VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHUẤT THỊ MỸ DUNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO

THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ

THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHUẤT THỊ MỸ DUNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO

THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ

THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGA

Hà Nội – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan:

Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiệndưới sự hướng dẫn

trực tiếp của thầy PGS.TS. Nguyễn Thị Nga. Mọi tham khảo dùng trong luận

văn đều được trích dẫn rõ ràng, và trung thực, tên tác giả, tên công trình, thời

gian, địa điểm công bố. Mọi vi phạm quy chế đào tạo, hay gian trá,tôi xin chịu

hoàn toàn trách nhiệm.

Tác giả luận văn

Khuất Thị Mỹ Dung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT

ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN ................................................ 7

1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai ............................................................ 7

1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục xét xử sơ

thẩm tại Tòa án .......................................................................................... 17

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TOÀ ÁN VÀ

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA

ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ -THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............ 25

2.1. Nội dung các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục

sơ thẩm tại Tòa án ..................................................................................... 25

2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại

Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội .............................. 34

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN ............... 52

3.1.Định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả về giải

quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án ......................... 52

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án .... 54

3.3. Một số giải pháp khác ........................................................................ 61

KẾT LUẬN .................................................................................................... 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TAND Tòa án nhân dân

TCĐĐ Tranh chấp đất đai

TTDS Tố tụng dân sự

XHCN Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kinh tế ngày càng phát triển thì quan hệ đất đai cũng ngày càng phức tạp,

các quan hệ đất đai không còn thuần túy là quan hệ dân sự về một tài sản thuộc sở

hữu đại diện của nhà nước mà quan hệ đó mang nhiều sắc thái mới, gắn chặt với

yếu tố thương mại. Theo đó, các tranh chấp đất đai (TCĐĐ) xảy ra cũng không

chỉ những tranh chấp dân sự đơn lẻ về tài sản là quyền sử dụng đất giữa các cá

nhân, hộ gia đình với nhau, mà chúng còn biểu hiện đa dạng hơn, phức tạp hơn,

đan xen nhiều mối quan hệ hơn: tranh chấp dân sự, thương mại, hôn nhân gia

đình… liên quan đến quyền sử dụng đất, với phạm vi chủ thể không chỉ là hộ gia

đình, cá nhân mà cả các doanh nghiệp, cả chủ thể trong nước và chủ thể có yếu tố

nước ngoài. Khi tranh chấp xảy ra, việc hòa giải TCĐĐ ở cơ sở không đạt được

như ý muốn sẽ khởi kiện đến TAND như một công cụ để đảm bảo công lý.

Những năm qua, để hoạt động của các Cơ quan tư pháp đáp ứng được

yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết như:

Nghị quyết số 08/NQ-TƯ về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới”, trong đó đề ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm cải cách tổ

chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Hoạt động

tìm hiểu để kiện toàn và tổ chức tạo lập ra hệ thống pháp luật mang tính chất

đồng bộ Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã tìm hiểu và

đưa ra Nghị quyết số 48-NQ/TW về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị

quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020”. Chiến lược cải cách tư pháp với mong muốn xây dựng nền tư

pháp Việt Nam trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ

nhân dân, phục vụ sự nghiệp đổi mới của Nhà nước mà trọng tâm là hoạt

1

động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân, hoạt động

then chốt của TAND các cấp đó là giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành

chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, có

thể nói hoạt động trọng tâm của ngành Toà án là một hoạt động để áp dụng

pháp luật trong việc giải quyết các vụ án và được tiến hành theo một quá trình

gồm nhiều giai đoạn. Theo lý luận về công tác tư pháp thì các giai đoạn của

áp dụng pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, kết quả của giai đoạn này

làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo với mục đích là giải quyết một vụ án được

chính xác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Vì vậy, sự hạn

chế, sai sót trong bất cứ giai đoạn áp dụng pháp luật nào cũng sẽ góp phần ảnh

hưởng tới kết quả chung của việc giải quyết vụ án. Giai đoạn hiện nay, hoạt

động áp dụng pháp luật của Toà án trong quá trình giải quyết các vụ án nói

chung luôn là vấn đề phức tạp, sự phức tạp được thể hiện rõ nhất trong quá

trình giải quyết các vụ án dân sự mà đặc trưng của nó là các vụ án liên quan đến

lĩnh vực đất đai.

Trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các TCĐĐ

ở thành phố Hà Nội nói chung và ở huyện Phúc Thọ nói riêng ngày càng gia

tăng. Mỗi năm, Tòa án nhân dân (TAND) huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

thụ lý giải quyết hàng chục vụ TCĐĐ. Trong những năm vừa qua TAND các

cấp đã giải quyết có hiệu quả một số lượng lớn các vụ án TCĐĐ, kết quả xét

xử ngày càng được nâng cao, phần nào bảo vệ được quyền và lợi ích hợp

pháp của các tổ chức xã hội và công dân. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận

rằng công tác này nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động còn chưa thực sự đem lại

những kết quả như mong đợi trong đó bao gồm cả các yếu tố khách quan và

chủ quan. Theo đó, có các hạn chế thuộc yếu tố bên ngoài như: nhiều quy

định pháp luật không còn phù hợp với đời sống xã hội nhưng chậm được điều

chỉnh, sửa đổi, bổ sung; pháp luật chưa thực sự đồng bộ,...; Bên cạnh đó còn

2

một vài yếu tố bên trong có ảnh hưởng đến hoạt động giải quyết tranh chấp

đất đai của Tòa án nhân dân các cấp đó là: hoạt động của đội ngũ cán bộ tòa

án các cấp còn nhiều hạn chế bất cập, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, đòi

hỏi của pháp luật và đời sống, cũng như giải quyết tranh chấp, chuyên môn,

trình độ tác nghiệp, yếu tố khó khăn còn nhiều, quan hệ phối hợp giữa các cơ

quan, tổ chức, cá nhân trong giải quyết tranh chấp đất đai còn chưa đáp ứng

được yêu cầu; nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác giải

quyết tranh chấp đất đai còn nhiều hạn chế, chưa thực sự quan tâm và sâu

sát,... Theo đó, với tính chất của luận văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu, chỉ rõ

những bất cập, xác định nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó và đề xuất

các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án

nhân dân các cấp là một yêu cầu đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên

cứu đề tài: Giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND từ thực

tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu luận văn

Việc nghiên cứu về vấn đề tranh chấp và giải quyết TCĐĐ đã được

nhiều tác giả đề cập có thể kể đến như: “TCĐĐ và thẩm quyền giải quyết của

Tòa án” Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Châu Huế (2003), Khoa luật,

đại học quốc gia Hà Nội; “Giải quyết TCĐĐ theo Luật đất đai 2003”, Luận

văn thạc sỹ luật học của Phạm Thị Hương Lan (2009), Viện Nhà nước và

pháp luật; “Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng tòa án tại Việt

Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học của Lý Thị Ngọc Hiệp (2006), Trường Đại

học Luật thành phố Hồ Chí Minh; “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao

hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại TAND”; “TCĐĐ

và giải quyết TCĐĐ bằng tòa án ở nước ta”, Luận án tiến sỹ luật học của Mai

Thị Tú Oanh (năm 2013); đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2001 của

TAND tối cao do Nguyễn Văn Luật làm chủ nhiệm đề tài; Báo cáo tham luận

3

“TCĐĐ và khiếu kiện kéo dài: Những nguyên nhân có tính lịch sử” của

Nguyễn Quang Tuyến tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất

đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp” ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại

Buôn Mê Thuật – Đắc Lắc; bài viết “Giải quyết TCĐĐ bằng tòa án qua thực

tiễn tại một địa phương” của Mai Thị Tú Oanh đăng trên tạp chí Nhà nước và

pháp luật số 08/2009;...

Các công trình nghiên cứu trên đã cho thấy tính chất nhất định về vấn

đề nghiên cứu, tuy nhiên trên thực tế kết quả nghiên cứu còn chưa đáp ứng

thực sự được yêu cầu dưới góc độ đổi mới luật pháp hiện nay. Vì vậy việc

nghiên cứu đề tài của học viên trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành

công của các công trình nghiên cứu trước đó để nghiên cứu một cách toàn

diện cả về lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về TCĐĐ và giải

quyết TCĐĐ nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng của công tác

giải quyết tranh chấp bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay và trên địa bàn huyện

Phúc Thọ, thành phố Hà Nội nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về

giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm TAND từ thực tiễn huyện Phúc

Thọ, thành phố Hà Nội theo pháp luật đất đai (Luật Đất đai năm 2003 và Luật

Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2014) đồng thời đưa ra những

giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả giải quyết TCĐĐ của TAND.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn được viết với phương thức xác định các yêu cầu nhiệm vụ

quan trọng sau đây:

- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và

giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân các cấp, từ đó xác định

4

pháp luật của Việt nam và thế giới về giải quyết tranh chấp đất đai.

- Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của khoa học pháp lý, Luận văn tiếp tục

đi sâu tìm hiểu nhằm chỉ ra hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác lập

thẩm quyền của TAND theo thủ tục xét xử sơ thẩm trong giải quyết TCĐĐ;

- Tìm hiểu, phân tích pháp luật về giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử

sơ thẩm thông qua TAND và đề xuất các giải pháp cơ bản góp phần hoàn

thiện mảng pháp luật về lĩnh vực này;

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết TCĐĐ theo thủ

tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án từ thực tiễn tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà

Nội để từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết

TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án hiện nay.

- Đề xuất các phương hướng và nghiên cứu trình bày những giải pháp

mang tính đột phá cụ thể, cho việc áp dụng pháp luật trong giải quyết TCĐĐ ở

Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về

giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND tại huyện Phúc Thọ

thành phố Hà Nội theo quy định của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản

pháp luật có liên quan.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Giải quyết TCĐĐ tại Toà án nhân dân là một vấn đề lớn, có nhiều nội

dung khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học

việc nghiên cứu chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu về giải quyết TCĐĐ theo

thủ tục xét xử sơ thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Phúc

Thọ, thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

5

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các

quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật đặc biệt là

cải cách tư pháp.

Trên cơ sở các phương pháp luận nêu trên, luận văn có sử dụng các

phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành luật học như: phương

pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp để từ đó xác định các nội hàm

nghiên cứu của đề tài.

6. Những điểm mới, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn đóng góp vào việc phân tích làm sáng tỏ các đặc điểm của

giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND ở huyện Phúc Thọ,

thành phố Hà Nội; Đánh giá thực trạng giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ

thẩm của TAND trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội; Đưa ra những

luận chứng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết TCĐĐ theo thủ

tục xét xử sơ thẩm của TAND huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong

quá trình nghiên cứu thực tiễn và nâng cao hiệu quả giải quyết TCĐĐ theo

thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND ở huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội và Tòa

án nói chung.

Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có thể được dùng làm tài liệu

tham khảo trong nghiên cứu và đào tạo tại các trường đào tạo luật học.

7. Kết cấu của luận văn

Phần mở đầu, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo là 3

yếu tố bắt buộc của luận văn, ngoài ra luận văn còn được kết cấu gồm 3

chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về TCĐĐ và pháp luật về giải quyết

TCĐĐ theo thủ tục tố tụng tại Tòa án

Chương 2. Thực trạng giải quyết TCĐĐ theo thủ tục tố tụng sơ thẩm từ

thực tiễn TAND huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

Chương 3. Định hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt

6

động giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN

1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai

1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai

Đầu tiên chúng ta cần xác định khái niệm tranh chấp đất đai,hiện nay

có nhiều quan điểm, nhiều quy định nhiều các xác định về tranh chấp đất đai.

Vậy TCĐĐ là gì?

Trong tiếng Việt từ điển thì định nghĩa tranh chấp đất đai được hiểu là

“tranh chấp là đấu tranh, giằng co khi có ý kiến bất đồng thường là trong vấn

đề quyền lợi giữa 2 bên”. [44, tr.983]. Theo cuốn Thuật ngữ Pháp lý thông

dụngmà chúng tôi nghiên cứu được thì: “TCĐĐ: Tranh chấp phát sinh giữa

các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá

trình quản lý và sử dụng đất đai.” [1, tr.332].

Thực tiễn cuộc sống tồn tại nhiều loại tranh chấp khác nhau, tùy theo

lĩnh vực phát sinh mà nó có thể được gọi là tranh chấp dân sự, tranh chấp

thương mại hay tranh chấp hành chính… Trong quan hệ quản lý nhà nước về

đất đai có thể phát sinh TCĐĐ, đó có thể là tranh chấp giữa cơ quan quản lý

nhà nước về đất đai với người sử dụng đất hoặc có thể là tranh chấp giữa

những người sử dụng đất với nhau. Trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, khái

niệm “TCĐĐ” chưa được chính thức giải thích, mà chủ yếu là được hiểu

thông qua các quy định của pháp luật về giải quyết TCĐĐ, quy định về giải

quyết các tranh chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất.

Thuật ngữ TCĐĐ đã được sử dụng theo Luật Đất đai năm 1987 (tại các

điều luật là Điều 9, Điều 21, Điều 22), Luật Đất đai năm 1993 (Điều 38, Điều

7

40) nhưng chưa được giải thích chính thức, mà chủ yếu là chỉ được hiểu ngầm

qua các quy định của pháp luật về giải quyết TCĐĐ và các tranh chấp khác có

liên quan đến quyền sử dụng đất [36, tr.3-6].

Như vậy, chủ thể tranh chấp vốn được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng

không được định danh về loại chủthể: Chỉ là người sử dụng đất hay tất cả các

chủ thể có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong quan

hệ TCĐĐ? [36, tr.3-6].

Theo giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: TCĐĐ là sự bất

đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ

thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai… các chủ thể TCĐĐ chỉ là chủ

thể quản lý và sử dụng đất, không có quyền sở hữu đối với đất đai. [41,

tr.445].

Một quan điểm khác cho rằng: TCĐĐ là sự bất đồng, mâu thuẫn giữa

các chủ thể (sử dụng đất) trong việc xác định ai là người có quyền sử dụng

đối với một (hoặc những) thửa đất nhất định…TCĐĐ có thể bao hàm cả các

tranh chấp về địa giới giữa các đơn vị hành chính [43, tr.357-358].

Dưới góc độ là TCĐĐ theo quy định của Luật đất đai cũ thìTCĐĐ là

mọi tranh chấp phát sinh trong quan hệ đất đai bao gồm tranh chấp về quyền

sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh chấp liên quan đến

địa giới hành chính… Quan điểm này được nhiều cơ quan có thẩm quyền

giải quyết chấp nhận trong giải quyết TCĐĐ [25, tr.112].

Tuy định nghĩa TCĐĐ theo Luật Đất đai năm 2003 gây ra nhiều rối

rắm trong cách hiểu và áp dụng pháp luật trên thực tế nhưng khoản 24, Điều

3, Luật Đất đai năm 2013 lại tiếp tục giữ nguyên cách quy định như trên,

chỉ có sự thay đổi về cách sử dụng thuật ngữ: “TCĐĐ là tranh chấp về

quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan

hệ đất đai.” Có thể nói, cách định nghĩa này không mang tính khoa học vì

dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về chủ thể, đối tượng và mục đích giải

8

quyết tranh chấp.

Bên cạnh đó, Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 có một số quy

định khác liên quan đến nội hàm của khái niệm TCĐĐ như Khoản 14, Điều

22 quy định một trong những nội dung quản lý nhà nước về đất đai là “Giải

quyết tranh chấp về đất đai; Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử

dụng đất đai”; Điều 203 quy định Thẩm quyền giải quyết TCĐĐ (có thể

thuộc về TAND hoặc Ủy ban nhân dân…). Theo các quy định này, có thể

khẳng định, các chủ thể tham gia TCĐĐ chỉ bao gồm những người sử dụng

đất và như vậy, chúng tôi cho rằng, TCĐĐ liên quan đến địa giới hành

chính không phải là loại TCĐĐ được đề cập tại Khoản 26, Điều 4, Luật

Đất đai năm 2003 cũng như Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 vì

những lý do sau đây:

Thứ nhất, chủ thể TCĐĐ theo Khoản 24, Điều 3 và Điều 203, Luật Đất

đai năm 2013 phải là người sử dụng đất nhưng các chủ thể tranh chấp địa giới

hành chính không phải là người sử dụng đất;

Thứ hai, đây không phải là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người

sử dụng đất mà là tranh chấp về phân định địa giới hành chính giữa các địa

phương trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai;

Thứ ba, Luật Đất đai năm 2013 không sử dụng thuật ngữ “TCĐĐ liên

quan đến địa giới hành chính” như Luật Đất đai năm 2003 mà sử dụng thuật

ngữ “tranh chấp địa giới hành chính”, việc sử dụng thuật ngữ này là hợp lý

hơn. Vì vậy, luật mới không quy định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh

chấp địa giới hành chính trong Chương 13 về giải quyết khiếu nại, tố cáo về

đất đai mà quy định ở Chương Địa giới hành chính và điều tra cơ bản về đất

đai (Chương 3, Khoản 4, Điều 29).

Như vậy, TCĐĐ là tranh chấp về quyền sử dụng đất nhưng không phải

là tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Khoa học pháp lý nói chung không

có định nghĩa về quyền sử dụng đất mà chỉ thừa nhận quyền sử dụng đất là

9

quyền của người sử dụng đất được Nhà nước trao quyền thực hiện các quyền

sử dụng, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất và thực hiện các

giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất đó phù hợp với các hình thức sử

dụng đất theo quy định của pháp luật. Về thực tế, quyền sử dụng đất hợp pháp

của bất kỳ một chủ thể nào được Nhà nước ghi nhận thông qua việc cấp Giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ thể đó, nó là chứng thư pháp lý xác

lập mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước với người sử dụng đất trong việc sử

dụng đất. BLDS năm 2005 thừa nhận quyền sử dụng đất là một quyền tài sản,

vì vậy nó là một loại tài sản nhưng nó không phải là “tài sản gắn liền với đất.”

Điều này có nghĩa, “tranh chấp về quyền sử dụng đất” và “tranh chấp về tài

sản gắn liền với đất” là hai khái niệm không giống nhau về nội hàm vì mục

đích giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là xác định quyền sử dụng đất

thuộc về ai còn mục đích giải quyết tranh chấp tài sản gắn liền với đất là xác

định tài sản tranh chấp thuộc về ai.

Bất động sản bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với

đất đai; Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; Tài sản

khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời, theo quy định của Luật đất đai

năm 2013 thì: “Tài sản gắn liền với đất” khoản 1 Điều 203 gồm các tài sản

sau đây: nhà ở, vật kiến trúc khác gắn liền với đất đó như: Nhà bếp, nhà tắm,

nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với

nhà ở, các công trình trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất,

kinh doanh như nhà xưởng, kho hàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại

chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy

gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác.... Và

như vậy, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất có đối tượng tranh chấp là các

tài sản nói trên mà không phải là quyền sử dụng đất, chỉ có điều các tài sản

này tồn tại gắn liền với đất còn “tranh chấp về quyền sử dụng đất” có thể là

10

tranh chấp không có các tài sản gắn liền với đất.

Tóm lại, TCĐĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của những người sử

dụng đất trong việc xác định chủ thể nào có quyền sử dụng đối với diện tích đất

tranh chấp.

1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai

TCĐĐ thể hiện dấu ấn mạnh mẽ trong các thời kỳ lịch sử khác nhau

của quan hệ pháp luật đất đai. Chẳng hạn trước đây, nhà nước chỉ thừa nhận

hai hình thức sở hữu trong quan hệ đất đai: sở hữu nhà nước và sở hữu tập

thể. Bước sang nền kinh tế thị trường, nhà nước không can thiệp trực tiếp vào

hoạt động sản xuất-kinh doanh mà thực hiện quản lý thông qua hệ thống pháp

luật, chính sách thuế, đất đai được thừa nhận có giá trị, QSDĐ được tham gia

các giao dịch trên thị trường làm quan hệ đất đai ngày càng đa dạng và phức

tạp, xuất hiện nhiều quan hệ mới liên quan đến chuyển nhượng, thừa kế, góp

vốn… là gia tăng tranh chấp, mâu thuẫn đất đai.

Thứ nhất, về chủ thể: chủ thể trong quan hệ TCĐĐ phải là người sử

dụng đất (được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng

đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất) hoặc người khác có quyền, nghĩa vụ liên

quan đến thửa đất. Trường hợp tranh chấp không phát sinh giữa những chủ

thể này với nhau liên quan đến thửa đất thì đó là quan hệ tranh chấp khác. Ví

dụ: tranh chấp phát sinh giữa người sử dụng đất với Cơ quan có thẩm quyền

trong việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất thì

đó là tranh chấp về khiếu kiện hành chính.

Thứ hai, về khách thể: khách thể trong quan hệ TCĐĐ là quyền quản

lý, sử dụng, tài sản gắn liền với đất hoặc cả hai. Đối với quyền sử dụng đất thì

đây là loại tài sản đặc biệt vì pháp luật đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn

dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước sẽ trao

lại quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua các hình thức do pháp

luật quy định. Đồng thời quyền sử dụng đất cũng là tài sản (quyền tài sản)

theo quy định của BLDS, vì vậy quyền sử dụng đất có thể là đối tượng tham

11

gia các giao dịch dân sự.

Thứ ba, về nội dung: thực tế nội dung của TCĐĐ rất đa dạng và phức

tạp. Đất đai đã trở thành loại hàng hóa đặc biệt có giá trị kinh tế và giá trị của

nó được biến động theo nền kinh tế thị trường, từ đó việc quản lý và sử dụng

đất đai không chỉ đơn thuần là việc khai thác giá trị sử dụng mà bao gồm cả

giá trị sinh lời của đất. Khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và

phức tạp thì phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc này cũng

trở nên căng thẳng và trầm trọng hơn.

Thứ tư, khi TCĐĐ đã phát sinh thì sẽ phát sinh nhiều hậu quả không

mong muốn như: gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ các mối quan hệ trong

xã hội, làm mất tình đoàn kết trong nội bộ quần chúng nhân dân, ảnh hưởng

đến trật tự quản lý đất đai, đến sản xuất, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của

các bên tranh chấp và gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội.

Thứ năm, Đất đai có những mục đích sử dụng không giống nhau mà

nhà làm luật gọi đó là mục đích sử dụng đất và loại đất.Như thế dẫn đến việc

tranh chấp về đất đai sẽ bao gồm các bên khác nhau tham gia vào tranh chấp

đó. Điều này dẫn đến một điều là tranh chấp đất đai cần phải nhanh chóng,

tích cực chủ động giải quyết để bảo đảm quyền lợi của các bên, tránh tình

trạng kéo dài, có tổ chức và đông người tham gia.

Hơn nữa, do tính chất phức tạp của nguồn gốc sử dụng đất cũng như sự

xáo trộn của quan hệ đất đai qua các thời kỳ nên TCĐĐ là một trong những

loại tranh chấp có tính chất gay gắt, phức tạp nhất.

Thứ sáu, quan hệ đất đai có liên quan đến những quan hệ xã hội khác

thuộc phạm vi điều chỉnh của một số đạo luật như BLDS, Luật xây dựng,

Luật nhà ở, Luật bảo vệ môi trường, Luật kinh doanh bất động sản, Luật bảo

vệ và phát triển rừng v.v... Trên thực tế TCĐĐ xảy ra liên quan đến nhà ở,

công trình xây dựng, cây cối và vật kiến trúc khác v.v... Nên khi giải quyết

TCĐĐ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ áp dụng Luật đất đai mà

12

còn áp dụng các đạo luật khác có liên quan để xem xét, giải quyết.

1.1.3. Các dạng tranh chấp đất đai

Trên thực tế, TCĐĐ không chỉ là hiện tượng phổ biến mà trong đó còn

hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, về cơ

bản TCĐĐ được chia thành những dạng như sau:

Căn cứ vào chủ thể TCĐĐ thì TCĐĐ được phân chia thành thành các

dạng chủ yếu sau đây:

- TCĐĐ giữa cá nhân với cá nhân. Loại tranh chấp này bao gồm các

tranh chấp cụ thể sau đây:

(i) Tranh chấp về đất hương hỏa được thừa kế trong nhiều đời;

(ii) Tranh chấp trong đồng bào dân tộc thiểu số trong vấn đề khai hoang

và kinh tế mới thường diễn ra ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.

(iii) Tranh chấp cá nhân về đất đai khi ly hôn, thừa kế đất đai, ranh giới

mốc giới đất đai, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp. Đây là loại tranh chấp

có số lượng nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay.

- TCĐĐ giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức. Loại tranh chấp này bao

gồm các dạng tranh chấp cụ thể sau đây:

(i) Tranh chấp giữa gia đình và cá nhân với các cơ quan, đơn vị, tổ

chức, hữu quan của nhà nước.

(ii) TCĐĐ giữa các cá nhân, gia đình với hợp tác xã sau khi có góp tài

sản vào hợp tác xã.

- TCĐĐ giữa tổ chức với tổ chức: Dạng tranh chấp này bao gồm

TCĐĐ giữa các tổ chức, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang

nhân dân, tổ chức kinh tế với nhau hoặc giữa các tổ chức này với các tổ chức

khác như tổ chức tôn giáo, tổ chức quần chúng nhân dân ở địa phương …

- TCĐĐ liên quan đến địa giới hành chính giữa các đơn vị hành chính

tỉnh, huyện, xã.

- Nhóm tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Các TCĐĐ thuộc

13

nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về ranh giới sử dụng đất (SDĐ); (ii) Tranh

chấp về ngõ đi. Đây là những tranh chấp giữa các bên với nhau về việc ai có

quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó. Trong dạng tranh chấp

này chúng ta thường gặp các loại tranh chấp về ranh giới đất; tranh chấp về

quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong các quan hệ ly hôn, thừa kế;

tranh chấp để đòi lại đất (đất đã cho người khác mượn sử dụng mà không trả

lại, hoặc tranh chấp giữa người dân tộc thiểu số với người đi xây dựng vùng

kinh tế mới…)

Căn cứ vào đối tượng tranh chấp, TCĐĐ được phân chia thành các

dạng tranh chấp cơ bản sau đây:

- Nhóm tranh chấp liên quan đến chuyển quyền sử dụng đất. Các

TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về thừa kế quyền SDĐ; (ii)

Tranh chấp về tặng cho quyền SDĐ; (iii) Tranh chấp về chuyển nhượng

quyền SDĐ; (iv) Tranh chấp về cho thuê quyền SDĐ; (v) Tranh chấp về thế

chấp quyền SDĐ.

- Nhóm tranh chấp liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư. Các TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về việc thu hồi

đất sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế; (ii) Tranh chấp về việc thực hiện

phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

- Nhóm tranh chấp liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Các TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về điều kiện cấp giấy

chứng nhận quyền SDĐ; (ii) Tranh chấp về đối tượng được cấp giấy chứng

nhận quyền SDĐ; (iii) Tranh chấp về nghĩa vụ tài chính khi cấp giấy chứng

nhận quyền SDĐ; (iv) Tranh chấp về diện tích đất ghi trong giấy chứng nhận

quyền SDĐ so với diện tích đất thực tế người dân đang sử dụng.

- Nhóm tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Các TCĐĐ thuộc nhóm

này bao gồm: (i) Tranh chấp về chia tài sản chung là nhà, đất của vợ, chồng

khi ly hôn; (ii) Tranh chấp về chia thừa kế nhà ở gắn liền với đất.

14

Các TCĐĐ trên đây phát sinh giữa những chủ thể sau:

Thứ nhất,TCĐĐ phát sinh giữa những người SDĐ với nhau (bao gồm

giữa hộ gia đình, cá nhân với nhau; giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức;

giữa tổ chức với tổ chức) liên quan đến quyền và nghĩa vụ SDĐ. Các TCĐĐ

này mang tính phổ biến và tồn tại ở cả khu vực nông thôn và khu vực thành

thị. Đặc biệt đối với khu vực ven đô thị nơi có tốc độ đô thị hóa hoặc công

nghiệp hóa tăng nhanh làm cho đất đai ngày càng có giá thì loại TCĐĐ này

gia tăng cả về số lượng vụ việc cũng như tính chất gay gắt, phức tạp.

Thứ hai, tranh chấp giữa người SDĐ với cơ quan nhà nước (cơ quan

công quyền) liên quan đến việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân

về đất đai bao gồm: (i) Tranh chấp liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất; (ii) Tranh chấp liên quan đến việc cấp, đổi, sửa

chữa và thu hồi giấy chứng nhận quyền SDĐ. Loại tranh chấp này xuất hiện ở

cả khu vực nông thôn và khu vực đô thị. Nếu không giải quyết dứt điểm, kịp

thời các TCĐĐ này dễ dẫn đến việc phát sinh thành “điểm nóng” tiềm ẩn

nguy cơ gây mất ổn định chính trị.

1.1.4. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai

1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan

(i) Thực tế giao dịch đời sống hiện nay thì đất đai có giá trị rất cao, là

tài sản lớn của nhiều gia đình. Hiện nay, khi nền kinh tế nước ta đang ngày

càng phát triển mạnh mẽ, Nhà nước thực hiện việc cải cách về đất đai và giao

quyền sử dụng đất cho các cá nhân cơ quan tổ chức. Trong trường hợp đó,

giữa người sử dụng đất và người khác có tranh chấp đất đai về giao dịch

chuyển nhượng, thế chấp, tăng cho…

(ii) Chính sách, pháp Luật Đất đai và những chính sách có liên quan

đến đất đai của chúng ta trong thời gian qua chưa nhất quán, đồng bộ. Trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với sự tác động mặt trái của cơ

15

chế thị trường đã làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong xã hội, trong khi đó

chính sách, pháp luật về đất đai của chúng ta trong thời gian qua chưa đáp

ứng đòi hỏi của xã hội, chưa đầy đủ để có thể quản lý hiệu quả đất đai.

(iii) Ngoài ra, TCĐĐ còn có nguyên nhân do hoàn cảnh lịch sử để lại.

Khi nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung kế hoạch hóa, quan liêu bao

cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, quan hệ pháp Luật

Đất đai vốn phong phú, đa dạng và phức tạp lại càng trở nên đa dạng, phức

tạp hơn.

1.1.4.2. Nguyên nhân chủ quan

Bên cạnh nguyên nhân khách quan, TCĐĐ còn phát sinh từ các nguyên

nhân chủ quan chủ yếu sau đây:

Thứ nhất,Việc không sâu sát, không kỹ càng trong hoạt động kiểm

soát, điều chỉnh pháp luật về đất đai của Nhà nước ta trong giai đoạn vừa qua.

việc buông lỏng công tác quản lý đất đai của Nhà nước.

Cơ chế cũ ở nước ta sẽ hình thành nhiều vụ việc có tính chất phức tạp

trong giải quyết tranh chấp trong đó có tranh chấp đất đai. Nhiều vụ việc tranh

chấp kéo dài, không được xử lý triệt để. Đất đai có quá nhiều cơ quan quản lý

và kiểm soát điều này dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc” khi xảy

ra sự vụ thì đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.

Thứ hai, thực tế hiện nay cho thấy pháp luật đất đai ở Việt Nam vẫn

còn có những nội dung chưa phù hợp với thực tiễn của đất nước; nhất là các

quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; quy định về thời hạn sử

dụng đất; quy định về hạn mức giao đất nông nghiệp v.v. Việc thực hiện

chính sách bảo vệ đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa ổn định) với

chính sách phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao,

khu đô thị mới …còn bộc lộ sự mâu thuẫn, không tương thích.

Thứ ba, chính sách điều chỉnh địa giới hành chính giữa đơn vị hành các

16

cấp của các địa phương song nội dung xác định ranh giới hành chính thực

hiện không kịp thời hoặc không rõ ràng, cụ thể đã làm cho tình hình TCĐĐcó

nhiều điểm phức tạp chưa được tháo gỡ.

Thứ tư, xuất phát từ đặc trưng công tác quản lý nhà nước đất đai cho

thấy công tác cán bộ còn nhiều hạn chế bất cập, cán bộ năng lực kém, nhũng

nhiều, chưa thực sự gương mẫu.

Thứ năm, trong giai đoạn dài vừa qua, hoạt động nâng cao nhận thức

của người dân về quản lý và sử dụng đất đai còn chưa đáp ứng được yêu cầu,

nhiều người dân còn chưa biết được vị trí, vai trò của Tòa án trong giải quyết

đất đai, các giao dịch đất đai còn nhiều trường hợp mua bán viết tay, thiếu

tính pháp lý.

1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục xét xử

sơ thẩm tại Tòa án

1.2.1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp đất đai

Nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay cũng đã đưa ra

khái niệm về thuật ngữ giải quyết tranh chấp đất đai.Từ khi có Luật Đất đai

năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và Luật đất đai

năm 2013 thì khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai đã được đề cập đến

trong cac văn bản này. Tuy được xác định trong luật đất đai nhưng các yếu tố

bên trong của khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai chưa được quy định rõ

ràng và đặc biệt là được quy định trong phần giải thích về thuật ngữ. Từ điển

Luật học đã được ban hành thì cũng chưa đưa ra định nghĩa về khái niệm

TCĐĐ. Trong cuốn Giải thích Thuật ngữ Luật học năm 1999, thuật ngữ “ giải

quyết TCĐĐ” mới được giải thích cụ thể như sau: “Giải quyết TCĐĐ: Giải

quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức và trên cơ sở đó

phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị xâm hại; đồng thời truy cứu trách nhiệm

pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.” [42, tr.114]. Như vậy, giải

quyết TCĐĐ được hiểu là một phương thức giải quyết những bất đồng, mâu

17

thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức trên cơ sở đó phục hồi các quyền và lợi ích

hợp pháp bị xâm hại, đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi

phạm pháp luật đất đai.

Giải quyết TCĐĐ có một số đặc trưng cơ bản sau đây:

- Giải quyết TCĐĐ thực chất là một nội dung, yêu cầu đòi hỏi của hoạt

động quản lý nhà nước về đất đai được xác định trong Luật đất đai. Hoạt động

giải quyết tranh chấp về đất đai thuộc phạm vi thẩm quyền của nhiều cơ quan

nhà nước khác nhau khi căn cứ vào luật pháp của nhà nước để tiến hành giải

quyết tranh chấp.

- Tranh chấp đất đai thì thường khó giải quyết, nếu có giải quyết thì cũng

kéo dài, nhiều đối tượng, nhiều tầng nấc, các bên khiếu nại đến cùng gây ra tình

trạng khó khăn trong giải quyết hơn nhiều so với các loại tranh chấp khác..

- Thông qua tính chất tính đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về đất

đai, nên hoạt động giải quyết TCĐĐ phải dựa trên chính sách sở hữu đất đai.

- Việc giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam cần tôn trọng và căn cứ

vào các yếu tố mang tính tâm lý, thị hiếu, phong tục, tập quán những yếu tố

này tác động vào, làm cho hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai là dễ dàng

hơnv.v...

1.2.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng tại

Tòa án

Luật đất đai năm 2013 đã quy định về thẩm quyền giải quyết TCĐĐ

theo hướng: giao nhiều loại việc TCĐĐ cho TAND giải quyết bằng thủ tục

TTDS, giao loại việc TCĐĐ có tính chất đặc thù cho cơ quan hành chính có

thẩm quyền.

Theo Hiến pháp năm 2013 và các văn bản khác thì ở Việt Nam chỉ duy

nhất có Toà án nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử.

Trong hoạt động thì TAND thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ pháp chế,

bảo vệ tài sản của nhà nước công dân, bảo vệ quyền con người quyền công

18

dân và bảo vệ công lý.

Toà án là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến nhất và lâu đời nhất,

có lịch sử hàng nghìn năm tồn tại. Phán quyết của Tòa án có hiệu lực bắt buộc

thi hành đối với các bên tranh chấp. Để đảm bảo sự công bằng, khách quan và

công minh, pháp luật quy định cho Tòa án một cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt

động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Tóm lại, có thể thấy khác với quá trình giải quyết TCĐĐ của UBND,

giải quyết TCĐĐ của TAND được xác định là hoạt động giải quyết thông qua

hình thức tố tụng. Bắt đầu từ khi đương sự nộp đơn khởi kiện tại TAND, nếu

xét thấy vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì hướng dẫn đương

sự nộp đơn và các tài liệu cần thiết để thụ lý vụ án. Kể từ thời điểm này, quá

trình giải quyết TCĐĐ của TAND được tiến hành theo đúng các trình tự, thủ

tục theo quy định của pháp luật. Kết quả của hoạt động giải quyết tranh chấp

tại TAND là bản án hoặc quyết định của TAND.

Như vậy, thông qua việc phân tích trên, theo tác giả, khái niệm giải

quyết TCĐĐ thông qua TAND được hiểu là hoạt động tố tụng của cơ quan

TAND nhằm mục đích giải quyết những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi

ích, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật đất đai khi

người khởi kiện có đủ điều kiện nộp đơn khởi kiện tại Tòa án.

Bên cạnh những đặc điểm chung của việc giải quyết tranh chấp, việc

giải quyết TCĐĐ thông qua Toà án nhân dân còn có một số đặc điểm riêng cơ

bản sau đây:

- Việc giải quyết TCĐĐ thông qua Toà án chịu sự điều chỉnh của

nhiều đạo luật có liên quan như Bộ luật TTDS, Luật Đất đai, Luật Nhà ở,

BLDS v.v... Điều này có nghĩa là trong quá trình giải quyết TCĐĐ, Toà án

phải tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự của Bộ

luật TTDS (các quy định về luật hình thức giải quyết vụ việc TCĐĐ); đồng

thời, Thẩm phán khi thụ lý, giải quyết vụ việc phải căn cứ vào các quy định

19

của Luật Đất đai, BLDS, Luật nhà ở v.v... để xác định chứng cứ cũng như

quyền và lợi ích hợp pháp của người quản lý, sử dụng đất (các quy định về

luật nội dung giải quyết vụ việc TCĐĐ).

- Hoạt động giải quyết TCĐĐ tại Tòa án bên cạnh việc tuân thủ nghiêm

minh các đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, còn phải

tuân thủ các hướng dẫn cụ thể, trực tiếp của TAND tối cao về đường lối giải

quyết TCĐĐ đối với từng loại việc, loại tranh chấp cụ thể. Mặt khác, Án lệ cũng

là nguồn vô cùng quan trọng để người có thẩm quyền giải quyết áp dụng trong

quá trình thực thi nhiệm vụ của mình.

- Hoạt động giải quyết TCĐĐ tại Tòa án khác với các hình thức giải

quyết khác như: Hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng con đường hành chính

hay các phương thức giải quyết bằng Trọng tài… đó là khi thực hiện hoạt

động giải quyết, Tòa án được quyền nhân danh nhà nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam trong việc đưa ra các phán quyết của mình, ngoài Tòa án thì các

phương thức giải quyết khác không có quyền này. Bên cạnh đó, các phán

quyết của Tòa án về giải quyết TCĐĐđược thực thi bởi cơ quan thi hành án

nên tính khả thi của các phán quyết sẽ đảm bảo hơn.

1.2.3. Cơ sở pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố

tụng tại Tòa án

1.2.3.1. Pháp luật tố tụng dân sự

Thứ nhất, Toà án là một thiết chế của Nhà nước; hoạt động của Toà án

là một hoạt động rất đặc biệt và mang tính kỹ năng nghề nghiệp cao. Toà án

nhân dân được tổ chức theo một hệ thống độc lập nằm ngoài hệ thống cơ quan

quản lý. Hơn nữa, Toà án có một đội ngũ Thẩm phán có năng lực, trình độ và

kỹ năng xét xử chuyên nghiệp. Cơ chế vận hành của Toà án dựa trên nguyên

tắc cơ bản “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật”. Do đó, hoạt động xét xử của Tòa án đảm bảo tính chính xác, công minh.

Thứ hai, Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước và xét xử nhân danh

20

quyền lực Nhà nước. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp, Tòa án trực

tiếp thụ lý, giải quyết, các phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh

chấp hành. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thi hành bản án,

quyết định của Tòa án mà không tự nguyện chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi

hành án.

Thứ ba,Bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án là công khai sẽ tác động

làm minh bạch cho hoạt động của Toà án. Người dân thông qua hoạt động

này sẽ giám sát được hoạt động của Tòa án, bản án của tòa án từ đó sẽ có tính

thuyết phục cao hơn, tranh tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài.

Thứ tư, trong quá trình giải quyết vụ án về đất đai thì hoạt động xét xử

này của Tòa án phải đáp ứng được một yêu cầu chặt chẽ về thủ tục tố tụng với

các khâu, các giai đoạn, các nhiệm vụ kế tiếp nhau, đảm bảo tính chính xác,

tính phù hợp về yêu cầu từ đó khắc phục được những hạn chế, tồn tại của hoạt

động giải quyết, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót có thể đặt ra

trong yêu cầu.

Thứ năm, thẩm quyền theo loại vụ việc: Theo quan điểm đối mới của

Đảng, toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân, kinh

doanh, thương mại, lao động thuộc quy định của pháp luật TTDS. Việc xác

định thẩm quyền của toà án theo loại thủ tục tố tụng nào phải căn cứ vào tính

chất của loại quan hệ pháp luật nội dung mà toà án cần giải quyết. vệ và phát

triển rừng thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo thủ tục TTDS.

1.2.3.2. Pháp luật nội dung

Trong lĩnh vực giải quyết TCĐĐ, Toà án nhân dân thực hiện nhiệm vụ

xét xử sở thẩm và phúc thẩm các vụ việc TCĐĐ.

TCĐĐ là một dạng tranh chấp dân sự nên việc giải quyết tranh chấp do

Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là

cấp huyện) giải quyết. Đối với các vụ việc TCĐĐ do Toà án nhân dân cấp

21

tỉnh xét xử sơ thẩm thì việc giải quyết do Thẩm phán Toà dân sự thực hiện.

Các vụ việc TCĐĐ do TAND cấp huyện giải quyết bị kháng cáo sẽ do thẩm

phán Toà dân sự Toà án nhân dân cấp tỉnh thực hiện, còn các vụ việc TCĐĐ

do Tòa dân sự TAND cấp tỉnh thực hiện sẽ do Thẩm phán Tòa phúc thẩm

TAND tối cao tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo

quy định của pháp luật TTDS.

1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng và chi phối tới hoạt động giải quyết

tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng tại Tòa án

- Thứ nhất,Luật đất đai chòn nhiều chồng chéo, chưa đảm bảo yếu tố hệ

thống chuẩn mực. Chính sách, pháp luật đất đai ở Việt Nam có sự khác nhau

qua từng thời kỳ lịch sử như trước năm 1980, pháp luật không cấm việc mua

bán đất đai, sau năm 1980 đến trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 pháp luật

nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức. Từ

ngày 15 tháng 10 năm 1993 trở đi, pháp luật lại cho phép chuyển nhượng

quyền sử dụng đất.

- Thứ hai, việc quản lý về đất đai còn rất lỏng lẻo dẫn đến khi có yêu

cầu của Tòa án cung cấp chứng cứ, tài liệu để làm cơ sở xem xét giải quyết

tranh chấp quyền sử dụng đất nhiều khi cơ quan có thẩm quyền không cung

cấp hoặc cung cấp thiếu chính xác, không xác định được tài liệu nào là xác

thực làm cho việc phân tích, đánh giá, xem xét sự việc thiếu tính khách quan.

- Thứ ba, các chính sách về đất đai ban hành, sửa đổi nhiều, văn bản

quy phạm pháp luật còn có nhiều mâu thuẫn, thiếu thống nhất hoặc quy định

không cụ thể, có trường hợp mâu thuẫn giữa Luật đất đai và BLDS dẫn đến

việc lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để áp dụng rất khó khăn.

- Thứ tư, trong quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, đôi

khi còn tồn tại những quan điểm khác nhau do trong một thời gian dài, nhiều

quy định pháp luật về đất đai không phù hợp với thực tiễn cuộc sống, nếu giải

quyết việc tranh chấp phù hợp với cuộc sống thì lại trái với quy định của pháp

22

luật ở thời điểm giao dịch. Ví dụ: thời điểm cấm mua bán đất, nhưng vì nhu

cầu cuộc sống, người dân vẫn tiến hành mua bán đất chui, đến thời sau này

khi giá đất lên cao mới tranh chấp…

- Thứ năm, tính ổn định của pháp luật về đất đai rất thấp, đất đai gắn

liền với người dân, mỗi gia đình, mỗi tổ chức kinh tế, xã hội, các quan hệ đất

đai được hình thành ở những thời điểm khác nhau, nhưng khi pháp luật đất

đai thay đổi, Nhà nước không kịp ban hành các văn bản để ổn định quan hệ

hình thành trước đó, dẫn đến cách hiểu, vận dụng pháp luật khác nhau khi luật

mới ra đời.

- Thứ sáu, trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán chưa ngang tầm

với sự đòi hỏi của đời sống xã hội. Như trên đã phân tích, do chính sách pháp

luật về đất đai thay đổi qua từng thời kỳ nên hệ thống các văn bản pháp luật

đất đai thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với chính sách đất

đai của Nhà nước.

- Thứ bảy, tính phức tạp của việc giải quyết các tranh chấp quyền sử

dụng đất. Thực tế giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất trong những

năm qua cho thấy tính phức tạp của loại tranh chấp này được thể hiện ở nhiều

phương diện như: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp, điều kiện để công nhận

hợp đồng, cách xử lý đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi

hợp đồng này bị vô hiệu....

Tiểu kết chương 1

Giải quyết TCĐĐ bằng phương thức tố tụng tại TAND được xem là

phương pháp hữu hiệu để giải quyết các TCĐĐ. Do đó trên cơ sở quy định

của pháp luật về giải quyết TCĐĐ bằng biện pháp tố tụng tại TAND, trong

những năm qua, công tác giải quyết các TCĐĐ tại tòa án đã đạt được những

kết quả đáng khích lệ và ngày càng được chú trọng.

Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về TCĐĐ và giải

23

quyết TCĐĐ bằng phương thức tố tụng tại TAND, luận văn đã xây dựng một

cách đầy đủ và hoàn chỉnh khái niệm về TCĐĐ, giải quyết TCĐĐ bằng

phương thức tố tụng tại TAND và các đặc điểm cơ bản của phương thức giải

quyết này. Trên cơ sở đó luận văn cũng đã làm rõ được các yếu tố ảnh hưởng

24

và chi phối tới hoạt động giải quyết TCĐĐ theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TOÀ ÁN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ -THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Nội dung các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai theo

thủ tục sơ thẩm tại Tòa án

2.1.1. Các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai theo pháp luật đất

đai hiện hành

TCĐĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai

hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây là khái niệm được xác định theo

khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013. Theo khái niệm này thì chúng ta cần

lưu ý rằng đối tượng của TCĐĐ không phải là quyền sở hữu đất, các chủ thể

tham gia tranh chấp không phải là các chủ thể có quyền sở hữu đối với đất.

Đây là điều không phải tranh luận vì Điều 53 Hiến pháp năm 2013, hay Điều

4 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định rất rõ “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do

Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [29].

Theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 thì tranh chấp về

việc “ai” là người có quyền sử dụng đất bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải ở

cơ sở. Tranh chấp về đất đai phải được Hòa giải tại xã phường thị trấn, sau

khi hòa giải mà không thành thì sẽ được giải quyết theo hai yêu cầu sau đây:

Một là nếu như các bên có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc

các giấy tờ hợp pháp theo quy định tại Điều 100 của Luật đất đai thì cần giải

quyết tại Tòa án.

Hai là, nếu các bên không có giấy tờ nêu trên thì được quyền lựa chọn

một trong hai cách giải quyết là Tòa án hoặc UBND.

Như vậy, kể từ ngày 01/7/2014 (ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu

25

lực thi hành), đối với loại tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất hoặc

tranh chấp về việc xác định ai là người có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với

quyền sử dụng đất mà đương sự có GCNQSĐ hoặc có một trong các loại giấy

tờ được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 hay chưa, nhưng đương sự

khởi kiện đến Tòa án thì Tòa án đều có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục

TTDS. Đây là một trong những điểm mới của Luật Đất đai năm 2013 (trước

đây, theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, đối với loại tranh chấp này thì

điều kiện bắt buộc để xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục

TTDS là đương sự phải có GCNQSĐ hoặc có một trong các loại giấy tờ được

quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003. Tuy nhiên, nếu đất đã có giấy tờ

nêu trên nhưng đương sự khiếu nại cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc

cấp GCNQSĐ không đúng thì thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND hoặc

Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính [29].

Đối với trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở gắn liền với

quyền sử dụng đất thì:

Thứ nhất, đối với tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở liên quan đến

chính sách cải tạo nhà ở. Theo quyết định số 297/QĐ-CT ngày 02/10/1991

của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc giải quyết một số vấn đề về nhà ở

và Thông tư số 383/TT-BXD-ĐT ngày 05/10/1991 của Bộ Xây dựng hướng

dẫn thi hành Quyết định số 297/QĐ-CT, Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày

26/11/2003 của Quốc hội về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng

trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo

XHCN trước ngày 01/7/1991 và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQGH11

ngày 02/4/2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối

với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính

sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN trước ngày 01/7/1991, thì sẽ

thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND.

Thứ hai, đối với tranh chấp về quyền sở hữu nhà không liên quan đến

26

chính sách cải tạo nhà ở thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy

định của pháp luật TTDS, bởi đây là dạng cụ thể của tranh chấp về quyền sở

hữu tài sản. Về nguyên tắc, nếu tài sản tồn tại trên đất đã có GCNQSĐ hoặc

giấy tờ được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì Tòa án có thẩm

quyền giải quyết cả tranh chấp về nhà ở và tranh chấp về quyền sử dụng đất.

Đối với trường hợp nhà ở tồn tại trên đất chưa có GCNQSĐ hoặc giấy tờ

được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì theo Thông tư liên tịch

số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của TAND

tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng cục Địa chính hướng dẫn về

thẩm quyền của TAND trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến

quyền sử dụng đất thì tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất do

TAND giải quyết khi các tài sản tranh chấp gắn liền với đất có thể là một

trong các tài sản sau: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô,

nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ờ, các công trình xây dựng trên

đất để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh (nhà xưởng, kho tàng, hệ

thống tưới tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi) hoặc trên đất có những tài sản

khác như: cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây ăn quả hay cây lâu năm khác

gắn liền với việc sử dụng đất.

Bên cạnh đó, khi giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất, quyền

sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất, nếu đương sự có yêu cầu bằng văn

bản hoặc trình bày yêu cầu tại Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc

dân sự yêu cầu hủy quyết định cấp GCNQSĐ, giấy chứng nhận quyền sở hữu

nhà ở thì Tòa án sẽ xem xét hủy quyết định đó, nếu quyết định rõ ràng trái pháp

luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà

Tòa án có nhiệm vụ giải quyết (Điều 34 Bộ luật TTDS năm 2015) [29].

Theo khoản 9 Điều 26 BLTTDS năm 2015, Tòa án có thẩm quyền giải

quyết theo thủ tục TTDS đối với: “TCĐĐ theo quy định của pháp luật về đất

đai…”[29]. Do đó, việc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu nhà và quyền sử

27

dụng đất theo trình tự TTDS cụ thể là: cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự

mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án tại Tòa án (Tòa

án nơi có bất động sản). Ai khởi kiện thì người đó phải nộp án phí, hồ sơ và đơn.

Cơ sở để xác định chính xác thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ

tục TTDS, trước tiên cần dựa trên việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp

của vụ án thuộc loại TCĐĐ nào? Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013

và các văn bản hướng dẫn thi hành thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp

quyền sử dụng đất của Tòa án theo thủ tục TTDS thường thuộc các quan hệ

tranh chấp sau: (1) TCĐĐ mà trên đất không có tài sản gắn liền với quyền sử

dụng đất;và (2) Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Trong

mỗi trường hợp trên lại chia thành bốn dạng: (i) Tranh chấp ai là người có

quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất; (ii) Chia tài sản chung của

vợ chồng là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; (iii) Tranh chấp liên

quan đến các giao dịch về đất, tài sản gắn liền với đất; (iv) Thừa kế quyền sử

dụng đất, tài sản gắn liền với đất.

Xác định thẩm quyền theo lãnh thổ đó là Tòa án nơi có bất động sản có

thẩm quyền giải quyết. Do đó, tranh chấp đất sẽ do Tòa án nơi có đất có thẩm

quyền giải quyết. Nếu đất đai có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên

đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các diện tích đất giải quyết (điểm

i khoản 1 Điều 40 Bộ luật TTDS năm 2015).

2.1.2. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh

chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án

2.1.2.1. Về thời hiệu giải quyết tranh chấp

Theo quy định tại Điều 149 BLDS năm 2015 quy định: Thời hiệu khởi

kiện là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu

quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.

Theo quy định tại Điều 155 BLDS 2015 quy định: Thời hiệu khởi kiện

không áp dụng trong trường hợp sau đây: Tranh chấp quyền sử dụng đất theo

28

quy định của luật đất đai [27].

Như vậy, Điều này có nghĩa là không cần xác định về thời hiệu tranh chấp

còn các tranh chấp khác như tranh chấp về hợp đồng liên quan đến quyền sử

dụng đất thì thời hiệu khởi kiện là 02 năm kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức

biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Riêng tranh chấp về thừa kế thì thời hiệu khởi kiện để người thừa kế

yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa

kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.Thời hiệu khởi

kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để

lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế (Điều 623 BLDS năm 2015).

2.1.2.2 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm tranh chấp đất đai

* Phân định thẩm quyền giữa các cấp Tòa án

Bộ luật tố tụng dân sự quy định tại Điều 26 thì thì TCĐĐ theo quy định

của pháp luật về đất đai nằm trong những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm

quyền giải quyết của Tòa án. Điều 35, 36, 37, 38, 39, 40 BLTTDS năm 2015

quy định thẩm quyền giải quyết của Tòa án các cấp, theo đó:

- Thẩm quyền giải quyết TCĐĐ tại TAND cấp huyện theo trình tự xét

xử sơ thẩm các TCĐĐ được quy định tại Điều 26, 28 và khoản 1 Điều 30

BLTTDS.

- Thẩm quyền giải quyết TCĐĐ tại TAND cấp tỉnh theo trình tự xét xử

sơ thẩm được xác định như sau:

Thứ nhất, TCĐĐ theo quy định của pháp luật về đất đai thuộc thẩm

quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh, bao gồm những TCĐĐ mà đương

sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự

của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài, cụ thể: (1) TCĐĐ giữa

người sử dụng đất trong nước (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất) với

tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam;

29

(2) TCĐĐ giữa tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại

Việt Nam với nhau.

Thứ hai, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm

những vụ việc TCĐĐ theo quy định của pháp luật về đất đai thuộc thẩm

quyền giải quyết của TAND cấp huyện quy định tại Điều 35 BLTTDS năm

2015 mà TAND cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết

hoặc theo đề nghị của TAND cấp huyện.

* Phân định thẩm quyền Tòa án cùng cấp

Thứ nhất, các quy định có tính nguyên tắc về phân định thẩm quyền xét

xử sơ thẩm TCĐĐ giữa các Tòa án cùng cấp:

- Một là, thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản

Theo Điều 39 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án nơi có bất động sản

(BĐS) có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản. Quy định

này được xây dựng dựa trên quan niệm là Tòa án nơi có bất động sản là Tòa án

có điều kiện tốt nhất cho việc giải quyết tranh chấp. Bởi lẽ, tất cả các hồ sơ, giấy

tờ về bất động sản do cơ quan quản lý bất động sản ở đó nắm giữ. Cơ quan này

nắm vững thực trạng, nguồn gốc của bất động sản. Do vậy, Tòa án nơi có bất

động sản có điều kiện xác minh để giải quyết sát với tình hình thực tế; xem xét,

thẩm định tại chỗ (xác minh thực địa); tổ chức định giá tài sản, thu thập tài liệu

từ cơ quan nhà đất mà mất ít thời gian và chi phí so với Tòa án các nơi khác.

- Hai là, việc xác định thẩm quyền nơi bị đơn cư trú đó là tòa án nơi cư trú

của bị đơn.

Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị

đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo

thủ tục sơ thẩm những tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại, lao động…

Thứ hai, các quy định khác về phân định thẩm quyền sơ thẩm TCĐĐ

30

giữa các Tòa án cùng cấp gồm:

- Theo Điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật TTDS 2015: “Các đương sự có

quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm

việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của

nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp

về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động...”.

- quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án

cùng cấp theo sự lựa chọn của nguyên đơn Theo quy định tại Khoản 1 Điều

40 Bộ luật TTDS năm 2015 thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải

quyết TCĐĐ trong các trường hợp: (1) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc,

trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm

việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết; (2) Nếu tranh

chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu

cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết; (3)

Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về

tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư

trú, làm việc giải quyết; (4) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở

hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết; (5) Nếu tranh chấp phát sinh từ

quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực

hiện giải quyết; (6) Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác

nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm

việc, có trụ sở giải quyết; (7) Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở

nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một

trong các bất động sản giải quyết; (8) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ

cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm

thất nghiệp, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các

điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao

31

động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết.

2.1.2.3. Trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm tranh chấp đất đai

Khi có TCĐĐ xảy ra và đương sự lựa chọn hình thức giải quyết thông

qua Tòa án thì pháp luật về hình thức sẽ do luật TTDS điều chỉnh. Kể từ khi

Bộ luật TTDS ra đời và có hiệu lực thi hành thì việc giải quyết TCĐĐ thông

qua Tòa án có một số những thay đổi so với trước đây.

Thứ nhất: về việc thụ lý vụ án theo trình tự sơ thẩm:

Sau khi nhận được đơn khởi kiện thì trong thời hạn 05 ngày làm việc

Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định: tiến hành các thủ tục thụ

lý giải quyết vụ án nếu thuộc thẩm quyền.

- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án

thì người khởi kiện phải tiến hành nộp tiền tạm ứng án phí và nộp lại biên lai

để Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án.

- Kể từ thời điểm tòa án thụ lý giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét

xử là 04 tháng đối với vụ án và 02 tháng đối với việc dân sự; nếu vụ án có

tính chất phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì được gia hạn nhưng không

được vượt quá 02 tháng đối với vụ án và 01 tháng đối với yêu cầu dân sự.

Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, sau khi xét xử sơ thẩm vụ án mà các

đương sự không đồng ý với bản án, quyết định của Tòa án thì có thể kháng

cáo để tòa án cấp trên giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Đương sự phải gửi

đơn kháng cáo có đây đủ các nội dung theo yêu cầu tại Điều 272 BLTTDS

2015. Kèm theo đơn kháng cáo là các tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để

chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp.

2.1.3. Các quy định của pháp luật khác có liên quan đến giải quyết

tranh chấp đất đai

Thứ nhất, các hướng dẫn của TAND tối cao liên quan đến giải quyết

TCĐĐ: Trong văn bản giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2018 của

32

TAND tối cao, Tòa tối cao hướng dẫn 03 vấn đề sau:

Một là, đối với trường hợp ban đầu người khởi kiện yêu cầu hủy giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án đã thụ lý vụ án hành chính; sau đó,

người khởi kiện bổ sung yêu cầu giải quyết TCĐĐ có liên quan đến giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất là đối tượng khởi kiện ban đầu. Thì trong

trường hợp này, Tòa án phải hướng dẫn đương sự rút đơn khởi kiện vụ án

hành chính để khởi kiện vụ án dân sự. Trường hợp đương sự rút đơn khởi

kiện vụ án hành chính, đồng thời có đơn khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp về

đất đai thì Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành

chính để đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và xem xét, thụ lý đơn khởi

kiện để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục chung.

Hai là, đơn khởi kiện thể hiện nội dung yêu cầu giải quyết TCĐĐ,

nhưng người khởi kiện chỉ yêu cầu Tòa án hủy GCN QSDĐ đã cấp, thì Tòa án

phải tôn trọng “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện” theo quy

định tại Điều 8 của Luật Tố tụng hành chính. Theo đó thì Tòa án phải xem xét

thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Ba là, về hành vi của Chủ tịch UBND cấp xã, không tổ chức hòa giải

cơ sở đối với TCĐĐ, nên các bên tranh chấp không thực hiện được việc khởi

kiện tại Tòa án, là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Theo quy định tại

khoản 3 Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải TCĐĐ tại địa phương mình. Thủ

tục hòa giải TCĐĐ tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện trong thời hạn

không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết TCĐĐ.

Thứ hai, các án lệ

- Một là, Án lệ số 02/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán TAND tối

cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số

220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án TAND tối cao.

- Hai là, Án lệ số 04/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán TAND tối

cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định

33

220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án TAND tối cao.

- Ba là, Án lệ số 15/2017/AL về công nhận thỏa thuận miệng của các

đương sự trong việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp.

- Bốn là, Án lệ số 14/2017/AL về công nhận điều kiện của hợp đồng

tặng cho quyền sử dụng đất mà điều kiện đó không được ghi trong hợp đồng

được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm

2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm

2017 của Chánh án TAND tối cao.

- Năm là, Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng

quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển

nhượng.

2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm

tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

2.2.1. Tổng quan tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp đất đai

theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án huyện Phúc Thọ từ năm 2015 đến năm 2018

* Khái quát chung về TAND huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.

Cùng với hệ thống tổ chức ngành TAND theo quy định của Luật tổ

chức TAND năm 2014, Tòa án được tổ chức theo mô hình 4 cấp thì TAND

huyện Phúc Thọ trực thuộc TAND thành phố Hà Nội, là tòa án cấp thấp nhất,

có nhiệm vụ xét xử trên địa bàn địa giới hành chính là huyện Phúc Thọ, thành

phố Hà Nội. TAND huyện Phúc Thọgiải quyết những vụ án hình sự; những

vụ việc dân sự (bao gồm những yêu cầu và tranh chấp về dân sự; hôn nhân và

gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động); những vụ án hành chính; giải

quyết yêu cầu tuyên bố phá sản hợp tác xã, quyết định áp dụng biện pháp xử

lý hành chính. Cùng với đó, Tòa án có trách nhiệm giải quyết những việc

khác theo quy định của pháp luật (quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm

thời trong quá trình giải quyết tranh chấp; ra quyết định thi hành án hình sự;

hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định miễn chấp hành

34

hình phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên; ra quyết định xoá án tích...). Nói

tóm lại, TAND huyện Phúc Thọ có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

TAND huyện Phúc Thọ đã ngày càng trưởng thành, về tổ chức bộ máy.

Hiện nay, ở Phúc Thọ thì Tòa án nhân dân đã có biên chế 15 cán bộ, trong đó

chánh án, 2 phó chánh án, 7 thẩm phán, 5 thư ký. Kết quả giải quyết hàng

năm đều đạt 100% đối với án hình sự, trên 90% đối với vụ việc dân sự, kinh

doanh thương mại, lao động và hành chính (tính theo số liệu tổng kết thi đua

hàng năm). Tỷ lệ án phải cải sửa, hủy đã giảm đáng kể ở mức 0,1% tổng số

bản án đã xét xử. Điều này cho thấy những nỗ lực đáng ghi nhận của Tập thể

cán bộ Tòa án huyện Phúc Thọ đã đạt được trong những năm vừa qua.

* Kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự trên địa bàn huyện Phúc

Thọ, Hà Nội.

Trên địa bàn huyện Phúc Thọ, từ năm 2015 đến năm 2018, tình hình

thụ lý và giải quyết các vụ việc dân sự sơ thẩm như bảng dưới đây:

Bảng 1. Thống kê các vụ việc dân sự sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2018

tại TAND huyện Phúc Thọ

Năm Thụ lý

Tổng số án dân sự Loại việc đất đai Xét xử Tồn

Dân sự Đất đai

2015 99 30 90 25

2016 105 45 100 35

2017 109 56 105 50

2018 115 65 110 59

Qua các số liệu trên cho thấy, tranh chấp trong lĩnh vực đất đai là một

vấn đề phức tạp, chiếm một tỷ lệ rất lớn so với các tranh chấp khác phát sinh

35

trong công tác quản lý nhà nước về mọi mặt, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh

tế đất nước, ổn định xã hội. Cũng có thể thấy số lượng các vụ án về TCĐĐ

ngày càng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các vụ án dân sự.

Tìm hiểu các vụ việc TCĐĐ mà TAND huyện Phúc Thọ giải quyết thời

gian qua cho thấy, có các loại tranh chấp cơ bản sau đây: (i) tranh chấp về hợp

đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; (ii) tranh chấp về hợp đồng tặng

cho; (iii) tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất; (iv) tranh chấp về đòi lại

đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn, chiếm đất; (v) tranh chấp về chia tài sản

chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất khi ly hôn; (vi) tranh chấp về đòi lại

đất giữa cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ khi vợ chồng con trai, con dâu hoặc

vợ chồng con gái, con rể ly hôn,…

2.2.2. Đánh giá chung về tình hình giải quyết các tranh chấp đất đai

theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

2.2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân

Nhìn chung, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết TCĐĐ của TAND

trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội thời gian qua đã đạt được

những kết quả quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.

Các Toà án đã tuân thủ các quy định của Bộ luật TTDS năm 2015, nhận thức

rõ tính đặc thù trong việc giải quyết các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất,

không ngừng nâng cao chất lượng xây dựng hồ sơ vụ án, làm rõ yêu cầu của

đương sự trong vụ án, tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan, thực

hiện tốt phương châm kiên trì hoà giải đúng pháp luật trong quá trình giải

quyết, giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, dứt điểm, góp phần giải

quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữ gìn và tăng cường đoàn kết trong

mỗi gia đình và cộng đồng dân cư. Số lượng các vụ tranh chấp về quyền sử

dụng đất đã được Toà án hoà giải thành chiếm tỷ lệ đáng kể. Năm 2018, tỷ lệ

hòa giải thành của tòa ánhuyện Phúc Thọ đạt 35% trong tổng số các vụ án đã

36

giải quyết.

TAND huyện Phúc Thọ đã áp dụng đúng đắn và thống nhất các quy

định của Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 và BLDS năm

2015, các văn bản pháp luật khác về đất đai và các hướng dẫn của Toà án

nhân dân Tối cao trong công tác xét xử các vụ án về tranh chấp quyền sử

dụng đất. Đường lối xét xử các tranh chấp về quyền sử dụng đất được Toà án

tuân thủ và áp dụng pháp luật triệt để, chất lượng giải quyết được nâng cao,

đã góp phần trong việc ổn định trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế, bảo

vệ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, hiệu lực quản lý Nhà nước, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của những người được Nhà nước giao đất và bảo vệ

các giao dịch dân sự liên quan đến đất đai. Các bản án, quyết định của Toà án

huyện Phúc Thọ đã xét xử các loại tranh chấp về quyền sử dụng đất có căn cứ

pháp luật, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, được xã hội, nhân dân ủng hộ và bảo

đảm hiệu lực thi hành. Những phiên tòa mẫu với việc tranh luận công khai, dân

chủ, những bản án “thấu tình, đạt lý” đầy tính thuyết phục đã đi vào đời sống

nhân dân, tại nên niềm tin vào công lý, vào lẽ phải và công bằng xã hội.

Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết TCĐĐ của TAND

huyện Phúc Thọ trong thời gian qua cho thấy đội ngũ Thẩm phán đang ngày

càng phát triển về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu và

nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Với những kết quả đã đạt được

trong công tác xét xử các vụ án nói chung và giải quyết các TCĐĐ nói riêng,

TAND huyện Phúc Thọ hoàn toàn có đủ các điều kiện cần thiết để thực hiện

ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ mà Hiến pháp và pháp luật đã giao,

xứng đáng trở thành cơ quan trung tâm của hoạt động tư pháp, thực hiện quyền

tư pháp, góp phần xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân

và vì dân. Ngoài ra, thông qua việc xét xử, TAND còn giáo dục pháp luật, nâng

37

cao trình độ hiểu biết pháp luật cho đương sự và những người khác.

2.2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân

Những hạn chế, vướng mắc:

Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu trên, công tác áp dụng pháp luật

trong giải quyết TCĐĐ của Toà án nhân dân huyện Phúc Thọ cũng còn có

những hạn chế nhất định. Còn có một số bản án, quyết định của Toà án thể

hiện chất lượng xét xử chưa tốt dẫn đến hậu quả bản án bị hủy, gây tốn kém

thời gian và công sức, làm giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan xét xử.

Các vụ án bị kháng cáo, kháng nghị khi đưa ra xét xử phúc thẩm hoặc giám

đốc thẩm vẫn còn bị sửa, bị huỷ. Có thể nêu một số hạn chế cụ thể như sau:

Thứ nhất, hạn chế về việc đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật vể tố tụng.

- Có trường hợp cán bộ tòa án xác định không đúng thẩm quyền giải

quyết của toà án nên đã thụ lý giải quyết.

- Tòa án không áp dụng đầy đủ các quy định của Bộ luật TTDS năm

2015 để xác định tính xác thực của các chứng cứ do đương sự xuất trình trong

quá trình giải quyết vụ án.

Mặc dù đã được lưu ý trong một số Hội nghị tổng kết, rút kinh nghiệm

nhưng một số hồ sơ vụ án, tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình chỉ là bản

photocopy, trong khi những tài liệu, chứng cứ này có tính chất rất quan trọng,

có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết vụ án như: giấy vay nợ, giấy xác

nhận số tiền còn nợ, di chúc, hợp đồng chuyền nhượng quyền sử dụng đất…

Những tài liệu pho to copy này không có xác nhận của cơ quan có thẩm

quyền là đã sao y bản chính… không có chữ ký xác nhận đã đối chiếu với bản

chính của Thẩm phán nhận tài liệu, hoặc người nhận tài liệu có ký nhưng

không ghi rõ chức danh, họ và tên, không lập biên bản về việc thu nhận tài

liệu… làm cho việc xem xét đánh giá chứng cứ, xác định đường lối xử lý vụ

38

án gặp khó khăn và không đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật.

- Đối với trường hợp đương sự yêu cầu giám định và đã được tòa án

giải thích nhưng đương sự vẫn không nộp tiền chi phí giám định thì tòa án

phải lập biên bản để lưu trong hồ sơ.

- Có một số trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn đã chết trong quá trình

tố tụng và họ có người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng tòa án vẫn

xác định người đã chết là nguyên đơn hoặc bị đơn là không chính xác.

- Có trường hợp tòa án áp dụng không đúng quy định của pháp luật thủ

tục giải quyết các vụ án dân sự và pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án hành

chính nên tòa án hành chính cấp sơ thẩm thụ lý vụ án tranh chấp về quyền sử

dụng đất nhưng lại bị tòa án hành chính cấp phúc thẩm xử hủy án sơ thẩm,

chuyển hồ sơ cho tòa án dân sự thụ lý, xét xử.

- Sai sót trong khi xác định thời hiệu khởi kiện những vụ việc tranh chấp

thừa kế, yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu...

Ngoài ra, còn có hiện tượng vi phạm về thủ tục tố tụng khác trong quá

trình thụ lý, xác minh, lập hồ sơ, xét xử (ví dụ như đo đạc diện tích đất không

chính xác, định giá đất quá thấp, vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự…)

dẫn đến bản án bị kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại nhiều. Điều đó khẳng

định rằng Toà án nhân dân giải quyết các TCĐĐ còn có những hạn chế nhất

định khi áp dụng pháp luật TTDS, dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án còn

chưa chính xác, khách quan.

Vụ việc dưới đây từ thực tiễn giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng

đất khi vợi chồng ly hôn trong trường hợp quyền sử dụng đất và tài sản trên

đất không cùng chủ sở hữu và sử dụng hợp pháp của vợ và chồng trong hôn

nhân gây ra nhiều khó khăn, vương mắc trong quá trình giải quyết của Tòa án

huyện Phúc Thọ.

Nội dung tranh chấp

Chị Phạm Thị Mỹ Hạnh và anh Vũ Văn Xuân trước đây là vợ chồng.

39

Năm 2003, chị Hạnh yêu cầu ly hôn. Theo chị Hạnh, tài sản chung của vợ

chồng hiện nay chỉ còn duy nhất diện tích đất 3.193m2 thuộc thửa 58-13 tờ

bản đồ số 69-70 tọa lạc tại thôn Hoàng Giao. Chị Hạnh yêu cầu giải quyết

theo pháp luật. Ngoài ra, căn nhà cấp 1 trước đây chị và anh Xuân ở đã bị sập,

một số vật dụng gia đình không đáng kể không yêu cầu giải quyết.

Về diện tích 4.203 m2 đất thuộc thửa 215 tờ bàn đồ số 32 tọa lạc tại

thôn Hoàng Giao có nguồn gốc thuộc quyền sử dụng đất của mẹ chị là bà

Đoàn Thị Vui. Bà Vui đã được cấp GCNQSDĐ số A604054 ngày

09/09/1991. Do bà Vui sống độc thân và chỉ có một người con duy nhất là

chị, nên sau khi lấy anh Xuân, bà đã cho chị và anh Xuân trực tiếp quản lý sử

dụng từ năm 1992. Năm 1995, khi chị đang mang thai con thứ hai: Anh Xuân

tự ý làm thủ tục tách mang tên anh Xuân ngày 05/4/1996. Sau khi biết chị

không phản đối vì vợ chồng đang chung sống với nhau. Từ năm 1996 đến

năm 2001, chị và anh Xuân đã cắt chuyển nhượng cho nhiều người, sau khi

trừ đi 41,5 m2 đất bị quy hoạch mở đường, hiện nay thửa đất còn lại 376m2.

Đối với diện tích 9.632 m2 thuộc thửa 21 + 31 tờ bản đồ dố 31 tọa lạc

tại thôn Hoàng Giao, có nguồn gốc được mua của ông Trần Diệp Thạch từ

nguồn tiền bán thửa 215 vào năm 1998, đất này hiện chưa sang tên trước bạ

mà vẫn do ông Thạch đứng tên trong GCNQSDĐ số B:433771 cấp ngày

11/11/2004. Do đó, hai thửa đất này là tài sản riêng của chị, không phải là tài

sản chung của vợ chồng.

Theo anh Xuân: Thừa nhận nguồn gốc diện tích đất 4.203m2 thuộc

thửa 21, tờ bản đồ số 32 trước đây là của bà Vui. Sau khi chị Hạnh và anh

Xuân lấy nhau, bà đã cho vợ chồng nên bà Vui mới làm thủ tục chuyển

nhượng cho anh Xuân.

Ngày 16/11/2000 anh Xuân bị tai nạn giao thông sau một thời gian

ngắn do mâu thuẫn chị Hạnh bỏ nhà đi. Mẹ anh Xuân phải trực nuôi 03 con

của anh Xuân đồng thời lo chi phí chăm sóc anh, không có tiền nên bà có làm

40

đơn xin xác nhận cho anh Xuân bán đất để lấy tiền chữa bệnh. Ngày

30/7/2001 anh Xuân đã viết giấy sang nhượng đất vườn ghi nhận việc bán

9.632 m2 đất thuộc thửa 22 + 31 tờ bản đồ số 31 cho vợ chồng chị Nụ, em

ruột với giá 10 cây vàng, tương đương 46.500.000 đồng.

Nay anh Xuân, bà Hoa có quan điểm: Mặc dù là tài sản chung của vợ

chồng, anh Xuận tự ý bán không có sự đồng ý của chị Hạnh, nhưng lý do bán

là hoàn toàn chính đáng. Mặt khác, bán cho người khác không ai dám mua,

tính mạng con người là quan trọng nên chị Nụ mua để tạo điều kiện cho anh

trai chữa bệnh. Chị Hạnh phải có trách nhiệm với các chi phí của anh Xuân

trong thời gian vợ chồng chưa ly hôn. Do đó, yêu cầu Tòa án công nhận

quyền sử dụng hợp pháp mảnh đất của chị Nụ đã mua. Đối với thửa đất còn

lại, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Vợ chồng ông Trần Diệp Thạch xác nhận năm 1998 ông bà có sang

nhượng toàn bộ diện tích cho anh Xuân, chị Hạnh với giá 5,9 cây vàng. Tại

thời điểm đó, chưa có GCNQSDĐ nên hai bên không thông qua chính quyền.

Năm 2004, Nhà nước làm thủ tục và đất này đứng tên ông. Ông bà không có

yêu cầu quyền lợi gì liên quan đề nghị tòa giải quyết theo pháp luật.

Quan điểm giải quyết của TAND huyện Phúc Thọ giải quyết vụ việc

nêu trên là:

-Về tài sản chung: Chị Hạnh cho rằng diện tịch 4.203m2 đất thuộc thửa

21 tờ bản đố số 31 và diện tích đất 9.632m2 thuộc thửa 22+31 tờ bản đồ 31

tọa lạc tại ấp Hoàng Giao là tài sản riêng của chị. Về vấn đề này thấy rằng:

Theo tài liệu có trong hồ sơ thì diện tích đất 4.205m2 có GCNQSDĐ số

A604054 ngày 09/9/1991 mang tên bà Đoàn Thị Vui. Bà Vui đã chuyển

nhượng cho anh Xuân 4.203m2 đất này và ngày 29/10/1997 anh Xuân đã

được cấp GCNQSDD mới đối với diện tích đất trên.

Việc chuyển nhượng từ bà Vui sang anh Xuân, cả chị Hạnh đều biết và

không ai có ý kiền gì. Trên thực tế, thửa đất đã được anh Xuân và chị Hạnh

41

bán cho nhiều người. Hơn nữa, sau khi xảy ra tranh chấp giữa hai vợ chồng,

anh Xuận và chị Hạnh vẫn cam kết tiếp tục sang nhượng diện tích đất cho

những người mua. Vì vậy Tòa án xác định thửa đất 215 có diện tích 4.203m2

nay còn lại 376m2 là tài sản chung của vợ chồng anh Xuân, chị Hạnh.

-Đối với diện tích 9.632 m2 thuộc thửa 22+31, theo chị Hạnh và anh

Xuân: Đây là mảnh đất của ông Trần Diệp Thạch từ năm 1998 bằng nguồn

tiền bán đất từ thửa 215 (4.203m2). Như vậy, thửa đất 215 được xác định là

tài sản chung của vợ chồng nên thửa đất 22 + 31 có diện tích 9.632m2 cũng

phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng.

- Về việc giải quyết đối với thửa đất 22 + 31 có diện tích đất 9.632m2

thấy rằng:

+ Trong thời kỳ hôn nhân đang tồn tại, anh Xuân làm giấy viết tay bán

cho chị Nụ (em gái) diện tích đất 9.632m2 (bán trong thời gian anh bị tai nạn)

mà không có sự đồng ý của chị Hạnh, không được chính quyền xã xác nhận

và đã được giải thích là giao dịch trái pháp luật. Theo anh Xuân, anh phải bán

đất để chữa bệnh và nuôi 03 con nhỏ trong thời gian hơn 3 năm chị Hạnh bỏ

đi. Tòa án không công nhận giao dịch giữa chị Nụ và anh Xuân. Đồng thời

chỉ chấp nhận cho anh Xuân bán ½ diện tích đất bằng 4.916 m2 đất là phần

đất của anh Xuân, còn phần của chị Hạnh được giao cho chị quản lý. Bên

cạnh đó, chị Hạnh đồng ý hoàn lại cho anh Xuân 05 lượng vàng, bằng nửa số

vàng mà anh Xuân đã bán cho chị Nụ để giúp anh Xuân chữa bệnh, nuôi con.

* Đánh giá việc giải quyết tranh chấp

Có thể thấy, trong các giao dịch dân sự đối với tài sản chung của vợ

chồng nếu không có sự đồng ý của cả vợ và chồng, hoặc không đáp ứng về

điều kiện hình thức giao dịch, các giao dịch này thường được tòa án tuyên vô

hiệu. Việc này sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ tời quyền lợi của bên nhận giao

dịch khi không được công nhận quyền sử dụng đất.

Thứ hai là hạn chế về việc đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật nội

42

dung.

Tòa án khi áp dụng các quy định của Luật Đất đai, BLDS và các văn

bản hướng dẫn thi hành để giải quyết các TCĐĐ còn có những lúng túng và

sai sót, thể hiện ở nhiều dạng khác nhau:

- Sai sót khi xác định diện thừa kế và quyền thừa kế (trong đó có thừa

kế quyền sử dụng đất);

- Sai sót khi giải quyết các tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất

do thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa chính xác dẫn đến

xác định quyền sử dụng đất của mỗi bên không đúng hoặc buộc đập bỏ một

phần tài sản trên đất lấn chiếm mà không xem xét, cân nhắc hết tất cả các khía

cạnh như lỗi của một bên, tính khả thi, tính hợp lý của quyết định…

- Sai sót do việc đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, khách quan, chính

xác.

Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không hiểu đúng các quy định

của pháp luật dẫn đến lựa chọn các quy phạm pháp luật chưa chính xác, áp

dụng điều luật không đúng. Do đó, các đương sự không đồng ý với phán

quyết của Tòa án, tiếp tục kháng cáo và các bản án phải xét xử qua nhiều cấp,

bị sửa và hủy.

Vụ việc sau đây liên quan đến dạng tranh chấp về giải quyết hậu quả

hợp đồng do bị chấm dứt, bị hủy bỏ, bị vô hiệu.

Một trong những vụ án điển hình về việc tuyên bố hợp đồng chuyển

nhượng quyền sử dụng đất phải kể đến là vụ án giữa nguyên đơn là anh

Nguyễn Văn Ba và chị Vũ Ngọc Anh; bị đơn: anh Nguyễn Văn Hưng và chị

Trần Thị Hiền. Ngày 7/8/2015, anh Hưng và chị Hiền làm đơn khởi kiện tại

TAND huyện Phúc Thọ với nội dung:

Ngày 01/01/2015, anh Ba và chị Anh chuyển nhượng cho anh Hưng và

chị Hiền nhà và đất mà anh Ba và chị Anh đang ở trên diện tích đất 90m2 tại

thửa số 3, tờ bản đồ số 41 thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ với giá

43

900.000.000 đồng, hai bên chỉ làm giấy tờ viết tay với nhau. Sau khi thống

nhất việc chuyển nhượng nhà, đất, anh Hưng và chị Hiền đã giao đủ tiền cho

anh Ba và chị Anh. Tuy nhiên tháng 02/2015, anh Hưng và chị Hiền yêu cầu

anh Ba và chị Anh bàn giao nhà nhưng anh Ba, chị Anh thay đổi ý định không

làm thủ tục bàn giao nhà và làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

cho anh Hưng và chị Hiền theo đúng quy định. Anh Hưng, chị Hiền làm đơn

khởi kiện đề nghị TAND huyện Phúc Thọ buộc anh Ba, chị Anh phải tiếp tục

thực hiện hợp đồng, làm thủ tục sang tên nhà, đất cho anh Hưng, chị Hiền.

Anh Hưng và chị Hiền cho rằng, đã trả đủ số tiền 900.000.000 đồng

cho anh Ba, chị Anh. Tuy nhiên sau khi chuyển nhượng thì giá đất tại thị

trường có tăng nên anh Ba, chị Anh không muốn làm thủ tục chuyển nhượng

mà yêu cầu anh Hưng, chị Hiền phải trả thêm tiền. Kèm theo đơn khởi kiện

thì anh Hưng, chị Hiền nộp cho Tòa án bản viết tay “Giấy chuyển nhượng đất

+ nhà ở” có ghi tên Nguyễn Văn Ba và chị Vũ Thị Anh ở mục người chuyển

nhượng, ngoài ra không có chứng cứ nào khác.

Anh Ba và chị Anh khai: số tiền 900.000.000 đồng ghi trong giấy

chuyển nhượng thì thực tế anh, chị chỉ nhận 600.000.000 đồng còn

300.000.000 đồng là số tiền lãi gốc và lãi mà anh Ba, chị Anh vay của anh

Hưng, chị Hiền trước đó. Do chưa có tiền trả nên anh Hưng, chị Hiền ép anh

Ba, chị Anh phải chuyển nhượng nhà, đất cho anh Hưng, chị Hiền. Do vậy

anh Ba, chị Anh không đồng ý làm thủ tục sang tên cho anh Hưng, chị Hiền.

Trong quá trình Tòa án giải quyết thì TAND huyện Phúc Thọáp công

nhận hợp đồng thực tế và yêu cầu Nguyên đơn là anh Nguyễn Văn Ba, chị Vũ

Thị Anh và bị đơn là anh Nguyễn Văn Hưng và chị Trần Thị Hiền tiếp tục

thực hiện hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký

ngày 01/01/2015. Anh Ba, chị Anh có nghĩa vụ cùng với vợ chồng anh Hưng,

chị Hiền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục theo quy định của

44

pháp luật.

Sau phán quyết của Tòa Án, anh Ba và chị Anh không đồng ý nên đã

tiếp tục làm đơn kháng có và yêu cầu Tòa án nhân thành phố Hà Nội giải

quyết tranh chấp.

Với vụ việc nêu trên, theo ý kiến tác giả, khi nộp đơn khởi kiện thì anh

Hưng và chị Hiền chỉ cung cấp tài liệu duy nhất là “Giấy chuyển nhượng đất

+ nhà ở”, ngoài ra không có tài liệu, chứng cứ nào khác. Đối chiếu với quy

định tại Điều 388, 404, 405, 450, 689 thì tài liệu mà anh Hưng, chị Hiền cung

cấp không đủ điều kiện để được coi là giao dịch dân sự giữa các bên, bởi chỉ

có chữ ký của anh Ba, chị Anh ở mục người chuyển nhượng mà chưa có chữ

ký của anh Hưng, chị Hiền ở mục người nhận chuyển nhượng thì không làm

phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên. Nếu đây là tài liệu duy nhất

để Tòa án thụ lý vụ án là chưa đầy đủ, lẽ ra khi nhận đơn khởi kiện thì cán bộ

Tòa án cần xem xét kỹ tài liệu, chứng cứ và hướng dẫn, giải thích cho đương

sự để họ thực hiện việc làm thủ tục chuyển nhượng theo đúng quy định của

pháp luật, nếu không có tài liệu, chứng cứ nào khác thì Tòa án cần trả đơn

khởi kiện theo quy định tại Điều 165 và điểm d khoản 1 Điều 168 Bộ luật

TTDS.

Những hạn chế này là bởi một số nguyên nhân sau đây:

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai và có liên quan đến đất

đai chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và khó áp dụng, chậm được hướng dẫn thi hành

Nghị quyết số 48/NQTƯ, ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị

"Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020" đã đánh giá như sau:

Hiện nay, Tòa án vẫn đang thụ lý và giải quyết cả những tranh chấp

xuất phát từ các giao dịch dân sự xác lập từ thập kỷ 50, 60 của thế kỷ XX với

những biến động phức tạp về chủ sở hữu, người quản lý sử dụng, về kết cấu

nhà đất, về nghĩa vụ của các bên tranh chấp, về đường lối xử lý. Có những vụ

45

sau 8, 9 lần xét xử ở các cấp Tòa án với hàng chục năm theo kiện vẫn chưa

được giải quyết triệt để. Những vụ án liên quan đến quyền sử dụng đất thường

bị khiếu nại kéo dài vì việc xác định giá trị của nhà đất ở Tòa án vẫn còn khác

xa với giá trị thực tế dẫn đến việc tranh chấp để được chia đất, nhà bằng hiện

vật trở nên căng thẳng, gay gắt.

Chính sách, pháp luật về đất đai được ban hành nhiều và thay đổi liên

tục qua các giai đoạn lịch sử của đất nước, nên tranh chấp nhà đất phát sinh từ

các giao dịch dân sự được xác lập ở những thời điểm khác nhau thì được áp

dụng những quy phạm pháp luật khác nhau và cách giải quyết cũng khác

nhau. Vì vậy, khi giải quyết Thẩm phán phải lựa chọn quy phạm phù hợp với

từng thời điểm giao kết hợp đồng với từng loại quan hệ pháp luật. Cùng một

vụ án nhưng việc xét xử khác nhau, tồn tại nhiều quan điểm là do trong một

thời gian dài, nhiều quy định pháp luật về đất đai không phù hợp với thực tiễn

cuộc sống, nếu giải quyết việc tranh chấp phù hợp với cuộc sống thì lại trái

với quy định của pháp luật ở thời điểm giao dịch. Ví dụ: thời điểm cấm mua

bán đất nhưng vì nhu cầu người dân vẫn mua bán chui, nhiều năm sau khi giá

đất lên mới tranh chấp....

Tính ổn định của pháp luật về đất đai rất thấp, trong khi đất đai gắn liền

với mỗi người dân, mỗi gia đình, tổ chức kinh tế, xã hội, các quan hệ đất đai

được hình thành ở những thời điểm khác nhau, nhưng khi pháp luật đất đai thay

đổi, Nhà nước không ban hành kịp các văn bản ổn định quan hệ hình thành trước

đó, dẫn đến cách hiểu, vận dụng pháp luật khác nhau khi luật mới ra đời nên Tòa

án gặp rất nhiều khó khăn khi vận dụng pháp luật, trong khi pháp luật đất đai

thay đổi liên tiếp và có những thay đổi căn bản.

Văn bản quy phạm pháp luật còn mâu thuẫn, trái ngược, chồng chéo nhau

Thực tế trong thời gian qua, trong lĩnh vực tư pháp, việc giải thích pháp

luật đều được thể hiện dưới dạng Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND

tối cao và Thông tư liên tịch nhưng các văn bản này có lúc chưa ban hành kịp

46

thời vì vậy có nhiều cách hiểu khác nhau trong một điều luật dẫn đến việc cấp

Tòa án này căn cứ vào văn bản này để giải quyết vụ án, cấp Tòa án khác lại

căn cứ vào văn bản khác để sửa chữa, hủy án. Hoặc có trường hợp có cùng

một vấn đề nhưng lại có nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi

các cơ quan có thẩm quyền khác nhau và đều cùng có hiệu lực pháp lý vì vậy

người Thẩm phán sẽ phải áp dụng văn bản nào để xét xử trong rất nhiều văn bản

pháp luật từ cơ quan trung ương đến các cơ quan địa phương. Cái khó của người

Thẩm phán không phải là không biết hết các loại văn bản có liên quan hay không

mà chính là chỉ được áp dụng pháp luật chứ không có quyền tuyên bố một văn

bản pháp luật nào trái với hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh do cơ quan lập pháp

ban hành.

Hiện nay, chúng ta đang lúng túng trong quá trình áp dụng pháp luật

khi có sự chồng chéo, mâu thuẫn do các cấp ban hành. Mặt khác, Tòa án cũng

không có quyền tuyên bố một văn bản nào trái với Hiến pháp hay trái với một

đạo luật. Như vậy, áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp

quyền sử dụng đất của TAND là công việc đòi hỏi phải cập nhật các văn bản

quy phạm pháp luật về đất đai và các văn bản có liên quan đến đất đai.

Công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của TAND tối cao

trong năm 2012 chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn công tác xét xử.

Nguyên nhân là do đội ngũ cán bộ khoa học xét xử còn thiếu và yếu; việc

tổng kết thực tiễn công tác xét xử trong toàn ngành còn hạn chế nên chưa kịp

thời phát hiện để đề xuất những vướng mắc, làm cơ sở cho việc ban hành các

nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của Hội đồng Thẩm phán.

Bên cạnh đó, việc ban hành các văn bản hướng dẫn luôn gắn với việc tổng kết

các vấn đề vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn xét xử của Toà án các cấp, nên

đòi hỏi phải có thời gian, vật chất nhất định; đồng thời theo quy định của Luật

ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ

47

của các cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Do đó, những trường hợp chậm nhận

được ý kiến góp ý từ phía cơ quan, tổ chức hữu quan cũng ảnh hưởng tới tiến

độ ban hành văn bản quy phạm pháp luật của TAND tối cao.

Số lượng, chất lượng đội ngũ Thẩm phán chưa thực sự đáp ứng yêu

cầu mới.

So với biên chế được phân bổ, hiện toàn ngành Tòa án còn thiếu về số

lượng cán bộ và Thẩm phán là 716 người, chủ yếu là ở cấp huyện, do vậy,

huyện Phúc Thọ cũng không nằm ngoài tình trạng này. Tình trạng thiếu cán

bộ, Thẩm phán ở một số Tòa án địa phương là một khuyết điểm, thiếu sót của

ngành trong nhiều năm qua. Nguyên nhân của tình trạng này là do ở các địa

phương này rất thiếu nguồn để tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, trong khi đó

chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức Tòa án hiện nay còn nhiều bất

cập, nên chưa tạo điều kiện để thu hút cán bộ có trình độ cho Tòa án, đặc biệt

là các địa phương vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, ngành TAND cũng chưa

có các giải pháp đồng bộ, toàn diện trong việc tìm và tạo nguồn tuyển dụng

cán bộ, bổ nhiệm Thẩm phán cho các địa phương này.

Đây là một vấn đề lớn có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan,

nguyên nhân chủ quan có phần thuộc về công tác quản lý của Tòa án các cấp,

nhất là khâu tổ chức cán bộ thuộc đơn vị mình phụ trách, chưa coi trọng đúng

mức công tác quy hoạch, tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán và kiến nghị đề xuất

tuyển dụng cán bộ, công chức khi thiếu nguồn tuyển dụng. Trong những năm

qua, mặc dù đã được quan tâm bồi dưỡng qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng về

nghiệp vụ trong việc xét xử các tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng thực tế

cho thấy trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực xét xử đối với các vụ án

dân sự nói chung (các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng) của một

số Thẩm phán còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật và

phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức Tòa án các cấp chưa

48

thực sự đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi trong tình hình mới.

Giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất là rất phức tạp đòi hỏi

người Thẩm phán phải có kiến thức rộng, toàn diện và sâu sắc nhưng có

những Thẩm phán không cố gắng học tập, nghiên cứu kỹ các tài liệu, cũng

như cập nhật thông tin dẫn đến việc đánh giá chứng cứ thiếu khách quan toàn

diện nên có quyết định sai lầm, thậm chí có những trường hợp cá biệt tiêu

cực, vi phạm pháp luật, làm trái công vụ.

Trong tình hình hiện nay, trình độ, năng lực của một số cán bộ, Thẩm

phán chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, kiến thức

kinh tế xã hội, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học còn hạn chế. Việc để các

vụ án tồn đọng, quá hạn luật định ở nhiều Tòa án là do nhiều nguyên nhân

trong đó có nguyên nhân do thiếu Thẩm phán. Do phải xét xử nhiều vụ án

trong một tháng nên việc nghiên cứu hồ sơ vụ án có khi chưa kỹ. Những vụ

án tranh chấp về quyền sử dụng đất rất phức tạp cần phải tìm hiểu nhiều loại

văn bản và các văn bản qua từng thời kỳ cũng khác nhau, nên việc lựa chọn

áp dụng văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu dồn vào Thẩm phán - Chủ tọa

phiên tòa, trong khi đó các Thẩm phán cánh gà cùng tham gia xét xử không

có thời gian để nghiên cứu hồ sơ. Với số lượng án được giao phải giải quyết,

với tính chất phức tạp của vụ án ngày càng tăng đã ảnh hưởng đến chất lượng

áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử.

Mặt khác, sự yếu kém còn thể hiện ở việc không cập nhật các văn bản,

thông tin về lĩnh vực đất đai, dễ bỏ qua các tài liệu chứng cứ có giá trị pháp lý, có

ý nghĩa chứng minh để giải quyết vụ án một cách đúng đắn theo quy định của

pháp luật. Trình độ năng lực nghề nghiệp yếu kém của Thẩm phán ngoài việc

không đánh giá được chứng cứ còn thể hiện ở việc tìm hiểu, lựa chọn quy phạm

pháp luật không chính xác, không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.

Hạn chế bất cập trong chế định hội thẩm nhân dân.

Hội thẩm nhân dân có vị trí quan trọng không thể thiếu được trong hoạt

động tư pháp. Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, bên cạnh việc tiếp tục khẳng

49

định và thực hiện tốt nguyên tắc "Tòa án xét xử có Hội thẩm nhân dân tham

gia", "khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán" thì chế

định Hội thẩm nhân dân cần được nghiên cứu để khắc phục những bất cập,

giảm thiểu những ảnh hưởng không tốt đến chất lượng xét xử của TAND.

Qua thực tế xét xử ở Tòa án cấp sơ thẩm TAND huyện Phúc Thọ cho

thấy, trình độ pháp luật của Hội thẩm nhân dân chưa tương xứng với nhiệm

vụ được giao để thực hiện "ngang quyền với Thẩm phán". Tỷ lệ Hội thẩm

nhân dân chiếm đa số trong Hội đồng xét xử nhưng chế độ trách nhiệm không

rõ ràng chính vì vậy sự tham gia của họ mang nặng tính hình thức. Do không

có trình độ nên họ dựa dẫm, ỷ lại vào Thẩm phán hoặc có ý kiến khác với

Thẩm phán nhưng không thể hiện được tính đúng đắn của việc nhận thức

pháp luật. Thành phần tham gia Hội thẩm nhân dân Tòa án rất đa dạng như

giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, cán bộ tổ dân phố,

cán bộ Hội liên hiệp phụ nữ và cán bộ đương chức ở cơ quan hành chính sự

nghiệp. Tuy nhiên vì nhiều lý do, họ không tham gia xét xử được gây khó

khăn cho việc mở phiên tòa. Vì không có hình thức tập hợp, sinh hoạt nên các

Hội thẩm TAND ít có điều kiện học tập, trao đổi kinh nghiệm xét xử về các

vấn đề nghiệp vụ. Hội thẩm nhân dân chỉ làm việc với nhau khi được phân

công xét xử cùng một hội đồng. Kết quả xét xử sau khi Tòa án tuyên án sơ

thẩm cũng đồng nghĩa với việc kết thúc nhiệm vụ của người Hội thẩm nhân

dân đó đối với vụ án, họ không hề quan tâm đến kết quả xét xử. Trong trường

hợp bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị và cấp trên có cải sửa thì

Hội thẩm nhân dân cũng không chịu trách nhiệm. Pháp luật hiện hành quy

định về tiêu chuẩn về trình độ pháp luật của Hội thẩm nhân dân không cao,

chỉ cần có kiến thức pháp luật, tức là có trình độ hiểu biết pháp luật ở mức độ

nhất định là có thể được bầu vào Hội thẩm nhân dân vì vậy Hội thẩm nhân

dân "ngang quyền" với Thẩm phán là rất khó khăn.

Những vấn đề về chuyên môn trong việc giải quyết các tranh chấp về

quyền sử dụng đất không được các Hội thẩm nhân dân hiểu một cách thấu đáo

50

như: khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì giải quyết

hậu quả của hợp đồng vô hiệu như thế nào? Việc chuyển nhượng quyền sử

dụng đất đã qua từng thời kỳ có phù hợp với pháp luật của từng thời kỳ đó

không? Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã đảm bảo về nội dung,

hình thức theo quy định của pháp luật không? Do không có điều kiện để hiểu

được những vấn đề chuyên sâu về pháp luật đất đai như vậy nên người Hội

thẩm nhân dân phải dựa vào ý kiến của Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa. Vì

vậy, trách nhiệm xét xử dồn hết vào một người Thẩm phán (chủ tọa phiên tòa)

từ khâu nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử, thẩm vấn tại phiên tòa, nghị án,

tuyên bản án, quyết định. Nguyên tắc "Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và

quyết định theo đa số", và nguyên tắc "khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang

quyền với Thẩm phán" khi giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất chưa

thực sự chính xác, có sức thuyết phục.

Tiểu kết chương 2

Pháp luật về nội dung được áp dụng để giải quyết TCĐĐ trước hết phải

kể đến Luật đất đai, BLDS ngoài ra còn có các luật khác như Luật xây dựng, Luật

Nhà ở, Luật hôn nhân và gia đình, các hướng dẫn của TAND tối cao cũng như

những Án lệ được Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ban hành.. Những quy định

có liên quan này này được vận dụng một cách linh hoạt trong từng trường hợp giải

quyết các TCĐĐ.Có thể thấy, TCĐĐ là một loại tranh chấp phức tạp, phải vận

dụng quy phạm pháp luật ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong quá trình giải quyết

mới đảm bảo tính chính xác, toàn diện.

Về xác định thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải giải quyết các TCĐĐ được

thực hiện trên cơ sở các quy định của Bộ luật TTDS 2015. Hiện nay, xu hướng

xây dựng pháp luật là chuyển thẩm quyền giải quyết các TCĐĐ sang cho Tòa án

bởi vì Tòa án là cơ quan độc lập, có hệ thống thẩm phán, cán bộ có trình độ hiểu

biết, áp dụng cao, được qua đào tạo chính quy nên chất lượng giải quyết sẽ được

51

nâng cao hơn.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GÓP

PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT

ĐAI THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN

3.1.Định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả về

giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ:

Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ

nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 Cải cách tư pháp khẩn trương,

đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế công

tố gắn liền với hoạt động điều tra.

Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp

luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam..

Đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng hệ thống các văn

bản pháp luật chính là quan điểm cơ bản để nâng cao chất lượng áp dụng pháp

luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và chất lượng áp dụng pháp

luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng.

Để nâng cao hiệu quả trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng

đất tại TAND cần quán triệt những quan điểm sau đây:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của cơ

quan tư pháp trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật của TAND, nâng cao

bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm phán.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung, với

52

TAND nói riêng là toàn diện và tuyệt đối. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác xét xử của TAND không có nghĩa là tổ chức Đảng, Đảng

viên can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, quyết định chấp nhận hay

không chấp nhận đơn khởi kiện của đương sự hoặc chỉ đạo việc ra bản án,

quyết định bảo vệ cho nguyên đơn, hay bị đơn. Sự lãnh đạo của Đảng được

thể hiện bằng đường lối xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, bằng việc chủ

trương ban hành các quy phạm pháp luật đúng đắn, kịp thời, bằng phương hướng

đổi mới, tổ chức và hoạt động của TAND làm sao có hiệu quả hơn, bản án, quyết

định của Tòa án tuyên ngày càng có chất lượng. Đường lối chủ trương, chính

sách của Đảng về việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngành TAND có đủ số

lượng, đảm bảo chất lượng, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cách mạng của

người Thẩm phán.

Hai là, nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật việc giải quyết các tranh

chấp quyền sử dụng đất tại TAND phải gắn liền với việc thực hiện đồng bộ

các yêu cầu, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do

dân, vì dân.

Việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhằm nâng cao chất

lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND nói chung và nâng

cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền

sử dụng đất nói riêng tại TAND, không thể tách rời với các nội dung của việc

xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN. Chất lượng áp dụng pháp luật

trong hoạt động xét xử của TAND gắn liền với chất lượng hoạt động của cơ

quan khác, vì vậy để cải cách tư pháp có hiệu quả Đảng và Nhà nước ta chủ

trương củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án, viện

kiểm sát, cơ quan điều tra, cải cách nền hành chính Nhà nước, đổi mới đội

ngũ cán bộ, công chức. Tất cả những yêu cầu, nội dung trên phải được thực

hiện một cách đồng bộ và có những bước đi thích hợp.

Ba là, đổi mới công tác xét xử của TAND theo hướng mở rộng dân chủ,

53

tranh luận tại phiên tòa, thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tố tụng.

Tòa án là trung tâm của hoạt động tư pháp, vì vậy việc nâng cao chất

lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và trong việc giải

quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng tại TAND chính là một

trong những nội dung trọng tâm của cải cách tư pháp.

Trong hoạt động xét xử của Tòa án việc thực hiện đầy đủ nguyên tắc đảm

bảo tranh tụng tại phiên tòa xét xử góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các

vụ án, đảm bảo chất lượng ban hành các bản án, quyết định theo đúng pháp luật.

Coi trọng và mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo đường lối của Đảng cũng là

một trong những nội dung thiết thực để thực hiện dân chủ trong hoạt động áp

dụng pháp luật khi giải quyết vụ án.

Bốn là, áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử

dụng đất tại Tòa án phải gắn với nghĩa vụ phổ biến tuyên truyền, giáo dục

nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.

Như phân tích ở trên, pháp luật nước ta về đất đai không ổn định và quá

nhiều văn bản hướng dẫn thi hành vì vậy áp dụng pháp luật trong phiên tòa giải

quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất không chỉ có tác dụng giáo dục ý thức

tuân theo pháp luật của nhân dân mà còn giáo dục họ ý thức tự bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả

thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm

tại Tòa án

3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai

Nghị quyết số 48-NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm

2020 đã nêu rõ "nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ,

thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Tiến độ xây dựng

pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao." Một Nhà

54

nước pháp quyền XHCN của dân do dân vì dân không chỉ đòi hỏi có một hệ

thống pháp luật đồng bộ thống nhất và hoàn thiện mà còn phải có chất lượng

cao và ổn định để thực sự trở thành những nguyên tắc xử sự chung, mẫu mực.

Để áp dụng pháp luật tốt trước hết cần phải có quy phạm pháp luật tốt. Chúng

tôi cho rằng đây là một trong những giải pháp quan trọng nhất bởi lẽ khi Nhà

nước xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể và có chất lượng

sẽ là cơ sở pháp lý để TAND áp dụng pháp luật thống nhất và có hiệu quả

cao. Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới theo đường lối sáng suốt của

Đảng. Nhiều quan hệ xã hội mới hình thành và phát triển cùng với sự thay đổi

một số chính sách cụ thể trong khi văn bản quy phạm pháp luật lại có tính

khái quát cao, định ra những quy luật chung nhất và phổ biến nhất từ những

vấn đề cụ thể. Vì vậy, Luật sau khi ban hành chậm đi vào cuộc sống, phải chờ

nghị định, thông tư hướng dẫn quy định cụ thể. Do đó, theo chúng tôi, Luật

chỉ nên quy định những vấn đề chung và những vấn đề cụ thể mang tính ổn

định, còn những vấn đề biến động thì nên để cho các văn bản dưới Luật quy

định và cơ quan soạn thảo luật cần chuẩn bị các văn bản thi hành luật ngay

khi trình thông qua văn bản luật. Có như vậy thì văn bản luật mới có điều kiện

để đi ngay vào cuộc sống ngay khi ban hành. Bên cạnh đó, Nhà nước cần

quan tâm đến công tác giải thích chính thức pháp luật để tạo ra cách hiểu

chính xác và thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật. Với một hệ thống

văn bản pháp luật đầy đủ, được hướng dẫn thi hành một cách thống nhất, kịp

thời, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội thì việc áp dụng pháp

luật nói chung, áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền

sử dụng đất tại TAND nói riêng sẽ được thực hiện tốt, chất lượng giải quyết

các tranh chấp quyền sử dụng đất được nâng cao. Trong những năm qua,

ngành TAND đã thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp

dụng thống nhất pháp luật. Những dự án luật, pháp lệnh được Quốc hội, ủy

ban Thường vụ Quốc hội phân công chủ trì soạn thảo đều được ngành TAND

55

thực hiện đúng tiến độ, đạt chất lượng cao. Trong công tác hướng dẫn áp dụng

pháp luật, ngành TAND luôn chủ động phối hợp với các cơ quan có thẩm

quyền để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã

làm tốt công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất trong toàn ngành. Đặc biệt

trong những năm gần đây khi hệ thống pháp luật của Nhà nước ta có nhiều

sửa đổi, bổ sung, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành nhiều

thông tư, nghị quyết hướng dẫn kịp thời góp phần nâng cao chất lượng xét xử

các vụ án. Ngoài ra, TAND tối cao còn ban hành hàng nghìn văn bản trao đổi

nghiệp vụ để giúp các Tòa án địa phương áp dụng đúng và thống nhất pháp

luật trong từng lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dân sự. Cùng với việc đẩy mạnh

công tác xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật

ngành TAND còn rất quan tâm tới công tác tập huấn các văn bản pháp luật

mới trong toàn ngành, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho

các cán bộ, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Thực tế áp dụng pháp luật cho

thấy các quy phạm pháp luật được xây dựng trên cơ sở khái quát các hành vi

của các chủ thể trong xã hội. Tuy nhiên, nội dung của các quy phạm pháp luật

không phải lúc nào cũng rõ ràng dễ hiểu và hoàn toàn sát hợp với tình huống

phát sinh trong cuộc sống, vì vậy cần có hoạt động giải thích pháp luật. Thực

tế cho thấy dù hiến pháp, luật có ghi nhận hay không thì trong lịch sử tư pháp

của Việt Nam, Tòa án luôn có vai trò lớn trong việc giải thích pháp luật qua

các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán và các công văn hướng dẫn của

TAND tối cao. Điều 5 BLDS năm 2015 quy định "Trường hợp các bên không

có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng

tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật

dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”. Do vậy, dẫn đến việc chính thức

thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp như là một nguồn luật trong hệ thống

pháp luật Việt Nam. Thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp dẫn đến thừa

56

nhận quyền giải thích luật của Tòa án. Luật ban hành văn bản pháp luật đã

chính thức thừa nhận Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao là

văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ nhất, về vấn đề hòa giải tại UBND cấp xã

- Một là, bổ sung quy định đối với trường hợp UBND cấp xã nơi có đất

tranh chấp tổ chức buổi hoà giải nhưng một trong các bên hoặc hai bên đương

sự vắng mặt không có lý do chính đáng thì UBND cấp xã vấn tiến hành hòa

giải vắng mặt, lập biên bản hòa giải mà không có chữ ký của bên vắng mặt;

đồng thời tống đạt văn bản đến bên vắng mặt trong buổi hòa giải. Biên bản

hòa giải là căn cứ để các bên đương sự tiến hành các thủ tục tiếp theo như

khởi kiện TCĐĐ tại Tòa án hoặc gửi đơn yêu cầu đến UBND cấp có thẩm

quyền giải quyết.

- Hai là, trường hợp UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp hoà giải thành

nhưng sau đó một trong các bên lại thay đổi ý kiến không chấp nhận kết quả

hoà giải thành thì không cần tiếp tục các thủ tục hòa giải vì một bên tranh

chấp đã không có thiện chí chấp hành theo sự thỏa thuận của các bên nếu tiếp

tục hòa giải chỉ làm kéo dài quá trình giải quyết vụ việc, làm ảnh hưởng đến

quyền lợi của các bên. Trong trường hợp này nên hướng dẫn các bên khỏi

kiện ra Tòa án hoặc gửi đơn yêu cầu giải quyết TCĐĐ đến UBND cấp có

thẩm quyền để được giải quyết.

Thứ hai, cần có những nghiên cứu về lộ trình chuyển giao các tranh

chấp về quyền sử dụng đất cho Tòa án.

Tuy Luật đất đai 2013 đã mở rộng hơn thẩm quyền của Tòa án trong

giải quyết TCĐĐ của Tòa án, nhưng trong thời gian tới cần nghiên cứu để xác

định thời điểm phù hợp chuyển giao tất cả các TCĐĐ cho Tòa án thụ lý giải

quyết. Việc chuyển giao này là phù hợp với thực tiễn và yêu cầu khách quan.

Bởi vì, khi các TCĐĐ do Tòa án giải quyết sẽ đảm bảo sự khách quan, công

bằng, chính xác hơn trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất;

57

nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp và phù hợp với thông lệ

quốc tế. Việc pháp luật nước ta hiện nay quy định thẩm quyền giải quyết một

số loại TCĐĐ thuộc UBND chỉ bước đệm, là giai đoạn quá độ trong thời

điểm nhà nước chưa hoàn tất việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho

các tổ chức, cá nhân. Chuyển giao thẩm quyền giải quyết TCĐĐ cho Tòa án

cũng sẽ giảm được áp lực cho các cơ quan nhà nước, đảm bảo việc giải quyết

tranh chấp được chính xác, khách quan hơn do cán bộ làm công tác giải quyết

TCĐĐ tại các cơ quan nhà nước hiện nay thường là kiêm nhiệm, trình độ hiểu

biết, áp dụng pháp luật chưa cao.

Thứ ba, bổ sung thêm các quy định để làm rõ hơn vai trò đại diện chủ

sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước.

Luật Đất đai năm 2013 ghi nhận đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà

nước đại diện chủ sở hữu. Trong vai trò là đại diện chủ sở hữu về đất đai, Nhà

nước phân cấp thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng

đất và thu hồi đất quá lớn cho UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện song pháp

luật đất đai lại chưa xác lập được cơ chế phù hợp để kiểm soát, giám sát

quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của các cơ quan Nhà nước.

Điều này dẫn đến tình trạng có sự lạm quyền trong việc chuyển mục đích sử

dụng đất nông nghiệp, giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất; thậm chí trong

nhiều trường hợp có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực gây bất bình trong nhân

dân. Vì vậy, Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ chế hữu hiệu

để giám sát các cơ quan Nhà nước thực hiện vai trò chủ sở hữu đất đai; tăng

cường hoạt động xem xét, đánh giá việc phân cấp về giao đất, cho thuê đất,

thu hồi đất giữa trung ương và địa phương nhằm khắc phục sự lạm quyền

trong giao đất, cho thuê đất…

Thứ tư, cần nghiên cứu về vấn đề cho phép các tổ chức tín dụng phát

mại tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất khi đến hạn mà

58

bên thế chấp không thanh toán được khoản vay.

Một lượng lớn TCĐĐ hiện nay mà tòa án đang thụ lý giải quyết là

tranh chấp về hợp đồng thế chấp tài sản tại các tổ chức tín dụng. Khi đến hạn,

mà bên thế chấp không thanh toán được khoản nợ thì các tổ chức tín dụng

không được quyền tự phát mại tài sản để thu hồi nợ mà phải nộp đơn yêu cầu

giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Việc khởi kiện này vô hình chung đã làm

chậm quá trình thu hồi vốn của các tổ chức tín dụng vì quá trình giải quyết

các TCĐĐ thường phức tạp, bị kéo dài vì do sự không hợp tác, cố tình kéo dài

của bên thế chấp và phải trải qua nhiều cấp xét xử. Do đó, pháp luật đất đai

nên chăng có quy định về quyền tự phát mại tài sản là quyền sử dụng đất của

các tổ chức tín dụng khi các tổ chức, các nhân thế chấp tài sản là quyền sử

dụng đất không thanh toán được các khoản nợ.

3.2.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong việc

giải quyết các tranh chấp đất đai

Thứ nhất, sửa đổi các quy định của pháp luật TTDS trong việc xem xét,

thẩm định tại chỗ đối với các TCĐĐ

Trong thực tế giải quyết những vụ việc TCĐĐ cho thấy, việc xem xét,

thẩm định tại chỗ nhà đất là rất cần thiết bởi TCĐĐ là một loại tranh chấp đặc

thù, đối tượng tranh chấp là loại tài sản đặc biệt, có giá trị và trải qua nhiều

biến động trong quá trình Nhà nước thực hiện các chính sách cải tạo đất đai.

Thứ hai, về vấn đề định giá tài sản nên quy định theo hướng để Tòa án

trưng cầu Trung tâm giám định về giá để tiến hành định giá tài sản tranh chấp

trong vụ án.

Trong thực tế, quyền sử dụng đất là một tài sản có giá trịlớn, việc giải

quyết các vụ việc TCĐĐ thường xuyên phải tiến hành định giá nhằm xác định

giá trị tài sản nhưng pháp luật hiện nay vẫn chưa coi việc định giá là một hình

thức giám định về giá và chưa phát triển các trung tâm giám định về giá, vì

vậy khi cần xác định giá trị tài sản đang tranh chấp Tòa án phải thành lập Hội

59

đồng định giá.

Theo quy định của Bộ luật TTDS thì Tòa án được thành lập hội đồng

thẩm định giá, tuy nhiên, quy định này được nhận thức và áp dụng chưa thống

nhất. Một thực tế xảy ra khá phổ biến hiện nay Chủ tịch Hội đồng là đại diện

cơ quan tài chính, các thành viên khác của Hội đồng thẩm định giá Toà án

thường chọn cán bộ của UBND cấp xã (thậm chí là những người trong ban

cán sự thôn, bản) tham gia bởi vì những người này dễ mời tham gia hơn

những cán bộ ở cấp khác; nhưng do trình độ nhận thức và trực tiếp về pháp

luật còn hạn chế nên những quyết định có có thể dẫn đến những sai lầm, đưa

ra những kết quả định giá không chính xác, thiếu chuyên nghiệp. Do đó, để

khắc phục những hạn chế này cần phải coi định giá là một loại giám định về

giá, đòi hỏi những người tham gia định giá phải là các nhà chuyên môn có

kiến thức sâu sắc, am tường giá cả thị trường đối với tài sản cần định giá nói

chung và quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất nói riêng để đảm bảo cho

việc định giá được thuận lợi. Do đó, nên khuyến khích thành lập các trung

tâm thẩm định về giá và khuyến khích các bên đương sự trưng cầu các trung

tâm giám định về giá để đảm bảo tính công bằng, khách quan của kết quả

thẩm định giá.

Thứ ba, bổ sung quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của

các cơ quan liên quan trong việc thực hiện ủy thác tư pháp có yếu tố nước ngoài

Trong các TCĐĐ thì có những tranh chấp mà đương sự đang sinh sống,

học tập, công tác hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên có những

trường hợp cần ủy thác tư pháp cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước

ngoài hoặc Tòa án nước ngoài thu thập tài liệu, chứng cứ là cần thiết trong việc

giải quyết vụ án, nhưng thực tế cho thấy việc ủy thác tư pháp rất kém hiệu quả,

có nhiều vụ ủy thác không nhận được kết quả ủy thác hoặc có nhận được

nhưng rất chậm gây ra trở ngại lớn cho việc giải quyết vụ án. Vì vậy, cần có

một văn bản pháp luật quy định cụ thể về phạm vi, trình tự, thủ tục của các cơ

60

quan trong ủy thác tư pháp để việc ủy thác tư pháp đạt hiệu quả cao hơn.

3.3. Một số giải pháp khác

3.3.1. Về hướng dẫn thi hành pháp luật trong giải quyết các tranh

chấp đất đai

Thứ nhất, giải quyết TCĐĐ trong trường hợp chia thừa kế

Một là, trường hợp đất có nguồn gốc của ông bà, cha mẹ để lại mà một

hoặc một số người con, cháu đã đứng tên kê khai hay đã được cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất thì không thể coi đất đó là của người đang đứng tên,

mà cần phải điều tra, đánh giá chứng cứ, xem xét việc kê khai, đứng tên đó có

thể hiện ý chí của các thừa kế đồng ý chuyển quyền sử dụng đất cho người

đang đứng tên không. Nếu chưa thể hiện ý chí của các thừa kế thì phải coi đất

đó là di sản để chia.

Hai là, việc xác định các bản thỏa thuận được lập giữa các bên có nội

dung tương tự như di chúc. Có nhiều tòa án xem các bản thỏa thuận này là di

chúc nên bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đối với các trường hợp này

các Thẩm phán khi xét xử cần phải nghiên cứu, phân tích kỹ các biên bản thỏa

thuận và đối chiếu với các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong BLDSđể có

quyết định cho chính xác, tránh làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên

đương sự.

Ba là, việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với các vụ kiện chia thừa kế

nhà đất mà các đương sự khiếu nại đến UBND phường, xã để hòa giải và

trong thời gian chờ đợi giải quyết hoặc chờ thi hành kết quả hòa giải thành thì

hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của BLDS sau đó các bên mới khởi kiện

ra tòa.

Thứ hai, giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng đất đai

Như đã trình bày ở trên, tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền

sử dụng đất diễn ra rất phổ biến trong các TCĐĐ hiện nay. Vì vậy, với tính

chất đa dạng, phức tạp của nó thì trong quá trình giải quyết Tòa án nên lưu ý

61

một số điểm sau để áp dụng giải quyết một cách thống nhất:

Một là, những TCĐĐ mà giữa các bên có hợp đồng chuyển nhượng

quyền sử dụng đất nhưng hợp đồng chuyển nhượng này chỉ nhằm mục đích che

giấu một giao dịch khác như (thế chấp, cầm cố, vay tài sản, tặng cho,...) thì Tòa án

cần xem xét bản chất, mục đích của các bên khi tiến hành giao dịch để tuyên hợp

đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó có bị vô hiệu hay không.

Thứ ba, giải quyết vướng mắc trong thực tiễn xét xử tranh chấp hợp

đồng tặng cho quyền sử dụng đất

Xuất phát từ tình hình thực tế, trên cơ sở vận dụng các quy định của

pháp luật về hợp đồng tặng cho, luật hôn nhân và gia đình, đặc điểm tâm lý,

xã hội, theo quan điểm cá nhân nên giải quyết một số trường hợp tranh chấp

về tặng cho quyền sử dụng đất hướng sau:

Một là, nếu việc tặng cho quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện bằng

lời nói, không có chứng cứ nào để chứng minh về việc cho tài sản thì không

công nhận việc tặng cho quyền sử dụng đất.

Hai là, trường hợp đất do bố mẹ mua và đứng tên trong hợp đồng

chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sau khi mua đã giao cho vợ chồng con sử

dụng, bố mẹ không kê khai, không đứng tên trong sổ sách địa chính, còn vợ

chồng con đã kê khai, và đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Bố mẹ biết không phản đối, khi ly hôn mới đòi lại, thì bác yêu cầu của bố mẹ.

Nếu bố mẹ đứng ra kê khai và đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất thì xác định đất vẫn của bố mẹ, chưa cho vợ chồng con.

Ba là, Vợ chồng con đã xây dựng nhà kiên cố có khuôn viên riêng, và

quản lý, sử dụng liên tục, đã kê khai đứng tên trong sổ địa chính, hoặc đã

được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên vợ chồng người con,

bố mẹ biết không có ý kiến gì hoặc chính bố mẹ kê khai ghi tên vợ chồng. Chỉ

đến khi vợ chồng người con mâu thuẫn dẫn đến ly hôn, bố mẹ mới đòi lại với

lý do là chưa cho, thì phải bác yêu cầu của bố mẹ, xác định nhà đất là tài sản

62

chung vợ chồng.

Bốn là, trường hợp bố mẹ cho con tài sản, có lập văn bản, trong đó ghi

rõ chỉ cho người vợ hoặc người chồng, thì dù hợp đồng tặng cho đó diễn ra

trong thời gian quan hệ hôn nhân còn tồn tại cũng không coi là tài sản chung

của vợ chồng, và phải xác định đó là tài sản riêng, được cho riêng người được

chỉ định trong hợp đồng tặng cho. Tuy nhiên, nếu sau đó người được tặng cho

riêng đã nhập vào khối tài sản chung vợ chồng thì phải coi tài sản đó là tài sản

chung, nhưng khi xem xét, đánh giá công sức đóng góp phải coi họ có công

sức đóng góp nhiều hơn.

Thứ tư, hướng giải quyết TCĐĐ trong trường hợp đòi lại đất cho mượn,

cho ở nhờ

TCĐĐ trong trường hợp đất cho mượn, cho ở nhờ về bản chất là giao

dịch dân sự nhưng lại liên quan đến những chính sách, pháp luật đất đai trong

các thời kỳ nên việc giải quyết gặp nhiều khó khăn.

Một là, trường hợp người có quyền sử dụng đất hợp pháp đã được cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khởi kiện yêu cầu người ở nhờ trên đất

phải trả lại đất cho họ.

Hai là, nguồn gốc đất tranh chấp là của chủ đất cũ (do cha ông để lại,

do mua bán, được tặng cho, được thừa kế, hoặc khai hoang, phục hóa,.. mà

có) nhưng do chiến tranh, do làm ăn mà chủ đất cũ bỏ đi nơi khác sinh sống,

sau giải phóng chủ đất cũ không về quản lý, khai thác sử dụng nên người khác

đến canh tác, ở nhờ cho đến nay; hay trường hợp người đang sử dụng đất là

người mua lại đất của người ở nhờ hoặc được người ở nhờ cho sử dụng nhưng

người có quyền sử dụng đất không có ý kiến gì, nay mới khởi kiện.

3.3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức pháp

luật về đất đai

Những TCĐĐ kéo dài trong thực tế một phần xuất phát từ sự thiếu hiểu

biết về pháp luật đất đai của người dân. Nhiều trường hợp khi nhà nước thu

63

hồi đất cho các công trình công cộng, vì mục đích an ninh quốc phòng hoặc

cho các nhà đầu tư nhưng người dân cố tình không chịu bàn giao mặt bằng,

đòi bố trí tái định cư tại chỗ,... làm chậm tiến độ thi công các dự án, công

trình; hay các khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc đòi lại đất mà nhà

nước đã lấy trong thời kỳ thực hiện các chính sách đất đai; hoặc trường hợp

do không hiểu biết pháp luật đất đai nên tự đặt mình vào hoàn cảnh bất lợi khi

tham gia vào những quan hệ đất đai như chuyển nhượng, tặng cho, cho ở

nhờ,... Với những TCĐĐ này tòa án đã tiến hành giải quyết hoặc trả lại đơn

khởi kiện do không thuộc thẩm quyền những người dân vẫn tiếp tục nộp đơn

khởi kiện hoặc khiếu kiện kéo dài.

Vì vậy, để giải quyết tình trạng trên thì trong thời gian tới TAND cần

phối hợp với UBND huyện Phúc Thọ có các hình thức tuyên truyền pháp luật

đất đai một cách sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua

các buổi sinh hoạt tổ dân phố mà người tuyên truyền là các thẩm phán, cán bộ

Tòa án để qua đó người dân biết và hiểu được các quy định của pháp luật đất

đai từ đó có những điều chỉnh hành vi khi tham gia vào các quan hệ đất đai

một cách phù hợp, đúng pháp luật.

3.3.3. Bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, thẩm phán

làm việc tại Tòa án

Thứ nhất, tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm

phán, cán bộ TAND thuộc huyện Phúc Thọ

Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ TAND, đặc biệt là đội

ngũ Thẩm phán là một trong những khâu then chốt để bảo đảm công tác giải

quyết cácTCĐĐđạt hiệu quả cao. Trong thời gian qua, TAND huyện Phúc

Thọ đã cử một số thẩmphán và cán bộ thuộc TAND huyện Phúc Thọ tham gia

các lớp bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ tại Trường cán bộ toà án - Toà án

nhân dân tối cao. Qua các lớp học này sẽ giúp cho các Thẩm phán và các cán

bộ toà án nhân dân nhận thức được tính chất đặc thù trong quá trình giải quyết

64

các tranh chấp về đất đai để từ đó những người này nắm vững được các

nguyên tắc chỉ đạo, áp dụng đúng các quy định của pháp luật về đất đai, cũng

như các quy định của pháp luật về TTDS nhằmgiải quyết các vụ việc có hiệu

quả và chất lượng cao.

Ngoài ra, tham gia khóa học còn giúp cho các thẩm phán và cán bộ tòa

án nắm được các kỹ năng tiến hành hoà giải.

Thứ hai, TAND huyện Phúc Thọ cũng phải thường xuyên tổng kết

công tác giải quyết các TCĐĐ thông qua thực tiễn công tác xét xử để rút ra

những sai lầm mà các thẩm phán thường gặp trong công tác xét xử các

TCĐĐ, đồng thời phân tích các nguyên nhân của những sai lầm đó, đề ra

được những biện pháp khắc phục để xây dựng nội dung bồi dưỡng, tập huấn

nghiệp vụ.

Tiểu kết chương 3

Qua thực tiễn TCĐĐ tại huyện Phúc Thọ – một huyện ngoại thành của

thành phố Hà Nội có thể thấy TCĐĐ là một trong những tranh chấp phổ biến

và cũng khó giải quyết nhất hiện nay. Mỗi năm TAND huyện Phúc Thọ,

thành phố Hà Nội thụ lý cả trăm vụ TCĐĐ và số lượng tranh chấp này tăng

dần qua từng năm. TAND huyện Phúc Thọ đã tiến hành thụ lý, giải quyết dứt

điểm các TCĐĐ không để xảy ra “điểm nóng” trên địa bàn.

Qua việc xem xét, đánh giá thực tiễn giải quyết một số vụ TCĐĐ đã chỉ

ra những hạn chế, vướng mắc cần phải được được khắc phục, sửa chữa trong

thời gian tới.Những hạn chế, vướng mắc này xuất phát từ cả những nguyên

nhân chủ quan và khách quan. Trong phạm vi luận văn cũng đã trình bày một

số kiến nghị về phương diện lập pháp và thực tiễn áp dụng để nhằm nâng cao

hiệu quả công tác giải quyết TCĐĐ nói chung và TCĐĐ trên địa bàn huyện

65

Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội nói riêng.

KẾT LUẬN

TCĐĐ là một hiện tượng xã hội tồn tại mang tính khách quan. Trong

điều kiện kinh tế thị trường khi đất đai ngày càng trở nên có giá trị, TCĐĐ

theo đó cũng ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính chất gay gắt, phức

tạp về nội dung. Việc giải quyết TCĐĐ thiếu hiệu quả, không dứt điểm và kịp

thời sẽ phát sinh thành những “điểm nóng” tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định

chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các địa phương nói chung và huyện Phúc

Thọ,TP Hà Nội nói riêng; đồng thời, tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư

– kinh doanh ở nước ta.

Thời gian qua, TAND huyện Phúc Thọ đã thực hiện việc giải quyết

hàng trăm vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất góp phần vào việc tăng cường

pháp chế XHCN, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật cho người dân và bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất... Tuy nhiên, bên cạnh những

kết quả đạt được, việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của TAND

huyện Phúc Thọ còn bộc lộ một số hạn chế, khiếm khuyết. Những hạn chế,

khiếm khuyết này xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan như năng lực,

trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ

toà án nói chung và các thẩm phán nói riêng còn hạn chế, chưa cập nhật, nắm

bắt kịp thời, đầy đủ những quy định mới của hệ thống pháp luật đất đai; chưa

được trang bị đầy đủ các kỹ năng cơ bản, cần thiết trong giải quyết tranh chấp

nói chung và tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng... Ngoài ra, còn do

các nguyên nhân khách quan như hệ thống chính sách, pháp luật đất đai của

Nhà nước ta có sự khác nhau ở từng thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước

các quy định về đất đai thường xuyên có sự sửa đổi, bổ sung gây khó khăn

cho đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật trong việc nắm bắt, tìm hiểu; ý thức

chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế; công tác quản lý nhà nước về

66

đất đai còn nhiều yếu kém hay công tác phối hợp của các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền quản lý đất đai với tòa án chưa thực sự đạt hiệu quả,... Điều

này làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác giải quyết các tranh chấp về

quyền sử dụng đất của Tòa án.

Để nâng cao hiệu quả giải quyết các TCĐĐ thì trong thời gian tới cần

tiến hành đồng bộ các giải pháp: tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn

thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai; thường xuyên tổ chức tập huấn,

bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức và kỹ năng giải quyết TCĐĐ cho đội

ngũ cán bộ TAND nói chung và các Thẩm phán nói riêng. Đồng thời, tăng

cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

67

đất đai cho người dân...

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp (1999), Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông, Nxb. Tư

pháp, Hà Nội

2. Nguyễn Văn Cường (2008), Báo cáo tham luận “Thực trạng giải quyết

TCĐĐ tại TAND – Kiến nghị và giải pháp” tại hội thảo “Tình trạng

tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”,

Buôn Mê Thuột, Đắc Lắc

3. Chính phủ (1999), Nghị định số 17/1999/NĐ-CP, Về thủ tục chuyển

đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất

và thế chấp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Hà Nội.

4. Chính phủ (2001), Nghị định số 79/2001/NĐ-CP, Về việc sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định 17/2001/NĐ-CP, Hà Nội

5. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP Về hướng dẫn thi

hành Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội

6. Chính phủ (2014), Nghị định 43/2014/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành

Luật đất đai năm 2013, Hà Nội

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội

8. Trần Văn Hà (2007), “Giải quyết TCĐĐ bằng con đường toà án”,

Luận văn thạc sỹ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội

9. Trần Thu Hạnh (2009), “Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ

thẩm phán trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”,

Tạp chí Luật học số 29/2009, Hà Nội

10. Lý Thị Ngọc Hiệp (2006), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao

hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại TAND,

Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí

68

Minh;

11. Châu Huế (2003),Giải quyết TCĐĐ theo Luật đất đai 2003, Luận văn

Thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.

12. Trần Quang Huy (2007), “Các đặc trưng pháp lý của quyền sử dụng đất

ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2007, Hà Nội.

13. Phạm Thị Hương Lan (2009), “Giải quyết TCĐĐ theo luật đất đai

2003”, Luận văn thạc sỹ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.

14. Hà Công Long (2008), “Khiếu kiện của người dân về đất đai và vai trò

Ban dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội” báo cáo tham luận

tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và kiếu kiện đất đai kéo dài: Thực

trạng và giải pháp”, tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc.

15. Nguyễn Văn Luật, Tưởng Duy Lượng (2011), Cơ sở lý luận và thực

tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử

dụng đất tại TAND, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội

16. Nguyễn Văn Luật (2013),TCĐĐ và thẩm quyền giải quyết của Tòa án,

Đề tài khoa học cấp bộ Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội

17. Tưởng Duy Lượng (2006), “Một vài suy nghĩ về những quy định chung

trong phần chuyển quyền sử dụng đất, thẩm quyền giải quyết và

hư¬ớng xử lý một vài tranh chấp chuyển quyền sử dụng đất được quy

định trong Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tạp chí Tòa án nhân dân (23),

Hà Nội

18. Tưởng Duy Lượng, (2009) Pháp luật dân sự và thực tiễnxét xử, Nxb

Chính trị quốc gia.

19. Tưởng Duy Lượng (2007),“Hòa giải ở cơ sở khi có tranh chấp quyền

sử dụng đất”, Tạp chí Tòa án nhân dân (4), Hà Nội

20. Doãn Hồng Nhung (2008),“Những dạng TCĐĐ chủ yếu ở nước ta hiện

nay và khuôn khổ pháp luật liên quan” báo cáo tham luận tại hội thảo

“Tình trạng tranh chấp và kiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải

69

pháp”, tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc.

21. Phạm Hữu Nghị (2002), “Về thực trạng chính sách đất đai ở Việt nam”,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 8/2002, Hà Nội

22. Phạm Hữu Nghị (2005), “Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện

quyền sở hữu toàn dân về đất đai”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (1),

Hà Nội

23. Phạm Duy Nghĩa (2002), “Vai trò của pháp luật đất đai trong việc kiềm

chế những cơn sốt đất”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2002, Hà

Nội

24. Phạm Duy Nghĩa (2003), Cơ sở pháp luật kinh tế Việt Nam vì một nền

kinh tế phát triển bền vững và toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội

25. Mai Thị Tú Oanh (2013), TCĐĐ và giải quyết TCĐĐ bằng tòa án ở

nước ta, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội

26. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2003), Luật Đất đai năm

2003, Hà Nội

27. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2005), BLDS năm 2005, Hà

Nội

28. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2011), Bộ Luật TTDS 2004

sửa đổi năm 2011, Hà Nội

29. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2013), Luật Đất đai năm

2013, Hà Nội

30. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2014), Luật công chứng

năm 2014, Hà Nội

31. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2014), Luật Nhà ở năm

2014, Hà Nội

32. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2014), Luật Hôn nhân và

70

Gia đình năm 2014, Hà Nội

33. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2014), Luật Tổ chức TAND

năm 2014, Hà Nội

34. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2015), Bộ Luật TTDS năm

2015, Hà Nội

35. Dương Thị Sen (2012), Pháp luật về giải quyết TCĐĐ thông qua

TAND, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà

Nội

36. Lưu Quốc Thái (2006), “Bàn về khái niệm TCĐĐ trong luật đất đai

2003” Tạp chí Khoa học pháp luật số 2(33), Hà Nội

37. Toà án nhân dân tối cao (2002), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng

cao hiệu quả qiải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại toà án

nhân dân, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội

38. Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ (2014-2018), Báo cáo tổng kết công

tác xét xử các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, Hà Nội

39. Trung tâm từ điển học (1996), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng 1996

40. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), “Từ điển giải thích thuật ngữ luật

học”,NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật đất đai, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội

42. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích Thuật ngữ luật

học (Luật Đất đai, Luật Lao động, Tư pháp quốc tế), Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

43. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Đất

đai, NXB Hồng Đức, Hà Nội

44. Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục,

71

Hà Nội