy theo
lĩnh vực phát sinh, có thể được gọi là tranh chấp dân sự, tranh chấp thương
mại hay tranh chấp hành chính… Trong quan hệ đất đai có thể phát sinh
tranh chấp đất đai nói chung và các chanh trấp về chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất nói riêng.
Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, “tranh chấp là đấu tranh, giằng co
khi có ý kiến bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa 2 bên”. Trong
lĩnh vực đất đai, thuật ngữ tranh chấp đất đai đã được sử dụng theo Luật Đất
đai năm 1987 (tại các điều luật là Điều 9, Điều 21, Điều 22), Luật Đất đai
năm 1993, 2003 và hiện nay là 2013.
Theo giáo trình của Trường Đai họcLuật Hà Nội thì tranh chấp đất đai
nói chung là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai… các
chủ thể tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất, không có
quyền sở hữu đối với đất đai.
Một quan điểm khác cho rằng: Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu
thuẫn giữa các chủ thể (sử dụng đất) trong việc xác định ai là người có quyền
sử dụng đối với một (hoặc những) thửa đất nhất định….
14
Hoặc tranh chấp đất đai là mọi tranh chấp phát sinh trong quan hệ đất
đai bao gồm tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền
với đất … Quan điểm này được nhiều cơ quan có thẩm quyền giải quyết chấp
nhận. Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 lại tiếp tục giữ nguyên cách
quy định như trên, chỉ có sự thay đổi về cách sử dụng thuật ngữ: “Tranh chấp
đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc
nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
Như vậy, Tranh chấp đất đai nói chung ở nước ta theo quy định của
phápluật có thể hiểu là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của những người
sửdụng đất trong việc xác định chủ thể nào có quyền sử dụng đối với diện
tích đất tranh chấp.
Do đó, có thể hiểu tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng
đất là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của những người thừa kế trong
việc xác định chủ thể nào có quyền sử dụng đối với diện tích đất là di sản
thừa kế.
Tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất ngoài những
đặc điểm chung của thừa kế quyền sử dụng đất như phân tích tại mục 1.1.1.2
của luận văn, còn có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất, là di sản của
người đã mất để lại. Do tính chất đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai nên việc để lại thừa kế ở đây là QSDĐ, không chỉ tuân theo các quy định
về thừa kế của BLDS năm 2015 mà còn phải phù hợp với các quy định của
pháp luật đất đai được đề cập tại khoản 1 điều 106 Luật đất đai năm 2013.
Thứ hai, chủ thể tranh chấp là những người được thừa kế, bao gồm
người thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật. Có thể là cá nhân, hộ gia
đình… có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân; quan hệ nuôi dưỡng hoặc
có nghĩa vụ kinh tế trực tiếp với nhau.
15
Thứ ba, mục đích của việc giải quyết tranh chấp là xác định chủ thể
được hưởng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế hợp pháp trong tranh chấp.
1.1.2.2.Nguyên tắc của việc giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất
Trong nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế, quan hệ pháp luật đất đai đã trở nên đa dạng, phức tạp kéo theo các
tranh chấp đất đai nói chung, các tranh chấp về chia di sản quyền sử dụng
đất nói riêng, phát sinh cũng đa dạng, phức tạp và gay gắt. Vì vậy, việc giải
quyết những tranh chấp này phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định mà
thực tế đã đặt ra. Muốn đáp ứng được các yêu cầu đó, thì việc giải quyết
tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất phải đảm bảo các
nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất,nguyên tắc bình đẳng về quyền thừa kế. Nguyên tắc bình
đẳng về quyền thừa kế là nguyên tắc cơ sở cho việc xác định những người
trong cùng một hàng thừa kế được hưởng di sản ngang nhau. Ngoài ra, nó
còn là cơ sở để rũ bỏ nhiều tư tưởng lạc hậu từ thời kỳ phong kiến, như: tư
tưởng trọng nam khinh nữ, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và
chồng trong chế định thừa kế. Thông qua nguyên tắc này, các chủ thể khi
tham gia vào quan hệ thừa kế có thể đảm bảo tốt nhất cho quyền và lợi ích
chính đáng của mình.
Trên cơ sở những nguyên tắc chung của pháp luật dân sự, trong chế
định thừa kế, nguyên tắc bình đẳng được thể quy định: “Mọi cá nhân đều
bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng
di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” (Điều 610 Bộ luật Dân sự 2015).
Cụ thể đó là vợ chồng có quyền hưởng di sản của nhau khi người kia
chết trước. Tại Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 đề cập đến hàng thừa kế thứ
16
nhất bao gồm vợ hoặc chồng của người chết. Những người sẽ được hưởng
di sản của nhau và được hưởng ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau.
Cha, mẹ có quyền ngang nhau trong việc hưởng di sản thừa kế của
con, cũng không có sự phân biệt nào hết. Thậm chí, con riêng của vợ hoặc
chồng đối với cha dượng mẹ kế cũng sẽ được hưởng di sản của nhau và ở
hàng thừa kế thứ nhất nếu chứng minh được có chăm sóc, nuôi dưỡng nhau
như cha con, mẹ con. Các con không có sự phân biệt con trong giá thú hay
con ngoài giá thú, không phân biệt con gái hay con trai đều có quyền hưởng
di sản thừa kế của cha, mẹ.
Thứ hai, nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống
nhất quản lý. Toàn bộ đất đai trên lãnh thổ Việt Nam đều thuộc quyền sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Các tổ chức, hộ gia đình và cá
nhân chỉ là những người được Nhà nước giao đất cho sử dụng chứ không có
quyền sở hữu đối với đất đai. Do đó, đối tượng của tranh chấp trong chia di
sản thừa kế chỉ là quyền quản lý và quyền sử dụng đất chứ không phải là
quyền sở hữu đối với đất đai. Vì vậy, khi giải quyết các tranh chấp về di sản
đất đai, phải tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai mà
Nhà nước là người đại diện; bảo vệ quyền đại diện sở hữu đất đai của Nhà
nước.
Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi
ích kinh tế, khuyến khích việc tự thương lượng, tự hòa giải trong nội bộ.
Những tranh chấp này mang yếu tố “tư”, do đó, việc tôn trọng các quyền của
người sử dụng đất và tạo điều kiện để họ phát huy tối đa các quyền đó là
nguyên tắc quan trọng. Tôn trọng quyền định đoạt của các chủ thể khi tham
gia các quan hệ pháp luật đất đai là tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, thương
lượng của họ trên cơ sở các quy định của pháp luật về thừa kế.
17
1.2.Pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về giải quyết tranh chấp
về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất
Theo quy định tại Điều 97 của Hiến pháp năm 1959, Điều 128 của
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp sửa đổi năm 1992 và Điều 102 của Hiến
pháp năm 2013 thì Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử.
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất bao gồm tranh chấp về quyền
thừa kế quyền sử dụng đất và tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ về tài sản do
người chết để lại. Tranh chấp về quyền thừa kế bao gồm: Yêu cầu chia di sản
thừa kế là quyền sử dụng đất, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế quyền
sử dụngđấtcủa mình hoặc quyền yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế quyền sử
dụng đất của người khác. Trong đó, tranh chấp về chia thừa kế quyền sử
dụng đất là mâu thuẫn, bất đồng ý kiến về quyền hưởng di sản thừa kế quyền
sử dụng đất theo di chúc hoặc pháp luật giữa những người thừa kế tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất. Theo đó, chủ thể có thẩm quyền giải quyết những
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất theo thủ tục tố tụng dân sự là Tòa án.
Như vậy, giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng
đất tại Tòa án là việc Tòa án có thẩm quyền áp dụng các quy định của pháp
luật dân sự, pháp luật đất đai để giải quyếtmâu thuẫn về quyền thừa kế hoặc
thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại theo trình tự, thủ tục do
pháp luật tố tụng dân sự quy định.
18
1.2.1.2. Đặc điểm pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất tại Tòa án
Việc giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
tại Tòa án có đặc trưng riêng như sau:
Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết.
Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất nên việc xác định thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thừa kế theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nếu có
tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất thì Tòa án là cơ quan có thẩm quyền
giải quyết. Ngoài Tòa án ra thì không có cơ quan nào có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, đây là đặc thù về
thẩm quyền hoàn toàn khác với các tranh chấp có liên quan đến đất đai.
UBND hoặc Văn phòng công chứng không có thẩm quyền giải quyết mà chỉ
có thẩm quyền công nhận, công chứng thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
là quyền sử dụng đất, đây không phải là cơ quan giải quyết tranh chấp mà
chỉ là hành vi pháp lý công nhận hoặc công chứng một sự kiện pháp lý dựa
trên cơ sở thống nhất thỏa thuận của các bên liên quan trong quan hệ pháp
luật đó.
Thứ hai,về áp dụng pháp luật để giải quyết.
Tranh chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất là một loại tranh
chấp dân sự đặc thù, về bản chất là tranh chấp thừa kế nhưng tài sản tranh chấp
lại là quyền sử dụng đất. Do đó, để giải quyết loại tranh chấp này cần áp dụng
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự; Luật Hôn
nhân và Gia đình; Luật Nuôi con nuôi;Bộ luật Tố tụng dân sự...
Chẳng hạn, để xác định chính xác những người thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của người để lại di sản thì cần tham chiếu quy định của Luật Hôn nhân
và Gia đình, Luật Nuôi con nuôi để xác định quan hệ hôn nhân, quan hệ cha,
mẹ và con, quan hệ nuôi dưỡng đúng theo quy định của pháp luật. Mặt khác,
19
để xác định di sản là quyền sử dụng đất do người chết để lại có hợp pháp hay
không? Nguồn gốc diễn biến quá trình sử dụng đất ra sao cần căn cứ vào
những quy định của Bộ luật dân sự, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Do đó, nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và thống nhất các
văn bản pháp luật có liên quan khi giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử
dụngđất là rất quan trọng, có vai trò quyết định trong việc giải quyết vụ án
đúng và hiệu quả.
Thứ ba, đặc trưng về trình tự thủ tục giải quyết
Tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất được giải quyết
theo trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Việc quy định trình tự
thủ tục giải quyết nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền
sử dụng đất được chính xác khách quan, công bằng và hiệu quả. Trình tự thủ
tục giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất cũng giống
như trình tự thủ tục giải quyết vụ án dân sự nói chung, tuy nhiên, nó có những
đặc thù riêng. Cụ thể là khi tiến hành thủ tục thụ lý phải xem xét các điều kiện
thụ lý về: Chủ thể khởi kiện phải là những người trong diện thừa kế tài sản của
người chết gồm người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, người thừa kế thế vị hoặc
là người liên quan đến nghĩa vụ của người để lại di sản. Đây là điểm khác biệt
so với các vụ án dân sự khác; Điều kiện về thẩm quyền giải quyết; điều kiện về
tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện như: di chúc, giấy chứng tử, lý lịch
cá nhân của người để lại di sản để chứng minh quan hệ huyết thống, quan hệ
hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy
tờ khác chứng minh quyền sử dụng đất của người có di sản, nguồn gốc đất tranh
chấp, về tạm ứng án phí…
Thứ tư, đặc trưng về đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp chia
di sản thừa kế là quyền sử dụng đất.
20
Đương sự trong vụ án dân sự được quy định tại khoản 1 Điều 68 của
BLTTDS 2015 là cá nhân, cơ quan tổ chức bao gồm: nguyên đơn, bị đơn và
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Nguyên đơn là người khởi kiện, bị
đơn là người bị nguyên đơn kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của hộ nên các đương sự khác, Tòa án hoặc tự họ đề nghị
đưa vào tham gia tố tụng.
Xuất phát từ quan hệ pháp luật Tòa án phải giải quyết thì đại đa số các
vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, đương sự trong vụ
án này là những người có cùng huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi
dưỡng họ là những người thân trong một gia đình hoặc dòng tộc. Khi mâu
thuẫn họ không tự phân chia di sản được, cụ thể là về quyền sử dụng đất hoặc
nghĩa vụ thực hiện về tài sản do người chết để lại thì khởi kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết. Vì có đặc thù trên, nên số lượng người tham gia tố tụng thường
nhiều hơn các loại vụ án khác. Để xác định đương sự trong vụ án tranh chấp
về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đầy đủ, tranh đưa thiếu người
tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án, Thẩm phán phải căn cứ vào lý lịch cá
nhân người để lại di sản, tình trạng hôn nhân, chứng nhận kết hôn … là cơ
sở để xác định diện hàng thừa kế.
1.2.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về giải quyết
tranh chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
Xây dựng các quy định về giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất tại Tòa án cũng giống như xây dựng văn bản pháp luật
nói chung thể hiện đặc trưng: Tính thống nhất, tính quy tắc chung, hiệu lực
văn bản và tính phù hợp. Đây là những cơ sở khoa học để xây dựng văn bản
pháp luật đạt hiệu quả cao trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Các quy
định về giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất tại Tòa
án được xây dựng trên các cơ sở khoa học sau:
21
Xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
thì Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, nhiệm vụ của Thẩm
phán được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án nhân dân trong
đó có nhiệm vụ xét xử. Xuất phát từ quyền công dân được quy định trong
Hiến pháp.
Xuất phát đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự nói chung, đó là: Sự
bình đẳng về quyền nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật khi
tham gia tố tụng. Các quan hệ tranh chấp dân sự hình thành trên cơ sở mâu
thuẫn về lợi ích cá nhân giữa các đương sự với nhau trong cuộc sống nên các
chủ thể trong mối quan hệ tranh chấp có quyền thỏa thuận hòa giải với nhau
và được công nhận nếu thỏa thuận đó là sự tự nguyện của các bên và không
trái pháp luật. Vì vậy, cần khuyến khích và tạo điều kiện để các bên hòa giải
với nhau khi giải quyết tranh chấp.
Việc giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
cũng như giải quyết tranh chấp dân sự nói chung về thủ tục thì Tòa án khi
giải quyết phải áp dụng các quy định của BLTTDS và các văn bản hướng
dẫn để thi hành để giải quyết, về luật nội dung thì áp dụng Luật đất đai,
BLDS, Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp luật nội dung của
từng lĩnh vực riêng. Tranh chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất là
tranh chấp phát sinh giữa những người trong cùng một gia đình hoặc trong
cùng một dòng tộc giữa họ tồn tại quan hệ tình cảm, huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng vì vậy khuyến khích và tạo điều kiện để các bên hòa giải với
nhau khi giải quyết tranh chấp.
Việc giải quyết tranh chấp thừa kế là quyền sử dụng đất có đặc trưng
riêng như đã phân tích nên cần thiết phải có những quy định về thủ tục giải
quyết các vụ án tranh chấp thừa kế là quyền sử dụng đất là cơ sở để hoàn
thiện pháp luật về tố tụng đân sự.
22
1.2.3.Cấu trúc của pháp luật giải quyết về chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất tại Tòa án
Nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai cho thấy lĩnh vực
pháp luật này được chia thành hai nhóm quy phạm pháp luật chủ yếu sau:
(i) Thứ nhất, nhóm các quy phạm pháp luật quy định về nội dung giải
quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đai (hay còn gọi
là các quy phạm pháp luật về nội dung).
Các quy phạm này bao gồm các quy định về di sản thừa kế là QSDĐ
hợp pháp; quyền và nghĩa vụ của người thừa kế di sản; các giấy tờ hợp pháp
về thừa kế, về di sản là QSDĐ; quy định quản lý đất đai, hệ thống cơ sở dữ
liệu, thông tin về di sản …
Các VBPL cụ thể điều chỉnh bao gồm Luật đất đai năm 2013, Bộ luật dân
sự năm 2015, cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ...
Dựa vào nhóm các quy phạm pháp luật này, TAND sẽ xác định tính
hợp pháp của người thừa kế di sản là QSDĐ; tính hợp pháp của di sản thừa
kế … để đưa ra phán quyết giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là
QSDĐ là chính xác, công bằng, khách quan và đúng pháp luật.
(ii)Thứ hai, nhóm các quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc,
thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp về thừa kế nói chung và
giải quyết về chia di sản thừa kế là QSDĐ của TAND nói riêng (hay gọi
chung là các quy phạm pháp luật về hình thức).
Các quy phạm này bao gồm các quy định về cơ quan có thẩm quyền
giải quyết, nguyên tắc, điều kiện giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế
là QSDĐ của TAND; các quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết
tranh chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ tại TAND …
Dựa vào nhóm quy phạm pháp luật này, TAND sẽ tiến hành giải quyết
tranh chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ thông qua một quá trình tố tụng
chặt chẽ và đúng pháp luật, tránh sự tùy tiện, lạm dụng quyền lực.
23
Các VBPL cụ thể điều chỉnh vấn đề này bao gồm Luật đất đai (các
quy định liên quan tới giải quyết tranh chấp đất đai nói chung), Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015…cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao…
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp về chia
di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
Hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất theo thủ tục tố tụng dân sự chịu ảnh hưởngcủa nhiều yếu tố khác
nhau như quy địnhcủa pháp luật, trình độ năng lực của Thẩm phán, trình độ
hiểu biết của đương sự...vv, cụ thể:
Thứ nhất, quy định pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng bậc
nhất quyết định đến chất lượng và hiệu quả giải quyết các tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất. Là một tranh chấp về thừa kế nhưng giải quyết tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất còn chịu sự điều chỉnh của Luật Đất đai. Chính vì
vậy, để giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất về mặt
luật nội dung không chỉ áp dụng quy định BLDS để điều chỉnh mối quan hệ
pháp luật thừa kế mà còn phải tham chiếu các quy định của Luật Đất đai. Về
mặt trình tự thủ tục khi giải quyết tranh chấp thì BLTTDS và các văn bản hướng
dẫn thi hành cần phải được tuân thủ chặt chẽ. Có thể nói, tính thống nhất giữa
pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung là một cơ sở và nền tảng quan trọng
quyết định chất lượng giải quyết các tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất. Luật tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết vụ án về mặt trình
tự, thủ tụccòn việc giải quyết các tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử
dụng đất như thế nào, quyết định ra sao lại do những quy định của pháp luật nội
dung điều chỉnh. Do BLTTDS thường quy định chung mang tính tổng quát,
trong khi những quy định của pháp luật nội dung lại có tính chất đặc thù chuyên
biệt nên khi xây dựng pháp luật nội dung cần phải có sự tương thích với quy
định của pháp luật tố tụng.
24
Nếu như pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung mâu thuẫn nhau thì
sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết các vụ án dân sự nói chung và vụ án
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng. Trường hợp không có hướng
dẫn cụ thể, Thẩm phán được phân công giải quyết công việc không biết phải
giải quyết vụ việc như thế nào sẽ làm ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng
giải quyết vụ án.
Thứ hai, trình độ năng lực, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ Tòa án
đặc biệt là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc cũng là một trong
các yếu tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả và chất lượng giải quyết các vụ án
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Có thể nói đây là một trong những
yếu tố mang tính chủ quan nhưng lại ảnh hưởng lớn đến chất lượng giải quyết
các loại án nói chung và án tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử
dụng đất nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Trước mỗi yêu cầu khởi kiện,
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc đều phải nghiên cứu để có
hướng giải quyết đúng đắn, đặc biệt tranh chấp về chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất là một loại tranh chấp khá phức tạp (phức tạp về xác định
đương sự; xác định tài liệu chứng cứ; tính đa dạng của các tranh chấp thừa
kế quyền sử dụng đất; văn bản pháp luật điều chỉnh..), đòi hỏi rất cao ở kinh
nghiệm, năng lực của người Thẩm phán. Mặt khác, tranh chấp về chia di sản
thừa kế là quyền sử dụng đất là một dạng tranh chấp có những đặc điểm
chung của các tranh chấp thừa kế, tranh chấp đất đai tuy nhiên cũng có những
đặc thù rất riêng biệt về chủ thể có thẩm quyền giải quyết, đương sự hay trình
tự, thủ tục. Điều này đòi hỏi phải có sự vận dụng linh hoạt các quy định của
pháp luật trong việc giải quyết vụ án.
Thứ ba,Tính chất phức tạp và đa dạng của những tranh chấp về chia di
sản thừa kế là quyền sử dụng đất cũng là một trong những yếu tố gây khó khăn
không nhỏ cho việc giải quyết các vụ án này. Tranh chấp về chia di sản thừa kế
25
là quyền sử dụng đất có sự đan xen quan hệ pháp luật thừa kế và quan hệ pháp
luật đất đai, do vậy, khi giải quyết các tranh chấp này, Tòa án phải xem xét một
cách toàn diện rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau cả về luật nội dung và luật
hình thức. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản pháp luật nội dung áp dụng cho giải
quyết các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất có nhiều biến động qua các
thời kỳ, có nhiều điểm mâu thuẫn nên khó khăn cho việc áp dụng. Mặt khác,
tính chất phức tạp của những tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất còn được
thể hiện ở nhiều mặt như: tính chất đa dạng của các tranh chấp thừa kế quyền
sử dụng đất; phức tạp trong việc xác định các tài liệu, chứng cứ của vụ việc;
khó khăn khi xác định đương sự,...vv.Tất cả những khó khăn, phức tạp này ảnh
hưởng đến quá trình giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử
dụng đất, đòi hỏi những người có thẩm quyền giải quyết cần phải lập và nghiên
cứuhồ sơ vụ án một cách tỉ mỉ trên cơ sở những quy định của pháp luật và bản
chất khách quan của vụ án để có những quyết định chính xác, công bằng và
đúng pháp luật.
Thứ tư, trình độ hiểu biết pháp luật của đương sự trong tranh chấp về chia
di sản thừa kế là quyền sử dụng đất là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
việc giải quyết tranh chấp. Đây là một trong những yếu tố có ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng giải quyết vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa
án.Thông thường đối với một vụ án dân sự hay vụ tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất, nếu như các bên đương sự hợp tác, tham gia đầy đủ theo giấy triệu
tập của Tòa án, cung cấp chứng cứ,trình bày quan điểm đối với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của đương sự theo quy
định của BLTTDS thì việc giải quyết vụ án tại Tòa án sẽ thuận lợi đồng thời
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tuy nhiên,
đương sự trong vụ án tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất thường có hiểu
biết hạn chế về pháp luật hoặc không có thái độ tích cực khi tham gia tố tụng
26
như từ chối ký nhận các văn bản tố tụng, không thực hiện theo giấy báo, giấy
triệu tập củaTòa án, từ chối viết bản tự khai,…đã ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ
giải quyết vụ án. Đặc biệt đối với những vụ tranh chấp chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất, việc đương sự không hợp tác gây ra rất nhiều khó khăn cho
Tòa án. Khi không thể lấy được lời khai của đương sự, chỉ dựa vào lời khai của
một bên nguyên đơn thì việc Tòa án phải xác minh thu thập chứng cứ xác minh
khối di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, là đối tượng trong tranh chấp chia di
sản thừa kế quyền sử dụng đất là một điều khó khăn. Trên thực tế, có rất nhiều
vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, do sự thiếu hợp tác, chống đối của
đương sự nên Tòa án và Hội đồng định giá tài sản không thể xem xét khảo sát
định giá tài sản được, nên buổi định giá phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần hoặc
đoàn khảo sát chỉ có thể đứng ngoài quan sát và lập biên bản; dù biết không
khách quan và chuẩn xác nhưng cũng không thể làm khác. Sự thiếu hợp tác,
nhận thức sai pháp luật của đương sự không chỉ làm ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của chính bản thân đương sự đó, gây ra sự cản trở khó khăn cho Tòa
án trong quá trình giải quyết vụ án, dẫn đến việc thời hạn giải quyết vụ án có
thể bị kéo dài, ngoài ra cũng khó đảm bảo được tính khách quan, chính xác
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự khi Tòa án giải quyết vụ tranh
chấp, chất lượng xét xử cũng khó có thể đảm bảo được.
27
Tiểu kết chương 1
Chương 1 Luận văn trình bày những khái niệm cơ bản về thừa kế quyền
sử dụng đất như quan niệm về quyền sử dụng đất; thừa kế quyền sử dụng đất
và phân loại thừa kế quyền sử dụng đất. Thừa kế quyền sử dụng đất được hiểu
là một phạm trù pháp luật phản ảnh quan hệ kinh tế - xã hội, cụ thể ở đây là
quan hệ tài sản. Xuất hiện và tồn tại cùng với sở hữu toàn dân về đất đai, được
thể hiện ở sự chuyển dịch quyền sử dụng đất từ người chết cho người sống.Từ
những lý luận đó, chương 1 luận văn cũng đã làm sáng tỏ các khái niệm về
tranh chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất; cơ quan tài phán giải quyết
các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất…
Những vấn đề lý luận đó là nền tảng để chương 2 luận văn đi sâu
nghiên cứu các nội dung cụ thể của pháp luật, cũng như thực tiễn thi hành.
28
Chương 2
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA DI SẢN THỪA
KẾ LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1. Nội dung cơ bản pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di
sản thừa kế là quyền sử dụng đất
2.1.1. Quy định về thừa kế quyền sử dụng đất
Thừa kế QSDĐ là một dạng cụ thể của thừa kế tài sản, nên thừa kế QSDĐ
cũng phải tuân thủ theo các quy định chung của BLDS năm 2015 về thừa kế tài
sản về thời điểm thừa kế, quyền và nghĩa vụ của người để thừa kế, nguyên tắc
của việc để thừa kế v.v… Việc thừa kế QSDĐ được thực hiện thông qua hai
hình thức: Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
2.1.1.1.Quy định về thừa kế theo di chúc
Theo điều 624 BLDS năm 2015: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di chúc
còn được gọi là chúc thư do cá nhân khi còn sống tự nguyện lập ra với mục
đích dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau
khi chết. Người lập di chúc dựa vào ý chí và tình cảm của mình trong việc
quyết định chuyển giao tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Thừa kế theo di chúc là việc chia di sản cho người thừa kế theo sự định
đoạt trong di chúc của người có di sản lập di chúc và người thừa kế theo di chúc
là bất kỳ ai. Quyền định đoạt của người lập di chúc chỉ bị hạn chế theo quy định
tại Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015).
Các quy định về thừa kế theo di chúc nói chung, thừa kế QSDĐ nói
riêng có những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất,về người lập di chúc: Pháp luật dân sự của các nước (trong
đó có Việt Nam) đều thừa nhận một nguyên tắc cơ bản là cá nhân sở hữu tài
29
sản có quyền lập di chúc nhằm chuyển giao tài sản của mình cho người khác
sau khi chết. Theo Điều 625 BLDS năm 2015, người có quyền lập di chúc
bao gồm (i). Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản
1 Điều 630 của BLDS 2015 có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình.; (ii) Người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc, nếu được
cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Người lập di chúc có quyền: (i) Chỉ định người thừa kế, truất quyền
hưởng di sản của người thừa kế; (ii) Phân định di sản cho từng người thừa
kế; (iii) Giành một phần tài sản trong khối di sản để đi tặng, thờ cúng; (iv)
Giao nghĩa vụ cho người thừa kế; (v) Chỉ định người giữ di chúc, quản lý di
sản, người phân chia di sản.
Thứ hai, về hình thức của di chúc: Theo Điều 627 BLDS năm 2015 thì
di chúc phải được lập thành văn bản. Nếu không thể lập được di chúc bằng
văn bản thì có thể di chúc bằng miệng.
Đối với di chúc bằng văn bản. Di chúc bằng văn bản bao gồm các loại:
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; Di chúc bằng văn bản có
người làm chứng; Di chúc bằng văn bản có công chứng; Di chúc bằng văn
bản có người chứng thực.
Đối với di chúc bằng miệng: Trong một số trường hợp, pháp luật cho
phép chủ sở hữu tài sản được lập di chúc miệng. Di chúc miệng được lập
trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc
các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc văn bản. Sau 03 tháng kể từ
thời điểm lập di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng
suốt thì di chúc miệng bị hủy bỏ.
Thứ ba, di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
(i) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa hoặc cưỡng ép; (ii) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức
xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
30
Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng
ý.
Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ
phải được làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Di chúc bằng văn bản không có công chức, chứng thực chỉ được coi
là hợp pháp, nếu có đủ điều kiện trên.
Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện
ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau
đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoăc điểm chỉ. Trong
thời hạn năm ngày, kể từ ngày di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di
chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Thứ tư, nội dung của di chúc bằng văn bản phải ghi rõ: (i) Ngày, tháng,
năm lập di chúc; (ii) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; (iii) Họ, tên
người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để
cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; (iv) Di sản để lại và nơi có di
sản; (v) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ. Di
chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu. Nếu di chúc gồm nhiều
trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người lập di chúc.
Thứ năm, về công bố di chúc: Vấn đề này được pháp luật dân sự đề
cập cụ thể như sau: (i) Trong trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ
tại cơ quan công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc: (ii)
Trong trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì
người này có nghĩa vụ công bố di chúc. Nếu người để lại di chúc không chỉ
định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc
thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc; (iii)
31
Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới
tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc; (iv) Người nhận được
bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc; (v)
Trong trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc
đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng.
2.1.1.2. Quy định thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của người để lại di
sản mà là hình thức thừa kế do pháp luật quy định. Theo Điều 649 BLDS
năm 2015: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện
và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Như vậy, nếu thừa kế theo di
chúc là nhằm chuyển tài sản của người để lại di sản cho người thừa kế theo
sự định đoạt ý chí của người lập di chúc thì thừa kế theo pháp luật là việc
phân chia di sản cho người thừa kế theo ý của Nhà nước.
Các quy định về thừa kế theo pháp luật nói chung, thừa kế QSDĐ nói
riêng có những nội dung chủ yếu sau đây
Thứ nhất, các trường hợp thừa kế theo pháp luật: Thừa kế theo pháp
luật bao gồm các trường hợp sau đây: (i) Người chết không để lại di chúc
hoặc có để lại di chúc nhưng di chúc không hợp pháp; (ii) Những người thừa
kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời thời điểm với người lập
di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào
thời điểm mở thừa kế; (iii) Những người được chỉ định là người thừa kế theo
di chúc từ chối quyền nhận di sản thì phần di chúc liên quan đến phần di sản
của người từ chối bị vô hiệu, di sản liên quan đến phần di chúc bị vô hiệu
được chia theo pháp luật (Điều 650 BLDS năm 2015)
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản
sau đây: (i) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; (ii) Phần di
sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; (iii)
32
Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ
không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức
được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa
kế.
Thứ hai, đối tượng thừa kế theo pháp luật: Những người thừa kế theo
pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, dì ruột, chắt ruột của người
chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai
ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Thứ ba, thừa kế thế vị: Trong trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu
cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
2.1.1.3.Quy định chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
33
(i) Về chủ thể thừa kế
Pháp luật về thừa kế quy định người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân,
một trong những nguyên tắc cơ bản là tôn trọng ý chí của người để lại di sản
nên với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp với tàn sản của mình thì cá nhân có
quyền định đoạt tài sản đó sau khi chết. Bên cạnh đó, thừa kế QSDĐ luôn chịu
sự điều chỉnh của hai ngành luật: Bộ luật dân sự và luật đất đai nên quy định về
chủ thể để lại di sản thừa kế QSDĐ có những điểm đặc thù riêng.
Theo Điểm đ khoản 1 điều 179 Luật đất đai năm 2013, quy định về
quyền và nghĩa vụ của cá nhân, hộ gia đình sử dụng đất thì có thể thấy chủ
thể để lại thừa kế QSDĐ là cá nhân và thành viên hộ gia đình.
Thứ nhất,cá nhân là chủ thể để lại thừa kế quyền sử dụng đất.Cá nhân
là chủ thể phổ biến trong quan hệ thừa kế QSDĐ, vì vậy, quy định của pháp
luật về chủ thể này có ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ thừa kế.Luật đất đai
năm 2003 trước đây quy định cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê có
quyền để lại thừa kế QSDĐ theo di chúc hoặc theo pháp luật. Với quy định
này, người sử dụng đất “có đất” hợp pháp thì đất đó sẽ là di sản thừa kế, bất
kể đó là loại đất nào, chỉ cần nguồn gốc không phải đất thuê.
Tại thời điểm đó, Bộ luật dân sự 2005 đưa ra quyền để thừa kế QSDĐ
của cá nhân: “Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển
quyền sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại
Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Quy định này cho phép
cá nhân được Nhà nước cho thuê đất vẫn được quyền để lại thừa kế cho người
khác theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đối chiếu với quy định của Luật đất
đai năm 2003, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất theo điều 734 BLDS
2005 chỉ áp dụng với những đối tượng quy định tại khoản 2 điều 114 Luật
đất đai năm 2003.
34
Như vậy, hiện nay, Luật đất đai 2013 đã kịp thời khắc phục hạn chế
của luật đất đai 2003 khi quay trở về với quy định hình thức sử dụng đất của
cá nhân bao gồm cả thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê và thuê
đất trả tiền hàng năm nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài trong việc thuê đất để sản xuất, kinh doanh, phù
hợp với cơ chế thị trường. Từ đó, cá nhân thuê đất trả tiền một lần cho cả
thời gian thuê được quyền thừa kế QSDĐ, quy định này hoàn toàn hợp lý
bởi người sử dụng đất đã trả tiền sử dụng đất tương tự “mua” QSDĐ trong
thời gian nhất định và họ có quyền để lại thừa kế đối với tài sản của mình,
kể cả quyền sử dụng đất.
Tóm lại, từ khi Luật đất đai ra đời cho đến nay, quy định về thừa kế
QSDĐ đối với cá nhân từng bước được hoàn thiện. Nếu như Luật đất đai 1993
hạn chế việc để lại và nhận di sản thừa kế QSDĐ, đặc biệt đối với đất nông
nghiệp trông cây hằng năm và đất nuôi trồng thủy sản thì Luật đất đai 2003 đã
mở rộng đối tượngcủa quan hệthừa kế QSDĐ với quy định QSDĐ là di sản
thừa kế chỉ cần đáp ứng điều kiện không phải là đất thuê. Đến Luật đất đai
2013 thì chỉ chế định này được mở rộng hơn nữa khi đất v nhân thuê đất trả
tiền thuê một lần cho cả thời gian thuê cũng có quyền thừa kế QSDĐ. Quy
định của luật đất đai theo hướng mở rộng nhằm đảm bảo quyền lợi của người
sử dụng đất, tạo tâm lý yên tâm khi cá nhân đầu tư vào đất, khai thác đất và
phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay. Quy định này giúp cho quan hệ
thừa kế QSDĐ vừa phù hợp với bản chất dân sự của quyền sở hữu, quyền thừa
kế vừa vẫn đảm bảo quyền quản lý đất đai của Nhà nước.
Thứ hai, thành viên hộ gia đình là chủ thể để lại thừa kế quyền sử dụng
đất. Thành viên hộ gia đình là tập hợp những cá nhân có quyền sở hữu tài
sản chung, trong đó có quyền sử dụng đất, do đó mỗi người trong số họ hoàn
toàn có quyền để thừa kế với phần tài sản của mình trong khối tài sản chung
của hộ.
35
Quy định về quyền thừa kế của thành viên hộ gia đình đã được đặt ra
từ Luật đất đai 2003 theo hướng tôn trọng quyền để thừa kế QSDĐ đối với
phần đất của người sử dụng khi chết và đảm bảo sự tương thích với các quy
định về thừa kế của pháp luật dân sự. Quy định này được coi là điểm tiến bộ
của Luật đất đai 2003 khi cho phép thành viên hộ gia đình được để thừa kế
QSDĐ thay vì áp dụng: “quyền tiếp tục sử dụng đất” theo Luật đất đai 1993
và BLDS 1995, nhờ đó quyền định đoạt của chủ thể để lại di sản thừa kế
được tôn trọng.
Luật đất đai 2013 kế thừa quan điểm tiến bộ này của Luật đất đai 2003
với nội dung không còn sự phân biệt việc thừa kế QSDĐ của cá nhân và hộ
gia đình, đất cấp cho hộ gia đình cũng là đối tượng của quan hệ thừa kế theo
di chúc hoặc theo pháp luật. Bên cạnh đó, thống nhất với quy định về quyền
thừa kế QSDĐ của cá nhân, Luật đất đai 2013 cũng quy định chủ thể là thành
viên của hộ gia đình được nhà nước cho thuê đất trả tiền một lần cho cả thời
gian thuê có quyền để thừa kế QSDĐ.
Ngoài ra, hiện nay, BLDS 2015 chỉ ghi nhận cá nhân và pháp nhân là
hai chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự. Do đó, BLDS 2015 không coi
hộ gia đình và tổ hợp tác là chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự. Tuy
nhiên, để xử lý vướng mắc của quan hệ pháp luật có sự tham gia của hộ gia
đình, tổ hợp tác, BLDS 2015 có quy định điều chỉnh việc tham gia quan hệ pháp
luật dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân. Theo khoản 2 Điều 101 BLDS 2015: “Việc xác định chủ thể của
quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo
quy định của Luật đất đai”.Như vậy, các quy định về Hộ gia đình sử dụng đất
được xác định hoàn toàn theo Luật đất đai 2013.
Hộ gia đình sử dụng đất được quy định tại khoản 29 điều 3 Luật Đất
đau 2013, theo đó, hộ gia đình sử dụng đất được hiểu là: “những người có
36
quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về
hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại
thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhân quyền sử dụng
đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất”.Điều kiện để được coi là hộ gia đình
sử đụng đất như sau:
- Có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình. Về điều kiện chung, nhóm người sử dụng
đất trước tiên phải là một hộ gia đình theo đúng quy định của pháp luật mà
cụ thể là có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng theo quy định
của luật hôn nhân và gia đình. Chỉ khi tồn tại một trong ba quan hệ trên thì
các thành viên trong nhóm mới được coi là gia đình.
- Đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được
Nhà nước gia đất, cho thuê đất, công nhân quyền sử dụng đất, nhận chuyển
quyền sử dụng đất (tức là thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất). Đây là điều kiện cụ thể mà Luật đất đai 2013 đưa nhằm thống nhất quan
điểm về hộ gia đình sử dụng đất. Theo đó, các thành viên phải sống chung với
nhau, tức là có những thành viên dù mang một trong ba quan hệ trên nhưng
đã tách khỏi hộ khẩu vào trước hoặc được thêm vào hộ khẩu sau thời điểm hộ
gia đình được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều được coi là không
có QSDĐ chung. Luật đất đai chỉ chấp nhận những thành viên có tên trong hộ
khẩu vào thời điểm Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và số
lượng thành viên vào thời điểm đó là 2 căn cứ quan trọng để xác định thành
viên hộ gia đình sử dụng đất.
(ii) Chủ thể hưởng thừa kế quyền sử dụng đất
Luật đất đai không quy định trực tiếp về đối tượng được hưởng thừa
kế quyền sử dụng đất nhưng qua việc thừa nhận “cá nhân có quyền để thừa
kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật” và đối
37
chiếu các quy định của BLDS thì có thể hiểu chủ thể hưởng thừa kế QSDĐ
là những chủ thể thỏa mãn các điều kiện hưởng chủ thể và không thuộc
trường hợp quy định tại điều 621 BLDS 2015 về người không được quyền
hưởng di sản.
Ngoài ra, với tư cách là chủ sở hữu đại diện toàn bộ đất đai nên Nhà
nước có xu hướng quản lý chặt chẽ đối với các giao dịch đất đai; theo đó,
không phải ai cũng đương nhiên trở thành chủ thể sử dụng đất mà chỉ những
chủ thểđược Nhà nước xác lập theo những căn cứ nhất định được pháp
luậtquy định; mặt khác, cũng không phải ai cũng đương nhiên trở thành chủ
thể nhận thừa kế QSDĐ. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài là
đối tượng của quan hệ thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc trong trường
hợp thừa kế theo di chúc thì pháp luật cóxu hướng quy định chặt chẽhơn so
với cá nhân ở trong nước. Theo đó, nếu người Việt Nam định cư ở nước
ngoài thuộc đối tượng được quyền mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam và nếu
thuộc diện thừa kế theo pháp luật hoặc được thừa kế theo di chúc thì họ được
nhận thừa kế một cách bình thường như những cá nhân ở trong nước. Họ
được nhận thừakế trực tiếp là QSDĐ - là di sản thừa kế để khai thác, sử dụng
và định đoạt. Song nếu họ không thuộc diện được mua và sở hữu nhà tại Việt
Nam mà thuộc đối tượng được hưởng thừa kế theo di chúc hoặc pháp luật
thì họ chỉ được hưởng giá trị của phần thừa kế đó. Đây là quy định hợp lý
nhằm thểhiện vai trò của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu đại diện và
thống nhất quản lý đất đai, theo đó, đất đai chỉ có thể được xác lập cho những
người thực sự có khả năng và có nhu cầu, đặc biệt là chủ thể là Việt Kiều
nhằm đảm bảo không chỉ quyền tài sản mà còn bảo vệ chủ quyền, an ninh và
lãnh thổ quốc gia.
(iii) Về trình tự, thủ tục thừa kế
Trình tự, thủ tục đăng kí thừa kế quyền sử dụng đất là các thức để
người thừa kế thực hiện hợp thức hóa quyền năng của mình, trên cơ sở đó
38
xác nhận tư cách chủ thể hợp pháp đối với thửa đất được nhận thừa kế, đồng
thời là cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp. Đất đai là tài sản đặc biệt, vì vậy
việc trình tự, thủ tục đăng kí thừa kế quyền sử dụng đất cũng mang tính chất
đặc biệt hơn các tài sản khác.
Theo quy định, thủ tục nhận thừa kế QSDĐ được thực hiện tại văn
phòng đăng kí đất đai với nội dung như sau:
Bước 1: Người sử dụng đất nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký đất đai.
Bước 2: Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, nếu
đủ điều kiện thực hiện các quyền theo quy định thì thực hiện các công việc
sau đây:
- Gửi thông tin địa chính đến cơ quan thuế để xác định và thông báo
thu nghĩa vụ tài chính đối trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo
quy định;
- Xác nhận nội dung biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp theo quy
định của Bộ tài nguyên và môi trường. Trường hợp phải cấp Giấy chứng
nhận thì lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cho
người sử dụng đất.
- Chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai.
- Trao Giấy chứng nhận cho người sử dụng đất.
Thời hạn thực hiện thủ tục nhận thừa kế QSDĐ là không quá 10 ngày kể
từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Đối với các xã miền núi, vùng có điều kiện
kinh tế- xã hội khó khăn thì thời gian thực hiện được tăng thêm 15 ngày.
So với pháp luật đất đai trước đây, Luật đất đai 2013 quy định trình
tự, thủ tục nhận thừa kế QSDĐ giúp cho gười sử dụng đất hoàn tất nhanh
chóng và gọn nhẹ hơn.
39
2.1.2. Quy định giải quyết tranh chấp về chia di sản là quyền sử
dụng đất
Theo Điều 17 của BLTTDS 2015, việc giải quyết tranh chấp về thừa
kế tài sản nói chung tại TAND được thực hiện theo một trong các nguyên tắc
là bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý,
giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ theo thẩm quyền. Xét
xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị theo Điều 270 của BLTTDS 2015. Ngoài ra, bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật
hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm theo quy định tại Điều 325, 326 và Điều 351 của BLTTDS 2015.
Theo Điều 337 của BLTTDS 2015, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao giám
đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh,
TAND cấp huyện trong phạm vi theo thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng
nghị; HĐTP TANDTC giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của TAND cấp cao bị kháng nghị nhằm đảm bảo tính nghiêm minh, tuân
thủ pháp luật. Điều 325 và Điều 326 của BLTTDS 2015 quy định tính chất
của giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc giải quyết vụ án. Theo Điều 351 và Điều 352 của BLTTDS
2015, tái thẩm là trường hợp xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có
thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các
đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó. Như vậy,
trình tự giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ được TAND
thực hiện tương tự như trình tự giải quyết đối với các tranh chấp khác.
2.1.2.1. Quy định về thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế
40
Thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 623 của BLDS, cụ
thể:Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn
này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp
không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như
sau: Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại
Điều 236 của BLDS 2015; Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người
chiếm hữu quy định tại điểm a khoản 1 Điều 623 của BLDS 2015. Thời hiệu
để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời
hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Quy định này đã khắc phục được những bất cập về thời hiệu khởi kiện
thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 2005 và để bảo đảm phù hợp với quyền
của người thừa kế, người khác có liên quan đến di sản và những đặc thù về
văn hóa, tính chất của di sản. Thực tế giải quyết tranh chấp thừa kế trong
trường hợp này cũng tồn tại không ít những vướng mắc, khó khăn. Chẳng
hạn, trường hợp các đồng nguyên đơn đều thống nhất là tài sản chung do
người chết để lại chưa chia nhưng bị đơn – người đang trực tiếp quản lý sử
dụng quyền sử dụng đất thì cho rằng mình đã được người để lại di sản tặng
cho riêng. Các đương sự trong vụ án thường có lời khai mâu thuẫn nhau,
thậm chí các bên đều không có chứng cứ để chứng minh cho lời khai của
mình.
2.1.2.2. Khởi kiện và thụ lý giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất
(i) Khởi kiện tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất.
41
Trong các vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất thì các đương
sự thường phát sinh mâu thuẫn về quyền hưởng di sản thừa kế hoặc mâu
thuẫn về thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, khi không thể tự
thỏa thuận thì họ nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, có
thể hiểu khởi kiện vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất là việc người
khởi kiện nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết mâu thuẫn về
quyền thừa kế hoặc mâu thuẫn khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người
chết để lại theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Khởi kiện là hành vi
đầu tiên đồng thời là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng
dân sự. Tòa án chỉ có thể thụ lý giải quyết sau khi người khởi kiện đã nộp
đơn khởi kiện.
Khi nhận đơn khởi kiện, toà án phải có sổ nhận đơn để ghi ngày tháng
năm nhận đơn của đương sự làm căn cứ xác định ngày khởi kiện. Trong
trường hợp người khởi kiện trực tiếp nộp đơn tại toà án thì toà án ghi ngày,
tháng, năm người khởi kiện nộp đơn vào sổ nhận đơn. Ngày khởi kiện được
xác định là ngày nộp đơn. Sau khi nhận đơn khởi kiện, toà án phải cấp giấy
báo nhận đơn khởi kiện cho người khởi kiện hoặc phải gửi giấy báo nhận
đơn khởi kiện để thông báo cho người khởi kiện biết nếu toà án nhận đơn
khởi kiện gửi qua bưu điện. Nếu thấy đơn khởi kiện không có đủ các nội
dung thì Tòa án thông báo cho người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi
kiện theo đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.
(ii) Thụ lý vụ án tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
Như đã trình bày ở trên, việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất thuộc thẩm quyền của TAND các cấp. UBND không có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp này, đây là điểm đặc thù về thẩm quyền hoàn toàn khác
với các tranh chấp có liên quan đến đất đai. Điều này cũng đồng nghĩa, tranh
chấp thừa kế quyền sử dụng đất không được giải quyết theo thủ tục hành
42
chính mà tuân thủ theo trình tự tố tụng tại Tòa án với những thủ tục chặt chẽ
do BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định. Tuy nhiên, cần
phải xác định rõ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất là tranh chấp về thừa
kế tài sản, Quyền sử dụng đất chỉ là một loại di sản đặc biệt trong tranh chấp
về thừa kế.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 BLTTDS 2015 thì toà án nhân dân
cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp
về dân sự theo quy định tại Điều 26, BLTTDS 2015 trong đó có tranh chấp
về thừa kế quyền sử dụng đất. Sự phân định thẩm quyền giữa Tòa án cấp
huyện và Tòa án cấp tỉnh trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất được BLTTDS quy định theo phương pháp loại trừ. Nghĩa là các
tranh chấp về dân sự nói chung và tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất nói
riêng sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện trừ những trường
hợp luật quy định phải do Tòa án cấp tỉnh giải quyết. Cụ thể, Tòa án nhân
dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
trong hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất là những tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
mà có đương sự hoặc di sản là quyền sử dụng đất ở nước ngoài hoặc cần phải
uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà
án nước ngoài. Trường hợp thứ hai là theo quy định tại Khoản 2, Điều 37,
BLTTDS 2015 thì Tòa án cấp tỉnh sẽ giải quyết những tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện nhưng
Tòa án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
Ngoài ra, về nguyên tắc chung thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất củaTòa ántheo lãnh thổ được xác định theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS 2015. Theo đó, Toà án nơi bị
đơn cư trú, làm việc (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu
43
bị đơn là cơ quan, tổ chức)có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp vềthừa kế quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, các đương sự
có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầuTòa ánnơi cư trú, làm
việc của nguyên đơn (nếu nguyên đơn là cá nhân) hoặc nơi có trụ sở của
nguyên đơn (nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức) giải quyết tranh chấp thừa
kế quyền sử dụng đất nếu việc thỏa thuận đó không trái quy định pháp luật.
Thụ lý vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất được hiểu là việc
Tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện đồng thời vào sổ thụ lý để
giải quyết vụ án. Như vậy, sau khi nhận được đơn và các tài liệu, chứng cứ
kèm theo thì Tòa án phải vào sổ nhận đơn, xem xét các điều kiện thụ lý vụ
án, thông báo cho người khởi kiện nộp tạm ứng án phí và tiến hành thụ lý vụ
án theo đúng quy định pháp luật.
2.1.2.3. Chuẩn bị xét xử và hòa giải trong giải quyết tranh chấp về
chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
(i) Chuẩn bị xét xử
Tòa án chính thức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế quyền
sử dụng đất sau khi đã tiến hành thụ lý vụ án. Nếu hòa giải không thành,Tòa
án sẽ tiến hành củng cố hoàn thiện hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm. Các công việc phải tiến hành để chuẩn bị xét xử gồm:
Thông báo về việc thụ lý vụ án, phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, phân
công Thư ký tiến hành tố tụng; thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội
dung vụ án.
Sau khi đã tiến hành các công việc thụ lý vụ án,Tòa án phải thông báo
bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến việc giải quyết vụ án.Tòa án cũng phải thông báo cho VKSND
cùng cấp để VKSND thực hiện quyền kiểm sát của mình đối với việc giải
quyết vụ án.
44
Cũng như những vụ án tranh chấp dân sự khác hồ sơ vụ án tranh chấp
về thừa kế quyền sử dụng đất thường được xây dựng dựa trên nhiều nguồn
chứng cứ khác nhau. Chứng cứ để giải quyết vụ án thường do nguyên đơn,
bị đơn hoặc người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cung cấp
cho Tòa án. Trường hợp các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do đã
thu thập không đủ căn cứ để giải quyết vụ án thì Thẩm phán có thể ra quyết
định yêu cầu các đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Đối với
trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu
cầu Tòa án thu thập tài liệu chứng cứ thì Thẩm phán có thể tiến hành một
hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ như: Yêu cầu các cá nhân, cơ
quan đang lưu giữ tài liệu có liên quan cung cấp tài liệu, chứng cứ; Quyết
định xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, …
Trong quá trình lấy lời khai của đương sự, Tòa án cũng phải làm rõ nguồn
gốc, diễn biến quá trình sử dụng quyền sử dụng đất –là di sản trong vụ án thừa
kế. Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất nhiều khi không tồn tại độc lập mà có
thể nằm trong khối tài sản chung với người khác. Do đó, trong trường hợp này
Tòa án cần trao đổi, hướng dẫn đương sự khai để làm rõ quyền sử dụng đất của
người chết là bao nhiêu mét trong tổng thể tài sản chung với đồng sở hữu? Trên
đất có tài sản gắn liền với đất hay không? Tài sản này là của ai?...
Cũng như các vụ án thừa kế khác, trong vụ án tranh chấp thừa kế quyền
sử dụng đất thì thời điểm mở thừa kế được xác định là thời điểm người để
lại di sản chết, thời điểm này được xác định dựa trên giấy chứng tử của người
đó. Việc xác định diện và hàng thừa kế sẽ dựa trên các tài liệu chứng minh
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng giữa người chết
và người thừa kế.Trên cơ sở tài liệu,chứng cứ đương sự cung cấp, để giải
quyết hiệu quả vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất,Tòa án cần xác
45
định tư cách đương sự tham gia tố tụng, lập sơ đồ huyết thống, sơ đồ quan
hệ thừa kế như diện thừa kế, hàng thừa kế….
Cơ sở để Tòa án tuyên một bản án hợp pháp, phân chia chính xác kỷ
phần thừa kế cho các đồng thừa kế là việc xác định giá trị của di sản thừa kế.
Di sản thừa kế trong trường hợp này là quyền sử dụng đất nên việc định giá
đúng tài sản là không đơn giản. Hoạt động định giá, thẩm định giá di sản
thừa kế quyền sử dụng đấtcó thể được thực hiện thông qua Hội đồng định
giá nhà nước hoặc các tổ chức, cơ sở định giá tư nhân được Nhà nước cấp
phép hoạt động.
(ii) Thủ tục hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của đương sự
Cũng như việc hòa giải trong các tranh chấp dân sự khác, theo quy
định tại Điều 205 BLTTDS 2015Thẩm phán phải tiến hành hòa giải trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử để các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Quy định này là phù
hợp, có ý nghĩa nhân văn và thật sự cần thiết trong việc giải quyết tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất. Như đã nhiều lần đề cập ở trên,đặc thù của đương
sự trong tranh chấp này là những người có cùng quan hệ huyết thống, dòng
tộc, quan hệ hôn nhân…những mối quan hệ rất gần gũi về mặt tình cảm. Họ
là cha, mẹ, vợ chồng, anh chị em của nhau, vì không thể giải quyết được mâu
thuẫn nên đã nhờ Tòa ángiải quyết. Vì vậy, hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử là tạo cho họ cơ hội được thỏa thuận lại sau khi được tư vấn, giải
thích. Hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là tạo điều kiện cho họ hàn
gắn lại tình cảm, đoàn tụ lại với nhau, giữ gìn được gắn kết gia đình. Không
những vậy, hòa giải thành sẽ giúp giải quyết vụ án hiệu quả, tiết kiệm thời
gian và chi phí.
Về thủ tục hoà giải, Toà án phải triệu tập tất cả những người có liên
quan đến việc giải quyết vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tham dự
46
phiên hoà giải. Nếu việc giải quyết vụ tranh chấp có liên quan đến tất cả các
đương sự trong vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất mà có đương sự
vắng mặt, thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà giải để mở lại phiên hoà giải
khác có mặt tất cả các đương sự. Toà án xem xét các yêu cầu cụ thể của
đương sự trong vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất (yêu cầu xác định
quyền thừa kế quyền sử dụng đất của mình và bác quyền thừa kế của người
khác, yêu cầu chia di sản thừa kế) phải giải quyết để tiến hành hoà giải từng
yêu cầu theo thứ tự hợp lý. Khi tiến hành hoà giải, ngoài việc tuân thủ thành
phần phiên hòa giải quy định tại Điều 209 BLTTDS 2015, Thẩm phán phải
phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến
việc giải quyết vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất để các bên liên hệ
đến quyền, nghĩa vụ của mình mà tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải
quyết vụ tranh chấp.
Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương
sự, trong trường hợp các đương sự thoả thuận được về toàn bộ nội dung vụ
án, kể cả về án phí.
2.1.2.4. Phiên tòa giải quyết tranh chấp về chia di sản là quyền sử
dụng đất
Về nguyên tắc, phiên tòa sơ thẩm vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất được tiến hành như các phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự. Theo đó,
phiên tòa sơ thẩm với thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục hỏi tại phiên tòa,
tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Tuy nhiên, phiên tòa sơ thẩm
vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất có một số điểm khác như sau:
- Về sự tham gia của Kiểm sát viên: Theo quy định tại Khoản 2 Điều
21 của BLTTDS 2015 thì Viện kiểm sát nhân dân phải cử Kiểm sát viên
tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ hoặc
đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất,
47
nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về thể chất, tâm thần. Như vậy, theo quy định trên thì đối với vụ án
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất hầu hết đều có Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa và sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa là bắt buộc.
- Về đương sự tham gia phiên tòa sơ thẩm tranh chấp thừa kế quyền
sử dụng đất. Thông thường đương sự tham gia phiên tòa sơ thẩm thường là
những người thừa kế. Song, đối với trường hợp đã có sự chuyển nhượng, thế
chấp, bảo lãnh… đối với quyền sử dụng đất là di sản thừa kế thì Tòa ántriệu
tập tất cả những người tham gia các giao dịch về tài sản thừa kế tham gia
phiên tòa.
- Thủ tục hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Nếu các đương sự không rút
đơn khởi kiện, không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ
vụ án, sau khi nghe các bên đương sự trình bày về yêu cầu và chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu của mình, Hội đồng xét xử và những người tham
gia tố tụng khác tập trung hỏi để làm rõ, khẳng định lại các nội dung như: Di
sản thừa kế là quyền sử dụng đất thuộc ai? Người để lại di sản chết ngày
nào? Có di chúc hay không có di chúc? Tính hợp pháp của di chúc? Kể từ
thời điểm mở thừa kế có sự chuyển nhượng, thế chấp, bảo lãnh... đối với
quyền sử dụng đất là di sản thừa kế hay không? Diện và hàng thừa kế? Nghĩa
vụ tài sản và chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán từ di sản? …
Những vấn đề các đương sự đã thỏa thuận được với nhau và chưa thỏa thuận
được với nhau. Trên cơ sở đó, đương sự tranh luận với nhau về những vấn
đề mà đương sự còn mâu thuẫn, không thống nhất
Như vậy, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì việc
giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất cũng tuân theo trình tự, thủ
tục chung giống như đối với các tranh chấp dân sự khác. Tuy nhiên, tranh
chấp thừa kế quyền sử dụng đất là một loại tranh chấp đặc thù nên trình tự
48
thủ tục giải quyết tranh chấp này có những đặc trưng riêng . Chẳng hạn, đặc
trưng về thẩm quyền giải quyết của Tòa án không xác định theo nơi có bất
động sản là di sản thừa kế mà xác định theo nơi cư trú bị đơn hoặc theo thỏa
thuận của đương sự. Đặc thù về những tài liệu chứng cứ mà đương sự phải
xuất trình khi khởi kiện hoặc tham gia tố tụng. Đặc thù về thu thập chứng cứ
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử…
2.2. Thực tiễn hoạt động xét xử tranh chấp về chia di sản là quyền
sử dụng đất tại Tòa án Nhân dân tỉnh Thái Nguyên
Với địa bàn Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, nhiều đồng bào dân
tộc sinh sống, nhận thức về pháp luật của người dân chưa cao, trước đây,
những quan hệ gia đình, họ tộc gắn bó, chi phối tới mọi vấn đề đời sống
kể cả việc để lại di sản thừa kế là quyền sử dụng đất. Người con trưởng
được hưởng phần nhiều hơn để có thể chăm sóc cha, mẹ, thờ cúng tổ tiên.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển biến mạnh mẽ, các tuyến đường quốc
lộ, đường vành đai và các khu công nghiệp được mở rộng, sự biến động
của thị trường quyền sử dụng đất tăng trưởng nóng, giá trị quyền sử dụng
đất tăng cao, kéo theo đó lànhững mâu thuẫn, bất đồng về di sản là quyền
sử dụng đất tại Thái Nguyên tăng lên. Chỉ tính trong thời gian 05 năm, từ
năm 2014 đến năm 2018, Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh ở Thái
Nguyên đã tiến hành thụ lý các vụ án có mối quan hệ pháp luật là tranh
chấp về thừa kế tài sản nói chung, trong đó tranh chấp về chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất có nội dung và tính chất phức tạp, gay gắt.
Do giá trị của quyền sử dụng đất tăng như vậy, những người được thừa
kế bắt đầu tính đến quyền lợi của họ cũng như phải được đảm bảo mà các
đồng thừa kế không thể tự thương lượng mà phải khởi kiện ra Tòa án. Vì
vậy, những vụ án Tòa án đã thụ lý là những vụ án có tính chất phức tạp. Theo
49
báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Thái Nguyên, thực trạng giải quyết tranh
chấp về chia di sản là quyền sử dụng đất có số liệu cụ thể như sau.
Bảng 2.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và tranh
chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ nói riêng từ năm 2014 -2018
của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
Năm Án dân sự Tranh chấp về chia di sản
thừa kế là QSDĐ
Thụ lý Giải quyết Thụ lý Giải quyết
43 26 2014 422 279
37 29 2015 502 387
48 30 2016 519 393
50 34 2017 537 411
57 32 2018 553 450
Bảng 2.2. Số liệu các vụ án dân sự nói chung và vụ án tranh chấp về
chia di sản thừa kế là QSDĐ nói riêng bị hủy, sửa từ năm 2014 -2018
của TAND tỉnh Thái Nguyên.
Án dân sự Tranh chấp về chia di sản Năm
thừa kế là QSDĐ
Hủy Sửa Hủy Sửa
8 3 2014 22 30
6 9 2015 19 23
5 5 2016 22 11
10 8 2017 31 44
7 6 2018 30 24
50
Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2014
– 2018
Như vậy, nhìn vào số liệu bảng 1 và bảng 2 trên đây cho thấy:
Thứ nhất, tranh chấp về chia di sản thừa kế chiếm tỷ lệ trung bình xấp
xỉ khoảng 10% tổng số các vụ việc dân sự mà Tòa án tỉnh Thái Nguyên thụ
lý giải quyết trong 05 năm (2014 - 2018). Cụ thể: một là, năm 2014 thụ lý
các vụ việc liên quan đến tranh chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ 43 vụ,
chiếm tỷ lệ 10.18% các vụ việc dân sự; giải quyết 26 vụ, chiếm tỷ lệ 9.3%;
hai là năm 2015 thụ lý các vụ việc liên quan đến tranh chấp về chia di sản
thừa kế là QSDĐ 37 vụ, chiếm tỷ lệ 7.37% các vụ việc dân sự; giải quyết 29
vụ, chiếm tỷ lệ 7.49; ba là, năm 2016 thụ lý các vụ việc liên quan đến tranh
chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ 48 vụ, chiếm tỷ lệ 9.24% các vụ việc
dân sự; giải quyết 30 vụ, chiếm tỷ lệ 7.63%; bốn là, năm 2017 thụ lý các vụ
việc liên quan đến tranh chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ 50 vụ, chiếm
tỷ lệ 9.31% các vụ việc dân sự; giải quyết 34 vụ, chiếm tỷ lệ 8.27%; năm là,
năm 2018 thụ lý các vụ việc liên quan đến tranh chấp về chia di sản thừa kế
là QSDĐ 57 vụ, chiếm tỷ lệ 10.3% các vụ việc dân sự; giải quyết 32 vụ,
chiếm tỷ lệ 7.11%;
Thứ hai, trong 05 năm (từ năm 2014 - 2018), năm có số lượng tranh
chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ lớn nhất là năm 2018, thụ lý các vụ việc
liên quan là 57 vụ, chiếm tỷ lệ 10.3% các vụ án dân sự và năm có số lượng
tranh chấp ít nhất là năm 2015, thụ lý các vụ việc liên quan là 37 vụ, chiếm
tỷ lệ 7.37% các vụ án dân sự.
Thứ ba, tính trung bình trong 05 năm (từ năm 2014 - 2018), số lượng
bản án giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ của Tòa án tỉnh
Thái Nguyên bị hủy, sửa chiếm tỷ lệ khá cao từ trên 30% trở lên. Điều này
51
cho thấy việc giải quyết loại vụ việc tranh chấp về chia di sản thừa kế là
QSDĐ rất khó khăn, phức tạp (xem số liệu bảng 2).
Thứ tư, trong 5 năm (từ năm 2014 - 2018), số lượng các vụ án tranh chấp
về chia di sản thừa kế là QSDĐ mà Tòa án tỉnh Thái Nguyên thụ lý giải quyết
tăng đều hàng năm; đặc biệt trong 03 năm, từ năm 2016 đến năm 2018, số lượng
loại vụ việc tranh chấp này tăng đột biến gấp từ 1,0-1,5 lần so với năm 2014.
Điều này cho thấy tranh chấp về QSDĐ nói chung, và tranh chấp về chia di sản
thừa kế là QSDĐ vẫn là lĩnh vực nóng bỏng, gay gắt cho dù cả hệ thống chính
trị của tỉnh đã vào cuộc tuyên truyền, vận động, giáo dục pháp luật đất đai; vận
động hòa giải tranh chấp đất đai trong nhân dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai …
Có thể khẳng định rằng, việc giải quyết tranhchấpthừa kế quyền sử
dụng đất hiện nay là loại việc khó, phức tạp nhất và là khâu yếu nhất trong
công tác giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung.
Trong hoạt động thụ lý, giải quyết các tranh chấp về chia di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất, TAND tỉnh Thái Nguyên đã chú trọng tiến hành
việc hòa giải. Việc giải quyết, xét xử tranh chấp chỉ được thực hiện sau khi
hòa giải giữa các bên đương sự không thành. Hòa giải thành không chỉ giúp
cho ngành Tòa án tỉnh Thái Nguyên tiết kiệm thời gian, công sức trong việc
giải quyết tranh chấp mà còn giúp các bên đương sự tiết kiệm thời gian, tiền
bạc, công sức trong “theo đổi” khiếu kiện, đánh tan tâm lý thắng thua, thiệt
hơn; duy trì sự ổn định, đoàn kết và không làm “sứt mẻ” tình cảm trong nội
bộ gia đình. Nhận thức rõ tính đặc thù trong việc giải quyết tranh chấp về
thừa kế quyền sử dụng đất, kiên trì hòa giải,số lượng vụ việc tranh chấp được
TAND hòa giải thành chiếm tỷ lệ không nhỏ đã góp phần giải quyết nhanh
chóng các vụ tranh chấp.
52
Về cơ bản, TAND tỉnh Thái Nguyên áp dụng và thống nhất các hướng
dẫn của TANDTC trong công tác xét xử các vụ án tranh chấp. Đường lối xét
xử các tranh chấp đất đai nói chung, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất
nói riêng được TAND tỉnh Thái Nguyên tuân thủ và áp dụng tương đối tốt. Chất
lượng xét xử được cải thiện theo hướng tích cực góp phần quan trọng vào việc
duy trì ổn định chính trị, trật tự, án toàn xã hội hội, phát triển kinh tế, bảo vệ
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất và bảo vệ các giao dịch dân
sự hợp pháp trong đời sống xã hội .. Phần lớn, các bản án, quyết định của TAND
xét xử các tranh chấp đất đai đều có căn cứ pháp lý, phù hợp với hoàn cảnh lịch
sử, được nhân dân đồng tình, dư luận xã hội ủng hộ, bảo đảm hiệu lực thi hành
và tính khả thi cao trên thực tế …
Công tác đào tạo cán bộ được chú ý, đó là hàng tháng đều tổ chức hội
nghị tập huấn, đưa ra các giải đáp về những vấn đề còn vướng mắc trong việc
áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án, xây dựng án lệ, công bố bản án, quyết
định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án và TAND tỉnh hàng năm đều triển
khai thực hiện phiên tòa rút kinh nghiệm, tổ chức tập huấn nghiệp vụ xét xử đối
với Thẩm phán, Thư ký và Hội thẩm nhân dân. Thông qua đó, giúp cho đội ngũ
Thẩm phán, cán bộ Tòa án nâng cao nhận thức pháp luật, tiếp thu được quy
định mới, cùng trao đổi nghiệp vụ, kinh nghiệm với các đồng nghiệp, giải đáp
vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung và án tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng …
Lãnh đạo Tòa án quan tâm thường xuyên nắm bắt tình hình để chỉ đạo,
phối hợp với các cơ quan khác trong việc giải quyết vụ án. Nhiều Tòa án cấp
huyện, thị xã, Chánh án đã xây dựng được quy chế phối hợp với UBND cùng
cấp trong việc giải quyết vụ án dân sự và hành chính. Việc phối hợp với UBND
cấp huyện như: quy định về ủy quyền tham gia tố tụng trong trường hợp UBND
huyện tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
53
quy định phối kết hợp trong việc cung cấp chứng cứ, quy định về phối hợp với
các phòng trong khối UBND để thẩm định tài sản và định giá tài sản vụ án dân
sự, đặc biệt liên quan tới quyền sử dụng đất.
2.3. Những kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại trong giải
quyết tranh chấp về chia di sản là quyền sử dụng đất
2.3.1.Những kết quả đạt được
(i) Thứ nhất, Về quy định của pháp luật
Các quy định của Luật Đất đai 2013 đã giải quyết các vấn đề còn tồn
tại của Luật Đất đai 2003, tạo cơ sở pháp lý hoàn thiện cho việc thừa kế di
sản là quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình.
Bên cạnh đó, BLTTDS 2015 đã có những quy định khá toàn diện và
cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án tranh chấp
về thừa kế tài sản, trong đó có tranh chấp về chia di sản thừa kế là bất động
sản. Trong đó, phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm tranh chấp giữa các cấp
TAND. Đặc biệt là các quy định về phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giải
quyếttranh chấp thừa kế chia di sản là QSDĐ của Tòa án theo lãnh thổ và chi tiết
hóa trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế là
QSDĐ của Tòa án. Đây là cơ sở pháp lý đảm bảo xác định đúng phạm vi thẩm
quyền trong giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế là QSDĐ của Tòa án theo
trình tự, thủ tục luật định. Qua đó, tại điều kiện tốt nhất cho các đương sự có thể
bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi tham gia tố tụng.
(ii) Thứ hai, về thực tiễn áp dụng pháp luật
Mặc dù số lượng các vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụngđấttrong những
năm qua đang có xu hướng tăng lên, nhưng do chủ động nắm bắt tình hình, đề
ra nhiều biện pháp và tổ chức thực hiện nghiêm túc, quyết liệt trong toàn ngành,
trong đó chú trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm và kỷ luật công
54
vụ cho cán bộ, công chức; tăng cường công tác kiểm tra; phát động các phong
trào thi đua gắn với việc hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn..., nên công tác
xét xử trong năm qua tiếp tục có sự chuyển biến tích cực.
Chỉ tiêu xét xử các loại vụ tranh chấp thừa kế nói chung cũng như
những vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụngđấtnói riêngtiếp tục được bảo
đảm; hầu hết các vụ án đều được giải quyết, xét xử trong thời hạn luật định.
Chất lượng xét xử các loại vụ án tiếp tục được đảm bảo và nâng lên.
Mặt khác, việc giải quyết các vụ việc tranh chấp thừa kế quyền sử dụng
đấtvề cơ bản đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng và áp dụng
đúng các quy định của pháp luật nội dung, nên đã bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự; đồng thời Tòa án đã làm tốt công tác hòa giải trong
giải quyết các tranh chấp này thông qua đó giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh
chóng, góp phần củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân và tăng cường uy
tín của cơ quan nhà nước. Đồng thời, trong công tác giải quyết các vụ án tranh
chấp thừa kế quyền sử dụngđất, Toà án đã tổ chức thực hiện nhiều giải pháp,
như: tăng cường kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ công tác của cán bộ, công
chức; chủ động nắmbắt tiến độ và xây dựng kế hoạch công tác xét xử của đơn
vị; làm tốt công tác điều động, biệt phái cán bộ,Thẩm phán; tăng cường sự phối
hợp với các cơ quan có liên quan..., nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết, khắc
phục tình trạng để các vụ án quá hạn luậtđịnh.
Các Toà án đã chú trọng làm tốt công tác hoà giải trong quá trình giải
quyết các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, thông qua đó giúp cho việc
giải quyết vụ án nhanh chóng, đồng thời góp phần củng cố mối đoàn kết
trong nội bộ nhân dân (tỷ lệ hoà giải thành trong việc giải quyết các tranh
chấp thừa kế quyền sử dụngđấtlà 30%).
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
55
(i) Thứ nhất, thực tiễn áp dụng BLTTDS cho thấy còn bộc lộ một số
bất cập cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn ở những văn
bản hướng dẫn thi hành.
BLDS năm 2015 không quy định về thừa kế quyền sử dụng đất, khi
giải quyết việc chia thừa kế quyền sử dụng đất, Tòa án phải căn cứ vào quy
định thừa kế tài sản và quy định của Luật Đất đai năm 2013 để giải quyết.
Việc áp dụng thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với các tranh
chấp về chia di sản thừa kế là QSDĐ chưa thống nhất.
Trong thực tiễn, việc vận dụng quy định tại Điều 39 của BLTTDS 2015
để xác định thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp thừa kế QSDĐ còn
có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tranh chấp thừa kế QSDĐ
không phải là tranh chấp về bất động sản. Do vậy, trong trường hợp này, Tòa
án có thẩm quyền phải là Tòa án nơi bị đơn giải quyết. Quan điểm này dựa trên
cơ sở là đối với tranh chấp thừa kế QSDĐ thì trước hết phải xác định xem ai là
người thừa kế chứ không yêu cầu chia thừa kế bằng hiện vật. Ngoài ra, cũng có
ý kiến cho rằng, đối với tranh chấp thừa kế thì di sản có thể bao gồm cả động
sản và bất động sản, cho nên không thể áp dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền
của Tòa án theo nơi có bất động sản tọa lạc để giải quyết. Việc nghiên cứu pháp
luật về tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới cho thấy, nguyên tắc nơi
phát sinh sự kiện mở thừa kế được áp dụng để xác định thẩm quyền của Tòa án
đối với các vụ việc yêu cầu chia thừa kế. Có nghĩa là Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ việc sẽ là Tòa án nơi mở thừa kế hay Tòa án nơi khai phát di sản thừa
kế. Tuy nhiên, pháp luật thực định hiện nay không đề cập đến nguyên tắc này.
Do vậy, trong khi nhà lập pháp chưa có những quy định khác thì việc xác định
thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ tạm thời vẫn được thực hiện theo quy định
hiện hành, trên nguyên tắc ưu tiên thẩm quyền giải quyết của Tòa án nơi có bất
động sản (trường hợp tranh chấp liên quan đến nhiều bất động sản thì Tòa án
56
nơi có một trong các bất động sản được xác định có thẩm quyền giải quyết).
Hoặc có thể tính đến phương án tách vụ án thừa kế về động sản và bất động sản
thành hai vụ việc riêng để xác định thẩm quyền của Tòa án theo nguyên tắc nơi
hiện diện của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp, nếu có sự nhất trí của
các đồng thừa kế. Tuy nhiên, tính khả thi trên thực tế của việc tách vụ án là
không cao; bởi lẽ, nếu tách vụ án thì sẽ khó giải quyết toàn diện việc chia di
sản. Hơn nữa, trong số các đương sự có thể có đương sự không đồng ý việc tách
vụ án thừa kế để chia động sản độc lập với chia bất động sản.
(ii) Thứ hai, công tác cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân
nhằm xác lập cơ sở pháp lý để người SDĐ thực hiện các quyền tự do pháp luật
đất đai được quy định thực hiện chậm chưa đáp ứng được mong muốn của người
dân. Chính việc chậm trễ trong cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho người dân đã
gây ra trở ngại trong việc áp dụng pháp luật về thừa kế QSDĐ.
Việc xem xét về điều kiện tiên quyết để cho phép một chủ thể có được
quyền để thừa kế quyền sử dụng đất. Không giống như các giao dịch dân sự
về quyền sử dụng đất khác: chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, góp vốn,
tặng cho thì điều kiện tiên quyết để thực hiện giao dịch là quyền sử dụng đất
đó phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với quan hệ
thừa kế thì chỉ cần người sử dụng đất đủ điều kiện để được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là được để lại thừa kế quyền sử dụng đất. Tức là
người sử dụng đất đủ điều kiện theo Điều 100 hoặc Điều 101 Luật Đất đai
năm 2013 thì được để lại thừa kế quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, từ thực tế của quátrình sử dụng đất cho thấy, nhiều hộ gia
đình, cá nhân sử dụng đất có nguồn gốc sử dụng đất quá phức tạp, sự biến
động về chủ thể, về diện tích sử dụng qua thời gian là rất lớn song quá trình
sử dụng đất họ lại không có bất kỳ một giấy tờ gì về đất thì việc xác định di
sản thừa kế của ai, giới hạn của quyền sử dụng đất trong gia đình bao gồm
57
nhiều thành viên với nhiều thế hệ, nhiều thành phần sinh sống trên đất đó là
rất phức tạp. Chẳng hạn, đất đang sử dụng ban đầu chỉ là của ông bà sinh
sống, diện tích sử dụng ban đầu chỉ là 100 m2, qua thời gian, ông bà có con
cháu, con cháu xây dựng gia đình và cũng vẫn ở cùng trên đất đó, quá trình
sử dụng, những người con cháu đã khai hoang và lấn chiếm thêm để mở rộng
diện tích đất lên 300 m2. Vậy xác định quyền sử dụng đất hợp pháp thuộc về
ai trong trường hợp này để làm cơ sở xác định người đó được để lại di sản
thừa kế khi chết là rất khó khăn.
(iii) Thứ ba, khoản 4 Điều 98 luật đất đai năm 2013 quy định: “Trường
hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên
chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên
một người.”. Tuy nhiên, các quy định trước đây về vấn đề này không bắt
buộc việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ trong trường hợp QSDĐ là tài sản
chung của vợ và chồng phải ghi tên cả hai vợ chồng. Ví dụ: Tại tỉnh Thái
Nguyên, việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ trong trường hợp này ghi tên chủ
hộ gia đình (thông thường nam giới là chủ hộ). Chính vì vậy, người chồng
có vai trò trong việc để thừa kế QSDĐ, còn người vợ dường như không có
tiếng nói đối với việc thừa kế tài sản chung của vợ chồng. Trong một số
trường hợp khi người chồng chết, gia đình bên chồng đòi quyền thừa kế
QSDĐ và không cho người vợ thừa kế. Do không có tên trong giấy chứng
nhận QSDĐ, người vợ thường ở vị trí yếu thế hoặc đuối lý trong cuộc chiến
pháp lý về chia thừa kế QSDĐ với gia đình nhà chồng.
(iv) Thứ tư, việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản riêng của người
chết hay là tài sản chung của nhiều người ngay cả khi đất đó đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng không phải dễ dàng, trong nhiều
58
trường hợp Tòa án các cấp có quan điểm khác nhau nên khiến cho tranh chấp
thừa kế xử đi xử lại nhiều lần.
Xác định quyền sử dụng đất là di sản thừa kế riêng hay chung trong
trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho hộ gia đình mà
trên giấy chứng nhận không ghi rõ hộ gia đình đó bao gồm những thành viên
nào đượccông nhận quyền sử dụng đất. Đại đa số các giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cấp trước thời điểm Luật Đất đai 2013 có hiệu lực đa số là cấp cho
hộ gia đình mà chủ hộ là người đứng tên trên giấy mà không ghi tên đầy đủ của
các thành viên trong hộ. Nay tranh chấp xảy ra, Tòa án vô cùng khó khăn trong
việc xác định ai là người có quyền về di sản thừa kế này, nhất là các thành viên
trong hộ gia đình có sự biến động qua thời gian do các sự kiện kết hôn, ly hôn,
sinh con hay chết. Hoặc trường hợp, xác định quyền sử dụng đất là tài sản riêng
hay tài sản chung hợp pháp của vợ chồng để xác định ai là người có quyền để
lại di sản thừa kế khi chết cũng vô cùng vướng mắc, nhất là trong trường hợp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ cấp cho hoặc vợ, hoặc chồng mà không
ghi tên hai người trên giấy chứng nhận. Đa số giấy chứng nhận cấp trước
1/7/2014 (trước thời điểm Luật Đất đai 2003 có hiệu lực quy định về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi tên của cả vợ và chồng nếu đó là tài sản
chung) thì chỉ ghi tên người chồng là chủ yếu. Trong trường hợp này, cán bộ
Tòa án khi xét xử thường phải áp dụng các quy định trong Luật Hôn nhân và
Gia đình để xác định ai là người sở hữu đối với di sản này để xác định tính hợp
pháp của việc để thừa kế và nhận thừa kế.
(v) Thứ năm, trình độ hiểu biết pháp luật đất đai nói chung và pháp luật
về thừa kế QSDĐ nói riêng của người dân còn thấp cũng gây khó khăn cho việc
thực thi các quy định về thừa kế QSDĐ. Khi SDĐ hoặc khi chuyển nhượng
QSDĐ, người dân không làm thủ tục đăng kí QSDĐ tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hay không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế SDĐ nên không đủ cơ sở
59
pháp lý để Nhà nước cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho họ. Do vậy, người SDĐ
không đủ điều kiện để thực hiện thừa kế QSDĐ. Trong nhiều trường hợp, do
nhận thức giản đơn người dân (đặc biệt ở khu vực nông thôn) thực hiện thừa kế
QSDĐ không theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Di chúc được
lập bằng hình thức “giấy tờ viết tay” không có người làm chứng, không có
chứng thực hoặc xác nhận của công chứng nhà nước hay UBND cấp xã. Khi
tranh chấp về thừa kế QSDĐ phát sinh rất khó giải quyết. Đặc biệt trong trường
hợp nội dung di chúc có sự tẩy xóa hoặc các đương sự xuất trình nhiều bản di
chúc được lập tại cùng một thời điểm.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 luận văn đã trình bày phần tìm về các quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về thừa kế quyền sử dụng đất, giải quyết tranh chấp
về thừa kế quyền sử dụng đất, cũng như thực tế hoạt động xét xử tại Tòa án
nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Về cơ bản các quy định hiện nay là phù hợp và
vì lợi ích của người sử dụng đất.
Thông qua các nội dung cơ bản của pháp luật, có thể thấy các quy định
ngày một đơn giản, thuận tiện cho người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những
điểm tiến bộ, pháp luật thực định Việt Nam về chia di sản thừa kế, trong đó
có chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất cũng đã và đang bộc lộ một vài
điểm bất cập. Từ những bất cập của pháp luật thực định, chương 3 luận án
đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật.
60
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP VỀ CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
3.1.Yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật giải quyết tranh
chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
(i) Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa
kế là đất đai trong tổng thể pháp luật nói chung
Hệ thống văn bản pháp luật cần được ban hành thống nhất, không
chồng chéo, mâu thuẫn với nhau.Pháp luật cần sửa đổi những vấn đề không
phù hợp; sửa đổi, bổ sunghay hướng dẫn những quy định về thừa kế quyền
sử dụng đất được cụ thể, rõràng và đầy đủ hơn.
Đặc biệt cần lưu ý những vấn đề mang tính phổ biến, ảnh hưởng
nhiềuđến việc thừa kế quyền sử dụng đất, dễ gây ra tranh chấp, tạo sự khó
khăn trong giải quyết của tòa án và các cơ quan khác
Những quy định về thừa kế trong BLDS 2015 cần được quy định theo
hướng chi tiết, mở rộng hơn nữa để có thể đáp ứng được sự phát triển của
các quan hệ thừa kế trong thực tiễn. Bên cạnh đó, pháp luật cần loại bỏ những
quy định đã lỗi thờ, không phù hợp với tính xã hội hiện nay.
Các quy định trong Luật đất đai 2013 về điều kiện đối với loại đất để
thừa kế phải là đất không có tranh chấp là một trong những quy định cứng
nhắc. Từ đó cần phải có những văn bản hướng dẫn cụ thể những dạng tranh
chấp nào thì người sử dụng đất không được để lại thừa kế.
Theo đó, khi quy định về vấn đề thừa kế theo di chúc và theo pháp luật
tại điều 179 luật đất đai 2013 cần thêm quy định trong đó có việc thừa kế
không chỉ dựa trên di chúc hoặc pháp luật mà còn chiếu tới yếu tố hoàn cảnh
61
của các thừa kế. Như vậy sẽ đảm bảo được sự công bằng giữa các đồng thừa
kế với nhau.
Bên cạnh đó, cũng có thể thấy, các quy định của pháp luật về giải quyết
tranh chấp cũng như xử lý vi phạm về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
còn chưa đa dạng, đầy đủ so với thực tiễn. Do đó, đòi hỏi pháp luật cần bổ
sung thêm những quy định về vấn đề này để thực tế giải quyết tranh chấp
được dễ dàng và đại hiệu quả.
(ii) Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng cao
chất lượng áp dụng tại TAND đặt trong bối cảnh đổi mới công tác xét xử của
TAND theo định hướng mở rộng dân chủ, tranh luận công khai tại phiên tòa,
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tố tụng.
Tranh tụng là thành tựu của nền văn minh nhân loại, không chỉ thể
hiện bản chất nhân đạo mà còn phản ánh xu hướng phát triển dân chủ và tiến
bộ của tố tụng hình sự. Tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu
và được ghi nhận tại Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên
Hợp quốc ngày 10-12-1948 với nội dung “Mọi người đều có quyền hoàn
toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước Tòa án độc
lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc
về việc buộc tội mình có cơ sở trước Tòa”. Tại nước ta, các yêu cầu về cải
cách tư pháp, hoàn thiện thủ tục tố tụng nói chung, tranh tụng trong xét xử
giải quyết tranh chấp chia di sản là quyền sử dụng đất nói riêng được đưa ra
trong nhiều Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, trong đó đặt ra yêu
cầu phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
những người tham gia tố tụng để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật,
có sức thuyết phục và không để án quá hạn, kéo dài. Hiến pháp năm 2013 đã
ghi nhận tranh tụng thành một nguyên tắc, cụ thể là “Nguyên tắc tranh tụng
62
trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013). Do
vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản
để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm “nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử và thể chế hóa các chủ trương của Đảng về tranh tụng
tại phiên tòa”.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp về chia
di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
(i) Thứ nhất, hoàn thiện một số quy định pháp luật thừa kếđanggây
khó khăn cho công tác giải quyết tranh chấp của ngành Tòa án
Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền dụng đất là thẩm quyền của ngành
Tòa án, các tranh chấp này được giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự,
nhưng việc phân xử và giải quyết vụ án lại căn cứ vào quy định pháp luật
thừa kế. Chính vì vậy, để giúp ngành Tòa ángiải quyết có hiệu quả tranh chấp
này thì hoàn thiệnnhững thiếu sót, chưa rõ hoặc còn bất cập của pháp luật nội
dung cũng là hết sức quan trọng và cần thiết. Chẳng hạn, những tranh chấpthừa
kế quyền sử dụng đấtcó liên quan đến di sản thờ cúngpháp luật chưa quy định
rõ phần đất dành để thờ cúng là bao nhiêu trong tổng di sản do người chết để
lại.Thực tế, khi gặp những vụ án thừa kế có liên quan quyền sử dụng đất được
dành để thờ cúng nhiềuThẩm pháncũng khó khăn, vướng mắc trong việc giải
quyết.Vấn đề này chỉ được giải quyết khipháp luậtthừa kế có quy định cụ thể
phần diện tích đất tối thiểu và tối đa được dùng vào việc thờ cúng, quyền và
nghĩa vụ của người trực tiếp quản lý di sản thờ cúng.Bên cạnh đó, phần
nhiềuThẩm phánhiện nay gặp khó khăn trong việc xácđịnh quan hệ nuôi
dưỡng giữa con riêng với bố dượng, mẹ kếđể quyết định xem họ có được
hưởng di sản thừa kế của nhau hay không?Pháp luậtnênquy địnhcụ thể thế nào
làquan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng? Thế nào là quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
như cha mẹvới con? Pháp luật nên ghi nhận các quan hệ nuôi dưỡng
63
theohướng các con không nhất thiết phải cùng sống với cha,mẹ mà phụ thuộc
vào mức độ và sự chăm sóc, nuôi dưỡng hàng tháng của các con với cha mẹ
kế dù ở xa hay gần.
(ii) Thứ hai, xác định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cá nhân,
cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý chứng cứ.
Để khắc phục tình trạng các cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý
chứng cứ không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ kịp thời tài liệu, chứng
cứ cho Tòa án dẫn đến việc giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn BLTTDS cần
bổ sung quy định các chế tài xử phạt cụ thể để áp dụng trong trường hợp này.
(iii) Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các quy định về trình tự thủ tục đăng
kýQSDĐ đảm bảo sự thống nhất tránh mâu thuẫn chồng chéo, đảm bảo mặt
pháp lý cho việc để lại thừa kế.
Để bảo hộ quyền tài sản về nhà, đất của người dân thì việc đăng
kýQSDĐ và quyền sở hữu nhà, tài sản trên đất có vai trò rất quan trọng. Đây
là căn cứ để nhà nước thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với
nhà, tài sản trên đất, và cũng là căn cứ xác định di sản thừa kế là quyền sử
dụng đất. Tuy nhiên hiện nay, trình tự thủ tục thẩm quyền thực hiện đăng
kýQSDĐ và đăng ký quyền sở hữu nhà được quy định không thống nhất với
hai quy trình thực hiện khác nhau. Điều này gây cản trở cho người dân khi
đăng ký quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu tài sản để nhà nước bảo hộ quyền
lợi hợp pháp về tài sản nhà, đất cho họ. Để khắc phục tình trạng này, nhà
nước cần rà soát sửa đổi bổ sung các quy định về trình tự thủ tục thẩm quyền
đăng kýQSDĐ và quyền sở hữu nhà, tài sản trên đất theo hướng thống nhất,
minh bạch đơn giản góp phần ngăn ngừa các tranh chấp, khiếu nại về thừa
kế QSDĐ trong tương lai.
(iv) Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định giấy chứng nhận QSDĐ chỉ ghi
tên một bên vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam trong trường hợp người
64
nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam.
Bởi lẽ, QSDĐ là tài sản chung của vợ chồng có nghĩa là vợ chồng đều
bỏ công sức tiền của ra để nhận chuyển nhượng hoặc thừa kế, được tặng cho
chung QSDĐ. Không thể vì lý do một bên vợ hoặc chồng là người nước ngoài
mà không cho họ đứng tên trong giấy chứng nhận QSDĐ. Hậu quả là pháp luật
đã tước đi quyền tài sản của họ đối với đất đai, làm khó khăn cho việc để lại di
sản thừa kế là quyền sử dụng đất. Quy định này dường như chưa thật hợp lý và
phù hợp với quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế.
(v) Thứ năm, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận QSDĐ đi đôi với
việc cải tiến mạnh mẽ các thủ tục về thừa kế QSDĐ theo hướng đơn giản,
công khai và minh bạch.
Giấy chứng nhận QSDĐ là chứng thư pháp lý của nhà nước xác
lậpQSDĐ hợp pháp cho người SDĐ. Đồng thời là cơ sở pháp lý ban đầu để
người SDĐ thực hiện các quyền năng của chuyển QSDĐ(trong đó có quyền
thừa kế QSDĐ). Tuy nhiên, trong cả nước vẫn còn một số lượng đáng kể
người SDĐ chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Điều này gây ra những
khó khăn cho người dân khi thực hiện việc thừa kế QSDĐ, cũng như gây ra
những tranh chấp đối với thừa kế QSDĐ. Để góp phần tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân khi thực hiện thừa kếQSDĐ, chính quyền các địa phương
cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận QSDĐ, đảm bảo mọi thửa đất sử
dụng đề được cấp giấy chứng nhận QSDĐ.
Xác lập cơ chế đảm bảo tuân thủ đúng trình tự, thủ tục để thừa kếQSDĐ
được BLDS và pháp luật đất đai quy định. Hơn nữa, cần công bố công khai thẩm
quyền, quy trình thủ tục hành chính trong quản lý về SDĐ nói chung và quy trình,
thủ tục về thừa kế QSDĐ nói riêng để người dân được biết.
65
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết
tranh chấp về chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
Để nâng cao hiệu quả giải quyết cácvụ việc dân sự nói chung và các tranh
chấp thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng, yếu tố nhân lực trong đội ngũ Thẩm
phán, thư ký và cán bộ Tòa án đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Cần phải
xây dựng đội ngũ Thẩm phán,cán bộ Tòa án có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao và tư cách đạo đức tốt. Đây sẽ là nền tảng cơ bản để công tác giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất cũng như các loại tranh chấp khác đạt
được hiệu quả cao. Để nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp quyền thừa
kế quyền sử dụng đất cần tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:
(i) Thứ nhất, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát kịp thời phát
hiện và xử lý nghiêm đối với các tập thể và cán bộ, côngchứcngành Tòa áncó
vi phạm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ để tham nhũng,
nhận hối lộ, tiêu cực…, cũng như những biểu hiện vi phạm đạo đức nghề
nghiệp, vi phạm quy tắc ứng xử cán bộ, công chức ngànhTòa án.Kiên quyết
loại ra khỏi ngành nhữngThẩm phán, cán bộ Tòa án vi phạm quy chế hoạt
động của ngành.
(ii) Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm
xét xử của đội ngũ Thẩm phán, thư ký và cán bộ tòa án. Một mặt cần chăm
lo bồi dưỡng Thẩm phán đương nhiệm theo hướng thường xuyên cập nhật
các văn bản pháp luật, kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế-xã hội,
hội nhập quốc tế, bồi dưỡng kỹ năng xét xử và kiến thức thực tiễn. Hàng năm
các Thẩm phán phải được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ theo chuyên
ngành xét xử. Mặt khác, cần đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo bổ
nhiệm Thẩm phán. Đào tạo Thẩm phán phải theo hướng ưu tiên bồi dưỡng
kỹ năng mà không thiên về đào tạo theo bằng cấp, học vị. Thường xuyên tổ
chức các buổi tập huấn nghiệpvụ, rút kinh nghiệm qua thực tiễn giải quyết
66
các vụ án. Thực hiện chế độ kiểm tra giám sát đối với hoạt động tố tụng của
các Thẩm phán, Thư ký khi họ trực tiếp giải quyết các tranh chấp.
(iii) Thứ ba, đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệmThẩm phán.Với mục
đích xây dựng đội ngũ Thẩm phán thật sự có năng lực, cần tuyển chọn không
chỉ từ đội ngũ cán bộ Tòa án mà còn từ đội ngũ các chức danh tư pháp khác
như điều tra viên, công tố viên, luật sư, kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề
Thẩm phán nhưng chưa làm Thẩm phán. Cần tạo ra một kỳ thi quốc gia cho
chức danh Thẩm phán. Cơ chế thi tuyển tạo điều kiện cho các ứng viên vào
chức danh Thẩm phán có điều kiện cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, hạn chế
tiêu cực đồng thời giảm bớt sự phụ thuộc của Thẩm phán vào các thiết chế
quyền lực ở địa phương, tăng cường tính độc lập của Thẩm phán.Vì vậy, cần
nghiên cứu từng bước chuyển từ chế độ xét tuyển Thẩm phán ở từng cấp Tòa
án hiện hành sang chế độ thi tuyển cấp quốc gia. Chủ tịch nước xem xét và ra
quyết định bổ nhiệm làm Thẩm phán đối với những người trúng tuyển. Sẽ dễ
dàng điều động đối với những Thẩm phán quốc gia nếu thấy cần thiết. Qua đó
giải quyết được dứt điểm tình trạng thiếu Thẩm phán ở một số địa phương trong
khi nhiều địa phương khác số lượng Thẩm phán hoặc nguồn để bổ nhiệm Thẩm
phán lại đang thừa. Mặt khác, nên kéo dài nhiệm kỳ củaThẩm phán hoặc có thể
bổ nhiệm chức danh Thẩm phán không tính thời hạn. Pháp luật quy định nhiệm
kỳ Thẩm phán nhằm mục đích tăng trách nhiệm của Thẩm phán trong hoạt động
xét xử của mình.
(iv) Thứ tư, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội thẩm nhân dân và các chức danh tư pháp khác trong ngành
Tòa án. Một trong các mục tiêu cải cách tư pháp hiện nay lbinàf đổi mới hoạt
động tố tụng của Tòa án. Hoạt động giải quyết vụ việc dân sự nói chung và
giải quyết các tranh chấp thừa kế nói riêng đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ, nhịp
nhàng của những người tiến hành tố tụng bao gồm: Thẩm phán, HTND, Thư
67
kýTòa án…Sự tham gia của HTND vào HĐXX nhằm đảm bảo việc xét xử
đúng pháp luật, khách quan và công bằng. Thẩm phán và HTND là độc lập
trong giải quyết các vụ án, do vậy để tham gia giải quyết vụ án đúng và hiệu
quả HTND cần phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật
vững vàng. Họ cần được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở mức độ rất
cơ bản để có thể tham gia hiệu quả vào hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, cần
xây dựng cơ chế về nhiệm vụ, quyền hạn vàtrách nhiệm của HTND để
nguyên tắc độc lập với Thẩm phán khi tham gia xét xử được thực hiện trong
thực tế.
(v) Thứ năm, tăng cường cơ sở vật chất, có chế độ khen thưởng, chế
độ đãi ngộ, kỷ luật đối vớiThẩm phán tương xướng với vị trí, vai trò của họ
để Thẩm phán có thể toàn tâm, toàn ý với công việc. Nhà nước cần ưu tiên
đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các Tòa án
nhằm tạo điều kiện cho các Thẩm phán thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền
hạn của mình. Mặt khác, để đảm bảo cho Thẩm phán chuyên tâm thực hiện
tốt công việc xét xử, độc lập, công minh trong việc đưa ra phán quyết, một
vấn đề rất quan trọng là phải có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán.
Có cơ chế dùng người và mức lương, thưởng phù hợp để Thẩm phán không
cần phải lo mưu sinh, để Thẩm phán nói riêng và gia đình họ có thể đảm bảo
được cuộc sống từ lương, thưởng, không bị các tác nhân khác tác động, làm
ảnh hưởng đến công việc được giao phó.
(vi) Thứ sáu, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao ý
thức pháp luật của người dân nói chung và đội ngũ Thẩm phán, HTND nói
riêng. Bởi lẽ, mọi hành vi của con người sẽ có hành động đúng và ngược lại.
Để có nhận thức đúng thì không thể không thực hiện tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng.
Đối với người dân, thông qua việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật đất đai giúp họ nâng cao nhận thức, hiểu biết và chấp hành tốt pháp luật đất
68
đai. Hơn nữa, thông qua việc hiểu biết pháp luật đất đai, họ có thể tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời, người dân có đủ năng lực, trình
độ để giám sát hoạt động của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật giải quyết
tranh chấp đất đai, góp phần phòng ngừa việc vi phạm pháp luật.
Đối với đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân việc tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật đất đai giúp họ nâng cao nhận thức, hiểu biết để
không chỉ tự giác chấp hành pháp luật đất đai mà còn áp dụng có hiệu quả
pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai; tránh đưa ra các bản án, phán
quyết vi phạm pháp luật.
(vii) Thứ bảy, cần coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử để hoạt
động áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp
đất đai nói riêng của Tòa án sát với thực tiễn hơn. Một trong những nhiệm vụ
quan trọng của TAND các tỉnh thành, địa phương là tổng kết kinh nghiệm xét
xử và tổng kết việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án theo từng
lĩnh vực nhất định hoặc đường lối xét xử một loại tranh chấp nhất định. Đó là
cơ hội để xem xét, đánh giá lại toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật khi ban hành
ra các bản án, các quyết định của Tòa án và cũng là để hình thành những quan
điểm lý luận, những hướng dẫn chung được đúc kết từ thực tiễn áp dụng pháp
luật.
Mặt khác, tổng kết kinh nghiệm xét xử cũng là để đánh giá về kỹ năng
nghiên cứu vụ án của những người tiến hành tố tụng là Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân. Công tác này giúp TAND tìm ra nguyên nhân xét xử đúng pháp
luật và nguyên nhân vi phạm pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải
quyết vụ án dẫn đến hậu quả bản án, quyết định bị hủy, sửa. Do vậy, thông
qua tổng kết kinh nghiệm xét xử, các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có cơ
hội trao đổi kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án;
góp phần phòng, tránh bản án oan sai.
69
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận pháp luật giải quyết tranh
chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất; đánh giá thực tiễn áp dụng
pháp luật giải quyết tranh chấp tại TAND tỉnh Thái Nguyên tại chương 1 và
chương 2; Chương 3 luận văn đưa ra định hướng hoàn thiện pháp luật giải
quyết tranh chấp đất đai và nâng cao hiệu quả xét xử tại TAND. Các định
hướng này bao gồm:
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng caochất
lượng áp dụng tại TAND đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng cao chất
lượng áp dụng tại TAND đặt trong bối cảnh đổi mới công tác xét xử của
TAND theo định hướng mở rộng dân chủ, tranh luận công khai tại phiên tòa,
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tố tụng.
Dựa trên các định hướng cơ bản trên dây, luận văn đề xuất các giải
pháp góp phần hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất trong hoạt động của TAND
70
KẾT LUẬN
Thừa kế quyền sử dụng đất là một chế định quan trọng trong thừa kế
nói chung, đây là một quan hệ diễn ra rất phổ biến trong đời sống và luôn có
sự biến động qua các thời kỳ. Trong nhiều năm, với chính sách pháp luật
thiếu đồng bộ, nhiều quy định còn bất hợp lý dẫn đến những bất cập trong
thực tế. Trong giai đoạn hiện nay với chính sách pháp luật có nhiều thay đổi
với những quy định mới hợp lý hơn, sát thực hơn, các quan hệ này đang dần
được hoàn thiện và có những bước phát triển mới.
Tuy nhiên, trong các loại tranh chấp hiện nay, tranh chấp về thừa kế
quyền sử dụng lại rất phổ biến. Nó có những đặc thù riêng về quan hệ pháp
luật, về thẩm quyền, về đương sự tham gia vụ án và trình tự thủ tục giải
quyết…vv. Nó tồn tại mối quan hệ pháp luật thừa kế, trong đó, lại có sự đan
xen quan hệ pháp luật đất đai. Những người tham gia tố tụng trong vụ án
cùng dòng tộc, cùng huyết thống hoặc có mối quan hệ hôn nhân, quan hệ
nuôi dưỡng đều là những người có mối quan hệ mật thiết. Mối quan hệ tranh
chấp này có trình tự, thủ tục giải quyết chặt chẽ được quy định tại Bộ luật tố
tụng dân sự và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Tranh chấp về thừa
kế quyền sử dụng đất cũng được tuân thủ theo nguyên tắc giải quyết chung
như các loại tranh chấp khác như về thủ tục nộp đơn khởi kiện, thủ tục thụ
lý vụ án, công tác thu thập tài liệu chứng cứ và mở phiên tòa. Một đặc trưng
khác đối với loại án này là phải có thủ tục xem xét thẩm định tại chỗ, định
giá tài sản, … và một số những đặc trưng khác để phù hợp với mối quan hệ
tranh chấp về thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất.
Một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp đồng thời cũng là một đòi hỏi cấp
bách trong nền kinh tế thị trường ngày nay là phải xây dựng được các luận
cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về thừa
kế là quyền sử dụng đất. Vì vậy, đòi hỏi phải có quá trình nghiên cứu, tập
71
trung trí tuệ của đội ngũ đông đảo các nhà khoa học nước ta. Trong khuôn
khổ của luận văn thạc sỹ, luận văn đã cố gắng đưa ra một số giải pháp hoàn
thiện hệ thống pháp luật về thừa kế, đất đai nói chung và pháp luật về giải
quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất ở nước ta hiện nay.
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí Thư Trung ương Đảng, (1981) , Chỉ thị 100/CT-TW,
2. Ban Chấp hành trung ương Đảng Khóa XI – Hội nghị lần thư 6, (2012),
Nghị quyết 19 – NQ/TW.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, (2015), Chỉ thị số 01/CT-BTNMT
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, (2016) Báo cáo số 193/BC- BTNMT.
5. Bộ Tư pháp – Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB
Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp.
6. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, (1950), Sắc lệnh 97- SL.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2004), Các Nghị quyết của trung ương Đảng
2001- 2004 (sách phục vụ thảo luận các Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng
X), NXB Chính trị quốc gia.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX) , NXB Chính trị quốc gia.
9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, (2004),
Nghị quyết số 29/ 2004/11.
10. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (1993), Luật đất
đai 1993
11. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2003), Luật đất
đai 2003.
12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2005), Bộ luật dân
sự 2005.
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2006), Nghị quyết
số 57/2006/QH11.
14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2013), Hiến pháp
2013
73
15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2013), Luật đất
đai 2013.
16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2015), Bộ luật dân
sự 2015.
17. Phùng Trung Tập (2006), Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt
Nam trong 60 năm qua, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2.
18. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Tham luận về việc bảo đảm chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa góp phần nâng cao chất lượng xét xử, Hà Nội.
19. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Tham luận về một số vấn đề cần rút kinh
nghiệm trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và kiến nghị, Hà Nội.
20. Phạm Văn Tuyết (2005), Chế định thừa kế theo di chúc, Luận án tiến sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
21. Phan Thị Hương Thủy (2015), 99 tình huống và tư vấn pháp luật về thừa
kế nhà và quyền sử dụng đất, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
22. Trường Đại học Luật Hà Nội, (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật
học, Nxb Công an Nhân dân.
23. Trường Đại học Luật Hà nội, (2008), Giáo trình Luật đất đai, Nxb Công
an Nhân dân.
74