VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HÙNG SƠN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ QUYỀN

SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HÙNG SƠN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ QUYỀN

SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật kinh tế

Mã ngành: 838.0107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. ĐẶNG THỊ THƠM

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ

ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.

Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN HÙNG SƠN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP THỪA

KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ............................................................ 7

1.1. Khái niệm về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và giải quyết

tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất....................................................... 7

1.2. Một số nội dung giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất . 18

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI

QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI

TÒA ÁN ......................................................................................................... 35

2.1. Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án cấp

sơ thẩm .................................................................................................... 35

2.2.Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án cấp

phúc thẩm ................................................................................................ 41

Chương 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ

QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC

TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .............. 51

3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại

Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm ....................................................... 51

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi

việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại tòa án nhân

dân quận Bắc Từ Liêm ............................................................................ 69

KẾT LUẬN .................................................................................................... 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Tổng số vụ án Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm giải quyết từ

năm 2015 đến năm 2019 ....................................................................... 55

Bảng 3.2: Số vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

quận Bắc Từ Liêm giải quyết từ 2015 đến 2019 .................................. 56

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn

lực và là thành phần quan trọng của môi trường sống có ý nghĩa kinh tế chính

trị, xã hội liên quan đến mọi người, mọi cơ quan, tổ chức, được nhà nước hết

sức quan tâm. Hiến pháp và Luật đất đai qua các thời kỳ đều khẳng định đất

đai thuộc sở hữu toàn dân với rất nhiều quyền năng của người sử dụng đất.

Chính vì ý nghĩa quan trọng của đất đai, và các quyền của người sử dụng đất

pháp luật cho phép nên trong đời sống xã hội đã phát sinh nhiều loại tranh

chấp đất đai, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất. Thừa kế quyền sử

dụng đất là một quyền cơ bản của người sử dụng đất và quyền thừa kế là

quyền của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Đây là quyền thể hiện

rất rõ tính chất tự do ý chí, tự do định đoạt của chủ thể khi tham gia quan hệ

pháp luật dân sự về tài sản nói chung, quan hệ thừa kế nói riêng. Đặc biệt

trong trường hợp di sản là quyền sử dụng đất thì vấn đề thừa kế quyền sử

dụng đất còn phải tuân thủ theo các chính sách đất đai của Nhà nước. Trong

nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, các tranh chấp về thừa kế quyền sử

dụng đất diễn ra ngày càng nhiều với tính chất phức tạp, kéo dài chính vì thế

thừa kế quyền sử dụng đất là một vấn đề thời sự liên quan đến từng cá nhân,

từng gia đình bởi quyền sử dụng đất là một tài sản có giá trị lớn, các vấn đề

thừa kế chủ yếu là liên quan đến đất giữa những người có quan hệ gần gũi với

nhau. Vì vậy, nếu giải quyết không dứt điểm, không phù hợp sẽ gây mất đoàn

kết trong gia đình, anh em từ đó ảnh hưởng tới trật tự xã hội. Việc giải quyết

tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án góp phần giải quyết chấm

dứt mâu thuẫn giữa các đồng thừa kế. Chính vì thế việc nghiên cứu các quy

định pháp luật giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất (QSDĐ) tại

Tòa án nhằm tiếp tục hoàn thiện thêm chế định pháp luật về thừa kếQSDĐ

cũng như nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp về thừa kế QSDĐ là một

1

yêu cầu khách quan. Cụ thể là, trong giai đoạn hiện nay, với xu hướng hội

nhập quốc tế, vấn đề tranh chấp thừa kế QSDĐ cần được nghiên cứu để mở

rộng hơn nữa quyền tự định đoạt của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật

(QHPL) thừa kế quyền sử dụng đất. Các quy phạm pháp luật về thừa kế

QSDĐ, giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ cần được xây dựng dựa trên cơ

sở bảo đảm mối quan hệ hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia QHPL thừa

kế quyền sử dụng đất và lợi ích của toàn xã hội, tôn trọng sự tự do định đoạt

của các chủ thể trong QHPL thừa kế QSDĐ. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu

đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp thừa kế QSDĐ

góp phần đem lại một trật tự xã hội ổn định, đồng thời xây dựng một cơ chế

pháp lý đồng bộ đảm bảo thực thi một cách hữu hiệu các quy định thừa kế

QSDĐ. Chính vì các lý do trên học viên chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp

về thừa kế quyền sử dụng đất qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân

quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội” để thực hiện luận văn thạc sỹ nhằm

mục đích nghiên cứu những quy định pháp luật về tố tụng dân sự để giải

quyết vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ. Ngoài ra, nghiên cứu đề tài cũng nhằm

làm rõ thực trạng giải quyết và những vướng mắc trong quá trình giải quyết

tranh chấp thừa kế QSDĐ để rút ra bài học, đồng thời kiến nghị cơ quan lập

pháp có căn cứ sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự

phù hợp với thực tiễn đời sống.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Tại Việt Nam đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về giải quyết

tranh chấp thừa kế QSDĐ dưới mức độ cử nhân luật, thạc sỹ luật học, tiến sỹ

luật học, giáo trình giảng dạy môn pháp luật có liên quan và một số bài đăng

trên các tạp chí chuyên ngành. Ngoài ra, nghiên cứu tranh chấp thừa kế

QSDĐ nói chung có nhiều khóa luận cử nhân, luận văn cao học, luận án tiến

sĩ đã đề cập đến, nhưng nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ

2

trong phạm vi của một tỉnh thì chưa được quan tâm chú ý. Một số công trình

nghiên cứu và giáo trình giảng dạy liên quan đề cập đến tiêu biểu như:

Cuốn sách “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm

1945 đến nay” của Tiến sĩ Phùng Trung Tập, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội

năm 2004.

Cuốn “Luật thừa kế Việt Nam”, do TS. Phùng Trung Tập, Nhà xuất bản

Hà Nội, năm 2008.

Cuốn sách “Thừa kế theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng”,

TS. Phạm Văn Tuyết, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2007.

Đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa

kế trong Bộ luật Dân sự”, Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Minh Tuấn,

Trường Đại học Luật Hà Nội,năm 2007.

Cuốn “Giáo trình luật tố tụng dân sự”, Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản

Công An nhân dân, Hà Nội năm 2007.

Cuốn “Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự”, Trường đào tạo

các chức danh tư pháp, Nhà xuất bản Công An nhân dân, Hà Nội, năm 2004.

Tác phẩm “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thừa kế”, Dương

Bạch Long và Nguyễn Xuân Anh,Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

năm 2005.

LS.TS. Phan Thị Hương Thủy: 99 tình huống và tư vấn pháp luật về

thừa kế nhà và quyền sử dụng đất, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2005.

ThS. Nguyễn Hữu Ước: Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án

nhân dân Tối cao từ năm 2000 - 2007, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2008.

Bên cạnh đó còn một số tập hệ thống hóa văn bản pháp luật về dân sự, hôn

nhân và gia đình nói chung và thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng của Tòa án

nhân dân (TAND) tối cao; các tập công bố phán quyết của Tòa án về xét xử

phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ án dân sự của TAND tối cao (trong đó có

các vụ án về tranh chấp thừa kế QSDĐ);

3

Sổ tay thẩm phán của TAND tối cao năm 2009.

Ngoài những công trình nghiên cứu trên, còn một số luận văn cao học

nghiên cứu về thừa kế QSDĐ như các luận văn cao học luật của Lê Khắc

Hạnh về thừa kế quyền sử dụng nhà ở và đất ở tại thành phố Hải Phòng, của

Phạm Thị Thúy Liễu về thực trạng thi hành các quy định của pháp luật về

thừa kế QSDĐ trên địa bàn tỉnh Hà Nam,... Đó là những đề tài nghiên cứu về

QSDĐ ở các góc độ cụ thể theo di chúc, theo pháp luật hay về thừa kế một

loại đất trong một thành phố, một tỉnh.

Tuy nhiên, với những đề tài và các bài viết trên tác giả nghiên cứu tập

chung những vấn đề cơ bản nhất về thừa kế và về việc tố tụng. Vì vậy nên

chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất qua

thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà

Nội” là một đề tài không bị trùng lặp có tính lý luận và tính thực tiễn phù hợp

với tính chất công việc của học viên đang công tác.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá quy định pháp

luật trong việc giải quyết những tranh chấp về thừa kế QSDĐ thuộc thẩm

quyền của Tòa án, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa

kế QSDĐ và áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp QSDĐ có hiệu

quả hơn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được những mục đích nêu trên, nhiệm vụ chính của đề tài

này là:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thừa kế QSDĐ, cơ chế giải quyết

tranh chấp đất đai bằng Tòa án các quan hệ tranh chấp đất đai;

- Nghiên cứu vai trò giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ của toà án

cấp sơ thẩm, cụ thể là ở TAND quận Bắc Từ Liêm. Từ đó tổng kết kinh

4

nghiệm thực tiễn toà án áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp thừa kế đất

đai;

- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết

tranh chấp thừa kế QSDĐ bằng Toà án.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận trong giải quyết

tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất theo thủ tục xét xử sơ thẩm cụ thể ở

TAND quận Bắc Từ Liêm.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn thuộc chuyên ngành luật, nhưng có liên quan đến việc áp

dụng pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật nội dung trong việc giải quyết

tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại TAND.

Việc khảo sát và nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xét

xử các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại TAND ở quận Bắc Từ

Liêm, thành phố Hà Nội.

Nghiên cứu thực tiễn xét xử ở TAND quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội từ

năm 2015 đến nay (2019).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học biện chứng duy vật và biện

chứng lịch sử Mác- Lênin.

Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác – Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư

tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật đất đai, về vấn đề cải cách tổ

chức và hoạt động của TAND và các cơ quan tư pháp trong giai đoạn hiện

nay nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu trong cải cách tư pháp.

5

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Học viên sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích; phương pháp so

sánh luật học, phương pháp đánh giá, phân tích, tổng hợp, chứng minh, thu

thập dữ liệu để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và phát triển lý

luận phục vụ yêu cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất lượng áp

dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và trong việc giải quyết

tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại TAND.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ

cho công tác nghiên cứu giảng dạy nói chung và đào tạo chức danh tư pháp

nói riêng. Nội dung của luận văn cũng có thể góp phần xây dựng kỹ năng

trong việc nghiên cứu hồ sơ, đặc biệt đối với Thẩm phán dân sự, giải quyết vụ

án tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất và các vụ án liên quan đến tranh

chấp quyền sử dụng đất.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn được thể hiện trong 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng

đất và giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp

thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án

Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và những kiến nghị.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ

QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ

QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

1.1. Khái niệm về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và giải

quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

1.1.1. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất

Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, để duy trì chúng ta phải sáng

tạo, lao động, sản xuất và phối hợp với nhau để tạo ra của cải vật chất để nuôi

sống chính bản thân và xã hội, đó có thể là những tài sản vật chất hoặc phi vật

chất mà họ tạo ra cho xã hội. Đó chính là công sức và sức lao động của họ, họ

có toàn quyền sử dụng và định đoạt đối với giá trị của cải vật chất đó, đó

chính là tài sản mà cá nhân họ tạo ra. Trong trường hợp họ không sử dụng

hoặc muốn chuyển giao cho người khác thì có toàn bộ quyền chuyển lại và

bên nhận chính là bên thừa hưởng quyền thừa kế, tức là kế tiếp họ để quản lý,

sử dụng và sở hữu giá trị tài sản đó. Trường hợp tài sản đó không sử dụng hết,

người sở hữu chết, mất đi thì tài sản đó có thể chuyển lại cho người còn sống

thụ hưởng, chính vì vậy mà các giá trị và quan hệ về thừa kế sẽ xuất hiện và

phát sinh, nên cần phải tuân thủ theo các quy định của thừa kế.

Thừa kế chính là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ rất

lâu, trong các xã hội trước đây cũng đã có, kể cả khi chưa có nhà nước và

pháp luật thì thừa kế vẫn tồn tại một cách khách quan. Đó chính là việc một

người này chuyển giao tài sản thừa kế cho một người khác, một các nhân hay

tổ chức khác. Như vậy, thừa kế theo cách hiểu trên nghĩa là việc dịch chuyển

tài sản của người đã chết hoặc từ chối sở hữu tài sản để giao cho người sống

hoặc người khác sở hữu, bao hàm cả quản lý và sử dụng tài sản đó. Sự dịch

chuyển này có thể là từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ

khác, từ tổ chức này sang tổ chức khác.

7

Trong lịch sử hình thành nhà nước, do lực lượng sản xuất phát triển,

của cải dư thừa, dẫn đến các quan hệ sản xuất cũng thay đổi, một bộ phận

đứng ra chiếm dụng và hình thành nên sự phân cấp ra các giai tầng trong xã

hội, khi các giai cấp phát triển, mẫu thuẫn về lợi ích đẩy lên cao, dẫn tới xung

đột dẫn tới sự ra đời của nhà nước. Như vậy, nhà nước ra đời là sản phẩm tất

yếu của quá trình phát triển của xã hội. Khi có nhà nước thì pháp luật là yếu

tố không thể thiếu và nó ra đời cùng với nhà nước để bảo vệ quyền lợi của

giai cấp thống trị cũng như duy trì một trật tự xã hội nhất định đảm bảo cho

tất cả các thành viên của xã hội thực hiện theo. Khi xã hội phát triển đến một

mức độ nhất định thì pháp luật chính là công cụ và phương tiện để nhà nước

quản lý toàn bộ các mặt đời sống của xã hội, khi đo các quan hệ trong đời

sống đều được điều chỉnh bởi quan hệ pháp luật và được bảo đảm bằng pháp

luật, cùng với nó thì các quan hệ về thừa kế cũng ra đời. Như vậy, có thể thấy

rằng quyền sở hữu về tài sản, về tư liệu sản xuất của người dân đã có từ lâu

đời nó phù hợp với chuẩn mực và nhu cầu của xã hội. Do đó, quyền sở hữu là

quyền thiêng liêng, bởi giá trị mà họ phải bỏ sức lao động, mồ hôi, công sức

của thì họ được sở hữu là chính đáng. Khi họ không sử dụng hoặc họ chết đi

thì giá trị tài sản đó họ có thể chuyển cho người khác, và khi đó nhà nước sẽ

bảo đảm cho các hoạt động này được diễn ra một cách công bằng và khách

quan nhất khi đó quan hệ thừa kế chính thức ra đời. Có thể thấy rằng quyền sở

hữu chính là điều kiện, tiền để phát sinh ra quyền thừa kế và ngược lại, quyền

thứa kế chính là kết quả của sở hữu mà ra.

Nhà nước có vai trò đứng ra bảo vệ quyền sở hữu, bảo về quyền thừa

kế vì như vậy chính là bảo vệ cơ sở phát sinh, phát triển và tồn tại của xã hội,

duy trì trật tự xã hội ổn định. Chính vì vậy mà quyền thừa kế và quyền sở hữu

có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cả hai quyền đều là những phạm

trù pháp lý, song song tồn tại trong cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhất

định, có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Từ chỗ pháp luật

quy định cho công dân có quyền sở hữu tài sản và cũng dựa vào đó pháp luật

8

quy định cho họ các quyền năng trong quan hệ thừa kế. Nhà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một chế độ xã hội dựa trên nền tảng công hữu hóa

tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai, rừng núi, sông, suối,…Nhà nước đại diện

cho nhân dân, của dân và vì dân. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng các

quyền và lợi ích hợp pháp mà nhà nước cho phép chuyển dịch. Ở đây đối

tượng của thừa kế là những tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, sinh hoạt như:

hệ thống nhà xưởng, công ty, cổ phần và các máy móc, tài sản về quyền sử

dụng đất, các giá trị gắn liền với đất, nông nghiệp, tiền, vàng, bạc,… Công

dân có quyền để lại thừa kế những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho

người khác, Nhà nước không hạn chế quyền để lại thừa kế và quyền nhận

thừa kế của công dân. Nhà nước khuyến khích công dân tích cực lao độngsản

xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, làm giàu cho cá nhân, gia đình, và

đất nước.

Trên cơ sở những phân tích nêu trên, đứng trên góc độ pháp lý có thể

hiểu rằng thừa kế chính là một trong những quyền cơ bản của công dân,

quyền này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước. Cụ thể

các bản Hiến pháp của nhà nước Việt Nam đều đã thừa nhận và ghi rõ, khoản

1 và 2, Điều 32 Hiến pháp 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền sở hữu về thu

nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,

phần vồn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền

sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Như vậy, pháp luật

bảo vệ quyền thừa kế của con người xuất phát tư quan điểm coi gia đình là tế

bào của xã hội và sự ổn định của từng thành viên trong gia đình.

Căn cứ vào Hiến pháp, quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ, cụ thể là

Luật Đất đai 2013 và Bộ Luật Dân sự 2015, Luật Tố tụng dân sự 2015và một

số văn bản khác cũng đã quy địnhvềvấn đề này. Tại Điều 609 Bộ Luật Dân sự

2015 có quy định về quyền thừa kế như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc

để định đoạt tài sản của cá nhân mình; để lại tài sản của mình cho người

thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

9

Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”.

Theo cách tiếp cận như trên thì thừa kế chính là một QHPL, theo đó có

nhiều dạng thừa kế khác nhau như thừa kế tài sản, thừa kế cổ phần, thừa kế

quyền sử dụng đất,… khi đề cập tới thừa kế quyền sử dụng đất chúng ta cũng

cần nắm rõ thế nào là quyền sử dụng đất và thừa kế quyền sử dụng đất như

thế nào?

Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về quyền sử dụng đất,

trên góc độ pháp lý, có ý kiến cho rằng: Quyền sử dụng đất là một QHPL về

đất đai, khi xét tới QHPL về đất đai chúng ta cần chú ý tới các khía cạnh như

sau:

Thứ nhất, về chủ thể sở hữu với người sử dụng đất, đây chính là mối

quan hệ giữa nhà nước với công dân thông qua các quyền sử dụng, chiếm hữu

và định đoạt quyền sử dụng đất. Quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai

là tuyệt đối còn của công dân đối với quyền sử dụng đất chỉ là tương đối và

thuộc dạng phái sinh, phụ thuộc vào quyền sở hữu toàn dân về đất đai của chủ

thể.

Thứ hai, là quan hệ giữa người sử dụng đất với các cơ quan quản lý nhà

nước (QLNN) liên quan đến việc cấp QSDĐ và giải quyết mối quan hệ giữa

những người sử dụng đất với nhau. Trong QHPL này các bên tham gia vừa là

chủ thể vừa là đối tượng trong những giao dịch, những quan hệ cụ thể trong

quá trình sử dụng đất và các vấn đề liên quan.

Như vậy, qua các hiểu này thì QSDĐ ở đây chính là quyền sở hữu về

đất đai của nhà nước với quyền sử dụng và khai thác các giá trị liên quan đến

đất được cấp phép và sử dụng trong các giao dịch về đất đai như sử dụng, cho

thuê và cấp phép, xác định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Đồng thời còn

cấp phép, trao quyền sử dụng đất cho các cá nhân, tổ chức và hộ gia đình sử

dụng thông qua các hình thức cho thuê đất, cấp giấy phép quyền sử dụng đất

lâu dài, hạn có mức 50 năm,…. Chính vì vậy mà các vấn đề liên quan được

đảm bảo thực hiện thông qua các QHPL liên quan.

10

Hai là, quyền sử đất chính là một chế định của luật đất đai. Tức là nó

bao gồm hệ thống các quy định, quy phạm pháp luật về đất đai do nhà nước,

cơ quản quản lý có thẩm quyền ban hành nhằm thực hiện việc lý, sử dụng đất

đai sao cho hợp lý, đáp ứng yêu cầu của QLNN, phù hợp với hệ thống luật

pháp chung của nhà nước và các văn bản pháp lý quốc tế liên quan. Có thể là

các văn bản quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, các thủ tục

pháp lý, trình tự hành chính,… để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền

sử dụng đất. Mặt khác lại có quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất chính là

một quyền riêng của chủ sử hữu cũng như của người sử dụng đất, hiểu theo

nghĩa này tức là đây chính là các quyền, các cách thực hiện đối với mảnh đất

mà nhà nước trao cho chủ sử hữu sử dụng.

Ba là, hiểu quyền sử dụng đất chính là một tài sản đặc biệt trong cuộc

sống hiện nay. Như chúng ta đã biết thì quyền sử dụng đất vừa là đối tượng

của QHPL dân sự, đồng thời cũng là đối tượng của QHPL đất đai. Hiện nay,

pháp luật cũng đã quy định rất rõ ràng về loại tài sản này, đó thực sự là tài sản

đặc biệt, đất đai là của nhà nước, của sở hữu toàn dân, tuy nhiên quyền sử

dụng đất lại đựa giao cho người dân sử dụng và quản lý và tuân thủ theo

những yêu cầu của pháp luật về quản lý đất đai, cấp phát quyền sử dụng đất,

pháp luật của nhà nước cũng quy định quyền sử dụng đất là một tài sản trong

các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, thế chấp, nhượng quyền,… chính

vì lẽ đó mà vấn đề quản lý quyền sử dụng đất luôn là vấn đề được quan tâm

chú trọng để đảm bảo ổn định và phát triển.

Như vậy, có thể nhận định rằng quyền sử dụng đất chính là nhân tố vô

cùng quan trọng trong các QHPL nói chung và pháp luật về đất đai, dân sự

nói riêng. Nó gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân, là yếu tố có mối

quan hệ mật thiết với sử hữu toàn dân, bởi quyền sử dụng đất chính là một

phương thức cơ bản để nhà nước quản lý có hiệu quả về đất đai, khai thác tối

đa các thế mạnh để hướng tới sử dụng ổn định kinh tế, xã hội, mang lại kết

quả tốt nhất.

11

1.1.2. Khái niệm tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

Đây là một khái niệm liên quan tới đất đai, mà cụ thể chính là quyền sử

dụng đất của người dân trong quan hệ thừa kế, khi có nảy sinh vấn đề tranh

chấp về thừa kế quyền sử dụng đất. Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 612

Bộ luật dân sự 2015 về “di sản” thừa kế, các chuyên gia về luật cho rằng di

sản thừa kế bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người

chết trong tài sản chung với người khác. Như vậy có nghĩa là, về nguyên tắc

mọi tài sản hợp pháp của người chết đều có thể trở thành di sản thừa kế, trong

đó có một loại tài sản khá đặc biệt là quyền sử dụng đất.

Trước đây, trong Bộ luật Dân sự 2005, tại Điều 733 nhà làm luật có

định nghĩa: “Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của

người chết sang cho người thừa kế theo quy định của Bộ luật này và pháp

luật về đất đai”. Tại Điều 734 của Bộ luật này, các nhà làm luật tiếp tục ghi

nhận: “Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử

dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại Phần thứ

tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”.

Tại Điều 657 Bộ luật dân sự 2015, nhà làm luật quy định rằng:“1.

Người phân chia di sản” có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ

định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.

2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc

đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.

3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản

cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận”.Nếu việc

phân chia thừa kế không thỏa mãn được lợi ích chính đáng của những người

thừa kế, giữa họ sẽ phát sinh các mâu thuẫn, bất đồng, thậm chí dẫn đến xung

đột về việc chia thừa kế quyền sử dụng đất và khi đó, tranh chấp về việc chia

thừa kế quyền sử dụng đất sẽ phát sinh, dẫn đến việc phải giải quyết tranh

chấp.

12

Như vậy, thừa kế QSDĐchính là một khái niệm gắn liền với QSDĐ của

người nắm quyền. QSDĐ chính là một loại tài sản đặc biệt trong xã hội và đã

được pháp luật thừa nhận. Khi một người nắm giữ QSDĐ thì quyền đó chính

là tài sản của họ, khi họ chết đi thì tài sản đó sẽ được chuyển dịch lại cho

người khác theo pháp luật hoặc là theo di chúc, thì khi đó QSDĐ chính là di

sản thừa kế mà người chết để lại cho người thụ hưởng, sau khi đã thực hiện

các nghĩa vụ pháp luật, khi đó di sản này sẽ phát sinh QHPL về thừa kế

QSDĐ.

Dó đó có thể hiểu:Thừa kế quyền sử dụng đất là người có quyền để lại

quyền sử dụng đất trên cơ sở lập di chúc hoặc trên cơ sở quy định của pháp

luật nhưng phải tuân theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản pháp

luật khác có liên quan.

Thừa kế QSDĐ được xem như là một chế định mới trong hệ thống

pháp luật (HTPL) của Việt Nam, nó cũng phù hợp với các yêu cầu của hệ

thống, đồng thời đây cũng là nét đặc thù trong trong HTPL Việt Nam so với

HTPL của các quốc gia khác trên thế giới, bởi lẽ chỉ có ở Việt Nam mới có

khái niệm thừa kế QSDĐ. Trong vấn đề về thừa kế thì các tranh chấp luôn

luôn diễn ra với rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, điều đó cũng đã được quy

định trong Luật Đất đai 2013 cũng như trong Bộ Luật Dân sự 2015 ở Việt

Nam.

Tranh chấp QSDĐ là bộ phận của tranh chấp đất đai, theo quy định tại

khoản 24 Điều 3“giải thích từ ngữ”, Luật Đất đai năm 2013 quy định:

“Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất

giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Có thể thấy rằng trong khái

niệm này đã bao hàm cả tranh chấp về QSDĐ, tranh chấp về tài sản gắn liền

với đất, tranh chấp cả về địa giới hành chính. Như vậy, đất đang có tranh chấp

là được hiểu là loại đất mà giữa người sử dụng hợp pháp đất đó với cá nhân

khác, với nhà nước hoặc giữa những người sử dụng chung mảnh đất đó với

nhau đang có tranh chấp về sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất, về ranh

13

giới, về mục đích sử dụng đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá

trình sử dụng đất. Có thể thấy khi đề cập đến đất có tranh chấp thì chưa thể

xác định được giữa các bên ai là người sử dụng hợp pháp.

Tranh chấp về đất đai là tất cả những gì liên quan đến đất đai, tức là

bao gồm cả những tranh chấp đất đai khác là một bộ phận của tranh chấp về

đất đai, những bộ phận còn lại gồm tranh chấp các hợp đồng giao dịch liên

quan tới đất đại, thừa kế di sản là QSDĐ, chia tài sản chung là QSDĐ,….

Việc phân biệt như vậy là để đảm bảo rằng các bên liên quan thực sự trong

vấn đề nếu có xảy ra tranh chấp và trong việc xác minh bản chất của các loại

tranh chấp. Trên thực tế, nhiều khi Tòa án vẫn yêu cầu các bên phải hòa giải

tại UBND cấp xã, phường, thị trấn trước thì mới đủ điều kiện để khởi kiện khi

tranh chấp đó không cần phải hòa giải gây phiền hà, mất thời gian cho các

bên. Do vậy, chỉ những tranh chấp liên quan đến việc ai là người có quyền sử

dụng đất thì mới bắt buộc phải tiến hành hòa giải, còn các tranh chấp khác về

thừa kế, tranh chấp các giao dịch liên quan đến QSDĐ thì không bắt buộc.

Với tư cách là một loại tài sản đặc biệt, QSDĐ có bản chất là quyền tài

sản theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là

quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền

sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.Do là quyền tài

sản nên QSDĐ là một loại tài sản vô hình, không thể nắm giữ, chiếm hữu theo

cách thông thường giống như tài sản là vật, tiền hay giấy tờ có giá. Theo quy

định của pháp luật Việt Nam, chủ sở hữu tài sản là quyền sử dụng đất chính là

tổ chức, cá nhân đang có QSDĐ hợp pháp được Nhà nước công nhận bằng

Giấy chứng nhận QSDĐ.

Như vậy, tranh chấp về QSDĐ là những tranh chấp giữa các bên với

nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó.

Trong quan hệ này thì đối tượng của tranh chấp đất đai không phải là quyền

sở hữu đất, các chủ thể tham gia tranh chấp không phải là các chủ thể có

quyền sở hữu đối với đất, vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Điều 53

14

Hiếp pháp năm 2013 và Điều 4 Luật Đất đai năm 2013: “đất đai thuộc sở hữu

toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước

trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.

Qua việc phân tích khái niệm tranh chấp QSDĐ như trên, chúng ta có

thể thấy rằng tranh chấp thừa kế QSDĐ hiện nay rất đa dạng và phức tạp, có

thể là tranh chấp QSDĐ trong đó buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về

tài sản do người chết để lại; cũng có thể là tranh chấp thừa kế QSDĐ trong đó

yêu cầu chia di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật hiện hành; cũng

có thể là xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của

người khác,… Hiện nay, trong trong HTPL Việt Nam chưa có định nghĩa

chính thức nào về khái niệm chia thừa kế QSDĐ,chính vì vậy dẫn đến nhiều

tranh chấp trong vấn đề giành QSDĐ hiện nay. Bộ luật Dân sự 2015 trong

phần về thanh toán và phân chia di sản thì có thể hiểu rằng thừa kế chính là

việc phân chia di sản của người đã chết theo di chúc của người đó hoặc theo

quy định của pháp luật. Trong Bộ luật Dân sự 2015 có ghi nhận tại Điều 656

về việc họp mặt những người thừa kế: “1. Sau khi có thông báo về việc mở

thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để

thỏa thuận những việc sau đây:

a,Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền,

nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong

di chúc;

b,Cách thức phân chia di sản.

2. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn

bản”.

Như vậy, có thể quan niệm rằng trong thủ tục về chia thừa kế, các bên

có liên quan (bao gồm những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật)

có thể thỏa thuận xác định người phân chia di sản là ai và cách thức phân chia

di sản như thế nào trong văn bản thỏa thuận giữa họ với nhau về việc chia

thừa kế tài sản nói chung và chia thừa kế QSDĐ nói riêng.

15

Trên cơ sở đó, khi các bên trong quan hệ thừa kế QSDĐ không đạt

được những yêu cầu cũng như những lợi ích thì có thể sẽ dẫn đến xung đột về

vấn đề phân chia, sử dụng và quản lý QSDĐ, trong trường hợp này sẽ cần

phải nhờ đến sự hòa giải của chính quyền cơ sở, nếu hòa giải không thành có

thể dẫn đến đưa ra Tòa án để giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ theo đúng

quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi chính đáng và hợp pháp của

người thừa kế và với các bên.

Giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính (TTHC) hiện nay

được tiến hành theo quy định của pháp luật, khi người dân, cơ quan, tổ chức

có phát sinh mâu thuẫn, xảy ra tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn

khiếu nại tới chính quyền địa phương, tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có

đất tranh chấp, có xảy ra tranh chấp QSDĐ. UBND xã (phường/thị trấn) có

trách nhiệm phối hợp với Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức

thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất

đai. Thời hạn hòa giải là 30 ngày làm việc, kể từ ngày UBND cấp xã nhận

được đơn. Sau khi hòa giải tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các bên đương

sự không nhất trí thì sẽ được giải quyết như sau:

Tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng cư dân với nhau thẩm

quyền giải quyết lần đầu sẽ là chủ tịch UBND cấp huyện. Nếu một bên hoặc

các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu

nại đến chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết; quyết định của chủ tịch UBND

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng, đối

với những trường hợp tranh chấp mà không có giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất. Còn những trường hợp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì

khi không đồng ý với quyết định của cấp hành chính giải quyết thì khởi kiện

ra Tòa án cùng cấp giải quyết.

Như vậy, giải quyết khiếu nại theo TTHC thì các cơ quan quản lý hành

chính tại địa phương sẽ thụ lý và giải quyết theo phân cấp hành chính rõ ràng,

theo đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cấp. Theo đó thì khiếu

16

nại ban đầu sẽ đưa nên chính quyền cơ sở, đó là UBND xã (phường/thị trấn),

khi không thỏa đáng có thể gửi khiếu nại lên cấp trên trực tiếp đó chính là

UBND huyện, quận, nếu vẫn không đồng ý với quyết định của cấp quận,

huyện thì có thể chuyển khiếu nại lên cấp trên đó là tới UBND tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương để giải quyết. Đồng thời, các bên đương sự có thể lựa

chọn hình thức khởi kiện vụ án dân sự, gửi đơn và hồ sơ tới Tòa án để giải

quyết.

Tóm lại, trên cơ sở khái niệm về thừa kế QSDĐ cũng như các vấn đề

liên quan đến tranh chấp thừa kế QSDĐ như trên, có thể hiểu: Tranh chấp

thừa kế quyền sử dụng đất chính là các tranh chấp liên quan đến việc phân

chia, sử dụng và quản lý tài sản hợp pháp của người đã chết để lại cho người

còn sống, hay còn gọi đó là di sản mà ở đây chính là quyền sử dụng đất, một

loại tài sản đặc biệt khi xảy ra tranh chấp giữa các bên liên quan trong vấn

đề về quan điểm, lợi ích khi không có sự thống nhất, dẫn đến mâu thuẫn và

xung đột cần phải được giải quyết theo trình tự, thủ tục quy định của pháp

luật.

1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại

Tòa án

Trong các quan hệ dân sự, khi các mâu thuẫn không được giải quyết

thỏa đáng bằng biện pháp hòa giải rất dễ đẫn đến những xung đột, thậm chí là

đấu tranh, tranh giành quyết liệt. Các mâu thuẫn chủ yếu xoay quanh vấn đề

về quyền và lợi ích của mỗi bên, vì vậy khi đó sẽ nảy sinh tranh chấp. Các

tranh chấp không giải quyết được các bên sẽ đưa nhau ra chính quyền, nhờ

chính quyền can thiệp và phân giải. Ở cấp chính quyền cơ sở thường sẽ tổ

chức hòa giải, thông qua thỏa thuận và thương lượng đôi bên, có sự định

hướng và trợ giúp của cán bộ cấp cơ sở. Kết quả của hòa giải sẽ là điều kiện

dẫn tới các quan hệ pháp luật tiếp theo. Nếu như hòa giải thành công, các bên

thỏa mãn các yêu cầu và ra về, còn nếu không thành công, cấp cơ sở không

thể hòa giải được, các bên sẽ khởi kiện ra Tòa án.Khi đó sẽ điều chỉnh và thực

17

hiện theo các quy định của Luật Tố tụng dân sự hiện hành, hiện nay được điều

chỉnh và thực hiện theo Luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tranh chấp chính là những bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong

quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình. Đó có thể là những tranh chấp nảy

sinh trong quá trình phân chia lợi ích, phối hợp sản xuất kinh doanh, hay

trong các vấn đề của cuộc sống. Còn thừa kế theo cách hiểu như trên là quyền

chính đáng của người đã mất để lại cho người còn sống, việc thừa kế quyền

sử dụng đất đó chính là tài sản đặc biệt và rất dễ xảy ra tranh chấp. Do đó việc

giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất là việc thường xuyên diễn ra

trong các tranh chấp hiện nay tại Tòa án.

Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất

tại Tòa án là việc bên nguyên đơn nộp hồ sơ khởi kiện tại Tòa án có thẩm

quyền để yêu cầu giải quyết theo pháp luật. Tòa án nơi nhận đơn khởi kiện sẽ

kiểm tra các thông tin về thời hiệu khởi kiện, thẩm quyền giải quyết tranh

chấp của tòa án, các tài liệu có trong hồ sơ khởi kiện có đáp ứng được yêu

cầu theo quy định hay không để thụ lý hoặc từ chối thụ lý hồ sơ khởi kiện vụ

tranh chấp. Sau khi thụ lý hồ sơ vụ tranh chấp để giải quyết nếu đúng thẩm

quyền luật định, tòa án sẽ tiến hành các thủ tục tố tụng theo trình tự do Luật

tố tụng dân sự quy định.

1.2. Một số nội dung giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

1.2.1. Các quan hệ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

Đề cập tới các quan hệ trong tranh chấp thừa kế QSDĐ các quan hệ

giữa chủ thể của di sản thừa kế và đối tượng của thừa kế QSDĐ và mối quan

hệ giữa các bên trong vấn đề tranh chấp, phân chia tài sản (QSDĐ), trong đó

có vai trò của chính quyền cơ sở, TAND cấp quận, huyện trong việc phân xử,

hòa giải trong tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Hiện nay, pháp luật thừa

kế có hai dạng, một là theo di chúc và hai là theo pháp luật, các quan hệ này

đều được điều chỉnh bởi pháp luật và hiện nay được quy định trong Luật Đất

đai 2013 và Luật Dân sự năm 2015.

18

Trong quan hệ về thừa kế theo di chúc Luật Dân sự năm 2015 quy định

cụ thể và chi tiết về vấn này. Tại Điều 624 ghi nhận: “Di chúc là sự thể hiện ý

chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.

Thông qua quan hệ này có thể dễ dàng nhận thấy có ít nhất 2 bên, đó là giữa

người lập di chúc và đối tượng thừa hưởng, tức là giữa người để lại di chúc và

người thừa hưởng theo di chúc. Điều 625 quy định: Người thành niên có đủ

điều kiện theo quy định của pháp luật có quyền lập di chúc để định đoạt tài

sản của mình.Pháp luật đã chỉ rõ chủ thể của di chúc là những ai, độ tuổi đủ

hiểu biết và năng lực hành vi dân sự, biết định đoạt tài sản của mình. Đồng

thời, tại khoản 2, Điều 625 tại Bộ luật này cũng quy định: Người từ đủ mười

lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ, hoặc

người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Có thể thấy các nhà làm luật của

Việt Nam đã tính toán rất chi tiết, cụ thể và đầy đủ đối với tất cả các đối

tượng là công dân Việt Nam, khi có đủ các điều kiện về nhận thức, những

chưa đủ tuổi thành niên vẫn được lập và để lại di chúc theo ý muốn. Một điểm

quan trọng trong việc lập di chúc đó chính là hình thức của di chúc như thế

nào, trong luật cũng chỉ rõ, di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không

thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Tuy nhiên, các

tranh chấp liên quan đến di chúc hết sức phức tạp, đặc biệt là di chúc liên

quan đến vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất đó là tính hợp pháp của di chúc.

Tại Điều 630, Bộ luật dân sự 2015 quy định:

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa

dối, đe doạ, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức

xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải

được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về

việc lập di chúc.

19

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ

phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng

thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là

hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý

chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi

người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại,

cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày

người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công

chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc

điểm chỉ của người làm chứng.

Trên cơ sở các quy định của pháp luật, đólà căn cứ pháp lý rất rõ ràng,

các bên liên quan tranh chấp theo quy định và thực hiện, tuy nhiên có thể do

hiểu biết pháp luật của họ còn hạn chế hoặc do sự tham lam, muốn chiếm đoạt

tài sản của người đã mất để lại, nên có sự gian dối, tranh giành trong một số

trường hợp người chết không có di chúc hoặc có di chúc thì lại không có được

di chúc bằng văn bản, mà chỉ có di chúc bằng miệng, vấn đề xác minh và đối

chiếu gặp không ít những khó khăn. Theo quy định trong Bộ luật Dân sự năm

2015, Bộ Luật Đất đai năm 2013 thì cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt

cho người thừa kế được hưởng quyền sử dụng đất ở của mình sau khi chết.

Khi để lại di sản là quyền sử dụng đất, người lập di chúc phải thỏa mãn các

điều kiện về chủ thể lập di chúc, quyền tự do định đoạt ý chí, nội dung của di

chúc không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội và hình thức của di chúc phải

tuân theo những qui định của pháp luật, nhất là những điều luật của luật dân

sự trích dẫn nêu trên. Một điểm mới trong Bộ Luật đất đai 2013 là chú trọng

tới khâu hòa giải trong tranh chấp đất đai, Tại Điều 202 quy định: “1. Nhà

nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết

tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.

20

2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn

đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.

3. Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất

đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với

Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các

tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp

xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được

đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác

nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của UBND cấp xã. Biên bản

hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại UBND cấp xã nơi có đất

tranh chấp.

5. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới,

người sử dụng đất thì UBND cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài

nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình,

cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường

đối với các trường hợp khác.

Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy

ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất

và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài

sản khác gắn liền với đất”.

Điều này hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc tổ chức và thực hành pháp

luật ở Việt Nam đó là nguyên tắc tôn trọng ý kiến các bên, ton trọng dân chủ

cơ sở và sự hòa giải phù hợp với đạo lý và nguyên tắc sống trong cộng đồng,

họ hàng, làng xóm, anh, chị em,.. trong gia đình, dòng tộc. Nếu như hòa giải

không thành, khi đó đưa ra kiện tụng tại Tòa án làm sẽ sứt mẻ, mất mát đi tình

cảm, là cái vốn quý trong quan hệ họ hàng, cộng đồng ở Việt Nam. Trong

quan hệ pháp luật về thừa kế thì khi mất, bố mẹ không để lại di chúc thì theo

21

quy định của pháp luật, di sản sẽ được phân chia theo pháp luật theo quy định

tại Điều 650 Bộ Luật dân sự năm 2015 như sau:

“Điều 650, Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

a, Không có di chúc;

b, Di chúc không hợp pháp;

c, Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với

người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không

còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;

d, Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có

quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản

….”

Tại Điều 651 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về người thừa kế theo

pháp luật như sau:

“Điều 651, Những người thừa kế theo pháp luật:

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a, Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,

con đẻ, con nuôi của người chết;

b, Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,

chị ruột, em gái ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết

là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c, Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú

ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà

người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của

người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai

ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền

hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

22

Luật Dân sự 2015 giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp nêu

trên theo phân định của pháp luật và mối quan tâm được chú trọng đó là thừa

kế theo hàng, xét các mối quan hệ gần gũi, ruột thịt với người để lại quyền

thừa kế thì sẽ có mức thừa hưởng khác nhau, điều đó cho thấy nguyên tắc

công bằng, công khai, minh bạch của pháp luật, cũng như pháp luật về thừa

kế dựa trên huyết thống, phù hợp với đạo lý của dân tộc. Bên cạnh đó thì Luật

Đất đai 2013, Điều 203, quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất

đai, liên quan đến thừa kế QSDĐ như sau: Trước hết pháp luật luôn chú trọng

tới yếu tố hòa giải, khi tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã

mà không thành thì được giải quyết như sau:

1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong

các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản

gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có

một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự

chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo

quy định sau đây:

a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm

quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;

b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật

về tố tụng dân sự;

Như vậy, trong các quan hệ về thừa kế thì quan hệ giữa chủ thể thừa kế

với đối tượng thụ hưởng nằm trong các quan hệ điều chỉnh của pháp luật như

trên, trong các trường có di chúc, hoặc di chúc không hợp pháp, hoặc không

có di chúc thì sẽ được phân chia theo quy định trên. Trong những trường hợp

này sinh tranh chấp thì căn cứ vào pháp luật mà tiến hành giải quyết, trước hết

là hòa giải, thỏa thuận, nếu không đạt được thỏa mãn các vấn đề thì sẽ đưa ra

Tòa án giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất.

23

Một quan hệ khá phổ biến trong tranh chấp quyền thừa kế về sử dụng

đất tại là vấn đề đó chính là mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm

những người thừa hưởng di sản với nhau. Chính vì vậy, trong mối quan hệ

này sẽ cần tới việc thảo luận và thống nhân phân chia làm sao cho hợp pháp,

hợp lý thông qua thỏa thuận. Việc phân chia tài sản, di sản thừa kế mà cụ thể

là thừa kế quyền sử dụng đất sẽ được quy định tại Điều 656 Bộ Luật dân sự

2015 quy định cụ thể như sau:

“Điều 656, họp mặt những người thừa kế

1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những

người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những vấn đề sau đây:

a, Cử người quản lý di sản, người phân chia tài sản, xác định quyền, nghĩa vụ

của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;

b, Cách thức phân chia di sản

2.Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”

Qua đó có thể thấy rằng việc phân chia tài sản thừa kế ưu tiên sự thỏa

thuận của các đồng thừa kế và việc thỏa thuận của những người trong nhóm

thụ hưởng phải được lập thành văn bản rõ ràng. Nếu không có văn bản sẽ rất

dễ dẫn đến tranh chấp tiếp theo và thỏa thuận không có văn bản sẽ là thỏa

thuận không hợp pháp. Trong trường hợp không thể thỏa thuận được với nhau

về việc chia di sản thừa kế thì có thể nhờ đến UBND, phường, thị trấn, nơi có

tranh chấp thừa kế QSDĐ, tức là có mảnh đất đó ký vào văn bản thỏa thuận

phân chia thừa kế QSDĐ. Nếu trong trường hợp này vẫn không thể thỏa thuận

được với nhau và vẫn nảy sinh tranh chấp thì có thể có quyền khởi kiện tại

TAND quận (huyện) để yêu cầu phân chia là di sản thừa kế QSDĐ.

Ngoài các quan hệ trên trong việc phân chia, giải quyết tranh chấp liên

quan đến thừa kế QSDĐ ở Việt Nam hiện nay rất phức tạp. Do tính chất các

quan hệ huyết thống, họ hàng, gia tộc, làng xóm,... dẫn đến các tranh chấp

liên tục phát sinh, gây ra rất nhiều khó khăn trong công tác xét xử tại Tòa án.

Pháp luật hiện hành quy định thừa kế QSDĐ nói riêng và thừa kế tài sản nói

24

chung dựa trên các phương diện chính như thừa kế theo di chúc, thừa kế theo

pháp luật và thứ ba là thừa kế thế vị. Như vậy, ngoài hai hình thức trên thì

pháp luật thừa kế ở Việt Nam quy định trường hợp khi con của người để lại di

sản chết trước người để lại di sản thì cháu của người đó được hưởng phần di

sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống. Nếu cháu cũng đã chết

trước người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của

chắt được hưởng nếu còn sống. Những trường hợp này gọi là thừa kế thế vị.

Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trường hợp đặc biệt đó là: cha, mẹ chết

cùng thời điểm với ông hoặc bà thì cháu thay thế vị trí của cha hoặc mẹ nhận

di sản của ông, bà (Điều 652 – Bộ Luật Dân sự 2015). Qua đó có thể hiểu

rằng thừa kế thế vị là việc các con (cháu, chắt) được thay vào vị trí của bố

hoặc mẹ (ông, bà) để hưởng di sản của ông bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố

hoặc mẹ (ông hoặc bà) chết trước hoặc chết cùng ông, bà (hoặc cụ), những

người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản của bố, mẹ mình (hoặc ông, bà)

đáng lẽ được hưởng nếu còn sống, được chia đều di sản với những người thừa

kế khác. Trong trường hợp này, thừa kế QSDĐ cũng là đối tượng điều chỉnh

và thực hiện theo quy định của thừa kế thế vị. Bên cạnh đó thì các quan hệ về

con nuôi, cha mẹ nuôi cũng được thừa kế di sản của nhau và cũng được thừa

kế theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Hôn nhân và gia đình năm

2014, tai khoản 3 Điều 68: Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền

và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật nuôi con

nuôi, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan.

Thông qua sự phân tích nêu trên để thấy rằng các quan hệ trong cuộc

sống được các nhà làm luật quan tâm khi xây dựngHTPL cũng cố gắng bao

quát và điều chỉnh làm sao cho đầy đủ và khách quan, công bằng nhất đối với

tất cả các đối tượng liên quan, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Tuy nhiên, cũng không thể nào tránh khỏi những hạn chế, mà hiện tại ngay cả

bản thân các nhà làm luật cũng chưa thể phát hiện ra, bởi trình độ thời điểm

làm luật và sự biến đổi và phát triển của các quan hệ xã hội là không ngừng

25

thay đổi, mà pháp luật chỉ phản ánh tại thời điểm nhất định, đến lúc nào đó nó

sẽ trở lên lạc hậu và cần phải điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển của các

quan hệ xã hội (QHXH), bởi vai trò của pháp luật chính là để điều chỉnh các

QHXH phát sinh, phát triển trong xã hội theo trình tự, định hướng nhất định

đảm bảo sự ổn định, công bằng, phát triển. Chính vì vậy, các nhà làm luật và

khi xét xử luôn khuyến khích các cá nhân, tổ chức có mâu thuẫn cố gắng giải

quyết bằng phương pháp hòa giải tại cơ sở, thậm chí khi ra Tòa, Tòa vẫn sử

dụng biện pháp hòa giải, hòa giải mang lại nhiều lợi ích, giúp ổn định, giữ

được tình cảm, huyết thống trong dòng tộc, gia đình và góp phần giảm gánh

nặng và khó khăn cho công tác xét xử ở Tòa án hiện nay.

Ngoài ra, dưới góc độ của Luật Đất đai, giải quyết tranh chấp thừa kế

QSDĐ còn được phân loại tranh chấp QSDĐ không có tài sản gắn liền với đất

và tranh chấp QSDĐ gắn với tài sản trên đất, tranh chấp QSDĐ là đất nông

nghiệp, đất ở, đất chuyên dụng,…đều liên quan đến quan hệ thừa kế thì ngoài

việc tuân thủ các quy định của Bộ Luật Dân sự, Luật Đất đai thì phải chấp

hành, tuân thủ các quy định khác của pháp luật hiện hành.

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất: Có 3 nguyên

tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất cần phải tuân thủ

như sau:

Thứ nhất, phải luôn đảm bảo nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân

và Nhà nước là đại diện chủ sở hữu;

Thứ hai, phải đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích

kinh tế, khuyến khích tự hòa giải trong nội bộ nhân dân;

Thứ ba, việc giải quyết nhằm mục đích ổn định kinh tế, xã hội, gắn với

phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo điều kiện cho lao động có thêm

việc làm, phù hợp với đặc điểm và quy hoạch của từng địa phương.

1.2.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

Thủ tục chính là cách thức, trình tự và nghi thức tiến hành xem xét một

vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý hoặc khởi tố theo quy định

26

của pháp luật. Như vậy, thủ tục chính là một quy phạm bắt buộc phải tuân

theo. Thủ tục giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ chính là các cách thức tiến

hành, trình tự thụ tục giải quyết các khâu, các bước trong vấn đề giải quyết

tranh chấp hiện nay liên quan đến thừa kế QSDĐ.Trong vấn đề tranh chấp

thừa kế QSDĐ không phải là tranh chấp đất đai, chính vì vậy nó sẽ không

thuộc quyền điều chỉnh bởi luật đất đai. Do đó, tranh chấp thừa kế QSDĐ là

tranh chấp liên quan đến di sản thừa kế, đó chính là QSDĐ, một loại tài sản

đặc biệt và vì thế nó sẽ chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật dân sự. Trình tự, thủ

tục giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ sẽ theo Luật dân sự.

Trên thự tế, các tranh chấp mà di sản là QSDĐ khá phổ biến, để xác

định QSDĐ này có phải là di sản của người chết để lại hay không cần phải

xác minh về nguồn gốc của đất. Tòa án sẽ xác minh tại UBND địa phương

thông qua hồ sơ địa chính, đăng ký đất đai qua các thời kỳ. Chính vì vậy mà

có thể xác định tranh chấp về thừa kế QSDĐ chính là các tranh chấp liên quan

đến nhân thân giữa những người thuộc diện thừa hưởng di sản và có tranh

chấp với nhau, chứ không phải là tranh chấp đất đai. Trình tự, thủ tục như

sau:

Bước 1: Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua

người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án ra Tòa án có thẩm quyền. Người

khởi kiện gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đến Tòa án có thẩm quyền

giải quyết tranh chấp liên quan đến thừa kế quyền sử dụng đất giữa các bên

đương sự, có tranh chấp.

Bước 2: Saukhi nhận đơn khởi kiện cùng với hồ sơ pháp lý hợp lệ Tòa

án sẽ ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí cho cá nhân, tổ chức nộp đơn;

Bước 3: Cá nhân, tổ chức nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại

Chi cục thi hành án quận (huyện) và nộp lại biên lai tiền tạm ứng án phí cho

Tòa án;

Bước 4: Tòa án thụ lý vụ án, tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục

chung và ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án.

27

Như vậy, đó là các giai đoạn cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp

thừa kế QSDĐ đối với di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Bởi lẽ,

trong vấn đề này đây không phải là tranh chấp đất đai mà đó chính là tranh

chấp dân sự xoay quanh vấn đề tranh chấp thừa kế QSDĐ. Các thủ tục, trình

tự phải tuân thủ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015.

Cụ thể, bước 1 chuẩn bị hồ sơ khởi kiện bao gồm các thủ tục như sau:

Đơn khởi kiện theo mẫu của Tòa án;

Giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất;

Biên bản hòa giải có chứng nhận của UBND xã và có chữ ký của các

bên liên quan tới tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất;

Các giấy tờ khác theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015, ai

khởi kiện vấn đề gì thì phải có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho chính

yêu cầu khởi kiện đó.

Bước 2: Nộp đơn khởi kiện

Nơi nộp đơn: Tòa án nhân dân cấp quận/huyện nơi có tranh chấp

Hình thức nộp: Có thể nộp bằng 01 trong 3 hình thức sau:

+ Nộp trực tiếp tại Tòa án

+ Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính

+ Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua công thông tin điện tử của

Tòa án (nếu có)

Bước 3: Tòa thụ lý và giải quyết:

Nếu hồ sơ chưa đủ thì tòa án sẽ yêu cầu bổ sung

Nếu hồ sơ đầy đủ thì tòa án sẽ:

+ Thông báo nộp tạm ứng án phí

+ Người khởi kiện nộp tạm ứng án phí tại cơ quan thuế theo giấy báo

tam ứng án phí và mang theo biên laic ho Tòa án.

+ Sau đó Tòa sẽ thụ lý.

Bước 4: Thủ tục chuẩn bị xét xử và xét xử:

28

Chuẩn bị xét xử: Thời hạn là 04 tháng, vụ việc phức tạp được gia hạn

không quá 02 tháng ( Như vậy là tổng cộng không quá 06 tháng – Theo Điều

203 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015).

Trong giai đoạn này Tòa sẽ tổ chức hòa giải tại Tòa, nếu các bên không

hòa giải được, hòa giải không thành thì tòa sẽ đưa vụ án tranh chấp ra xét xử

sơ thẩm (nếu không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc đình chỉ).

Sau khi có bản án sơ thẩm các bên tranh chấp có quyền kháng cáo nếu

không đồng ý với bản án và phải có căn cứ.

1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa

kế quyền sử dụng đất tại Tòa án

Đề cập tới các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa

kế QSDĐ tại tòa án nghĩa là đề cập tới các nhân tố, các điều kiện tác động tới

công tác giải quyết tranh chấp tại tòa án. Hiệu quả chính là khả năng tạo ra

kết quả mong muốn hoặc trong kinh tế là khả năng tạo ra sản lượng mong

muốn. Theo nghĩa chung nhất thì hiệu quả chính là cái gì đó được coi là hiệu

quả, nó có nghĩa là có một kết quả mong muốn hoặc mong đợi, hoặc tạo ra

một ấn tượng sâu sắc và sinh động.

Như vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa

kế QSDĐ tại Tòa án có một số nhân tố sau:

Một là, việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐtại Tòa án chịu ảnh

hưởng trực tiếp bởi HTPL được áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp.

HTPLNhà nước tương đối hoàn thiện, đáp ứng và phản ánh đúng trình độ

phát triển, điều chỉnh cụ thể và chi tết các QHXH sẽ là điều kiện cơ bản đảm

bảo hiệu lực và hiệu quả trong xét xử và tạo sự công bằng trong hoạt động

của tòa án. Đây chính hành lang pháp lý cơ bản đảm bảo cho tất cả các cá

nhân, tổ chức, người được trao quyền căn cứ và pháp và xét xử chỉ tuân theo

pháp luật đảm bảo hiệu quả thực sự trong giải quyết tranh chấp thừa kế

QSDĐ hiện nay ở tòa án. HTPL này bao gồm các luật về nội dung (ví dụ: Bộ

luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và Gia đình,...) và các luật về hình

29

thức tổ chức thực hiện giải quyết tranh chấp (ví dụ: Bộ luật Tố tụng dân sự).

HTPL là yếu tố quan trọng nhất có ảnh hưởng mang tính quyết định đến chất

lượng, hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án. Điều

đó thể hiện ở chỗ, nếu HTPL có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp thừa

kế QSDĐ tại Tòa án đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, chuẩn mực, không bị

mâu thuẫn, chồng chéo và sát với tình hình thực tiễn và phù hợp với trình độ

phát triển của xã hội thì việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ sẽ đảm bảo

tính công bằng, khách quan, chính xác, trừ khi người có thẩm quyền giải

quyết tranh chấp không đủ năng lực hoặc cố ý làm sai trong quá trình giải

quyết tranh chấp.

Hai là, việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án chịu ảnh

hưởng của các bộ phận trong đơn vị, tòa án trong việc phối hợp tổ chức các

khâu, các bước, các quy trình trong tổ chức thực hiện vụ án. Từ các cán bộ

phục vụ công tác hồ sơ, giấy tờ, cho đến các đồng chí quản lý, lãnh đạo điều

hành công tác xét xử khi xử án. Nếu như các bộ phận chuẩn bị hồ sơ chưa chu

đáo, chưa chặt chẽ, khi trình lên Chánh án cũng như thẩm phán sẽ dẫn tới

thiếu sót, việc phải bổ sung hoàn thiện dẫn đến chậm trễ và ảnh hưởng trực

tiếp tới công tác xử án tại Tòa án. Do đó, vai trò của thư ký tòa án cũng vô

cùng quan trọng, từ các khâu kiểm tra, ra soát cho đến khâu ghi chép ý kiến,

lập văn bản và giúp lãnh đạo Tòa án hoàn thiện các khâu cũng đóng vai trò

nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

tại Tòa.

Bên cạnh đó, khi xét xử vụ án liên quan đến tranh chấp thừa kế QSDĐ,

mối liện hệ và liên quan giữa các bên là rất lớn, từ các cơ quan tố tụng, cơ

quan tòa án, đến công an, chính quyền địa phương nơi cơ sở mà có mảnh đất,

người cho thừa kế và người nhận, các đối tượng thừa kế theo hàng, nếu như

không có di chúc hoặc có di chúc cũng vẫn phải chia phần theo pháp luật,…

tất cả các cơ quan đều có tránh nhiệm một phần trong việc phối hợp giải

quyết vụ án. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định cụ thể khi khởi kiện thì

30

các đương sự phải nộp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn

cứ để nâng cao trách nhiệm của họ, nếu Thẩm phán thấy chưa đủ thì kết hợp

với việc Thẩm phán hỗ trợ thu thập thêm chứng cứ hoặc yêu cầu các cơ quan

có liên quan cung cấp chứng cứ thì mới xem xét giải quyết vụ án một cách

chính xác. Nhưng không phải lúc nào, khi nào và bao giờ họ cũng hoàn thiện

đủ và chính xác các yêu cầu nêu trên, việc này dẫn đến những khó khăn trong

việc xác định và làm căn cứ để tiến hành giải quyết tranh chấp.

Ba là, hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp thừa chịu ảnh hưởng

trực tiếp từ thái độ cũng như hiểu biết của các đối tượng tham gia tranh chấp,

tức là các đương sự, các nhóm tham gia trong quá trình tranh chấp, có những

người hiểu biết của họ khác nhau về luật, về xã hội, trình độ nhận thức là

không giống nhau, cho nên khi tổ chức và hướng dẫn trong xét xử là rất phức

tạp, luôn luôn phải thực hiện công tác tuyên truyền, yêu cầu các bên nhận

thức đầy đủ vị trí, vai trò và trách nhiệm của mối bên trong việc đưa ra các tài

liệu, dẫn chứng chứng minh để tòa án làm căn cứ xét xử cho khách quan và

công bằng nhất.

Bốn là, hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐtại Tòa án chịu ảnh

hưởng trực tiếp bởi yếu tố trình độ, năng lực chuyên môn của Thẩm phán,

Kiểm sát viên được phân công giải quyết vụ án. Có thể cho rằng trình độ năng

lực của Thẩm phán, Kiểm sát viên được phân công giải quyết vụ án cũng là

một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết tranh

chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Bởi vì sau khi được lãnh đạo phân công giải

quyết vụ án thì Thẩm phán phải nghiên cứu đơn khởi kiện và các tài liệu,

chứng cứ kèm theo chứng minh cho yêu cầu khởi kiện nên.

Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố

tụng dân sự. Nếu xét thấy đương sự cung cấp chứng cứ chưa đảm bảo cho

việc xét xử thì Thẩm phán tiến hành thu thập chứng cứ sau đó mới tiến hành

hòa giải vụ án và đưa vụ án ra xét xử. Ngoài ra, đối với Kiểm sát viên, vai trò

31

của người này cũng phải tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp để thực

hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp của Tòa án nhằm đảm

bảo việc xét xử của Tòa án được thực hiện một cách công bằng, khách quan,

đúng pháp luật.

Năm là, việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐchịu ảnh hưởng trực

tiếp bởi trình độ hiểu biết pháp luật của người khởi kiện cũng như người bị

kiện. Điều đó thể hiện ở chỗ: Nếu các đương sự có hiểu biết pháp luật, có

trình độ dân trí cao và có khả năng nắm bắt tình hình kinh tế - xã hội tốt thì

việc giải quyết tranh chấp chia thừa kế QSDĐ sẽ dễ dàng, thuận lợi

hơn.Ngược lại, nếu các đương sự không có hiểu biết tường tận về pháp luật,

trình độ dân trí thấp thì việc giải quyết tranh chấp về chia thừa kế QSDĐ sẽ

khó khăn hơn rất nhiều, bởi lẽ, các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

thường hết sức phức tạp do tài sản tranh chấp là QSDĐ, giá trị tài sản rất lớn,

các chủ thể tranh chấp thường không có thái độ nhượng bộ mà sẵn sàng tranh

chấp đến cùng để đòi hỏi quyền lợi. Trong nhiều trường hợp, do các đương sự

có trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế và thái độ không hợp tác với cơ quan

tiến hành tố tụng nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chính bản họ.

Bên cạnh đó, còn gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án vì để

vụ án quá hạn, kéo dài, đường lối giải quyết chưa chính xác nên nhiều vụ án

bị cấp trên hủy, sửa phải xét xử lại nhiều lần, có vụ án tranh chấp về chia di

sản thừa kế QSDĐ kéo dài hàng chục năm, từ đời ông cha, cho đến đời con

cháu mà vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.

Sáu là, phong tục tập quán văn hóa cũng ảnh hưởng lớn tới giải quyết

tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án. Trong cuộc sống hiện nay,

văn hóa của người Việt Nam thường ưu tiên sự hòa giải, tránh kiện tụng làm

mất hòa khí, ảnh hưởng đến tình cảm của nhau, tuy nhiên khi hòa giải không

thành, vạn bất đắc dĩ mới phải đưa nhau ra tòa, kiện tụng. Các tranh chấp

trong cuộc sống thông thường liên quan đến tiền bạc, vay mượn tài sản, thuê

sức lao động, thuê tài sản, thừa kế không cồng bằng,… trong các vấn đề này

32

thì thừa kế là phức tạp nhất, nhất là thừa kế về QSDĐ, một loại tài sản đặc

biệt. Chính vì vậy, khi xem xét giải quyết cơ quan Tòa án nên chú ý tới văn

hóa, phong tục của từng nơi để có được phương án giải.

Qua việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh

chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án, chúng ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về

những thuận lợi và khó khăn trong việc tiến hành giải quyết tranh chấp thừa

kế quyền sử dụng đất hiện nay ở Tòa. Quá đó có thể tiến hành thúc đẩy các

yếu tố thuận lợi, hạn chế các khó khăn trong giải quyết vụ án về tranh chấp

thừa kế QSDĐ để thực hiện có hiệu quả công tác xét xử tại Tòa án hiện nay.

Tiểu kết chương 1

Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, xây dựng và phát triển nền

kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy pháp luật là thước đo cho

sự phát triển, tạo ra sự công bằng, minh bạch và ổn định. Nền kinh tế thị

trường đã hình thành và đang phát triểnbên cạnh những ưu điểm của nó là làm

cho sản xuất tăng nhanh, đời sống vật chất không ngừng được cải thiện và

nâng cao. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng nhiều, khi sản xuất phát triển, các

QHXH cũng phức tạp và biến đổi, các tranh chấp trong cuộc sống cũng như

kinh tế ngày càng nhiều, chính vì vậy mà việc thường xuyên hòa giải, giải

quyết các tranh chấp của người dânlà một yêu cầu cơ bản và cấp thiết. Trong

các tranh chấp hiện nay thì tranh chấp về tài sản chiếm số lượng rất lớn theo

thống kế của các Tòa án. Và nổi bật là tranh chấp về đất đai, tranh chấp về

QSDĐ, về thừa kế QSDĐ, bởi vì đất đai là tài sản có giá trị lớn thường xuyên

xảy ra tranh chấp nhất. Chính vì thế việc quy định một trình tự, thủ tục rõ

ràng về vấn đề thừa kế cũng như việc giải quyết tốt các tranh chấp về thừa kế

QSDĐ có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽquy định một trình tự, thủ tục rõ ràng,

minh bạch về thừa kếQSDĐ giúp cho các chủ thể tham gia vào QHPL thừa kế

QSDĐ có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình một cách dễ dàng. Điều

đó giúp đem lại một trật tự trong việc thừa kế QSDĐ giảm thiểu các tranh

33

chấp về thừa kế QSDĐ, một loại tranh chấp diễn ra phổ biến và rất phức tạp

trong xã hội hiện nay. Các tranh chấp, kiện tụng xảy ra nhiều, sẽ gây bất ổn

định rất lớn, ảnh hưởng tới thuần phong, mỹ tục, ảnh hưởng tới các giá trị

truyền thống tốt đẹp của dân tộc gây mất đoàn kết trong dòng tộc và sẽ ảnh

hưởng tới tính bền vững của từng gia đình từ đó ảnh hưởng tới trật tự xã hội.

Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với công tác xét xử của Tòa án hiện nay là giải

quyết tốt vấn đề thừa kế QSDĐsẽ tạo lập được sự công bằng và hiệu quả đối

với người dân.

Trong chương 1 tác giả đã đi vào tìm hiểu, phân tích các khái niệm liên

quan đến thừa kế QSDĐ, các mối quan hệ trong việc giải quyết tranh chấp

quyền thừa kế QSDĐ cũng như quy trình, thủ tục của việc giải quyết tranh

chấp nay. Đồng thời cũng xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của

việc giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ để trên cơ sở đó khắc phục khó

khăn, phát huy nhưng ưu điểm để thúc đẩy hơn nữa hiệu quả xét xử tại Tòa án

về tranh chấp liên quan đến đất đai hiện nay. Chương 1 chính là những cơ sở

lý thuyết khoa học để chương 2 của luận văn đi vào tìm hiểu các quy định

hiện hành về vấn đề giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án hiện nay.

34

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN

2.1. Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án

cấp sơ thẩm

Theo quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thừa kế

QSDĐ tại Tòa án cấp sơ thẩm hiện nay được thực hiện theo các bước cơ bản

sau đây:

2.1.1. Thụ lý vụ án

Thụ lý vụ án chính là việc bắt đầu tiếp nhận một vụ việc để xem xét và

giải quyết, Như vậy, thụ lý vụ án là việc tòa án dân sự nhận yêu cầu của

đương sự đề nghị xem xét giải quyết một vụ việc để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, tổ chức, cơ quan. Do vậy, có thể hiêu thụ lý

vụ án giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ là hoạt động đầu tiên của Tòa án

trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, làm phát sinh quan hệ pháp luật tố

tụng dân sự giữa cơ quan tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng.

Tại Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về thụ lý vụ án như

sau: “1. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét

thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì thẩm phán phải thông

báo ngay cho người khởi kiện để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng

án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.

2.Thẩm phán dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào giấy báo và giao

ngay cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 07

ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án

phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tóa án biên lai

thu tiền tạm ứng án phí.

3. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai

thu tiền tạm ứng án phí.

35

4. Trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền

tạm ứng án phí thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và

tài liệu, chứng cứ kèm theo”.

Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định Tòa án không được thụ lý

vụ án khi người khởi kiện không đủ điều kiện khởi kiện. Một trong những

điều kiện để Tòa án thụ lý vụ án dân sự là chủ thể khởi kiện có quyền khởi

kiện, chủ thể ở đây được quy định cụ thể ở Điều 186 và Điều 187 Bộ Luật Tố

tụng dân sự 2015, trong đó một trong các chủ thể khởi kiện là cá nhân, cá

nhân có quyền tự mình khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tình trạng giải quyết các vụ án về tranh chấp QSDĐ hiện nay ở Việt

Nam là rất phức tạp, trên phạm vi cả nước luôn luôn là điểm nóng trong việc

giải quyết các tranh chấp, đặc biệt là về đất đai, về thừa kế QSDĐ và các

quyền liên quan đến đất đai. Hiện nay, giải quyết tranh chấp về QSDĐ, về đất

đai, về thừa kế QSDĐ được tiến hành theo trình tự tố tụng dân sự theo đó việc

giải quyết tranh chấp đất tại Tòa án được thực hiện theo quy định chung của

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đây chính phương thức giải quyết tranh

chấp phổ biến và hợp lý nhất. Hình thức của nó là giải quyết vấn đề thông qua

cơ quan quyền lực công có chức năng xét xử để đưa ra một bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật bắt buộc đối với các bên tham gia tranh chấp, là cơ sở

để các cơ quan hành chính nhà nước về đất đai có những điều chỉnh phù hợp

theo nội dung bản án đã nêu. Thế nhưng trên thực tế công tác giải quyết theo

bản án còn tồn tại một số vấn đề trong xét xử chú trọng tới yếu tố chứng minh

bằng bằng chứng, căn cứ vào giấy chứng nhận QSDĐ, căn cứ vào hình thức

bằng văn bản của di chúc, … thế nhưng trên thực tế thì các yêu tố trên không

phải lúc nào cũng đúng và đầy đủ trong hồ sơ của các bên đương sự. Chẳng

hạn như hiện nay: Có nhiều gia đình sống nhiều năm, các đời ông bà, cha mẹ,

các con cháu,… sinh sống nhiều đời mà vẫn chưa có giấy chứng nhận QSDĐ,

vì họ chỉ sinh sống và ở, nhu cầu giấy chứng nhận họ không cần thiết, bởi lẽ

36

để được cấp thì họ phải làm hồ sơ và có đơn, đáp ứng các yêu cầu của cơ

quan nhà nước, nhiều người dân, đặc biệt là ở nông thôn họ không muốn

phiền hà và vì vậy tiếp tục sinh sống, khi ông bà, bố mẹ mất đi lúc đó con

cháu ở lại sinh ra mâu thuẫn và tranh chấp,… Đó chỉ là một ví dụ cơ bản, còn

lại trong cuộc sống còn rất nhiều tranh chấp chưa giải quyết triệt để, dẫn đến

vượt cấp, kéo nhau ra tỉnh, thâm chí trung ương, dẫn đến hệ lụy rất nhiều và

điều đó dẫn đến tồn đọng án. Chính vì vậy, giải pháp được các cấp chính

quyền quan tâm và được các nhà làm luật tư vấn, khuyến khích đó chính là tổ

chức tốt công tác hòa giải tại cơ sở, đề cao vai trò của chính quyền cơ sở, cấp

xã, phường, thị trấn, thậm chí là cấp tổ dân phố, thôn, làng những cán bộ phụ

trách địa bàn, tổ chức hướng dẫn hòa giải kịp thời và đúng thời điểm, đúng

lúc để tránh xảy ra kiện cáo. Đây được xem là biện pháp hữu hiệu, bởi chính

những người gần dân nhất, cán bộ tổ dân phố, khu, xóm là những người nắm

rõ nhất khi có xảy ra tranh chấp và chính họ là những hòa giải viên tốt nhất,

nếu như tổ chức tốt khâu hòa giải ở cơ sở kịp thời, sẽ hạn chế các tranh chấp

kéo dài, vượt cấp lên cấp cao hơn, bởi khi đã đưa ra chính quyền, Tòa án thì

tình cảm của họ hàng, anh chị em, làng xóm sẽ bị tổn thương, sứt mẻ, ảnh

hưởng đến đạo đức, đạo lý tốt đẹp trong nhân dân, khu phố, thôn làng. Điều

này cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật Việt Nam, giải quyết theo cách

ngày xưa khi chính quyền các thời vẫn giải quyết, nó phù hợp với tập quán

pháp, một đặc điểm trong xét xử và giải quyết tranh chấp ở Việt Nam từ ngàn

xưa. Trường hợp không thể giải quyết được bằng hòa giải thì sẽ dẫn đến kiện

tụng tại Tòa, khi đó sẽ chuyển hồ sơ đến Tòa sơ thẩm, khi đủ hồ sơ thì sẽ tiến

hành thụ lý vụ án.

Trong khâu thụ lý vụ án chú ý tới một số vấn đề như sau:

Khi có đơn khởi kiện, bộ phận hành chính tiếp nhận đơn khởi kiện phải

kiểm tra các điều kiện như:

- Nội dung đơn có phù hợp không, có đúng theo quy định hay không?

37

- Yêu cầu các bên cung cấp chính xác địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn và

các cá nhân có liên quan để thuận lợi cho công tác tống đạt, xác minh, điều tra.

- Kiểm tra yêu cầu khởi kiện: nội dung khởi kiện yêu cầu chia thừa kế

theo pháp luật, theo di chúc, di sản hừa kế đó ở đâu?,…

- Kiểm tra các tài liệu liên quan như giấy chứng tử, giấy khai sinh, xác

định các quan hệ về nhân thân như thế nào?

Khi kiểm tra nếu đủ điều kiện thì bộ phận hành chính tư pháp thụ lý vụ

án, hoàn thiện hồ sơ, báo cáo chuyển lãnh đạo phân công thành phần liên

quan để tiến hành giải quyết theo quy định.

Nếu không đủ điều kiện thì báo cáo người có thẩm quyền hướng dẫn

đương sự bổ sung đơn yêu cầu khởi kiện.

Nếu ấn định thời gian, không bổ sung thì trả lại đơn kiện, theo quy định

tại Khoản 1 Điều 192 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về trả lại đơn

khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện: “1.Thẩm phán trả lại đơn

khởi kiện trong các trường hợp sau đây:

a, Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và

Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

b, Chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.

Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về

các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi

còn thiếu một trong các điều kiện đó”.

2.1.2. Chuẩn bị xét xử vụ án

Đây là bước tiếp theo sau khi đã thụ lý vụ án dân sự liên quan đến tranh

chấp thừa kế QSDĐ. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thời hạn tùy vào từng

trường hợp, thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:

Công nhận sự thỏa thuẩn của các đương sự;

Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;

Đưa vụ án ra xét xử.

38

Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử,

Tòa án phải mở phiên tòa, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn

là 02 tháng, điều này được quy định bởi Điều 203 Bộ Luật tố tụng Dân sự

năm 2015.

2.1.3. Phiên tòa xét xử sơ thẩm giải quyết tranh chấp thừa kế quyền

sử dụng đất

Theo quy định tại Điều 196 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 phiên tòa

phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định

đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa trong trường hợp

phải hoãn phiên tòa: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án,

Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị đơn, cơ quan, tổ

chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho

Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án.

Thành phần tham dự phiên Tòa được quy định tại Điều 227 đến Điều

232 tại Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015, bao gồm: Đương sự, người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan; người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch, kiểm

sát viên.

Tại phiên tòa xét xử sở thẩm giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ bao

gồm các nội dung sau:

Bước 1 là Chuẩn bị khai mạc phiên tòa (Điều 237 Bộ Luật Tố tụng dân

sự 2015): Đây là thủ tục của Thư ký Tòa án gồm các công việc như: Phổ biến

nội quy, xác định sự vắng mặt, có mặt theo giấy giới thiệu, ổn định trật tự,

yêu cầu mọi người đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào làm việc.

Bươc 2: Tiếp theo là thủ tục bắt đầu phiên tòa bao gồm các công việc

như sau:

Khai mạc phiên Tòa (Điều 239 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015)

39

+ Chủ tọa phiên tòa khai mạc và đọc quyết định đưa vụ án tranh chấp

thừa kế QSDĐ ra xét xử;

+ Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định

và người phiên dịch;

+ Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt;

+ Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng.

Bước 3 trong giai đoạn này là thủ tục tranh tụng tại phiên tòa:

Hỏi tại phiên tòa: Thứ tự hỏi tại phiên tòa được quy định tại Điều 249

Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015.

+ Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn

hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích của bị đơn, sau đó là

người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người có quyền và nghĩa vụ liên quan.

+ Những người tham gia tố tụng khác;

+ Chủ tọa phiên tòa, hội thẩm nhân dân;

+ Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

Thủ tục tranh luận tại phiên tòa được tiến hành theo quy định tại Điều

260 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015. Đây là hoạt động trọng tâm của phiên tòa,

bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước

tòa án.

Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án tranh chấp thừa kế

QSDĐ chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét

thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định việc trở lại hỏi và tranh luận

(Điều 263 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015).

Bước 4 là Nghị án và tuyên án tại phiên tòa: Nghị án ( Điều 264 Bộ

Luật Tố tụng dân sự 2015) là việc Hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải

quyết vụ án. Có thể trở lại việc hỏi và tranh luận ( Điều 265 Bộ Luật Tố tụng

dân sự 2015).

40

Tuyên án (Điều 267 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015), sau khi bản án đã

được thông qua, Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để tuyên án.

Như vậy, đó là toàn bộ các bước, các khâu trong quy trình xét xử sơ

thẩm vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án.

Trong tất cả các khâu của giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ

thì cần đặc biệt chú trọng tới công tác hòa giải trước và trong quá trình xét xử,

bởi vì các vụ án tranh chấp quyền thừa kế luôn có yếu tố nhân thân, huyết tộc

bên cạnh yếu tố tài sản. Các bên tham gia trong tranh chấp có quan hệ họ

hàng với nhau, có thể là anh chị em trong gia đình, cô, bác, chú, dì,… do đó,

họ có quan hệ huyết thống nhất định, bên cạnh pháp lý thì bên trong con

người họ vẫn còn có tình cảm gia đình, nếu như đánh thức phần tình cảm, yếu

tố văn hóa, phong tục trong họ thì vấn đề có thể được giải quyết nhẹ nhàng và

hiệu quả hơn là việc đưa nhau ra Tòa xét xử đến phân chia để rồi tình cảm

trong gia đình bị ảnh hưởng và đôi bên đều bị tổn thương.

2.2.Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án

cấp phúc thẩm

2.2.1. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị và thụ lý vụ án tranh chấp

thừa kế quyền sử dụng đất để xét xử phúc thẩm

Trong HTPL thì kháng cáo chính là hành vi tố tụng sau khi xử sơ thẩm,

nếu đương sự không đồng ý với phán quyết của tòa sơ thẩm thì có quyền

kháng án. Thuật ngữ pháp lý gọi là kháng cáo, yêu cầu tòa cấp trên xét xử

một lần nữa theo trình tự phúc thẩm. Theo quy định tại Điều 273 Bộ Luật Tố

tụng dân sự năm 2015 có quy định về thời hạn kháng cáo như sau:

“1.Thời hạn kháng cao đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15

ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc

cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án

mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họnhận

được bản án hoặc bản án được niêm yết.

41

Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân

khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà

không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.

2.Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải

quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơquan,

tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định

được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày

kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi

đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì

ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận”.

Trên là quy định chung đối với các vụ án dân sự khi có kháng cáo,

trong đó đối với giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án

cũng tuân thủ theo thời hạn và trình tự như trên.

Kháng nghị khác với kháng cáo, kháng nghị là hành vi tố tụng của

người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án,

quyết định của Tòa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác,

công bằng, đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của

Tòa án.

Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện

kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 01 tháng,

kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên Tòa thì

thời hạn kháng nghị tính từ ngày VKSND cùng cấp nhận được bản án.

Tại Điều 372 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cũng quy định về thời hạn

kháng cáo, kháng nghị như sau:

“1.Người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải

quyết việc dân sự có quyền kháng cáo quyết định giải quyết việc dân sự trong

thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Trường hợp họ không có

mặt tại phiên họp giải quyết việc dân sự thì thời hạn đó được tính từ ngày họ

42

nhận được quyết định giải quyết việc dân sự hoặc kể từ ngày quyết định đó

được thông báo, niêm yết.

2.Viện Kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết

việc dân sự trong thời hạn 10 ngày, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền

kháng nghị trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.”

Saukhi các bên đương sự có kháng cáo lên Tòa phúc thẩm, trên cơ sở

những tình tiết, bản án và đơn kháng cáo, Tòa phúc thẩm tiếp nhận và giải

quyết khi nguyên đơn đáp ứng đầy đủ hồ sơ và tạm ứng án phí, thực hiện theo

đúng quy định về trình tự và thời hạn kháng cáo, kháng nghị nêu trên thì Tòa

phúc thẩm sẽ thụ lý vụ án giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ theo trình

tự của một vụ án giải quyết tranh chấp dân sự và tiến hành theo các quy định

của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Như vậy, trong giải quyết vụ án tranh chấp về thừa kế QSDĐ thì đương

sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi

kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết

vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ

thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Còn Viện trưởng VKSND cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền

kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự,

quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của tòa sơ thẩm để yêu cầu Tòa án

cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Sau khi tiếp nhận kháng cáo, kháng nghị theo thời gian quy định, Tòa

phúc thẩm sẽ tổ chức thụ lý vụ án. Tại Điều 285 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015

quy định về thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm như sau:“1. Ngay sau khi nhân

được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa

án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải

thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi

43

kiện và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và thông báo

trên cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

2.Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử phúc

thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa.”

Saukhi thụ lý vụ án, Tòa cấp phúc thẩm sẽ tổ chức tiến hành các bước

sau để tiến hành xét xử phúc thẩm theo quy định.

Bước 1 là khai mạc phiên tòa:về cơ bản các khâu chuẩn bị cũng giống

như khai mạc ở phiên tòa sơ thẩm. Ban đầu chủ tọa phiên tòa khai mạc và đọc

quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau đó thư ký phiên tòa báo cáo Hội đồng xét

xử về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu

tập của Tòa án và lý do vắng mặt,… sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa

phúc thẩm thì một thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội

dung vụ án giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ, quyết định bản án sơ

thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.

Bước 2 là khâu hỏi về việc kháng cáo, kháng nghị và xử lý việc thay

đổi kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa. Ở đây chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi một số

vấn đề như: Nguyên đơn có tút đơn khởi kiện không? Người kháng cáo, kiểm

sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị không? Hỏi các

đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không?,…

Thông qua các câu hỏi đối với các bên liên quan tham gia phiên Tòa thì chủ

tọa phiên Tòa sẽ có biện pháp và hướng để xét xử hòa hòa giải đôi bên trong

tranh chấp.

Bước 3 quá trình trình bày của các đương sự, kiểm sát viên: Đây là lúc

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo (hoặc đương sự

có kháng cáo) trình bày nội dung kháng cáo của mình với Tòa. Trong khi đó,

đâycũng là lúc kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị. Đồng thời, những

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khác có liên quan đến

kháng cáo, kháng nghị trình bày ý kiến của mình trước Tòa để chủ tọa phiên

tòa xém xét, giải quyết và đưa ra phán quyết.

44

Bước 4 là các thủ tục hỏi và công bố tài liệu, chứng cứ, xém xét vật chứng

tại phiên Tòa phúc thẩm. Tại đây chủ tọa sẽ tiến hành hỏi các đương sự, các

bên liên quan, thẩm tra thẩm định các tài liệu, chứng cứ để có thể có căn cứ

và cơ sở để đi đến phán quyết.

Bước 5 là tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm: Trường hợp có kháng cáo

thì tranh luận những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi

tại phiên tòa phúc thẩm. Tranh luận trong trường hợp có kháng nghị thì người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu về tính hợp pháp,

căn cứ của kháng nghị. Bên cạnh đó thì kiểm sát viên phát biểu ý kiến về

những vấn đề mà người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự đã nêu.

Bước thứ 6 là phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Ở giai

đoạn này thì sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp, kiểm sát viên phát

biểu ý kiến của VKSND về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết

vụ án dân sự. Sau đó, khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản

phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.

Bước 7 là giai đoạn nghị án: Saukhi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng

xét xử vào phòng nghị án để nghị án trên cơ sở các nội dung của phiên tòa.

Bước 8 là giai đoạn tuyên án: Đây là giai đoạn cuối cùng của phiên tòa

phúc thẩm. Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án giải quyết tranh chấp về thừa kế

QSDĐ với sự có mặt của các đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức và cá nhân

khởi kiện. Trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa nhưng vắng mặt lúc

tuyên án thì Hội đồng xét xử vẫn tuyên đọc bản án.

2.2.2. Phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử

dụng đất

Có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác khi xem xét phạm vi xét xử phúc

thẩm, trong HTPL cũng chưa có khái niệm thống nhất về thuật ngữ này. Nhìn

chung, có thể hiểu rằng giới hạn hay phạm vi xét xử của Tòa án không phải là

vô cùng, vô hạn, thể hiện ý chí chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng mà nó

được luật hóa, bằng các quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào nội dung, tính

45

chất của vụ việc đưa ra xét xử. Nếu như trong tố tụng hình sự quy định giới

hạn xét xử của tòa án chính là phạm vi những người, những hành vi mà

VKSND truy tố trong cáo trạng và quyết định đưa ra xét xử. Chính yếu tố này

đã làm cho Tòa án luôn là cơ quan xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Trong tố tụng dân sự, vì tính chất của dân sự là việc riêng tư của đương sự,

cho nên bao giờ luật pháp cũng tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Tòa án

trong xét xử vụ việc dân sự chỉ là cơ quan đứng ra giải quyết những xung đột,

những sự kiện pháp lý mà đương sự cung cấp. Do vậy, khác với Tòa án hình

sự là dựa trên cáo trạng của VKSND thì trong tố tụng hình sự Tòa án xác định

phạm vi xét xử của mình dựa trên cơ sở yêu cầu của đương sự, thể hiện ở hình

thức là đơn kiện, đơn yêu cầu. Chính vì vậy, trên cơ sở sự đối chiếu và phân

tích nêu trên, cá nhân tác giả xin đưa ra khái niệm về phạm vi xét xử của Tòa

phúc thẩm trong vụ án dân sự như sau: Phạm vị xét xử của tòa án phúc thẩm

là thẩm tra và xem xét, xử lý một phần nội dung của các đương sự giải quyết

trên cơ sở yêu cầu của các bên có kháng cáo, kháng nghị một phần của tòa sơ

thẩm.

Trong giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ tại Tòa án, đề cập tới

phạm vi xét xử phúc thẩm thì chúng ta căn cứ vào quy định của pháp luật về

tố tụng dân sự được quy định cụ thể tại điều 293 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015

quy định như sau: “Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần bản án sơ

thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có

liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”.

Bên cạnh đó tại Điều 294 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 cũng quy định

những người tham gia phiên tòa phúc thẩm như sau: “1. Người kháng cáo,

đương sự, cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan đến việc giải quyết kháng

cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

phải được triệu tập tham gia phiên tòa. Tòa án có thể triệu tập những người

tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa nếu xét thấy cần thiết cho việc giải

quyết kháng cáo, kháng nghị.

46

2.Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên tòa phúc thẩm.”

Như vậy có thể thấy rằng phạm vi xét xử phúc thẩm không phải là toàn

bộ bản án mà chỉ xét một phần của bản án sơ thẩm mà có phát sinh kháng

cáo, kháng nghị của các bên liên quan. Trình tự, thủ tục của phiên tòa phúc

thẩm giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐcũng được tiến hành như các

bước nêu trên sau khi đã thụ lý vụ án.

2.2.3. Thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm giải quyết tranh chấp

thừa kế quyền sử dụng đất

Thẩm quyền của tòa án phúc thẩm trong vấn đề giải quyết tranh chấp

thừa kế QSDĐ chính là quyền hạn của tòa trong giải quyết các vấn đề liên

quan. Thầm quyền giải quyết các vụ việc dân sự của toàn phúc thẩm được

xem là quyền xem xét, giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định

khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của Tòa án.

Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành cũng quy định Tòa án nhân dân có quyền

thụ lý và giải quyết những vấn đề nhất định để giải quyết theo thủ tục tố tụng

dân sự. Đồng thời, khi giải quyết theo thẩm quyền Tòa phúc thẩm có quyền ra

các quyết định giải quyết về vụ việc đã thụ lý.

Hiện nay, theo quy định hiện hành thì Hội đồng xét xử tòa phúc thẩm là

Hội đồng bao gồm các thẩm phán và Hội thẩm nhân dân do Tòa án có thẩm

quyền lập ra để nhân danh Nhà nước trực tiếp xét xử tại phiên tòa các vụ án

và ra các bản án hoặc các quyết định đối với các vụ án. Trong việc giải quyết

tranh chấp về thừa kế QSDĐ là một vụ án dân sự, cũng nằm trong phạm vi

điều chỉnh và thẩm quyền của Hội đồng.

Xét xử phúc thẩm chính là việc xét xử lần thứ hai, trong đó Tòa án cấp

trên trực tiếp xét xử lại những bản án hoặc xét lại các quyết định sơ thẩm

chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Khi đó, tòa phúc thẩm

sẽ là chủ thể có vai trò trực tiếp thực hiện việc xét xử tại Tòa án cấp phúc

thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải là hội đồng có thành viên cố

47

định, chỉ những Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được phân công mới được

tập hợp lại thành Hội đồng xét xử trong mỗi vụ án riêng.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Hội đồng xét xử phúc thẩm

có thẩm quyền sau: Tại Điều 308 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:

“Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm:

1.Giữ nguyên bản án sơ thẩm;

2.Sửa bản án sơ thẩm;

3. Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án

cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo tục sơ thẩm;

4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;

5. Đình chỉ xét xử phúc thẩm;

6. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án Tòa án

nhân dân Tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi,

bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến

pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban

thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp

trên cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản trả lời Tòa án

kết quả xử lý”.

Qua đó có thể thấy rằng thẩm quyền của tòa án phúc thẩm quy định

tương đối chặt chẽ và cụ thể trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế

QSDĐ, một loại tranh chấp cơ bản trong các loại tranh chấp dân sự hiện nay.

Hội đồng phúc thẩm có quyền bác kháng cáo hoặc kháng nghị trong trường

hợp kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ và tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử

đúng. Bên cạnh đó, nếu qua xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét

thấy Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật, thì Hội đồng

xét xử có thể sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngoài ra, Hội đồng

xét xử phúc thẩm có thể hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu

trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong

các trường hợp vi phạm quy định về xét xử sơ thẩm.

48

Nhìn chung, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt

là căn cứ vào Điều 308 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 thì chúng ta có thể hiểu

rõ và nắm được thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm trong việc giải quyết

tranh chấp dân sự nói chung và đối với các tranh chấp về thừa kế QSDĐ nói

riêng. Nếu như vượt quá thảm quyền của tòa phúc thẩm sẽ chuyển bản án và

vụ án lên cấp trên trực tiếp.

Tiểu kết chương 2

Tranh chấp trong các giao dịch dân sự hiện nay ngày một nhiều và trở

lên phổ biến trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Trên góc độ QLNN làm sao

giải quyết triệt để các xung đột, mâu thuẫn trong xã hội, đảm bảo cho xã hội

phát triển ổn định, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao. Tuy

nhiên, khi nền kinh tế thị trường phát triển thì các QHXH, các quan hệ kinh

tế, quan hệ dân sự cũng theo đó mà biến đổi hết sức phức tạp và phong phú,

mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là không thể phủ nhận, nó mang lại

nguồn của cải vật chất, tạo ngày càng nhiều việc làm và không ngừng nâng

cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Bên cạnh đó, nó cũng bộc lộ những

mặt hạn chế nhất định, đó là sự ganh đua, tranh giành lẫn nhau giữa các cá

nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế với nhau về lợi ích, quyền lợi vật chất,

khi có mâu thuẫn không giải quyết được bằng hòa giải sẽ dẫn tới kiện cáo,

khiếu kiện. Chính điều này đã đặt cho công tác quản lý nhà nước nói chung

và với ngành tòa án nói riêng nhiều vấn đề cần giải quyết.

Hiện nay, khi tiến hành giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề

dân sự thì Bộ Luật Dân sự và Luật tố tụng Dân sự năm 2015 chính là các văn

bản pháp luật cao nhất điều chỉnh các quan hệ dân sự, trong đó có các quan hệ

liên quan đến vấn đề tranh chấp về thừa kế QSDĐ. Trong chương 2, luận văn

đi vào tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện nay về giải quyết tranh chấp

về thừa kế QSDĐ tại Tòa án, đây chính những căn cứ pháp lý cơ bản và quan

trọng nhất, định hướng cho các bên tham gia giải quyết tranh chấp và là căn

49

cứ pháp lý để Tòa án tiến hành phân giải các tranh chấp về thừa kế QSDĐ.

Dựa trên những căn cứ pháp lý nói trên, sẽ là nền tảng cơ bản để tác giả luận

văn đi vào chương 3 tìm hiểu thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp thừa kế

QSDĐ của tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội giai đoạn

hiện nay. Đồng thời trên cơ sở tìm hiểu thực tiễn những thuận lợi, khó khăn

trong công tác xét xử của TAND quận mà tác giả cũng mạnh dạn đề xuất một

số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi pháp luật, giải quyết

tranh chấp về thừa kế QSDĐ ở quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội trong

thời gian tới.

50

Chương 3

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ

DỤNG ĐẤT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại

Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm

3.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội quận Bắc Từ Liêm

Quận Bắc Từ Liêm phí đông giáp với quận Tây Hồ, , phía đông nam

giáp với quận Cầu Giấy, phía Tây giáp với huyện Đan Phượng và Hoài Đức,

phía Nam giáp với quận Nam Từ Liêm, phía bắc giáp với huyện Đông Anh.

Quận được thành lập theo nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm

2013 của Chính phủ, trên cơ sở tách 9 xã: Thượng Cát, Liêm Mạc, Tây Tựu,

Thụy Phương, Minh Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế; 9,30

hét ta diện tích tự nhiên và 596 nhân khẩu của xã Xuân Phương; 75,48 hét ta

diện tích tự nhiên và 10.126 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn. Quận Bắc Từ

Liêm có tổng số diện tích là 43,35 km2, với tổng số dân là 333.300 người

(thống kê năm 2017 của UBND quận Bắc Từ Liêm).

Các đơn vị hành chính cơ bản của quận có 13 phường như: phường Cổ

Nhuế 1, Cổ Nhuế 2, Đông Ngạc, Đúc Thắng, Liêm Mạc, Minh Khai, Phú

Diễn, Phúc Diễn, Tây Tựu, Thượng Cát, Thụy Phương, Xuân Đỉnh và phường

Xuân Tảo. Hiện nay, trụ sở của UBND quận Bắc Từ Liêm đóng tại Tòa nhà

CT6A, khu đô thị Kiều Mai, đường Kiều Mai, phường Phúc Diễn, quận Bắc

Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu chung của quận là xây dựng đảng

bộ,các tổ chức thuộc đảng bộ trong sạch vững mạnh; xây dựng và phát huy

sức mạnh đoàn kết trong Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân;

khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ

tầng kinh tế - xã hội; đẩy mạnh thực hiện trật tự - văn minh đô thị, phát triển

51

giao thông đô thị, phát triển kinh tế bền vững, cơ cấu hợp lý, văn hóa xã hội

tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thân của nhân dân được nâng cao; an ninh

chính trị - trật tự an toàn được giữ vững; thế trận an ninh nhân dân và quốc

phòng toàn dân được vững chắc; hướng tới xây dựng quận Bắc Từ Liêm trở

thành đô thị Sạch - xanh – hiện đại của Thủ đô Hà Nội.

Về thuận lợi: Tình hình chính trị - xã hội của đất nước và Hà Nội luôn

được giữ vững và ổn định; quận Bắc Từ Liêm luôn nhận được sự quan tâm

của lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sắc của thành ủy HĐND-UBND

thành phố, sự giúp đỡ, phối hợp tích cực của các Sở, ban, ngành, MTTQ và

các đoàn thể của thành phố, quận Bắc Từ Liêm đã được quy hoạch, phân khu

đã được phê duyệt, quận có sự đoàn kết thống nhất trong đảng và hệ thống

chính trị từ quận đến cơ sở, nhân dân đoàn kết, đồng thuận tin tưởng và sự

lãnh đạo của đảng, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Về khó khăn: Hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh

tế còn gặp nhiều khó khăn, do suy thoái kinh tế chưa được phục hiooir, thêm

nữa do ảnh hưởng của dịch bệnh kéo dài làm sản xuất kinh doanh buôn bán

trên địa bàn bị hạn chế. Quận vẫn là đơn vị hành chính có quy mô dân số lớn,

tốc độ tăng cơ học và yêu cầu về đảm bảo an sinh xã hội cao; một số phát sinh

trong việc thực hiện chính sách đất đại, thừa kế có tính lịch sử từ nhiều năm

trước phải giải quyết sẽ tiếp tục phát sinh, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao

thông còn chưa phát triển,… đây đều là những khó khăn, trở ngại không hề

nhỏ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quận trong thời gian tới.

Trên cơ sở phát huy những thận lợi, khắc phục khó khăn, trong thời

gian qua quận cũng đã tiến hành xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội đạt

được những kết quả khả quan. Thực hiện chương trình 03-CTr/TU của Thành

uỷ Hà Nội về “Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế Thủ đô nhanh,

bền vững giai đoạn 2016 - 2020”, kinh tế của quận phát triển nhanh, ổn định;

cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành

52

thương mại - dịch vụ, công nghiệp – xây dựng và giảm giá trị sản xuất ngành

nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản.

Theo đó, năm 2016, giá trị sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng đạt

18.911 tỷ đồng; thương mại - dịch vụ đạt 5.870 tỷ đồng; nông nghiệp, lâm

nghiệp, thuỷ sản đạt 817 tỷ đồng. Sau 3 năm thực hiện Chương trình 03-

CTr/TU, đến hết năm 2018, giá trị sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng đạt

24.762 tỷ đồng (tăng 30,94%); thương mại - dịch vụ đạt 8.454 tỷ đồng (tăng

44%); nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản đạt 793 tỷ đồng (giảm 2,9%).

Ngoài ra, môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, tạo sự thuận

lợi để các doanh nghiệp khởi nghiệp, đầu tư đổi mới công nghệ và từng bước

hội nhập quốc tế. Quận đang triển khai chính thức 40 dịch vụ công trực tuyến.

Từ khi triển khai đến nay, tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến luôn đạt 100% trên tất cả

các lĩnh vực. Thực hiện hồ sơ đăng ký kinh doanh được giải quyết trong 2

ngày làm việc (giảm 33% so với quy định) đối với quá trình giao dịch trên

mạng; 100% hồ sơ khiếu nại của người nộp thuế được giải quyết đúng thời

gian quy định; thủ tục đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản tại quận được

đơn giản và rút ngắn còn dưới 14 ngày.

Bên cạnh đó, các dự án đường giao thông lớn (từ đại học Mỏ địa chất

đi Phạm Văn Đồng, đường Khu công nghiệp Nam Thăng Long đi vành đai

4…) đã hoàn thiện và đi vào hoạt động. Đổi mới, hỗ trợ phát triển làng nghề

truyền thống hoa Tây Tựu và hình thành vùng liên kết sản xuất nông nghiệp

kết hợp với phát triển du lịch. Thực hiện tốt khâu đột phá về huy động và sử

dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Thực hiện các biện

pháp và giải pháp điều hành chi ngân sách tiết kiệm, hiệu quả để phục vụ kịp

thời các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đề ra…

Với những tiềm năng về kinh tế, xã hội, về con người, về vị trí địa lý là

quận giáp với các tỉnh xung quanh thành phố Hà Nội, tất cả tạo thành thế

mạnh vốn có của quận trọng xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội theo hướng

hiện đại, nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân, qua đó

53

nâng cao ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật của người dân, người dân

hiểu biết về pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật qua đó sẽ giảm tải

được các vấn đề vi phạm pháp luật, các tranh chấp không đáng có, qua đó làm

cho ngành tòa án ở quận bớt gánh nặng, khi giải quyết cũng sẽ nâng cao hiệu

quả trong giải quyết tranh chấp ở địa phương, đặc biệt là các vấn đề tranh

chấp về đất đai, về thừa kế QSDĐ như hiện nay.

3.1.2. Cơ cấu tổ chức của TAND quận Bắc Từ Liêm

Theo quy định của pháp luật hiện nay, cơ cấu tổ chức của TAND quận

Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội bao gồm có: 01 chánh án và 3 phó chánh án,

thẩm phám, thư ký tòa án.

Chánh án: Chánh án toà án nhân dân quận do Chánh án TAND tối cao

bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức với nhiệm kỳ bổ nhiệm có thời hạn là 05

năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Chánh án TAND quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà

Nội có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

Thứ nhất, tổ chức công tác xét xử của TAND quận Bắc Từ Liêm, TP.

Hà Nội.

Thứ hai, chịu trách nhiệm về tổ chức thực hiện nguyên tắc Thẩm phám,

Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

Thứ ba, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân có thẩm quyền theo

luật định và TAND thành phố Hà Nội;

Thứ tư, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng;

giải quyết các vụ việc khác theo quy định của pháp luật.

Các Phó chánh án: Các Phó chánh án TAND quận Bắc Từ Liêm, TP.

Hà Nội do chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức với

nhiệm kỳ bổ nhiệm có thời hạn là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Các

phó chánh án TAND quận Bắc Từ Liêm giúp chánh án thực hiện nhiệm vụ

theo sự phân công của chánh án. Trong trường hợp Chánh án TAND quận

vắng mặt, một Phó chánh án được Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của

Tòa án. Phó chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được

giao theo quy định. Đồng thời, các phó chánh án cũng thực hiện các nhiệm

vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng hiện hành.

54

Thẩm phán:Thẩm phán TAND quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội là

những người đủ điều kiện, tiêu chuẩn được Chủ tịch nước bổ nhiệm với

nhiệm kỳ là 05 năm để thực hiện nhiệm vụ xét xử các vụ án, vụ việc theo quy

định của pháp luật.

Thư ký Tòa án:Thư ký TAND quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội tối

thiểu có trình độ cử nhân luật trở lên được Chánh án TAND thành phố Hà Nội

tuyển dụng, đào tạo về nghiệp vụ, chuyên môn nhất định về lĩnh vực Thư ký

Tòa án và được bổ nhiệm vào ngạch Thư ký Tòa án để làm Thư ký phiên Tòa,

tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của luật tố tụng, thực hiện các

nhiệm vụ hành chính, tư pháp và nhiệm vụ khác theo sự phân công của chánh

án TAND quận.

3.1.3. Những kết quả đạt được trong công tác xét xử từ Tháng 6 năm

2015 đến nay.

Trên cơ sở những điều kiện thuận lợi trên, trong những năm qua công

tác xét xử của toàn án nhân dân quân Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã đạt

một số nội dung đáng khả quan. Hàng năm TAND quận giải quyết một lượng

lớn các vụ án, đặc biệt là các vụ án lĩnh vực đất đai và tranh chấp thừa kế về

QSDĐ. Sau đây là bảng số liệu về tổng số các vụ án đã qua xét xử ở Tòa án

quận thời gian qua.

Bảng 3.1: Tổng số vụ án Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm giải quyết

từ năm 2015 đến năm 2019

Năm

2015

2016

2017

2018

Vụ án

2019 Tổng

720 815 930 905 910 4280

Tổng số vụ án đang thụ lý

Tổng số vụ án đã

690 798 916 820 860 4084 giải quyết

(Nguồn: Theo báo cáo hoạt động Tòa án nhân dân quân Bắc Từ Liêm,

thành phố Hà Nội)

55

Nhìn vào bảng số liệu nêu trên có thể nhận thấy rằng công tác xét xử

của TAND quận trong thời gian qua là rất lớn với tổng số 4280 vụ án trong

giai đoạn 5 năm từ năm 2015 đến 2019. Trong đó số vụ án đã giải quyết với

tổng số 4084 vụ án, chiếm 95,4% tổng số vụ án đã giải quyết, tỷ lệ giải quyết

án rất cao, điều đó cho thấy năng lực cũng như thực tế xét xử của TAND quận

là rất hiệu quả. Trong từng năm có sự chênh lệch khác nhau về tổng số vụ án

và tỷ lệ giải quyết vụ án, tuy nhiên xét về tổng thể cả giai đoạn thì đây chính

là thắng lợi lớn của TAND quận. Trong thời gian tới, TAND quận cần phát

huy hơn nữa vai trò của mình trong việc tiếp nhận và giải quyết vụ án, nhất là

những vụ án về dân sự ngày càng nhiều và phức tạp do cuộc sống luôn biến

đổi và các quan hệ xã hội không ngừng vận động thay đổi mà hệ thống văn

bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ thì lại đứng yên tương đối, sự cập nhất,

bổ sung văn bản trong xét xử trong thời gian tới là rất quan trọng để điều

chỉnh các QHXH, nhất là các quan hệ về thừa kế tài sản. Đồng thời năng lực

xét xử của đội ngũ những người làm về công tác Tòa án ở quận cũng không

ngừng được nâng cao và cập nhật những kiến thức mới.

Riêng về giải quyết các vụ án dân sự lĩnh vực tranh chấp về thừa kế

QSDĐ trên địa bàn trong thời gian qua cũng ghi nhận số lượng và kết quả giải

quyết công việc đạt hiệu quả cao, lượng án tồn đọng ít, chất lượng giải quyết

cao, thỏa đáng.Dựa theo như bảng số liệu về tổn hợp các vụ án về tranh chấp

thừa kế QSDĐ ở quận Bắc Từ Liêm như sau:

Bảng 3.2: Số vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

quận Bắc Từ Liêm giải quyết từ 2015 đến 2019

Năm 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng

Vụ án

Tổng số vụ án dân sự thụ lý 165 250 360 286 275 1336

Số vụ án tranh chấp thừa kế Quyền sử dụng đất 105 170 253 187 198 913

(Nguồn: Thực tế hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm,

thành phố Hà Nội)

56

Như vậy, trong thời gian từ năm 2015 đến 2019 TAND quận Bắc Từ

Liêm, thành phố Hà Nội đã thụ lý và giải quyết số lượng các vụ án dân sự lớn,

tổng số lên đến 1336 vụ án tranh chấp lĩnh vực dân sự, trong đó các vụ ánliên

quan đến tranh chấp thừa kế QSDĐ là 913 vụ án, chiếm 68,4% tổng số vụ án

dân sự của quận. Vì vậy, giải quyết tranh chấp liên quan đến thừa kế QSDĐ,

tranh chấp về đất đai trở nên nổi cộm và phức tạp hơn, một số vụ án còn xảy

ra tình trạng kéo dài, vượt cấp, nhiều năm giải quyết chưa triệt để. Do đó,

trong thời gian tới cần đặc biệt chú trọng tới công tác giải quyết tranh chấp về

đất đai, đặc biệt là về tranh chấp về thừa kế QSDĐ và tài sản gắn liền với đất,

tài sản thừa kế.

3.1.4. Những sai sót dẫn đến sửa án, hủy bản án tranh chấp thừa kế

quyền sử dụng đất tại Tòa án Hà Nội và TAND quận Bắc Từ Liêm.

Ví dụ 1. Giải quyết tranh chấp chia thừa kế tài sản và đòi tiền bồi thường

Nguyên đơn: Bà L, sinh năm 1959;

Bị đơn: Ông D, sinh năm 1964;

Giải quyết tại tòa án sơ thẩm.

1.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2.

Bà T, sinh năm 1970;

3.

Anh Kh, sinh năm 1990;

4.

Bà D, sinh năm 1966;

5.

Chị L, sinh năm 1990;

6.

Anh B, sinh năm 1989

Chị A, sinh năm 1988;

Giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm, Phúc thẩm.

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 05/4/2012 và quá trình giải quyết vụ án,

nguyên đơn bà L trình bày:

Cụ Tr, sinh năm 1926 (chết năm 2007) và cụ Ph, sinh năm 1927 (chết

năm 1999) là vợ chồng. Do hai cụ không có con nên nhận nuôi 03 người con

57

gồm: Bà L, ông C, ông Th (ông Th chết năm 2001, có vợ là bà Nguyễn Thị T

và con là Nguyễn Ngọc Kh).

Cụ Tr và cụ Phchết không để lại di chúc, di sản hai cụ để lại hiện tại ông

C đang quản lý, sử dụng gồm: 243m2 đất ở tại thửa 109 tờ bản đồ số 32, thôn

A, xã B, huyện C; trên đất có các tài sản là nhà 3 gian cấp 4 đã cũ, 01 bếp, 01

chuồng lợn, 01 nhà tắm và 01 nhà xây hai tầng (nhà hai tầng xây năm 2002).

Ngoài ra, cụ Tr còn 01 suất đất % (đất rau xanh) và 01 suất đất nông

nghiệp được chia theo Nghị định 64/1999/CP; cụ Ph chỉ có 01 suất đất % (đất

rau xanh). Đất % (đất rau xanh) của hai cụ, Nhà nước đã thu hồi toàn bộ, còn

diện tích đất nông nghiệp của cụ Tr đã bị Nhà nước thu hồi một phần hiện còn

lại diện tích là 31m2.

Ngoài các tài sản trên, hai cụ không còn tài sản nào khác. Các tài sản

khác còn lại trên đất là của vợ chồng ông

Khi cụ Tr và cụ Ph còn sống, ba chị em bà sống chung cùng hai cụ, đến

năm 1993 thì vợ chồng ông D tách sổ hộ khẩu riêng nhưng vẫn sống chung

trên cùng nhà, đất của hai cụ.

Do gia đình đông người, nhà cũ bị hư hỏng nên khoảng năm 2001-2002,

cụ Tr đã chuyển nhượng cho bà T (vợ ông Th) 48m2 đất ở vị trí đầu ngõ với

giá 32.000.000 đồng, số tiền này cụ Tr dùng vào việc xây nhà hai tầng vào

năm 2002. Việc cụ Tr bán đất cho bà T và xây nhà bà chỉ nghe kể lại chứ

không biết cụ thể, khi cụ Tr xây nhà bà không tham gia, không đóng góp vì bà

ở nơi khác.

Năm 2003, ông D tự ý kê khai và được UBND huyện C cấp giấy chứng

nhậnQSDĐ đối thửa đất nêu trên mang tên hộ gia đình ông D, việc ông D

được cấp giấy chứng nhận QSDĐ sau này bà mới biết.

Năm 2007, cụ Tr chết bà về lo mai tang thì bị ông D ngăn cản. Việc ông

D trình bày là cụ Tr trước khi chết có di chúc để lại tài sản cho ông D là

không đúng sự thật.

Năm 2008, UBND huyện C thu hồi đất để làm cầu, trong đó có cả suất

58

đất 10% và đất nông nghiệp. Ông D đã trực tiếp đi nhận tiền 291.000.000

đồng/1 sào (360m2) nhưng ông D chỉ trả bà 63.794.000 đồng là tiền thu hồi

đất nông nghiệp, còn tiền bồi thường đất 10% thì ông D chưa trả bà.

Năm 2010, UBND huyện C có hỗ trợ thêm đối với các hộ bị thu hồi đất,

cụ thể bao nhiêu tiền và đối với loại đất nào thì bà không biết, nhưng tổng hai

lần là 56.700.000 đồng/ 01 suất.

Bà xác định QSDĐ ở diện tích 243m2 tại thửa 109 tờ bản đồ số 32, thôn

A, xã B, huyện C và 01 nhà hai tầng, 01 nhà ba gian cấp bốn cũ, 01 nhà tắm

cũ, 01 chuồng lợn cũ, 01 nhà bếp cũ là tài sản chung của cụ Ph và cụ Tr.

1. Chia di sản thừa kế của cụ Tr để lại theo quy định pháp luật gồm:

Nay bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

Diện tích 120m2 đất ở và V2 giá trị của các tài sản có trên đất gồm 01

nhà hai tầng, 01 nhà ba gian cấp bốn cũ, 01 nhà tắm cũ, 01 chuồng lợn cũ, 01

nhà bếp cũ; yêu cầu chia thừa kế QSDĐ bằng hiện vật để bà sử dụng.

Số tiền bồi thường do thu hồi đất % (đất rau xanh) và đất nông nghiệp là

56.700.000 đồng + 58.000.000 đồng.

Diện tích đất nông nghiệp còn lại của cụ Tr là 31 lm2, yêu cầu chia bằng

Ông nhất trí với lời trình bày của bà L về quan hệ gia đình, thời điểm cụ Tr và

cụ Ph mất.

Về nguồn gốc thửa đất hiện nay ông đang quản lý, sử dụng mà bà L trình

bày nêu trên là của các cụ đời trước để lại cho cụ Tr và cụ Ph quản lý, sử

dụng và ông cũng thừa nhận đây là tài sản chung của cụ Ph và cụ Tr.

Ông thừa nhận di sản của cụ Trvà cụ Ph để lại mỗi người có 01 suất %

(đất rau xanh) đã bị Nhà nước thu hồi toàn bộ và ông đã nhận tiền bồi thường;

ngoài ra, cụ Tr có 01 suất đất nông nghiệp được cấp theo Nghị định 64/1999/CP

đã bị Nhà nước thu hồi một phần, hiện nay còn lại diện tích là 31 m2.

Ngoài ra, trên đất còn có một số công trình khác như bếp, khu vệ sinh,

nhà tắm, cổng sắt, giếng khoan, sân gạch trước nhà hai tầng là tài sản của vợ

chồng ông.

59

Năm 1993, gia đình ông đã làm thủ tục tách sổ hộ khẩu riêng, còn hai cụ

vẫn chung sổ hộ khẩu với ông Th, bà L, nhưng thực tế thì vợ chồng ông vẫn

sống chung với cụ Ph và cụ Tr trên thửa đất hai cụ để lại, còn ông Th đã xây

nhà ở nơi khác, bà L thì ở nơi khác không có mặt tại địa phương.

Về đất sản xuất nông nghiệp: Năm 1987, Nhà nước điều chỉnh từ đất 5%

lên đất 10%. Do bà L không có mặt tại địa phương từ năm 1980 nên không

thuộc diện được cấp lại đất % (đất rau xanh). Việc bà L trình bày bà được cấp

đất % là không đúng.

Việc bà L trình bày cụ Tr chuyển nhượng đất cho bà T (vợ ông Th) để

lấy tiền xây nhà hai tầng là không đúng, do ông Th đã chết năm 2001 mà ông

Th có con trai nên cụ Trđã tặng cho hai cháu để làm nhà ở.

Năm 2003, Nhà nước có chính sách kê khai cấp giấy chứng nhận QSDĐ,

khi đó cụ Tr vẫn còn sống và đã đồng ý cho ông được toàn quyền sử dụng

thửa đất, vì vậy ông đã trực tiếp đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận

QSDĐ và đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình

ông do ông đại diện đứng tên.

Năm 2008, UBND huyện C thu hồi đất 10% và đất nông nghiệp để làm

cầu, ông là người trực tiếp đi nhận tiền bồi thường và đã đưa cho bà L ba đợt

tổng cộng là 63.794.000 đồng tiền bồi thường đất nông nghiệp được cấp theo

Nghị định 64/1999/CP tương đương với 01 suất của bà L, bà L không được

cấp đất 10% nên không có tiền bồi thường.

Cụ Ph chết năm 1999 không để lại di chúc. Cụ Tr chết năm 2007 có để

lại di chúc bằng văn bản có xác nhận của 03 người làm chứng và chứng thực

của UBND xã B với nội dung giao cho ông được toàn quyền sử dụng 243m2

đất ở và tài sản gắn liền trên đất cũng như toàn bộ diện tích đất nông nghiệp.

Bà L không được hưởng quyền lợi vì đã bỏ nhà đi từ năm 1980 không quan

tâm đến bố mẹ, khi cụ Tr chết bà L cũng không về lo mai táng và không có

trách nhiệm gì.

Nay bà L khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Tr để lại, ông

60

không nhất trí vì cụ Tr đã để lại di chúc như trên cho ông, còn nhà 02 tầng là

do vợ chồng ông xây dựng không có sự đóng góp của cụ Tr.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T, chị L, anh D, chị L, chị A

nhất trí với lời khai của ông D.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T, anh Khđề nghị Tòa án giải

quyết theo quy định của pháp luật. Vì lý do công việc xin vắng mặt toàn bộ

quá trình giải quyết vụ án.

1. Không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của bà L.

2. Xác nhận thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32 có địa chỉ tại thôn A, xã B

Tại Bản án dân sự sơ thẩm, phúc thẩm đã quyết định:

huyện C có diện tích 240m2 và giá trị các tài sản có trên đất là: 01 nhà bếp cũ,

01 nhà tắm cũ, 01 nhà cấp bốn cũ, 01 nhà chăn nuôi lợn cũ là tài sản chung

3. Xác nhận di sản của cụ Ph gồm: Quyền sử dụng 120m2 đất ở trong

của cụ Tr và cụ Ph.

tổng số 240m2 của thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32 có địa chỉ tại thôn A, xã

B, huyện C; Vi giá trị các tài sản có trên đất là nhà cấp 4 cũ, nhà bếp cũ, nhà

tắm cũ, nhà chăn nuôi lợn cũ có giá trị là: V2 X (2.311.000 đồng + 2.466.000

đồng + 7.216.000 đồng + 5.974.000 đồng) = 1-7.967.000 đồng và 56.700.000

4. Xác nhận di sản của cụ Tr gồm: Quyền sử dụng 120m2 đất ở trong

đồng tiền bồi thường do thu hồi đất % (đất rau xanh).

tổng số 240m2 của thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32 có địa chỉ tại thôn A, xã

B, huyện C và Vi giá trị các tài sản có trên đất có giá trị là: V2X (2.311.000

đồng + 2.466.000 đồng +đồng + 5.974.000 đồng) = 17.967.000 đồng; 01 suất

đất sản xuất nông nghiệp là đất được giao theo Nghị định 64/1999 của Chính

phủ tương ứng với 31 m2 sau khi bị thu hồi đất; 56.700.000 đồng tiền bồi

thường do thu hồi đất % (đất rau xanh) và 58.000.000 đồng tiền bồi thường

5. Ông C được hưởng di sản thừa kế theo di chúc của cụ Tr gồm: Quyền

đất 64/CP.

sử dụng 120m2 đất ở của thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32 có tổng diện tích

61

240m2 có địa chỉ tại thôn A, xã B, huyện C đã được UBND huyện C cấp giấy

chứng nhận QSDĐ có số vào sổ cấp Giấy chứng nhận: 1247/QSDĐ ngày

27/10/2003 mang tên hộ gia đình ông D; diện tích 31 m2 đất sản xuất nông

nghiệp (đất 64/1999/CP) có địa chỉ tại thôn A, xã B, huyện C đã được UBND

huyện C cấp giấy chứng nhận QSDĐ có số vào sổ cấp Giấy chứng nhận:

6. Ông D và gia đình được quyền sở hữu và sử dụng các tài sản có trên

0636/QSDĐ ngày 24/5/2000 mang tên hộ gia đình ông D.

đất gồm 03 gian nhà cấp bốn cũ, 01 nhà bếp cũ và 01 nhà tắm cũ, 01 nhà chăn

nuôi lợn cũ đã đổ nát, hư hỏng, hiện chỉ còn tường bao quanh; 01 giếng khoan

và 01 nhà hai tầng làm năm 2002; 01 khu công trình phụ, 01 sân lát gạch chỉ

trước nhà hai tầng, 01 sân láng xi măng trước nhà tắm cũ làm năm 2009 tọa

7. Tạm giao cho ông D quản lý 120m2 đất ở của thửa đất số 109, tờ bản

lạc trên thửa đất số 109, tờ bản đồ số 32, thôn A, xã B, huyện C.

đồ số 32 có tổng diện tích 240m2 có địa chỉ tại thôn A, xã B, huyện C đã được

UBNDhuyện C cấp giấy chứng nhận QSDĐ mang tên hộ gia đình ông D và

Vi giá trị các tài sản có trên đất là nhà cấp 4 cũ, nhà bếp cũ, nhà tắm cũ, nhà

chăn nuôi lợn cũ có giá trị là: V2X (2.311.000 đồng + 2.466.000 đồng +

7.216.000 đồng + 5.974.000 đồng) =17.967.000 đồng và 56.700.000 đồng

tiền bồi thường do thu hồi đất % (đất rau xanh) là di sản của cụ Ph để lại do

8. Về án phí sơ thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thấm cho bà L. Bà

hết thời hiệu chia thừa kế.

L được nhận lại số tiền 7.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai

9. Về án phí phúc thẩm: Bà L không phải chịu. Hoàn trả bà L số tiền

0007201 ngày 02/7/2012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C.

200.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 05222 ngày 09/6/2014 của Chi

cục thi hành án dân sự huyện C.

Bác các yêu cầu khác của các bên đương sự.

Như vậy, thông qua ví dụ nêu trên cho thấy việc xác định người thừa

hưởng di sản thừa kế là vấn đề rất quan trọng, dẫn đến những hạn chế trong

62

xét xử. Thứ nhất, khi xác định chưa chính xác sẽ dẫn tới hướng giải quyết

chưa hợp lý và chưa đúng pháp luật sẽ dẫn tới các hệ lụy khác trong việc triển

khai thực hiện giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ và tranh chấp tài sản liên

quan đến đất đai rất phức tạp.

Thứ hai, là việc xác minh chưa chính xác di sản thừa kế trong giải

quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, trong vụ án kể trên, do xác

định đất nhà ở và đất vườn, thuộc diện đất 10% còn chưa hợp lý, dẫn đến các

bên có quyền và lợi ích liên quan xung đột và tranh chấp, dẫn đến kiện ra Tòa

sơ thẩm, rồi Tòa phúc thẩm vẫn chưa được giải quyết hợp lý.

Thứ ba, việc chứng thực của UBND xã B không thể hiện được ghi vào

sổ chứng thực nên việc chứng thực này là không đúng quy định tại Điều 11,

khoản 1 Điều 41 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính

phủ về công chứng, chứng thực.

Thứ tư, do chưa đủ căn cứ xác định Bản di chúc ngày 09/8/2006 thể

hiện đúng ý chí của cụ Tr. cần thu thập thêm mẫu chữ ký của cụ Tr đế tiến

hành giám định, làm rõ chữ ký tại Bản di chúc có đúng là của cụ Tr hay

không. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của

người làm chứng để công nhận án di chúc ngày 09/8/2006 là hợp pháp và chia

thừa kế di sản của cụ Tr theo di chúc là chưa đủ cơ sở vững chắc.

Chính vì vậy, cách thức giải quyết phân chia thừa kế và tài sản của Tòa

án chưa hợp lý, bị các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan kiến

nghị tới cấp Tòa Giám đốc thẩm.

Vụ án 2. Giải quyết tranh chấp thừa kế

Nguyên đơn: Bà Th, sinh năm 1958;

Bị đơn: Ông X, sinh năm 1964;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà L, sinh năm 1952;

2. Bà B, sinh năm 1962;

3. Bà Đ, sinh năm 1970;

63

4. Anh D, sinh năm 1996;

5. Bà L, sinh năm 1971;

Giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm.

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/02/20ỉ6 và trong quá trình giải quyết vụ

án, nguyên đơn là bà Th trình bày:

Bố mẹ bà là cụ Th và cụS sinh được 06 người con là bà L, bà Th, bà B,

ông X, bà Đ và bà H (bà H chết năm 1997).

Năm 1977, cụ Th chết không để lại tài sản. Sau khi cụ Th chết thì cụ

Stạo dựng được khối tài sản là thửa đất số 290 tờ bản đồ số 06 (theo bản đồ

299) diện tích 609m2 tại thôn A, xã B, huyện C. Trên đất có 1 bể nước, 1

giếng cũ và một số cây cối do cụ S trồng.

Năm 2013, cụ S chết, phần lớn diện tích đất của cụ S để lại do vợ

chồng ông X, bà Lquản lý, sử dụng, một phần nhỏ còn lại do anh D (con bà

H) quản lý, sử dụng.

Quá trình sử dụng vợ chồng ông X, bà L xây dựng căn nhà 2 tầng và

công trình phụ trên phần lớn diện tích đất. Còn một phần đất thì cháu D làm

nhà ở. Khi còn sống cụ S ở với vợ chồng ông X, bà L; khoảng 2 năm trước

khi chết cụ Sủ ở cùng với cháu D.

Sau khi cụ S chết, bà và các chị em gái cùng cháu H đều thống nhất

chia diện tích đất của cụ S để lại nhưng ông X không đồng ý vì cho rằng ông

X là con trai duy nhất ở với mẹ, phần diện tích đất ông đang sử dụng bố mẹ

đã cho ông X nên là của ông và ông X đã được cấp Giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất năm 2003.

Bị đơn là ông X trình bày:

Ban đầu ông X không đồng ý vói yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì

cho rằng ông là con trai duy nhất trong gia đình thì đương nhiên được hưởng

di sản của mẹ. Từ năm 1992 ông kết hôn với bà L và vợ chồng ông ở cùng

với mẹ. Năm 2009, mẹ ông đồng ý cho vợ chồng ông phá căn nhà cấp 4 cũ đế

64

xây nhà 2 tầng kiên cố và công trình phụ như hiện nay. Khi chuẩn bị làm nhà

thì ông mới biết đất đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ mang tên vợ chồng

ông, do bà L vợ ông đưa. Ông không kê khai, đăng ký và ông cũng không biết

ai là người đã kê khai, đăng ký xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ.

Sau đó ông X thay đổi lời khai: ông thừa nhận mẹ ông để lại diện tích

đất và tài sản trên đất như bà Th trình bày. Ông không phải là người kê khai,

đăng ký xin cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Ông cũng không nghe mẹ ông nói

cho vợ chồng ông đất. Khi còn sống cụ S chưa tuyên bố và chưa làm thủ tục

tách đất cho vợ chồng ông. Khi xảy ra tranh chấp ông mới biết đất đã được

cấp Giấy chứng nhận QSDĐ mang tên vợ chồng ông. Ông đề nghị hủy Giấy

chứng nhận QSDĐ mang tên vợ chồng ông. Ông xác định bà L là vợ ông

không hợp tính với mẹ ông nên vợ chồng ông không ở chung với cụ S. Khi cụ

S còn sống không ai phải chăm sóc cụ, vợ chồng ông cũng không đón cụ lên

ở căn nhà mới xây, mà cụ vẫn ở tại căn nhà cũ do bà H xây dựng.

Ông đề nghị chia đều di sản của mẹ là diện tích đất ở cho các con.

Riêngphần đất ông được chia, ông đề nghị giao phần đất trên có nhà và công

trình xây dựng của vợ chồng ông.

- Bà L trình bày: Bà thừa nhận nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:

của cụ S như nguyên đơn trình bày. Bà kết hôn với ông X năm 1992 và vợ

chồng bà về ở trên đất cùng với cụ S. Năm 2009, cụ S đồng ý cho vợ chồng

bà phá căn nhà cấp 4 đã cũ để xây căn nhà 2 tầng cùng công trình phụ như

hiện nay. Trước khi xây nhà khoảng một năm cụ S có đưa cho bà Giấy chứng

nhận QSDĐ mang tên vợ chồng bà. Giấy chúng nhận QSDĐ này do cụ Skê

khai và tách đất cho vợ chồng bà. Còn phần đất cháu D đang sử dụng, cụ S có

nói tách đất cho cháu D nhưng bà không rõ đã tách chưa. Khi còn sống cụ S

có nói phần đất của cháu D đã được cấp giấy chúng nhận QSDĐ nhưng bà

không được nhìn thấy. Do vợ chồng bà sống chung với cụ Snên bà yêu cầu

tính công sức chăm sóc, nuôi dưõng mẹ; nhung sau đó bà khai không yêu cầu

65

- Bà Đ, bà L, bà B, anh D thống nhất trình bày: Đồng ý với lời trình

đối với khoản chi phí mai táng, chăm sóc nuôi dưỡng mẹ.

bày của nguyên đơn, xác định đất có nguồn gốc của cụ S đế lại, chưa cho vợ

chồng ông X, bà L và chưa cho cháu H nên yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ

S. Yêu cầu hủy Giấy chúng nhận QSDĐ cấp cho vợ chồng ông X, bà L.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2017/DS-ST ngày 28/6/2017quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Th về chia thừa kế di sản của cụS

theo pháp luật và hủy giấy chúng nhận QSDĐ.

Chấp nhận sự tự nguyện của nhũng người thừa kế không yêu cầu giải

quyết đối với 01 bể nước, 01 "giếng đào, chuồng chăn nuôi, 07 cây na, 01 cây

hồngxiêm, 01 cây vải, 02 cây nhãn, 01 cây dừa, 04 cây cau, 01 cây mít, 01

cây bưởi, 04 bụi chuối, tường bao quanh toàn bộ thửa đất do cụ S để lại.

Chấp nhận sự tự nguyện của anh D không yêu cầu giải quyết đối với

01 nhà 2 gian cấp 4, 01 bếp, 01 sân láng vữa xi măng, tường bao 3 mặt (Bắc,

Đông, Nam) do bà H xây dựng.

Không chấp nhận việc đối trừ 57m2 (tiêu chuẩn 721 còn thiếu của ông

X, bà L) và 220m2 (trừ tiêu chuẩn đất 721 ghi trong giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất) vào đất ở của cụ S.

1. Xác định khối di sản thừa kế cụ S để lại là diện tích 643,2m2 đất ở trị

giá 2.536.800.000 đồng.

Ông X, bà Th, bà B, bà Đ, bà L, anh D, mỗi người hưởng phần di sản

được chia giá trị là 422.800.000 đồng.

Về đất:

Chia cho ông X được quyền sử dụng diện tích 201m2 đất ở; kích thước

các cạnh phía Bắc dài (3,8m + 5,7m) giáp đường bê tông; phía Đông dài

22,6m, giáp phần đất chia cho bà L; phía Nam dài 9,3m, giáp đất ông B; phía

Tây dài 20,4m, giáp phần đất chia cho bà Th; trên đất là toàn bộ các công

trình của ông X, bà L xây dựng và cây cối tự trồng.

Chia cho bà Th được quyền sử dụng diện tích 97,2m2 đất ở, kích thước

66

các cạnh phía Bắc dài 5,1 m giáp đường bê tông; phía Đông dài 20,4m, giáp

phần đất chia cho ông X, phía Nam dài (1,5+1,'4+2,8)m, giáp đất ông B; phía

Tây dài (8,6+9,4)m giáp đất ông B.

Chia cho bà L được quyền sử dụng diện tích 103,7m2 đất ở; kích thước

các cạnh phía Bắc dài 4,8 giáp đường bê tông; phía Đông dài 17,8m, giáp

phần đất chia cho bà B; phía Nam dài (1,5+2,9+5,l)m, giáp đất ông B; phía

Tây dài 22,6m, giáp phần đất chia cho ông X.

Chia cho bà B được quyền sử dụng diện tích 85,7m2 đất ở; kích thước

các cạnh phía Bắc dài 4,3m giáp đường bê tông; phía Đông dài 17,5m, giáp

phần đất chia cho bà Điềm, phía Nam dài 5,4m, giáp đất ông B, phía Tây dài

17,8m, giáp phần đất chia cho bà L.

Chia cho bà Đ được quyền sử dụng diện tích 76,9m2 đất ở; kích thước

các cạnh phía Bắc dài 4,3m giáp đường bê tông; phía Đông dài 17,3m, giáp

phần đất chia cho anh D; phía Nam dài 4,6m, giáp đất ông B; phía Tây dài

17,5m, giáp phần đất chia cho bà B. Chia cho anh D được quyền sử dụng diện

tích 78,6m2 đất ở; kích thước các cạnh phía Bắc dài 4,6m giáp đường bê tông;

phía Đông dài (2,1+1,7+1,8+3,0+3,l)m, giáp đất ông B; phía Nam dài

(3,0+2,9+2,l)m, giáp đất ông B; phía Tây dài 17,3m, giáp phần đất chia cho

bà Đ (kèm theo bản án là sơ đồ chia đất). Ông X phải trả chênh lệch giá trị di

sản được hưởng cho bà Th 34.000.000 đồng; trả cho bà L 8.000.000 đồng, trả

cho bà B 80.000.000 đồng, trả cho bà Đ 115.200.000 đồng, trả cho anh D

108.400.000 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án khoản

tiền trên mà ông X không thi hành thì phải chịu lãi suất cơ bản do Ngân hàng

Nhà nước quy định tưong ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thi hành.

Ông X, bà L có trách nhiệm tháo dỡ công trình trên đất trả lại mặt bằng

đất được chia cho bà Th và bà Ltrong thời gian 3 tháng kể từ ngày án có hiệu

lực pháp luật.Công trình, cây cối của cụ S và của mẹ con anh D nằm trên

phần đất chia cho ai người đó được hưởng và tự tháo dỡ.

67

Ông X, anh D, bà Đ, bà B, bà L có trách nhiệm xây tường ngăn cách

giữa các thửa đất đã chia cho các bên trên phần đất được chia.

2. Hủy Giấy chúng nhận QSDĐ sốW007310, vào sổ cấp giấy chúng

nhận QSDĐ số: 00076/QSDĐ/số 30 QĐƯB-2003 do UBND huyện C cấp

ngày 08/12/2003 do ông X và bà L, quyền sử dụng 428m2 đất (trong đó ghi

208m2 đất ở, 220m2 đất trồng cây lâu năm trừ vào tiêu chuẩn đất 721); số thửa

125A, tờ bản đồ số 02 tại A, xã B, huyện C.

UBND huyện C làm thủ tục cấp giấy chúng nhận QSDĐ cho các

đương sự với diện tích đất được chia theo đúng quy định của pháp luật.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền

kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bà L có đơn đề nghị theo thủ tục phúc thấm

đối với Bản án dân sự sơ thấm nêu trên.

Tại Quyết định số 03/2019/KN-DS ngày 16/01/2019, Chánh án TAND

cấp phúc thẩm đã kháng nghị Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2017/DS- ST ngày

28/6/2017 của TAND huyện C; đề nghị Úy ban Thấm phán TAND cấp phúc

thẩm xét xử theo hướng hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thấm số 03/2017/DS-

ST ngày 28/6/2017 của TAND huyện C; giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện

C xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Như vậy, thông qua việc phân tích vụ án nêu trên, quá trình xét xử của

Tòa án cho thấy nếu như không xét xét kỹ càng các chứng cứ, tài liệu để phân

định và xác định các mối quan hệ nhân thân trong quyết tranh chấp thì đó sẽ

là thiếu sót nghiêm trọng, điều đó sẽ dẫn tới xác định người thừa hưởng

không chính xác, từ đó sẽ là căn cứ sai để phân chia tài sản thừa kế.

Qua hai ví dụ nêu trên, có thể rút ra các nguyên nhân dẫn đến sai sót

trong giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất do các nguyên

nhân sau:

Thứ nhất là do xác định người thừa kế chưa chính xác, dẫn đến những vấn

đề về giải quyết phân chia thừa kế chưa đúng pháp luật, chưa hợp lý, hợp tình;

68

Thứ hai là xác định không chính xác di sản được thừa kế, đây chính là

vấn đề liên quan đến nội dung của phân chia quyền thừa kế, phân chia tài sản

thừa kế vì xác định chưa đúng, nên việc phân chia không chính xác;

Thứ ba là phán quyết của Tòa án về cách chia thừa kế còn chưa hợp lý,

chưa đáp ứng yêu cầu và chưa làm thỏa mãn các bên đương sự, chính vì vậy

dẫn đến khiếu kiện kéo dài và vượt cấp;

Thứ tư, khi phân chia, giải quyết tranh chấp yêu tố nhân thân, quan hệ

tình cảm, dòng tộc trong gia đình chưa được chú trọng, chưa tính hết sự phức

tạp trong cũng như chưa đào sâu vào các quan hệ gia đình để tăng tính hòa

giải khi phân xử.

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực

thi việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại tòa án nhân

dân quận Bắc Từ Liêm

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật

Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh luôn là yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự

thành công của mỗi quốc gia, dân tộc. Khi pháp luật trở thành tối thượng và

pháp luật chính là thước đo, chuẩn mực để soi vào đó có thể đánh giá được

mỗi cá nhân, tổ chức. Trong hoạt động QLNN, pháp luật chính là việc xây

dựng lên hành lang pháp lý cho các quan hệ pháp luật hoạt động, chính là các

quy định giữa chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước với đối tượng áp dụng

trong những quan hệ liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Trong

các quan hệ này, nếu như pháp luật điều chỉnh cụ thể, chính xác khách quan

thì sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển chung, còn ngược lại, nếu như pháp

hạn chế, mang tính cục bộ của một nhóm lợi ích thì rất có thể nó sẽ kìm hãm

sự phát triển.

Thứ nhất, HTPL về giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ chính là hệ

thống các văn bản pháp luật như Luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Tố tụng dân

sự, các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, các Nghị định của Chính phủ, các

văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định, các Thông tư, thông tư liên tịch, các

69

văn bản ký kết giữa quốc gia với quốc tế trong linh vực liên quan,… tất cả

chúng hợp thành một hệ thống văn pháp luật để điều chỉnh về một lĩnh vực,

đó là công tác giải quyết các tranh chấp của người dân về thừa kế QSDĐ, hoạt

động của Tòa án và người cán bộ công tác tại Tòa án. Khi và chỉ khi xây dựng

được HTPL tiến bộ, hệ thống tiêu chuẩn hoàn chỉnh, và có sự phối kết hợp rõ

ràng, cụ thể trong công tác giải quyết kiếu nại, tố cáo, liên quán tới các đương

sự, khởi kiện, hồ sơ pháp lý,…thì mới có thể tạo thành sức mạnh cho sự kiện

toàn, hiện đại và tạo sự thành công trong thực thi công vụ.

Để thực hiện thành công thì cần phải rà soát, bổ sung, hoàn thiện HTPL

về công tác giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ đất tại Tòa án. Bên cạnh đó

ngành Tòa án, thanh tra cũng cần bổ sung các văn bản hướng dẫn, hệ thống

các thông tư sao cho đảm bảo hợp lý và không chồng chéo với các văn bản

trước đó. Trong vấn đề xây dựng các ngạch thẩm phán, tiêu chuẩn thẩm tra

viên, thư ký viên để làm sao không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán

bộ, công chức ngành Tòa án để đảm bảo họ có đủ kiến thức, năng lực, bằng

cấp và tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu công việc. Đồng thời cũng chú trọng tới

các chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phục vụ

trong ngành giúp họ đảm bảo được cuộc sống ở mức cơ bản trung bình khá so

với xã hội và không ngừng đươc nâng cao, có như vậy họ mới chuyên tâm

vào xét xử và đảm bảo công băng, minh bạch, không thiên vị, không tiêu cực.

Do đó, việc không ngừng kiện toàn và nâng cao trình độ đối với đội ngũ cán

bộ, công chức làm công tác xét xử chính là nhân tố quan trọng góp phần nâng

cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất hiện nay. Bởi vì

đây chính là những người trực tiếp áp dụng pháp luật, đưa các quy định của

pháp luật vào thực tế cuộc sống. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu nhưng

nếu người áp dụng không hiểu đúng tinh thần và áp dung sai thì cũng là vô

nghĩa, chính vì thế yếu tố con người luôn là yếu tố cần có sự quan tâm hàng

đầu, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

70

Thứ hai, là xây dựng một HTPL đồng bộ với đầy đủ các quy định, chế

định về thừa kế QSDĐ: Khẩn trương ban hành Luật đăng ký Bất động sản vì

Luật quy định chủ sở hữu phảiđăng ký quyền sở hữu tài sản theo quy định của

pháp luật về đăng ký bất động sản nhưng cho đến thời điểm hiện tại thì Luật

Đăng Ký Bất Động Sản vẫn chưa được ban hành; Các văn bản hướng dẫn thi

hành Luật Đất Đai năm 2013 phải được ban hành đầy đủ, kịp thời, phù hợp

với sự phát triển chung của xã hội để đưa pháp luật vào cuộc sống, trong đó

Uỷ Ban thường vụ Quốc hội cần có văn bản cụ thể hoá các đối tượng khác là

người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép mua nhà ở gắn liền với

quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam (nhưquyđịnh tạiĐiều 121khoản 1 điểm đ

Luật Đất Đai 2013);

Đồng thời, trong thời gian tới cần hoàn thiện các quy định pháp luật về

thực hiện ứng dụng hệ thống điện tử trên phần mềm cổng thông tin điện tử

trong việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký cấp QSDĐ tại tất cả các văn phòng đăng

ký đất và nhà trên toàn quốc, đảm bảo rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận

cho người dân, giảm tải các vấn đề tranh chấp khi có giấy chứng nhận (sổ đỏ)

sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện phân định, chuyển giao quyền

thừa kế QSDĐ trong các tranh chấp, bởi nhiều tranh chấp xảy ra chưa có giấy

chứng nhận QSDĐ, các bên tranh giành QSDĐ là rất phức tạp trong việc yêu

cầu về giấy tờ, tài liệu chứng minh. Khi có giấy chứng nhận QSDĐ thì sẽ

thuận lợi cho công dân khi họ muốn chuyển nhượng QSDĐ cho người khác

hoặc khi họ lập di chúc cũng thuận lợi và dễ dàng. Bởi lẽ khi thực hiện các

quy trình trong việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ hiện nay công dân, tổ chức

vẫn phải đến trụ sở nộp hồ sơ và các giấy tờ liên qua, rồi đo đạc, lập bản

đồ,… sau khi hoàn thiện lại mất khoảng ít nhất 2 tuần để đơn vị có thẩm

quyền phê duyệt và cấp QSDĐ, do đó rất mất thời gian thực hiện, đi lại nhiều

lần giây khó khăn cho công dân, tổ chức khi có giao dịch.

Thứ ba, HTPL là tối thượng khi và chỉ khi toàn thể người dân, công

dân, tổ chức và đội ngũ CBCC phải hiểu biết và nắm rõ các quy định của

71

pháp luật. Việc nâng cao các biện pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp

luật về thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng để người dân hiểu biết

các quyền và nghĩa vụ của mình về thừa kế QSDĐ,qua đó hạn chế các tranh

chấp về thừa kế QSDĐ. Bên cạnh đó cần tuyên truyền giáo dục tư tưởng, đạo

đức, lối sống theo hướng coi trọng tình cảm đặc biệt là tình cảm gia đình vì

điều đó giúp giảm bớt các tranh chấp về thừa kế QSDĐ. Bời vì xét cho cùng

các tranh chấp về thừa kế QSDĐ chủ yếu xuất phát từ trong mỗi gia đình, mỗi

người dân, các bên trong tranh chấp đề là người nhà, người thân ruột thịt, họ

hàng với nhau, có ít nhiều mối quan hệ trong cuộc sống, do đó vì lợi ích, quan

điểm và tranh giành về tài sản, về thừa kế QSDĐ là điều bất đắc dĩ, vì thế khi

pháp luật hoàn thiện, người dân hiểu biết, am tường về pháp luật sẽ là nhân tố

cơ bản giảm thiểu các kiện cáo, tranh chấp không đáng có trong lĩnh vực thừa

kế QSDĐ.

Thứ tư,HTPL Việt Nam thời gian tới cần chú trọng tới vai trò của hội

đồng gia tộc, dòng họ trong việc phân định, trách nhiệm và quyền hạn trong

việc đưa ra các quyết định đối với việc quản lý, sử dụng di sản trong việc thờ

cúng là QSDĐ hoặc nhờ thờ gắn liền với QSDĐ, tức là đất dòng họ sử dụng

chung trong việc chung của họ. Đây có lẽ sẽ là vấn đề cần phải có quy định

của pháp luật để điều chỉnh các quan hệ huyết thống, các quan hệ dòng tộc,

đặc biệt là ở Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, của văn hóa thờ

cúng ông bà, tổ tiên, tộc trưởng từ các đời, các thế hệ trước để lại dẫn tới

những tranh chấp sau này nảy sinh đối với đất thuộc quản lý chung của dòng

họ, do vậy các quan hệ nảy sinh trong tranh chấp thừa kế QSDĐ thường

xuyên diễn ra ở khía cạnh đất chung, có sử dụng của nhiều người trong dòng

họ, dẫn đến khi xét xử thiếu chế tài, quy định gây khó khăn trong vận dụng

các quy định của pháp luật để xử vụ án liên quan đến thừa kế QSDĐ.

Trên cơ sở đó, thời gian tới nhằm hoàn thiện HTPL về giải quyết tranh

chấp liên quan đến thừa kế tài sản nói và thừa kế QSDĐ nói riêng cần phải bổ

sung hoàn thiện các luật về Thừa kế trong Bộ Luật Dân sự 2015, đồng thời

72

cần có các Điều, khoản mới về cách thức giải quyết tranh chấp thừa kế

QSDĐtrong Luật Tố tụng dân sự, hướng dẫn cụ thể và rõ ràng hơn để người

dân, các bên có liên quan thực hiện áp dụng pháp luật. Không những thế, các

văn bản dưới Luật, các Nghị định, Thông tư, các văn bán hướng dân thực hiện

pháp luật về dân sự, về đất đai, về giải quyết tranh chấp cũng cần được ban

hành và triển khai tới toàn thể người dân, các cơ quan thi hành pháp luật,

TAND các cấp,.. để mọi người nắm bắt và hiểu sâu hơn về vấn đề khi có

tranh chấp.Trong Luật Dân sự 2015 cần bổ sung các quy định, các điểm,

khoản, Điều về thừa kế, yêu cầu chia thừa kế của người có di sản, di chúc để

lại đối với những người chết trước hoặc sau khi chia thừa kế. Bên cạnh đó thì

pháp luật về thừa kế cần chú ý tới các quan hệ huyết thống, dòng tộc để đảm

bảo phân chia di sản thừa kế không để mất đi truyền thống văn hóa quy giá

của họ hàng, dòng tộc, đảm bảo hợp lý, hợp pháp trong phân chia thừa kế tài

sản nói chung và phân chia thừa kế QSDĐ nói riêng.

3.2.2. Bảo đảm thực thi pháp luật

Đảm bảo thực thi pháp luật đòi hỏi có sự phối hợp và triển khai thực hiện

pháp luật của các bên liên quan, trong đó có các cơ quan nhà nước, cơ quan

tòa án, bộ phận thi hành án, cũng như sự tham gia của các bên đương sự.Bên

cạnh việc áp dụng các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh

chấp thừa kế QSDĐ thì vấn đề chủ yếu trong việc giải quyết tranh chấp đó là

tập trung vào tổ chức thực thi pháp luật trong giải quyết tranh chấp thừa kế

QSDĐ.

Bảo đảm thực thi pháp luật khác với thực tiễn thi hành án, bởi thi hành

án là thực hiện bản án mà pháp luật đã tuyên trên thực tế bắt buộc các bên liên

quan như đương sự, các đơn vị thực thi pháp luật và người dân nghiêm túc

thực hiện theo y án. Ở đây, bảo đảm thực thi pháp luật có ý nghĩa rộng hơn nó

bao gồm cả việc vận động, tuyên truyền pháp luật đến nhận thức của các bên,

các chế tài quy định, các biện pháp cưỡng chế thực hiện nếu như đối tượng

không tiến hành theo bản án.

73

Thứ nhất, bảo đảm thực thi pháp luật về thừa kế QSDĐ cần chú trọng tới

vấn đề con người, trước hết là đội ngũ CBCC ngành Tòa án. Đây là những

người công tác trong ngành Tòa án, trong ngành tư pháp, là đội ngũ thẩm

phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án và những người trợ giúp pháp lý, các

CBCC ngành công an, an ninh,… Phải có kế hoạch đầu tư và tập huấn, bồi

dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực pháp luật, vê thi hành án, về công

tác điều tra, về kiến thức mới cập nhật về công tác của mình. Phải làm sao

mỗi người CBCC phải là một tấm gương sáng trong thực thi công vụ, hiểu và

nắm rõ về pháp luật, nghiêm túc thực hiện pháp luật. Để nâng cao hiệu quả

công tác xét xử đối với vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ, đòi hỏi TAND,

VKSND phải tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ ngành tòa án, kiểm sát. Để nâng cao trình

độ, nhận thức pháp luật và áp dụng pháp luật vào thực tiễn xét xử thì bản thân

của mỗi cán bộ, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải thường xuyên nghiên cứu,

không ngừng học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, lãnh đạo những người đi

trước để tự đúc kết kinh nghiệm vận dụng một cách lôgic, khoa học vào thực

tiễn xét xử.Qua đó, sẽ lan tỏa tấm gương và tinh thần tới các CBCC khác và

tuyên truyền cho mọi người cùng hiểu và thực thi pháp luật một cách hiệu quả

nhất. Có như vậy thì công tác thực thi pháp luật về thừa kế QSDĐ nói riêng

và về thực thi pháp luật nói chung được đảm bảo, không ngừng nâng cao hiệu

lực và hiệu quả trong công tác thi hành án và công vụ hiện nay.

Thứ hai, để đảm bảo thực thi pháp luật một cách nghiêm túc cần đảm bảo

các điều kiện về cơ sở vật chất, về hạ tầng công sở, trụ sở nơi làm việc của

đội ngũ CBCC ngành tòa án cần được đầu tư hơn nữa, để đảm bảo tính trang

nghiêm, nghiêm túc trong hoạt động xét sử nói chung và trong công tác xử lý,

giải quyết các vấn đề về tranh chấp thừa kế QSDĐ nói riêng. Trang thiết bị

cũng như các hệ thống phục vụ công tác kiểm tra, giám sát được trang bị sẽ

chính là những điều kiện căn bản để triển khai các văn bản pháp luật vào thực

tiễn công tác xét xử và thi hành án trên thực tế. Theo đó, cũng cần đẩy mạnh

74

ứng dụng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về tiếp công dân, giải

quyết khiếu nại, tố cao, giải quyết các tranh chấp liên quan trong đời sống, sẽ

áp dụng trực tiếp tại Tòa án, liên thông với các cơ quan khác ở trung ương,

các bộ ngành khác

Thứ ba, cần phải đảm bảo về mặt nhận thức của lãnh đạo cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp, nhận thức của CBCC và

các cá nhân khác như nguyên đơn và bị đơn, các cá nhân có quyền và lợi

ích,… tất cả những thành phần kể trên đều có tác động rất lớn đến việc đảm

bảo thực thi pháp luật trên thực tế. Khi họ nhận thức đầy đủ về quyền và trách

nhiệm, nghĩa vụ của mình thì việc thực thi trên thực tế sẽ thuận lợi hơn rất

nhiều. Các quy định của pháp luật cần được người thực hiện nghiêm túc, từ

việc vận dụng pháp luật của đội ngũ CBCC thực hiện của cơ quan công quyền

cho đến các đối tượng chịu áp dụng cần phải thực hiên các quyết định của

Tòa án theo đúng quy định, đảm bảo hiệu lực pháp luật, thể hiện sự nghiêm

minh của pháp luật, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức

và công dân.

Thứ tư, cần đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có

liên quan là một trong những yếu tố đảm bảo hiệu quả của thực thi pháp luật.

Sự phối hợp phải dựa trên cơ sở quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và thẩm quyền của từng cá nhân, từng bộ phận, cơ quan, đơn vị về mối quan

hệ giữa người có thẩm quyền xét xử, giải quyết tranh chấp với người tham

mưu, quan hệ giữa các bộ phận tham mưu với nhau, cũng như cơ chế phối

hợp giữa cấp trên và cấp dưới trong cùng một đơn vị. Như vậy, trong quá

trình thực thi pháp luật cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân

khác nhau như việc hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện pháp luật, thi

hành án đã phán quyết, sự cộng tác của người có quyền và lợi ích liên quan

trong việc thực hiện bản án của Tòa án. Trong công tác phối hợp để đưa pháp

luật vào cuộc sống, đảm bảo thực thi pháp luật thì cần phát huy thế mạnh

chuyên môn của từng chủ thể và phát huy thế mạnh tổng hợp trong cơ chế

75

phối hợp để thống nhất tham mưu đề xuất cơ quan có thẩm quyền xem xét,

quyết định trong việc thực hiện quyết định của Tòa án.

Thứ năm, đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành

pháp luật, thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ trên

thực tế. Đây chính là các công cụ đảm bảo hoạt động giải quyết tranh chấp

được đúng đắn, khách quan và hiệu quả. Mọi hoạt động đều cần có sự kiểm

tra, giám sát của nhiều chủ thể với những phương thức khác nhau như kiểm

tra việc thực hiện quyết định của Tòa án, giám sát các hoạt động xét xử, thẩm

tra hồ sơ, tính minh bạch và khách quan của từng khâu trong hoạt động xét

xử. Nếu như không có hoạt động kiểm tra, giám sát thì hoạt động xét xử, các

bản án có hiệu lực pháp luật không được thực thi và thi hành triệt để, không

đi đến cùng của quá trình giải quyết, không thỏa mãn hết các bên và làm cho

hoạt động thực thi pháp luật không được bảo đảm.

Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi quyết định hành chính, bản án

của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải dựa trên cơ sở các quy định về quyền và

nghĩa vụ của các chủ thể liên quan. Thông qua đó sẽ phát hiện các chủ thể có

thực hiện đúng, đẩy đủ các nội dung có đúng với trách nhiệm và nghĩa vụ của

mình hay không, đồng thời cũng hình thành nên ý thức tự giác chấp hành và

thi hành pháp luật cho các chủ thể thực thi pháp luật. Việc thanh tra, kiểm tra,

giám sát mang tính chủ động, tích cực và chính là công cụ cơ bản đảm bảo

pháp luật được thực thi trên thực tế một cách hiệu quả và thiết thực.

76

Tiểu kết chương 3

Nhìn chung, công tác giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại TAND

quận bắc Từ Liêm trong thời gian qua cũng đã đạt những thành tựu nhất định,

số vụ giải quyết triệt để cao, các cá nhân và các bên liên quan hài lòng với kết

quả xét xử của Tòa án. Số oan sai được hạn chế, những sai sót cơ bản được

khắc phục và giải quyết. Tuy nhiên, do là quận mới hình thành và đang trong

giai đoạn phát triển, kiện toàn nhiều mặt, đội ngũ CBCC của quận đã được

nâng cao, các cán bộ Tòa án không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của công việc ngày càng phức tạp. Trong

các giải pháp nêu trên: hoàn thiện hệ thống pháp luật và đảm bảo pháp luật

thực thi trong thực tiễn là hai giải pháp cơ bản, trong mỗi giải pháp có những

giải pháp cụ thể để đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả trong hoạt động

xét xử, giải quyết tranh chấp tại tòa án nói chung và về tranh chấp thừa kế

QSDĐ nói riêng. Các giải pháp này phải thực hiện đồng bộ, từng bước một,

không được xem nhẹ giải pháp nào và cũng không đề cao quá mức giải pháp

nào, với từng giai đoạn cụ thế mà cân nhắc tiến hành và đầu tư vào từng giải

pháp cho phù hợp.

77

KẾT LUẬN

Đất đai chính là tài nguyên vô cùng quý giá trong cuộc sống của mỗi

chúng ta, là tài sản đặc biệt đã được pháp luật quy định, nó phù hợp với đời

sống và văn hóa của dân tộc ta. Công dân lao động và tạo ra của cải vật chất,

sở hữu được QSDĐ là quyền thiêng liêng của mỗi người. Khi họ mất đi thì

quyền để lại di sản cho người sống là quyền cơ bản và pháp luật cũng đã thừa

nhận và hợp pháp hóa quyền cho và nhận di sảng của đôi bên Tuy nhiên,

trong cuộc tồn tại rất nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến QSDĐ cũng như

quyền thừa kế QSDĐ. Chính vậy lẽ đó mà hiện nay khi có những vấn đề nảy

sinh tranh chấp về QSDĐ, thừa kế QSDĐ do có hoặc chưa có giấy chứng

nhận QSDĐ là hết sức phức tạp, vì đó là tài sản đặc biệt và quý giá, cho nên

các mâu thuẫn thường nảy sinh và dẫn đến tranh chấp, xung đột giữa các bên,

ảnh hưởng đến tình cảm và đạo lý trong xã hội, tuy nhiên đó lại chính là vấn

đề cần phải được pháp luật giải quyết.

Thực tiễn cho thấy trong hoạt động QLNN, việc giải quyết tranh chấp,

khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo của công dân đúng cấp, đúng thẩm quyền và kịp

thời không những đảm bảo được lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của

công dân mà còn góp phần ổn định an ninh - trật tự xã hội. Qua đó, góp phần

vào việc ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng, lãng phí của công và các tệ

nạn xã hội khác, xây dựng được khối đại đoàn kết trong nhân dân, tạo được

niền tin của nhân dân đối với hệ thống bộ máy hành chính nhà nước, đặc biệt

là đối với ngành Tòa án, đơn vị trục tiếp thực hiện các công việc xét xử hiện

nay. Mặt khác, thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời sẽ giảm

thiểu tình trạng khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp. Đồng thời, nhiều cấp, nhiều

ngành kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những sai sót, lệch lạc, những yếu kém

trong công tác quản lý hành chính, kiến nghị với cấp có thẩm quyền bổ sung,

sửa đổi chế độ chính sách, pháp luật sát với thực tiễn cuộc sống, xử lý nghiêm

minh những người sai phạm.

78

Tất cả các vụ khởi kiện về tranh chấp QSDĐ có thể giải quyết thành ở

cấp cơ sở (cấp xã, phường, thị trấn) khi cán bộ QLNN cấp cơ sở thông hiểu

pháp luật, có kiến thức chuyên môn và có tinh thần trách nhiệm cao. Ngược

lại, thì làm cho sự việc hành chính trở nên rắc rối; phát sinh khiếu nại từ cơ

sở, gây ra sự mất đoàn kết và xáo trộn trong nội bộ nhân dân, gây mất niềm

tin trong nhân dân. Do đó, trong hoạt động QLNN yêu cầu về tiêu chuẩn hóa

các chức danh CBCC và đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng CBCC có

phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết pháp luật, có

năng lực và tận tụy phục vụ nhân dân là hết sức cần thiết và bức bách hiện

nay. Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã đề ra

Nghị quyết về việc “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà nước”. Trong

đó ghi rõ: “Tiến hành sửa đổi bổ sung thể chế và đề cao trách nhiệm của các

cơ quan hành chính trong việc giải quyết các khiếu nại của công dân không

cần đưa xử ở Tòa án”.

Để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ

của tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay

cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như hoàn thiện hệ thống pháp luật về xét

xử, về tranh chấp đất đại, tranh chấp thừa kế QSDĐ, đồng thời phải không

ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC ngành tòa án ở quận. Bên cạnh đó,

cũng cần có các giải pháp khác đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh

chấp thừa kế QSDĐ một cách triệt để, trong đó đặc biệt chú ý tới công tác xét

xử, công tác phối kết hợp giữa các cơ quan liên quan, tăng cường công tác

kiểm tra, giám sát hoạt động thực thực pháp luật, tăng cường công tác tuyên

truyền phổ biến pháp luật tới toàn thể người dân,… chỉ có thể tiến đồng bộ

các giải pháp đó mới có thể nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử

của TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội hiện nay và trong thời gian

tới.

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ph. Ăngghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của

Nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.

2. Trần Hữu Biền và Tiến sĩ Đinh Văn Thanh (1995), Hỏi đáp về pháp luật

thừa kế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

3. Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10 của Chủ tịch nước cho

phép áp dụng luật lệ cũ nếu không trái với nguyên tắc "độc lập của nước

Việt Nam và chính thể cộng hòa", Hà Nội.

4. Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5 của Chủ tịch nước về sửa

đổi một số quy định trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ, Bộ Dân luật Trung Kỳ;

quy định một số nguyên tắc mới cho phù hợp.

5. Chính phủ (1999), Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3 về thủ tục

chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng

đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Hà Nội.

6. Chính phủ (2001),Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10 quy định chi

tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Hà Nội.

7. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 về thi hành

Luật Đất đai, Hà Nội.

8. Trần Chung (1973), Bộ dân luật, Nhà in Trần Chung, Sài Gòn.

9. Lê Đình Nghị (Chủ biên) (2009), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 1,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.

11. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

12. Quốc hội (2009), Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

13. Quốc hội (2013), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung 1992, 2003), Hà Nội

14. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội

15. Quốc hội (2015), Luật Dân sự, Hà Nội.

16. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

80

17. Phùng Trung Tập (2004), Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt

Namtừ năm 1945 đến nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

18. Phùng Trung Tập (2008), Luật Thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

19. Phan Thị Hương Thủy (2005), 99 tình huống và tư vấn pháp luật về thừa

kế nhà và quyền sử dụng đất, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

20. Tòa án nhân dân tối cao (1968), Thông tư số 594- NCPL ngày 27/8 hướng

dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế, Hà Nội.

21. Tòa án nhân dân tối cao (1981), Thông tư 81-TANDTC ngày 24/7 về tổng

kết kinh nghiệm và hướng dẫn đường lối xét xử việc tranh chấp thừa kế,

Hà Nội.

22. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP

ngày10/8 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp

dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia

đình, Hà Nội.

81