VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HÙNG SƠN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HÙNG SƠN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật kinh tế
Mã ngành: 838.0107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐẶNG THỊ THƠM
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN HÙNG SƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP THỪA
KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ............................................................ 7
1.1. Khái niệm về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất....................................................... 7
1.2. Một số nội dung giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất . 18
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI
TÒA ÁN ......................................................................................................... 35
2.1. Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án cấp
sơ thẩm .................................................................................................... 35
2.2.Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án cấp
phúc thẩm ................................................................................................ 41
Chương 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC
TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .............. 51
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại
Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm ....................................................... 51
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi
việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại tòa án nhân
dân quận Bắc Từ Liêm ............................................................................ 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Tổng số vụ án Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm giải quyết từ
năm 2015 đến năm 2019 ....................................................................... 55
Bảng 3.2: Số vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
quận Bắc Từ Liêm giải quyết từ 2015 đến 2019 .................................. 56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn
lực và là thành phần quan trọng của môi trường sống có ý nghĩa kinh tế chính
trị, xã hội liên quan đến mọi người, mọi cơ quan, tổ chức, được nhà nước hết
sức quan tâm. Hiến pháp và Luật đất đai qua các thời kỳ đều khẳng định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân với rất nhiều quyền năng của người sử dụng đất.
Chính vì ý nghĩa quan trọng của đất đai, và các quyền của người sử dụng đất
pháp luật cho phép nên trong đời sống xã hội đã phát sinh nhiều loại tranh
chấp đất đai, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất. Thừa kế quyền sử
dụng đất là một quyền cơ bản của người sử dụng đất và quyền thừa kế là
quyền của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Đây là quyền thể hiện
rất rõ tính chất tự do ý chí, tự do định đoạt của chủ thể khi tham gia quan hệ
pháp luật dân sự về tài sản nói chung, quan hệ thừa kế nói riêng. Đặc biệt
trong trường hợp di sản là quyền sử dụng đất thì vấn đề thừa kế quyền sử
dụng đất còn phải tuân thủ theo các chính sách đất đai của Nhà nước. Trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, các tranh chấp về thừa kế quyền sử
dụng đất diễn ra ngày càng nhiều với tính chất phức tạp, kéo dài chính vì thế
thừa kế quyền sử dụng đất là một vấn đề thời sự liên quan đến từng cá nhân,
từng gia đình bởi quyền sử dụng đất là một tài sản có giá trị lớn, các vấn đề
thừa kế chủ yếu là liên quan đến đất giữa những người có quan hệ gần gũi với
nhau. Vì vậy, nếu giải quyết không dứt điểm, không phù hợp sẽ gây mất đoàn
kết trong gia đình, anh em từ đó ảnh hưởng tới trật tự xã hội. Việc giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án góp phần giải quyết chấm
dứt mâu thuẫn giữa các đồng thừa kế. Chính vì thế việc nghiên cứu các quy
định pháp luật giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất (QSDĐ) tại
Tòa án nhằm tiếp tục hoàn thiện thêm chế định pháp luật về thừa kếQSDĐ
cũng như nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp về thừa kế QSDĐ là một
1
yêu cầu khách quan. Cụ thể là, trong giai đoạn hiện nay, với xu hướng hội
nhập quốc tế, vấn đề tranh chấp thừa kế QSDĐ cần được nghiên cứu để mở
rộng hơn nữa quyền tự định đoạt của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
(QHPL) thừa kế quyền sử dụng đất. Các quy phạm pháp luật về thừa kế
QSDĐ, giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ cần được xây dựng dựa trên cơ
sở bảo đảm mối quan hệ hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia QHPL thừa
kế quyền sử dụng đất và lợi ích của toàn xã hội, tôn trọng sự tự do định đoạt
của các chủ thể trong QHPL thừa kế QSDĐ. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp thừa kế QSDĐ
góp phần đem lại một trật tự xã hội ổn định, đồng thời xây dựng một cơ chế
pháp lý đồng bộ đảm bảo thực thi một cách hữu hiệu các quy định thừa kế
QSDĐ. Chính vì các lý do trên học viên chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp
về thừa kế quyền sử dụng đất qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội” để thực hiện luận văn thạc sỹ nhằm
mục đích nghiên cứu những quy định pháp luật về tố tụng dân sự để giải
quyết vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ. Ngoài ra, nghiên cứu đề tài cũng nhằm
làm rõ thực trạng giải quyết và những vướng mắc trong quá trình giải quyết
tranh chấp thừa kế QSDĐ để rút ra bài học, đồng thời kiến nghị cơ quan lập
pháp có căn cứ sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự
phù hợp với thực tiễn đời sống.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tại Việt Nam đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về giải quyết
tranh chấp thừa kế QSDĐ dưới mức độ cử nhân luật, thạc sỹ luật học, tiến sỹ
luật học, giáo trình giảng dạy môn pháp luật có liên quan và một số bài đăng
trên các tạp chí chuyên ngành. Ngoài ra, nghiên cứu tranh chấp thừa kế
QSDĐ nói chung có nhiều khóa luận cử nhân, luận văn cao học, luận án tiến
sĩ đã đề cập đến, nhưng nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ
2
trong phạm vi của một tỉnh thì chưa được quan tâm chú ý. Một số công trình
nghiên cứu và giáo trình giảng dạy liên quan đề cập đến tiêu biểu như:
Cuốn sách “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm
1945 đến nay” của Tiến sĩ Phùng Trung Tập, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội
năm 2004.
Cuốn “Luật thừa kế Việt Nam”, do TS. Phùng Trung Tập, Nhà xuất bản
Hà Nội, năm 2008.
Cuốn sách “Thừa kế theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng”,
TS. Phạm Văn Tuyết, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2007.
Đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa
kế trong Bộ luật Dân sự”, Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Minh Tuấn,
Trường Đại học Luật Hà Nội,năm 2007.
Cuốn “Giáo trình luật tố tụng dân sự”, Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản
Công An nhân dân, Hà Nội năm 2007.
Cuốn “Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự”, Trường đào tạo
các chức danh tư pháp, Nhà xuất bản Công An nhân dân, Hà Nội, năm 2004.
Tác phẩm “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thừa kế”, Dương
Bạch Long và Nguyễn Xuân Anh,Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
năm 2005.
LS.TS. Phan Thị Hương Thủy: 99 tình huống và tư vấn pháp luật về
thừa kế nhà và quyền sử dụng đất, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2005.
ThS. Nguyễn Hữu Ước: Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân Tối cao từ năm 2000 - 2007, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2008.
Bên cạnh đó còn một số tập hệ thống hóa văn bản pháp luật về dân sự, hôn
nhân và gia đình nói chung và thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng của Tòa án
nhân dân (TAND) tối cao; các tập công bố phán quyết của Tòa án về xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ án dân sự của TAND tối cao (trong đó có
các vụ án về tranh chấp thừa kế QSDĐ);
3
Sổ tay thẩm phán của TAND tối cao năm 2009.
Ngoài những công trình nghiên cứu trên, còn một số luận văn cao học
nghiên cứu về thừa kế QSDĐ như các luận văn cao học luật của Lê Khắc
Hạnh về thừa kế quyền sử dụng nhà ở và đất ở tại thành phố Hải Phòng, của
Phạm Thị Thúy Liễu về thực trạng thi hành các quy định của pháp luật về
thừa kế QSDĐ trên địa bàn tỉnh Hà Nam,... Đó là những đề tài nghiên cứu về
QSDĐ ở các góc độ cụ thể theo di chúc, theo pháp luật hay về thừa kế một
loại đất trong một thành phố, một tỉnh.
Tuy nhiên, với những đề tài và các bài viết trên tác giả nghiên cứu tập
chung những vấn đề cơ bản nhất về thừa kế và về việc tố tụng. Vì vậy nên
chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất qua
thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà
Nội” là một đề tài không bị trùng lặp có tính lý luận và tính thực tiễn phù hợp
với tính chất công việc của học viên đang công tác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá quy định pháp
luật trong việc giải quyết những tranh chấp về thừa kế QSDĐ thuộc thẩm
quyền của Tòa án, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa
kế QSDĐ và áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp QSDĐ có hiệu
quả hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục đích nêu trên, nhiệm vụ chính của đề tài
này là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thừa kế QSDĐ, cơ chế giải quyết
tranh chấp đất đai bằng Tòa án các quan hệ tranh chấp đất đai;
- Nghiên cứu vai trò giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ của toà án
cấp sơ thẩm, cụ thể là ở TAND quận Bắc Từ Liêm. Từ đó tổng kết kinh
4
nghiệm thực tiễn toà án áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp thừa kế đất
đai;
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp thừa kế QSDĐ bằng Toà án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận trong giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất theo thủ tục xét xử sơ thẩm cụ thể ở
TAND quận Bắc Từ Liêm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn thuộc chuyên ngành luật, nhưng có liên quan đến việc áp
dụng pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật nội dung trong việc giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại TAND.
Việc khảo sát và nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xét
xử các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại TAND ở quận Bắc Từ
Liêm, thành phố Hà Nội.
Nghiên cứu thực tiễn xét xử ở TAND quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội từ
năm 2015 đến nay (2019).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học biện chứng duy vật và biện
chứng lịch sử Mác- Lênin.
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật đất đai, về vấn đề cải cách tổ
chức và hoạt động của TAND và các cơ quan tư pháp trong giai đoạn hiện
nay nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu trong cải cách tư pháp.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Học viên sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích; phương pháp so
sánh luật học, phương pháp đánh giá, phân tích, tổng hợp, chứng minh, thu
thập dữ liệu để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và phát triển lý
luận phục vụ yêu cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất lượng áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và trong việc giải quyết
tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại TAND.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ
cho công tác nghiên cứu giảng dạy nói chung và đào tạo chức danh tư pháp
nói riêng. Nội dung của luận văn cũng có thể góp phần xây dựng kỹ năng
trong việc nghiên cứu hồ sơ, đặc biệt đối với Thẩm phán dân sự, giải quyết vụ
án tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất và các vụ án liên quan đến tranh
chấp quyền sử dụng đất.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng
đất và giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và những kiến nghị.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Khái niệm về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và giải
quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất
Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, để duy trì chúng ta phải sáng
tạo, lao động, sản xuất và phối hợp với nhau để tạo ra của cải vật chất để nuôi
sống chính bản thân và xã hội, đó có thể là những tài sản vật chất hoặc phi vật
chất mà họ tạo ra cho xã hội. Đó chính là công sức và sức lao động của họ, họ
có toàn quyền sử dụng và định đoạt đối với giá trị của cải vật chất đó, đó
chính là tài sản mà cá nhân họ tạo ra. Trong trường hợp họ không sử dụng
hoặc muốn chuyển giao cho người khác thì có toàn bộ quyền chuyển lại và
bên nhận chính là bên thừa hưởng quyền thừa kế, tức là kế tiếp họ để quản lý,
sử dụng và sở hữu giá trị tài sản đó. Trường hợp tài sản đó không sử dụng hết,
người sở hữu chết, mất đi thì tài sản đó có thể chuyển lại cho người còn sống
thụ hưởng, chính vì vậy mà các giá trị và quan hệ về thừa kế sẽ xuất hiện và
phát sinh, nên cần phải tuân thủ theo các quy định của thừa kế.
Thừa kế chính là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ rất
lâu, trong các xã hội trước đây cũng đã có, kể cả khi chưa có nhà nước và
pháp luật thì thừa kế vẫn tồn tại một cách khách quan. Đó chính là việc một
người này chuyển giao tài sản thừa kế cho một người khác, một các nhân hay
tổ chức khác. Như vậy, thừa kế theo cách hiểu trên nghĩa là việc dịch chuyển
tài sản của người đã chết hoặc từ chối sở hữu tài sản để giao cho người sống
hoặc người khác sở hữu, bao hàm cả quản lý và sử dụng tài sản đó. Sự dịch
chuyển này có thể là từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ tổ chức này sang tổ chức khác.
7
Trong lịch sử hình thành nhà nước, do lực lượng sản xuất phát triển,
của cải dư thừa, dẫn đến các quan hệ sản xuất cũng thay đổi, một bộ phận
đứng ra chiếm dụng và hình thành nên sự phân cấp ra các giai tầng trong xã
hội, khi các giai cấp phát triển, mẫu thuẫn về lợi ích đẩy lên cao, dẫn tới xung
đột dẫn tới sự ra đời của nhà nước. Như vậy, nhà nước ra đời là sản phẩm tất
yếu của quá trình phát triển của xã hội. Khi có nhà nước thì pháp luật là yếu
tố không thể thiếu và nó ra đời cùng với nhà nước để bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị cũng như duy trì một trật tự xã hội nhất định đảm bảo cho
tất cả các thành viên của xã hội thực hiện theo. Khi xã hội phát triển đến một
mức độ nhất định thì pháp luật chính là công cụ và phương tiện để nhà nước
quản lý toàn bộ các mặt đời sống của xã hội, khi đo các quan hệ trong đời
sống đều được điều chỉnh bởi quan hệ pháp luật và được bảo đảm bằng pháp
luật, cùng với nó thì các quan hệ về thừa kế cũng ra đời. Như vậy, có thể thấy
rằng quyền sở hữu về tài sản, về tư liệu sản xuất của người dân đã có từ lâu
đời nó phù hợp với chuẩn mực và nhu cầu của xã hội. Do đó, quyền sở hữu là
quyền thiêng liêng, bởi giá trị mà họ phải bỏ sức lao động, mồ hôi, công sức
của thì họ được sở hữu là chính đáng. Khi họ không sử dụng hoặc họ chết đi
thì giá trị tài sản đó họ có thể chuyển cho người khác, và khi đó nhà nước sẽ
bảo đảm cho các hoạt động này được diễn ra một cách công bằng và khách
quan nhất khi đó quan hệ thừa kế chính thức ra đời. Có thể thấy rằng quyền sở
hữu chính là điều kiện, tiền để phát sinh ra quyền thừa kế và ngược lại, quyền
thứa kế chính là kết quả của sở hữu mà ra.
Nhà nước có vai trò đứng ra bảo vệ quyền sở hữu, bảo về quyền thừa
kế vì như vậy chính là bảo vệ cơ sở phát sinh, phát triển và tồn tại của xã hội,
duy trì trật tự xã hội ổn định. Chính vì vậy mà quyền thừa kế và quyền sở hữu
có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cả hai quyền đều là những phạm
trù pháp lý, song song tồn tại trong cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định, có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Từ chỗ pháp luật
quy định cho công dân có quyền sở hữu tài sản và cũng dựa vào đó pháp luật
8
quy định cho họ các quyền năng trong quan hệ thừa kế. Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một chế độ xã hội dựa trên nền tảng công hữu hóa
tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai, rừng núi, sông, suối,…Nhà nước đại diện
cho nhân dân, của dân và vì dân. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng các
quyền và lợi ích hợp pháp mà nhà nước cho phép chuyển dịch. Ở đây đối
tượng của thừa kế là những tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, sinh hoạt như:
hệ thống nhà xưởng, công ty, cổ phần và các máy móc, tài sản về quyền sử
dụng đất, các giá trị gắn liền với đất, nông nghiệp, tiền, vàng, bạc,… Công
dân có quyền để lại thừa kế những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho
người khác, Nhà nước không hạn chế quyền để lại thừa kế và quyền nhận
thừa kế của công dân. Nhà nước khuyến khích công dân tích cực lao độngsản
xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, làm giàu cho cá nhân, gia đình, và
đất nước.
Trên cơ sở những phân tích nêu trên, đứng trên góc độ pháp lý có thể
hiểu rằng thừa kế chính là một trong những quyền cơ bản của công dân,
quyền này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước. Cụ thể
các bản Hiến pháp của nhà nước Việt Nam đều đã thừa nhận và ghi rõ, khoản
1 và 2, Điều 32 Hiến pháp 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,
phần vồn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền
sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Như vậy, pháp luật
bảo vệ quyền thừa kế của con người xuất phát tư quan điểm coi gia đình là tế
bào của xã hội và sự ổn định của từng thành viên trong gia đình.
Căn cứ vào Hiến pháp, quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ, cụ thể là
Luật Đất đai 2013 và Bộ Luật Dân sự 2015, Luật Tố tụng dân sự 2015và một
số văn bản khác cũng đã quy địnhvềvấn đề này. Tại Điều 609 Bộ Luật Dân sự
2015 có quy định về quyền thừa kế như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của cá nhân mình; để lại tài sản của mình cho người
thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
9
Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”.
Theo cách tiếp cận như trên thì thừa kế chính là một QHPL, theo đó có
nhiều dạng thừa kế khác nhau như thừa kế tài sản, thừa kế cổ phần, thừa kế
quyền sử dụng đất,… khi đề cập tới thừa kế quyền sử dụng đất chúng ta cũng
cần nắm rõ thế nào là quyền sử dụng đất và thừa kế quyền sử dụng đất như
thế nào?
Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về quyền sử dụng đất,
trên góc độ pháp lý, có ý kiến cho rằng: Quyền sử dụng đất là một QHPL về
đất đai, khi xét tới QHPL về đất đai chúng ta cần chú ý tới các khía cạnh như
sau:
Thứ nhất, về chủ thể sở hữu với người sử dụng đất, đây chính là mối
quan hệ giữa nhà nước với công dân thông qua các quyền sử dụng, chiếm hữu
và định đoạt quyền sử dụng đất. Quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai
là tuyệt đối còn của công dân đối với quyền sử dụng đất chỉ là tương đối và
thuộc dạng phái sinh, phụ thuộc vào quyền sở hữu toàn dân về đất đai của chủ
thể.
Thứ hai, là quan hệ giữa người sử dụng đất với các cơ quan quản lý nhà
nước (QLNN) liên quan đến việc cấp QSDĐ và giải quyết mối quan hệ giữa
những người sử dụng đất với nhau. Trong QHPL này các bên tham gia vừa là
chủ thể vừa là đối tượng trong những giao dịch, những quan hệ cụ thể trong
quá trình sử dụng đất và các vấn đề liên quan.
Như vậy, qua các hiểu này thì QSDĐ ở đây chính là quyền sở hữu về
đất đai của nhà nước với quyền sử dụng và khai thác các giá trị liên quan đến
đất được cấp phép và sử dụng trong các giao dịch về đất đai như sử dụng, cho
thuê và cấp phép, xác định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Đồng thời còn
cấp phép, trao quyền sử dụng đất cho các cá nhân, tổ chức và hộ gia đình sử
dụng thông qua các hình thức cho thuê đất, cấp giấy phép quyền sử dụng đất
lâu dài, hạn có mức 50 năm,…. Chính vì vậy mà các vấn đề liên quan được
đảm bảo thực hiện thông qua các QHPL liên quan.
10
Hai là, quyền sử đất chính là một chế định của luật đất đai. Tức là nó
bao gồm hệ thống các quy định, quy phạm pháp luật về đất đai do nhà nước,
cơ quản quản lý có thẩm quyền ban hành nhằm thực hiện việc lý, sử dụng đất
đai sao cho hợp lý, đáp ứng yêu cầu của QLNN, phù hợp với hệ thống luật
pháp chung của nhà nước và các văn bản pháp lý quốc tế liên quan. Có thể là
các văn bản quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, các thủ tục
pháp lý, trình tự hành chính,… để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền
sử dụng đất. Mặt khác lại có quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất chính là
một quyền riêng của chủ sử hữu cũng như của người sử dụng đất, hiểu theo
nghĩa này tức là đây chính là các quyền, các cách thực hiện đối với mảnh đất
mà nhà nước trao cho chủ sử hữu sử dụng.
Ba là, hiểu quyền sử dụng đất chính là một tài sản đặc biệt trong cuộc
sống hiện nay. Như chúng ta đã biết thì quyền sử dụng đất vừa là đối tượng
của QHPL dân sự, đồng thời cũng là đối tượng của QHPL đất đai. Hiện nay,
pháp luật cũng đã quy định rất rõ ràng về loại tài sản này, đó thực sự là tài sản
đặc biệt, đất đai là của nhà nước, của sở hữu toàn dân, tuy nhiên quyền sử
dụng đất lại đựa giao cho người dân sử dụng và quản lý và tuân thủ theo
những yêu cầu của pháp luật về quản lý đất đai, cấp phát quyền sử dụng đất,
pháp luật của nhà nước cũng quy định quyền sử dụng đất là một tài sản trong
các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, thế chấp, nhượng quyền,… chính
vì lẽ đó mà vấn đề quản lý quyền sử dụng đất luôn là vấn đề được quan tâm
chú trọng để đảm bảo ổn định và phát triển.
Như vậy, có thể nhận định rằng quyền sử dụng đất chính là nhân tố vô
cùng quan trọng trong các QHPL nói chung và pháp luật về đất đai, dân sự
nói riêng. Nó gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân, là yếu tố có mối
quan hệ mật thiết với sử hữu toàn dân, bởi quyền sử dụng đất chính là một
phương thức cơ bản để nhà nước quản lý có hiệu quả về đất đai, khai thác tối
đa các thế mạnh để hướng tới sử dụng ổn định kinh tế, xã hội, mang lại kết
quả tốt nhất.
11
1.1.2. Khái niệm tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Đây là một khái niệm liên quan tới đất đai, mà cụ thể chính là quyền sử
dụng đất của người dân trong quan hệ thừa kế, khi có nảy sinh vấn đề tranh
chấp về thừa kế quyền sử dụng đất. Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 612
Bộ luật dân sự 2015 về “di sản” thừa kế, các chuyên gia về luật cho rằng di
sản thừa kế bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết trong tài sản chung với người khác. Như vậy có nghĩa là, về nguyên tắc
mọi tài sản hợp pháp của người chết đều có thể trở thành di sản thừa kế, trong
đó có một loại tài sản khá đặc biệt là quyền sử dụng đất.
Trước đây, trong Bộ luật Dân sự 2005, tại Điều 733 nhà làm luật có
định nghĩa: “Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của
người chết sang cho người thừa kế theo quy định của Bộ luật này và pháp
luật về đất đai”. Tại Điều 734 của Bộ luật này, các nhà làm luật tiếp tục ghi
nhận: “Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử
dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại Phần thứ
tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”.
Tại Điều 657 Bộ luật dân sự 2015, nhà làm luật quy định rằng:“1.
Người phân chia di sản” có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ
định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc
đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.
3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản
cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận”.Nếu việc
phân chia thừa kế không thỏa mãn được lợi ích chính đáng của những người
thừa kế, giữa họ sẽ phát sinh các mâu thuẫn, bất đồng, thậm chí dẫn đến xung
đột về việc chia thừa kế quyền sử dụng đất và khi đó, tranh chấp về việc chia
thừa kế quyền sử dụng đất sẽ phát sinh, dẫn đến việc phải giải quyết tranh
chấp.
12
Như vậy, thừa kế QSDĐchính là một khái niệm gắn liền với QSDĐ của
người nắm quyền. QSDĐ chính là một loại tài sản đặc biệt trong xã hội và đã
được pháp luật thừa nhận. Khi một người nắm giữ QSDĐ thì quyền đó chính
là tài sản của họ, khi họ chết đi thì tài sản đó sẽ được chuyển dịch lại cho
người khác theo pháp luật hoặc là theo di chúc, thì khi đó QSDĐ chính là di
sản thừa kế mà người chết để lại cho người thụ hưởng, sau khi đã thực hiện
các nghĩa vụ pháp luật, khi đó di sản này sẽ phát sinh QHPL về thừa kế
QSDĐ.
Dó đó có thể hiểu:Thừa kế quyền sử dụng đất là người có quyền để lại
quyền sử dụng đất trên cơ sở lập di chúc hoặc trên cơ sở quy định của pháp
luật nhưng phải tuân theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản pháp
luật khác có liên quan.
Thừa kế QSDĐ được xem như là một chế định mới trong hệ thống
pháp luật (HTPL) của Việt Nam, nó cũng phù hợp với các yêu cầu của hệ
thống, đồng thời đây cũng là nét đặc thù trong trong HTPL Việt Nam so với
HTPL của các quốc gia khác trên thế giới, bởi lẽ chỉ có ở Việt Nam mới có
khái niệm thừa kế QSDĐ. Trong vấn đề về thừa kế thì các tranh chấp luôn
luôn diễn ra với rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, điều đó cũng đã được quy
định trong Luật Đất đai 2013 cũng như trong Bộ Luật Dân sự 2015 ở Việt
Nam.
Tranh chấp QSDĐ là bộ phận của tranh chấp đất đai, theo quy định tại
khoản 24 Điều 3“giải thích từ ngữ”, Luật Đất đai năm 2013 quy định:
“Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất
giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Có thể thấy rằng trong khái
niệm này đã bao hàm cả tranh chấp về QSDĐ, tranh chấp về tài sản gắn liền
với đất, tranh chấp cả về địa giới hành chính. Như vậy, đất đang có tranh chấp
là được hiểu là loại đất mà giữa người sử dụng hợp pháp đất đó với cá nhân
khác, với nhà nước hoặc giữa những người sử dụng chung mảnh đất đó với
nhau đang có tranh chấp về sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất, về ranh
13
giới, về mục đích sử dụng đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá
trình sử dụng đất. Có thể thấy khi đề cập đến đất có tranh chấp thì chưa thể
xác định được giữa các bên ai là người sử dụng hợp pháp.
Tranh chấp về đất đai là tất cả những gì liên quan đến đất đai, tức là
bao gồm cả những tranh chấp đất đai khác là một bộ phận của tranh chấp về
đất đai, những bộ phận còn lại gồm tranh chấp các hợp đồng giao dịch liên
quan tới đất đại, thừa kế di sản là QSDĐ, chia tài sản chung là QSDĐ,….
Việc phân biệt như vậy là để đảm bảo rằng các bên liên quan thực sự trong
vấn đề nếu có xảy ra tranh chấp và trong việc xác minh bản chất của các loại
tranh chấp. Trên thực tế, nhiều khi Tòa án vẫn yêu cầu các bên phải hòa giải
tại UBND cấp xã, phường, thị trấn trước thì mới đủ điều kiện để khởi kiện khi
tranh chấp đó không cần phải hòa giải gây phiền hà, mất thời gian cho các
bên. Do vậy, chỉ những tranh chấp liên quan đến việc ai là người có quyền sử
dụng đất thì mới bắt buộc phải tiến hành hòa giải, còn các tranh chấp khác về
thừa kế, tranh chấp các giao dịch liên quan đến QSDĐ thì không bắt buộc.
Với tư cách là một loại tài sản đặc biệt, QSDĐ có bản chất là quyền tài
sản theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền
sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.Do là quyền tài
sản nên QSDĐ là một loại tài sản vô hình, không thể nắm giữ, chiếm hữu theo
cách thông thường giống như tài sản là vật, tiền hay giấy tờ có giá. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam, chủ sở hữu tài sản là quyền sử dụng đất chính là
tổ chức, cá nhân đang có QSDĐ hợp pháp được Nhà nước công nhận bằng
Giấy chứng nhận QSDĐ.
Như vậy, tranh chấp về QSDĐ là những tranh chấp giữa các bên với
nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó.
Trong quan hệ này thì đối tượng của tranh chấp đất đai không phải là quyền
sở hữu đất, các chủ thể tham gia tranh chấp không phải là các chủ thể có
quyền sở hữu đối với đất, vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Điều 53
14
Hiếp pháp năm 2013 và Điều 4 Luật Đất đai năm 2013: “đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước
trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.
Qua việc phân tích khái niệm tranh chấp QSDĐ như trên, chúng ta có
thể thấy rằng tranh chấp thừa kế QSDĐ hiện nay rất đa dạng và phức tạp, có
thể là tranh chấp QSDĐ trong đó buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về
tài sản do người chết để lại; cũng có thể là tranh chấp thừa kế QSDĐ trong đó
yêu cầu chia di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật hiện hành; cũng
có thể là xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của
người khác,… Hiện nay, trong trong HTPL Việt Nam chưa có định nghĩa
chính thức nào về khái niệm chia thừa kế QSDĐ,chính vì vậy dẫn đến nhiều
tranh chấp trong vấn đề giành QSDĐ hiện nay. Bộ luật Dân sự 2015 trong
phần về thanh toán và phân chia di sản thì có thể hiểu rằng thừa kế chính là
việc phân chia di sản của người đã chết theo di chúc của người đó hoặc theo
quy định của pháp luật. Trong Bộ luật Dân sự 2015 có ghi nhận tại Điều 656
về việc họp mặt những người thừa kế: “1. Sau khi có thông báo về việc mở
thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để
thỏa thuận những việc sau đây:
a,Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền,
nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong
di chúc;
b,Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn
bản”.
Như vậy, có thể quan niệm rằng trong thủ tục về chia thừa kế, các bên
có liên quan (bao gồm những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật)
có thể thỏa thuận xác định người phân chia di sản là ai và cách thức phân chia
di sản như thế nào trong văn bản thỏa thuận giữa họ với nhau về việc chia
thừa kế tài sản nói chung và chia thừa kế QSDĐ nói riêng.
15
Trên cơ sở đó, khi các bên trong quan hệ thừa kế QSDĐ không đạt
được những yêu cầu cũng như những lợi ích thì có thể sẽ dẫn đến xung đột về
vấn đề phân chia, sử dụng và quản lý QSDĐ, trong trường hợp này sẽ cần
phải nhờ đến sự hòa giải của chính quyền cơ sở, nếu hòa giải không thành có
thể dẫn đến đưa ra Tòa án để giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ theo đúng
quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi chính đáng và hợp pháp của
người thừa kế và với các bên.
Giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính (TTHC) hiện nay
được tiến hành theo quy định của pháp luật, khi người dân, cơ quan, tổ chức
có phát sinh mâu thuẫn, xảy ra tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn
khiếu nại tới chính quyền địa phương, tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có
đất tranh chấp, có xảy ra tranh chấp QSDĐ. UBND xã (phường/thị trấn) có
trách nhiệm phối hợp với Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức
thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất
đai. Thời hạn hòa giải là 30 ngày làm việc, kể từ ngày UBND cấp xã nhận
được đơn. Sau khi hòa giải tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các bên đương
sự không nhất trí thì sẽ được giải quyết như sau:
Tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng cư dân với nhau thẩm
quyền giải quyết lần đầu sẽ là chủ tịch UBND cấp huyện. Nếu một bên hoặc
các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu
nại đến chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết; quyết định của chủ tịch UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng, đối
với những trường hợp tranh chấp mà không có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Còn những trường hợp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
khi không đồng ý với quyết định của cấp hành chính giải quyết thì khởi kiện
ra Tòa án cùng cấp giải quyết.
Như vậy, giải quyết khiếu nại theo TTHC thì các cơ quan quản lý hành
chính tại địa phương sẽ thụ lý và giải quyết theo phân cấp hành chính rõ ràng,
theo đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cấp. Theo đó thì khiếu
16
nại ban đầu sẽ đưa nên chính quyền cơ sở, đó là UBND xã (phường/thị trấn),
khi không thỏa đáng có thể gửi khiếu nại lên cấp trên trực tiếp đó chính là
UBND huyện, quận, nếu vẫn không đồng ý với quyết định của cấp quận,
huyện thì có thể chuyển khiếu nại lên cấp trên đó là tới UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương để giải quyết. Đồng thời, các bên đương sự có thể lựa
chọn hình thức khởi kiện vụ án dân sự, gửi đơn và hồ sơ tới Tòa án để giải
quyết.
Tóm lại, trên cơ sở khái niệm về thừa kế QSDĐ cũng như các vấn đề
liên quan đến tranh chấp thừa kế QSDĐ như trên, có thể hiểu: Tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất chính là các tranh chấp liên quan đến việc phân
chia, sử dụng và quản lý tài sản hợp pháp của người đã chết để lại cho người
còn sống, hay còn gọi đó là di sản mà ở đây chính là quyền sử dụng đất, một
loại tài sản đặc biệt khi xảy ra tranh chấp giữa các bên liên quan trong vấn
đề về quan điểm, lợi ích khi không có sự thống nhất, dẫn đến mâu thuẫn và
xung đột cần phải được giải quyết theo trình tự, thủ tục quy định của pháp
luật.
1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại
Tòa án
Trong các quan hệ dân sự, khi các mâu thuẫn không được giải quyết
thỏa đáng bằng biện pháp hòa giải rất dễ đẫn đến những xung đột, thậm chí là
đấu tranh, tranh giành quyết liệt. Các mâu thuẫn chủ yếu xoay quanh vấn đề
về quyền và lợi ích của mỗi bên, vì vậy khi đó sẽ nảy sinh tranh chấp. Các
tranh chấp không giải quyết được các bên sẽ đưa nhau ra chính quyền, nhờ
chính quyền can thiệp và phân giải. Ở cấp chính quyền cơ sở thường sẽ tổ
chức hòa giải, thông qua thỏa thuận và thương lượng đôi bên, có sự định
hướng và trợ giúp của cán bộ cấp cơ sở. Kết quả của hòa giải sẽ là điều kiện
dẫn tới các quan hệ pháp luật tiếp theo. Nếu như hòa giải thành công, các bên
thỏa mãn các yêu cầu và ra về, còn nếu không thành công, cấp cơ sở không
thể hòa giải được, các bên sẽ khởi kiện ra Tòa án.Khi đó sẽ điều chỉnh và thực
17
hiện theo các quy định của Luật Tố tụng dân sự hiện hành, hiện nay được điều
chỉnh và thực hiện theo Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Tranh chấp chính là những bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong
quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình. Đó có thể là những tranh chấp nảy
sinh trong quá trình phân chia lợi ích, phối hợp sản xuất kinh doanh, hay
trong các vấn đề của cuộc sống. Còn thừa kế theo cách hiểu như trên là quyền
chính đáng của người đã mất để lại cho người còn sống, việc thừa kế quyền
sử dụng đất đó chính là tài sản đặc biệt và rất dễ xảy ra tranh chấp. Do đó việc
giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất là việc thường xuyên diễn ra
trong các tranh chấp hiện nay tại Tòa án.
Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất
tại Tòa án là việc bên nguyên đơn nộp hồ sơ khởi kiện tại Tòa án có thẩm
quyền để yêu cầu giải quyết theo pháp luật. Tòa án nơi nhận đơn khởi kiện sẽ
kiểm tra các thông tin về thời hiệu khởi kiện, thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của tòa án, các tài liệu có trong hồ sơ khởi kiện có đáp ứng được yêu
cầu theo quy định hay không để thụ lý hoặc từ chối thụ lý hồ sơ khởi kiện vụ
tranh chấp. Sau khi thụ lý hồ sơ vụ tranh chấp để giải quyết nếu đúng thẩm
quyền luật định, tòa án sẽ tiến hành các thủ tục tố tụng theo trình tự do Luật
tố tụng dân sự quy định.
1.2. Một số nội dung giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
1.2.1. Các quan hệ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Đề cập tới các quan hệ trong tranh chấp thừa kế QSDĐ các quan hệ
giữa chủ thể của di sản thừa kế và đối tượng của thừa kế QSDĐ và mối quan
hệ giữa các bên trong vấn đề tranh chấp, phân chia tài sản (QSDĐ), trong đó
có vai trò của chính quyền cơ sở, TAND cấp quận, huyện trong việc phân xử,
hòa giải trong tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Hiện nay, pháp luật thừa
kế có hai dạng, một là theo di chúc và hai là theo pháp luật, các quan hệ này
đều được điều chỉnh bởi pháp luật và hiện nay được quy định trong Luật Đất
đai 2013 và Luật Dân sự năm 2015.
18
Trong quan hệ về thừa kế theo di chúc Luật Dân sự năm 2015 quy định
cụ thể và chi tiết về vấn này. Tại Điều 624 ghi nhận: “Di chúc là sự thể hiện ý
chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Thông qua quan hệ này có thể dễ dàng nhận thấy có ít nhất 2 bên, đó là giữa
người lập di chúc và đối tượng thừa hưởng, tức là giữa người để lại di chúc và
người thừa hưởng theo di chúc. Điều 625 quy định: Người thành niên có đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật có quyền lập di chúc để định đoạt tài
sản của mình.Pháp luật đã chỉ rõ chủ thể của di chúc là những ai, độ tuổi đủ
hiểu biết và năng lực hành vi dân sự, biết định đoạt tài sản của mình. Đồng
thời, tại khoản 2, Điều 625 tại Bộ luật này cũng quy định: Người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ, hoặc
người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Có thể thấy các nhà làm luật của
Việt Nam đã tính toán rất chi tiết, cụ thể và đầy đủ đối với tất cả các đối
tượng là công dân Việt Nam, khi có đủ các điều kiện về nhận thức, những
chưa đủ tuổi thành niên vẫn được lập và để lại di chúc theo ý muốn. Một điểm
quan trọng trong việc lập di chúc đó chính là hình thức của di chúc như thế
nào, trong luật cũng chỉ rõ, di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không
thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Tuy nhiên, các
tranh chấp liên quan đến di chúc hết sức phức tạp, đặc biệt là di chúc liên
quan đến vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất đó là tính hợp pháp của di chúc.
Tại Điều 630, Bộ luật dân sự 2015 quy định:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải
được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về
việc lập di chúc.
19
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là
hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý
chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại,
cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công
chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc
điểm chỉ của người làm chứng.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, đólà căn cứ pháp lý rất rõ ràng,
các bên liên quan tranh chấp theo quy định và thực hiện, tuy nhiên có thể do
hiểu biết pháp luật của họ còn hạn chế hoặc do sự tham lam, muốn chiếm đoạt
tài sản của người đã mất để lại, nên có sự gian dối, tranh giành trong một số
trường hợp người chết không có di chúc hoặc có di chúc thì lại không có được
di chúc bằng văn bản, mà chỉ có di chúc bằng miệng, vấn đề xác minh và đối
chiếu gặp không ít những khó khăn. Theo quy định trong Bộ luật Dân sự năm
2015, Bộ Luật Đất đai năm 2013 thì cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt
cho người thừa kế được hưởng quyền sử dụng đất ở của mình sau khi chết.
Khi để lại di sản là quyền sử dụng đất, người lập di chúc phải thỏa mãn các
điều kiện về chủ thể lập di chúc, quyền tự do định đoạt ý chí, nội dung của di
chúc không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội và hình thức của di chúc phải
tuân theo những qui định của pháp luật, nhất là những điều luật của luật dân
sự trích dẫn nêu trên. Một điểm mới trong Bộ Luật đất đai 2013 là chú trọng
tới khâu hòa giải trong tranh chấp đất đai, Tại Điều 202 quy định: “1. Nhà
nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết
tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
20
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn
đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
3. Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất
đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với
Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các
tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp
xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được
đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác
nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của UBND cấp xã. Biên bản
hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại UBND cấp xã nơi có đất
tranh chấp.
5. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới,
người sử dụng đất thì UBND cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài
nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình,
cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường
đối với các trường hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy
ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất
và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất”.
Điều này hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc tổ chức và thực hành pháp
luật ở Việt Nam đó là nguyên tắc tôn trọng ý kiến các bên, ton trọng dân chủ
cơ sở và sự hòa giải phù hợp với đạo lý và nguyên tắc sống trong cộng đồng,
họ hàng, làng xóm, anh, chị em,.. trong gia đình, dòng tộc. Nếu như hòa giải
không thành, khi đó đưa ra kiện tụng tại Tòa án làm sẽ sứt mẻ, mất mát đi tình
cảm, là cái vốn quý trong quan hệ họ hàng, cộng đồng ở Việt Nam. Trong
quan hệ pháp luật về thừa kế thì khi mất, bố mẹ không để lại di chúc thì theo
21
quy định của pháp luật, di sản sẽ được phân chia theo pháp luật theo quy định
tại Điều 650 Bộ Luật dân sự năm 2015 như sau:
“Điều 650, Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a, Không có di chúc;
b, Di chúc không hợp pháp;
c, Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không
còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d, Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản
….”
Tại Điều 651 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về người thừa kế theo
pháp luật như sau:
“Điều 651, Những người thừa kế theo pháp luật:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a, Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;
b, Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em gái ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c, Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai
ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
22
Luật Dân sự 2015 giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp nêu
trên theo phân định của pháp luật và mối quan tâm được chú trọng đó là thừa
kế theo hàng, xét các mối quan hệ gần gũi, ruột thịt với người để lại quyền
thừa kế thì sẽ có mức thừa hưởng khác nhau, điều đó cho thấy nguyên tắc
công bằng, công khai, minh bạch của pháp luật, cũng như pháp luật về thừa
kế dựa trên huyết thống, phù hợp với đạo lý của dân tộc. Bên cạnh đó thì Luật
Đất đai 2013, Điều 203, quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai, liên quan đến thừa kế QSDĐ như sau: Trước hết pháp luật luôn chú trọng
tới yếu tố hòa giải, khi tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã
mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong
các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản
gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có
một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự
chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo
quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự;
Như vậy, trong các quan hệ về thừa kế thì quan hệ giữa chủ thể thừa kế
với đối tượng thụ hưởng nằm trong các quan hệ điều chỉnh của pháp luật như
trên, trong các trường có di chúc, hoặc di chúc không hợp pháp, hoặc không
có di chúc thì sẽ được phân chia theo quy định trên. Trong những trường hợp
này sinh tranh chấp thì căn cứ vào pháp luật mà tiến hành giải quyết, trước hết
là hòa giải, thỏa thuận, nếu không đạt được thỏa mãn các vấn đề thì sẽ đưa ra
Tòa án giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất.
23
Một quan hệ khá phổ biến trong tranh chấp quyền thừa kế về sử dụng
đất tại là vấn đề đó chính là mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm
những người thừa hưởng di sản với nhau. Chính vì vậy, trong mối quan hệ
này sẽ cần tới việc thảo luận và thống nhân phân chia làm sao cho hợp pháp,
hợp lý thông qua thỏa thuận. Việc phân chia tài sản, di sản thừa kế mà cụ thể
là thừa kế quyền sử dụng đất sẽ được quy định tại Điều 656 Bộ Luật dân sự
2015 quy định cụ thể như sau:
“Điều 656, họp mặt những người thừa kế
1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những
người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những vấn đề sau đây:
a, Cử người quản lý di sản, người phân chia tài sản, xác định quyền, nghĩa vụ
của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b, Cách thức phân chia di sản
2.Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”
Qua đó có thể thấy rằng việc phân chia tài sản thừa kế ưu tiên sự thỏa
thuận của các đồng thừa kế và việc thỏa thuận của những người trong nhóm
thụ hưởng phải được lập thành văn bản rõ ràng. Nếu không có văn bản sẽ rất
dễ dẫn đến tranh chấp tiếp theo và thỏa thuận không có văn bản sẽ là thỏa
thuận không hợp pháp. Trong trường hợp không thể thỏa thuận được với nhau
về việc chia di sản thừa kế thì có thể nhờ đến UBND, phường, thị trấn, nơi có
tranh chấp thừa kế QSDĐ, tức là có mảnh đất đó ký vào văn bản thỏa thuận
phân chia thừa kế QSDĐ. Nếu trong trường hợp này vẫn không thể thỏa thuận
được với nhau và vẫn nảy sinh tranh chấp thì có thể có quyền khởi kiện tại
TAND quận (huyện) để yêu cầu phân chia là di sản thừa kế QSDĐ.
Ngoài các quan hệ trên trong việc phân chia, giải quyết tranh chấp liên
quan đến thừa kế QSDĐ ở Việt Nam hiện nay rất phức tạp. Do tính chất các
quan hệ huyết thống, họ hàng, gia tộc, làng xóm,... dẫn đến các tranh chấp
liên tục phát sinh, gây ra rất nhiều khó khăn trong công tác xét xử tại Tòa án.
Pháp luật hiện hành quy định thừa kế QSDĐ nói riêng và thừa kế tài sản nói
24
chung dựa trên các phương diện chính như thừa kế theo di chúc, thừa kế theo
pháp luật và thứ ba là thừa kế thế vị. Như vậy, ngoài hai hình thức trên thì
pháp luật thừa kế ở Việt Nam quy định trường hợp khi con của người để lại di
sản chết trước người để lại di sản thì cháu của người đó được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống. Nếu cháu cũng đã chết
trước người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
chắt được hưởng nếu còn sống. Những trường hợp này gọi là thừa kế thế vị.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trường hợp đặc biệt đó là: cha, mẹ chết
cùng thời điểm với ông hoặc bà thì cháu thay thế vị trí của cha hoặc mẹ nhận
di sản của ông, bà (Điều 652 – Bộ Luật Dân sự 2015). Qua đó có thể hiểu
rằng thừa kế thế vị là việc các con (cháu, chắt) được thay vào vị trí của bố
hoặc mẹ (ông, bà) để hưởng di sản của ông bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố
hoặc mẹ (ông hoặc bà) chết trước hoặc chết cùng ông, bà (hoặc cụ), những
người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản của bố, mẹ mình (hoặc ông, bà)
đáng lẽ được hưởng nếu còn sống, được chia đều di sản với những người thừa
kế khác. Trong trường hợp này, thừa kế QSDĐ cũng là đối tượng điều chỉnh
và thực hiện theo quy định của thừa kế thế vị. Bên cạnh đó thì các quan hệ về
con nuôi, cha mẹ nuôi cũng được thừa kế di sản của nhau và cũng được thừa
kế theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014, tai khoản 3 Điều 68: Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật nuôi con
nuôi, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan.
Thông qua sự phân tích nêu trên để thấy rằng các quan hệ trong cuộc
sống được các nhà làm luật quan tâm khi xây dựngHTPL cũng cố gắng bao
quát và điều chỉnh làm sao cho đầy đủ và khách quan, công bằng nhất đối với
tất cả các đối tượng liên quan, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Tuy nhiên, cũng không thể nào tránh khỏi những hạn chế, mà hiện tại ngay cả
bản thân các nhà làm luật cũng chưa thể phát hiện ra, bởi trình độ thời điểm
làm luật và sự biến đổi và phát triển của các quan hệ xã hội là không ngừng
25
thay đổi, mà pháp luật chỉ phản ánh tại thời điểm nhất định, đến lúc nào đó nó
sẽ trở lên lạc hậu và cần phải điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển của các
quan hệ xã hội (QHXH), bởi vai trò của pháp luật chính là để điều chỉnh các
QHXH phát sinh, phát triển trong xã hội theo trình tự, định hướng nhất định
đảm bảo sự ổn định, công bằng, phát triển. Chính vì vậy, các nhà làm luật và
khi xét xử luôn khuyến khích các cá nhân, tổ chức có mâu thuẫn cố gắng giải
quyết bằng phương pháp hòa giải tại cơ sở, thậm chí khi ra Tòa, Tòa vẫn sử
dụng biện pháp hòa giải, hòa giải mang lại nhiều lợi ích, giúp ổn định, giữ
được tình cảm, huyết thống trong dòng tộc, gia đình và góp phần giảm gánh
nặng và khó khăn cho công tác xét xử ở Tòa án hiện nay.
Ngoài ra, dưới góc độ của Luật Đất đai, giải quyết tranh chấp thừa kế
QSDĐ còn được phân loại tranh chấp QSDĐ không có tài sản gắn liền với đất
và tranh chấp QSDĐ gắn với tài sản trên đất, tranh chấp QSDĐ là đất nông
nghiệp, đất ở, đất chuyên dụng,…đều liên quan đến quan hệ thừa kế thì ngoài
việc tuân thủ các quy định của Bộ Luật Dân sự, Luật Đất đai thì phải chấp
hành, tuân thủ các quy định khác của pháp luật hiện hành.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất: Có 3 nguyên
tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất cần phải tuân thủ
như sau:
Thứ nhất, phải luôn đảm bảo nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân
và Nhà nước là đại diện chủ sở hữu;
Thứ hai, phải đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích
kinh tế, khuyến khích tự hòa giải trong nội bộ nhân dân;
Thứ ba, việc giải quyết nhằm mục đích ổn định kinh tế, xã hội, gắn với
phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo điều kiện cho lao động có thêm
việc làm, phù hợp với đặc điểm và quy hoạch của từng địa phương.
1.2.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Thủ tục chính là cách thức, trình tự và nghi thức tiến hành xem xét một
vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý hoặc khởi tố theo quy định
26
của pháp luật. Như vậy, thủ tục chính là một quy phạm bắt buộc phải tuân
theo. Thủ tục giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ chính là các cách thức tiến
hành, trình tự thụ tục giải quyết các khâu, các bước trong vấn đề giải quyết
tranh chấp hiện nay liên quan đến thừa kế QSDĐ.Trong vấn đề tranh chấp
thừa kế QSDĐ không phải là tranh chấp đất đai, chính vì vậy nó sẽ không
thuộc quyền điều chỉnh bởi luật đất đai. Do đó, tranh chấp thừa kế QSDĐ là
tranh chấp liên quan đến di sản thừa kế, đó chính là QSDĐ, một loại tài sản
đặc biệt và vì thế nó sẽ chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật dân sự. Trình tự, thủ
tục giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ sẽ theo Luật dân sự.
Trên thự tế, các tranh chấp mà di sản là QSDĐ khá phổ biến, để xác
định QSDĐ này có phải là di sản của người chết để lại hay không cần phải
xác minh về nguồn gốc của đất. Tòa án sẽ xác minh tại UBND địa phương
thông qua hồ sơ địa chính, đăng ký đất đai qua các thời kỳ. Chính vì vậy mà
có thể xác định tranh chấp về thừa kế QSDĐ chính là các tranh chấp liên quan
đến nhân thân giữa những người thuộc diện thừa hưởng di sản và có tranh
chấp với nhau, chứ không phải là tranh chấp đất đai. Trình tự, thủ tục như
sau:
Bước 1: Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án ra Tòa án có thẩm quyền. Người
khởi kiện gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đến Tòa án có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp liên quan đến thừa kế quyền sử dụng đất giữa các bên
đương sự, có tranh chấp.
Bước 2: Saukhi nhận đơn khởi kiện cùng với hồ sơ pháp lý hợp lệ Tòa
án sẽ ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí cho cá nhân, tổ chức nộp đơn;
Bước 3: Cá nhân, tổ chức nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại
Chi cục thi hành án quận (huyện) và nộp lại biên lai tiền tạm ứng án phí cho
Tòa án;
Bước 4: Tòa án thụ lý vụ án, tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục
chung và ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án.
27
Như vậy, đó là các giai đoạn cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp
thừa kế QSDĐ đối với di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Bởi lẽ,
trong vấn đề này đây không phải là tranh chấp đất đai mà đó chính là tranh
chấp dân sự xoay quanh vấn đề tranh chấp thừa kế QSDĐ. Các thủ tục, trình
tự phải tuân thủ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015.
Cụ thể, bước 1 chuẩn bị hồ sơ khởi kiện bao gồm các thủ tục như sau:
Đơn khởi kiện theo mẫu của Tòa án;
Giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất;
Biên bản hòa giải có chứng nhận của UBND xã và có chữ ký của các
bên liên quan tới tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất;
Các giấy tờ khác theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015, ai
khởi kiện vấn đề gì thì phải có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho chính
yêu cầu khởi kiện đó.
Bước 2: Nộp đơn khởi kiện
Nơi nộp đơn: Tòa án nhân dân cấp quận/huyện nơi có tranh chấp
Hình thức nộp: Có thể nộp bằng 01 trong 3 hình thức sau:
+ Nộp trực tiếp tại Tòa án
+ Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính
+ Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua công thông tin điện tử của
Tòa án (nếu có)
Bước 3: Tòa thụ lý và giải quyết:
Nếu hồ sơ chưa đủ thì tòa án sẽ yêu cầu bổ sung
Nếu hồ sơ đầy đủ thì tòa án sẽ:
+ Thông báo nộp tạm ứng án phí
+ Người khởi kiện nộp tạm ứng án phí tại cơ quan thuế theo giấy báo
tam ứng án phí và mang theo biên laic ho Tòa án.
+ Sau đó Tòa sẽ thụ lý.
Bước 4: Thủ tục chuẩn bị xét xử và xét xử:
28
Chuẩn bị xét xử: Thời hạn là 04 tháng, vụ việc phức tạp được gia hạn
không quá 02 tháng ( Như vậy là tổng cộng không quá 06 tháng – Theo Điều
203 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015).
Trong giai đoạn này Tòa sẽ tổ chức hòa giải tại Tòa, nếu các bên không
hòa giải được, hòa giải không thành thì tòa sẽ đưa vụ án tranh chấp ra xét xử
sơ thẩm (nếu không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc đình chỉ).
Sau khi có bản án sơ thẩm các bên tranh chấp có quyền kháng cáo nếu
không đồng ý với bản án và phải có căn cứ.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa
kế quyền sử dụng đất tại Tòa án
Đề cập tới các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa
kế QSDĐ tại tòa án nghĩa là đề cập tới các nhân tố, các điều kiện tác động tới
công tác giải quyết tranh chấp tại tòa án. Hiệu quả chính là khả năng tạo ra
kết quả mong muốn hoặc trong kinh tế là khả năng tạo ra sản lượng mong
muốn. Theo nghĩa chung nhất thì hiệu quả chính là cái gì đó được coi là hiệu
quả, nó có nghĩa là có một kết quả mong muốn hoặc mong đợi, hoặc tạo ra
một ấn tượng sâu sắc và sinh động.
Như vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa
kế QSDĐ tại Tòa án có một số nhân tố sau:
Một là, việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐtại Tòa án chịu ảnh
hưởng trực tiếp bởi HTPL được áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp.
HTPLNhà nước tương đối hoàn thiện, đáp ứng và phản ánh đúng trình độ
phát triển, điều chỉnh cụ thể và chi tết các QHXH sẽ là điều kiện cơ bản đảm
bảo hiệu lực và hiệu quả trong xét xử và tạo sự công bằng trong hoạt động
của tòa án. Đây chính hành lang pháp lý cơ bản đảm bảo cho tất cả các cá
nhân, tổ chức, người được trao quyền căn cứ và pháp và xét xử chỉ tuân theo
pháp luật đảm bảo hiệu quả thực sự trong giải quyết tranh chấp thừa kế
QSDĐ hiện nay ở tòa án. HTPL này bao gồm các luật về nội dung (ví dụ: Bộ
luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và Gia đình,...) và các luật về hình
29
thức tổ chức thực hiện giải quyết tranh chấp (ví dụ: Bộ luật Tố tụng dân sự).
HTPL là yếu tố quan trọng nhất có ảnh hưởng mang tính quyết định đến chất
lượng, hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án. Điều
đó thể hiện ở chỗ, nếu HTPL có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp thừa
kế QSDĐ tại Tòa án đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, chuẩn mực, không bị
mâu thuẫn, chồng chéo và sát với tình hình thực tiễn và phù hợp với trình độ
phát triển của xã hội thì việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ sẽ đảm bảo
tính công bằng, khách quan, chính xác, trừ khi người có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp không đủ năng lực hoặc cố ý làm sai trong quá trình giải
quyết tranh chấp.
Hai là, việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án chịu ảnh
hưởng của các bộ phận trong đơn vị, tòa án trong việc phối hợp tổ chức các
khâu, các bước, các quy trình trong tổ chức thực hiện vụ án. Từ các cán bộ
phục vụ công tác hồ sơ, giấy tờ, cho đến các đồng chí quản lý, lãnh đạo điều
hành công tác xét xử khi xử án. Nếu như các bộ phận chuẩn bị hồ sơ chưa chu
đáo, chưa chặt chẽ, khi trình lên Chánh án cũng như thẩm phán sẽ dẫn tới
thiếu sót, việc phải bổ sung hoàn thiện dẫn đến chậm trễ và ảnh hưởng trực
tiếp tới công tác xử án tại Tòa án. Do đó, vai trò của thư ký tòa án cũng vô
cùng quan trọng, từ các khâu kiểm tra, ra soát cho đến khâu ghi chép ý kiến,
lập văn bản và giúp lãnh đạo Tòa án hoàn thiện các khâu cũng đóng vai trò
nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
tại Tòa.
Bên cạnh đó, khi xét xử vụ án liên quan đến tranh chấp thừa kế QSDĐ,
mối liện hệ và liên quan giữa các bên là rất lớn, từ các cơ quan tố tụng, cơ
quan tòa án, đến công an, chính quyền địa phương nơi cơ sở mà có mảnh đất,
người cho thừa kế và người nhận, các đối tượng thừa kế theo hàng, nếu như
không có di chúc hoặc có di chúc cũng vẫn phải chia phần theo pháp luật,…
tất cả các cơ quan đều có tránh nhiệm một phần trong việc phối hợp giải
quyết vụ án. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định cụ thể khi khởi kiện thì
30
các đương sự phải nộp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn
cứ để nâng cao trách nhiệm của họ, nếu Thẩm phán thấy chưa đủ thì kết hợp
với việc Thẩm phán hỗ trợ thu thập thêm chứng cứ hoặc yêu cầu các cơ quan
có liên quan cung cấp chứng cứ thì mới xem xét giải quyết vụ án một cách
chính xác. Nhưng không phải lúc nào, khi nào và bao giờ họ cũng hoàn thiện
đủ và chính xác các yêu cầu nêu trên, việc này dẫn đến những khó khăn trong
việc xác định và làm căn cứ để tiến hành giải quyết tranh chấp.
Ba là, hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp thừa chịu ảnh hưởng
trực tiếp từ thái độ cũng như hiểu biết của các đối tượng tham gia tranh chấp,
tức là các đương sự, các nhóm tham gia trong quá trình tranh chấp, có những
người hiểu biết của họ khác nhau về luật, về xã hội, trình độ nhận thức là
không giống nhau, cho nên khi tổ chức và hướng dẫn trong xét xử là rất phức
tạp, luôn luôn phải thực hiện công tác tuyên truyền, yêu cầu các bên nhận
thức đầy đủ vị trí, vai trò và trách nhiệm của mối bên trong việc đưa ra các tài
liệu, dẫn chứng chứng minh để tòa án làm căn cứ xét xử cho khách quan và
công bằng nhất.
Bốn là, hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐtại Tòa án chịu ảnh
hưởng trực tiếp bởi yếu tố trình độ, năng lực chuyên môn của Thẩm phán,
Kiểm sát viên được phân công giải quyết vụ án. Có thể cho rằng trình độ năng
lực của Thẩm phán, Kiểm sát viên được phân công giải quyết vụ án cũng là
một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết tranh
chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Bởi vì sau khi được lãnh đạo phân công giải
quyết vụ án thì Thẩm phán phải nghiên cứu đơn khởi kiện và các tài liệu,
chứng cứ kèm theo chứng minh cho yêu cầu khởi kiện nên.
Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Nếu xét thấy đương sự cung cấp chứng cứ chưa đảm bảo cho
việc xét xử thì Thẩm phán tiến hành thu thập chứng cứ sau đó mới tiến hành
hòa giải vụ án và đưa vụ án ra xét xử. Ngoài ra, đối với Kiểm sát viên, vai trò
31
của người này cũng phải tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp để thực
hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp của Tòa án nhằm đảm
bảo việc xét xử của Tòa án được thực hiện một cách công bằng, khách quan,
đúng pháp luật.
Năm là, việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐchịu ảnh hưởng trực
tiếp bởi trình độ hiểu biết pháp luật của người khởi kiện cũng như người bị
kiện. Điều đó thể hiện ở chỗ: Nếu các đương sự có hiểu biết pháp luật, có
trình độ dân trí cao và có khả năng nắm bắt tình hình kinh tế - xã hội tốt thì
việc giải quyết tranh chấp chia thừa kế QSDĐ sẽ dễ dàng, thuận lợi
hơn.Ngược lại, nếu các đương sự không có hiểu biết tường tận về pháp luật,
trình độ dân trí thấp thì việc giải quyết tranh chấp về chia thừa kế QSDĐ sẽ
khó khăn hơn rất nhiều, bởi lẽ, các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
thường hết sức phức tạp do tài sản tranh chấp là QSDĐ, giá trị tài sản rất lớn,
các chủ thể tranh chấp thường không có thái độ nhượng bộ mà sẵn sàng tranh
chấp đến cùng để đòi hỏi quyền lợi. Trong nhiều trường hợp, do các đương sự
có trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế và thái độ không hợp tác với cơ quan
tiến hành tố tụng nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chính bản họ.
Bên cạnh đó, còn gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án vì để
vụ án quá hạn, kéo dài, đường lối giải quyết chưa chính xác nên nhiều vụ án
bị cấp trên hủy, sửa phải xét xử lại nhiều lần, có vụ án tranh chấp về chia di
sản thừa kế QSDĐ kéo dài hàng chục năm, từ đời ông cha, cho đến đời con
cháu mà vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.
Sáu là, phong tục tập quán văn hóa cũng ảnh hưởng lớn tới giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án. Trong cuộc sống hiện nay,
văn hóa của người Việt Nam thường ưu tiên sự hòa giải, tránh kiện tụng làm
mất hòa khí, ảnh hưởng đến tình cảm của nhau, tuy nhiên khi hòa giải không
thành, vạn bất đắc dĩ mới phải đưa nhau ra tòa, kiện tụng. Các tranh chấp
trong cuộc sống thông thường liên quan đến tiền bạc, vay mượn tài sản, thuê
sức lao động, thuê tài sản, thừa kế không cồng bằng,… trong các vấn đề này
32
thì thừa kế là phức tạp nhất, nhất là thừa kế về QSDĐ, một loại tài sản đặc
biệt. Chính vì vậy, khi xem xét giải quyết cơ quan Tòa án nên chú ý tới văn
hóa, phong tục của từng nơi để có được phương án giải.
Qua việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh
chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án, chúng ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về
những thuận lợi và khó khăn trong việc tiến hành giải quyết tranh chấp thừa
kế quyền sử dụng đất hiện nay ở Tòa. Quá đó có thể tiến hành thúc đẩy các
yếu tố thuận lợi, hạn chế các khó khăn trong giải quyết vụ án về tranh chấp
thừa kế QSDĐ để thực hiện có hiệu quả công tác xét xử tại Tòa án hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy pháp luật là thước đo cho
sự phát triển, tạo ra sự công bằng, minh bạch và ổn định. Nền kinh tế thị
trường đã hình thành và đang phát triểnbên cạnh những ưu điểm của nó là làm
cho sản xuất tăng nhanh, đời sống vật chất không ngừng được cải thiện và
nâng cao. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng nhiều, khi sản xuất phát triển, các
QHXH cũng phức tạp và biến đổi, các tranh chấp trong cuộc sống cũng như
kinh tế ngày càng nhiều, chính vì vậy mà việc thường xuyên hòa giải, giải
quyết các tranh chấp của người dânlà một yêu cầu cơ bản và cấp thiết. Trong
các tranh chấp hiện nay thì tranh chấp về tài sản chiếm số lượng rất lớn theo
thống kế của các Tòa án. Và nổi bật là tranh chấp về đất đai, tranh chấp về
QSDĐ, về thừa kế QSDĐ, bởi vì đất đai là tài sản có giá trị lớn thường xuyên
xảy ra tranh chấp nhất. Chính vì thế việc quy định một trình tự, thủ tục rõ
ràng về vấn đề thừa kế cũng như việc giải quyết tốt các tranh chấp về thừa kế
QSDĐ có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽquy định một trình tự, thủ tục rõ ràng,
minh bạch về thừa kếQSDĐ giúp cho các chủ thể tham gia vào QHPL thừa kế
QSDĐ có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình một cách dễ dàng. Điều
đó giúp đem lại một trật tự trong việc thừa kế QSDĐ giảm thiểu các tranh
33
chấp về thừa kế QSDĐ, một loại tranh chấp diễn ra phổ biến và rất phức tạp
trong xã hội hiện nay. Các tranh chấp, kiện tụng xảy ra nhiều, sẽ gây bất ổn
định rất lớn, ảnh hưởng tới thuần phong, mỹ tục, ảnh hưởng tới các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc gây mất đoàn kết trong dòng tộc và sẽ ảnh
hưởng tới tính bền vững của từng gia đình từ đó ảnh hưởng tới trật tự xã hội.
Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với công tác xét xử của Tòa án hiện nay là giải
quyết tốt vấn đề thừa kế QSDĐsẽ tạo lập được sự công bằng và hiệu quả đối
với người dân.
Trong chương 1 tác giả đã đi vào tìm hiểu, phân tích các khái niệm liên
quan đến thừa kế QSDĐ, các mối quan hệ trong việc giải quyết tranh chấp
quyền thừa kế QSDĐ cũng như quy trình, thủ tục của việc giải quyết tranh
chấp nay. Đồng thời cũng xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của
việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ để trên cơ sở đó khắc phục khó
khăn, phát huy nhưng ưu điểm để thúc đẩy hơn nữa hiệu quả xét xử tại Tòa án
về tranh chấp liên quan đến đất đai hiện nay. Chương 1 chính là những cơ sở
lý thuyết khoa học để chương 2 của luận văn đi vào tìm hiểu các quy định
hiện hành về vấn đề giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án hiện nay.
34
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN
2.1. Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án
cấp sơ thẩm
Theo quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thừa kế
QSDĐ tại Tòa án cấp sơ thẩm hiện nay được thực hiện theo các bước cơ bản
sau đây:
2.1.1. Thụ lý vụ án
Thụ lý vụ án chính là việc bắt đầu tiếp nhận một vụ việc để xem xét và
giải quyết, Như vậy, thụ lý vụ án là việc tòa án dân sự nhận yêu cầu của
đương sự đề nghị xem xét giải quyết một vụ việc để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, tổ chức, cơ quan. Do vậy, có thể hiêu thụ lý
vụ án giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ là hoạt động đầu tiên của Tòa án
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, làm phát sinh quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự giữa cơ quan tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng.
Tại Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về thụ lý vụ án như
sau: “1. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét
thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì thẩm phán phải thông
báo ngay cho người khởi kiện để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng
án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
2.Thẩm phán dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào giấy báo và giao
ngay cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 07
ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án
phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tóa án biên lai
thu tiền tạm ứng án phí.
3. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai
thu tiền tạm ứng án phí.
35
4. Trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền
tạm ứng án phí thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và
tài liệu, chứng cứ kèm theo”.
Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định Tòa án không được thụ lý
vụ án khi người khởi kiện không đủ điều kiện khởi kiện. Một trong những
điều kiện để Tòa án thụ lý vụ án dân sự là chủ thể khởi kiện có quyền khởi
kiện, chủ thể ở đây được quy định cụ thể ở Điều 186 và Điều 187 Bộ Luật Tố
tụng dân sự 2015, trong đó một trong các chủ thể khởi kiện là cá nhân, cá
nhân có quyền tự mình khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tình trạng giải quyết các vụ án về tranh chấp QSDĐ hiện nay ở Việt
Nam là rất phức tạp, trên phạm vi cả nước luôn luôn là điểm nóng trong việc
giải quyết các tranh chấp, đặc biệt là về đất đai, về thừa kế QSDĐ và các
quyền liên quan đến đất đai. Hiện nay, giải quyết tranh chấp về QSDĐ, về đất
đai, về thừa kế QSDĐ được tiến hành theo trình tự tố tụng dân sự theo đó việc
giải quyết tranh chấp đất tại Tòa án được thực hiện theo quy định chung của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đây chính phương thức giải quyết tranh
chấp phổ biến và hợp lý nhất. Hình thức của nó là giải quyết vấn đề thông qua
cơ quan quyền lực công có chức năng xét xử để đưa ra một bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật bắt buộc đối với các bên tham gia tranh chấp, là cơ sở
để các cơ quan hành chính nhà nước về đất đai có những điều chỉnh phù hợp
theo nội dung bản án đã nêu. Thế nhưng trên thực tế công tác giải quyết theo
bản án còn tồn tại một số vấn đề trong xét xử chú trọng tới yếu tố chứng minh
bằng bằng chứng, căn cứ vào giấy chứng nhận QSDĐ, căn cứ vào hình thức
bằng văn bản của di chúc, … thế nhưng trên thực tế thì các yêu tố trên không
phải lúc nào cũng đúng và đầy đủ trong hồ sơ của các bên đương sự. Chẳng
hạn như hiện nay: Có nhiều gia đình sống nhiều năm, các đời ông bà, cha mẹ,
các con cháu,… sinh sống nhiều đời mà vẫn chưa có giấy chứng nhận QSDĐ,
vì họ chỉ sinh sống và ở, nhu cầu giấy chứng nhận họ không cần thiết, bởi lẽ
36
để được cấp thì họ phải làm hồ sơ và có đơn, đáp ứng các yêu cầu của cơ
quan nhà nước, nhiều người dân, đặc biệt là ở nông thôn họ không muốn
phiền hà và vì vậy tiếp tục sinh sống, khi ông bà, bố mẹ mất đi lúc đó con
cháu ở lại sinh ra mâu thuẫn và tranh chấp,… Đó chỉ là một ví dụ cơ bản, còn
lại trong cuộc sống còn rất nhiều tranh chấp chưa giải quyết triệt để, dẫn đến
vượt cấp, kéo nhau ra tỉnh, thâm chí trung ương, dẫn đến hệ lụy rất nhiều và
điều đó dẫn đến tồn đọng án. Chính vì vậy, giải pháp được các cấp chính
quyền quan tâm và được các nhà làm luật tư vấn, khuyến khích đó chính là tổ
chức tốt công tác hòa giải tại cơ sở, đề cao vai trò của chính quyền cơ sở, cấp
xã, phường, thị trấn, thậm chí là cấp tổ dân phố, thôn, làng những cán bộ phụ
trách địa bàn, tổ chức hướng dẫn hòa giải kịp thời và đúng thời điểm, đúng
lúc để tránh xảy ra kiện cáo. Đây được xem là biện pháp hữu hiệu, bởi chính
những người gần dân nhất, cán bộ tổ dân phố, khu, xóm là những người nắm
rõ nhất khi có xảy ra tranh chấp và chính họ là những hòa giải viên tốt nhất,
nếu như tổ chức tốt khâu hòa giải ở cơ sở kịp thời, sẽ hạn chế các tranh chấp
kéo dài, vượt cấp lên cấp cao hơn, bởi khi đã đưa ra chính quyền, Tòa án thì
tình cảm của họ hàng, anh chị em, làng xóm sẽ bị tổn thương, sứt mẻ, ảnh
hưởng đến đạo đức, đạo lý tốt đẹp trong nhân dân, khu phố, thôn làng. Điều
này cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật Việt Nam, giải quyết theo cách
ngày xưa khi chính quyền các thời vẫn giải quyết, nó phù hợp với tập quán
pháp, một đặc điểm trong xét xử và giải quyết tranh chấp ở Việt Nam từ ngàn
xưa. Trường hợp không thể giải quyết được bằng hòa giải thì sẽ dẫn đến kiện
tụng tại Tòa, khi đó sẽ chuyển hồ sơ đến Tòa sơ thẩm, khi đủ hồ sơ thì sẽ tiến
hành thụ lý vụ án.
Trong khâu thụ lý vụ án chú ý tới một số vấn đề như sau:
Khi có đơn khởi kiện, bộ phận hành chính tiếp nhận đơn khởi kiện phải
kiểm tra các điều kiện như:
- Nội dung đơn có phù hợp không, có đúng theo quy định hay không?
37
- Yêu cầu các bên cung cấp chính xác địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn và
các cá nhân có liên quan để thuận lợi cho công tác tống đạt, xác minh, điều tra.
- Kiểm tra yêu cầu khởi kiện: nội dung khởi kiện yêu cầu chia thừa kế
theo pháp luật, theo di chúc, di sản hừa kế đó ở đâu?,…
- Kiểm tra các tài liệu liên quan như giấy chứng tử, giấy khai sinh, xác
định các quan hệ về nhân thân như thế nào?
Khi kiểm tra nếu đủ điều kiện thì bộ phận hành chính tư pháp thụ lý vụ
án, hoàn thiện hồ sơ, báo cáo chuyển lãnh đạo phân công thành phần liên
quan để tiến hành giải quyết theo quy định.
Nếu không đủ điều kiện thì báo cáo người có thẩm quyền hướng dẫn
đương sự bổ sung đơn yêu cầu khởi kiện.
Nếu ấn định thời gian, không bổ sung thì trả lại đơn kiện, theo quy định
tại Khoản 1 Điều 192 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về trả lại đơn
khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện: “1.Thẩm phán trả lại đơn
khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a, Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và
Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
b, Chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về
các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi
còn thiếu một trong các điều kiện đó”.
2.1.2. Chuẩn bị xét xử vụ án
Đây là bước tiếp theo sau khi đã thụ lý vụ án dân sự liên quan đến tranh
chấp thừa kế QSDĐ. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thời hạn tùy vào từng
trường hợp, thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:
Công nhận sự thỏa thuẩn của các đương sự;
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
Đưa vụ án ra xét xử.
38
Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Tòa án phải mở phiên tòa, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn
là 02 tháng, điều này được quy định bởi Điều 203 Bộ Luật tố tụng Dân sự
năm 2015.
2.1.3. Phiên tòa xét xử sơ thẩm giải quyết tranh chấp thừa kế quyền
sử dụng đất
Theo quy định tại Điều 196 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 phiên tòa
phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định
đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa trong trường hợp
phải hoãn phiên tòa: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án,
Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị đơn, cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho
Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án.
Thành phần tham dự phiên Tòa được quy định tại Điều 227 đến Điều
232 tại Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015, bao gồm: Đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan; người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch, kiểm
sát viên.
Tại phiên tòa xét xử sở thẩm giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ bao
gồm các nội dung sau:
Bước 1 là Chuẩn bị khai mạc phiên tòa (Điều 237 Bộ Luật Tố tụng dân
sự 2015): Đây là thủ tục của Thư ký Tòa án gồm các công việc như: Phổ biến
nội quy, xác định sự vắng mặt, có mặt theo giấy giới thiệu, ổn định trật tự,
yêu cầu mọi người đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào làm việc.
Bươc 2: Tiếp theo là thủ tục bắt đầu phiên tòa bao gồm các công việc
như sau:
Khai mạc phiên Tòa (Điều 239 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015)
39
+ Chủ tọa phiên tòa khai mạc và đọc quyết định đưa vụ án tranh chấp
thừa kế QSDĐ ra xét xử;
+ Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định
và người phiên dịch;
+ Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt;
+ Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng.
Bước 3 trong giai đoạn này là thủ tục tranh tụng tại phiên tòa:
Hỏi tại phiên tòa: Thứ tự hỏi tại phiên tòa được quy định tại Điều 249
Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015.
+ Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích của bị đơn, sau đó là
người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
+ Những người tham gia tố tụng khác;
+ Chủ tọa phiên tòa, hội thẩm nhân dân;
+ Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Thủ tục tranh luận tại phiên tòa được tiến hành theo quy định tại Điều
260 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015. Đây là hoạt động trọng tâm của phiên tòa,
bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước
tòa án.
Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án tranh chấp thừa kế
QSDĐ chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét
thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định việc trở lại hỏi và tranh luận
(Điều 263 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015).
Bước 4 là Nghị án và tuyên án tại phiên tòa: Nghị án ( Điều 264 Bộ
Luật Tố tụng dân sự 2015) là việc Hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải
quyết vụ án. Có thể trở lại việc hỏi và tranh luận ( Điều 265 Bộ Luật Tố tụng
dân sự 2015).
40
Tuyên án (Điều 267 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015), sau khi bản án đã
được thông qua, Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để tuyên án.
Như vậy, đó là toàn bộ các bước, các khâu trong quy trình xét xử sơ
thẩm vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án.
Trong tất cả các khâu của giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ
thì cần đặc biệt chú trọng tới công tác hòa giải trước và trong quá trình xét xử,
bởi vì các vụ án tranh chấp quyền thừa kế luôn có yếu tố nhân thân, huyết tộc
bên cạnh yếu tố tài sản. Các bên tham gia trong tranh chấp có quan hệ họ
hàng với nhau, có thể là anh chị em trong gia đình, cô, bác, chú, dì,… do đó,
họ có quan hệ huyết thống nhất định, bên cạnh pháp lý thì bên trong con
người họ vẫn còn có tình cảm gia đình, nếu như đánh thức phần tình cảm, yếu
tố văn hóa, phong tục trong họ thì vấn đề có thể được giải quyết nhẹ nhàng và
hiệu quả hơn là việc đưa nhau ra Tòa xét xử đến phân chia để rồi tình cảm
trong gia đình bị ảnh hưởng và đôi bên đều bị tổn thương.
2.2.Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án
cấp phúc thẩm
2.2.1. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị và thụ lý vụ án tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất để xét xử phúc thẩm
Trong HTPL thì kháng cáo chính là hành vi tố tụng sau khi xử sơ thẩm,
nếu đương sự không đồng ý với phán quyết của tòa sơ thẩm thì có quyền
kháng án. Thuật ngữ pháp lý gọi là kháng cáo, yêu cầu tòa cấp trên xét xử
một lần nữa theo trình tự phúc thẩm. Theo quy định tại Điều 273 Bộ Luật Tố
tụng dân sự năm 2015 có quy định về thời hạn kháng cáo như sau:
“1.Thời hạn kháng cao đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15
ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án
mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họnhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết.
41
Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà
không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.
2.Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơquan,
tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định
được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày
kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi
đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì
ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận”.
Trên là quy định chung đối với các vụ án dân sự khi có kháng cáo,
trong đó đối với giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án
cũng tuân thủ theo thời hạn và trình tự như trên.
Kháng nghị khác với kháng cáo, kháng nghị là hành vi tố tụng của
người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án,
quyết định của Tòa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác,
công bằng, đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của
Tòa án.
Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện
kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 01 tháng,
kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên Tòa thì
thời hạn kháng nghị tính từ ngày VKSND cùng cấp nhận được bản án.
Tại Điều 372 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cũng quy định về thời hạn
kháng cáo, kháng nghị như sau:
“1.Người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải
quyết việc dân sự có quyền kháng cáo quyết định giải quyết việc dân sự trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Trường hợp họ không có
mặt tại phiên họp giải quyết việc dân sự thì thời hạn đó được tính từ ngày họ
42
nhận được quyết định giải quyết việc dân sự hoặc kể từ ngày quyết định đó
được thông báo, niêm yết.
2.Viện Kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết
việc dân sự trong thời hạn 10 ngày, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền
kháng nghị trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.”
Saukhi các bên đương sự có kháng cáo lên Tòa phúc thẩm, trên cơ sở
những tình tiết, bản án và đơn kháng cáo, Tòa phúc thẩm tiếp nhận và giải
quyết khi nguyên đơn đáp ứng đầy đủ hồ sơ và tạm ứng án phí, thực hiện theo
đúng quy định về trình tự và thời hạn kháng cáo, kháng nghị nêu trên thì Tòa
phúc thẩm sẽ thụ lý vụ án giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ theo trình
tự của một vụ án giải quyết tranh chấp dân sự và tiến hành theo các quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Như vậy, trong giải quyết vụ án tranh chấp về thừa kế QSDĐ thì đương
sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ
thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Còn Viện trưởng VKSND cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền
kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự,
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của tòa sơ thẩm để yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Sau khi tiếp nhận kháng cáo, kháng nghị theo thời gian quy định, Tòa
phúc thẩm sẽ tổ chức thụ lý vụ án. Tại Điều 285 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015
quy định về thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm như sau:“1. Ngay sau khi nhân
được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa
án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải
thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
43
kiện và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và thông báo
trên cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
2.Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử phúc
thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa.”
Saukhi thụ lý vụ án, Tòa cấp phúc thẩm sẽ tổ chức tiến hành các bước
sau để tiến hành xét xử phúc thẩm theo quy định.
Bước 1 là khai mạc phiên tòa:về cơ bản các khâu chuẩn bị cũng giống
như khai mạc ở phiên tòa sơ thẩm. Ban đầu chủ tọa phiên tòa khai mạc và đọc
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau đó thư ký phiên tòa báo cáo Hội đồng xét
xử về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu
tập của Tòa án và lý do vắng mặt,… sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa
phúc thẩm thì một thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội
dung vụ án giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ, quyết định bản án sơ
thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Bước 2 là khâu hỏi về việc kháng cáo, kháng nghị và xử lý việc thay
đổi kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa. Ở đây chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi một số
vấn đề như: Nguyên đơn có tút đơn khởi kiện không? Người kháng cáo, kiểm
sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị không? Hỏi các
đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không?,…
Thông qua các câu hỏi đối với các bên liên quan tham gia phiên Tòa thì chủ
tọa phiên Tòa sẽ có biện pháp và hướng để xét xử hòa hòa giải đôi bên trong
tranh chấp.
Bước 3 quá trình trình bày của các đương sự, kiểm sát viên: Đây là lúc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo (hoặc đương sự
có kháng cáo) trình bày nội dung kháng cáo của mình với Tòa. Trong khi đó,
đâycũng là lúc kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị. Đồng thời, những
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khác có liên quan đến
kháng cáo, kháng nghị trình bày ý kiến của mình trước Tòa để chủ tọa phiên
tòa xém xét, giải quyết và đưa ra phán quyết.
44
Bước 4 là các thủ tục hỏi và công bố tài liệu, chứng cứ, xém xét vật chứng
tại phiên Tòa phúc thẩm. Tại đây chủ tọa sẽ tiến hành hỏi các đương sự, các
bên liên quan, thẩm tra thẩm định các tài liệu, chứng cứ để có thể có căn cứ
và cơ sở để đi đến phán quyết.
Bước 5 là tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm: Trường hợp có kháng cáo
thì tranh luận những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi
tại phiên tòa phúc thẩm. Tranh luận trong trường hợp có kháng nghị thì người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu về tính hợp pháp,
căn cứ của kháng nghị. Bên cạnh đó thì kiểm sát viên phát biểu ý kiến về
những vấn đề mà người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự đã nêu.
Bước thứ 6 là phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Ở giai
đoạn này thì sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp, kiểm sát viên phát
biểu ý kiến của VKSND về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự. Sau đó, khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản
phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.
Bước 7 là giai đoạn nghị án: Saukhi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng
xét xử vào phòng nghị án để nghị án trên cơ sở các nội dung của phiên tòa.
Bước 8 là giai đoạn tuyên án: Đây là giai đoạn cuối cùng của phiên tòa
phúc thẩm. Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án giải quyết tranh chấp về thừa kế
QSDĐ với sự có mặt của các đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức và cá nhân
khởi kiện. Trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa nhưng vắng mặt lúc
tuyên án thì Hội đồng xét xử vẫn tuyên đọc bản án.
2.2.2. Phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất
Có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác khi xem xét phạm vi xét xử phúc
thẩm, trong HTPL cũng chưa có khái niệm thống nhất về thuật ngữ này. Nhìn
chung, có thể hiểu rằng giới hạn hay phạm vi xét xử của Tòa án không phải là
vô cùng, vô hạn, thể hiện ý chí chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng mà nó
được luật hóa, bằng các quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào nội dung, tính
45
chất của vụ việc đưa ra xét xử. Nếu như trong tố tụng hình sự quy định giới
hạn xét xử của tòa án chính là phạm vi những người, những hành vi mà
VKSND truy tố trong cáo trạng và quyết định đưa ra xét xử. Chính yếu tố này
đã làm cho Tòa án luôn là cơ quan xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong tố tụng dân sự, vì tính chất của dân sự là việc riêng tư của đương sự,
cho nên bao giờ luật pháp cũng tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Tòa án
trong xét xử vụ việc dân sự chỉ là cơ quan đứng ra giải quyết những xung đột,
những sự kiện pháp lý mà đương sự cung cấp. Do vậy, khác với Tòa án hình
sự là dựa trên cáo trạng của VKSND thì trong tố tụng hình sự Tòa án xác định
phạm vi xét xử của mình dựa trên cơ sở yêu cầu của đương sự, thể hiện ở hình
thức là đơn kiện, đơn yêu cầu. Chính vì vậy, trên cơ sở sự đối chiếu và phân
tích nêu trên, cá nhân tác giả xin đưa ra khái niệm về phạm vi xét xử của Tòa
phúc thẩm trong vụ án dân sự như sau: Phạm vị xét xử của tòa án phúc thẩm
là thẩm tra và xem xét, xử lý một phần nội dung của các đương sự giải quyết
trên cơ sở yêu cầu của các bên có kháng cáo, kháng nghị một phần của tòa sơ
thẩm.
Trong giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ tại Tòa án, đề cập tới
phạm vi xét xử phúc thẩm thì chúng ta căn cứ vào quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự được quy định cụ thể tại điều 293 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015
quy định như sau: “Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần bản án sơ
thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có
liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”.
Bên cạnh đó tại Điều 294 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 cũng quy định
những người tham gia phiên tòa phúc thẩm như sau: “1. Người kháng cáo,
đương sự, cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan đến việc giải quyết kháng
cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
phải được triệu tập tham gia phiên tòa. Tòa án có thể triệu tập những người
tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa nếu xét thấy cần thiết cho việc giải
quyết kháng cáo, kháng nghị.
46
2.Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên tòa phúc thẩm.”
Như vậy có thể thấy rằng phạm vi xét xử phúc thẩm không phải là toàn
bộ bản án mà chỉ xét một phần của bản án sơ thẩm mà có phát sinh kháng
cáo, kháng nghị của các bên liên quan. Trình tự, thủ tục của phiên tòa phúc
thẩm giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐcũng được tiến hành như các
bước nêu trên sau khi đã thụ lý vụ án.
2.2.3. Thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm giải quyết tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất
Thẩm quyền của tòa án phúc thẩm trong vấn đề giải quyết tranh chấp
thừa kế QSDĐ chính là quyền hạn của tòa trong giải quyết các vấn đề liên
quan. Thầm quyền giải quyết các vụ việc dân sự của toàn phúc thẩm được
xem là quyền xem xét, giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định
khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của Tòa án.
Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành cũng quy định Tòa án nhân dân có quyền
thụ lý và giải quyết những vấn đề nhất định để giải quyết theo thủ tục tố tụng
dân sự. Đồng thời, khi giải quyết theo thẩm quyền Tòa phúc thẩm có quyền ra
các quyết định giải quyết về vụ việc đã thụ lý.
Hiện nay, theo quy định hiện hành thì Hội đồng xét xử tòa phúc thẩm là
Hội đồng bao gồm các thẩm phán và Hội thẩm nhân dân do Tòa án có thẩm
quyền lập ra để nhân danh Nhà nước trực tiếp xét xử tại phiên tòa các vụ án
và ra các bản án hoặc các quyết định đối với các vụ án. Trong việc giải quyết
tranh chấp về thừa kế QSDĐ là một vụ án dân sự, cũng nằm trong phạm vi
điều chỉnh và thẩm quyền của Hội đồng.
Xét xử phúc thẩm chính là việc xét xử lần thứ hai, trong đó Tòa án cấp
trên trực tiếp xét xử lại những bản án hoặc xét lại các quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Khi đó, tòa phúc thẩm
sẽ là chủ thể có vai trò trực tiếp thực hiện việc xét xử tại Tòa án cấp phúc
thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải là hội đồng có thành viên cố
47
định, chỉ những Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được phân công mới được
tập hợp lại thành Hội đồng xét xử trong mỗi vụ án riêng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Hội đồng xét xử phúc thẩm
có thẩm quyền sau: Tại Điều 308 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:
“Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm:
1.Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
2.Sửa bản án sơ thẩm;
3. Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án
cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo tục sơ thẩm;
4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;
5. Đình chỉ xét xử phúc thẩm;
6. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án Tòa án
nhân dân Tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi,
bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản trả lời Tòa án
kết quả xử lý”.
Qua đó có thể thấy rằng thẩm quyền của tòa án phúc thẩm quy định
tương đối chặt chẽ và cụ thể trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế
QSDĐ, một loại tranh chấp cơ bản trong các loại tranh chấp dân sự hiện nay.
Hội đồng phúc thẩm có quyền bác kháng cáo hoặc kháng nghị trong trường
hợp kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ và tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử
đúng. Bên cạnh đó, nếu qua xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật, thì Hội đồng
xét xử có thể sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngoài ra, Hội đồng
xét xử phúc thẩm có thể hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu
trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong
các trường hợp vi phạm quy định về xét xử sơ thẩm.
48
Nhìn chung, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt
là căn cứ vào Điều 308 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 thì chúng ta có thể hiểu
rõ và nắm được thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm trong việc giải quyết
tranh chấp dân sự nói chung và đối với các tranh chấp về thừa kế QSDĐ nói
riêng. Nếu như vượt quá thảm quyền của tòa phúc thẩm sẽ chuyển bản án và
vụ án lên cấp trên trực tiếp.
Tiểu kết chương 2
Tranh chấp trong các giao dịch dân sự hiện nay ngày một nhiều và trở
lên phổ biến trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Trên góc độ QLNN làm sao
giải quyết triệt để các xung đột, mâu thuẫn trong xã hội, đảm bảo cho xã hội
phát triển ổn định, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao. Tuy
nhiên, khi nền kinh tế thị trường phát triển thì các QHXH, các quan hệ kinh
tế, quan hệ dân sự cũng theo đó mà biến đổi hết sức phức tạp và phong phú,
mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là không thể phủ nhận, nó mang lại
nguồn của cải vật chất, tạo ngày càng nhiều việc làm và không ngừng nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Bên cạnh đó, nó cũng bộc lộ những
mặt hạn chế nhất định, đó là sự ganh đua, tranh giành lẫn nhau giữa các cá
nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế với nhau về lợi ích, quyền lợi vật chất,
khi có mâu thuẫn không giải quyết được bằng hòa giải sẽ dẫn tới kiện cáo,
khiếu kiện. Chính điều này đã đặt cho công tác quản lý nhà nước nói chung
và với ngành tòa án nói riêng nhiều vấn đề cần giải quyết.
Hiện nay, khi tiến hành giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề
dân sự thì Bộ Luật Dân sự và Luật tố tụng Dân sự năm 2015 chính là các văn
bản pháp luật cao nhất điều chỉnh các quan hệ dân sự, trong đó có các quan hệ
liên quan đến vấn đề tranh chấp về thừa kế QSDĐ. Trong chương 2, luận văn
đi vào tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện nay về giải quyết tranh chấp
về thừa kế QSDĐ tại Tòa án, đây chính những căn cứ pháp lý cơ bản và quan
trọng nhất, định hướng cho các bên tham gia giải quyết tranh chấp và là căn
49
cứ pháp lý để Tòa án tiến hành phân giải các tranh chấp về thừa kế QSDĐ.
Dựa trên những căn cứ pháp lý nói trên, sẽ là nền tảng cơ bản để tác giả luận
văn đi vào chương 3 tìm hiểu thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp thừa kế
QSDĐ của tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội giai đoạn
hiện nay. Đồng thời trên cơ sở tìm hiểu thực tiễn những thuận lợi, khó khăn
trong công tác xét xử của TAND quận mà tác giả cũng mạnh dạn đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi pháp luật, giải quyết
tranh chấp về thừa kế QSDĐ ở quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
50
Chương 3
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại
Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm
3.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội quận Bắc Từ Liêm
Quận Bắc Từ Liêm phí đông giáp với quận Tây Hồ, , phía đông nam
giáp với quận Cầu Giấy, phía Tây giáp với huyện Đan Phượng và Hoài Đức,
phía Nam giáp với quận Nam Từ Liêm, phía bắc giáp với huyện Đông Anh.
Quận được thành lập theo nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm
2013 của Chính phủ, trên cơ sở tách 9 xã: Thượng Cát, Liêm Mạc, Tây Tựu,
Thụy Phương, Minh Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế; 9,30
hét ta diện tích tự nhiên và 596 nhân khẩu của xã Xuân Phương; 75,48 hét ta
diện tích tự nhiên và 10.126 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn. Quận Bắc Từ
Liêm có tổng số diện tích là 43,35 km2, với tổng số dân là 333.300 người
(thống kê năm 2017 của UBND quận Bắc Từ Liêm).
Các đơn vị hành chính cơ bản của quận có 13 phường như: phường Cổ
Nhuế 1, Cổ Nhuế 2, Đông Ngạc, Đúc Thắng, Liêm Mạc, Minh Khai, Phú
Diễn, Phúc Diễn, Tây Tựu, Thượng Cát, Thụy Phương, Xuân Đỉnh và phường
Xuân Tảo. Hiện nay, trụ sở của UBND quận Bắc Từ Liêm đóng tại Tòa nhà
CT6A, khu đô thị Kiều Mai, đường Kiều Mai, phường Phúc Diễn, quận Bắc
Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu chung của quận là xây dựng đảng
bộ,các tổ chức thuộc đảng bộ trong sạch vững mạnh; xây dựng và phát huy
sức mạnh đoàn kết trong Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân;
khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng kinh tế - xã hội; đẩy mạnh thực hiện trật tự - văn minh đô thị, phát triển
51
giao thông đô thị, phát triển kinh tế bền vững, cơ cấu hợp lý, văn hóa xã hội
tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thân của nhân dân được nâng cao; an ninh
chính trị - trật tự an toàn được giữ vững; thế trận an ninh nhân dân và quốc
phòng toàn dân được vững chắc; hướng tới xây dựng quận Bắc Từ Liêm trở
thành đô thị Sạch - xanh – hiện đại của Thủ đô Hà Nội.
Về thuận lợi: Tình hình chính trị - xã hội của đất nước và Hà Nội luôn
được giữ vững và ổn định; quận Bắc Từ Liêm luôn nhận được sự quan tâm
của lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sắc của thành ủy HĐND-UBND
thành phố, sự giúp đỡ, phối hợp tích cực của các Sở, ban, ngành, MTTQ và
các đoàn thể của thành phố, quận Bắc Từ Liêm đã được quy hoạch, phân khu
đã được phê duyệt, quận có sự đoàn kết thống nhất trong đảng và hệ thống
chính trị từ quận đến cơ sở, nhân dân đoàn kết, đồng thuận tin tưởng và sự
lãnh đạo của đảng, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Về khó khăn: Hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh
tế còn gặp nhiều khó khăn, do suy thoái kinh tế chưa được phục hiooir, thêm
nữa do ảnh hưởng của dịch bệnh kéo dài làm sản xuất kinh doanh buôn bán
trên địa bàn bị hạn chế. Quận vẫn là đơn vị hành chính có quy mô dân số lớn,
tốc độ tăng cơ học và yêu cầu về đảm bảo an sinh xã hội cao; một số phát sinh
trong việc thực hiện chính sách đất đại, thừa kế có tính lịch sử từ nhiều năm
trước phải giải quyết sẽ tiếp tục phát sinh, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao
thông còn chưa phát triển,… đây đều là những khó khăn, trở ngại không hề
nhỏ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quận trong thời gian tới.
Trên cơ sở phát huy những thận lợi, khắc phục khó khăn, trong thời
gian qua quận cũng đã tiến hành xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội đạt
được những kết quả khả quan. Thực hiện chương trình 03-CTr/TU của Thành
uỷ Hà Nội về “Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế Thủ đô nhanh,
bền vững giai đoạn 2016 - 2020”, kinh tế của quận phát triển nhanh, ổn định;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành
52
thương mại - dịch vụ, công nghiệp – xây dựng và giảm giá trị sản xuất ngành
nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản.
Theo đó, năm 2016, giá trị sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng đạt
18.911 tỷ đồng; thương mại - dịch vụ đạt 5.870 tỷ đồng; nông nghiệp, lâm
nghiệp, thuỷ sản đạt 817 tỷ đồng. Sau 3 năm thực hiện Chương trình 03-
CTr/TU, đến hết năm 2018, giá trị sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng đạt
24.762 tỷ đồng (tăng 30,94%); thương mại - dịch vụ đạt 8.454 tỷ đồng (tăng
44%); nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản đạt 793 tỷ đồng (giảm 2,9%).
Ngoài ra, môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, tạo sự thuận
lợi để các doanh nghiệp khởi nghiệp, đầu tư đổi mới công nghệ và từng bước
hội nhập quốc tế. Quận đang triển khai chính thức 40 dịch vụ công trực tuyến.
Từ khi triển khai đến nay, tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến luôn đạt 100% trên tất cả
các lĩnh vực. Thực hiện hồ sơ đăng ký kinh doanh được giải quyết trong 2
ngày làm việc (giảm 33% so với quy định) đối với quá trình giao dịch trên
mạng; 100% hồ sơ khiếu nại của người nộp thuế được giải quyết đúng thời
gian quy định; thủ tục đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản tại quận được
đơn giản và rút ngắn còn dưới 14 ngày.
Bên cạnh đó, các dự án đường giao thông lớn (từ đại học Mỏ địa chất
đi Phạm Văn Đồng, đường Khu công nghiệp Nam Thăng Long đi vành đai
4…) đã hoàn thiện và đi vào hoạt động. Đổi mới, hỗ trợ phát triển làng nghề
truyền thống hoa Tây Tựu và hình thành vùng liên kết sản xuất nông nghiệp
kết hợp với phát triển du lịch. Thực hiện tốt khâu đột phá về huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Thực hiện các biện
pháp và giải pháp điều hành chi ngân sách tiết kiệm, hiệu quả để phục vụ kịp
thời các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đề ra…
Với những tiềm năng về kinh tế, xã hội, về con người, về vị trí địa lý là
quận giáp với các tỉnh xung quanh thành phố Hà Nội, tất cả tạo thành thế
mạnh vốn có của quận trọng xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội theo hướng
hiện đại, nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân, qua đó
53
nâng cao ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật của người dân, người dân
hiểu biết về pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật qua đó sẽ giảm tải
được các vấn đề vi phạm pháp luật, các tranh chấp không đáng có, qua đó làm
cho ngành tòa án ở quận bớt gánh nặng, khi giải quyết cũng sẽ nâng cao hiệu
quả trong giải quyết tranh chấp ở địa phương, đặc biệt là các vấn đề tranh
chấp về đất đai, về thừa kế QSDĐ như hiện nay.
3.1.2. Cơ cấu tổ chức của TAND quận Bắc Từ Liêm
Theo quy định của pháp luật hiện nay, cơ cấu tổ chức của TAND quận
Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội bao gồm có: 01 chánh án và 3 phó chánh án,
thẩm phám, thư ký tòa án.
Chánh án: Chánh án toà án nhân dân quận do Chánh án TAND tối cao
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức với nhiệm kỳ bổ nhiệm có thời hạn là 05
năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Chánh án TAND quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà
Nội có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Thứ nhất, tổ chức công tác xét xử của TAND quận Bắc Từ Liêm, TP.
Hà Nội.
Thứ hai, chịu trách nhiệm về tổ chức thực hiện nguyên tắc Thẩm phám,
Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
Thứ ba, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân có thẩm quyền theo
luật định và TAND thành phố Hà Nội;
Thứ tư, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng;
giải quyết các vụ việc khác theo quy định của pháp luật.
Các Phó chánh án: Các Phó chánh án TAND quận Bắc Từ Liêm, TP.
Hà Nội do chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức với
nhiệm kỳ bổ nhiệm có thời hạn là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Các
phó chánh án TAND quận Bắc Từ Liêm giúp chánh án thực hiện nhiệm vụ
theo sự phân công của chánh án. Trong trường hợp Chánh án TAND quận
vắng mặt, một Phó chánh án được Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của
Tòa án. Phó chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được
giao theo quy định. Đồng thời, các phó chánh án cũng thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng hiện hành.
54
Thẩm phán:Thẩm phán TAND quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội là
những người đủ điều kiện, tiêu chuẩn được Chủ tịch nước bổ nhiệm với
nhiệm kỳ là 05 năm để thực hiện nhiệm vụ xét xử các vụ án, vụ việc theo quy
định của pháp luật.
Thư ký Tòa án:Thư ký TAND quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội tối
thiểu có trình độ cử nhân luật trở lên được Chánh án TAND thành phố Hà Nội
tuyển dụng, đào tạo về nghiệp vụ, chuyên môn nhất định về lĩnh vực Thư ký
Tòa án và được bổ nhiệm vào ngạch Thư ký Tòa án để làm Thư ký phiên Tòa,
tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của luật tố tụng, thực hiện các
nhiệm vụ hành chính, tư pháp và nhiệm vụ khác theo sự phân công của chánh
án TAND quận.
3.1.3. Những kết quả đạt được trong công tác xét xử từ Tháng 6 năm
2015 đến nay.
Trên cơ sở những điều kiện thuận lợi trên, trong những năm qua công
tác xét xử của toàn án nhân dân quân Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã đạt
một số nội dung đáng khả quan. Hàng năm TAND quận giải quyết một lượng
lớn các vụ án, đặc biệt là các vụ án lĩnh vực đất đai và tranh chấp thừa kế về
QSDĐ. Sau đây là bảng số liệu về tổng số các vụ án đã qua xét xử ở Tòa án
quận thời gian qua.
Bảng 3.1: Tổng số vụ án Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm giải quyết
từ năm 2015 đến năm 2019
Năm
2015
2016
2017
2018
Vụ án
2019 Tổng
720 815 930 905 910 4280
Tổng số vụ án đang thụ lý
Tổng số vụ án đã
690 798 916 820 860 4084 giải quyết
(Nguồn: Theo báo cáo hoạt động Tòa án nhân dân quân Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội)
55
Nhìn vào bảng số liệu nêu trên có thể nhận thấy rằng công tác xét xử
của TAND quận trong thời gian qua là rất lớn với tổng số 4280 vụ án trong
giai đoạn 5 năm từ năm 2015 đến 2019. Trong đó số vụ án đã giải quyết với
tổng số 4084 vụ án, chiếm 95,4% tổng số vụ án đã giải quyết, tỷ lệ giải quyết
án rất cao, điều đó cho thấy năng lực cũng như thực tế xét xử của TAND quận
là rất hiệu quả. Trong từng năm có sự chênh lệch khác nhau về tổng số vụ án
và tỷ lệ giải quyết vụ án, tuy nhiên xét về tổng thể cả giai đoạn thì đây chính
là thắng lợi lớn của TAND quận. Trong thời gian tới, TAND quận cần phát
huy hơn nữa vai trò của mình trong việc tiếp nhận và giải quyết vụ án, nhất là
những vụ án về dân sự ngày càng nhiều và phức tạp do cuộc sống luôn biến
đổi và các quan hệ xã hội không ngừng vận động thay đổi mà hệ thống văn
bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ thì lại đứng yên tương đối, sự cập nhất,
bổ sung văn bản trong xét xử trong thời gian tới là rất quan trọng để điều
chỉnh các QHXH, nhất là các quan hệ về thừa kế tài sản. Đồng thời năng lực
xét xử của đội ngũ những người làm về công tác Tòa án ở quận cũng không
ngừng được nâng cao và cập nhật những kiến thức mới.
Riêng về giải quyết các vụ án dân sự lĩnh vực tranh chấp về thừa kế
QSDĐ trên địa bàn trong thời gian qua cũng ghi nhận số lượng và kết quả giải
quyết công việc đạt hiệu quả cao, lượng án tồn đọng ít, chất lượng giải quyết
cao, thỏa đáng.Dựa theo như bảng số liệu về tổn hợp các vụ án về tranh chấp
thừa kế QSDĐ ở quận Bắc Từ Liêm như sau:
Bảng 3.2: Số vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
quận Bắc Từ Liêm giải quyết từ 2015 đến 2019
Năm 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng
Vụ án
Tổng số vụ án dân sự thụ lý 165 250 360 286 275 1336
Số vụ án tranh chấp thừa kế Quyền sử dụng đất 105 170 253 187 198 913
(Nguồn: Thực tế hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội)
56
Như vậy, trong thời gian từ năm 2015 đến 2019 TAND quận Bắc Từ
Liêm, thành phố Hà Nội đã thụ lý và giải quyết số lượng các vụ án dân sự lớn,
tổng số lên đến 1336 vụ án tranh chấp lĩnh vực dân sự, trong đó các vụ ánliên
quan đến tranh chấp thừa kế QSDĐ là 913 vụ án, chiếm 68,4% tổng số vụ án
dân sự của quận. Vì vậy, giải quyết tranh chấp liên quan đến thừa kế QSDĐ,
tranh chấp về đất đai trở nên nổi cộm và phức tạp hơn, một số vụ án còn xảy
ra tình trạng kéo dài, vượt cấp, nhiều năm giải quyết chưa triệt để. Do đó,
trong thời gian tới cần đặc biệt chú trọng tới công tác giải quyết tranh chấp về
đất đai, đặc biệt là về tranh chấp về thừa kế QSDĐ và tài sản gắn liền với đất,
tài sản thừa kế.
3.1.4. Những sai sót dẫn đến sửa án, hủy bản án tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất tại Tòa án Hà Nội và TAND quận Bắc Từ Liêm.
Ví dụ 1. Giải quyết tranh chấp chia thừa kế tài sản và đòi tiền bồi thường
Nguyên đơn: Bà L, sinh năm 1959;
Bị đơn: Ông D, sinh năm 1964;
Giải quyết tại tòa án sơ thẩm.
1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2.
Bà T, sinh năm 1970;
3.
Anh Kh, sinh năm 1990;
4.
Bà D, sinh năm 1966;
5.
Chị L, sinh năm 1990;
6.
Anh B, sinh năm 1989
Chị A, sinh năm 1988;
Giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm, Phúc thẩm.
TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 05/4/2012 và quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn bà L trình bày:
Cụ Tr, sinh năm 1926 (chết năm 2007) và cụ Ph, sinh năm 1927 (chết
năm 1999) là vợ chồng. Do hai cụ không có con nên nhận nuôi 03 người con
57
gồm: Bà L, ông C, ông Th (ông Th chết năm 2001, có vợ là bà Nguyễn Thị T
và con là Nguyễn Ngọc Kh).
Cụ Tr và cụ Phchết không để lại di chúc, di sản hai cụ để lại hiện tại ông
C đang quản lý, sử dụng gồm: 243m2 đất ở tại thửa 109 tờ bản đồ số 32, thôn
A, xã B, huyện C; trên đất có các tài sản là nhà 3 gian cấp 4 đã cũ, 01 bếp, 01
chuồng lợn, 01 nhà tắm và 01 nhà xây hai tầng (nhà hai tầng xây năm 2002).
Ngoài ra, cụ Tr còn 01 suất đất % (đất rau xanh) và 01 suất đất nông
nghiệp được chia theo Nghị định 64/1999/CP; cụ Ph chỉ có 01 suất đất % (đất
rau xanh). Đất % (đất rau xanh) của hai cụ, Nhà nước đã thu hồi toàn bộ, còn
diện tích đất nông nghiệp của cụ Tr đã bị Nhà nước thu hồi một phần hiện còn
lại diện tích là 31m2.
Ngoài các tài sản trên, hai cụ không còn tài sản nào khác. Các tài sản
khác còn lại trên đất là của vợ chồng ông
Khi cụ Tr và cụ Ph còn sống, ba chị em bà sống chung cùng hai cụ, đến
năm 1993 thì vợ chồng ông D tách sổ hộ khẩu riêng nhưng vẫn sống chung
trên cùng nhà, đất của hai cụ.
Do gia đình đông người, nhà cũ bị hư hỏng nên khoảng năm 2001-2002,
cụ Tr đã chuyển nhượng cho bà T (vợ ông Th) 48m2 đất ở vị trí đầu ngõ với
giá 32.000.000 đồng, số tiền này cụ Tr dùng vào việc xây nhà hai tầng vào
năm 2002. Việc cụ Tr bán đất cho bà T và xây nhà bà chỉ nghe kể lại chứ
không biết cụ thể, khi cụ Tr xây nhà bà không tham gia, không đóng góp vì bà
ở nơi khác.
Năm 2003, ông D tự ý kê khai và được UBND huyện C cấp giấy chứng
nhậnQSDĐ đối thửa đất nêu trên mang tên hộ gia đình ông D, việc ông D
được cấp giấy chứng nhận QSDĐ sau này bà mới biết.
Năm 2007, cụ Tr chết bà về lo mai tang thì bị ông D ngăn cản. Việc ông
D trình bày là cụ Tr trước khi chết có di chúc để lại tài sản cho ông D là
không đúng sự thật.
Năm 2008, UBND huyện C thu hồi đất để làm cầu, trong đó có cả suất
58
đất 10% và đất nông nghiệp. Ông D đã trực tiếp đi nhận tiền 291.000.000
đồng/1 sào (360m2) nhưng ông D chỉ trả bà 63.794.000 đồng là tiền thu hồi
đất nông nghiệp, còn tiền bồi thường đất 10% thì ông D chưa trả bà.
Năm 2010, UBND huyện C có hỗ trợ thêm đối với các hộ bị thu hồi đất,
cụ thể bao nhiêu tiền và đối với loại đất nào thì bà không biết, nhưng tổng hai
lần là 56.700.000 đồng/ 01 suất.
Bà xác định QSDĐ ở diện tích 243m2 tại thửa 109 tờ bản đồ số 32, thôn
A, xã B, huyện C và 01 nhà hai tầng, 01 nhà ba gian cấp bốn cũ, 01 nhà tắm
cũ, 01 chuồng lợn cũ, 01 nhà bếp cũ là tài sản chung của cụ Ph và cụ Tr.
1. Chia di sản thừa kế của cụ Tr để lại theo quy định pháp luật gồm:
Nay bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:
Diện tích 120m2 đất ở và V2 giá trị của các tài sản có trên đất gồm 01
nhà hai tầng, 01 nhà ba gian cấp bốn cũ, 01 nhà tắm cũ, 01 chuồng lợn cũ, 01
nhà bếp cũ; yêu cầu chia thừa kế QSDĐ bằng hiện vật để bà sử dụng.
Số tiền bồi thường do thu hồi đất % (đất rau xanh) và đất nông nghiệp là
56.700.000 đồng + 58.000.000 đồng.
Diện tích đất nông nghiệp còn lại của cụ Tr là 31 lm2, yêu cầu chia bằng
Ông nhất trí với lời trình bày của bà L về quan hệ gia đình, thời điểm cụ Tr và
cụ Ph mất.
Về nguồn gốc thửa đất hiện nay ông đang quản lý, sử dụng mà bà L trình
bày nêu trên là của các cụ đời trước để lại cho cụ Tr và cụ Ph quản lý, sử
dụng và ông cũng thừa nhận đây là tài sản chung của cụ Ph và cụ Tr.
Ông thừa nhận di sản của cụ Trvà cụ Ph để lại mỗi người có 01 suất %
(đất rau xanh) đã bị Nhà nước thu hồi toàn bộ và ông đã nhận tiền bồi thường;
ngoài ra, cụ Tr có 01 suất đất nông nghiệp được cấp theo Nghị định 64/1999/CP
đã bị Nhà nước thu hồi một phần, hiện nay còn lại diện tích là 31 m2.
Ngoài ra, trên đất còn có một số công trình khác như bếp, khu vệ sinh,
nhà tắm, cổng sắt, giếng khoan, sân gạch trước nhà hai tầng là tài sản của vợ
chồng ông.
59
Năm 1993, gia đình ông đã làm thủ tục tách sổ hộ khẩu riêng, còn hai cụ
vẫn chung sổ hộ khẩu với ông Th, bà L, nhưng thực tế thì vợ chồng ông vẫn
sống chung với cụ Ph và cụ Tr trên thửa đất hai cụ để lại, còn ông Th đã xây
nhà ở nơi khác, bà L thì ở nơi khác không có mặt tại địa phương.
Về đất sản xuất nông nghiệp: Năm 1987, Nhà nước điều chỉnh từ đất 5%
lên đất 10%. Do bà L không có mặt tại địa phương từ năm 1980 nên không
thuộc diện được cấp lại đất % (đất rau xanh). Việc bà L trình bày bà được cấp
đất % là không đúng.
Việc bà L trình bày cụ Tr chuyển nhượng đất cho bà T (vợ ông Th) để
lấy tiền xây nhà hai tầng là không đúng, do ông Th đã chết năm 2001 mà ông
Th có con trai nên cụ Trđã tặng cho hai cháu để làm nhà ở.
Năm 2003, Nhà nước có chính sách kê khai cấp giấy chứng nhận QSDĐ,
khi đó cụ Tr vẫn còn sống và đã đồng ý cho ông được toàn quyền sử dụng
thửa đất, vì vậy ông đã trực tiếp đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận
QSDĐ và đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình
ông do ông đại diện đứng tên.
Năm 2008, UBND huyện C thu hồi đất 10% và đất nông nghiệp để làm
cầu, ông là người trực tiếp đi nhận tiền bồi thường và đã đưa cho bà L ba đợt
tổng cộng là 63.794.000 đồng tiền bồi thường đất nông nghiệp được cấp theo
Nghị định 64/1999/CP tương đương với 01 suất của bà L, bà L không được
cấp đất 10% nên không có tiền bồi thường.
Cụ Ph chết năm 1999 không để lại di chúc. Cụ Tr chết năm 2007 có để
lại di chúc bằng văn bản có xác nhận của 03 người làm chứng và chứng thực
của UBND xã B với nội dung giao cho ông được toàn quyền sử dụng 243m2
đất ở và tài sản gắn liền trên đất cũng như toàn bộ diện tích đất nông nghiệp.
Bà L không được hưởng quyền lợi vì đã bỏ nhà đi từ năm 1980 không quan
tâm đến bố mẹ, khi cụ Tr chết bà L cũng không về lo mai táng và không có
trách nhiệm gì.
Nay bà L khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Tr để lại, ông
60
không nhất trí vì cụ Tr đã để lại di chúc như trên cho ông, còn nhà 02 tầng là
do vợ chồng ông xây dựng không có sự đóng góp của cụ Tr.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T, chị L, anh D, chị L, chị A
nhất trí với lời khai của ông D.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T, anh Khđề nghị Tòa án giải
quyết theo quy định của pháp luật. Vì lý do công việc xin vắng mặt toàn bộ
quá trình giải quyết vụ án.
1. Không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của bà L.
2. Xác nhận thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32 có địa chỉ tại thôn A, xã B
Tại Bản án dân sự sơ thẩm, phúc thẩm đã quyết định:
huyện C có diện tích 240m2 và giá trị các tài sản có trên đất là: 01 nhà bếp cũ,
01 nhà tắm cũ, 01 nhà cấp bốn cũ, 01 nhà chăn nuôi lợn cũ là tài sản chung
3. Xác nhận di sản của cụ Ph gồm: Quyền sử dụng 120m2 đất ở trong
của cụ Tr và cụ Ph.
tổng số 240m2 của thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32 có địa chỉ tại thôn A, xã
B, huyện C; Vi giá trị các tài sản có trên đất là nhà cấp 4 cũ, nhà bếp cũ, nhà
tắm cũ, nhà chăn nuôi lợn cũ có giá trị là: V2 X (2.311.000 đồng + 2.466.000
đồng + 7.216.000 đồng + 5.974.000 đồng) = 1-7.967.000 đồng và 56.700.000
4. Xác nhận di sản của cụ Tr gồm: Quyền sử dụng 120m2 đất ở trong
đồng tiền bồi thường do thu hồi đất % (đất rau xanh).
tổng số 240m2 của thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32 có địa chỉ tại thôn A, xã
B, huyện C và Vi giá trị các tài sản có trên đất có giá trị là: V2X (2.311.000
đồng + 2.466.000 đồng +đồng + 5.974.000 đồng) = 17.967.000 đồng; 01 suất
đất sản xuất nông nghiệp là đất được giao theo Nghị định 64/1999 của Chính
phủ tương ứng với 31 m2 sau khi bị thu hồi đất; 56.700.000 đồng tiền bồi
thường do thu hồi đất % (đất rau xanh) và 58.000.000 đồng tiền bồi thường
5. Ông C được hưởng di sản thừa kế theo di chúc của cụ Tr gồm: Quyền
đất 64/CP.
sử dụng 120m2 đất ở của thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32 có tổng diện tích
61
240m2 có địa chỉ tại thôn A, xã B, huyện C đã được UBND huyện C cấp giấy
chứng nhận QSDĐ có số vào sổ cấp Giấy chứng nhận: 1247/QSDĐ ngày
27/10/2003 mang tên hộ gia đình ông D; diện tích 31 m2 đất sản xuất nông
nghiệp (đất 64/1999/CP) có địa chỉ tại thôn A, xã B, huyện C đã được UBND
huyện C cấp giấy chứng nhận QSDĐ có số vào sổ cấp Giấy chứng nhận:
6. Ông D và gia đình được quyền sở hữu và sử dụng các tài sản có trên
0636/QSDĐ ngày 24/5/2000 mang tên hộ gia đình ông D.
đất gồm 03 gian nhà cấp bốn cũ, 01 nhà bếp cũ và 01 nhà tắm cũ, 01 nhà chăn
nuôi lợn cũ đã đổ nát, hư hỏng, hiện chỉ còn tường bao quanh; 01 giếng khoan
và 01 nhà hai tầng làm năm 2002; 01 khu công trình phụ, 01 sân lát gạch chỉ
trước nhà hai tầng, 01 sân láng xi măng trước nhà tắm cũ làm năm 2009 tọa
7. Tạm giao cho ông D quản lý 120m2 đất ở của thửa đất số 109, tờ bản
lạc trên thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32, thôn A, xã B, huyện C.
đồ số 32 có tổng diện tích 240m2 có địa chỉ tại thôn A, xã B, huyện C đã được
UBNDhuyện C cấp giấy chứng nhận QSDĐ mang tên hộ gia đình ông D và
Vi giá trị các tài sản có trên đất là nhà cấp 4 cũ, nhà bếp cũ, nhà tắm cũ, nhà
chăn nuôi lợn cũ có giá trị là: V2X (2.311.000 đồng + 2.466.000 đồng +
7.216.000 đồng + 5.974.000 đồng) =17.967.000 đồng và 56.700.000 đồng
tiền bồi thường do thu hồi đất % (đất rau xanh) là di sản của cụ Ph để lại do
8. Về án phí sơ thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thấm cho bà L. Bà
hết thời hiệu chia thừa kế.
L được nhận lại số tiền 7.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai
9. Về án phí phúc thẩm: Bà L không phải chịu. Hoàn trả bà L số tiền
0007201 ngày 02/7/2012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C.
200.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 05222 ngày 09/6/2014 của Chi
cục thi hành án dân sự huyện C.
Bác các yêu cầu khác của các bên đương sự.
Như vậy, thông qua ví dụ nêu trên cho thấy việc xác định người thừa
hưởng di sản thừa kế là vấn đề rất quan trọng, dẫn đến những hạn chế trong
62
xét xử. Thứ nhất, khi xác định chưa chính xác sẽ dẫn tới hướng giải quyết
chưa hợp lý và chưa đúng pháp luật sẽ dẫn tới các hệ lụy khác trong việc triển
khai thực hiện giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ và tranh chấp tài sản liên
quan đến đất đai rất phức tạp.
Thứ hai, là việc xác minh chưa chính xác di sản thừa kế trong giải
quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, trong vụ án kể trên, do xác
định đất nhà ở và đất vườn, thuộc diện đất 10% còn chưa hợp lý, dẫn đến các
bên có quyền và lợi ích liên quan xung đột và tranh chấp, dẫn đến kiện ra Tòa
sơ thẩm, rồi Tòa phúc thẩm vẫn chưa được giải quyết hợp lý.
Thứ ba, việc chứng thực của UBND xã B không thể hiện được ghi vào
sổ chứng thực nên việc chứng thực này là không đúng quy định tại Điều 11,
khoản 1 Điều 41 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính
phủ về công chứng, chứng thực.
Thứ tư, do chưa đủ căn cứ xác định Bản di chúc ngày 09/8/2006 thể
hiện đúng ý chí của cụ Tr. cần thu thập thêm mẫu chữ ký của cụ Tr đế tiến
hành giám định, làm rõ chữ ký tại Bản di chúc có đúng là của cụ Tr hay
không. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của
người làm chứng để công nhận án di chúc ngày 09/8/2006 là hợp pháp và chia
thừa kế di sản của cụ Tr theo di chúc là chưa đủ cơ sở vững chắc.
Chính vì vậy, cách thức giải quyết phân chia thừa kế và tài sản của Tòa
án chưa hợp lý, bị các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan kiến
nghị tới cấp Tòa Giám đốc thẩm.
Vụ án 2. Giải quyết tranh chấp thừa kế
Nguyên đơn: Bà Th, sinh năm 1958;
Bị đơn: Ông X, sinh năm 1964;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà L, sinh năm 1952;
2. Bà B, sinh năm 1962;
3. Bà Đ, sinh năm 1970;
63
4. Anh D, sinh năm 1996;
5. Bà L, sinh năm 1971;
Giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm.
TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/02/20ỉ6 và trong quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn là bà Th trình bày:
Bố mẹ bà là cụ Th và cụS sinh được 06 người con là bà L, bà Th, bà B,
ông X, bà Đ và bà H (bà H chết năm 1997).
Năm 1977, cụ Th chết không để lại tài sản. Sau khi cụ Th chết thì cụ
Stạo dựng được khối tài sản là thửa đất số 290 tờ bản đồ số 06 (theo bản đồ
299) diện tích 609m2 tại thôn A, xã B, huyện C. Trên đất có 1 bể nước, 1
giếng cũ và một số cây cối do cụ S trồng.
Năm 2013, cụ S chết, phần lớn diện tích đất của cụ S để lại do vợ
chồng ông X, bà Lquản lý, sử dụng, một phần nhỏ còn lại do anh D (con bà
H) quản lý, sử dụng.
Quá trình sử dụng vợ chồng ông X, bà L xây dựng căn nhà 2 tầng và
công trình phụ trên phần lớn diện tích đất. Còn một phần đất thì cháu D làm
nhà ở. Khi còn sống cụ S ở với vợ chồng ông X, bà L; khoảng 2 năm trước
khi chết cụ Sủ ở cùng với cháu D.
Sau khi cụ S chết, bà và các chị em gái cùng cháu H đều thống nhất
chia diện tích đất của cụ S để lại nhưng ông X không đồng ý vì cho rằng ông
X là con trai duy nhất ở với mẹ, phần diện tích đất ông đang sử dụng bố mẹ
đã cho ông X nên là của ông và ông X đã được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất năm 2003.
Bị đơn là ông X trình bày:
Ban đầu ông X không đồng ý vói yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì
cho rằng ông là con trai duy nhất trong gia đình thì đương nhiên được hưởng
di sản của mẹ. Từ năm 1992 ông kết hôn với bà L và vợ chồng ông ở cùng
với mẹ. Năm 2009, mẹ ông đồng ý cho vợ chồng ông phá căn nhà cấp 4 cũ đế
64
xây nhà 2 tầng kiên cố và công trình phụ như hiện nay. Khi chuẩn bị làm nhà
thì ông mới biết đất đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ mang tên vợ chồng
ông, do bà L vợ ông đưa. Ông không kê khai, đăng ký và ông cũng không biết
ai là người đã kê khai, đăng ký xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ.
Sau đó ông X thay đổi lời khai: ông thừa nhận mẹ ông để lại diện tích
đất và tài sản trên đất như bà Th trình bày. Ông không phải là người kê khai,
đăng ký xin cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Ông cũng không nghe mẹ ông nói
cho vợ chồng ông đất. Khi còn sống cụ S chưa tuyên bố và chưa làm thủ tục
tách đất cho vợ chồng ông. Khi xảy ra tranh chấp ông mới biết đất đã được
cấp Giấy chứng nhận QSDĐ mang tên vợ chồng ông. Ông đề nghị hủy Giấy
chứng nhận QSDĐ mang tên vợ chồng ông. Ông xác định bà L là vợ ông
không hợp tính với mẹ ông nên vợ chồng ông không ở chung với cụ S. Khi cụ
S còn sống không ai phải chăm sóc cụ, vợ chồng ông cũng không đón cụ lên
ở căn nhà mới xây, mà cụ vẫn ở tại căn nhà cũ do bà H xây dựng.
Ông đề nghị chia đều di sản của mẹ là diện tích đất ở cho các con.
Riêngphần đất ông được chia, ông đề nghị giao phần đất trên có nhà và công
trình xây dựng của vợ chồng ông.
- Bà L trình bày: Bà thừa nhận nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
của cụ S như nguyên đơn trình bày. Bà kết hôn với ông X năm 1992 và vợ
chồng bà về ở trên đất cùng với cụ S. Năm 2009, cụ S đồng ý cho vợ chồng
bà phá căn nhà cấp 4 đã cũ để xây căn nhà 2 tầng cùng công trình phụ như
hiện nay. Trước khi xây nhà khoảng một năm cụ S có đưa cho bà Giấy chứng
nhận QSDĐ mang tên vợ chồng bà. Giấy chúng nhận QSDĐ này do cụ Skê
khai và tách đất cho vợ chồng bà. Còn phần đất cháu D đang sử dụng, cụ S có
nói tách đất cho cháu D nhưng bà không rõ đã tách chưa. Khi còn sống cụ S
có nói phần đất của cháu D đã được cấp giấy chúng nhận QSDĐ nhưng bà
không được nhìn thấy. Do vợ chồng bà sống chung với cụ Snên bà yêu cầu
tính công sức chăm sóc, nuôi dưõng mẹ; nhung sau đó bà khai không yêu cầu
65
- Bà Đ, bà L, bà B, anh D thống nhất trình bày: Đồng ý với lời trình
đối với khoản chi phí mai táng, chăm sóc nuôi dưỡng mẹ.
bày của nguyên đơn, xác định đất có nguồn gốc của cụ S đế lại, chưa cho vợ
chồng ông X, bà L và chưa cho cháu H nên yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ
S. Yêu cầu hủy Giấy chúng nhận QSDĐ cấp cho vợ chồng ông X, bà L.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2017/DS-ST ngày 28/6/2017quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Th về chia thừa kế di sản của cụS
theo pháp luật và hủy giấy chúng nhận QSDĐ.
Chấp nhận sự tự nguyện của nhũng người thừa kế không yêu cầu giải
quyết đối với 01 bể nước, 01 "giếng đào, chuồng chăn nuôi, 07 cây na, 01 cây
hồngxiêm, 01 cây vải, 02 cây nhãn, 01 cây dừa, 04 cây cau, 01 cây mít, 01
cây bưởi, 04 bụi chuối, tường bao quanh toàn bộ thửa đất do cụ S để lại.
Chấp nhận sự tự nguyện của anh D không yêu cầu giải quyết đối với
01 nhà 2 gian cấp 4, 01 bếp, 01 sân láng vữa xi măng, tường bao 3 mặt (Bắc,
Đông, Nam) do bà H xây dựng.
Không chấp nhận việc đối trừ 57m2 (tiêu chuẩn 721 còn thiếu của ông
X, bà L) và 220m2 (trừ tiêu chuẩn đất 721 ghi trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất) vào đất ở của cụ S.
1. Xác định khối di sản thừa kế cụ S để lại là diện tích 643,2m2 đất ở trị
giá 2.536.800.000 đồng.
Ông X, bà Th, bà B, bà Đ, bà L, anh D, mỗi người hưởng phần di sản
được chia giá trị là 422.800.000 đồng.
Về đất:
Chia cho ông X được quyền sử dụng diện tích 201m2 đất ở; kích thước
các cạnh phía Bắc dài (3,8m + 5,7m) giáp đường bê tông; phía Đông dài
22,6m, giáp phần đất chia cho bà L; phía Nam dài 9,3m, giáp đất ông B; phía
Tây dài 20,4m, giáp phần đất chia cho bà Th; trên đất là toàn bộ các công
trình của ông X, bà L xây dựng và cây cối tự trồng.
Chia cho bà Th được quyền sử dụng diện tích 97,2m2 đất ở, kích thước
66
các cạnh phía Bắc dài 5,1 m giáp đường bê tông; phía Đông dài 20,4m, giáp
phần đất chia cho ông X, phía Nam dài (1,5+1,'4+2,8)m, giáp đất ông B; phía
Tây dài (8,6+9,4)m giáp đất ông B.
Chia cho bà L được quyền sử dụng diện tích 103,7m2 đất ở; kích thước
các cạnh phía Bắc dài 4,8 giáp đường bê tông; phía Đông dài 17,8m, giáp
phần đất chia cho bà B; phía Nam dài (1,5+2,9+5,l)m, giáp đất ông B; phía
Tây dài 22,6m, giáp phần đất chia cho ông X.
Chia cho bà B được quyền sử dụng diện tích 85,7m2 đất ở; kích thước
các cạnh phía Bắc dài 4,3m giáp đường bê tông; phía Đông dài 17,5m, giáp
phần đất chia cho bà Điềm, phía Nam dài 5,4m, giáp đất ông B, phía Tây dài
17,8m, giáp phần đất chia cho bà L.
Chia cho bà Đ được quyền sử dụng diện tích 76,9m2 đất ở; kích thước
các cạnh phía Bắc dài 4,3m giáp đường bê tông; phía Đông dài 17,3m, giáp
phần đất chia cho anh D; phía Nam dài 4,6m, giáp đất ông B; phía Tây dài
17,5m, giáp phần đất chia cho bà B. Chia cho anh D được quyền sử dụng diện
tích 78,6m2 đất ở; kích thước các cạnh phía Bắc dài 4,6m giáp đường bê tông;
phía Đông dài (2,1+1,7+1,8+3,0+3,l)m, giáp đất ông B; phía Nam dài
(3,0+2,9+2,l)m, giáp đất ông B; phía Tây dài 17,3m, giáp phần đất chia cho
bà Đ (kèm theo bản án là sơ đồ chia đất). Ông X phải trả chênh lệch giá trị di
sản được hưởng cho bà Th 34.000.000 đồng; trả cho bà L 8.000.000 đồng, trả
cho bà B 80.000.000 đồng, trả cho bà Đ 115.200.000 đồng, trả cho anh D
108.400.000 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án khoản
tiền trên mà ông X không thi hành thì phải chịu lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước quy định tưong ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thi hành.
Ông X, bà L có trách nhiệm tháo dỡ công trình trên đất trả lại mặt bằng
đất được chia cho bà Th và bà Ltrong thời gian 3 tháng kể từ ngày án có hiệu
lực pháp luật.Công trình, cây cối của cụ S và của mẹ con anh D nằm trên
phần đất chia cho ai người đó được hưởng và tự tháo dỡ.
67
Ông X, anh D, bà Đ, bà B, bà L có trách nhiệm xây tường ngăn cách
giữa các thửa đất đã chia cho các bên trên phần đất được chia.
2. Hủy Giấy chúng nhận QSDĐ sốW007310, vào sổ cấp giấy chúng
nhận QSDĐ số: 00076/QSDĐ/số 30 QĐƯB-2003 do UBND huyện C cấp
ngày 08/12/2003 do ông X và bà L, quyền sử dụng 428m2 đất (trong đó ghi
208m2 đất ở, 220m2 đất trồng cây lâu năm trừ vào tiêu chuẩn đất 721); số thửa
125A, tờ bản đồ số 02 tại A, xã B, huyện C.
UBND huyện C làm thủ tục cấp giấy chúng nhận QSDĐ cho các
đương sự với diện tích đất được chia theo đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà L có đơn đề nghị theo thủ tục phúc thấm
đối với Bản án dân sự sơ thấm nêu trên.
Tại Quyết định số 03/2019/KN-DS ngày 16/01/2019, Chánh án TAND
cấp phúc thẩm đã kháng nghị Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2017/DS- ST ngày
28/6/2017 của TAND huyện C; đề nghị Úy ban Thấm phán TAND cấp phúc
thẩm xét xử theo hướng hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thấm số 03/2017/DS-
ST ngày 28/6/2017 của TAND huyện C; giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện
C xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Như vậy, thông qua việc phân tích vụ án nêu trên, quá trình xét xử của
Tòa án cho thấy nếu như không xét xét kỹ càng các chứng cứ, tài liệu để phân
định và xác định các mối quan hệ nhân thân trong quyết tranh chấp thì đó sẽ
là thiếu sót nghiêm trọng, điều đó sẽ dẫn tới xác định người thừa hưởng
không chính xác, từ đó sẽ là căn cứ sai để phân chia tài sản thừa kế.
Qua hai ví dụ nêu trên, có thể rút ra các nguyên nhân dẫn đến sai sót
trong giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất do các nguyên
nhân sau:
Thứ nhất là do xác định người thừa kế chưa chính xác, dẫn đến những vấn
đề về giải quyết phân chia thừa kế chưa đúng pháp luật, chưa hợp lý, hợp tình;
68
Thứ hai là xác định không chính xác di sản được thừa kế, đây chính là
vấn đề liên quan đến nội dung của phân chia quyền thừa kế, phân chia tài sản
thừa kế vì xác định chưa đúng, nên việc phân chia không chính xác;
Thứ ba là phán quyết của Tòa án về cách chia thừa kế còn chưa hợp lý,
chưa đáp ứng yêu cầu và chưa làm thỏa mãn các bên đương sự, chính vì vậy
dẫn đến khiếu kiện kéo dài và vượt cấp;
Thứ tư, khi phân chia, giải quyết tranh chấp yêu tố nhân thân, quan hệ
tình cảm, dòng tộc trong gia đình chưa được chú trọng, chưa tính hết sự phức
tạp trong cũng như chưa đào sâu vào các quan hệ gia đình để tăng tính hòa
giải khi phân xử.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực
thi việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại tòa án nhân
dân quận Bắc Từ Liêm
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật
Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh luôn là yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự
thành công của mỗi quốc gia, dân tộc. Khi pháp luật trở thành tối thượng và
pháp luật chính là thước đo, chuẩn mực để soi vào đó có thể đánh giá được
mỗi cá nhân, tổ chức. Trong hoạt động QLNN, pháp luật chính là việc xây
dựng lên hành lang pháp lý cho các quan hệ pháp luật hoạt động, chính là các
quy định giữa chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước với đối tượng áp dụng
trong những quan hệ liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Trong
các quan hệ này, nếu như pháp luật điều chỉnh cụ thể, chính xác khách quan
thì sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển chung, còn ngược lại, nếu như pháp
hạn chế, mang tính cục bộ của một nhóm lợi ích thì rất có thể nó sẽ kìm hãm
sự phát triển.
Thứ nhất, HTPL về giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ chính là hệ
thống các văn bản pháp luật như Luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Tố tụng dân
sự, các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, các Nghị định của Chính phủ, các
văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định, các Thông tư, thông tư liên tịch, các
69
văn bản ký kết giữa quốc gia với quốc tế trong linh vực liên quan,… tất cả
chúng hợp thành một hệ thống văn pháp luật để điều chỉnh về một lĩnh vực,
đó là công tác giải quyết các tranh chấp của người dân về thừa kế QSDĐ, hoạt
động của Tòa án và người cán bộ công tác tại Tòa án. Khi và chỉ khi xây dựng
được HTPL tiến bộ, hệ thống tiêu chuẩn hoàn chỉnh, và có sự phối kết hợp rõ
ràng, cụ thể trong công tác giải quyết kiếu nại, tố cáo, liên quán tới các đương
sự, khởi kiện, hồ sơ pháp lý,…thì mới có thể tạo thành sức mạnh cho sự kiện
toàn, hiện đại và tạo sự thành công trong thực thi công vụ.
Để thực hiện thành công thì cần phải rà soát, bổ sung, hoàn thiện HTPL
về công tác giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ đất tại Tòa án. Bên cạnh đó
ngành Tòa án, thanh tra cũng cần bổ sung các văn bản hướng dẫn, hệ thống
các thông tư sao cho đảm bảo hợp lý và không chồng chéo với các văn bản
trước đó. Trong vấn đề xây dựng các ngạch thẩm phán, tiêu chuẩn thẩm tra
viên, thư ký viên để làm sao không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức ngành Tòa án để đảm bảo họ có đủ kiến thức, năng lực, bằng
cấp và tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu công việc. Đồng thời cũng chú trọng tới
các chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phục vụ
trong ngành giúp họ đảm bảo được cuộc sống ở mức cơ bản trung bình khá so
với xã hội và không ngừng đươc nâng cao, có như vậy họ mới chuyên tâm
vào xét xử và đảm bảo công băng, minh bạch, không thiên vị, không tiêu cực.
Do đó, việc không ngừng kiện toàn và nâng cao trình độ đối với đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác xét xử chính là nhân tố quan trọng góp phần nâng
cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất hiện nay. Bởi vì
đây chính là những người trực tiếp áp dụng pháp luật, đưa các quy định của
pháp luật vào thực tế cuộc sống. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu nhưng
nếu người áp dụng không hiểu đúng tinh thần và áp dung sai thì cũng là vô
nghĩa, chính vì thế yếu tố con người luôn là yếu tố cần có sự quan tâm hàng
đầu, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.
70
Thứ hai, là xây dựng một HTPL đồng bộ với đầy đủ các quy định, chế
định về thừa kế QSDĐ: Khẩn trương ban hành Luật đăng ký Bất động sản vì
Luật quy định chủ sở hữu phảiđăng ký quyền sở hữu tài sản theo quy định của
pháp luật về đăng ký bất động sản nhưng cho đến thời điểm hiện tại thì Luật
Đăng Ký Bất Động Sản vẫn chưa được ban hành; Các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật Đất Đai năm 2013 phải được ban hành đầy đủ, kịp thời, phù hợp
với sự phát triển chung của xã hội để đưa pháp luật vào cuộc sống, trong đó
Uỷ Ban thường vụ Quốc hội cần có văn bản cụ thể hoá các đối tượng khác là
người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép mua nhà ở gắn liền với
quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam (nhưquyđịnh tạiĐiều 121khoản 1 điểm đ
Luật Đất Đai 2013);
Đồng thời, trong thời gian tới cần hoàn thiện các quy định pháp luật về
thực hiện ứng dụng hệ thống điện tử trên phần mềm cổng thông tin điện tử
trong việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký cấp QSDĐ tại tất cả các văn phòng đăng
ký đất và nhà trên toàn quốc, đảm bảo rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận
cho người dân, giảm tải các vấn đề tranh chấp khi có giấy chứng nhận (sổ đỏ)
sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện phân định, chuyển giao quyền
thừa kế QSDĐ trong các tranh chấp, bởi nhiều tranh chấp xảy ra chưa có giấy
chứng nhận QSDĐ, các bên tranh giành QSDĐ là rất phức tạp trong việc yêu
cầu về giấy tờ, tài liệu chứng minh. Khi có giấy chứng nhận QSDĐ thì sẽ
thuận lợi cho công dân khi họ muốn chuyển nhượng QSDĐ cho người khác
hoặc khi họ lập di chúc cũng thuận lợi và dễ dàng. Bởi lẽ khi thực hiện các
quy trình trong việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ hiện nay công dân, tổ chức
vẫn phải đến trụ sở nộp hồ sơ và các giấy tờ liên qua, rồi đo đạc, lập bản
đồ,… sau khi hoàn thiện lại mất khoảng ít nhất 2 tuần để đơn vị có thẩm
quyền phê duyệt và cấp QSDĐ, do đó rất mất thời gian thực hiện, đi lại nhiều
lần giây khó khăn cho công dân, tổ chức khi có giao dịch.
Thứ ba, HTPL là tối thượng khi và chỉ khi toàn thể người dân, công
dân, tổ chức và đội ngũ CBCC phải hiểu biết và nắm rõ các quy định của
71
pháp luật. Việc nâng cao các biện pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật về thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng để người dân hiểu biết
các quyền và nghĩa vụ của mình về thừa kế QSDĐ,qua đó hạn chế các tranh
chấp về thừa kế QSDĐ. Bên cạnh đó cần tuyên truyền giáo dục tư tưởng, đạo
đức, lối sống theo hướng coi trọng tình cảm đặc biệt là tình cảm gia đình vì
điều đó giúp giảm bớt các tranh chấp về thừa kế QSDĐ. Bời vì xét cho cùng
các tranh chấp về thừa kế QSDĐ chủ yếu xuất phát từ trong mỗi gia đình, mỗi
người dân, các bên trong tranh chấp đề là người nhà, người thân ruột thịt, họ
hàng với nhau, có ít nhiều mối quan hệ trong cuộc sống, do đó vì lợi ích, quan
điểm và tranh giành về tài sản, về thừa kế QSDĐ là điều bất đắc dĩ, vì thế khi
pháp luật hoàn thiện, người dân hiểu biết, am tường về pháp luật sẽ là nhân tố
cơ bản giảm thiểu các kiện cáo, tranh chấp không đáng có trong lĩnh vực thừa
kế QSDĐ.
Thứ tư,HTPL Việt Nam thời gian tới cần chú trọng tới vai trò của hội
đồng gia tộc, dòng họ trong việc phân định, trách nhiệm và quyền hạn trong
việc đưa ra các quyết định đối với việc quản lý, sử dụng di sản trong việc thờ
cúng là QSDĐ hoặc nhờ thờ gắn liền với QSDĐ, tức là đất dòng họ sử dụng
chung trong việc chung của họ. Đây có lẽ sẽ là vấn đề cần phải có quy định
của pháp luật để điều chỉnh các quan hệ huyết thống, các quan hệ dòng tộc,
đặc biệt là ở Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, của văn hóa thờ
cúng ông bà, tổ tiên, tộc trưởng từ các đời, các thế hệ trước để lại dẫn tới
những tranh chấp sau này nảy sinh đối với đất thuộc quản lý chung của dòng
họ, do vậy các quan hệ nảy sinh trong tranh chấp thừa kế QSDĐ thường
xuyên diễn ra ở khía cạnh đất chung, có sử dụng của nhiều người trong dòng
họ, dẫn đến khi xét xử thiếu chế tài, quy định gây khó khăn trong vận dụng
các quy định của pháp luật để xử vụ án liên quan đến thừa kế QSDĐ.
Trên cơ sở đó, thời gian tới nhằm hoàn thiện HTPL về giải quyết tranh
chấp liên quan đến thừa kế tài sản nói và thừa kế QSDĐ nói riêng cần phải bổ
sung hoàn thiện các luật về Thừa kế trong Bộ Luật Dân sự 2015, đồng thời
72
cần có các Điều, khoản mới về cách thức giải quyết tranh chấp thừa kế
QSDĐtrong Luật Tố tụng dân sự, hướng dẫn cụ thể và rõ ràng hơn để người
dân, các bên có liên quan thực hiện áp dụng pháp luật. Không những thế, các
văn bản dưới Luật, các Nghị định, Thông tư, các văn bán hướng dân thực hiện
pháp luật về dân sự, về đất đai, về giải quyết tranh chấp cũng cần được ban
hành và triển khai tới toàn thể người dân, các cơ quan thi hành pháp luật,
TAND các cấp,.. để mọi người nắm bắt và hiểu sâu hơn về vấn đề khi có
tranh chấp.Trong Luật Dân sự 2015 cần bổ sung các quy định, các điểm,
khoản, Điều về thừa kế, yêu cầu chia thừa kế của người có di sản, di chúc để
lại đối với những người chết trước hoặc sau khi chia thừa kế. Bên cạnh đó thì
pháp luật về thừa kế cần chú ý tới các quan hệ huyết thống, dòng tộc để đảm
bảo phân chia di sản thừa kế không để mất đi truyền thống văn hóa quy giá
của họ hàng, dòng tộc, đảm bảo hợp lý, hợp pháp trong phân chia thừa kế tài
sản nói chung và phân chia thừa kế QSDĐ nói riêng.
3.2.2. Bảo đảm thực thi pháp luật
Đảm bảo thực thi pháp luật đòi hỏi có sự phối hợp và triển khai thực hiện
pháp luật của các bên liên quan, trong đó có các cơ quan nhà nước, cơ quan
tòa án, bộ phận thi hành án, cũng như sự tham gia của các bên đương sự.Bên
cạnh việc áp dụng các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp thừa kế QSDĐ thì vấn đề chủ yếu trong việc giải quyết tranh chấp đó là
tập trung vào tổ chức thực thi pháp luật trong giải quyết tranh chấp thừa kế
QSDĐ.
Bảo đảm thực thi pháp luật khác với thực tiễn thi hành án, bởi thi hành
án là thực hiện bản án mà pháp luật đã tuyên trên thực tế bắt buộc các bên liên
quan như đương sự, các đơn vị thực thi pháp luật và người dân nghiêm túc
thực hiện theo y án. Ở đây, bảo đảm thực thi pháp luật có ý nghĩa rộng hơn nó
bao gồm cả việc vận động, tuyên truyền pháp luật đến nhận thức của các bên,
các chế tài quy định, các biện pháp cưỡng chế thực hiện nếu như đối tượng
không tiến hành theo bản án.
73
Thứ nhất, bảo đảm thực thi pháp luật về thừa kế QSDĐ cần chú trọng tới
vấn đề con người, trước hết là đội ngũ CBCC ngành Tòa án. Đây là những
người công tác trong ngành Tòa án, trong ngành tư pháp, là đội ngũ thẩm
phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án và những người trợ giúp pháp lý, các
CBCC ngành công an, an ninh,… Phải có kế hoạch đầu tư và tập huấn, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực pháp luật, vê thi hành án, về công
tác điều tra, về kiến thức mới cập nhật về công tác của mình. Phải làm sao
mỗi người CBCC phải là một tấm gương sáng trong thực thi công vụ, hiểu và
nắm rõ về pháp luật, nghiêm túc thực hiện pháp luật. Để nâng cao hiệu quả
công tác xét xử đối với vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ, đòi hỏi TAND,
VKSND phải tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ ngành tòa án, kiểm sát. Để nâng cao trình
độ, nhận thức pháp luật và áp dụng pháp luật vào thực tiễn xét xử thì bản thân
của mỗi cán bộ, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải thường xuyên nghiên cứu,
không ngừng học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, lãnh đạo những người đi
trước để tự đúc kết kinh nghiệm vận dụng một cách lôgic, khoa học vào thực
tiễn xét xử.Qua đó, sẽ lan tỏa tấm gương và tinh thần tới các CBCC khác và
tuyên truyền cho mọi người cùng hiểu và thực thi pháp luật một cách hiệu quả
nhất. Có như vậy thì công tác thực thi pháp luật về thừa kế QSDĐ nói riêng
và về thực thi pháp luật nói chung được đảm bảo, không ngừng nâng cao hiệu
lực và hiệu quả trong công tác thi hành án và công vụ hiện nay.
Thứ hai, để đảm bảo thực thi pháp luật một cách nghiêm túc cần đảm bảo
các điều kiện về cơ sở vật chất, về hạ tầng công sở, trụ sở nơi làm việc của
đội ngũ CBCC ngành tòa án cần được đầu tư hơn nữa, để đảm bảo tính trang
nghiêm, nghiêm túc trong hoạt động xét sử nói chung và trong công tác xử lý,
giải quyết các vấn đề về tranh chấp thừa kế QSDĐ nói riêng. Trang thiết bị
cũng như các hệ thống phục vụ công tác kiểm tra, giám sát được trang bị sẽ
chính là những điều kiện căn bản để triển khai các văn bản pháp luật vào thực
tiễn công tác xét xử và thi hành án trên thực tế. Theo đó, cũng cần đẩy mạnh
74
ứng dụng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cao, giải quyết các tranh chấp liên quan trong đời sống, sẽ
áp dụng trực tiếp tại Tòa án, liên thông với các cơ quan khác ở trung ương,
các bộ ngành khác
Thứ ba, cần phải đảm bảo về mặt nhận thức của lãnh đạo cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp, nhận thức của CBCC và
các cá nhân khác như nguyên đơn và bị đơn, các cá nhân có quyền và lợi
ích,… tất cả những thành phần kể trên đều có tác động rất lớn đến việc đảm
bảo thực thi pháp luật trên thực tế. Khi họ nhận thức đầy đủ về quyền và trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình thì việc thực thi trên thực tế sẽ thuận lợi hơn rất
nhiều. Các quy định của pháp luật cần được người thực hiện nghiêm túc, từ
việc vận dụng pháp luật của đội ngũ CBCC thực hiện của cơ quan công quyền
cho đến các đối tượng chịu áp dụng cần phải thực hiên các quyết định của
Tòa án theo đúng quy định, đảm bảo hiệu lực pháp luật, thể hiện sự nghiêm
minh của pháp luật, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
và công dân.
Thứ tư, cần đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan là một trong những yếu tố đảm bảo hiệu quả của thực thi pháp luật.
Sự phối hợp phải dựa trên cơ sở quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và thẩm quyền của từng cá nhân, từng bộ phận, cơ quan, đơn vị về mối quan
hệ giữa người có thẩm quyền xét xử, giải quyết tranh chấp với người tham
mưu, quan hệ giữa các bộ phận tham mưu với nhau, cũng như cơ chế phối
hợp giữa cấp trên và cấp dưới trong cùng một đơn vị. Như vậy, trong quá
trình thực thi pháp luật cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác nhau như việc hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện pháp luật, thi
hành án đã phán quyết, sự cộng tác của người có quyền và lợi ích liên quan
trong việc thực hiện bản án của Tòa án. Trong công tác phối hợp để đưa pháp
luật vào cuộc sống, đảm bảo thực thi pháp luật thì cần phát huy thế mạnh
chuyên môn của từng chủ thể và phát huy thế mạnh tổng hợp trong cơ chế
75
phối hợp để thống nhất tham mưu đề xuất cơ quan có thẩm quyền xem xét,
quyết định trong việc thực hiện quyết định của Tòa án.
Thứ năm, đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành
pháp luật, thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ trên
thực tế. Đây chính là các công cụ đảm bảo hoạt động giải quyết tranh chấp
được đúng đắn, khách quan và hiệu quả. Mọi hoạt động đều cần có sự kiểm
tra, giám sát của nhiều chủ thể với những phương thức khác nhau như kiểm
tra việc thực hiện quyết định của Tòa án, giám sát các hoạt động xét xử, thẩm
tra hồ sơ, tính minh bạch và khách quan của từng khâu trong hoạt động xét
xử. Nếu như không có hoạt động kiểm tra, giám sát thì hoạt động xét xử, các
bản án có hiệu lực pháp luật không được thực thi và thi hành triệt để, không
đi đến cùng của quá trình giải quyết, không thỏa mãn hết các bên và làm cho
hoạt động thực thi pháp luật không được bảo đảm.
Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi quyết định hành chính, bản án
của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải dựa trên cơ sở các quy định về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể liên quan. Thông qua đó sẽ phát hiện các chủ thể có
thực hiện đúng, đẩy đủ các nội dung có đúng với trách nhiệm và nghĩa vụ của
mình hay không, đồng thời cũng hình thành nên ý thức tự giác chấp hành và
thi hành pháp luật cho các chủ thể thực thi pháp luật. Việc thanh tra, kiểm tra,
giám sát mang tính chủ động, tích cực và chính là công cụ cơ bản đảm bảo
pháp luật được thực thi trên thực tế một cách hiệu quả và thiết thực.
76
Tiểu kết chương 3
Nhìn chung, công tác giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại TAND
quận bắc Từ Liêm trong thời gian qua cũng đã đạt những thành tựu nhất định,
số vụ giải quyết triệt để cao, các cá nhân và các bên liên quan hài lòng với kết
quả xét xử của Tòa án. Số oan sai được hạn chế, những sai sót cơ bản được
khắc phục và giải quyết. Tuy nhiên, do là quận mới hình thành và đang trong
giai đoạn phát triển, kiện toàn nhiều mặt, đội ngũ CBCC của quận đã được
nâng cao, các cán bộ Tòa án không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của công việc ngày càng phức tạp. Trong
các giải pháp nêu trên: hoàn thiện hệ thống pháp luật và đảm bảo pháp luật
thực thi trong thực tiễn là hai giải pháp cơ bản, trong mỗi giải pháp có những
giải pháp cụ thể để đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả trong hoạt động
xét xử, giải quyết tranh chấp tại tòa án nói chung và về tranh chấp thừa kế
QSDĐ nói riêng. Các giải pháp này phải thực hiện đồng bộ, từng bước một,
không được xem nhẹ giải pháp nào và cũng không đề cao quá mức giải pháp
nào, với từng giai đoạn cụ thế mà cân nhắc tiến hành và đầu tư vào từng giải
pháp cho phù hợp.
77
KẾT LUẬN
Đất đai chính là tài nguyên vô cùng quý giá trong cuộc sống của mỗi
chúng ta, là tài sản đặc biệt đã được pháp luật quy định, nó phù hợp với đời
sống và văn hóa của dân tộc ta. Công dân lao động và tạo ra của cải vật chất,
sở hữu được QSDĐ là quyền thiêng liêng của mỗi người. Khi họ mất đi thì
quyền để lại di sản cho người sống là quyền cơ bản và pháp luật cũng đã thừa
nhận và hợp pháp hóa quyền cho và nhận di sảng của đôi bên Tuy nhiên,
trong cuộc tồn tại rất nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến QSDĐ cũng như
quyền thừa kế QSDĐ. Chính vậy lẽ đó mà hiện nay khi có những vấn đề nảy
sinh tranh chấp về QSDĐ, thừa kế QSDĐ do có hoặc chưa có giấy chứng
nhận QSDĐ là hết sức phức tạp, vì đó là tài sản đặc biệt và quý giá, cho nên
các mâu thuẫn thường nảy sinh và dẫn đến tranh chấp, xung đột giữa các bên,
ảnh hưởng đến tình cảm và đạo lý trong xã hội, tuy nhiên đó lại chính là vấn
đề cần phải được pháp luật giải quyết.
Thực tiễn cho thấy trong hoạt động QLNN, việc giải quyết tranh chấp,
khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo của công dân đúng cấp, đúng thẩm quyền và kịp
thời không những đảm bảo được lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của
công dân mà còn góp phần ổn định an ninh - trật tự xã hội. Qua đó, góp phần
vào việc ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng, lãng phí của công và các tệ
nạn xã hội khác, xây dựng được khối đại đoàn kết trong nhân dân, tạo được
niền tin của nhân dân đối với hệ thống bộ máy hành chính nhà nước, đặc biệt
là đối với ngành Tòa án, đơn vị trục tiếp thực hiện các công việc xét xử hiện
nay. Mặt khác, thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời sẽ giảm
thiểu tình trạng khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp. Đồng thời, nhiều cấp, nhiều
ngành kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những sai sót, lệch lạc, những yếu kém
trong công tác quản lý hành chính, kiến nghị với cấp có thẩm quyền bổ sung,
sửa đổi chế độ chính sách, pháp luật sát với thực tiễn cuộc sống, xử lý nghiêm
minh những người sai phạm.
78
Tất cả các vụ khởi kiện về tranh chấp QSDĐ có thể giải quyết thành ở
cấp cơ sở (cấp xã, phường, thị trấn) khi cán bộ QLNN cấp cơ sở thông hiểu
pháp luật, có kiến thức chuyên môn và có tinh thần trách nhiệm cao. Ngược
lại, thì làm cho sự việc hành chính trở nên rắc rối; phát sinh khiếu nại từ cơ
sở, gây ra sự mất đoàn kết và xáo trộn trong nội bộ nhân dân, gây mất niềm
tin trong nhân dân. Do đó, trong hoạt động QLNN yêu cầu về tiêu chuẩn hóa
các chức danh CBCC và đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng CBCC có
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết pháp luật, có
năng lực và tận tụy phục vụ nhân dân là hết sức cần thiết và bức bách hiện
nay. Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã đề ra
Nghị quyết về việc “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà nước”. Trong
đó ghi rõ: “Tiến hành sửa đổi bổ sung thể chế và đề cao trách nhiệm của các
cơ quan hành chính trong việc giải quyết các khiếu nại của công dân không
cần đưa xử ở Tòa án”.
Để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ
của tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như hoàn thiện hệ thống pháp luật về xét
xử, về tranh chấp đất đại, tranh chấp thừa kế QSDĐ, đồng thời phải không
ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC ngành tòa án ở quận. Bên cạnh đó,
cũng cần có các giải pháp khác đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh
chấp thừa kế QSDĐ một cách triệt để, trong đó đặc biệt chú ý tới công tác xét
xử, công tác phối kết hợp giữa các cơ quan liên quan, tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát hoạt động thực thực pháp luật, tăng cường công tác tuyên
truyền phổ biến pháp luật tới toàn thể người dân,… chỉ có thể tiến đồng bộ
các giải pháp đó mới có thể nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử
của TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội hiện nay và trong thời gian
tới.
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ph. Ăngghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.
2. Trần Hữu Biền và Tiến sĩ Đinh Văn Thanh (1995), Hỏi đáp về pháp luật
thừa kế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10 của Chủ tịch nước cho
phép áp dụng luật lệ cũ nếu không trái với nguyên tắc "độc lập của nước
Việt Nam và chính thể cộng hòa", Hà Nội.
4. Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5 của Chủ tịch nước về sửa
đổi một số quy định trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ, Bộ Dân luật Trung Kỳ;
quy định một số nguyên tắc mới cho phù hợp.
5. Chính phủ (1999), Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3 về thủ tục
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng
đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Hà Nội.
6. Chính phủ (2001),Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10 quy định chi
tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Hà Nội.
7. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 về thi hành
Luật Đất đai, Hà Nội.
8. Trần Chung (1973), Bộ dân luật, Nhà in Trần Chung, Sài Gòn.
9. Lê Đình Nghị (Chủ biên) (2009), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 1,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.
11. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
12. Quốc hội (2009), Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
13. Quốc hội (2013), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung 1992, 2003), Hà Nội
14. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội
15. Quốc hội (2015), Luật Dân sự, Hà Nội.
16. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
80
17. Phùng Trung Tập (2004), Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt
Namtừ năm 1945 đến nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
18. Phùng Trung Tập (2008), Luật Thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
19. Phan Thị Hương Thủy (2005), 99 tình huống và tư vấn pháp luật về thừa
kế nhà và quyền sử dụng đất, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
20. Tòa án nhân dân tối cao (1968), Thông tư số 594- NCPL ngày 27/8 hướng
dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế, Hà Nội.
21. Tòa án nhân dân tối cao (1981), Thông tư 81-TANDTC ngày 24/7 về tổng
kết kinh nghiệm và hướng dẫn đường lối xét xử việc tranh chấp thừa kế,
Hà Nội.
22. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP
ngày10/8 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình, Hà Nội.
81