intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản tự sự cho học sinh trung học cơ sở

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:129

175
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản tự sự cho học sinh trung học cơ sở nêu lên đặc trưng VBTS và việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS cho HS THCS; vấn đề dạy học tạo lập VBTS ở chương trình THCS; phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS trong tạo lập VBTS.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản tự sự cho học sinh trung học cơ sở

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHAN THỊ MỸ TIÊN RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ ĐỂ TẠO LẬP VĂN BẢN TỰ SỰ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. ĐẶNG NGỌC LỆ Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Đặng Ngọc Lệ, người đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại học Sư Phạm TP. HCM đã tận tâm hướng dẫn, giảng dạy chúng tôi trong thời gian qua. Xin cám ơn Khoa Văn, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học trường Đại học Sư phạm TP. HCM, lãnh đạo Phòng Giáo Dục Quận 6, Hiệu trưởng các trường THCS, các đồng nghiệp là giáo viên mạng lưới và giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở Quận 6 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Tôi xin được dành lời cảm ơn cho gia đình và bạn bè đã động viên, khuyến khích tôi hoàn thành luận văn này. Tác giả luận văn
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT GV : giáo viên HS : học sinh Nxb : nhà xuất bản SGK : sách giáo khoa SL : số lượng TLV : tập làm văn TL : tỉ lệ THCS : Trung học sơ sở VBTS : văn bản tự sự
  4. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đổi mới phương pháp dạy học là cuộc cách mạng trong ngành giáo dục từ nhiều thập niên qua nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của HS, góp phần đào tạo những con người năng động, sáng tạo, những người chủ tương lai đất nước. Đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn cũng nằm trong quỹ đạo chung ấy, nhất là từ chương trình và SGK mới thực hiện từ năm 2002 đến nay. Phương pháp dạy làm văn đã được trang bị trong quá trình đào tạo tại các trường sư phạm, được tập huấn trong các đợt bồi dưỡng thay SGK nhưng việc dạy TLV ở cấp THCS còn gặp rất nhiều khó khăn. GV tỏ ra lúng túng trong quá trình tổ chức, thiết kế giờ dạy, giải quyết việc phân tích mẫu để hình thành khái niệm, luyện tập rèn kĩ năng tạo lập văn bản cho HS… Đối với HS, thực tế cho thấy các em rất ngán ngại viết bài TLV và chưa có hứng thú học tập phân môn một cách tích cực. Thực tế đó đòi hỏi người dạy phải nỗ lực không ngừng để trang bị cho HS kiến thức lý thuyết làm văn, kĩ năng vận dụng tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản. Chương trình TLV THCS tập trung giảng dạy 6 kiểu văn bản gồm tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và hành chính công vụ. VBTS nổi lên như một phương thức quan trọng, xuyên suốt từ đầu cấp đến cuối cấp. Nhưng việc dạy và học tạo lập VBTS chưa được đầu tư đúng mức, có xu hướng xem nhẹ. GV và HS thường cho đây là thể loại đơn giản, được học từ chương trình Tiểu học, chỉ cần nghĩ gì viết ấy, hoặc thấy gì viết đó… Tâm lí này gây sự chây lười trong việc rèn luyện tạo lập VBTS của HS. Tự sự là phương thức phản ánh đời sống chân thực. Vấn đề lý thuyết tự sự ngày càng được quan tâm phổ biến. Bởi vì lý thuyết tự sự cung cấp một bộ công cụ cơ bản, sắc bén nhất giúp cho người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu khác. “Tự sự học phải liên kết với các ngành khác để hiểu biết con người và hiểu biết sự vật.” [75]. Nghiên cứu lý thuyết của VBTS và các vấn đề liên quan khác là nhằm tìm hiểu đặc trưng VBTS và dạy HS tạo lập VBTS theo yêu cầu của nhà trường, nhất là ở cấp THCS. Tạo lập VBTS chính là cách bồi dưỡng khả năng quan sát cuộc sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm đẹp, góp phần hình thành nhân cách cho HS.
  5. Vận dụng kiến thức của tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản là nhiệm vụ của chương trình môn Ngữ văn nhằm hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng Việt. Tạo lập VBTS như thế nào từ cách sử dụng từ ngữ, câu, đoạn văn, các phương tiện liên kết … trở thành một vấn đề quan trọng giúp HS có kiến thức và kĩ năng làm tốt bài văn trong nhà trường THCS. Đề tài luận văn đặt trọng tâm ở việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS có cơ sở khoa học từ vị trí, mục tiêu, quan điểm xây dựng và phát triển chương trình của bộ môn Ngữ văn. Từ những lí do trên, tìm hiểu các đặc điểm ngôn ngữ của văn tự sự để rèn luyện cho HS kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS trở thành nhu cầu cấp thiết góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập bộ môn, hoàn thành tốt mục tiêu của môn học. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 . Sách giáo khoa SGK chương trình cũ (chương trình cải cách (1986), chương trình chỉnh lí (1995)) : TLV được coi là một phân môn trong môn Tiếng Việt, nhưng vẫn có SGK riêng mang tên TLV bên cạnh SGK Văn và Tiếng Việt. Phân phối chương trình quy định dạy TLV về Kể chuyện ở lớp 7, sau khi HS đã được học về Trần thuật, Miêu tả (lớp 6) Tường thuật (lớp 7). Các kiểu bài miêu tả, trần thuật, tường thuật, kể chuyện chỉ tập trung vào hai khối lớp đầu cấp 6, 7. Chương trình và SGK mới THCS (2002) được xây dựng trên quan điểm tích hợp ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và TLV. Theo tinh thần này, cả ba phân môn có mối liên hệ hết sức chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong mỗi bài học và xuyên suốt với các bài học khác trong chương trình. Phương châm của việc tích hợp là nhằm hướng cho HS hệ thống các tri thức riêng của từng phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn và gắn kết những tri thức có quan hệ với nhau giữa các phân môn, giúp HS biết vận dụng những kiến thức đã học vào việc cảm nhận, thẩm định cái hay, cái đẹp của văn bản, tạo lập văn bản, phục vụ cho hoạt động giao tiếp trong đời sống hàng ngày. Chương trình THCS được chia thành hai vòng, theo vòng tròn đồng tâm. Vòng một (lớp 6, 7) sẽ giữ vai trò cung cấp các kiến thức cơ bản. Vòng hai
  6. (lớp 8, 9), HS sẽ được học các kiến thức mới trên cơ sở những điều đã học một cách nâng cao, sâu sắc hơn. TLV về VBTS được bố trí cả ở hai vòng. Lý thuyết và kĩ năng làm bài văn Tự sự luôn được ôn luyện và nâng cao. Chương trình mới đã có sự cải tiến rõ rệt trong việc bố trí thời lượng dạy tạo lập VBTS, giúp HS có điều kiện ôn luyện, thực hành và nâng cao kĩ năng làm bài. Sự tập trung cho thể loại Tự sự ở các cấp lớp cũng thể hiện sự phong phú của thể loại này trong việc giảng dạy và học tập trong chương trình THCS. SGK Ngữ văn 10, tập I [35] - chương trình Trung học phổ thông (2006) tiếp tục hướng dẫn HS thực hành và rèn luyện viết văn tự sự ở mức độ cao hơn THCS. Điều đó cho thấy chương trình đã quan tâm và dành nhiều thời gian cho HS phổ thông học tập và rèn luyện tạo lập VBTS. Trong quá trình xây dựng chương trình, các bài dạy cung cấp cho HS kiến thức và hướng dẫn luyện tập cách làm bài nhưng vấn đề sử dụng ngôn ngữ như thế nào và cách thức rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ ra sao chưa được quan tâm đúng mức. 2.2 . Các sách tham khảo về ngôn ngữ tiếng Việt và dạy học TLV tự sự Từ điển Văn học (bộ mới) [29], Từ điển thuật ngữ Văn học [21], Từ điển Tiếng Việt [71] đã giải thích về thuật ngữ Tự sự trên nhiều phương diện từ định nghĩa, nêu đặc điểm, các phương tiện, biện pháp tự sự, hình thức tự sự, ngôi kể, người trần thuật… Tự sự chỉ một trong ba phương thức biểu đạt của văn học (bên cạnh trữ tình và kịch). “Tự sự tái hiện hành động diễn ra trong thời gian và không gian, tái hiện các tiến trình biến cố trong cuộc đời các nhân vật… Nét đặc thù của tự sự là vai trò tổ chức của trần thuật với ngôn từ chủ yếu làm chức năng thông báo về cái đã xảy ra từ trước…”[29]. Tự sự là phương thức tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan... [21]. Khái niệm tự sự trong các sách trên đã được giải thích khá toàn diện và thống nhất, là cơ sở lý luận trong quá trình nghiên cứu về đặc trưng VBTS. R. Barthes và tự sự học (Lời giới thiệu của Đỗ Lai Thuý, Tôn Quang Cường dịch từ bản tiếng Nga - http ://vanhoanghethuat.org.vn/sach/sudongdanh/rbathes.htm) [73] : Đỗ Lai Thuý giới thiệu về Roland Barthes (1915 –1980) là một nhà phê bình văn học, nhà văn hoá học, một trong những đại biểu nổi tiếng nhất của trường phái kí hiệu học Pháp. Tự sự học
  7. cấu trúc của R. Barthes được xác định như là sự phân tích các thành tố và những cơ chế của truyện kể, nó trình bày một câu chuyện qua hành động kể, sự kể. Tự sự học quan tâm đến truyện kể như một phương thức trình bày bằng ngôn từ. Nó trả lời câu hỏi : ai kể cái gì và như thế nào ? Tác phẩm tự sự học tiêu biểu của R. Barthes và của cả tự sự học cấu trúc nói chung là Đường vào phân tích cấu trúc truyện kể. Sau phần nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể, mục một trình bày ngôn ngữ các VBTS với đặc điểm chủ yếu là vượt ra giới hạn của câu. Theo quan điểm cấu trúc, bất cứ VBTS nào cũng đều được xây dựng theo mô hình của câu, bất cứ một truyện nào cũng là một câu lớn và câu kể chính là một sự tỉnh lược của một câu nhỏ. Các “chủ thể” lẫn cụm chủ vị trong VBTS cũng đều tuân thủ quy tắc cấu tạo câu. Nhưng giữa câu ngôn bản tồn tại các mối quan hệ đồng đẳng khi lưu ý đến mặt hình thức của chúng. Những mục tiếp theo về chức năng, hành động, tường thuật, hệ thống VBTS đã được đề cập chi tiết. Barthes đã đi tìm định nghĩa cấu trúc về nhân vật, vấn đề chủ thể, tình huống kể,…và đưa ra các cấp độ của từng đơn vị nghiên cứu. Các vấn đề mà Barthes đặt ra có giá trị phương pháp luận khi nghiên cứu về VBTS và rèn luyện các kĩ năng tạo lập VBTS. Văn miêu tả và kể chuyện – Vũ Tú Nam - Phạm Hổ - Bùi Hiển - Nguyễn Quang Sáng – Nxb GD 2001 [39]. Sách ghi lại những kinh nghiệm quý báu của các nhà văn có sở trường về miêu tả và kể chuyện. Những đặc điểm của bài văn kể chuyện như nhân vật, cốt truyện, tình huống, tình tiết đã được các tác giả cụ thể hóa bằng những mẩu minh họa sinh động. Các nhà văn cũng lưu ý về nghệ thuật kể chuyện, nhất là kĩ năng mở bài và kết thúc câu chuyện [39, tr.23-38]. Nhà văn Vũ Tú Nam đưa ra kinh nghiệm quan sát thiên nhiên và loài vật và nhấn mạnh nội dung phải được thể hiện một cách tự nhiên, dung dị qua các chi tiết sinh động của cảnh và vật đồng thời dùng câu chữ cho chính xác, sinh động, gợi cảm [39, tr.7-8]. Nhà văn Phạm Hổ đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho một bài kể chuyện có các tình huống hợp lý, đúng sự thật, làm cho người đọc, người nghe tin là có thật. Nhà văn Bùi Hiển thì nêu kinh nghiệm viết văn kể chuyện của mình là sự quan sát, xuất phát từ tình cảm chân thành, chi tiết hợp lý, phù hợp với lô gích tâm lý. Các điều kiện không thể thiếu cho bài văn kể chuyện là câu chuyện phải tự nhiên, sự việc được coi như có thể xảy ra thực và liên kết các sự việc trong chuyện sao cho câu chuyện ý vị, hấp dẫn, nhiều
  8. kịch tính [39, tr.39-60]. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng đặt vấn đề về quan sát, không chỉ quan sát bằng mắt mà bằng tấm lòng, nắm bắt chi tiết quý báu từ đời sống và đưa vào trong tác phẩm [39, tr.61-66]… Những kinh nghiệm thực tiễn của các nhà văn – những người viết văn chuyên nghiệp đã giúp ích GV rất nhiều trong quá trình dạy HS làm văn theo yêu cầu, mục tiêu của nhà trường, đồng thời giúp HS sáng tạo một cách tự tin khi tạo lập VBTS. Sách Làm văn (Giáo trình đào tạo GV THCS hệ Cao đẳng Sư phạm (Lê A – Nguyễn Trí – NXBGD – 2001) [1, tr.167-214] : Sách đã hướng dẫn cụ thể từ “Khái quát về văn kể chuyện” đến “Phương pháp làm bài văn kể chuyện” và các bài tập thực hành, trang bị cho sinh viên những kiến thức khá toàn diện về chương trình giảng dạy và về văn kể chuyện. Từ việc nêu vai trò của văn kể chuyện nói chung, văn kể chuyện được dạy trong nhà trường, đặc điểm văn kể chuyện và cách phân loại, các tác giả đã đưa các ví dụ minh hoạ và phân tích chi tiết. Phần “Phương pháp làm bài kể chuyện” gồm các bước tìm ý, chọn ý và xác định ý nghĩa cho câu chuyện, lập dàn ý, viết bài văn… Ở phần viết bài văn, các tác giả đã có chú ý đến mở đầu và kết thúc câu chuyện, đến viết lời kể (giới thiệu, thuyết minh) về nhân vật và sự việc, miêu tả trong văn kể chuyện và chú ý đến ngôi kể. Các phương pháp này nhằm phục vụ cho việc giảng dạy văn kể chuyện trong chương trình của nhà trường hiện hành lúc bấy giờ. Những vấn đề về lý thuyết được đề cập khá chi tiết. Vấn đề rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS chưa được đề cập. Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn – Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang Ninh – Trần Ngọc Thêm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội (1985) [7] trình bày một cách tinh giản những vấn đề và kết quả nghiên cứu hiện có trong lĩnh vực ngữ pháp văn bản và dạy làm văn như một ứng dụng và thiết thực nhất của ngữ pháp văn bản. Các tác giả đã đưa ra một số vấn đề cơ bản của ngữ pháp văn bản như lĩnh vực trên câu, sự ra đời của ngữ pháp văn bản, liên kết câu, chỉnh thể trên câu đoạn văn. Đặc biệt trong “Thay phần kết luận, các tác giả đã “thử ứng dụng ngữ pháp văn bản vào việc dạy làm văn và giảng văn”. Phần ứng dụng này còn trình bày còn dè dặt và sơ lược [7, tr.144-151] một số ứng dụng, việc ứng dụng các kiến thức tiếng Việt trong dạy TLV chưa đặt thành trọng tâm.
  9. Phương pháp dạy học tiếng Việt - Lê A chủ biên, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, NXB GD, 2003, chương 7 trình bày phương pháp dạy học Làm văn [2, tr.185-238]. Các tác giả đã cung cấp một số tiền đề lý thuyết của việc dạy làm văn. Phương pháp dạy học Làm văn đề cập đến phương pháp dạy lý thuyết, phương pháp dạy thực hành, phương pháp ra đề làm văn, phương pháp chấm và trả bài làm văn. Phần cuối chương là một số kĩ năng làm văn cần rèn luyện cho HS gồm sáu kĩ năng. Đó là kĩ năng xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương hướng triển khai bài viết, kĩ năng lập ý, kĩ năng viết đúng theo dàn ý, kĩ năng lập luận, kĩ năng hành văn, kĩ năng hoàn thiện bài viết. Ở kĩ năng hành văn, các tác giả đặt vấn đề : “Có thể gộp vào kĩ năng hành văn cả những năng lực sử dụng các đơn vị ngôn ngữ ở HS. Đó là kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn” [2, tr.236]. Vì khi HS làm văn, về cơ bản, chỉ chú ý chạy theo nội dung, bám sát các ý, chưa quan tâm tới việc lựa chọn phương tiện thể hiện nội dung đó như thế nào một cách đầy đủ. Hoặc trong bài viết có ý, có nội dung nhưng do vốn từ ít, nắm không vững các kiểu kết cấu ngữ pháp của câu, hoặc do ít được vận dụng, ít được luyện tập… nên ý không thoát và lời không đạt. Tuy không trình bày các phương pháp dạy cụ thể cho từng kiểu văn bản, các tác giả cũng đã đề cập đến một số kĩ năng cần rèn luyện cho HS. Đây là nội dung mà đề tài luận văn hướng đến. Hướng dẫn dạy TLV lớp 7 – Trần Đình Sử – Vũ Nho – Nguyễn Trí, Nxb GD (1998) [56] : sách có tính chất tham khảo với mục đích giúp HS nắm vững lý thuyết cơ bản, tăng cường kĩ năng thực hành. Phần lý thuyết trình bày ngắn gọn, cụ thể lý thuyết kiểu bài và cách làm bài kể chuyện. Phần thực hành gồm nhiều đề cho HS luyện tập. Sau đó là các bài kham khảo TLV. Sách đã cung cấp cho HS một hệ thống đề, dàn ý, những bài văn tham khảo, giúp HS có một số tư liệu cần thiết trong quá trình làm TLV. Tuy nhiên, sách cũng chưa đặt vấn đề hướng dẫn HS sử dụng ngôn ngữ, rèn các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS như thế nào trong quá trình viết bài văn kể chuyện. Phát triển ngôn ngữ cho HS phổ thông - Trương Dĩnh - Nxb Đà Nẵng (2000) [17] đề cập ý nghĩa, nội dung, nguyên tắc, phương pháp cụ thể đối với việc phát triển ngôn ngữ, khai thác các biện pháp rèn luyện từ chính âm đến từ ngữ, ngữ pháp, phong cách với các mô hình và ví dụ cụ thể. Các quan điểm hiện đại về dạy học tiếng
  10. Việt như các mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, ngôn ngữ và nhân cách, ngôn ngữ và giao tiếp… được dẫn giải dễ hiểu. Tập sách chưa đặt vấn đề về rèn luyện và phát triển kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong một phương thức tạo lập văn bản, cụ thể là VBTS. Các sách tham khảo khác : Những bài làm văn tự sự và Miêu tả 6 –Nguyễn Quang Ninh – Nxb Giáo dục 2005 [44] ; Hướng dẫn TLV 6 - Vũ Nho chủ biên – Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị Nga, Trần Thị Thành –– Nxb Giáo dục 2004 [41] ; Rèn kĩ năng làm văn tự sự và miêu tả 6 - Đoàn Thị Kim Nhung, Phạm Thị Nga –Nxb Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh 2006 [42] ; Tư liệu dạy Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Đỗ Ngọc Thống– Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [61] ; Các dạng bài TLV và cảm thụ thơ văn 6, 7, 8 , 9 - Cao Bích Xuân –– Nxb Giáo dục 2003- 2006 [69] ; Một số kiến thức, kĩ năng và bài rập nâng cao Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Nguyễn Thị Mai Hoa – Đinh Chí Sáng – Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [23] và các tác giả khác với các quyển những bài làm văn chọn lọc, những bài làm văn hay các lớp 6, 7, 8, 9,…Đây là các sách bài tập và tham khảo theo chương trình SGK mới 2002. Nội dung trình bày của các sách trên có những điểm chung là tìm hiểu khái quát về tự sự và đặc điểm của văn tự sự, các kiểu bài tự sự thường gặp, những điều cần lưu ý, phương pháp làm bài văn tự sự, các bài tập rèn luyện và một số bài văn mẫu. Tuy nhiên cũng có rất nhiều sách chỉ cung cấp cho HS, GV và phụ huynh những bài văn mẫu mà không định hướng phương pháp cũng như rèn những kĩ năng hình thành năng lực viết VBTS cho HS. Qua các tài liệu tham tham khảo, khái niệm và đặc điểm về văn tự sự được trình bày khá thống nhất, luận văn kế thừa thành quả nghiên cứu vào việc tìm hiểu đặc điểm của VBTS. Việc rèn luyện về kĩ năng sử dụng ngôn ngữ được trình bày lồng ghép trong các yêu cầu, phương pháp làm bài văn tự sự, chưa đặt thành vấn đề cụ thể để hướng dẫn HS rèn luyện. Đặc trưng của VBTS được xếp vào loại các văn bản nghệ thuật, bản thân nó vốn là một loại văn bản vừa mang tính thực tế vừa có tính sáng tạo cao. Đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường, quá trình rèn luyện viết VBTS không chỉ cần thiết có các phương pháp đi từ dễ đến khó, từ cơ bản đến nâng cao…, mà còn chú trọng cho HS cách dùng từ ngữ, câu, liên kết câu cũng như những định hướng đúng
  11. để tạo lập được VBTS đạt yêu cầu cao… Đây là một lĩnh vực nghiên cứu còn nhiều hứa hẹn, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn, giúp HS có kĩ năng làm bài, đồng thời tạo sự yêu thích học văn trong HS, tạo cơ sở để bồi dưỡng và nâng cao năng lực của HS trong việc tạo lập văn bản, nhất là VBTS. Dạy tạo lập VBTS chú ý rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ thể hiện rõ quan điểm dạy học tích hợp của chương trình Ngữ văn mới. Luận văn kế thừa những nghiên cứu về phương pháp dạy TLV và tiếng Việt của các nhà nghiên cứu, các nhà giáo đồng thời nghiên cứu về nội dung, chương trình và soạn giảng một số bài dạy tiêu biểu của chương trình nhằm rèn luyện kĩ năng làm bài cho HS, phát huy năng lực sử dụng tiếng Việt cho HS trong tạo lập VBTS. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu : - Mục đích của luận văn là nhằm trang bị thêm cho GV một số cách thức cụ thể, khả thi về phương pháp dạy TLV tự sự đạt hiệu quả và giúp HS thực hành bài văn tự sự một cách tự tin, đúng yêu cầu, sáng tạo, sử dụng ngôn từ chuẩn xác, kể chuyện hấp dẫn… Luận văn thiết kế một số bài giảng chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS cho HS THCS. Từ thực tiễn học tập của HS, luận văn tìm giải pháp và đề xuất một số kiến nghị cho việc giảng dạy tạo lập VBTS ở chương trình THCS đạt kết quả, nhằm góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy TLV, phục vụ cho việc giảng dạy chương trình và SGK mới. - Nhiệm vụ của luận văn là ứng dụng lý thuyết tự sự trong việc soạn giảng các bài dạy TLV tự sự, chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS. Để thực hiện nhiệm vụ trên, tác giả luận văn đã tiến hành dự giờ, khảo sát thực tế giảng dạy và học tập về VBTS của GV và HS ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu những thuận lợi khó khăn từ chương trình SGK, từ GV, HS,… đối với việc dạy tạo lập VBTS ; thiết kế giáo án và ghi nhận những việc đã làm được và chưa làm được trong việc dạy thể nghiệm đồng thời đề xuất các phương pháp giảng dạy tạo lập VBTS có chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  12. - Đối tượng nghiên cứu là các bài dạy trong SGK và sách GV lớp 6, 7, 8, 9 về tạo lập VBTS cấp THCS, các tiết dạy của GV về tạo lập VBTS và các bài viết TLV tự sự của HS một số trường ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm vi nghiên cứu là chương trình TLV tự sự THCS, cụ thể ở các lớp 6, 7, 8, 9 phân bố trong học kì I. 5. Phương pháp nghiên cứu Từ mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu nghiên cứu trên, chúng tôi vận dụng các phương pháp sau trong luận văn : 5.1 Phương pháp nghiên cứu liên ngành : vận dụng và kế thừa thành tựu nghiên cứu của nhiều ngành : ngôn ngữ học, nghiên cứu văn học, giáo dục học, lý luận văn học, tâm lý học,… trong đó đặc biệt chú ý đến việc vận dụng phương pháp giảng dạy TLV và Tiếng Việt trong tạo lập VBTS. Luận văn tìm hiểu chương trình giảng dạy về TLV tự sự trong nhà trường, tham khảo các tài liệu về lý thuyết văn tự sự, về phương pháp giảng dạy TLV và Tiếng Việt qua các sách, báo, tạp chí chuyên ngành ngôn ngữ, tạp san, báo cáo chuyên đề… 5.2 Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn : dự giờ GV giảng dạy các tiết về tạo lập VBTS, điều tra, thăm dò, phỏng vấn các GV THCS ở quận 6 để tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của chương trình giảng dạy cũng như việc tiếp thu, thực hành làm văn tự sự của HS. 5.3 Phương pháp thống kê : thống kê các lỗi sai từ bài làm của HS trong việc dùng từ, dùng câu, viết đoạn, viết VBTS. 5.4 Phương pháp thực nghiệm : thực hành soạn giảng một số bài dạy về tạo lập VBTS trong chương trình chú trọng đến rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS. 5.5 Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá : tổng hợp các vấn đề lý thuyết của VBTS ; phân tích nguyên nhân lỗi sai của HS từ kết quả thống kê bài làm và đánh giá những đóng góp của luận văn. 6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài Cơ sở khoa học : Mục tiêu của môn Ngữ văn cấp THCS là hoàn thiện kiến thức cơ sở về từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt ; cung cấp kiến thức về văn bản học, lí luận văn học ; hình thành ở HS năng lực tiếp nhận và tạo lập các kiểu VBTS, miêu tả, biểu
  13. cảm, lập luận, thuyết minh và hành chính - công vụ. Luận văn thể hiện sự tích hợp giữa lý thuyết TLV và đặc điểm ngôn ngữ của VBTS để rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong VBTS, vận dụng đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động trong hoạt động dạy học TLV đáp ứng yêu cầu giao tiếp, phát huy năng lực sử dụng tiếng Việt làm công cụ để giao tiếp và tư duy. Cơ sở thực tiễn : luận văn được thực hiện theo chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS và SGK mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo được áp dụng đại trà từ năm 2002 đến nay. Luận văn khảo sát thực tế giảng dạy của GV môn Ngữ văn và chất lượng học tập bộ môn của HS THCS ở Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh năm học 2006 -2007. 7. Cấu trúc luận văn : Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương : Chương I : Đặc trưng VBTS và việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS cho HS THCS. Chương II : Vấn đề dạy học tạo lập VBTS ở chương trình THCS. Chương III : Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS trong tạo lập VBTS. Tài liệu tham khảo. Phụ lục. ▪ Phiếu điều tra GV. ▪ Thống kê kết quả điều tra.
  14. CHƯƠNG 1. ĐẶC TRƯNG VĂN BẢN TỰ SỰ VÀ VIỆC TẠO LẬP VĂN BẢN TỰ SỰ CHO HỌC SINH THCS 1.1. Khái niệm, đặc điểm VBTS 1.1.1. Khái niệm văn bản Văn bản trong ngôn ngữ học được định nghĩa rất phức tạp. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, với nghĩa rộng : 1) Bản ghi bằng chữ viết hoặc in, một phát ngôn hoặc một thông báo ngôn từ (phân biệt với việc thực hiện phát ngôn hoặc thông báo ấy bằng nói miệng) ; 2) Phương diện tri giác của tác phẩm được biểu đạt và ghi nhận bằng các kí hiệu ngôn ngữ ; 3) Đơn vị nhỏ nhất (có tính thống nhất tương đối và tính độc lập tương đối) của giao tiếp bằng ngôn từ. Với nghĩa hẹp : văn bản là một chỉnh thể nghĩa, một khối thống nhất có tổ chức của các thành tố hợp thành, một thông báo mà tác giả (người phát) gửi tới người đọc, người xem (người nhận).[ 21, tr.270-271] Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học : “Văn bản là chuỗi các đơn vị kí hiệu ngôn ngữ làm thành một thể thống nhất bằng mối liên hệ ý nghĩa mà thuộc tính cơ bản của nó là sự hoàn chỉnh về hình thức và nội dung ; sản phẩm của lời nói được định hình dưới dạng chữ viết hoặc in ấn.” [70, tr.413] Theo SGK Ngữ văn 6 : “Văn bản là chuỗi lời nói miệng hay bài viết có chủ đề thống nhất, có liên kết, mạch lạc, vận dụng phương thức biểu đạt phù hợp để thực hiện mục đích giao tiếp” [47, tr.17]. Khái niệm trên chú ý đến những tính chất cơ bản tạo thành văn bản để thực hiện giao tiếp, cung cấp cách hiểu cơ bản về văn bản cho HS cấp THCS. 1.1.2. Phương thức biểu đạt Thuật ngữ “phương thức biểu đạt” là một khái niệm được dùng phổ biến trong chương trình và SGK mới. Phương thức là cách thức và phương pháp (nói tổng quát) [71, tr.766], biểu đạt là làm cho nội dung tư tưởng được tỏ rõ ra bằng hình thức nào đó [71, tr.63]. Phương thức biểu đạt được hiểu như là cách thức biểu đạt nội dung cần thể hiện, cách thức miêu tả, phản ánh và tái hiện lại đời sống (thiên nhiên, xã hội, con người) của người viết, người nói. Mỗi phương thức biểu đạt phù hợp với một mục
  15. đích, ý đồ phản ánh, tái hiện nhất định và được thực hiện bởi một thao tác chính nào đó. [64] Tùy theo mục đích giao tiếp mà người ta sử dụng các kiểu văn bản với các phương thức biểu đạt phù hợp. Có thể chia ra sáu phương thức biểu đạt như tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận (lập luận), điều hành (hành chính – công vụ). Phương thức biểu đạt là căn cứ để xác định kiểu văn bản. Ứng với sáu phương thức biểu đạt này là sáu kiểu văn bản tương ứng. Kiểu văn bản là hình thức biểu đạt cơ bản nhất của mọi biểu đạt. Mỗi kiểu văn bản tương ứng với phương thức biểu đạt chính. Một kiểu văn bản có thể bao chứa trong nó các phương thức biểu đạt khác. 1.1.3. Phương thức tự sự Khi muốn tái hiện lại một câu chuyện đã xảy ra nhằm giải thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và bày tỏ thái độ khen chê thì người viết phải trình bày một chuỗi sự việc liên quan đến nhau, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng có một kết thúc. Đó chính là phương thức tự sự. Khái niệm phương thức tự sự trình bày các sự việc (sự kiện) có quan hệ nhân quả dẫn đến kết cục, biểu lộ ý nghĩa. Khái niệm tự sự ở đây bao gồm các nội dung kể chuyện, tường thuật, trần thuật trong chương trình TLV trước đây. Hình thức văn bản cụ thể của VBTS là bản tin báo chí, bản tường thuật, tường trình, tác phẩm lịch sử, tác phẩm văn học nghệ thuật : truyện, tiểu thuyết, kí sự. Từ “kể chuyện” khá tiêu biểu cho tự sự, cho nên nhiều khi được dùng để thay thế tự sự. “Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.” [47, tr.28]. Phương thức tự sự ở TLV tập trung vào hành động kể việc, thuật việc, trình bày diễn biến sự việc. Thể loại tự sự là phương thức tái hiện đời sống, bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học. [21, tr.263]. Thể loại tự sự bao hàm cả kể và miêu tả sự việc, sự vật. VBTS lớn hơn phương thức tự sự vì có chứa nhiều phương thức biểu đạt.
  16. 1.1.4. Mục đích giao tiếp của tự sự Mục đích kể chuyện là để biết, để nhận thức con người cũng như ngoại giới và phương thức kể là kể từng việc, lần lượt có đầu có đuôi, có tính liên tục, có nguyên nhân, kết quả. Kể không theo trình tự đầu cuối, sắp xếp các tình tiết không hợp lí, người đọc không nắm được sự việc, tức là không đạt được mục đích giao tiếp. Tự sự giúp người kể giải thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và bày tỏ thái độ khen chê. [47, tr.28] 1.2. Đặc điểm VBTS : Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi của con người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là hệ thống nhân vật được khắc hoạ đầy đủ nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình và kịch. Trong tác phẩm tự sự cốt truyện được triển khai, nhân vật được khắc hoạ nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú đa dạng, bao gồm chi tiết sự kiện xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình của nhân vật, chi tiết tính cách, chi tiết nội thất, ngoại cảnh, phong tục, đời sống văn hoá, lịch sử, lại còn có cả những chi tiết liên tưởng, tưởng tượng, hoang đường mà không nghệ thuật nào tái hiện được. Những điểm nói trên làm cho tác phẩm tự sự trở thành loại văn học có khả năng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người hiện đại… [21, tr.263-264] 1.2.1 Sự việc và nhân vật - Cốt truyện : Từ điển Văn học (bộ mới) giải thích “Thuật ngữ cốt truyện chỉ sự phát triển của hành động, của tiến triển các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình” [29, tr.324-326]. Cốt truyện có chức năng quan trọng là bộc lộ các mâu thuẫn của đời sống, tức là thể hiện xung đột. Bản thân thuật ngữ “cốt truyện” của tiếng Việt, dễ bị hiểu như cái “lõi”, “bộ xương”, cái “sườn”, “cơ sở” của truyện chứ chưa phải là truyện. Gorki coi cốt truyện là hệ thống các quan hệ
  17. qua lại của các nhân vật, là “lịch sử phát triển và sự tổ chức một tính cách nào đó”. Cái dệt nên cốt truyện là hành động của các nhân vật (hành động là sự thể hiện các cảm xúc, ý nghĩa, ý định của con người vào các hành vi, hoạt động, lời nói, cử chỉ, nét mặt … của họ). Chương trình giảng dạy tự sự cấp THCS đưa vấn đề cốt truyện vào sự việc, nhân vật và xác định đây là hai yếu tố then chốt của VBTS. - Sự việc “Sự việc là yếu tố quan trọng, cốt lõi của tự sự.” [47, tr.79], là “cái xảy ra được nhận thức có ranh giới rõ ràng, phân biệt với những cái tồn tại khác” [70, tr.846]. Sự việc là những việc xảy ra và những việc do con người làm ra. Muốn tự sự phải chọn sự việc và tổ chức sự việc sao cho thể hiện được điều muốn nói. Sự việc tạo thành chuyện phải tiêu biểu, có vai trò dẫn dắt câu chuyện, khắc họa đặc điểm tính cách nhân vật tác động của sự việc phải gây biến đổi, nhằm bộc lộ bản tính, nguyên nhân gì bên trong của con người hay sự vật thì mới tạo thành chuyện. Trong VBTS có thể chỉ một sự việc được kể cùng một số chi tiết làm ra sự việc đó. Nhưng thường thì câu chuyện được kể là một chuỗi sự việc từ khởi đầu, phát triển đến cao trào và kết thúc. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh có các sự việc sau [61, tr.33-34] :  Sự việc khởi đầu : Vua Hùng kén rể.  Sự việc phát triển : Sơn Tinh, Thuỷ Tinh cầu hôn, Vua Hùng ra điều kiện.  Sự việc cao trào : Sơn Tinh được vợ, Thuỷ Tinh tức giận đánh Sơn Tinh.  Sự việc kết thúc : Thuỷ Tinh thua và thường xuyên trả thù. Sự việc trong văn tự sự phải được kể cụ thể : do ai làm, việc xảy ra ở đâu, lúc nào, nguyên nhân, diễn biến, kết quả. Chính các yếu tố này làm truyện được cụ thể, sáng tỏ. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh có các yếu tố tự sự cụ thể :  Ai làm (nhân vật là ai) : Sơn Tinh và Thuỷ Tinh.  Việc xảy ra ở đâu (địa điểm) : Thành Phong Châu.  Lúc nào (thời gian) : Đời Vua Hùng thứ 18.  Nguyên nhân : Thuỷ Tinh căm tức vì không lấy được Mỵ Nương.
  18.  Diễn biến : Hai chàng trai tài giỏi cùng muốn lấy Mỵ Nương, Thuỷ Tinh thua cuộc, Thuỷ Tinh và Sơn Tinh đánh nhau quyết liệt.  Kết quả : Thuỷ Tinh thất bại. “Sự việc trong VBTS được trình bày một cách cụ thể : Sự việc xảy ra trong thời gian, địa điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể thực hiện, có nguyên nhân, diễn biến, kết quả,… Sự việc trong văn tự sự được sắp xếp theo một trật tự, diễn biến sao cho thể hiện được tư tưởng mà người kể muốn biểu đạt” [47, tr.38]. Tuy nhiên sự việc cần được kể một cách đầy đủ, chứ không bắt buộc phải kể đủ các yếu tố đó trong mọi văn bản. Chuỗi sự việc không phải lúc nào cũng được kể theo tuần tự diễn biến tự nhiên. Nhưng dù kể theo cách nào cũng phải thể hiện được tư tưởng mà người kể muốn biểu đạt và tạo được hứng thú cho người nghe. Sự việc có quan hệ với nhau và với nhân vật, với chủ đề tác phẩm. Trong tự sự, chuỗi sự việc tạo thành cốt truyện của văn bản. - Nhân vật Trong văn tự sự, nhân vật là yếu tố luôn đi cùng với sự việc. Vậy thế nào là nhân vật trong VBTS ? Hiểu theo nghĩa hẹp, nhân vật là những con người được nói tới trong VBTS. “ Nhân vật trong văn tự sự là kẻ thực hiện các sự việc và là kẻ được thể hiện trong văn bản” [47,tr.38]. Những nhân vật đó có thể có tên như chị Dậu, Nghị Quế (Tắt đèn – Ngô Tất Tố), Thu (Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng),… có thể không có tên như anh thanh niên, ông hoạ sĩ, cô kĩ sư (Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long), ông giáo (Lão Hạc - Nam Cao),… Hiểu theo nghĩa rộng, nhân vật là tất cả những chủ thể tạo nên hành động trong tác phẩm. Theo nghĩa này, nhân vật có thể là người, có thể không phải là người, có thể là vật, có thể là đồ vật. Nhân vật có thể là thần (Gióng trong Thánh Gióng - truyền thuyết), là người (ông Hai trong Làng – Kim Lân)), là vật (Dế Mèn trong Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài). Trong văn tự sự nhiều khi có nhân vật xưng “tôi”. Nhân vật này có khi là người dẫn chuyện, người chứng kiến việc xảy ra và kể lại cho ta nghe, người như biết hết mọi chuyện trong tác phẩm, cứ thấp thoáng khi ẩn khi hiện trong câu chuyện. Có khi nhân vật “tôi” này là một trong những người tham gia, đóng vai nhất định trong truyện như nhân vật “tôi” trong Tôi đi học của Thanh Tịnh, hoặc “tôi” trong Trong
  19. lòng mẹ của Nguyên Hồng… Nhân vật, đó là cá thể làm ra sự việc và là sản phẩm của lời kể. Có nhiều cách thể hiện nhân vật và phân loại nhân vật như nhân vật chính diện và nhân vật phản diện (Thạch Sanh, Lí Thông), nhân vật chính và nhân vật phụ (Đôn Ki-hô-tê, Xan-chô Pan-xa). Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại nhân vật như nhân vật tích cực (Nho, Phương Định – Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê), nhân vật tư tưởng (Nhĩ - Bến quê – Nguyễn Minh Châu)… Nhân vật được thể hiện qua các mặt : tên gọi, lai lịch, hình dáng, tính nết, việc làm, suy nghĩ, hành động, tâm trạng (Thúy Kiều - Truyện Kiều - Nguyễn Du),… Trong các VBTS nghệ thuật, sự việc và nhân vật không tách rời, vì nhân vật là kẻ làm ra sự việc và nhân vật chỉ có thể hiện lên trong các sự việc đó qua lời kể. Tương tự, mỗi sự việc đầy ắp chi tiết về nhân vật. 1.2.2. Chủ đề và dàn bài trong văn tự sự - Chủ đề là yếu tố nội dung không thể thiếu của VBTS. “Chủ đề là vấn đề chủ yếu được quán triệt trong nội dung một tác phẩm văn học nghệ thuật, theo một khuynh hướng nhất định” [71, tr.168]. Khái niệm chủ đề của văn bản thường gợi ra nhiều cách hiểu xuất phát từ nhiều hướng tiếp cận. Khi nhà văn sáng tạo ra tác phẩm thì chủ đề của văn bản là tư tưởng của tác giả gửi gắm qua tác phẩm, là thông điệp nghệ thuật của nhà văn. Khi người đọc tiếp nhận văn bản thì vấn đề đời sống toát lên từ câu chuyện là chủ đề tác phẩm. Nói một cách đơn giản, “chủ đề là vấn đề chủ yếu mà người viết muốn đặt ra trong văn bản [47,45]. “Chủ đề là điều mà câu chuyện muốn đề cao, muốn ca ngợi, khẳng định hoặc muốn lên án, phê phán, chế giễu. Chủ đề thấm nhuần trong sự việc, trong mâu thuẫn và trong cách giải quyết mâu thuẫn của truyện. Người kể phải chọn các sự việc thích hợp với chủ đề, phải có cách kể sao cho chủ đề được biểu hiện ra để người đọc nhận thấy. Chọn các sự việc không hợp chủ đề sẽ làm cho bài văn lạc đề, rời rạc.” [51, tr.9]. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long [50, tr.180 -188] khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng. Tác giả muốn nói với người đọc : “Trong cái lặng im của Sa Pa, có những con
  20. người làm việc và lo nghĩ cho đất nước” [54, tr.200]. Chủ đề tác phẩm cũng gợi ra những vấn đề ý nghĩa và niềm vui của lao động tự giác, vì những mục đích chân chính đối với con người. - Dàn bài bài văn tự sự thường gồm ba phần : ▪ Mở bài : giới thiệu chung về nhân vật, sự việc và tình huống xảy ra câu chuyện. (Cũng có khi nêu kết quả của sự việc, số phận nhân vật trước.) ▪ Thân bài : kể diễn biến của sự việc theo một trình tự nhất định nhằm thể hiện chủ đề. (Trả lời các câu hỏi : Câu chuyện diễn ra ở đâu? Khi nào? Với ai? Như thế nào?…) Trong khi kể, người viết thường phải kết hợp miêu tả sự việc, con người và thể hiện tình cảm, thái độ của mình trước sự việc và con người được miêu tả. ▪ Kết bài : kể kết cục của sự việc, cảm nghĩ của người trong cuộc (người kể chuyện hay một nhân vật nào đó) hoặc khẳng định chủ đề của truyện. “Dàn bài là sự sắp xếp bên ngoài, mà chủ đề là mối liên hệ bên trong. Chủ đề có lúc thể hiện ở những câu then chốt trong phần mở bài hoặc kết bài, có lúc thể hiện ở chi tiết, hành động.” [53, tr.49]. Dàn bài chỉ nêu lên một cách chung nhất sự sắp xếp cơ bản của bài văn tự sự. Thực tế bài văn tự sự hoàn chỉnh rất linh hoạt, nhất là phần mở bài và kết bài. Truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh [49] đã diễn tả những kỉ niệm trong sáng của tuổi học trò trong buổi tựu trường đầu tiên. Trình tự diễn tả những kỉ niệm của nhà văn trong tác phẩm : ▪ Mở bài : từ hiện tại mà nhớ về dĩ vãng : biến chuyển của trời đất cuối thu và hình ảnh mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón là mẹ lần đầu tiên đi đến trường gợi cho nhân vật “tôi” nhớ lại mình ngày ấy cùng những kỉ niệm trong sáng. ▪ Thân bài : diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” :  Tâm trạng, cảm giác trên con đường cùng mẹ tới trường.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2