VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHUẤT THỊ MỸ DUNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHUẤT THỊ MỸ DUNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGA
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan:
Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiệndưới sự hướng dẫn
trực tiếp của thầy PGS.TS. Nguyễn Thị Nga. Mọi tham khảo dùng trong luận
văn đều được trích dẫn rõ ràng, và trung thực, tên tác giả, tên công trình, thời
gian, địa điểm công bố. Mọi vi phạm quy chế đào tạo, hay gian trá,tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giả luận văn
Khuất Thị Mỹ Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN ................................................ 7
1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai ............................................................ 7
1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục xét xử sơ
thẩm tại Tòa án .......................................................................................... 17
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TOÀ ÁN VÀ
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA
ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ -THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............ 25
2.1. Nội dung các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục
sơ thẩm tại Tòa án ..................................................................................... 25
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại
Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội .............................. 34
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN ............... 52
3.1.Định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả về giải
quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án ......................... 52
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án .... 54
3.3. Một số giải pháp khác ........................................................................ 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TAND Tòa án nhân dân
TCĐĐ Tranh chấp đất đai
TTDS Tố tụng dân sự
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế ngày càng phát triển thì quan hệ đất đai cũng ngày càng phức tạp,
các quan hệ đất đai không còn thuần túy là quan hệ dân sự về một tài sản thuộc sở
hữu đại diện của nhà nước mà quan hệ đó mang nhiều sắc thái mới, gắn chặt với
yếu tố thương mại. Theo đó, các tranh chấp đất đai (TCĐĐ) xảy ra cũng không
chỉ những tranh chấp dân sự đơn lẻ về tài sản là quyền sử dụng đất giữa các cá
nhân, hộ gia đình với nhau, mà chúng còn biểu hiện đa dạng hơn, phức tạp hơn,
đan xen nhiều mối quan hệ hơn: tranh chấp dân sự, thương mại, hôn nhân gia
đình… liên quan đến quyền sử dụng đất, với phạm vi chủ thể không chỉ là hộ gia
đình, cá nhân mà cả các doanh nghiệp, cả chủ thể trong nước và chủ thể có yếu tố
nước ngoài. Khi tranh chấp xảy ra, việc hòa giải TCĐĐ ở cơ sở không đạt được
như ý muốn sẽ khởi kiện đến TAND như một công cụ để đảm bảo công lý.
Những năm qua, để hoạt động của các Cơ quan tư pháp đáp ứng được
yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết như:
Nghị quyết số 08/NQ-TƯ về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, trong đó đề ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm cải cách tổ
chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Hoạt động
tìm hiểu để kiện toàn và tổ chức tạo lập ra hệ thống pháp luật mang tính chất
đồng bộ Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã tìm hiểu và
đưa ra Nghị quyết số 48-NQ/TW về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”. Chiến lược cải cách tư pháp với mong muốn xây dựng nền tư
pháp Việt Nam trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ
nhân dân, phục vụ sự nghiệp đổi mới của Nhà nước mà trọng tâm là hoạt
1
động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân, hoạt động
then chốt của TAND các cấp đó là giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, có
thể nói hoạt động trọng tâm của ngành Toà án là một hoạt động để áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án và được tiến hành theo một quá trình
gồm nhiều giai đoạn. Theo lý luận về công tác tư pháp thì các giai đoạn của
áp dụng pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, kết quả của giai đoạn này
làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo với mục đích là giải quyết một vụ án được
chính xác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Vì vậy, sự hạn
chế, sai sót trong bất cứ giai đoạn áp dụng pháp luật nào cũng sẽ góp phần ảnh
hưởng tới kết quả chung của việc giải quyết vụ án. Giai đoạn hiện nay, hoạt
động áp dụng pháp luật của Toà án trong quá trình giải quyết các vụ án nói
chung luôn là vấn đề phức tạp, sự phức tạp được thể hiện rõ nhất trong quá
trình giải quyết các vụ án dân sự mà đặc trưng của nó là các vụ án liên quan đến
lĩnh vực đất đai.
Trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các TCĐĐ
ở thành phố Hà Nội nói chung và ở huyện Phúc Thọ nói riêng ngày càng gia
tăng. Mỗi năm, Tòa án nhân dân (TAND) huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
thụ lý giải quyết hàng chục vụ TCĐĐ. Trong những năm vừa qua TAND các
cấp đã giải quyết có hiệu quả một số lượng lớn các vụ án TCĐĐ, kết quả xét
xử ngày càng được nâng cao, phần nào bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức xã hội và công dân. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận
rằng công tác này nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động còn chưa thực sự đem lại
những kết quả như mong đợi trong đó bao gồm cả các yếu tố khách quan và
chủ quan. Theo đó, có các hạn chế thuộc yếu tố bên ngoài như: nhiều quy
định pháp luật không còn phù hợp với đời sống xã hội nhưng chậm được điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung; pháp luật chưa thực sự đồng bộ,...; Bên cạnh đó còn
2
một vài yếu tố bên trong có ảnh hưởng đến hoạt động giải quyết tranh chấp
đất đai của Tòa án nhân dân các cấp đó là: hoạt động của đội ngũ cán bộ tòa
án các cấp còn nhiều hạn chế bất cập, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, đòi
hỏi của pháp luật và đời sống, cũng như giải quyết tranh chấp, chuyên môn,
trình độ tác nghiệp, yếu tố khó khăn còn nhiều, quan hệ phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong giải quyết tranh chấp đất đai còn chưa đáp ứng
được yêu cầu; nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác giải
quyết tranh chấp đất đai còn nhiều hạn chế, chưa thực sự quan tâm và sâu
sát,... Theo đó, với tính chất của luận văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu, chỉ rõ
những bất cập, xác định nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó và đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án
nhân dân các cấp là một yêu cầu đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên
cứu đề tài: Giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND từ thực
tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Việc nghiên cứu về vấn đề tranh chấp và giải quyết TCĐĐ đã được
nhiều tác giả đề cập có thể kể đến như: “TCĐĐ và thẩm quyền giải quyết của
Tòa án” Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Châu Huế (2003), Khoa luật,
đại học quốc gia Hà Nội; “Giải quyết TCĐĐ theo Luật đất đai 2003”, Luận
văn thạc sỹ luật học của Phạm Thị Hương Lan (2009), Viện Nhà nước và
pháp luật; “Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng tòa án tại Việt
Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học của Lý Thị Ngọc Hiệp (2006), Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh; “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao
hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại TAND”; “TCĐĐ
và giải quyết TCĐĐ bằng tòa án ở nước ta”, Luận án tiến sỹ luật học của Mai
Thị Tú Oanh (năm 2013); đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2001 của
TAND tối cao do Nguyễn Văn Luật làm chủ nhiệm đề tài; Báo cáo tham luận
3
“TCĐĐ và khiếu kiện kéo dài: Những nguyên nhân có tính lịch sử” của
Nguyễn Quang Tuyến tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất
đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp” ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại
Buôn Mê Thuật – Đắc Lắc; bài viết “Giải quyết TCĐĐ bằng tòa án qua thực
tiễn tại một địa phương” của Mai Thị Tú Oanh đăng trên tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 08/2009;...
Các công trình nghiên cứu trên đã cho thấy tính chất nhất định về vấn
đề nghiên cứu, tuy nhiên trên thực tế kết quả nghiên cứu còn chưa đáp ứng
thực sự được yêu cầu dưới góc độ đổi mới luật pháp hiện nay. Vì vậy việc
nghiên cứu đề tài của học viên trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành
công của các công trình nghiên cứu trước đó để nghiên cứu một cách toàn
diện cả về lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về TCĐĐ và giải
quyết TCĐĐ nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng của công tác
giải quyết tranh chấp bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay và trên địa bàn huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm TAND từ thực tiễn huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội theo pháp luật đất đai (Luật Đất đai năm 2003 và Luật
Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2014) đồng thời đưa ra những
giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả giải quyết TCĐĐ của TAND.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn được viết với phương thức xác định các yêu cầu nhiệm vụ
quan trọng sau đây:
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và
giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân các cấp, từ đó xác định
4
pháp luật của Việt nam và thế giới về giải quyết tranh chấp đất đai.
- Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của khoa học pháp lý, Luận văn tiếp tục
đi sâu tìm hiểu nhằm chỉ ra hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác lập
thẩm quyền của TAND theo thủ tục xét xử sơ thẩm trong giải quyết TCĐĐ;
- Tìm hiểu, phân tích pháp luật về giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử
sơ thẩm thông qua TAND và đề xuất các giải pháp cơ bản góp phần hoàn
thiện mảng pháp luật về lĩnh vực này;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết TCĐĐ theo thủ
tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án từ thực tiễn tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà
Nội để từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết
TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án hiện nay.
- Đề xuất các phương hướng và nghiên cứu trình bày những giải pháp
mang tính đột phá cụ thể, cho việc áp dụng pháp luật trong giải quyết TCĐĐ ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND tại huyện Phúc Thọ
thành phố Hà Nội theo quy định của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản
pháp luật có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giải quyết TCĐĐ tại Toà án nhân dân là một vấn đề lớn, có nhiều nội
dung khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học
việc nghiên cứu chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu về giải quyết TCĐĐ theo
thủ tục xét xử sơ thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
5
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật đặc biệt là
cải cách tư pháp.
Trên cơ sở các phương pháp luận nêu trên, luận văn có sử dụng các
phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành luật học như: phương
pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp để từ đó xác định các nội hàm
nghiên cứu của đề tài.
6. Những điểm mới, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đóng góp vào việc phân tích làm sáng tỏ các đặc điểm của
giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND ở huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội; Đánh giá thực trạng giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ
thẩm của TAND trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội; Đưa ra những
luận chứng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết TCĐĐ theo thủ
tục xét xử sơ thẩm của TAND huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
quá trình nghiên cứu thực tiễn và nâng cao hiệu quả giải quyết TCĐĐ theo
thủ tục xét xử sơ thẩm của TAND ở huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội và Tòa
án nói chung.
Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu và đào tạo tại các trường đào tạo luật học.
7. Kết cấu của luận văn
Phần mở đầu, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo là 3
yếu tố bắt buộc của luận văn, ngoài ra luận văn còn được kết cấu gồm 3
chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về TCĐĐ và pháp luật về giải quyết
TCĐĐ theo thủ tục tố tụng tại Tòa án
Chương 2. Thực trạng giải quyết TCĐĐ theo thủ tục tố tụng sơ thẩm từ
thực tiễn TAND huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Chương 3. Định hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
6
động giải quyết TCĐĐ theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại Tòa án
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN
1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Đầu tiên chúng ta cần xác định khái niệm tranh chấp đất đai,hiện nay
có nhiều quan điểm, nhiều quy định nhiều các xác định về tranh chấp đất đai.
Vậy TCĐĐ là gì?
Trong tiếng Việt từ điển thì định nghĩa tranh chấp đất đai được hiểu là
“tranh chấp là đấu tranh, giằng co khi có ý kiến bất đồng thường là trong vấn
đề quyền lợi giữa 2 bên”. [44, tr.983]. Theo cuốn Thuật ngữ Pháp lý thông
dụngmà chúng tôi nghiên cứu được thì: “TCĐĐ: Tranh chấp phát sinh giữa
các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá
trình quản lý và sử dụng đất đai.” [1, tr.332].
Thực tiễn cuộc sống tồn tại nhiều loại tranh chấp khác nhau, tùy theo
lĩnh vực phát sinh mà nó có thể được gọi là tranh chấp dân sự, tranh chấp
thương mại hay tranh chấp hành chính… Trong quan hệ quản lý nhà nước về
đất đai có thể phát sinh TCĐĐ, đó có thể là tranh chấp giữa cơ quan quản lý
nhà nước về đất đai với người sử dụng đất hoặc có thể là tranh chấp giữa
những người sử dụng đất với nhau. Trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, khái
niệm “TCĐĐ” chưa được chính thức giải thích, mà chủ yếu là được hiểu
thông qua các quy định của pháp luật về giải quyết TCĐĐ, quy định về giải
quyết các tranh chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất.
Thuật ngữ TCĐĐ đã được sử dụng theo Luật Đất đai năm 1987 (tại các
điều luật là Điều 9, Điều 21, Điều 22), Luật Đất đai năm 1993 (Điều 38, Điều
7
40) nhưng chưa được giải thích chính thức, mà chủ yếu là chỉ được hiểu ngầm
qua các quy định của pháp luật về giải quyết TCĐĐ và các tranh chấp khác có
liên quan đến quyền sử dụng đất [36, tr.3-6].
Như vậy, chủ thể tranh chấp vốn được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng
không được định danh về loại chủthể: Chỉ là người sử dụng đất hay tất cả các
chủ thể có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong quan
hệ TCĐĐ? [36, tr.3-6].
Theo giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: TCĐĐ là sự bất
đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ
thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai… các chủ thể TCĐĐ chỉ là chủ
thể quản lý và sử dụng đất, không có quyền sở hữu đối với đất đai. [41,
tr.445].
Một quan điểm khác cho rằng: TCĐĐ là sự bất đồng, mâu thuẫn giữa
các chủ thể (sử dụng đất) trong việc xác định ai là người có quyền sử dụng
đối với một (hoặc những) thửa đất nhất định…TCĐĐ có thể bao hàm cả các
tranh chấp về địa giới giữa các đơn vị hành chính [43, tr.357-358].
Dưới góc độ là TCĐĐ theo quy định của Luật đất đai cũ thìTCĐĐ là
mọi tranh chấp phát sinh trong quan hệ đất đai bao gồm tranh chấp về quyền
sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh chấp liên quan đến
địa giới hành chính… Quan điểm này được nhiều cơ quan có thẩm quyền
giải quyết chấp nhận trong giải quyết TCĐĐ [25, tr.112].
Tuy định nghĩa TCĐĐ theo Luật Đất đai năm 2003 gây ra nhiều rối
rắm trong cách hiểu và áp dụng pháp luật trên thực tế nhưng khoản 24, Điều
3, Luật Đất đai năm 2013 lại tiếp tục giữ nguyên cách quy định như trên,
chỉ có sự thay đổi về cách sử dụng thuật ngữ: “TCĐĐ là tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan
hệ đất đai.” Có thể nói, cách định nghĩa này không mang tính khoa học vì
dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về chủ thể, đối tượng và mục đích giải
8
quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 có một số quy
định khác liên quan đến nội hàm của khái niệm TCĐĐ như Khoản 14, Điều
22 quy định một trong những nội dung quản lý nhà nước về đất đai là “Giải
quyết tranh chấp về đất đai; Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử
dụng đất đai”; Điều 203 quy định Thẩm quyền giải quyết TCĐĐ (có thể
thuộc về TAND hoặc Ủy ban nhân dân…). Theo các quy định này, có thể
khẳng định, các chủ thể tham gia TCĐĐ chỉ bao gồm những người sử dụng
đất và như vậy, chúng tôi cho rằng, TCĐĐ liên quan đến địa giới hành
chính không phải là loại TCĐĐ được đề cập tại Khoản 26, Điều 4, Luật
Đất đai năm 2003 cũng như Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 vì
những lý do sau đây:
Thứ nhất, chủ thể TCĐĐ theo Khoản 24, Điều 3 và Điều 203, Luật Đất
đai năm 2013 phải là người sử dụng đất nhưng các chủ thể tranh chấp địa giới
hành chính không phải là người sử dụng đất;
Thứ hai, đây không phải là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất mà là tranh chấp về phân định địa giới hành chính giữa các địa
phương trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai;
Thứ ba, Luật Đất đai năm 2013 không sử dụng thuật ngữ “TCĐĐ liên
quan đến địa giới hành chính” như Luật Đất đai năm 2003 mà sử dụng thuật
ngữ “tranh chấp địa giới hành chính”, việc sử dụng thuật ngữ này là hợp lý
hơn. Vì vậy, luật mới không quy định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh
chấp địa giới hành chính trong Chương 13 về giải quyết khiếu nại, tố cáo về
đất đai mà quy định ở Chương Địa giới hành chính và điều tra cơ bản về đất
đai (Chương 3, Khoản 4, Điều 29).
Như vậy, TCĐĐ là tranh chấp về quyền sử dụng đất nhưng không phải
là tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Khoa học pháp lý nói chung không
có định nghĩa về quyền sử dụng đất mà chỉ thừa nhận quyền sử dụng đất là
9
quyền của người sử dụng đất được Nhà nước trao quyền thực hiện các quyền
sử dụng, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất và thực hiện các
giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất đó phù hợp với các hình thức sử
dụng đất theo quy định của pháp luật. Về thực tế, quyền sử dụng đất hợp pháp
của bất kỳ một chủ thể nào được Nhà nước ghi nhận thông qua việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ thể đó, nó là chứng thư pháp lý xác
lập mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước với người sử dụng đất trong việc sử
dụng đất. BLDS năm 2005 thừa nhận quyền sử dụng đất là một quyền tài sản,
vì vậy nó là một loại tài sản nhưng nó không phải là “tài sản gắn liền với đất.”
Điều này có nghĩa, “tranh chấp về quyền sử dụng đất” và “tranh chấp về tài
sản gắn liền với đất” là hai khái niệm không giống nhau về nội hàm vì mục
đích giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là xác định quyền sử dụng đất
thuộc về ai còn mục đích giải quyết tranh chấp tài sản gắn liền với đất là xác
định tài sản tranh chấp thuộc về ai.
Bất động sản bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với
đất đai; Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; Tài sản
khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời, theo quy định của Luật đất đai
năm 2013 thì: “Tài sản gắn liền với đất” khoản 1 Điều 203 gồm các tài sản
sau đây: nhà ở, vật kiến trúc khác gắn liền với đất đó như: Nhà bếp, nhà tắm,
nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với
nhà ở, các công trình trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất,
kinh doanh như nhà xưởng, kho hàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại
chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy
gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác.... Và
như vậy, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất có đối tượng tranh chấp là các
tài sản nói trên mà không phải là quyền sử dụng đất, chỉ có điều các tài sản
này tồn tại gắn liền với đất còn “tranh chấp về quyền sử dụng đất” có thể là
10
tranh chấp không có các tài sản gắn liền với đất.
Tóm lại, TCĐĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của những người sử
dụng đất trong việc xác định chủ thể nào có quyền sử dụng đối với diện tích đất
tranh chấp.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
TCĐĐ thể hiện dấu ấn mạnh mẽ trong các thời kỳ lịch sử khác nhau
của quan hệ pháp luật đất đai. Chẳng hạn trước đây, nhà nước chỉ thừa nhận
hai hình thức sở hữu trong quan hệ đất đai: sở hữu nhà nước và sở hữu tập
thể. Bước sang nền kinh tế thị trường, nhà nước không can thiệp trực tiếp vào
hoạt động sản xuất-kinh doanh mà thực hiện quản lý thông qua hệ thống pháp
luật, chính sách thuế, đất đai được thừa nhận có giá trị, QSDĐ được tham gia
các giao dịch trên thị trường làm quan hệ đất đai ngày càng đa dạng và phức
tạp, xuất hiện nhiều quan hệ mới liên quan đến chuyển nhượng, thừa kế, góp
vốn… là gia tăng tranh chấp, mâu thuẫn đất đai.
Thứ nhất, về chủ thể: chủ thể trong quan hệ TCĐĐ phải là người sử
dụng đất (được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất) hoặc người khác có quyền, nghĩa vụ liên
quan đến thửa đất. Trường hợp tranh chấp không phát sinh giữa những chủ
thể này với nhau liên quan đến thửa đất thì đó là quan hệ tranh chấp khác. Ví
dụ: tranh chấp phát sinh giữa người sử dụng đất với Cơ quan có thẩm quyền
trong việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất thì
đó là tranh chấp về khiếu kiện hành chính.
Thứ hai, về khách thể: khách thể trong quan hệ TCĐĐ là quyền quản
lý, sử dụng, tài sản gắn liền với đất hoặc cả hai. Đối với quyền sử dụng đất thì
đây là loại tài sản đặc biệt vì pháp luật đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước sẽ trao
lại quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua các hình thức do pháp
luật quy định. Đồng thời quyền sử dụng đất cũng là tài sản (quyền tài sản)
theo quy định của BLDS, vì vậy quyền sử dụng đất có thể là đối tượng tham
11
gia các giao dịch dân sự.
Thứ ba, về nội dung: thực tế nội dung của TCĐĐ rất đa dạng và phức
tạp. Đất đai đã trở thành loại hàng hóa đặc biệt có giá trị kinh tế và giá trị của
nó được biến động theo nền kinh tế thị trường, từ đó việc quản lý và sử dụng
đất đai không chỉ đơn thuần là việc khai thác giá trị sử dụng mà bao gồm cả
giá trị sinh lời của đất. Khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và
phức tạp thì phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc này cũng
trở nên căng thẳng và trầm trọng hơn.
Thứ tư, khi TCĐĐ đã phát sinh thì sẽ phát sinh nhiều hậu quả không
mong muốn như: gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ các mối quan hệ trong
xã hội, làm mất tình đoàn kết trong nội bộ quần chúng nhân dân, ảnh hưởng
đến trật tự quản lý đất đai, đến sản xuất, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
các bên tranh chấp và gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Thứ năm, Đất đai có những mục đích sử dụng không giống nhau mà
nhà làm luật gọi đó là mục đích sử dụng đất và loại đất.Như thế dẫn đến việc
tranh chấp về đất đai sẽ bao gồm các bên khác nhau tham gia vào tranh chấp
đó. Điều này dẫn đến một điều là tranh chấp đất đai cần phải nhanh chóng,
tích cực chủ động giải quyết để bảo đảm quyền lợi của các bên, tránh tình
trạng kéo dài, có tổ chức và đông người tham gia.
Hơn nữa, do tính chất phức tạp của nguồn gốc sử dụng đất cũng như sự
xáo trộn của quan hệ đất đai qua các thời kỳ nên TCĐĐ là một trong những
loại tranh chấp có tính chất gay gắt, phức tạp nhất.
Thứ sáu, quan hệ đất đai có liên quan đến những quan hệ xã hội khác
thuộc phạm vi điều chỉnh của một số đạo luật như BLDS, Luật xây dựng,
Luật nhà ở, Luật bảo vệ môi trường, Luật kinh doanh bất động sản, Luật bảo
vệ và phát triển rừng v.v... Trên thực tế TCĐĐ xảy ra liên quan đến nhà ở,
công trình xây dựng, cây cối và vật kiến trúc khác v.v... Nên khi giải quyết
TCĐĐ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ áp dụng Luật đất đai mà
12
còn áp dụng các đạo luật khác có liên quan để xem xét, giải quyết.
1.1.3. Các dạng tranh chấp đất đai
Trên thực tế, TCĐĐ không chỉ là hiện tượng phổ biến mà trong đó còn
hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, về cơ
bản TCĐĐ được chia thành những dạng như sau:
Căn cứ vào chủ thể TCĐĐ thì TCĐĐ được phân chia thành thành các
dạng chủ yếu sau đây:
- TCĐĐ giữa cá nhân với cá nhân. Loại tranh chấp này bao gồm các
tranh chấp cụ thể sau đây:
(i) Tranh chấp về đất hương hỏa được thừa kế trong nhiều đời;
(ii) Tranh chấp trong đồng bào dân tộc thiểu số trong vấn đề khai hoang
và kinh tế mới thường diễn ra ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.
(iii) Tranh chấp cá nhân về đất đai khi ly hôn, thừa kế đất đai, ranh giới
mốc giới đất đai, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp. Đây là loại tranh chấp
có số lượng nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay.
- TCĐĐ giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức. Loại tranh chấp này bao
gồm các dạng tranh chấp cụ thể sau đây:
(i) Tranh chấp giữa gia đình và cá nhân với các cơ quan, đơn vị, tổ
chức, hữu quan của nhà nước.
(ii) TCĐĐ giữa các cá nhân, gia đình với hợp tác xã sau khi có góp tài
sản vào hợp tác xã.
- TCĐĐ giữa tổ chức với tổ chức: Dạng tranh chấp này bao gồm
TCĐĐ giữa các tổ chức, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân, tổ chức kinh tế với nhau hoặc giữa các tổ chức này với các tổ chức
khác như tổ chức tôn giáo, tổ chức quần chúng nhân dân ở địa phương …
- TCĐĐ liên quan đến địa giới hành chính giữa các đơn vị hành chính
tỉnh, huyện, xã.
- Nhóm tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Các TCĐĐ thuộc
13
nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về ranh giới sử dụng đất (SDĐ); (ii) Tranh
chấp về ngõ đi. Đây là những tranh chấp giữa các bên với nhau về việc ai có
quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó. Trong dạng tranh chấp
này chúng ta thường gặp các loại tranh chấp về ranh giới đất; tranh chấp về
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong các quan hệ ly hôn, thừa kế;
tranh chấp để đòi lại đất (đất đã cho người khác mượn sử dụng mà không trả
lại, hoặc tranh chấp giữa người dân tộc thiểu số với người đi xây dựng vùng
kinh tế mới…)
Căn cứ vào đối tượng tranh chấp, TCĐĐ được phân chia thành các
dạng tranh chấp cơ bản sau đây:
- Nhóm tranh chấp liên quan đến chuyển quyền sử dụng đất. Các
TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về thừa kế quyền SDĐ; (ii)
Tranh chấp về tặng cho quyền SDĐ; (iii) Tranh chấp về chuyển nhượng
quyền SDĐ; (iv) Tranh chấp về cho thuê quyền SDĐ; (v) Tranh chấp về thế
chấp quyền SDĐ.
- Nhóm tranh chấp liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư. Các TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về việc thu hồi
đất sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế; (ii) Tranh chấp về việc thực hiện
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nhóm tranh chấp liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Các TCĐĐ thuộc nhóm này bao gồm: (i) Tranh chấp về điều kiện cấp giấy
chứng nhận quyền SDĐ; (ii) Tranh chấp về đối tượng được cấp giấy chứng
nhận quyền SDĐ; (iii) Tranh chấp về nghĩa vụ tài chính khi cấp giấy chứng
nhận quyền SDĐ; (iv) Tranh chấp về diện tích đất ghi trong giấy chứng nhận
quyền SDĐ so với diện tích đất thực tế người dân đang sử dụng.
- Nhóm tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Các TCĐĐ thuộc nhóm
này bao gồm: (i) Tranh chấp về chia tài sản chung là nhà, đất của vợ, chồng
khi ly hôn; (ii) Tranh chấp về chia thừa kế nhà ở gắn liền với đất.
14
Các TCĐĐ trên đây phát sinh giữa những chủ thể sau:
Thứ nhất,TCĐĐ phát sinh giữa những người SDĐ với nhau (bao gồm
giữa hộ gia đình, cá nhân với nhau; giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức;
giữa tổ chức với tổ chức) liên quan đến quyền và nghĩa vụ SDĐ. Các TCĐĐ
này mang tính phổ biến và tồn tại ở cả khu vực nông thôn và khu vực thành
thị. Đặc biệt đối với khu vực ven đô thị nơi có tốc độ đô thị hóa hoặc công
nghiệp hóa tăng nhanh làm cho đất đai ngày càng có giá thì loại TCĐĐ này
gia tăng cả về số lượng vụ việc cũng như tính chất gay gắt, phức tạp.
Thứ hai, tranh chấp giữa người SDĐ với cơ quan nhà nước (cơ quan
công quyền) liên quan đến việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân
về đất đai bao gồm: (i) Tranh chấp liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; (ii) Tranh chấp liên quan đến việc cấp, đổi, sửa
chữa và thu hồi giấy chứng nhận quyền SDĐ. Loại tranh chấp này xuất hiện ở
cả khu vực nông thôn và khu vực đô thị. Nếu không giải quyết dứt điểm, kịp
thời các TCĐĐ này dễ dẫn đến việc phát sinh thành “điểm nóng” tiềm ẩn
nguy cơ gây mất ổn định chính trị.
1.1.4. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai
1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan
(i) Thực tế giao dịch đời sống hiện nay thì đất đai có giá trị rất cao, là
tài sản lớn của nhiều gia đình. Hiện nay, khi nền kinh tế nước ta đang ngày
càng phát triển mạnh mẽ, Nhà nước thực hiện việc cải cách về đất đai và giao
quyền sử dụng đất cho các cá nhân cơ quan tổ chức. Trong trường hợp đó,
giữa người sử dụng đất và người khác có tranh chấp đất đai về giao dịch
chuyển nhượng, thế chấp, tăng cho…
(ii) Chính sách, pháp Luật Đất đai và những chính sách có liên quan
đến đất đai của chúng ta trong thời gian qua chưa nhất quán, đồng bộ. Trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với sự tác động mặt trái của cơ
15
chế thị trường đã làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong xã hội, trong khi đó
chính sách, pháp luật về đất đai của chúng ta trong thời gian qua chưa đáp
ứng đòi hỏi của xã hội, chưa đầy đủ để có thể quản lý hiệu quả đất đai.
(iii) Ngoài ra, TCĐĐ còn có nguyên nhân do hoàn cảnh lịch sử để lại.
Khi nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung kế hoạch hóa, quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, quan hệ pháp Luật
Đất đai vốn phong phú, đa dạng và phức tạp lại càng trở nên đa dạng, phức
tạp hơn.
1.1.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh nguyên nhân khách quan, TCĐĐ còn phát sinh từ các nguyên
nhân chủ quan chủ yếu sau đây:
Thứ nhất,Việc không sâu sát, không kỹ càng trong hoạt động kiểm
soát, điều chỉnh pháp luật về đất đai của Nhà nước ta trong giai đoạn vừa qua.
việc buông lỏng công tác quản lý đất đai của Nhà nước.
Cơ chế cũ ở nước ta sẽ hình thành nhiều vụ việc có tính chất phức tạp
trong giải quyết tranh chấp trong đó có tranh chấp đất đai. Nhiều vụ việc tranh
chấp kéo dài, không được xử lý triệt để. Đất đai có quá nhiều cơ quan quản lý
và kiểm soát điều này dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc” khi xảy
ra sự vụ thì đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Thứ hai, thực tế hiện nay cho thấy pháp luật đất đai ở Việt Nam vẫn
còn có những nội dung chưa phù hợp với thực tiễn của đất nước; nhất là các
quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; quy định về thời hạn sử
dụng đất; quy định về hạn mức giao đất nông nghiệp v.v. Việc thực hiện
chính sách bảo vệ đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa ổn định) với
chính sách phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao,
khu đô thị mới …còn bộc lộ sự mâu thuẫn, không tương thích.
Thứ ba, chính sách điều chỉnh địa giới hành chính giữa đơn vị hành các
16
cấp của các địa phương song nội dung xác định ranh giới hành chính thực
hiện không kịp thời hoặc không rõ ràng, cụ thể đã làm cho tình hình TCĐĐcó
nhiều điểm phức tạp chưa được tháo gỡ.
Thứ tư, xuất phát từ đặc trưng công tác quản lý nhà nước đất đai cho
thấy công tác cán bộ còn nhiều hạn chế bất cập, cán bộ năng lực kém, nhũng
nhiều, chưa thực sự gương mẫu.
Thứ năm, trong giai đoạn dài vừa qua, hoạt động nâng cao nhận thức
của người dân về quản lý và sử dụng đất đai còn chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiều người dân còn chưa biết được vị trí, vai trò của Tòa án trong giải quyết
đất đai, các giao dịch đất đai còn nhiều trường hợp mua bán viết tay, thiếu
tính pháp lý.
1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục xét xử
sơ thẩm tại Tòa án
1.2.1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp đất đai
Nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay cũng đã đưa ra
khái niệm về thuật ngữ giải quyết tranh chấp đất đai.Từ khi có Luật Đất đai
năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và Luật đất đai
năm 2013 thì khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai đã được đề cập đến
trong cac văn bản này. Tuy được xác định trong luật đất đai nhưng các yếu tố
bên trong của khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai chưa được quy định rõ
ràng và đặc biệt là được quy định trong phần giải thích về thuật ngữ. Từ điển
Luật học đã được ban hành thì cũng chưa đưa ra định nghĩa về khái niệm
TCĐĐ. Trong cuốn Giải thích Thuật ngữ Luật học năm 1999, thuật ngữ “ giải
quyết TCĐĐ” mới được giải thích cụ thể như sau: “Giải quyết TCĐĐ: Giải
quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức và trên cơ sở đó
phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị xâm hại; đồng thời truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.” [42, tr.114]. Như vậy, giải
quyết TCĐĐ được hiểu là một phương thức giải quyết những bất đồng, mâu
17
thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức trên cơ sở đó phục hồi các quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm hại, đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi
phạm pháp luật đất đai.
Giải quyết TCĐĐ có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Giải quyết TCĐĐ thực chất là một nội dung, yêu cầu đòi hỏi của hoạt
động quản lý nhà nước về đất đai được xác định trong Luật đất đai. Hoạt động
giải quyết tranh chấp về đất đai thuộc phạm vi thẩm quyền của nhiều cơ quan
nhà nước khác nhau khi căn cứ vào luật pháp của nhà nước để tiến hành giải
quyết tranh chấp.
- Tranh chấp đất đai thì thường khó giải quyết, nếu có giải quyết thì cũng
kéo dài, nhiều đối tượng, nhiều tầng nấc, các bên khiếu nại đến cùng gây ra tình
trạng khó khăn trong giải quyết hơn nhiều so với các loại tranh chấp khác..
- Thông qua tính chất tính đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai, nên hoạt động giải quyết TCĐĐ phải dựa trên chính sách sở hữu đất đai.
- Việc giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam cần tôn trọng và căn cứ
vào các yếu tố mang tính tâm lý, thị hiếu, phong tục, tập quán những yếu tố
này tác động vào, làm cho hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai là dễ dàng
hơnv.v...
1.2.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng tại
Tòa án
Luật đất đai năm 2013 đã quy định về thẩm quyền giải quyết TCĐĐ
theo hướng: giao nhiều loại việc TCĐĐ cho TAND giải quyết bằng thủ tục
TTDS, giao loại việc TCĐĐ có tính chất đặc thù cho cơ quan hành chính có
thẩm quyền.
Theo Hiến pháp năm 2013 và các văn bản khác thì ở Việt Nam chỉ duy
nhất có Toà án nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử.
Trong hoạt động thì TAND thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ pháp chế,
bảo vệ tài sản của nhà nước công dân, bảo vệ quyền con người quyền công
18
dân và bảo vệ công lý.
Toà án là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến nhất và lâu đời nhất,
có lịch sử hàng nghìn năm tồn tại. Phán quyết của Tòa án có hiệu lực bắt buộc
thi hành đối với các bên tranh chấp. Để đảm bảo sự công bằng, khách quan và
công minh, pháp luật quy định cho Tòa án một cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt
động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Tóm lại, có thể thấy khác với quá trình giải quyết TCĐĐ của UBND,
giải quyết TCĐĐ của TAND được xác định là hoạt động giải quyết thông qua
hình thức tố tụng. Bắt đầu từ khi đương sự nộp đơn khởi kiện tại TAND, nếu
xét thấy vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì hướng dẫn đương
sự nộp đơn và các tài liệu cần thiết để thụ lý vụ án. Kể từ thời điểm này, quá
trình giải quyết TCĐĐ của TAND được tiến hành theo đúng các trình tự, thủ
tục theo quy định của pháp luật. Kết quả của hoạt động giải quyết tranh chấp
tại TAND là bản án hoặc quyết định của TAND.
Như vậy, thông qua việc phân tích trên, theo tác giả, khái niệm giải
quyết TCĐĐ thông qua TAND được hiểu là hoạt động tố tụng của cơ quan
TAND nhằm mục đích giải quyết những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi
ích, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật đất đai khi
người khởi kiện có đủ điều kiện nộp đơn khởi kiện tại Tòa án.
Bên cạnh những đặc điểm chung của việc giải quyết tranh chấp, việc
giải quyết TCĐĐ thông qua Toà án nhân dân còn có một số đặc điểm riêng cơ
bản sau đây:
- Việc giải quyết TCĐĐ thông qua Toà án chịu sự điều chỉnh của
nhiều đạo luật có liên quan như Bộ luật TTDS, Luật Đất đai, Luật Nhà ở,
BLDS v.v... Điều này có nghĩa là trong quá trình giải quyết TCĐĐ, Toà án
phải tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự của Bộ
luật TTDS (các quy định về luật hình thức giải quyết vụ việc TCĐĐ); đồng
thời, Thẩm phán khi thụ lý, giải quyết vụ việc phải căn cứ vào các quy định
19
của Luật Đất đai, BLDS, Luật nhà ở v.v... để xác định chứng cứ cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của người quản lý, sử dụng đất (các quy định về
luật nội dung giải quyết vụ việc TCĐĐ).
- Hoạt động giải quyết TCĐĐ tại Tòa án bên cạnh việc tuân thủ nghiêm
minh các đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, còn phải
tuân thủ các hướng dẫn cụ thể, trực tiếp của TAND tối cao về đường lối giải
quyết TCĐĐ đối với từng loại việc, loại tranh chấp cụ thể. Mặt khác, Án lệ cũng
là nguồn vô cùng quan trọng để người có thẩm quyền giải quyết áp dụng trong
quá trình thực thi nhiệm vụ của mình.
- Hoạt động giải quyết TCĐĐ tại Tòa án khác với các hình thức giải
quyết khác như: Hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng con đường hành chính
hay các phương thức giải quyết bằng Trọng tài… đó là khi thực hiện hoạt
động giải quyết, Tòa án được quyền nhân danh nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam trong việc đưa ra các phán quyết của mình, ngoài Tòa án thì các
phương thức giải quyết khác không có quyền này. Bên cạnh đó, các phán
quyết của Tòa án về giải quyết TCĐĐđược thực thi bởi cơ quan thi hành án
nên tính khả thi của các phán quyết sẽ đảm bảo hơn.
1.2.3. Cơ sở pháp lý về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố
tụng tại Tòa án
1.2.3.1. Pháp luật tố tụng dân sự
Thứ nhất, Toà án là một thiết chế của Nhà nước; hoạt động của Toà án
là một hoạt động rất đặc biệt và mang tính kỹ năng nghề nghiệp cao. Toà án
nhân dân được tổ chức theo một hệ thống độc lập nằm ngoài hệ thống cơ quan
quản lý. Hơn nữa, Toà án có một đội ngũ Thẩm phán có năng lực, trình độ và
kỹ năng xét xử chuyên nghiệp. Cơ chế vận hành của Toà án dựa trên nguyên
tắc cơ bản “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật”. Do đó, hoạt động xét xử của Tòa án đảm bảo tính chính xác, công minh.
Thứ hai, Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước và xét xử nhân danh
20
quyền lực Nhà nước. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp, Tòa án trực
tiếp thụ lý, giải quyết, các phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh
chấp hành. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thi hành bản án,
quyết định của Tòa án mà không tự nguyện chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi
hành án.
Thứ ba,Bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án là công khai sẽ tác động
làm minh bạch cho hoạt động của Toà án. Người dân thông qua hoạt động
này sẽ giám sát được hoạt động của Tòa án, bản án của tòa án từ đó sẽ có tính
thuyết phục cao hơn, tranh tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài.
Thứ tư, trong quá trình giải quyết vụ án về đất đai thì hoạt động xét xử
này của Tòa án phải đáp ứng được một yêu cầu chặt chẽ về thủ tục tố tụng với
các khâu, các giai đoạn, các nhiệm vụ kế tiếp nhau, đảm bảo tính chính xác,
tính phù hợp về yêu cầu từ đó khắc phục được những hạn chế, tồn tại của hoạt
động giải quyết, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót có thể đặt ra
trong yêu cầu.
Thứ năm, thẩm quyền theo loại vụ việc: Theo quan điểm đối mới của
Đảng, toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân, kinh
doanh, thương mại, lao động thuộc quy định của pháp luật TTDS. Việc xác
định thẩm quyền của toà án theo loại thủ tục tố tụng nào phải căn cứ vào tính
chất của loại quan hệ pháp luật nội dung mà toà án cần giải quyết. vệ và phát
triển rừng thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo thủ tục TTDS.
1.2.3.2. Pháp luật nội dung
Trong lĩnh vực giải quyết TCĐĐ, Toà án nhân dân thực hiện nhiệm vụ
xét xử sở thẩm và phúc thẩm các vụ việc TCĐĐ.
TCĐĐ là một dạng tranh chấp dân sự nên việc giải quyết tranh chấp do
Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
cấp huyện) giải quyết. Đối với các vụ việc TCĐĐ do Toà án nhân dân cấp
21
tỉnh xét xử sơ thẩm thì việc giải quyết do Thẩm phán Toà dân sự thực hiện.
Các vụ việc TCĐĐ do TAND cấp huyện giải quyết bị kháng cáo sẽ do thẩm
phán Toà dân sự Toà án nhân dân cấp tỉnh thực hiện, còn các vụ việc TCĐĐ
do Tòa dân sự TAND cấp tỉnh thực hiện sẽ do Thẩm phán Tòa phúc thẩm
TAND tối cao tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo
quy định của pháp luật TTDS.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng và chi phối tới hoạt động giải quyết
tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng tại Tòa án
- Thứ nhất,Luật đất đai chòn nhiều chồng chéo, chưa đảm bảo yếu tố hệ
thống chuẩn mực. Chính sách, pháp luật đất đai ở Việt Nam có sự khác nhau
qua từng thời kỳ lịch sử như trước năm 1980, pháp luật không cấm việc mua
bán đất đai, sau năm 1980 đến trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 pháp luật
nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức. Từ
ngày 15 tháng 10 năm 1993 trở đi, pháp luật lại cho phép chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
- Thứ hai, việc quản lý về đất đai còn rất lỏng lẻo dẫn đến khi có yêu
cầu của Tòa án cung cấp chứng cứ, tài liệu để làm cơ sở xem xét giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất nhiều khi cơ quan có thẩm quyền không cung
cấp hoặc cung cấp thiếu chính xác, không xác định được tài liệu nào là xác
thực làm cho việc phân tích, đánh giá, xem xét sự việc thiếu tính khách quan.
- Thứ ba, các chính sách về đất đai ban hành, sửa đổi nhiều, văn bản
quy phạm pháp luật còn có nhiều mâu thuẫn, thiếu thống nhất hoặc quy định
không cụ thể, có trường hợp mâu thuẫn giữa Luật đất đai và BLDS dẫn đến
việc lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để áp dụng rất khó khăn.
- Thứ tư, trong quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, đôi
khi còn tồn tại những quan điểm khác nhau do trong một thời gian dài, nhiều
quy định pháp luật về đất đai không phù hợp với thực tiễn cuộc sống, nếu giải
quyết việc tranh chấp phù hợp với cuộc sống thì lại trái với quy định của pháp
22
luật ở thời điểm giao dịch. Ví dụ: thời điểm cấm mua bán đất, nhưng vì nhu
cầu cuộc sống, người dân vẫn tiến hành mua bán đất chui, đến thời sau này
khi giá đất lên cao mới tranh chấp…
- Thứ năm, tính ổn định của pháp luật về đất đai rất thấp, đất đai gắn
liền với người dân, mỗi gia đình, mỗi tổ chức kinh tế, xã hội, các quan hệ đất
đai được hình thành ở những thời điểm khác nhau, nhưng khi pháp luật đất
đai thay đổi, Nhà nước không kịp ban hành các văn bản để ổn định quan hệ
hình thành trước đó, dẫn đến cách hiểu, vận dụng pháp luật khác nhau khi luật
mới ra đời.
- Thứ sáu, trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán chưa ngang tầm
với sự đòi hỏi của đời sống xã hội. Như trên đã phân tích, do chính sách pháp
luật về đất đai thay đổi qua từng thời kỳ nên hệ thống các văn bản pháp luật
đất đai thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với chính sách đất
đai của Nhà nước.
- Thứ bảy, tính phức tạp của việc giải quyết các tranh chấp quyền sử
dụng đất. Thực tế giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất trong những
năm qua cho thấy tính phức tạp của loại tranh chấp này được thể hiện ở nhiều
phương diện như: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp, điều kiện để công nhận
hợp đồng, cách xử lý đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi
hợp đồng này bị vô hiệu....
Tiểu kết chương 1
Giải quyết TCĐĐ bằng phương thức tố tụng tại TAND được xem là
phương pháp hữu hiệu để giải quyết các TCĐĐ. Do đó trên cơ sở quy định
của pháp luật về giải quyết TCĐĐ bằng biện pháp tố tụng tại TAND, trong
những năm qua, công tác giải quyết các TCĐĐ tại tòa án đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ và ngày càng được chú trọng.
Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về TCĐĐ và giải
23
quyết TCĐĐ bằng phương thức tố tụng tại TAND, luận văn đã xây dựng một
cách đầy đủ và hoàn chỉnh khái niệm về TCĐĐ, giải quyết TCĐĐ bằng
phương thức tố tụng tại TAND và các đặc điểm cơ bản của phương thức giải
quyết này. Trên cơ sở đó luận văn cũng đã làm rõ được các yếu tố ảnh hưởng
24
và chi phối tới hoạt động giải quyết TCĐĐ theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TOÀ ÁN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ -THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Nội dung các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai theo
thủ tục sơ thẩm tại Tòa án
2.1.1. Các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai theo pháp luật đất
đai hiện hành
TCĐĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai
hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây là khái niệm được xác định theo
khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013. Theo khái niệm này thì chúng ta cần
lưu ý rằng đối tượng của TCĐĐ không phải là quyền sở hữu đất, các chủ thể
tham gia tranh chấp không phải là các chủ thể có quyền sở hữu đối với đất.
Đây là điều không phải tranh luận vì Điều 53 Hiến pháp năm 2013, hay Điều
4 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định rất rõ “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [29].
Theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 thì tranh chấp về
việc “ai” là người có quyền sử dụng đất bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải ở
cơ sở. Tranh chấp về đất đai phải được Hòa giải tại xã phường thị trấn, sau
khi hòa giải mà không thành thì sẽ được giải quyết theo hai yêu cầu sau đây:
Một là nếu như các bên có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc
các giấy tờ hợp pháp theo quy định tại Điều 100 của Luật đất đai thì cần giải
quyết tại Tòa án.
Hai là, nếu các bên không có giấy tờ nêu trên thì được quyền lựa chọn
một trong hai cách giải quyết là Tòa án hoặc UBND.
Như vậy, kể từ ngày 01/7/2014 (ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu
25
lực thi hành), đối với loại tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất hoặc
tranh chấp về việc xác định ai là người có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với
quyền sử dụng đất mà đương sự có GCNQSĐ hoặc có một trong các loại giấy
tờ được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 hay chưa, nhưng đương sự
khởi kiện đến Tòa án thì Tòa án đều có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục
TTDS. Đây là một trong những điểm mới của Luật Đất đai năm 2013 (trước
đây, theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, đối với loại tranh chấp này thì
điều kiện bắt buộc để xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục
TTDS là đương sự phải có GCNQSĐ hoặc có một trong các loại giấy tờ được
quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003. Tuy nhiên, nếu đất đã có giấy tờ
nêu trên nhưng đương sự khiếu nại cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc
cấp GCNQSĐ không đúng thì thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND hoặc
Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính [29].
Đối với trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở gắn liền với
quyền sử dụng đất thì:
Thứ nhất, đối với tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở liên quan đến
chính sách cải tạo nhà ở. Theo quyết định số 297/QĐ-CT ngày 02/10/1991
của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc giải quyết một số vấn đề về nhà ở
và Thông tư số 383/TT-BXD-ĐT ngày 05/10/1991 của Bộ Xây dựng hướng
dẫn thi hành Quyết định số 297/QĐ-CT, Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày
26/11/2003 của Quốc hội về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng
trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo
XHCN trước ngày 01/7/1991 và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQGH11
ngày 02/4/2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối
với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính
sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN trước ngày 01/7/1991, thì sẽ
thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND.
Thứ hai, đối với tranh chấp về quyền sở hữu nhà không liên quan đến
26
chính sách cải tạo nhà ở thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy
định của pháp luật TTDS, bởi đây là dạng cụ thể của tranh chấp về quyền sở
hữu tài sản. Về nguyên tắc, nếu tài sản tồn tại trên đất đã có GCNQSĐ hoặc
giấy tờ được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì Tòa án có thẩm
quyền giải quyết cả tranh chấp về nhà ở và tranh chấp về quyền sử dụng đất.
Đối với trường hợp nhà ở tồn tại trên đất chưa có GCNQSĐ hoặc giấy tờ
được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì theo Thông tư liên tịch
số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của TAND
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng cục Địa chính hướng dẫn về
thẩm quyền của TAND trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến
quyền sử dụng đất thì tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất do
TAND giải quyết khi các tài sản tranh chấp gắn liền với đất có thể là một
trong các tài sản sau: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô,
nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ờ, các công trình xây dựng trên
đất để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh (nhà xưởng, kho tàng, hệ
thống tưới tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi) hoặc trên đất có những tài sản
khác như: cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây ăn quả hay cây lâu năm khác
gắn liền với việc sử dụng đất.
Bên cạnh đó, khi giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất, nếu đương sự có yêu cầu bằng văn
bản hoặc trình bày yêu cầu tại Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc
dân sự yêu cầu hủy quyết định cấp GCNQSĐ, giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở thì Tòa án sẽ xem xét hủy quyết định đó, nếu quyết định rõ ràng trái pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà
Tòa án có nhiệm vụ giải quyết (Điều 34 Bộ luật TTDS năm 2015) [29].
Theo khoản 9 Điều 26 BLTTDS năm 2015, Tòa án có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục TTDS đối với: “TCĐĐ theo quy định của pháp luật về đất
đai…”[29]. Do đó, việc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu nhà và quyền sử
27
dụng đất theo trình tự TTDS cụ thể là: cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án tại Tòa án (Tòa
án nơi có bất động sản). Ai khởi kiện thì người đó phải nộp án phí, hồ sơ và đơn.
Cơ sở để xác định chính xác thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ
tục TTDS, trước tiên cần dựa trên việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp
của vụ án thuộc loại TCĐĐ nào? Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013
và các văn bản hướng dẫn thi hành thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất của Tòa án theo thủ tục TTDS thường thuộc các quan hệ
tranh chấp sau: (1) TCĐĐ mà trên đất không có tài sản gắn liền với quyền sử
dụng đất;và (2) Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Trong
mỗi trường hợp trên lại chia thành bốn dạng: (i) Tranh chấp ai là người có
quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất; (ii) Chia tài sản chung của
vợ chồng là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; (iii) Tranh chấp liên
quan đến các giao dịch về đất, tài sản gắn liền với đất; (iv) Thừa kế quyền sử
dụng đất, tài sản gắn liền với đất.
Xác định thẩm quyền theo lãnh thổ đó là Tòa án nơi có bất động sản có
thẩm quyền giải quyết. Do đó, tranh chấp đất sẽ do Tòa án nơi có đất có thẩm
quyền giải quyết. Nếu đất đai có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các diện tích đất giải quyết (điểm
i khoản 1 Điều 40 Bộ luật TTDS năm 2015).
2.1.2. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh
chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án
2.1.2.1. Về thời hiệu giải quyết tranh chấp
Theo quy định tại Điều 149 BLDS năm 2015 quy định: Thời hiệu khởi
kiện là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu
quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.
Theo quy định tại Điều 155 BLDS 2015 quy định: Thời hiệu khởi kiện
không áp dụng trong trường hợp sau đây: Tranh chấp quyền sử dụng đất theo
28
quy định của luật đất đai [27].
Như vậy, Điều này có nghĩa là không cần xác định về thời hiệu tranh chấp
còn các tranh chấp khác như tranh chấp về hợp đồng liên quan đến quyền sử
dụng đất thì thời hiệu khởi kiện là 02 năm kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức
biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Riêng tranh chấp về thừa kế thì thời hiệu khởi kiện để người thừa kế
yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa
kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.Thời hiệu khởi
kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế (Điều 623 BLDS năm 2015).
2.1.2.2 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm tranh chấp đất đai
* Phân định thẩm quyền giữa các cấp Tòa án
Bộ luật tố tụng dân sự quy định tại Điều 26 thì thì TCĐĐ theo quy định
của pháp luật về đất đai nằm trong những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án. Điều 35, 36, 37, 38, 39, 40 BLTTDS năm 2015
quy định thẩm quyền giải quyết của Tòa án các cấp, theo đó:
- Thẩm quyền giải quyết TCĐĐ tại TAND cấp huyện theo trình tự xét
xử sơ thẩm các TCĐĐ được quy định tại Điều 26, 28 và khoản 1 Điều 30
BLTTDS.
- Thẩm quyền giải quyết TCĐĐ tại TAND cấp tỉnh theo trình tự xét xử
sơ thẩm được xác định như sau:
Thứ nhất, TCĐĐ theo quy định của pháp luật về đất đai thuộc thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh, bao gồm những TCĐĐ mà đương
sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự
của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài, cụ thể: (1) TCĐĐ giữa
người sử dụng đất trong nước (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất) với
tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam;
29
(2) TCĐĐ giữa tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại
Việt Nam với nhau.
Thứ hai, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những vụ việc TCĐĐ theo quy định của pháp luật về đất đai thuộc thẩm
quyền giải quyết của TAND cấp huyện quy định tại Điều 35 BLTTDS năm
2015 mà TAND cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết
hoặc theo đề nghị của TAND cấp huyện.
* Phân định thẩm quyền Tòa án cùng cấp
Thứ nhất, các quy định có tính nguyên tắc về phân định thẩm quyền xét
xử sơ thẩm TCĐĐ giữa các Tòa án cùng cấp:
- Một là, thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản
Theo Điều 39 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án nơi có bất động sản
(BĐS) có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản. Quy định
này được xây dựng dựa trên quan niệm là Tòa án nơi có bất động sản là Tòa án
có điều kiện tốt nhất cho việc giải quyết tranh chấp. Bởi lẽ, tất cả các hồ sơ, giấy
tờ về bất động sản do cơ quan quản lý bất động sản ở đó nắm giữ. Cơ quan này
nắm vững thực trạng, nguồn gốc của bất động sản. Do vậy, Tòa án nơi có bất
động sản có điều kiện xác minh để giải quyết sát với tình hình thực tế; xem xét,
thẩm định tại chỗ (xác minh thực địa); tổ chức định giá tài sản, thu thập tài liệu
từ cơ quan nhà đất mà mất ít thời gian và chi phí so với Tòa án các nơi khác.
- Hai là, việc xác định thẩm quyền nơi bị đơn cư trú đó là tòa án nơi cư trú
của bị đơn.
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị
đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động…
Thứ hai, các quy định khác về phân định thẩm quyền sơ thẩm TCĐĐ
30
giữa các Tòa án cùng cấp gồm:
- Theo Điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật TTDS 2015: “Các đương sự có
quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm
việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của
nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp
về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động...”.
- quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án
cùng cấp theo sự lựa chọn của nguyên đơn Theo quy định tại Khoản 1 Điều
40 Bộ luật TTDS năm 2015 thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải
quyết TCĐĐ trong các trường hợp: (1) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc,
trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm
việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết; (2) Nếu tranh
chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu
cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết; (3)
Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về
tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư
trú, làm việc giải quyết; (4) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở
hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết; (5) Nếu tranh chấp phát sinh từ
quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực
hiện giải quyết; (6) Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác
nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm
việc, có trụ sở giải quyết; (7) Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở
nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một
trong các bất động sản giải quyết; (8) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ
cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các
điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao
31
động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết.
2.1.2.3. Trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm tranh chấp đất đai
Khi có TCĐĐ xảy ra và đương sự lựa chọn hình thức giải quyết thông
qua Tòa án thì pháp luật về hình thức sẽ do luật TTDS điều chỉnh. Kể từ khi
Bộ luật TTDS ra đời và có hiệu lực thi hành thì việc giải quyết TCĐĐ thông
qua Tòa án có một số những thay đổi so với trước đây.
Thứ nhất: về việc thụ lý vụ án theo trình tự sơ thẩm:
Sau khi nhận được đơn khởi kiện thì trong thời hạn 05 ngày làm việc
Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định: tiến hành các thủ tục thụ
lý giải quyết vụ án nếu thuộc thẩm quyền.
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án
thì người khởi kiện phải tiến hành nộp tiền tạm ứng án phí và nộp lại biên lai
để Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án.
- Kể từ thời điểm tòa án thụ lý giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét
xử là 04 tháng đối với vụ án và 02 tháng đối với việc dân sự; nếu vụ án có
tính chất phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì được gia hạn nhưng không
được vượt quá 02 tháng đối với vụ án và 01 tháng đối với yêu cầu dân sự.
Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, sau khi xét xử sơ thẩm vụ án mà các
đương sự không đồng ý với bản án, quyết định của Tòa án thì có thể kháng
cáo để tòa án cấp trên giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Đương sự phải gửi
đơn kháng cáo có đây đủ các nội dung theo yêu cầu tại Điều 272 BLTTDS
2015. Kèm theo đơn kháng cáo là các tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để
chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp.
2.1.3. Các quy định của pháp luật khác có liên quan đến giải quyết
tranh chấp đất đai
Thứ nhất, các hướng dẫn của TAND tối cao liên quan đến giải quyết
TCĐĐ: Trong văn bản giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2018 của
32
TAND tối cao, Tòa tối cao hướng dẫn 03 vấn đề sau:
Một là, đối với trường hợp ban đầu người khởi kiện yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án đã thụ lý vụ án hành chính; sau đó,
người khởi kiện bổ sung yêu cầu giải quyết TCĐĐ có liên quan đến giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là đối tượng khởi kiện ban đầu. Thì trong
trường hợp này, Tòa án phải hướng dẫn đương sự rút đơn khởi kiện vụ án
hành chính để khởi kiện vụ án dân sự. Trường hợp đương sự rút đơn khởi
kiện vụ án hành chính, đồng thời có đơn khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp về
đất đai thì Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành
chính để đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và xem xét, thụ lý đơn khởi
kiện để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục chung.
Hai là, đơn khởi kiện thể hiện nội dung yêu cầu giải quyết TCĐĐ,
nhưng người khởi kiện chỉ yêu cầu Tòa án hủy GCN QSDĐ đã cấp, thì Tòa án
phải tôn trọng “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện” theo quy
định tại Điều 8 của Luật Tố tụng hành chính. Theo đó thì Tòa án phải xem xét
thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Ba là, về hành vi của Chủ tịch UBND cấp xã, không tổ chức hòa giải
cơ sở đối với TCĐĐ, nên các bên tranh chấp không thực hiện được việc khởi
kiện tại Tòa án, là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Theo quy định tại
khoản 3 Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải TCĐĐ tại địa phương mình. Thủ
tục hòa giải TCĐĐ tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện trong thời hạn
không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết TCĐĐ.
Thứ hai, các án lệ
- Một là, Án lệ số 02/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số
220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án TAND tối cao.
- Hai là, Án lệ số 04/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định
33
220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án TAND tối cao.
- Ba là, Án lệ số 15/2017/AL về công nhận thỏa thuận miệng của các
đương sự trong việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp.
- Bốn là, Án lệ số 14/2017/AL về công nhận điều kiện của hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất mà điều kiện đó không được ghi trong hợp đồng
được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm
2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm
2017 của Chánh án TAND tối cao.
- Năm là, Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển
nhượng.
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm
tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
2.2.1. Tổng quan tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp đất đai
theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án huyện Phúc Thọ từ năm 2015 đến năm 2018
* Khái quát chung về TAND huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Cùng với hệ thống tổ chức ngành TAND theo quy định của Luật tổ
chức TAND năm 2014, Tòa án được tổ chức theo mô hình 4 cấp thì TAND
huyện Phúc Thọ trực thuộc TAND thành phố Hà Nội, là tòa án cấp thấp nhất,
có nhiệm vụ xét xử trên địa bàn địa giới hành chính là huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội. TAND huyện Phúc Thọgiải quyết những vụ án hình sự; những
vụ việc dân sự (bao gồm những yêu cầu và tranh chấp về dân sự; hôn nhân và
gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động); những vụ án hành chính; giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản hợp tác xã, quyết định áp dụng biện pháp xử
lý hành chính. Cùng với đó, Tòa án có trách nhiệm giải quyết những việc
khác theo quy định của pháp luật (quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong quá trình giải quyết tranh chấp; ra quyết định thi hành án hình sự;
hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định miễn chấp hành
34
hình phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên; ra quyết định xoá án tích...). Nói
tóm lại, TAND huyện Phúc Thọ có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
TAND huyện Phúc Thọ đã ngày càng trưởng thành, về tổ chức bộ máy.
Hiện nay, ở Phúc Thọ thì Tòa án nhân dân đã có biên chế 15 cán bộ, trong đó
chánh án, 2 phó chánh án, 7 thẩm phán, 5 thư ký. Kết quả giải quyết hàng
năm đều đạt 100% đối với án hình sự, trên 90% đối với vụ việc dân sự, kinh
doanh thương mại, lao động và hành chính (tính theo số liệu tổng kết thi đua
hàng năm). Tỷ lệ án phải cải sửa, hủy đã giảm đáng kể ở mức 0,1% tổng số
bản án đã xét xử. Điều này cho thấy những nỗ lực đáng ghi nhận của Tập thể
cán bộ Tòa án huyện Phúc Thọ đã đạt được trong những năm vừa qua.
* Kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự trên địa bàn huyện Phúc
Thọ, Hà Nội.
Trên địa bàn huyện Phúc Thọ, từ năm 2015 đến năm 2018, tình hình
thụ lý và giải quyết các vụ việc dân sự sơ thẩm như bảng dưới đây:
Bảng 1. Thống kê các vụ việc dân sự sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2018
tại TAND huyện Phúc Thọ
Năm Thụ lý
Tổng số án dân sự Loại việc đất đai Xét xử Tồn
Dân sự Đất đai
2015 99 30 90 25
2016 105 45 100 35
2017 109 56 105 50
2018 115 65 110 59
Qua các số liệu trên cho thấy, tranh chấp trong lĩnh vực đất đai là một
vấn đề phức tạp, chiếm một tỷ lệ rất lớn so với các tranh chấp khác phát sinh
35
trong công tác quản lý nhà nước về mọi mặt, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh
tế đất nước, ổn định xã hội. Cũng có thể thấy số lượng các vụ án về TCĐĐ
ngày càng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các vụ án dân sự.
Tìm hiểu các vụ việc TCĐĐ mà TAND huyện Phúc Thọ giải quyết thời
gian qua cho thấy, có các loại tranh chấp cơ bản sau đây: (i) tranh chấp về hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; (ii) tranh chấp về hợp đồng tặng
cho; (iii) tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất; (iv) tranh chấp về đòi lại
đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn, chiếm đất; (v) tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất khi ly hôn; (vi) tranh chấp về đòi lại
đất giữa cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ khi vợ chồng con trai, con dâu hoặc
vợ chồng con gái, con rể ly hôn,…
2.2.2. Đánh giá chung về tình hình giải quyết các tranh chấp đất đai
theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
2.2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Nhìn chung, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết TCĐĐ của TAND
trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội thời gian qua đã đạt được
những kết quả quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.
Các Toà án đã tuân thủ các quy định của Bộ luật TTDS năm 2015, nhận thức
rõ tính đặc thù trong việc giải quyết các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất,
không ngừng nâng cao chất lượng xây dựng hồ sơ vụ án, làm rõ yêu cầu của
đương sự trong vụ án, tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan, thực
hiện tốt phương châm kiên trì hoà giải đúng pháp luật trong quá trình giải
quyết, giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, dứt điểm, góp phần giải
quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữ gìn và tăng cường đoàn kết trong
mỗi gia đình và cộng đồng dân cư. Số lượng các vụ tranh chấp về quyền sử
dụng đất đã được Toà án hoà giải thành chiếm tỷ lệ đáng kể. Năm 2018, tỷ lệ
hòa giải thành của tòa ánhuyện Phúc Thọ đạt 35% trong tổng số các vụ án đã
36
giải quyết.
TAND huyện Phúc Thọ đã áp dụng đúng đắn và thống nhất các quy
định của Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 và BLDS năm
2015, các văn bản pháp luật khác về đất đai và các hướng dẫn của Toà án
nhân dân Tối cao trong công tác xét xử các vụ án về tranh chấp quyền sử
dụng đất. Đường lối xét xử các tranh chấp về quyền sử dụng đất được Toà án
tuân thủ và áp dụng pháp luật triệt để, chất lượng giải quyết được nâng cao,
đã góp phần trong việc ổn định trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế, bảo
vệ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, hiệu lực quản lý Nhà nước, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của những người được Nhà nước giao đất và bảo vệ
các giao dịch dân sự liên quan đến đất đai. Các bản án, quyết định của Toà án
huyện Phúc Thọ đã xét xử các loại tranh chấp về quyền sử dụng đất có căn cứ
pháp luật, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, được xã hội, nhân dân ủng hộ và bảo
đảm hiệu lực thi hành. Những phiên tòa mẫu với việc tranh luận công khai, dân
chủ, những bản án “thấu tình, đạt lý” đầy tính thuyết phục đã đi vào đời sống
nhân dân, tại nên niềm tin vào công lý, vào lẽ phải và công bằng xã hội.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết TCĐĐ của TAND
huyện Phúc Thọ trong thời gian qua cho thấy đội ngũ Thẩm phán đang ngày
càng phát triển về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu và
nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Với những kết quả đã đạt được
trong công tác xét xử các vụ án nói chung và giải quyết các TCĐĐ nói riêng,
TAND huyện Phúc Thọ hoàn toàn có đủ các điều kiện cần thiết để thực hiện
ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ mà Hiến pháp và pháp luật đã giao,
xứng đáng trở thành cơ quan trung tâm của hoạt động tư pháp, thực hiện quyền
tư pháp, góp phần xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân. Ngoài ra, thông qua việc xét xử, TAND còn giáo dục pháp luật, nâng
37
cao trình độ hiểu biết pháp luật cho đương sự và những người khác.
2.2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
Những hạn chế, vướng mắc:
Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu trên, công tác áp dụng pháp luật
trong giải quyết TCĐĐ của Toà án nhân dân huyện Phúc Thọ cũng còn có
những hạn chế nhất định. Còn có một số bản án, quyết định của Toà án thể
hiện chất lượng xét xử chưa tốt dẫn đến hậu quả bản án bị hủy, gây tốn kém
thời gian và công sức, làm giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan xét xử.
Các vụ án bị kháng cáo, kháng nghị khi đưa ra xét xử phúc thẩm hoặc giám
đốc thẩm vẫn còn bị sửa, bị huỷ. Có thể nêu một số hạn chế cụ thể như sau:
Thứ nhất, hạn chế về việc đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật vể tố tụng.
- Có trường hợp cán bộ tòa án xác định không đúng thẩm quyền giải
quyết của toà án nên đã thụ lý giải quyết.
- Tòa án không áp dụng đầy đủ các quy định của Bộ luật TTDS năm
2015 để xác định tính xác thực của các chứng cứ do đương sự xuất trình trong
quá trình giải quyết vụ án.
Mặc dù đã được lưu ý trong một số Hội nghị tổng kết, rút kinh nghiệm
nhưng một số hồ sơ vụ án, tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình chỉ là bản
photocopy, trong khi những tài liệu, chứng cứ này có tính chất rất quan trọng,
có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết vụ án như: giấy vay nợ, giấy xác
nhận số tiền còn nợ, di chúc, hợp đồng chuyền nhượng quyền sử dụng đất…
Những tài liệu pho to copy này không có xác nhận của cơ quan có thẩm
quyền là đã sao y bản chính… không có chữ ký xác nhận đã đối chiếu với bản
chính của Thẩm phán nhận tài liệu, hoặc người nhận tài liệu có ký nhưng
không ghi rõ chức danh, họ và tên, không lập biên bản về việc thu nhận tài
liệu… làm cho việc xem xét đánh giá chứng cứ, xác định đường lối xử lý vụ
38
án gặp khó khăn và không đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật.
- Đối với trường hợp đương sự yêu cầu giám định và đã được tòa án
giải thích nhưng đương sự vẫn không nộp tiền chi phí giám định thì tòa án
phải lập biên bản để lưu trong hồ sơ.
- Có một số trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn đã chết trong quá trình
tố tụng và họ có người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng tòa án vẫn
xác định người đã chết là nguyên đơn hoặc bị đơn là không chính xác.
- Có trường hợp tòa án áp dụng không đúng quy định của pháp luật thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự và pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính nên tòa án hành chính cấp sơ thẩm thụ lý vụ án tranh chấp về quyền sử
dụng đất nhưng lại bị tòa án hành chính cấp phúc thẩm xử hủy án sơ thẩm,
chuyển hồ sơ cho tòa án dân sự thụ lý, xét xử.
- Sai sót trong khi xác định thời hiệu khởi kiện những vụ việc tranh chấp
thừa kế, yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu...
Ngoài ra, còn có hiện tượng vi phạm về thủ tục tố tụng khác trong quá
trình thụ lý, xác minh, lập hồ sơ, xét xử (ví dụ như đo đạc diện tích đất không
chính xác, định giá đất quá thấp, vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự…)
dẫn đến bản án bị kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại nhiều. Điều đó khẳng
định rằng Toà án nhân dân giải quyết các TCĐĐ còn có những hạn chế nhất
định khi áp dụng pháp luật TTDS, dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án còn
chưa chính xác, khách quan.
Vụ việc dưới đây từ thực tiễn giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng
đất khi vợi chồng ly hôn trong trường hợp quyền sử dụng đất và tài sản trên
đất không cùng chủ sở hữu và sử dụng hợp pháp của vợ và chồng trong hôn
nhân gây ra nhiều khó khăn, vương mắc trong quá trình giải quyết của Tòa án
huyện Phúc Thọ.
Nội dung tranh chấp
Chị Phạm Thị Mỹ Hạnh và anh Vũ Văn Xuân trước đây là vợ chồng.
39
Năm 2003, chị Hạnh yêu cầu ly hôn. Theo chị Hạnh, tài sản chung của vợ
chồng hiện nay chỉ còn duy nhất diện tích đất 3.193m2 thuộc thửa 58-13 tờ
bản đồ số 69-70 tọa lạc tại thôn Hoàng Giao. Chị Hạnh yêu cầu giải quyết
theo pháp luật. Ngoài ra, căn nhà cấp 1 trước đây chị và anh Xuân ở đã bị sập,
một số vật dụng gia đình không đáng kể không yêu cầu giải quyết.
Về diện tích 4.203 m2 đất thuộc thửa 215 tờ bàn đồ số 32 tọa lạc tại
thôn Hoàng Giao có nguồn gốc thuộc quyền sử dụng đất của mẹ chị là bà
Đoàn Thị Vui. Bà Vui đã được cấp GCNQSDĐ số A604054 ngày
09/09/1991. Do bà Vui sống độc thân và chỉ có một người con duy nhất là
chị, nên sau khi lấy anh Xuân, bà đã cho chị và anh Xuân trực tiếp quản lý sử
dụng từ năm 1992. Năm 1995, khi chị đang mang thai con thứ hai: Anh Xuân
tự ý làm thủ tục tách mang tên anh Xuân ngày 05/4/1996. Sau khi biết chị
không phản đối vì vợ chồng đang chung sống với nhau. Từ năm 1996 đến
năm 2001, chị và anh Xuân đã cắt chuyển nhượng cho nhiều người, sau khi
trừ đi 41,5 m2 đất bị quy hoạch mở đường, hiện nay thửa đất còn lại 376m2.
Đối với diện tích 9.632 m2 thuộc thửa 21 + 31 tờ bản đồ dố 31 tọa lạc
tại thôn Hoàng Giao, có nguồn gốc được mua của ông Trần Diệp Thạch từ
nguồn tiền bán thửa 215 vào năm 1998, đất này hiện chưa sang tên trước bạ
mà vẫn do ông Thạch đứng tên trong GCNQSDĐ số B:433771 cấp ngày
11/11/2004. Do đó, hai thửa đất này là tài sản riêng của chị, không phải là tài
sản chung của vợ chồng.
Theo anh Xuân: Thừa nhận nguồn gốc diện tích đất 4.203m2 thuộc
thửa 21, tờ bản đồ số 32 trước đây là của bà Vui. Sau khi chị Hạnh và anh
Xuân lấy nhau, bà đã cho vợ chồng nên bà Vui mới làm thủ tục chuyển
nhượng cho anh Xuân.
Ngày 16/11/2000 anh Xuân bị tai nạn giao thông sau một thời gian
ngắn do mâu thuẫn chị Hạnh bỏ nhà đi. Mẹ anh Xuân phải trực nuôi 03 con
của anh Xuân đồng thời lo chi phí chăm sóc anh, không có tiền nên bà có làm
40
đơn xin xác nhận cho anh Xuân bán đất để lấy tiền chữa bệnh. Ngày
30/7/2001 anh Xuân đã viết giấy sang nhượng đất vườn ghi nhận việc bán
9.632 m2 đất thuộc thửa 22 + 31 tờ bản đồ số 31 cho vợ chồng chị Nụ, em
ruột với giá 10 cây vàng, tương đương 46.500.000 đồng.
Nay anh Xuân, bà Hoa có quan điểm: Mặc dù là tài sản chung của vợ
chồng, anh Xuận tự ý bán không có sự đồng ý của chị Hạnh, nhưng lý do bán
là hoàn toàn chính đáng. Mặt khác, bán cho người khác không ai dám mua,
tính mạng con người là quan trọng nên chị Nụ mua để tạo điều kiện cho anh
trai chữa bệnh. Chị Hạnh phải có trách nhiệm với các chi phí của anh Xuân
trong thời gian vợ chồng chưa ly hôn. Do đó, yêu cầu Tòa án công nhận
quyền sử dụng hợp pháp mảnh đất của chị Nụ đã mua. Đối với thửa đất còn
lại, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
Vợ chồng ông Trần Diệp Thạch xác nhận năm 1998 ông bà có sang
nhượng toàn bộ diện tích cho anh Xuân, chị Hạnh với giá 5,9 cây vàng. Tại
thời điểm đó, chưa có GCNQSDĐ nên hai bên không thông qua chính quyền.
Năm 2004, Nhà nước làm thủ tục và đất này đứng tên ông. Ông bà không có
yêu cầu quyền lợi gì liên quan đề nghị tòa giải quyết theo pháp luật.
Quan điểm giải quyết của TAND huyện Phúc Thọ giải quyết vụ việc
nêu trên là:
-Về tài sản chung: Chị Hạnh cho rằng diện tịch 4.203m2 đất thuộc thửa
21 tờ bản đố số 31 và diện tích đất 9.632m2 thuộc thửa 22+31 tờ bản đồ 31
tọa lạc tại ấp Hoàng Giao là tài sản riêng của chị. Về vấn đề này thấy rằng:
Theo tài liệu có trong hồ sơ thì diện tích đất 4.205m2 có GCNQSDĐ số
A604054 ngày 09/9/1991 mang tên bà Đoàn Thị Vui. Bà Vui đã chuyển
nhượng cho anh Xuân 4.203m2 đất này và ngày 29/10/1997 anh Xuân đã
được cấp GCNQSDD mới đối với diện tích đất trên.
Việc chuyển nhượng từ bà Vui sang anh Xuân, cả chị Hạnh đều biết và
không ai có ý kiền gì. Trên thực tế, thửa đất đã được anh Xuân và chị Hạnh
41
bán cho nhiều người. Hơn nữa, sau khi xảy ra tranh chấp giữa hai vợ chồng,
anh Xuận và chị Hạnh vẫn cam kết tiếp tục sang nhượng diện tích đất cho
những người mua. Vì vậy Tòa án xác định thửa đất 215 có diện tích 4.203m2
nay còn lại 376m2 là tài sản chung của vợ chồng anh Xuân, chị Hạnh.
-Đối với diện tích 9.632 m2 thuộc thửa 22+31, theo chị Hạnh và anh
Xuân: Đây là mảnh đất của ông Trần Diệp Thạch từ năm 1998 bằng nguồn
tiền bán đất từ thửa 215 (4.203m2). Như vậy, thửa đất 215 được xác định là
tài sản chung của vợ chồng nên thửa đất 22 + 31 có diện tích 9.632m2 cũng
phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
- Về việc giải quyết đối với thửa đất 22 + 31 có diện tích đất 9.632m2
thấy rằng:
+ Trong thời kỳ hôn nhân đang tồn tại, anh Xuân làm giấy viết tay bán
cho chị Nụ (em gái) diện tích đất 9.632m2 (bán trong thời gian anh bị tai nạn)
mà không có sự đồng ý của chị Hạnh, không được chính quyền xã xác nhận
và đã được giải thích là giao dịch trái pháp luật. Theo anh Xuân, anh phải bán
đất để chữa bệnh và nuôi 03 con nhỏ trong thời gian hơn 3 năm chị Hạnh bỏ
đi. Tòa án không công nhận giao dịch giữa chị Nụ và anh Xuân. Đồng thời
chỉ chấp nhận cho anh Xuân bán ½ diện tích đất bằng 4.916 m2 đất là phần
đất của anh Xuân, còn phần của chị Hạnh được giao cho chị quản lý. Bên
cạnh đó, chị Hạnh đồng ý hoàn lại cho anh Xuân 05 lượng vàng, bằng nửa số
vàng mà anh Xuân đã bán cho chị Nụ để giúp anh Xuân chữa bệnh, nuôi con.
* Đánh giá việc giải quyết tranh chấp
Có thể thấy, trong các giao dịch dân sự đối với tài sản chung của vợ
chồng nếu không có sự đồng ý của cả vợ và chồng, hoặc không đáp ứng về
điều kiện hình thức giao dịch, các giao dịch này thường được tòa án tuyên vô
hiệu. Việc này sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ tời quyền lợi của bên nhận giao
dịch khi không được công nhận quyền sử dụng đất.
Thứ hai là hạn chế về việc đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật nội
42
dung.
Tòa án khi áp dụng các quy định của Luật Đất đai, BLDS và các văn
bản hướng dẫn thi hành để giải quyết các TCĐĐ còn có những lúng túng và
sai sót, thể hiện ở nhiều dạng khác nhau:
- Sai sót khi xác định diện thừa kế và quyền thừa kế (trong đó có thừa
kế quyền sử dụng đất);
- Sai sót khi giải quyết các tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất
do thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa chính xác dẫn đến
xác định quyền sử dụng đất của mỗi bên không đúng hoặc buộc đập bỏ một
phần tài sản trên đất lấn chiếm mà không xem xét, cân nhắc hết tất cả các khía
cạnh như lỗi của một bên, tính khả thi, tính hợp lý của quyết định…
- Sai sót do việc đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, khách quan, chính
xác.
Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không hiểu đúng các quy định
của pháp luật dẫn đến lựa chọn các quy phạm pháp luật chưa chính xác, áp
dụng điều luật không đúng. Do đó, các đương sự không đồng ý với phán
quyết của Tòa án, tiếp tục kháng cáo và các bản án phải xét xử qua nhiều cấp,
bị sửa và hủy.
Vụ việc sau đây liên quan đến dạng tranh chấp về giải quyết hậu quả
hợp đồng do bị chấm dứt, bị hủy bỏ, bị vô hiệu.
Một trong những vụ án điển hình về việc tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất phải kể đến là vụ án giữa nguyên đơn là anh
Nguyễn Văn Ba và chị Vũ Ngọc Anh; bị đơn: anh Nguyễn Văn Hưng và chị
Trần Thị Hiền. Ngày 7/8/2015, anh Hưng và chị Hiền làm đơn khởi kiện tại
TAND huyện Phúc Thọ với nội dung:
Ngày 01/01/2015, anh Ba và chị Anh chuyển nhượng cho anh Hưng và
chị Hiền nhà và đất mà anh Ba và chị Anh đang ở trên diện tích đất 90m2 tại
thửa số 3, tờ bản đồ số 41 thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ với giá
43
900.000.000 đồng, hai bên chỉ làm giấy tờ viết tay với nhau. Sau khi thống
nhất việc chuyển nhượng nhà, đất, anh Hưng và chị Hiền đã giao đủ tiền cho
anh Ba và chị Anh. Tuy nhiên tháng 02/2015, anh Hưng và chị Hiền yêu cầu
anh Ba và chị Anh bàn giao nhà nhưng anh Ba, chị Anh thay đổi ý định không
làm thủ tục bàn giao nhà và làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho anh Hưng và chị Hiền theo đúng quy định. Anh Hưng, chị Hiền làm đơn
khởi kiện đề nghị TAND huyện Phúc Thọ buộc anh Ba, chị Anh phải tiếp tục
thực hiện hợp đồng, làm thủ tục sang tên nhà, đất cho anh Hưng, chị Hiền.
Anh Hưng và chị Hiền cho rằng, đã trả đủ số tiền 900.000.000 đồng
cho anh Ba, chị Anh. Tuy nhiên sau khi chuyển nhượng thì giá đất tại thị
trường có tăng nên anh Ba, chị Anh không muốn làm thủ tục chuyển nhượng
mà yêu cầu anh Hưng, chị Hiền phải trả thêm tiền. Kèm theo đơn khởi kiện
thì anh Hưng, chị Hiền nộp cho Tòa án bản viết tay “Giấy chuyển nhượng đất
+ nhà ở” có ghi tên Nguyễn Văn Ba và chị Vũ Thị Anh ở mục người chuyển
nhượng, ngoài ra không có chứng cứ nào khác.
Anh Ba và chị Anh khai: số tiền 900.000.000 đồng ghi trong giấy
chuyển nhượng thì thực tế anh, chị chỉ nhận 600.000.000 đồng còn
300.000.000 đồng là số tiền lãi gốc và lãi mà anh Ba, chị Anh vay của anh
Hưng, chị Hiền trước đó. Do chưa có tiền trả nên anh Hưng, chị Hiền ép anh
Ba, chị Anh phải chuyển nhượng nhà, đất cho anh Hưng, chị Hiền. Do vậy
anh Ba, chị Anh không đồng ý làm thủ tục sang tên cho anh Hưng, chị Hiền.
Trong quá trình Tòa án giải quyết thì TAND huyện Phúc Thọáp công
nhận hợp đồng thực tế và yêu cầu Nguyên đơn là anh Nguyễn Văn Ba, chị Vũ
Thị Anh và bị đơn là anh Nguyễn Văn Hưng và chị Trần Thị Hiền tiếp tục
thực hiện hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký
ngày 01/01/2015. Anh Ba, chị Anh có nghĩa vụ cùng với vợ chồng anh Hưng,
chị Hiền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục theo quy định của
44
pháp luật.
Sau phán quyết của Tòa Án, anh Ba và chị Anh không đồng ý nên đã
tiếp tục làm đơn kháng có và yêu cầu Tòa án nhân thành phố Hà Nội giải
quyết tranh chấp.
Với vụ việc nêu trên, theo ý kiến tác giả, khi nộp đơn khởi kiện thì anh
Hưng và chị Hiền chỉ cung cấp tài liệu duy nhất là “Giấy chuyển nhượng đất
+ nhà ở”, ngoài ra không có tài liệu, chứng cứ nào khác. Đối chiếu với quy
định tại Điều 388, 404, 405, 450, 689 thì tài liệu mà anh Hưng, chị Hiền cung
cấp không đủ điều kiện để được coi là giao dịch dân sự giữa các bên, bởi chỉ
có chữ ký của anh Ba, chị Anh ở mục người chuyển nhượng mà chưa có chữ
ký của anh Hưng, chị Hiền ở mục người nhận chuyển nhượng thì không làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên. Nếu đây là tài liệu duy nhất
để Tòa án thụ lý vụ án là chưa đầy đủ, lẽ ra khi nhận đơn khởi kiện thì cán bộ
Tòa án cần xem xét kỹ tài liệu, chứng cứ và hướng dẫn, giải thích cho đương
sự để họ thực hiện việc làm thủ tục chuyển nhượng theo đúng quy định của
pháp luật, nếu không có tài liệu, chứng cứ nào khác thì Tòa án cần trả đơn
khởi kiện theo quy định tại Điều 165 và điểm d khoản 1 Điều 168 Bộ luật
TTDS.
Những hạn chế này là bởi một số nguyên nhân sau đây:
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai và có liên quan đến đất
đai chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và khó áp dụng, chậm được hướng dẫn thi hành
Nghị quyết số 48/NQTƯ, ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị
"Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020" đã đánh giá như sau:
Hiện nay, Tòa án vẫn đang thụ lý và giải quyết cả những tranh chấp
xuất phát từ các giao dịch dân sự xác lập từ thập kỷ 50, 60 của thế kỷ XX với
những biến động phức tạp về chủ sở hữu, người quản lý sử dụng, về kết cấu
nhà đất, về nghĩa vụ của các bên tranh chấp, về đường lối xử lý. Có những vụ
45
sau 8, 9 lần xét xử ở các cấp Tòa án với hàng chục năm theo kiện vẫn chưa
được giải quyết triệt để. Những vụ án liên quan đến quyền sử dụng đất thường
bị khiếu nại kéo dài vì việc xác định giá trị của nhà đất ở Tòa án vẫn còn khác
xa với giá trị thực tế dẫn đến việc tranh chấp để được chia đất, nhà bằng hiện
vật trở nên căng thẳng, gay gắt.
Chính sách, pháp luật về đất đai được ban hành nhiều và thay đổi liên
tục qua các giai đoạn lịch sử của đất nước, nên tranh chấp nhà đất phát sinh từ
các giao dịch dân sự được xác lập ở những thời điểm khác nhau thì được áp
dụng những quy phạm pháp luật khác nhau và cách giải quyết cũng khác
nhau. Vì vậy, khi giải quyết Thẩm phán phải lựa chọn quy phạm phù hợp với
từng thời điểm giao kết hợp đồng với từng loại quan hệ pháp luật. Cùng một
vụ án nhưng việc xét xử khác nhau, tồn tại nhiều quan điểm là do trong một
thời gian dài, nhiều quy định pháp luật về đất đai không phù hợp với thực tiễn
cuộc sống, nếu giải quyết việc tranh chấp phù hợp với cuộc sống thì lại trái
với quy định của pháp luật ở thời điểm giao dịch. Ví dụ: thời điểm cấm mua
bán đất nhưng vì nhu cầu người dân vẫn mua bán chui, nhiều năm sau khi giá
đất lên mới tranh chấp....
Tính ổn định của pháp luật về đất đai rất thấp, trong khi đất đai gắn liền
với mỗi người dân, mỗi gia đình, tổ chức kinh tế, xã hội, các quan hệ đất đai
được hình thành ở những thời điểm khác nhau, nhưng khi pháp luật đất đai thay
đổi, Nhà nước không ban hành kịp các văn bản ổn định quan hệ hình thành trước
đó, dẫn đến cách hiểu, vận dụng pháp luật khác nhau khi luật mới ra đời nên Tòa
án gặp rất nhiều khó khăn khi vận dụng pháp luật, trong khi pháp luật đất đai
thay đổi liên tiếp và có những thay đổi căn bản.
Văn bản quy phạm pháp luật còn mâu thuẫn, trái ngược, chồng chéo nhau
Thực tế trong thời gian qua, trong lĩnh vực tư pháp, việc giải thích pháp
luật đều được thể hiện dưới dạng Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND
tối cao và Thông tư liên tịch nhưng các văn bản này có lúc chưa ban hành kịp
46
thời vì vậy có nhiều cách hiểu khác nhau trong một điều luật dẫn đến việc cấp
Tòa án này căn cứ vào văn bản này để giải quyết vụ án, cấp Tòa án khác lại
căn cứ vào văn bản khác để sửa chữa, hủy án. Hoặc có trường hợp có cùng
một vấn đề nhưng lại có nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi
các cơ quan có thẩm quyền khác nhau và đều cùng có hiệu lực pháp lý vì vậy
người Thẩm phán sẽ phải áp dụng văn bản nào để xét xử trong rất nhiều văn bản
pháp luật từ cơ quan trung ương đến các cơ quan địa phương. Cái khó của người
Thẩm phán không phải là không biết hết các loại văn bản có liên quan hay không
mà chính là chỉ được áp dụng pháp luật chứ không có quyền tuyên bố một văn
bản pháp luật nào trái với hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh do cơ quan lập pháp
ban hành.
Hiện nay, chúng ta đang lúng túng trong quá trình áp dụng pháp luật
khi có sự chồng chéo, mâu thuẫn do các cấp ban hành. Mặt khác, Tòa án cũng
không có quyền tuyên bố một văn bản nào trái với Hiến pháp hay trái với một
đạo luật. Như vậy, áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp
quyền sử dụng đất của TAND là công việc đòi hỏi phải cập nhật các văn bản
quy phạm pháp luật về đất đai và các văn bản có liên quan đến đất đai.
Công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của TAND tối cao
trong năm 2012 chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn công tác xét xử.
Nguyên nhân là do đội ngũ cán bộ khoa học xét xử còn thiếu và yếu; việc
tổng kết thực tiễn công tác xét xử trong toàn ngành còn hạn chế nên chưa kịp
thời phát hiện để đề xuất những vướng mắc, làm cơ sở cho việc ban hành các
nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của Hội đồng Thẩm phán.
Bên cạnh đó, việc ban hành các văn bản hướng dẫn luôn gắn với việc tổng kết
các vấn đề vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn xét xử của Toà án các cấp, nên
đòi hỏi phải có thời gian, vật chất nhất định; đồng thời theo quy định của Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ
47
của các cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Do đó, những trường hợp chậm nhận
được ý kiến góp ý từ phía cơ quan, tổ chức hữu quan cũng ảnh hưởng tới tiến
độ ban hành văn bản quy phạm pháp luật của TAND tối cao.
Số lượng, chất lượng đội ngũ Thẩm phán chưa thực sự đáp ứng yêu
cầu mới.
So với biên chế được phân bổ, hiện toàn ngành Tòa án còn thiếu về số
lượng cán bộ và Thẩm phán là 716 người, chủ yếu là ở cấp huyện, do vậy,
huyện Phúc Thọ cũng không nằm ngoài tình trạng này. Tình trạng thiếu cán
bộ, Thẩm phán ở một số Tòa án địa phương là một khuyết điểm, thiếu sót của
ngành trong nhiều năm qua. Nguyên nhân của tình trạng này là do ở các địa
phương này rất thiếu nguồn để tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, trong khi đó
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức Tòa án hiện nay còn nhiều bất
cập, nên chưa tạo điều kiện để thu hút cán bộ có trình độ cho Tòa án, đặc biệt
là các địa phương vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, ngành TAND cũng chưa
có các giải pháp đồng bộ, toàn diện trong việc tìm và tạo nguồn tuyển dụng
cán bộ, bổ nhiệm Thẩm phán cho các địa phương này.
Đây là một vấn đề lớn có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan,
nguyên nhân chủ quan có phần thuộc về công tác quản lý của Tòa án các cấp,
nhất là khâu tổ chức cán bộ thuộc đơn vị mình phụ trách, chưa coi trọng đúng
mức công tác quy hoạch, tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán và kiến nghị đề xuất
tuyển dụng cán bộ, công chức khi thiếu nguồn tuyển dụng. Trong những năm
qua, mặc dù đã được quan tâm bồi dưỡng qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng về
nghiệp vụ trong việc xét xử các tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng thực tế
cho thấy trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực xét xử đối với các vụ án
dân sự nói chung (các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng) của một
số Thẩm phán còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật và
phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức Tòa án các cấp chưa
48
thực sự đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi trong tình hình mới.
Giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất là rất phức tạp đòi hỏi
người Thẩm phán phải có kiến thức rộng, toàn diện và sâu sắc nhưng có
những Thẩm phán không cố gắng học tập, nghiên cứu kỹ các tài liệu, cũng
như cập nhật thông tin dẫn đến việc đánh giá chứng cứ thiếu khách quan toàn
diện nên có quyết định sai lầm, thậm chí có những trường hợp cá biệt tiêu
cực, vi phạm pháp luật, làm trái công vụ.
Trong tình hình hiện nay, trình độ, năng lực của một số cán bộ, Thẩm
phán chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, kiến thức
kinh tế xã hội, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học còn hạn chế. Việc để các
vụ án tồn đọng, quá hạn luật định ở nhiều Tòa án là do nhiều nguyên nhân
trong đó có nguyên nhân do thiếu Thẩm phán. Do phải xét xử nhiều vụ án
trong một tháng nên việc nghiên cứu hồ sơ vụ án có khi chưa kỹ. Những vụ
án tranh chấp về quyền sử dụng đất rất phức tạp cần phải tìm hiểu nhiều loại
văn bản và các văn bản qua từng thời kỳ cũng khác nhau, nên việc lựa chọn
áp dụng văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu dồn vào Thẩm phán - Chủ tọa
phiên tòa, trong khi đó các Thẩm phán cánh gà cùng tham gia xét xử không
có thời gian để nghiên cứu hồ sơ. Với số lượng án được giao phải giải quyết,
với tính chất phức tạp của vụ án ngày càng tăng đã ảnh hưởng đến chất lượng
áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử.
Mặt khác, sự yếu kém còn thể hiện ở việc không cập nhật các văn bản,
thông tin về lĩnh vực đất đai, dễ bỏ qua các tài liệu chứng cứ có giá trị pháp lý, có
ý nghĩa chứng minh để giải quyết vụ án một cách đúng đắn theo quy định của
pháp luật. Trình độ năng lực nghề nghiệp yếu kém của Thẩm phán ngoài việc
không đánh giá được chứng cứ còn thể hiện ở việc tìm hiểu, lựa chọn quy phạm
pháp luật không chính xác, không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.
Hạn chế bất cập trong chế định hội thẩm nhân dân.
Hội thẩm nhân dân có vị trí quan trọng không thể thiếu được trong hoạt
động tư pháp. Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, bên cạnh việc tiếp tục khẳng
49
định và thực hiện tốt nguyên tắc "Tòa án xét xử có Hội thẩm nhân dân tham
gia", "khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán" thì chế
định Hội thẩm nhân dân cần được nghiên cứu để khắc phục những bất cập,
giảm thiểu những ảnh hưởng không tốt đến chất lượng xét xử của TAND.
Qua thực tế xét xử ở Tòa án cấp sơ thẩm TAND huyện Phúc Thọ cho
thấy, trình độ pháp luật của Hội thẩm nhân dân chưa tương xứng với nhiệm
vụ được giao để thực hiện "ngang quyền với Thẩm phán". Tỷ lệ Hội thẩm
nhân dân chiếm đa số trong Hội đồng xét xử nhưng chế độ trách nhiệm không
rõ ràng chính vì vậy sự tham gia của họ mang nặng tính hình thức. Do không
có trình độ nên họ dựa dẫm, ỷ lại vào Thẩm phán hoặc có ý kiến khác với
Thẩm phán nhưng không thể hiện được tính đúng đắn của việc nhận thức
pháp luật. Thành phần tham gia Hội thẩm nhân dân Tòa án rất đa dạng như
giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, cán bộ tổ dân phố,
cán bộ Hội liên hiệp phụ nữ và cán bộ đương chức ở cơ quan hành chính sự
nghiệp. Tuy nhiên vì nhiều lý do, họ không tham gia xét xử được gây khó
khăn cho việc mở phiên tòa. Vì không có hình thức tập hợp, sinh hoạt nên các
Hội thẩm TAND ít có điều kiện học tập, trao đổi kinh nghiệm xét xử về các
vấn đề nghiệp vụ. Hội thẩm nhân dân chỉ làm việc với nhau khi được phân
công xét xử cùng một hội đồng. Kết quả xét xử sau khi Tòa án tuyên án sơ
thẩm cũng đồng nghĩa với việc kết thúc nhiệm vụ của người Hội thẩm nhân
dân đó đối với vụ án, họ không hề quan tâm đến kết quả xét xử. Trong trường
hợp bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị và cấp trên có cải sửa thì
Hội thẩm nhân dân cũng không chịu trách nhiệm. Pháp luật hiện hành quy
định về tiêu chuẩn về trình độ pháp luật của Hội thẩm nhân dân không cao,
chỉ cần có kiến thức pháp luật, tức là có trình độ hiểu biết pháp luật ở mức độ
nhất định là có thể được bầu vào Hội thẩm nhân dân vì vậy Hội thẩm nhân
dân "ngang quyền" với Thẩm phán là rất khó khăn.
Những vấn đề về chuyên môn trong việc giải quyết các tranh chấp về
quyền sử dụng đất không được các Hội thẩm nhân dân hiểu một cách thấu đáo
50
như: khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì giải quyết
hậu quả của hợp đồng vô hiệu như thế nào? Việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đã qua từng thời kỳ có phù hợp với pháp luật của từng thời kỳ đó
không? Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã đảm bảo về nội dung,
hình thức theo quy định của pháp luật không? Do không có điều kiện để hiểu
được những vấn đề chuyên sâu về pháp luật đất đai như vậy nên người Hội
thẩm nhân dân phải dựa vào ý kiến của Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa. Vì
vậy, trách nhiệm xét xử dồn hết vào một người Thẩm phán (chủ tọa phiên tòa)
từ khâu nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử, thẩm vấn tại phiên tòa, nghị án,
tuyên bản án, quyết định. Nguyên tắc "Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và
quyết định theo đa số", và nguyên tắc "khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang
quyền với Thẩm phán" khi giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất chưa
thực sự chính xác, có sức thuyết phục.
Tiểu kết chương 2
Pháp luật về nội dung được áp dụng để giải quyết TCĐĐ trước hết phải
kể đến Luật đất đai, BLDS ngoài ra còn có các luật khác như Luật xây dựng, Luật
Nhà ở, Luật hôn nhân và gia đình, các hướng dẫn của TAND tối cao cũng như
những Án lệ được Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ban hành.. Những quy định
có liên quan này này được vận dụng một cách linh hoạt trong từng trường hợp giải
quyết các TCĐĐ.Có thể thấy, TCĐĐ là một loại tranh chấp phức tạp, phải vận
dụng quy phạm pháp luật ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong quá trình giải quyết
mới đảm bảo tính chính xác, toàn diện.
Về xác định thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải giải quyết các TCĐĐ được
thực hiện trên cơ sở các quy định của Bộ luật TTDS 2015. Hiện nay, xu hướng
xây dựng pháp luật là chuyển thẩm quyền giải quyết các TCĐĐ sang cho Tòa án
bởi vì Tòa án là cơ quan độc lập, có hệ thống thẩm phán, cán bộ có trình độ hiểu
biết, áp dụng cao, được qua đào tạo chính quy nên chất lượng giải quyết sẽ được
51
nâng cao hơn.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GÓP
PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN
3.1.Định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả về
giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ:
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 Cải cách tư pháp khẩn trương,
đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế công
tố gắn liền với hoạt động điều tra.
Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp
luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam..
Đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng hệ thống các văn
bản pháp luật chính là quan điểm cơ bản để nâng cao chất lượng áp dụng pháp
luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và chất lượng áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng.
Để nâng cao hiệu quả trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng
đất tại TAND cần quán triệt những quan điểm sau đây:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của cơ
quan tư pháp trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật của TAND, nâng cao
bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm phán.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung, với
52
TAND nói riêng là toàn diện và tuyệt đối. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác xét xử của TAND không có nghĩa là tổ chức Đảng, Đảng
viên can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, quyết định chấp nhận hay
không chấp nhận đơn khởi kiện của đương sự hoặc chỉ đạo việc ra bản án,
quyết định bảo vệ cho nguyên đơn, hay bị đơn. Sự lãnh đạo của Đảng được
thể hiện bằng đường lối xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, bằng việc chủ
trương ban hành các quy phạm pháp luật đúng đắn, kịp thời, bằng phương hướng
đổi mới, tổ chức và hoạt động của TAND làm sao có hiệu quả hơn, bản án, quyết
định của Tòa án tuyên ngày càng có chất lượng. Đường lối chủ trương, chính
sách của Đảng về việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngành TAND có đủ số
lượng, đảm bảo chất lượng, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cách mạng của
người Thẩm phán.
Hai là, nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật việc giải quyết các tranh
chấp quyền sử dụng đất tại TAND phải gắn liền với việc thực hiện đồng bộ
các yêu cầu, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân.
Việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhằm nâng cao chất
lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND nói chung và nâng
cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền
sử dụng đất nói riêng tại TAND, không thể tách rời với các nội dung của việc
xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN. Chất lượng áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử của TAND gắn liền với chất lượng hoạt động của cơ
quan khác, vì vậy để cải cách tư pháp có hiệu quả Đảng và Nhà nước ta chủ
trương củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án, viện
kiểm sát, cơ quan điều tra, cải cách nền hành chính Nhà nước, đổi mới đội
ngũ cán bộ, công chức. Tất cả những yêu cầu, nội dung trên phải được thực
hiện một cách đồng bộ và có những bước đi thích hợp.
Ba là, đổi mới công tác xét xử của TAND theo hướng mở rộng dân chủ,
53
tranh luận tại phiên tòa, thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tố tụng.
Tòa án là trung tâm của hoạt động tư pháp, vì vậy việc nâng cao chất
lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và trong việc giải
quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng tại TAND chính là một
trong những nội dung trọng tâm của cải cách tư pháp.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án việc thực hiện đầy đủ nguyên tắc đảm
bảo tranh tụng tại phiên tòa xét xử góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các
vụ án, đảm bảo chất lượng ban hành các bản án, quyết định theo đúng pháp luật.
Coi trọng và mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo đường lối của Đảng cũng là
một trong những nội dung thiết thực để thực hiện dân chủ trong hoạt động áp
dụng pháp luật khi giải quyết vụ án.
Bốn là, áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất tại Tòa án phải gắn với nghĩa vụ phổ biến tuyên truyền, giáo dục
nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
Như phân tích ở trên, pháp luật nước ta về đất đai không ổn định và quá
nhiều văn bản hướng dẫn thi hành vì vậy áp dụng pháp luật trong phiên tòa giải
quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất không chỉ có tác dụng giáo dục ý thức
tuân theo pháp luật của nhân dân mà còn giáo dục họ ý thức tự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục sơ thẩm
tại Tòa án
3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai
Nghị quyết số 48-NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm
2020 đã nêu rõ "nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ,
thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Tiến độ xây dựng
pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao." Một Nhà
54
nước pháp quyền XHCN của dân do dân vì dân không chỉ đòi hỏi có một hệ
thống pháp luật đồng bộ thống nhất và hoàn thiện mà còn phải có chất lượng
cao và ổn định để thực sự trở thành những nguyên tắc xử sự chung, mẫu mực.
Để áp dụng pháp luật tốt trước hết cần phải có quy phạm pháp luật tốt. Chúng
tôi cho rằng đây là một trong những giải pháp quan trọng nhất bởi lẽ khi Nhà
nước xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể và có chất lượng
sẽ là cơ sở pháp lý để TAND áp dụng pháp luật thống nhất và có hiệu quả
cao. Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới theo đường lối sáng suốt của
Đảng. Nhiều quan hệ xã hội mới hình thành và phát triển cùng với sự thay đổi
một số chính sách cụ thể trong khi văn bản quy phạm pháp luật lại có tính
khái quát cao, định ra những quy luật chung nhất và phổ biến nhất từ những
vấn đề cụ thể. Vì vậy, Luật sau khi ban hành chậm đi vào cuộc sống, phải chờ
nghị định, thông tư hướng dẫn quy định cụ thể. Do đó, theo chúng tôi, Luật
chỉ nên quy định những vấn đề chung và những vấn đề cụ thể mang tính ổn
định, còn những vấn đề biến động thì nên để cho các văn bản dưới Luật quy
định và cơ quan soạn thảo luật cần chuẩn bị các văn bản thi hành luật ngay
khi trình thông qua văn bản luật. Có như vậy thì văn bản luật mới có điều kiện
để đi ngay vào cuộc sống ngay khi ban hành. Bên cạnh đó, Nhà nước cần
quan tâm đến công tác giải thích chính thức pháp luật để tạo ra cách hiểu
chính xác và thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật. Với một hệ thống
văn bản pháp luật đầy đủ, được hướng dẫn thi hành một cách thống nhất, kịp
thời, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội thì việc áp dụng pháp
luật nói chung, áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền
sử dụng đất tại TAND nói riêng sẽ được thực hiện tốt, chất lượng giải quyết
các tranh chấp quyền sử dụng đất được nâng cao. Trong những năm qua,
ngành TAND đã thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật. Những dự án luật, pháp lệnh được Quốc hội, ủy
ban Thường vụ Quốc hội phân công chủ trì soạn thảo đều được ngành TAND
55
thực hiện đúng tiến độ, đạt chất lượng cao. Trong công tác hướng dẫn áp dụng
pháp luật, ngành TAND luôn chủ động phối hợp với các cơ quan có thẩm
quyền để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã
làm tốt công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất trong toàn ngành. Đặc biệt
trong những năm gần đây khi hệ thống pháp luật của Nhà nước ta có nhiều
sửa đổi, bổ sung, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành nhiều
thông tư, nghị quyết hướng dẫn kịp thời góp phần nâng cao chất lượng xét xử
các vụ án. Ngoài ra, TAND tối cao còn ban hành hàng nghìn văn bản trao đổi
nghiệp vụ để giúp các Tòa án địa phương áp dụng đúng và thống nhất pháp
luật trong từng lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dân sự. Cùng với việc đẩy mạnh
công tác xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
ngành TAND còn rất quan tâm tới công tác tập huấn các văn bản pháp luật
mới trong toàn ngành, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
các cán bộ, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Thực tế áp dụng pháp luật cho
thấy các quy phạm pháp luật được xây dựng trên cơ sở khái quát các hành vi
của các chủ thể trong xã hội. Tuy nhiên, nội dung của các quy phạm pháp luật
không phải lúc nào cũng rõ ràng dễ hiểu và hoàn toàn sát hợp với tình huống
phát sinh trong cuộc sống, vì vậy cần có hoạt động giải thích pháp luật. Thực
tế cho thấy dù hiến pháp, luật có ghi nhận hay không thì trong lịch sử tư pháp
của Việt Nam, Tòa án luôn có vai trò lớn trong việc giải thích pháp luật qua
các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán và các công văn hướng dẫn của
TAND tối cao. Điều 5 BLDS năm 2015 quy định "Trường hợp các bên không
có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng
tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”. Do vậy, dẫn đến việc chính thức
thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp như là một nguồn luật trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp dẫn đến thừa
56
nhận quyền giải thích luật của Tòa án. Luật ban hành văn bản pháp luật đã
chính thức thừa nhận Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao là
văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ nhất, về vấn đề hòa giải tại UBND cấp xã
- Một là, bổ sung quy định đối với trường hợp UBND cấp xã nơi có đất
tranh chấp tổ chức buổi hoà giải nhưng một trong các bên hoặc hai bên đương
sự vắng mặt không có lý do chính đáng thì UBND cấp xã vấn tiến hành hòa
giải vắng mặt, lập biên bản hòa giải mà không có chữ ký của bên vắng mặt;
đồng thời tống đạt văn bản đến bên vắng mặt trong buổi hòa giải. Biên bản
hòa giải là căn cứ để các bên đương sự tiến hành các thủ tục tiếp theo như
khởi kiện TCĐĐ tại Tòa án hoặc gửi đơn yêu cầu đến UBND cấp có thẩm
quyền giải quyết.
- Hai là, trường hợp UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp hoà giải thành
nhưng sau đó một trong các bên lại thay đổi ý kiến không chấp nhận kết quả
hoà giải thành thì không cần tiếp tục các thủ tục hòa giải vì một bên tranh
chấp đã không có thiện chí chấp hành theo sự thỏa thuận của các bên nếu tiếp
tục hòa giải chỉ làm kéo dài quá trình giải quyết vụ việc, làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của các bên. Trong trường hợp này nên hướng dẫn các bên khỏi
kiện ra Tòa án hoặc gửi đơn yêu cầu giải quyết TCĐĐ đến UBND cấp có
thẩm quyền để được giải quyết.
Thứ hai, cần có những nghiên cứu về lộ trình chuyển giao các tranh
chấp về quyền sử dụng đất cho Tòa án.
Tuy Luật đất đai 2013 đã mở rộng hơn thẩm quyền của Tòa án trong
giải quyết TCĐĐ của Tòa án, nhưng trong thời gian tới cần nghiên cứu để xác
định thời điểm phù hợp chuyển giao tất cả các TCĐĐ cho Tòa án thụ lý giải
quyết. Việc chuyển giao này là phù hợp với thực tiễn và yêu cầu khách quan.
Bởi vì, khi các TCĐĐ do Tòa án giải quyết sẽ đảm bảo sự khách quan, công
bằng, chính xác hơn trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất;
57
nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp và phù hợp với thông lệ
quốc tế. Việc pháp luật nước ta hiện nay quy định thẩm quyền giải quyết một
số loại TCĐĐ thuộc UBND chỉ bước đệm, là giai đoạn quá độ trong thời
điểm nhà nước chưa hoàn tất việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
các tổ chức, cá nhân. Chuyển giao thẩm quyền giải quyết TCĐĐ cho Tòa án
cũng sẽ giảm được áp lực cho các cơ quan nhà nước, đảm bảo việc giải quyết
tranh chấp được chính xác, khách quan hơn do cán bộ làm công tác giải quyết
TCĐĐ tại các cơ quan nhà nước hiện nay thường là kiêm nhiệm, trình độ hiểu
biết, áp dụng pháp luật chưa cao.
Thứ ba, bổ sung thêm các quy định để làm rõ hơn vai trò đại diện chủ
sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước.
Luật Đất đai năm 2013 ghi nhận đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu. Trong vai trò là đại diện chủ sở hữu về đất đai, Nhà
nước phân cấp thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng
đất và thu hồi đất quá lớn cho UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện song pháp
luật đất đai lại chưa xác lập được cơ chế phù hợp để kiểm soát, giám sát
quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của các cơ quan Nhà nước.
Điều này dẫn đến tình trạng có sự lạm quyền trong việc chuyển mục đích sử
dụng đất nông nghiệp, giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất; thậm chí trong
nhiều trường hợp có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực gây bất bình trong nhân
dân. Vì vậy, Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ chế hữu hiệu
để giám sát các cơ quan Nhà nước thực hiện vai trò chủ sở hữu đất đai; tăng
cường hoạt động xem xét, đánh giá việc phân cấp về giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất giữa trung ương và địa phương nhằm khắc phục sự lạm quyền
trong giao đất, cho thuê đất…
Thứ tư, cần nghiên cứu về vấn đề cho phép các tổ chức tín dụng phát
mại tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất khi đến hạn mà
58
bên thế chấp không thanh toán được khoản vay.
Một lượng lớn TCĐĐ hiện nay mà tòa án đang thụ lý giải quyết là
tranh chấp về hợp đồng thế chấp tài sản tại các tổ chức tín dụng. Khi đến hạn,
mà bên thế chấp không thanh toán được khoản nợ thì các tổ chức tín dụng
không được quyền tự phát mại tài sản để thu hồi nợ mà phải nộp đơn yêu cầu
giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Việc khởi kiện này vô hình chung đã làm
chậm quá trình thu hồi vốn của các tổ chức tín dụng vì quá trình giải quyết
các TCĐĐ thường phức tạp, bị kéo dài vì do sự không hợp tác, cố tình kéo dài
của bên thế chấp và phải trải qua nhiều cấp xét xử. Do đó, pháp luật đất đai
nên chăng có quy định về quyền tự phát mại tài sản là quyền sử dụng đất của
các tổ chức tín dụng khi các tổ chức, các nhân thế chấp tài sản là quyền sử
dụng đất không thanh toán được các khoản nợ.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong việc
giải quyết các tranh chấp đất đai
Thứ nhất, sửa đổi các quy định của pháp luật TTDS trong việc xem xét,
thẩm định tại chỗ đối với các TCĐĐ
Trong thực tế giải quyết những vụ việc TCĐĐ cho thấy, việc xem xét,
thẩm định tại chỗ nhà đất là rất cần thiết bởi TCĐĐ là một loại tranh chấp đặc
thù, đối tượng tranh chấp là loại tài sản đặc biệt, có giá trị và trải qua nhiều
biến động trong quá trình Nhà nước thực hiện các chính sách cải tạo đất đai.
Thứ hai, về vấn đề định giá tài sản nên quy định theo hướng để Tòa án
trưng cầu Trung tâm giám định về giá để tiến hành định giá tài sản tranh chấp
trong vụ án.
Trong thực tế, quyền sử dụng đất là một tài sản có giá trịlớn, việc giải
quyết các vụ việc TCĐĐ thường xuyên phải tiến hành định giá nhằm xác định
giá trị tài sản nhưng pháp luật hiện nay vẫn chưa coi việc định giá là một hình
thức giám định về giá và chưa phát triển các trung tâm giám định về giá, vì
vậy khi cần xác định giá trị tài sản đang tranh chấp Tòa án phải thành lập Hội
59
đồng định giá.
Theo quy định của Bộ luật TTDS thì Tòa án được thành lập hội đồng
thẩm định giá, tuy nhiên, quy định này được nhận thức và áp dụng chưa thống
nhất. Một thực tế xảy ra khá phổ biến hiện nay Chủ tịch Hội đồng là đại diện
cơ quan tài chính, các thành viên khác của Hội đồng thẩm định giá Toà án
thường chọn cán bộ của UBND cấp xã (thậm chí là những người trong ban
cán sự thôn, bản) tham gia bởi vì những người này dễ mời tham gia hơn
những cán bộ ở cấp khác; nhưng do trình độ nhận thức và trực tiếp về pháp
luật còn hạn chế nên những quyết định có có thể dẫn đến những sai lầm, đưa
ra những kết quả định giá không chính xác, thiếu chuyên nghiệp. Do đó, để
khắc phục những hạn chế này cần phải coi định giá là một loại giám định về
giá, đòi hỏi những người tham gia định giá phải là các nhà chuyên môn có
kiến thức sâu sắc, am tường giá cả thị trường đối với tài sản cần định giá nói
chung và quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất nói riêng để đảm bảo cho
việc định giá được thuận lợi. Do đó, nên khuyến khích thành lập các trung
tâm thẩm định về giá và khuyến khích các bên đương sự trưng cầu các trung
tâm giám định về giá để đảm bảo tính công bằng, khách quan của kết quả
thẩm định giá.
Thứ ba, bổ sung quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của
các cơ quan liên quan trong việc thực hiện ủy thác tư pháp có yếu tố nước ngoài
Trong các TCĐĐ thì có những tranh chấp mà đương sự đang sinh sống,
học tập, công tác hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên có những
trường hợp cần ủy thác tư pháp cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước
ngoài hoặc Tòa án nước ngoài thu thập tài liệu, chứng cứ là cần thiết trong việc
giải quyết vụ án, nhưng thực tế cho thấy việc ủy thác tư pháp rất kém hiệu quả,
có nhiều vụ ủy thác không nhận được kết quả ủy thác hoặc có nhận được
nhưng rất chậm gây ra trở ngại lớn cho việc giải quyết vụ án. Vì vậy, cần có
một văn bản pháp luật quy định cụ thể về phạm vi, trình tự, thủ tục của các cơ
60
quan trong ủy thác tư pháp để việc ủy thác tư pháp đạt hiệu quả cao hơn.
3.3. Một số giải pháp khác
3.3.1. Về hướng dẫn thi hành pháp luật trong giải quyết các tranh
chấp đất đai
Thứ nhất, giải quyết TCĐĐ trong trường hợp chia thừa kế
Một là, trường hợp đất có nguồn gốc của ông bà, cha mẹ để lại mà một
hoặc một số người con, cháu đã đứng tên kê khai hay đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì không thể coi đất đó là của người đang đứng tên,
mà cần phải điều tra, đánh giá chứng cứ, xem xét việc kê khai, đứng tên đó có
thể hiện ý chí của các thừa kế đồng ý chuyển quyền sử dụng đất cho người
đang đứng tên không. Nếu chưa thể hiện ý chí của các thừa kế thì phải coi đất
đó là di sản để chia.
Hai là, việc xác định các bản thỏa thuận được lập giữa các bên có nội
dung tương tự như di chúc. Có nhiều tòa án xem các bản thỏa thuận này là di
chúc nên bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đối với các trường hợp này
các Thẩm phán khi xét xử cần phải nghiên cứu, phân tích kỹ các biên bản thỏa
thuận và đối chiếu với các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong BLDSđể có
quyết định cho chính xác, tránh làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên
đương sự.
Ba là, việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với các vụ kiện chia thừa kế
nhà đất mà các đương sự khiếu nại đến UBND phường, xã để hòa giải và
trong thời gian chờ đợi giải quyết hoặc chờ thi hành kết quả hòa giải thành thì
hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của BLDS sau đó các bên mới khởi kiện
ra tòa.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng đất đai
Như đã trình bày ở trên, tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất diễn ra rất phổ biến trong các TCĐĐ hiện nay. Vì vậy, với tính
chất đa dạng, phức tạp của nó thì trong quá trình giải quyết Tòa án nên lưu ý
61
một số điểm sau để áp dụng giải quyết một cách thống nhất:
Một là, những TCĐĐ mà giữa các bên có hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nhưng hợp đồng chuyển nhượng này chỉ nhằm mục đích che
giấu một giao dịch khác như (thế chấp, cầm cố, vay tài sản, tặng cho,...) thì Tòa án
cần xem xét bản chất, mục đích của các bên khi tiến hành giao dịch để tuyên hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó có bị vô hiệu hay không.
Thứ ba, giải quyết vướng mắc trong thực tiễn xét xử tranh chấp hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Xuất phát từ tình hình thực tế, trên cơ sở vận dụng các quy định của
pháp luật về hợp đồng tặng cho, luật hôn nhân và gia đình, đặc điểm tâm lý,
xã hội, theo quan điểm cá nhân nên giải quyết một số trường hợp tranh chấp
về tặng cho quyền sử dụng đất hướng sau:
Một là, nếu việc tặng cho quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện bằng
lời nói, không có chứng cứ nào để chứng minh về việc cho tài sản thì không
công nhận việc tặng cho quyền sử dụng đất.
Hai là, trường hợp đất do bố mẹ mua và đứng tên trong hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sau khi mua đã giao cho vợ chồng con sử
dụng, bố mẹ không kê khai, không đứng tên trong sổ sách địa chính, còn vợ
chồng con đã kê khai, và đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bố mẹ biết không phản đối, khi ly hôn mới đòi lại, thì bác yêu cầu của bố mẹ.
Nếu bố mẹ đứng ra kê khai và đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thì xác định đất vẫn của bố mẹ, chưa cho vợ chồng con.
Ba là, Vợ chồng con đã xây dựng nhà kiên cố có khuôn viên riêng, và
quản lý, sử dụng liên tục, đã kê khai đứng tên trong sổ địa chính, hoặc đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên vợ chồng người con,
bố mẹ biết không có ý kiến gì hoặc chính bố mẹ kê khai ghi tên vợ chồng. Chỉ
đến khi vợ chồng người con mâu thuẫn dẫn đến ly hôn, bố mẹ mới đòi lại với
lý do là chưa cho, thì phải bác yêu cầu của bố mẹ, xác định nhà đất là tài sản
62
chung vợ chồng.
Bốn là, trường hợp bố mẹ cho con tài sản, có lập văn bản, trong đó ghi
rõ chỉ cho người vợ hoặc người chồng, thì dù hợp đồng tặng cho đó diễn ra
trong thời gian quan hệ hôn nhân còn tồn tại cũng không coi là tài sản chung
của vợ chồng, và phải xác định đó là tài sản riêng, được cho riêng người được
chỉ định trong hợp đồng tặng cho. Tuy nhiên, nếu sau đó người được tặng cho
riêng đã nhập vào khối tài sản chung vợ chồng thì phải coi tài sản đó là tài sản
chung, nhưng khi xem xét, đánh giá công sức đóng góp phải coi họ có công
sức đóng góp nhiều hơn.
Thứ tư, hướng giải quyết TCĐĐ trong trường hợp đòi lại đất cho mượn,
cho ở nhờ
TCĐĐ trong trường hợp đất cho mượn, cho ở nhờ về bản chất là giao
dịch dân sự nhưng lại liên quan đến những chính sách, pháp luật đất đai trong
các thời kỳ nên việc giải quyết gặp nhiều khó khăn.
Một là, trường hợp người có quyền sử dụng đất hợp pháp đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khởi kiện yêu cầu người ở nhờ trên đất
phải trả lại đất cho họ.
Hai là, nguồn gốc đất tranh chấp là của chủ đất cũ (do cha ông để lại,
do mua bán, được tặng cho, được thừa kế, hoặc khai hoang, phục hóa,.. mà
có) nhưng do chiến tranh, do làm ăn mà chủ đất cũ bỏ đi nơi khác sinh sống,
sau giải phóng chủ đất cũ không về quản lý, khai thác sử dụng nên người khác
đến canh tác, ở nhờ cho đến nay; hay trường hợp người đang sử dụng đất là
người mua lại đất của người ở nhờ hoặc được người ở nhờ cho sử dụng nhưng
người có quyền sử dụng đất không có ý kiến gì, nay mới khởi kiện.
3.3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật về đất đai
Những TCĐĐ kéo dài trong thực tế một phần xuất phát từ sự thiếu hiểu
biết về pháp luật đất đai của người dân. Nhiều trường hợp khi nhà nước thu
63
hồi đất cho các công trình công cộng, vì mục đích an ninh quốc phòng hoặc
cho các nhà đầu tư nhưng người dân cố tình không chịu bàn giao mặt bằng,
đòi bố trí tái định cư tại chỗ,... làm chậm tiến độ thi công các dự án, công
trình; hay các khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc đòi lại đất mà nhà
nước đã lấy trong thời kỳ thực hiện các chính sách đất đai; hoặc trường hợp
do không hiểu biết pháp luật đất đai nên tự đặt mình vào hoàn cảnh bất lợi khi
tham gia vào những quan hệ đất đai như chuyển nhượng, tặng cho, cho ở
nhờ,... Với những TCĐĐ này tòa án đã tiến hành giải quyết hoặc trả lại đơn
khởi kiện do không thuộc thẩm quyền những người dân vẫn tiếp tục nộp đơn
khởi kiện hoặc khiếu kiện kéo dài.
Vì vậy, để giải quyết tình trạng trên thì trong thời gian tới TAND cần
phối hợp với UBND huyện Phúc Thọ có các hình thức tuyên truyền pháp luật
đất đai một cách sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua
các buổi sinh hoạt tổ dân phố mà người tuyên truyền là các thẩm phán, cán bộ
Tòa án để qua đó người dân biết và hiểu được các quy định của pháp luật đất
đai từ đó có những điều chỉnh hành vi khi tham gia vào các quan hệ đất đai
một cách phù hợp, đúng pháp luật.
3.3.3. Bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, thẩm phán
làm việc tại Tòa án
Thứ nhất, tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm
phán, cán bộ TAND thuộc huyện Phúc Thọ
Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ TAND, đặc biệt là đội
ngũ Thẩm phán là một trong những khâu then chốt để bảo đảm công tác giải
quyết cácTCĐĐđạt hiệu quả cao. Trong thời gian qua, TAND huyện Phúc
Thọ đã cử một số thẩmphán và cán bộ thuộc TAND huyện Phúc Thọ tham gia
các lớp bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ tại Trường cán bộ toà án - Toà án
nhân dân tối cao. Qua các lớp học này sẽ giúp cho các Thẩm phán và các cán
bộ toà án nhân dân nhận thức được tính chất đặc thù trong quá trình giải quyết
64
các tranh chấp về đất đai để từ đó những người này nắm vững được các
nguyên tắc chỉ đạo, áp dụng đúng các quy định của pháp luật về đất đai, cũng
như các quy định của pháp luật về TTDS nhằmgiải quyết các vụ việc có hiệu
quả và chất lượng cao.
Ngoài ra, tham gia khóa học còn giúp cho các thẩm phán và cán bộ tòa
án nắm được các kỹ năng tiến hành hoà giải.
Thứ hai, TAND huyện Phúc Thọ cũng phải thường xuyên tổng kết
công tác giải quyết các TCĐĐ thông qua thực tiễn công tác xét xử để rút ra
những sai lầm mà các thẩm phán thường gặp trong công tác xét xử các
TCĐĐ, đồng thời phân tích các nguyên nhân của những sai lầm đó, đề ra
được những biện pháp khắc phục để xây dựng nội dung bồi dưỡng, tập huấn
nghiệp vụ.
Tiểu kết chương 3
Qua thực tiễn TCĐĐ tại huyện Phúc Thọ – một huyện ngoại thành của
thành phố Hà Nội có thể thấy TCĐĐ là một trong những tranh chấp phổ biến
và cũng khó giải quyết nhất hiện nay. Mỗi năm TAND huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội thụ lý cả trăm vụ TCĐĐ và số lượng tranh chấp này tăng
dần qua từng năm. TAND huyện Phúc Thọ đã tiến hành thụ lý, giải quyết dứt
điểm các TCĐĐ không để xảy ra “điểm nóng” trên địa bàn.
Qua việc xem xét, đánh giá thực tiễn giải quyết một số vụ TCĐĐ đã chỉ
ra những hạn chế, vướng mắc cần phải được được khắc phục, sửa chữa trong
thời gian tới.Những hạn chế, vướng mắc này xuất phát từ cả những nguyên
nhân chủ quan và khách quan. Trong phạm vi luận văn cũng đã trình bày một
số kiến nghị về phương diện lập pháp và thực tiễn áp dụng để nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết TCĐĐ nói chung và TCĐĐ trên địa bàn huyện
65
Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội nói riêng.
KẾT LUẬN
TCĐĐ là một hiện tượng xã hội tồn tại mang tính khách quan. Trong
điều kiện kinh tế thị trường khi đất đai ngày càng trở nên có giá trị, TCĐĐ
theo đó cũng ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính chất gay gắt, phức
tạp về nội dung. Việc giải quyết TCĐĐ thiếu hiệu quả, không dứt điểm và kịp
thời sẽ phát sinh thành những “điểm nóng” tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các địa phương nói chung và huyện Phúc
Thọ,TP Hà Nội nói riêng; đồng thời, tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư
– kinh doanh ở nước ta.
Thời gian qua, TAND huyện Phúc Thọ đã thực hiện việc giải quyết
hàng trăm vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất góp phần vào việc tăng cường
pháp chế XHCN, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật cho người dân và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất... Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đạt được, việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của TAND
huyện Phúc Thọ còn bộc lộ một số hạn chế, khiếm khuyết. Những hạn chế,
khiếm khuyết này xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan như năng lực,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ
toà án nói chung và các thẩm phán nói riêng còn hạn chế, chưa cập nhật, nắm
bắt kịp thời, đầy đủ những quy định mới của hệ thống pháp luật đất đai; chưa
được trang bị đầy đủ các kỹ năng cơ bản, cần thiết trong giải quyết tranh chấp
nói chung và tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng... Ngoài ra, còn do
các nguyên nhân khách quan như hệ thống chính sách, pháp luật đất đai của
Nhà nước ta có sự khác nhau ở từng thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước
các quy định về đất đai thường xuyên có sự sửa đổi, bổ sung gây khó khăn
cho đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật trong việc nắm bắt, tìm hiểu; ý thức
chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế; công tác quản lý nhà nước về
66
đất đai còn nhiều yếu kém hay công tác phối hợp của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quản lý đất đai với tòa án chưa thực sự đạt hiệu quả,... Điều
này làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác giải quyết các tranh chấp về
quyền sử dụng đất của Tòa án.
Để nâng cao hiệu quả giải quyết các TCĐĐ thì trong thời gian tới cần
tiến hành đồng bộ các giải pháp: tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai; thường xuyên tổ chức tập huấn,
bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức và kỹ năng giải quyết TCĐĐ cho đội
ngũ cán bộ TAND nói chung và các Thẩm phán nói riêng. Đồng thời, tăng
cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
67
đất đai cho người dân...
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp (1999), Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội
2. Nguyễn Văn Cường (2008), Báo cáo tham luận “Thực trạng giải quyết
TCĐĐ tại TAND – Kiến nghị và giải pháp” tại hội thảo “Tình trạng
tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”,
Buôn Mê Thuột, Đắc Lắc
3. Chính phủ (1999), Nghị định số 17/1999/NĐ-CP, Về thủ tục chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất
và thế chấp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Hà Nội.
4. Chính phủ (2001), Nghị định số 79/2001/NĐ-CP, Về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 17/2001/NĐ-CP, Hà Nội
5. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP Về hướng dẫn thi
hành Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội
6. Chính phủ (2014), Nghị định 43/2014/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành
Luật đất đai năm 2013, Hà Nội
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Trần Văn Hà (2007), “Giải quyết TCĐĐ bằng con đường toà án”,
Luận văn thạc sỹ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội
9. Trần Thu Hạnh (2009), “Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ
thẩm phán trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”,
Tạp chí Luật học số 29/2009, Hà Nội
10. Lý Thị Ngọc Hiệp (2006), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao
hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại TAND,
Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
68
Minh;
11. Châu Huế (2003),Giải quyết TCĐĐ theo Luật đất đai 2003, Luận văn
Thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
12. Trần Quang Huy (2007), “Các đặc trưng pháp lý của quyền sử dụng đất
ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2007, Hà Nội.
13. Phạm Thị Hương Lan (2009), “Giải quyết TCĐĐ theo luật đất đai
2003”, Luận văn thạc sỹ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.
14. Hà Công Long (2008), “Khiếu kiện của người dân về đất đai và vai trò
Ban dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội” báo cáo tham luận
tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và kiếu kiện đất đai kéo dài: Thực
trạng và giải pháp”, tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc.
15. Nguyễn Văn Luật, Tưởng Duy Lượng (2011), Cơ sở lý luận và thực
tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử
dụng đất tại TAND, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội
16. Nguyễn Văn Luật (2013),TCĐĐ và thẩm quyền giải quyết của Tòa án,
Đề tài khoa học cấp bộ Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội
17. Tưởng Duy Lượng (2006), “Một vài suy nghĩ về những quy định chung
trong phần chuyển quyền sử dụng đất, thẩm quyền giải quyết và
hư¬ớng xử lý một vài tranh chấp chuyển quyền sử dụng đất được quy
định trong Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tạp chí Tòa án nhân dân (23),
Hà Nội
18. Tưởng Duy Lượng, (2009) Pháp luật dân sự và thực tiễnxét xử, Nxb
Chính trị quốc gia.
19. Tưởng Duy Lượng (2007),“Hòa giải ở cơ sở khi có tranh chấp quyền
sử dụng đất”, Tạp chí Tòa án nhân dân (4), Hà Nội
20. Doãn Hồng Nhung (2008),“Những dạng TCĐĐ chủ yếu ở nước ta hiện
nay và khuôn khổ pháp luật liên quan” báo cáo tham luận tại hội thảo
“Tình trạng tranh chấp và kiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải
69
pháp”, tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc.
21. Phạm Hữu Nghị (2002), “Về thực trạng chính sách đất đai ở Việt nam”,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 8/2002, Hà Nội
22. Phạm Hữu Nghị (2005), “Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện
quyền sở hữu toàn dân về đất đai”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (1),
Hà Nội
23. Phạm Duy Nghĩa (2002), “Vai trò của pháp luật đất đai trong việc kiềm
chế những cơn sốt đất”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2002, Hà
Nội
24. Phạm Duy Nghĩa (2003), Cơ sở pháp luật kinh tế Việt Nam vì một nền
kinh tế phát triển bền vững và toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội
25. Mai Thị Tú Oanh (2013), TCĐĐ và giải quyết TCĐĐ bằng tòa án ở
nước ta, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội
26. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2003), Luật Đất đai năm
2003, Hà Nội
27. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2005), BLDS năm 2005, Hà
Nội
28. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2011), Bộ Luật TTDS 2004
sửa đổi năm 2011, Hà Nội
29. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2013), Luật Đất đai năm
2013, Hà Nội
30. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2014), Luật công chứng
năm 2014, Hà Nội
31. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2014), Luật Nhà ở năm
2014, Hà Nội
32. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2014), Luật Hôn nhân và
70
Gia đình năm 2014, Hà Nội
33. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2014), Luật Tổ chức TAND
năm 2014, Hà Nội
34. Quốc hội nước công hòa XHCN Việt Nam (2015), Bộ Luật TTDS năm
2015, Hà Nội
35. Dương Thị Sen (2012), Pháp luật về giải quyết TCĐĐ thông qua
TAND, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà
Nội
36. Lưu Quốc Thái (2006), “Bàn về khái niệm TCĐĐ trong luật đất đai
2003” Tạp chí Khoa học pháp luật số 2(33), Hà Nội
37. Toà án nhân dân tối cao (2002), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả qiải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại toà án
nhân dân, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội
38. Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ (2014-2018), Báo cáo tổng kết công
tác xét xử các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, Hà Nội
39. Trung tâm từ điển học (1996), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng 1996
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), “Từ điển giải thích thuật ngữ luật
học”,NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật đất đai, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội
42. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích Thuật ngữ luật
học (Luật Đất đai, Luật Lao động, Tư pháp quốc tế), Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
43. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Đất
đai, NXB Hồng Đức, Hà Nội
44. Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục,
71
Hà Nội