BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỖ HÀ THẾ BÌNH

THỰC TRẠNG VIỆC QUẢN LÝ GIÁO DỤC GIỚI

TÍNH CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG THCS TẠI

HUYỆN THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ MỘT

SỐ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS-TS. BÙI NGỌC OÁNH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2007

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong thế giới loài người là muôn hình vạn trạng, không ở đâu trong sự phát triển

xã hội của học sinh bậc trung học cơ sở hay còn gọi là ở lứa tuổi vị thành niên lại có

những thay đổi rất lớn trong những năm gần đây là lĩnh vực giới tính. Trong khi tình

dục ám chỉ khía cạnh sinh lý thì giới tính là khía cạnh xã hội của phái nam và phái

nữ. Một vài góc độ của trẻ vị thành niên xoáy sâu vào chân giá trị và vào mối quan hệ

xã hội hơn giới tính và một trong những góc độ mà giới tính đặc biệt nhắc tới đó là:

Vai trò của giới tính-niềm mong chờ mà ấn định phái nam hay phái nữ nên phải suy

nghỉ, hành động và cảm xúc như thế nào. Để giúp học sinh nhận thức đúng được cái

hay, cái đẹp của cuộc sống, ngoài việc cung cấp những tri thức khoa học qua những

môn học chính khóa, nhà trường phổ thông còn phải tạo mọi điều kiện cung cấp cho

các em các tri thức về những ảnh hưởng của sinh lý, xã hội và nhận thức đối với giới

tính.

Giáo dục giới tính là một loại hình giáo dục hết sức phức tạp nhằm giáo dục con

người ở thế hệ trẻ vươn lên làm người bao hàm những giá trị của “Chân, Thiện, Mỹ”.

Là một bộ phận góp phần giáo dục con người hình thành nhân cách ở mọi cá nhân.

Trong thời kỳ mở cửa giao lưu văn hóa như hiện nay giữa các dân tộc, các quốc gia

với nền khoa học hiện đại đang phát triển mạnh. Việc giáo dục giới tính góp phần xây

dựng nhân cách con người là một vấn đề rất quan trọng. Để giúp con người phát triển

bình thường và phát triển toàn diện về nhân cách, chúng ta cần đưa nội dung giáo dục

giới tính vào trong hoạt động giáo dục của xã hội. Giáo dục cho học sinh có năng lực

hiểu được người khác giới với mình, có tình cảm tôn trọng đối với họ không chỉ là

con người nói chung, mà còn là đại diện của nam giới, có năng lực, tính đức và tôn

trọng những đặc điểm giới tính của nhau trong quá trình hoạt động cùng nhau.

Song trong thực tế bên cạnh các bộ môn khoa học khác thì việc giáo dục giới tính

ở bậc trung học cơ sở còn bị xem nhẹ, đặc biệt là trong công tác giáo dục, sử dụng

đội ngũ giáo viên tham gia dục chuyên đề này hầu như không có đa số do giáo viên

chủ nhiệm và các bộ môn như: Giáo dục công dân và môn Sinh học kiêm nhiệm.

Vấn đề giáo dục giới tính có là vấn đề cần thiết tham gia vào quá trình giáo dục và

đào tạo vẫn đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Thiết nghĩ bên cạnh việc học các bộ

môn văn hóa, học sinh vẫn có nhu cầu tìm hiểu, nhận thức đối với các vấn đề giới

tính. Chuyên đề này đang có sức hút nhất định và ảnh hưởng rất lớn đến việc hình

thành và phát triển nhân cách của học sinh bậc trung học cơ sở.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng việc

quản lý giáo dục giới tính cho học sinh ở các trường trung học cơ sở tại huyện

Thuận An, tỉnh Bình Dương và một số giải pháp”.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn nhằm đánh giá thực trạng

giáo dục giới tính, phát hiện nhu cầu bồi dưỡng, nhu cầu người học ở các trường

THCS trong huyện Thuận An - tỉnh Bình Dương và các kiến thức, kỹ năng, nghiệp

vụ quản lý và giáo dục giới tính. Từ đó đề nghị những biện pháp có tính khả thi góp

phần nâng cao hiệu quả của việc giáo dục giới tính các trường THCS trong huyện

Thuận An.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giới tính và công tác tổ chức quản lý

giáo dục giới tính cho học sinh bậc THCS.

- Thực trạng hoạt việc quản lý giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở

trên địa bàn huyện Thuận An.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý hoạt động

giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An, tỉnh Bình

Dương.

4. Giả thuyết khoa học

Hoạt động giáo dục giới tính ở các trường THCS tại huyện Thuận An, tỉnh

Bình Dương chưa được tổ chức tốt về các mặt như: việc quản lý, tập huấn và bồi

dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chưa đủ về số lượng CB-GV tham gia giáo dục và

chưa đồng bộ về cơ cấu nên chưa mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục đạo đức

và văn hóa cho học sinh nhằm đáp ứng với yêu cầu chung của sự nghiệp giáo dục và

đào tạo của đất nước.

5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:

Thực trạng việc quản lý giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở trong

huyện Thuận An.

- Khách thể nghiên cứu:

Cán bộ-giáo viên các trường trung học cơ sở, học sinh và phụ huynh trên địa

bàn huyện Thuận An tỉnh Bình Dương. Khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đã chọn

mẫu và tiến hành khảo sát ngẫu nhiên trên 120 giáo viên, 275 học sinh, 50 cha mẹ

học sinh của 5 trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.

6. Giới hạn đề tài

Đề tài chỉ tập trung chủ yếu nghiên cứu thực trạng việc tổ chức hoạt động giáo

dục giới tính của 5 trường THCS tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương :

- Trường THCS Trịnh Hoài Đức

- Trường THCS Nguyễn Văn Tiết

- Trường THCS Bình Chuẩn

- Trường THCS Tân Thới

- Trường THCS Phú Long.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: sách, báo, các tài

liệu, các công trình nghiên cứu khoa học.

7.2. Phương pháp quan sát

Dự một số tiết sinh hoạt chủ nhiệm, sinh học, giáo dục công dân, sinh hoạt

ngoại khóa có liên quan đến giáo dục giới tính ở các trường THCS trên địa bàn huyện

Thuận An nhằm quan sát tinh thần và thái độ học tập của học sinh về vấn đề này,

phương pháp giáo dục của giáo viên đối với chuyên đề giáo dục giới tính.

7.3. Phương pháp phỏng vấn

Tiến hành gặp gỡ chuyện trò và trao đổi với Ban giám hiệu, giáo viên đang

trực tiếp giảng dạy các môn học liên quan đến giáo dục giới tính ở các trường THCS

tại huyện Thuận An, cán bộ chuyên môn phòng Giáo dục Thuận An, một số cha mẹ

học sinh về các vấn đề có liên quan.

7.4. Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến

Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến đối với một số cán bộ, giáo viên trực tiếp làm

công tác này, một số phụ huynh, học sinh học tại các trường trung học cơ sở thuộc

huyện Thuận An tỉnh Bình Dương về thực trạng của đội ngũ giáo viên đối với vấn đề

này và các giải pháp

7.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

Thông qua các kết quả điều tra để phân tích, tổng hợp, so sánh. Từ đó rút ra

những kết luận chủ yếu mang tính sự kiện có ý nghĩa.

8. Đóng góp của đề tài

Xác định những cơ sở có tính khoa học về việc cần thiết phải tổ chức quản lý

chặt chẽ việc giáo dục giới tính ở các trường THCS trong huyện Thuận An nhằm

nâng cao hiệu quả giáo dục.

Đưa ra biện pháp nhằm chấn chỉnh công tác giáo dục giới tính ở các trường

THCS trong huyện Thuận An và các huyện khác có điều kiện tương tự như tại huyện

Thuận An, tỉnh Bình Dương.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI

TÍNH Ở CÁC TRƯỜNG THCS

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Ngay từ thời Cổ đại, giới tính đã dược quan tâm tìm hiểu, tuy rằng rất thô sơ và

mang màu sắc cảm tính, mê tín. Từ thời kỳ xa xưa của văn minh loài người, giới tính

đã được đề cập đến bằng một hệ thống thần thoại cổ đại và các khảo luận về tình yêu

như Kinh “Kama Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật yêu” của Ovidius, “Chuỗi ngọc của

người yêu” của Hazma, “Phaedr” và “Bữa tiệc” của Platon… Trong đó các tác giả“

không những đặt cơ sở các chuẩn mực về đạo đức và tôn giáo cho tình yêu, mà còn

cung cấp những kiến thức về sinh học và tâm lí học tình dục”. IU.I. Kusniruk, Tính

dục học phổ thông, NXB Văn học, 1988-tr 10,11.

Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, các đề tài nghiên cứu giới tính được mở

rộng hơn… Cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học J. Bachocen

(Thuỵ Sỹ), J. Mac Lennan (Anh), E. Westermach (Phần Lan), Lewis Henry Morgan

(Mĩ), X.M. Kovalevxki (Nga)… không những đã gắn sự phát triển quan hệ tính dục

với các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với yếu tố khác của chế độ xã hội

và văn hoá.

Vấn đề tổ chức hoạt động giáo dục giới tính ở Việt Nam trong thời gian gần đây

đã được các nhà khoa học, các nhà quản lý, các tổ chức chính trị - xã hội quan tâm

nghiên cứu.

Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm

Văn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng

cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên quan xây dựng chương trình chính

khoá và ngoại khoá nhằm bồi dưỡng cho học sinh những kiến thức về khoa học giới

tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái.”. Bộ Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về

việc giáo dục dân số và giáo dục giới tính trong toàn bộ hệ thống trường học các cấp

và các ngành học của cả nước.

Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình

yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Trần

Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh,

Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức… đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh

chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn

đề rất phong phú đa dạng về vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ở Việt Nam.

Công trình nghiên cứu các dự án VIE/88/P09, VIE 88/P11... cấp-quốc gia do tổ

chức PATH CANADA tài trợ cùng nhóm nghiên cứu là các nhà khoa học tầm cỡ của

Việt Nam đã xem xét việc giáo dục giới tính là vấn đề mấu chốt của đức dục đối với

tuổi vị thành niên nói chung và học sinh bậc trung học cơ sở nói riêng được triển khai

thực nghiệm từ thập niên 1980 và chính thức đưa vào thực hiện rộng rãi trong các

trường THCS từ năm học 1990-1991 đã mở ra một bước ngoặc quan trọng trong việc

nghiên cứu, quy hoạch, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên ở

các cơ sở giáo dục trực tiếp làm công tác giáo dục giới tính có phẩm chất, có năng lực

trình độ chuyên môn nhất định, có tầm nhìn trong lĩnh vực này nhằm đáp ứng kịp

thời cho sự nghiệp ''trông người''. Giáo dục giới tính bao hàm những tri thức về mối

quan hệ giữa sự phát triển tình dục và nhân cách, thể chất và tinh thần của trẻ em và

thanh thiếu niên thông qua các hình thức: lồng ghép vào một số môn văn hóa, sinh

hoạt nội khóa, sinh hoạt ngoại khóa bằng phương pháp dạy học tích cực và việc trao

đổi kinh nghiệm giáo dục để tìm ra những giải pháp tốt nhất cho việc giáo dục giới

tính trong nhà trường phổ thông nói chung và ở bậc THCS nói riêng.

Các tác giả, các nhà nghiên cứu giáo dục, các chuyên gia đầu ngành trong và

ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới tính trong nhà

trường, về vai trò của các nhà giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục như :

- Tác giả J.P MA-SƠ-LÔ-VA (Tiệp Khắc) đã nghiên cứu các vấn đề về giới tính

cho rằng:''Nhiều người trong chúng ta biết rằng không nên để con cái phải tự lần mò

tìm hiểu lấy chuyện tình dục, song lại không biết hướng dẫn, tác động, không biết khi

nào cần nói và nói như thế nào. Thế hệ trẻ ngày nay khác rất xa thế hệ chúng ta. Vì

vậy phải dẫn dắt họ theo kiểu khác.”, “Mục đích của toàn bộ chương trình giáo dục

tình dục từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành không chỉ là trang bị kiến thức, xây dựng

ý thức tình dục mà điều quan trọng là xây dựng những quan niệm đúng đắn về vai trò,

trách nhiệm của người đàn ông và phụ nữ trong cuộc sống vợ chồng, trong gia đình

và trong xã hội''.- Sách ''Giới tính tuổi hoa'' tr. 38,48.

- Tác giả Nguyễn Quang Dương cho rằng:'' Trở ngại lớn trong việc giáo dục giới

tính trẻ vị thành niên là do thầy cô và cha mẹ thường chỉ chú trọng việc giáo dục bằng

sức ép từ trên dội xuống và tác động một chiều, không cởi mở, thiếu lắng nghe. Điều

đó càng tạo thêm hố sâu, khoảng cách giữa thầy cô, cha mẹ và con cái, làm giảm

thiểu (có khi phản tác dụng) về hiệu quả giáo dục... Chính vì vậy, mà việc liên kết

giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong vấn đề này là vô cùng quan trọng.”- Tạp chí

phát triển giáo dục số 165, tr. 56,57.

- Tác giả Võ Hưng, tại hội thảo khoa học ''Đề xuất và thử nghiệm giải pháp đưa

giáo dục giới tính vào trường trung học tại Tp. HCM'' khẳng định:''Các bậc cha mẹ

cần hiểu rõ mục đích giáo dục giới tính là giúp con em biết tự tin, tự trọng và tự bảo

vệ để sau này trở thành người có trách nhiệm với xã hội, biết tôn trọng nhau trong

quan hệ nam nữ, tạo điều kiện để xây dựng cuộc sống hạnh phúc''.- Báo Giáo dục và

Thời đại số 37/2004, tr.41.

- Dự án VIE/97/P12 đã nghiên cứu về giáo dục SKSS-VTN cho rằng: ''Vị thành

niên và thanh niên là một giai đoạn trong cuộc đời con người. Lớp thanh niên này

được thông tri giáo dục về SKSS -VTN sẽ trưởng thành lên người lớn. Lại có một lớp

VTN mới cần được thông tri giáo dục về SKSS - VTN. Và vì vậy, nhu cầu về thông

tin giáo dục SKSS-VTN cho vị thành niên là một nhu cầu thường xuyên, liên tục''

tr.192.

- Dự án VIE/88/P10 đã nghiên cứu về kiến thức y học liên quan đến giới tính. Đặc

biệt là giáo dục sức khỏe sinh sản trong thanh niên.

- Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục đời

sống gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống gia đình) có kí

hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và

Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện với sự

tài trợ của UNFPA và UNESCO khu vực. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần

Trọng Thuỷ và Giáo sư Đặng Xuân Hoài, Đề án đã được tiến hành rất thận trọng và

khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niệm về tình bạn, tình

yêu, hôn nhân, nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh,

phụ huynh… ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính cho

học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.

Ngoài ra, còn nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên các

tập san chuyên nghành như: nghiên cứu giáo dục, giáo dục phổ thông,... Những công

trình này thực sự nghiên cứu những mảng đề tài hết sức thiết thực, cụ thể trong công

tác quản lý, xây dựng đội ngũ làm công tác giáo dục giới tính trong các trường phổ

thông. Riêng ở huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ -

giáo viên tham gia làm công tác giáo dục giới tính trong nhà trường nói chung và ở

bậc THCS nói riêng chưa được quan tâm đúng mức của các cấp Chính quyền và của

ngành Giáo dục. Do đó, đối tượng này cần được nghiên cứu khách quan từ thực trạng

giáo dục giới tính hiện nay, để từng bước củng cố, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ làm

công tác này trở thành lực lượng chủ yếu, quyết định sự phát triển nhân cách của học

sinh theo đúng hướng phát triển sự nghiệp giáo dục ở tỉnh Bình Dương nói chung và

huyện Thuận An nói riêng trong thời gian tới.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Giới

- Giới xuất phát từ '' từ Gender '' trong tiếng Anh.

- Giới là một khái niệm rất phức tạp, được hiểu theo nhiều nghĩa:

+ Theo góc độ sinh học, giới được hiểu là một tập hợp những đặc điểm sinh lí

cơ thể đặc trưng ở con người (Ở động vật, giới ở đây có nghĩa là giống. Trong động

vật có giống đực và giống cái.). Những đặc điểm sinh lí cơ thể thường bao gồm

những đặc điểm di truyền, những hệ cơ quan sinh lí cơ thể, điển hình và quan trọng

nhất là hệ cơ quan sinh dục. Ở con người có hai hệ cơ quan sinh dục chính là hệ cơ

quan sinh dục nam và hệ cơ quan sinh dục nữ, vì vậy loài người có hai giới là giới

nam và giới nữ. Giới theo nghĩa này được hiểu là giới sinh học, giới di truyền.

+ Theo góc độ xã hội, giới là những đặc điểm mà xã hội tạo nên ở người nam

và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và người nữ, là những đặc trưng xã

hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã hội thường bao gồm nhiều vấn đề như:

vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi giới trong xã hội… Những

vấn đề này thường do xã hội quy định và biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử, từng

quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục tập quán của mỗi dân tộc…

+ Tổng quát hơn có thể định nghĩa giới như sau:

Giới là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh học cơ bản giống

nhau.

* Như vậy, giới bao gồm hai loại thuộc tính, thuộc tính sinh lí cơ thể và thuộc

tính xã hội.

+ Xét về mặt sinh lí cơ thể, giới là những đặc điểm bẩm sinh, có tính di truyền.

Yếu tố quan trọng và điển hình của giới ở đây là hệ cơ quan sinh dục. Và dưới ảnh

hưởng chủ yếu của hoạt động của hệ cơ quan sinh dục, cơ thể con ngưòi còn có

những biến đổi khác, tạo nên những đặc trưng của giới về hệ xương và hệ cơ, chiều

cao và cân nặng, tỉ lệ giữa cơ và mỡ, hình dáng đặc trưng của cơ thể nam và cơ thể

nữ, sức lực của từng giới và về nhiều đặc điểm sinh lí cơ thể khác. Do cấu tạo sinh lí

cơ thể khác nhau, ở mỗi giới có những chức nănh sinh lí khác nhau, như nữ giới có

khả năng thụ thai, sinh nở, có hiện tượng kinh nguyệt… gới nam không có những

chức năng trên, nhưng thường cao lớn khoẻ mạnh hơn, có khả năng sản xuất tinh

trùng…

+ Xét về mặt xã hội, giới là những đặc điểm do xã hội tạo ra, do những quy

định, luật lệ, đòi hỏi… của xã hội đối với con người là nam hay nữ. Ban đầu dưới ảnh

hưởng của đặc tính về sinh lí cơ thể như chiều cao, tầm vóc, sức mạnh,… người nam

và người nữ được phân công những công việc, những vai trò khác nhau trong đời

sống xã hội. Dần dần ở mỗi người, mỗi giới tạo nên những đặc tính về mặt xã hội như

vai trò của gia đình, địa vị xã hội, nhu cầu về đời sống tình cảm… Những yếu tố trên

chịu sự tác động của xã hội, của lịch sử tạo nên những đặc điểm, chức năng, vai trò

xã hội khác nhau. Giới được thể hiện ở vai trò, chức năng, nghĩa vụ xã hội. Giới là

tập hợp người có những vai trò chức năng xã hội nhất định.

Như vậy, giới có thể được hiểu là giới sinh học hay giới xã hội.

Khi nói đến giới sinh học, người ta thường chú ý nhiều đến hệ cơ quan sinh dục

của con người. Khi em bé lọt lòng mẹ sinh ra, người ta chỉ dựa vào hệ cơ quan sinh

dục để xếp em bé đó thuộc về giới nam hay giới nữ (em trai hay em gái). Khi em bé

lớn lên, đặc biệt là khi bước vào thời kỳ dậy thì, người ta có thể xếp một người vào

giới thứ ba nếu hoạt động của hệ cơ quan sinh dục của người đó là không bình

thường.

Khi nói đến giới xã hội, có nhiều vấn đề được quan tâm như:

- Vai trò của người nam, người nữ trong xã hội.

- Sự phân công lao động trong xã hội cho người nam và người nữ.

- Sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ (vấn đề bình đẳng giới).

- Những quan điểm đánh giá về vai trò của người nam và của người nữ trong

xã hội.

- Sự phát triển, sự tiến bộ của con người ở mỗi giới trong xã hội.

- Mối quan hệ xã hội và sự cư xử giữa hai giới.

Ngày nay, trong xã hội ta, còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp về giới xã hội

như: vấn đề bình đẳng giới, vấn đề quan hệ giữa hai giới, vấn đề giới tính ở mỗi

giới…

1.2.2. Giới tính

- Giới tính có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và thường bị sử dụng

lẫn lộn với nhiều thuật ngữ khác như: giới, tính dục, tình dục, sinh dục… Nhiều

người thường quan niệm giới tính đồng nghĩa với tình dục hoặc với tính dục. Đó là

quan niệm chưa thật sự đầy đủ, chỉ hiểu một cách đơn giản hoặc hiểu về một mặt nào

đó của giới tính.

- Giới tính cần được hiểu một cách toàn diện hơn:

+ Trước hết, theo từ ngữ, giới tính có thể được hiểu là những đặc điểm của

giới. Những đặc điểm này có thể rất phong phú và đa dạng. Vì giới vừa bao gồm

những thuộc tính về sinh học và những thuộc tính về tâm lí xã hội, nên giới tính cũng

bao gồm những đặc điểm về sinh lí cơ thể và tâm lí xã hội.

+ Giới tính cũng có thể được hiểu là những đặc điểm tạo nên những đặc trưng

của giới, giúp cho chúng ta phân biệt giới này với giới kia.

Những đặc điểm trên thường mang đặc trưng của từng giới và tạo nên sự khác

biệt giữa hai giới. Giới tính là những yếu tố xác định sự khác biệt giữa giới này và

giới kia.

Có thể định nghĩa, giới tính là toàn bộ những đặc điểm ở con người, tạo nên sự

khác biệt giữa nam và nữ.

- Trong đời sống con người, hai giới không thể tồn tại độc lập mà luôn tác

động đến nhau, có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Sự quan hệ này bị chi phối

bởi nhiều đặc điểm về sinh lí, về tâm lí ở mỗi người, bởi những đặc điểm về văn hoá,

chính trị, phong tục tập quán của xã hội, trong đó có các đặc điểm đặc trưng của mỗi

giới. Từ đó lại hình thành nên nhiều yếu tố mới, hiện tượng mới trong đời sống giới

tính như: Sự giao tiếp giữa hai giới, quan hệ bạn khác giới, quan hệ tình yêu, hôn

nhân…

Đời sống giới tính của con người rất phong phú và đa dạng. Đó là những hiện

tượng tâm lí và sinh lí nảy sinh trong đời sống của mỗi người, trong mối quan hệ giữa

người này với người kia, trong cuộc sống chung của mỗi người, trong sự tồn tại của

xã hội. Đời sống giới tính là một tổng hợp phức tạp các hiện tượng tâm lí và sinh lí có

liên quan đến mỗi giới, là mọi yếu tố, mọi mặt hoạt động, mọi mối quan hệ… trong

đời sống của con người, trong đời sống xã hội loài người.

Đời sống giới tính là toàn bộ những hiện tượng về mặt sinh lí cơ thể xuất hiện

trong con người có liên quan đến hệ cơ quan sinh dục (đời sống tính dục), những hiện

tượng tâm lí đặc trưng ở mỗi giới, những hiện tượng tâm lí người trong mối quan hệ

với người khác giới (tình bạn khác giới, tình yêu… ), những hiện tượng trong đời

sống xã hội như hôn nhân, gia đình… Gần đây còn xuất hiện những biểu hiện phức

tạp hơn của đời sống giới tính như: các quan điểm yêu đương ngoài hôn nhân, tình

dục ngoài hôn nhân, tình bạn và sự giao tiếp giữa những người khác giới…

* Như vậy, khái niệm về giới tính cần được hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về

nhiều mặt sinh lí và tâm lí, cá nhân và xã hội, hôn nhân và gia đình, tình yêu và tình

bạn, sự giao tiếp nam nữ…

1.2.3. Giáo dục giới tính

Giáo dục giới tính là một lĩnh vực rất phức tạp. Có nhiều quan niệm, nhiều ý

kiến khác nhau về vấn đề này.

Có những ý kiến cho rằng chỉ nên tiến hành giáo dục giới tính khi các em vào

thời kỳ chín muồi giới tính.

Một số ý kiến nhầm lẫn giáo dục giới tính với giáo dục tính dục, hoặc giáo dục

tình tình dục, giáo dục tình yêu. Thực ra tính dục chỉ là một bộ phận của giới tính. Sự

thu hẹp phạm vi của giáo dục giới tính như vậy sẽ có thể đưa đến tác dụng phản diện

hoặc hạn chế hiệu quả của giáo dục giới tính.

Có một số người cho rằng, không nên giáo dục giới tính, vì như thế là làm hoen

ố tâm hồn thanh cao của các em, là thiếu tế nhị, không phù hợp với môi trường sư

phạm, là “vẽ đường cho hươu chạy”.

Nhiều ngành khoa học những năm gần đây đã xác nhận ý nghĩa đặc biệt quan

trọng của những năm tuổi thơ đối với một đời người. Cha mẹ nào cũng vậy, đều có

những phút bàng hoàng nhận ra trước mắt mình đứa con không còn là một cậu bé

vụng dại nữa mà đã là một vị thành niên. Nhiều khi cha mẹ chưa kịp nghĩ tới chuyện

giáo dục con cái một cách nghiêm túc thì những đặc tính cơ bản của tính cách con

mình đã hình thành, kể cả đặc tính tình dục.

Một sự phát triển lành mạnh hay những trục trặc, bệnh tật của đời sống tình

dục cá nhân đều liên hệ mật thiết với những biện pháp giáo dục nhất định và những

điều kiện sống nhất định.

Khoa học hiện đại đã khẳng định ý nghĩa của giáo dục, những chuẩn mực đạo

lý, những kinh nghiệm cá nhân thuộc những lĩnh vực khác trong sự hình thành và

phát triển của đời sống giới tính. Với cách xem xét biện chứng như vậy, giáo dục giới

tính là nhằm giáo dục cho con người đạt tới mục đích xã hội chân chính với tư cách là

con đường dẫn dắt tới sự nếm trải trọn vẹn của hạnh phúc làm người.

Ở nhiều nước trên thế giới, hơn ba năm nay, các hình thức giáo dục giới tính đã

có vị trí của nó trong trường phổ thông. Nếu các hình thức đó được tiến hành tốt đẹp

thì trẻ em ở từng độ tuổi đều có được những thông tin cần thiết và lĩnh hội được mọi

vấn đề có liên quan đến đời sống tình cảm của con người.

- Theo A.G. Khrivcova, D.V. Kolexev, “Giáo dục giới tính là một quá trình

hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng cũng như

khuynh hướng phát triển của nhân cách, xác định thái độ xã hội cần thiết của con

người đối với người khác.” – Cô bé-Thiếu nữ-Thanh nữ, NXB Giáo dục, 1981.

- Giáo dục giới tính là một bộ phận hữu cơ của phức hợp các vấn đề giáo dục

nhân cách, giáo dục con người mới, con người phát triển toàn diện, kết hợp một cách

hữu cơ hài hoà sự phong phú về tinh thần, sự thuần khiết về đạo đức và sự hoàn thiện

về thể xác. Theo A.X. Makarenko, “ khi giáo dục cho đứa trẻ tính ngay thẳng, khả

năng làm việc, tính chân thật, tôn trọng người khác, tôn trọng những cảm xúc và

hứng thú của họ là chúng ta đã đồng thời giáo dục nó về quan hệ giới tính”.

- Giáo sư Trần Trọng Thuỷ, Giáo sư Đặng Xuân Hoài cho rằng, giáo dục giới

tính có phạm vi rất rộng lớn, tác động toàn diện đến tâm lí, đạo đức con người, “là

hình thành tiêu chuẩn đạo đức của hành vi có liên quan đến lĩnh vực thầm kín của đời

sống con ngưòi, hình thành những quan niệm đạo đức lành mạnh giữa em trai và em

gái, thanh nam và thanh nữ, giáo dục những sự “kiềm chế có đạo đức”, sự thuần khiết

và tươi mát về đạo đức trong tình cảm của các em.”- Trần Trọng Thuỷ, Vấn đề giáo

dục đời sống gia đình và giới tính cho thế hệ trẻ, Báo cáo khoa học của đề án P09.

Theo giáo sư Phạm Hoàng Gia, giáo dục giới tính phải được xem xét như một

bộ phận hợp thành của nền giáo dục xã hội. Nó có mối liên hệ mật thiết với giáo dục

dân số, kế hoạch hoá gia đình, hôn nhân-gia đình và với các mặt giáo dục khác trong

nhà trường phổ thông. Do vậy cần phải tiến hành công tác giáo dục giới tính một cách

đồng thời, đồng bộ trong mối quan hệ có tính chất hệ thống với các mặt giáo dục

khác.

Ngoài ra còn rất nhiều quan niệm của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về tâm

lí học giới tính.

Có thể nói rằng, giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, tư tưởng

và phải tiến hành trên cơ sở của giáo dục đạo đức tư tưởng. Giáo dục giới tính cũng

phải gắn bó mật thiết với các mặt giáo dục khác trong nền giáo dục toàn diện.

Từ những quan niệm trên, PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh đã kết luận: “Giáo dục giới

tính là quá trình giáo dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho họ có nhận

thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp sống văn

hoá giới tính, hướng hoạt động của họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn

diện, phù hợp với giới tính, giúp cho họ biết tổ chức tốt nhất cuộc sống riêng cũng

như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển.”- Tâm lí học giới tính và Giáo

dục giới tính, NXB Giáo dục, 2006.

1.3. Tầm quan trọng của giáo dục giới tính đối với sự phát triển nhân cách học

sinh

- Góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho thanh thiếu niên học sinh.

- Đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể của học sinh.

- Góp phần to lớn đối với giáo dục dân số và sự phát triển xã hội, xây dựng một

xã hội lành mạnh tốt đẹp.

- Góp phần trang bị các kiến thức cho học sinh về giới tính tạo cho các em một

bản lĩnh chống lại các tệ nạn xã hội.

Nhà trường, là nơi cung cấp những kiến thức khoa học về giới và giới tính cho

học sinh, giáo dục định hướng được sự suy nghĩ của các em về giới tính nhằm hình

thành và phát triển toàn diện nhân cách để có sự gia nhập tích cực vào đời sống xã

hội trong tương lai của mỗi cá nhân.

1.4. Nhiệm vụ của giáo dục giới tính ở trường phổ thông bậc trung học cơ sở bao

gồm

a) Giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội trong quan hệ giới tính con người.

b) Giáo dục khả năng hiểu biết những đặc điểm giới tính trong quá trình cùng

hoạt động chung với các bạn khác giới. Biết tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.

c) Bồi dưỡng những hiểu biết về hành vi tốt xấu, cái cho phép và cái không

phải vượt qua trong quan hệ với ngưòi khác giới. Biết tự đánh giá hành vi của mình

trong quan hệ với người khác giới.

d) Bồi dưỡng những hiểu biết đúng đắn về sự trưởng thành sinh lí của con

người (bao gồm nội dung, những dấu hiệu thực sự thể hiện của nó).

e) Bồi dưỡng ý thức trách nhiệm đối với sức khoẻ của bản thân và của người

khác, ý thức được tác hại của việc kết hôn sớm.

f) Bồi dưỡng tinh thần phê phán và thái độ không khoan nhượng đối với những

tàn tích và quan điểm đạo đức phong kiến tư sản trong phạm trù quan hệ giới tính.

Như vậy, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm cả việc truyền thụ tri thức

về giới tính, về mối quan hệ nam nữ và các mối quan hệ khác (với người lớn, với gia

đình, xã hội, bản thân…) và cả việc giáo dục những phẩm chất đạo đức, những hành

vi cư xử với mọi người, nhất là làm cho các em biết được những hành vi tốt và xấu,

đúng và sai trong quan hệ với người khác giới, những tri thức và quan niệm đúng đắn

về đời sống giới tính của con người. Vấn đề này, tác giả Nguyễn Bích Ngọc trong

Báo cáo khoa học tại đề án P09., Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã đi sâu vào hai

nhiệm vụ cơ bản:

Thứ nhất, giáo dục giới tính cần phải giúp con người biết phê phán, bác bỏ

những quan niệm, nhận thức sai về giới tính và giáo dục giới tính như:

- Phê phán, bác bỏ những nhận thức không đúng đắn về bản năng sinh dục, về

quan hệ tình dục, về khuynh hướng “giải phóng tình dục”, “cách mạng tình dục” hoặc

xu hướng tiêu cực, phó mặc mọi chuyện “cho nó đến đâu thì đến”, dẫn đến sự tan vỡ

của nhiều cuộc hôn nhân.

- Phân tích, phê phán những tư tưởng và những hành vi không lành mạnh: quan

hệ tình dục bừa bãi, yêu nhau, lấy nhau, bỏ nhau quá dễ dàng, thiếu ý thức trách

nhiệm đối với việc xây dựng gia đình, xã hội giống nòi, chỉ chạy theo khoái cảm…

- Giải quyết được những băn khoăn e ngại, cho rằng giáo dục giới tính sẽ chỉ

làm cho thanh thiếu niên bị kích thích không lành mạnh, chỉ làm cho các em hư hỏng.

Cần phải làm cho mọi người thấy rằng, bản năng tính dục có sức thúc đẩy mãnh liệt

đến độ, nếu ta không giáo dục cho con người, thì bản thân họ, đến một lúc nào đó, sẽ

tự tìm hiểu, tự đi với những vấn đề đó qua nhiều nguồn thông tin không chính thức,

và như vậy, sẽ có thể dẫn tới những hậu quả không tốt.

Thứ hai, giáo dục giới tính phải giúp cho con người hình thành được những tri

thức, những quan niệm đúng đắn, khoa học, phù hợp, có tác dụng tốt cho họ và xã

hội. Bao gồm:

- Tri thức đúng đắn khoa học về sinh lí cơ thể, đời sống tinh dục, cả về cấu tạo,

chức năng, cả về các giai đoạn phát triển của nó… để họ có thể vận dụng những tri

thức này vào cuộc sống, vào việc bảo vệ sức khoẻ, sắc đẹp và đời sống hạnh phúc.

- Những tri thức đúng đắn khoa học về đời sống tâm lí, tâm lí tính dục, tâm lí

giới tính…

- Những tri thức đúng đắn khoa học về tình yêu, hôn nhân, đời sống gia đình,

về đạo lí, tâm lí xã hội, về cách cư xử và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi

người, với người khác giới, với người yêu, người vợ, người chồng, cha mẹ, con cái,

việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái.

- Chính sách dân số của Nhà nước.

Có thể đi đến kết luận, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm:

- Hình thành và trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học, thái độ và quan

niệm đúng đắn về những hiện tượng của đời sống giới tính, sinh lí tính dục, về cấu

trúc và chức năng của các hệ cơ quan của cơ thể, nhất là hệ cơ quan sinh dục; về sự

cư xử đúng đắn, về những vấn đề đạo đức giới tính, thẩm mỹ giới tính, tình yêu, hôn

nhân và đời sống gia đình…

- Giúp cho các em có bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội, biết bảo vệ,

giữ gìn sức khoẻ cho người bạn và cho chính mình, có khả năng chống chọi lại những

cạm bẫy, quyến rũ của lối sống ăn chơi đồi truỵ, biết phê phán, bác bỏ những quan

niện không đúng về tình yêu, tình dục, quan hệ tình dục quá sớm hoặc buông xuôi, cả

nể, dẫn tới quan hệ tình dục bừa bãi, yêu nhau, bỏ nhau quá dễ dàng.

- Giúp cho các em biết trân trọng và bảo vệ những giá trị cao cả và thiêng liêng

của tình bạn thân thiết và gắn bó, của tình yêu sâu nặng và chung thuỷ, biết được cái

hay cái đẹp của nếp sống văn hoá văn minh.

- Chuẩn bị về tinh thần và khả năng thực tiễn cho thế hệ trẻ, giúp cho họ phát

triển nhân cách toàn diện, biết cách tổ chức và xây dựng cuộc sống gia đình hạnh

phúc, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và thúc đẩy xã hội phát

triển, giàu mạnh.

1.5. Các yêu cầu cơ bản của giáo dục giới tính

- Yêu cầu về lứa tuổi: phải căn cứ vào lứa tuổi để có những biện pháp tác động

thích hợp, có mục tiêu và nội dung tri thức khác nhau

- Tính liên tục: Tính liên tục ở đây là những hệ thống mang tính liên thông với

nhau. Mỗi hệ thống được các em đón nhận để chuẩn bị khả năng tư duy tốt hơn cao

hơn.

- Tính logic: Tính logic đảm bảo cho sự phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ

chỗ chưa toàn diện đến chỗ toàn diện hơn.

- Quan điểm toàn diện: Đảm bảo khả năng phát huy mọi mặt tư duy của con

người.

1.6. Những nguyên tắc của giáo dục giới tính

Việc giáo dục giới tính cho thanh niên học sinh là vấn đề quan trọng, cần thiết,

tuy nhiên cũng là một lĩnh vực phức tạp và tế nhị. Vì vậy, ngoài việc phải đảm bảo

những nguyên tắc chung như: tính khoa học, tính giáo dục, tính thực tiễn… như các

môn học khác, cần phải chú ý thêm những vấn đề sau đây:

- Giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách,

hình thành thế giới quan khoa học. Giáo dục giới tính phải gắn liền với việc giáo dục

và hình thành nếp sống sinh hoạt lành mạnh, lối sống văn hoá văn minh. Cần phải xác

định rằng, đó là một trong những mục tiêu cơ bản của giáo dục giới tính.

- Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách toàn diện cả về sinh lí giới

tính, tâm lí giới tính, thẩm mĩ giới tính, xã hội giới tính. Không nên chỉ tập trung vào

những vấn đề sinh lí tính dục mà coi nhẹ các vấn đề tâm lí xã hội giới tính.

- Phải kết hợp việc giảng dạy tri thức khoa học với việc hình thành thái độ

đúng đắn. Khi giảng dạy những “vấn đề nhạy cảm”, không nên chỉ tập trung mô tả

các sự kiện, hiện tượng một cách “trần trụi”, “sống sượng”, mà cần chú ý kết hợp với

việc hình thành ý thức đạo đức, phê phán những biểu hiện sai trái.

- Phải kết hợp việc truyền thụ những tri thức lí luận với những kiến thức thực

tiễn nhất là những vấn đề thực tiễn trong đời sống sinh hoạt của thanh niên, học sinh.

- Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách phù hợp với đặc điểm tâm

sinh lí của lứa tuổi, của lớp học, của yêu cầu giáo dục đặc trưng thích hợp với đối

tượng, phải phù hợp với phong tục tập quán của từng vùng, từng địa phương.

1.7. Tổ chức hoạt động giáo dục giới tính ở nhà trường bậc trung học cơ sơ

Vấn đề giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh là một vấn đề mới

ở nước ta. Trong quá trình tiến hành thực nghiệm cũng như trong quá trình nghiên

cứu và xây dựng chương trình giáo dục này, có nhiều vấn đề đang được các nhà

nghiên cứu quan tâm: Nên dạy những gì cho học sinh và sẽ dạy chương trình này cho

học sinh như thế nào. Từ đó có một loạt vấn đề được đặt ra:

- Trong nhiều vấn đề phong phú của nội dung giáo dục đời sống gia đình và

giới tính mà các nước đang áp dụng, chúng ta lựa chọn những vấn đề nào để

dạy cho học sinh phổ thông Việt Nam?

- Nên dạy cho học sinh từ lớp nào?

- Nên dạy lồng ghép vào các môn học có liên quan hay dạy thành một môn

riêng.

Ban chỉ đạo đề án VIE/88/P09 Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí

Minh đã tiến hành một cuộc điều tra thăm dò ý kiến của giáo viên và học sinh về

những vấn đề trên, để thực hiện có hiệu quả hơn những nhiệm vụ của đề án do Ban

Chủ nhiệm đề án Trung ương trao cho Ban Chỉ đạo sau khi điều tra đã kết luận như

sau:

- Việc giảng dạy chương trình giáo dục đời sống gia đình và giới tính là cần

thiết và có thể tiến hành sớm trong tình hình hiện nay.

- Trước mắt, đối với một số bài, có thể dạy lồng ghép vào các môn có liên quan

như: Sinh học, Giáo dục công dân… Tuy nhiên có thể nghiên cứu để dạy thành một

môn riêng biệt. Thực tế, một số bài, rất khó ghép vào một môn nào như các bài: tình

yêu, hôn nhân,…

- Có thể dạy nội dung chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính

trong chính khoá và trong hoạt động ngoại khoá. Đây là những kiến thức quan trọng,

cần thiết cho học sinh.

- Có thể dạy cho học sinh phổ thông từ trung học cơ sở trở lên. Việc giảng dạy

này vừa xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của các em, vừa xuất phát từ thực tế giáo

dục và thực tế đời sống học sinh mà các thầy cô giáo đã phát hiện được.

1.8. Một số nét về đặc điểm tâm sinh lý học sinh Trung học cơ sở

- Bước vào bậc trung học cơ sở, các em ở độ tuổi từ 12 đến 15-16 tuổi, đây là

quản đời diễn ra những “biến cố” đặc biệt. Do sự trưởng thành và tích luỹ ở giái đoạn

trước, các em đã có một vị trí xã hội mới: nó không hoàn toàn là trẻ con nhưng cũng

chưa phải là một người lớn. Đây là giai đoạn quá độ từ trẻ con sang người lớn, là giai

đoạn đặc trưng với các dấu hiệu của tuổi dậy thì của nam và nữ.

- Đời sống xúc cảm của các em bị chi phối bởi hai yếu tố cơ bản. Đó là: Sự cải

tổ về mặt giải phẫu sinh lí dẫn đến sự phát dục (dậy thì); Hoạt động giao tiếp với bạn

bè cùng lứa tuổi và với người lớn.

- Ở học sinh khối lớp 8,9 (độ tuổi 14,15) đã nảy sinh những xúc cảm tình cảm

yêu đương đầu đời. Do đó phải giáo dục định hướng đúng đắn cho các em thông qua

việc GDGT…

Như vậy, khi giáo dục giới tính giáo viên phải nắm được các đặc điểm tâm sinh

lí diễn ra phức tạp của học sinh bậc trung học cơ sở, có sự quan tâm đúng mức đến

tâm tư, nguyện vọng của các em nhằm điều chỉnh kịp thời những hành vi lệch lạc.

1.9. Quản lý hoạt động giáo dục giới tính ở nhà trường

Việc quản lý hoạt động giáo dục giới tính trong nhà trường rất phong phú và đa

dạng bao gồm rất nhiều nội dung từ việc nâng cao nhận thức và thái độ của giáo viên,

cán bộ quản lý, cha mẹ học sinh và toàn xã hội nói chung cho đến việc xây dựng

chương trình, việc nghiên cứu phương pháp giảng dạy, tổ chức giảng dạy, đào tạo và

nâng cao trình độ giáo viên,... Tuy nhiên, trước mắt cần phải chú ý các vấn đề sau

đây:

- Phải tìm hiểu quan điểm của giáo viên về giáo dục giới tính trong nhà trường.

- Có kế hoạch tổ chức bồi dưỡng giáo viên về giáo dục giới tính.

- Có kế hoạch phân công giáo viên giảng dạy giáo dục giới tính.

- Quản lý về tài liệu giảng dạy giáo dục giới tính.

- Quản lý việc tìm hiểu nhận thức và thái độ học tập của học sinh về giáo dục

giới tính.

- Quản lý nguồn cung cấp những kiến thức về giới tính cho học sinh.

- Quản lý việc tổ chức hướng dẫn cho cha mẹ học sinh về giáo dục giới tính.

- Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục giới tính.

- Quản lý việc tham gia giáo dục giới tính của các đoàn thể và cán bộ trong nhà

trường.

Những vấn đề được trên là những yếu tố chủ yếu trước mắt trong tình hình

hiện nay ở các trường phổ thông. Đặc biệt là ở các trường trung học cơ sở nói chung

và tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương nói riêng.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC QUẢN LÝ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI HUYỆN

THUẬN AN,TỈNH BÌNH DƯƠNG

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và giáo dục Huyện Thuận An

- Tỉnh Bình Dương

2.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm dân cư

Thuận An là một huyện thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của tỉnh Bình

Dương, có bốn khu công nghiệp lớn : Việt nam - Singapore, Việt Hương, An Phú,

Đồng An.

- Diện tích: 84,26 Km2

- Dân số : 224,470 người

Huyện Thuận An có nhiều điều kiện thuận lợi về đất đai, thích hợp cho việc

phát triển các khu công nghiệp, khu dân cư và trung tâm dịch vụ với quy mô lớn.

Thực tế tại Thuận An với 4 khu công nghiệp đã hình thành, thu hút hàng vạn công

nhân lao động. Thuận An đang được đánh giá là một trong những huyện phát triển

mạnh nhất về công nghiệp. Năm 2002, tốc độ tăng trưởng công nghiệp 32,2%, đứng

đầu các huyện, thị của tỉnh về phát triển công nghiệp. Quy hoạch 04 khu công nghiệp

với gần 200.000 lao động.

Là đầu mối các đường giao thông quan trọng (QL13, đường sắt Xuyên Á...) nối

liền TP. HCM với các tỉnh phía Bắc. Có vị trí là cửa ngõ phía Bắc của TP. HCM.

2.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội huyện Thuận An, tỉnh Bình

Dương

Trong những năm gần đây, huyện Thuận An đã có tốc độ phát triển nhanh.

Trên cơ sở đó chiến lược phát triển kinh tế của Thuận An đã được Hội đồng nhân dân

huyện đề ra là:

- Hình thành nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà

nước theo định hướng XHCN.

- Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Huyện thực hiện chiến lược công

nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và quốc gia. Tăng tỷ trọng phi nông nghiệp, hạ thấp

tỷ trọng nông nghiệp.

- Xây dựng mạng lưới đô thị gắn với phát triển các khu, cụm công nghiệp.

- Gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất và

văn hóa của nhân dân, tạo việc làm cho người lao động, chuyển đổi lao động sang

dịch vụ và công nghiệp. Tạo chuyển biến cơ bản về văn hóa, giáo dục, y tế và các vấn

đề xã hội khác. Ưu tiên vùng nông thôn như một số xã ở ven sông Sài Gòn. Rút ngắn

khoảng cách giữa thành thị và nông thôn (Thị trấn và các xã), giữa người nghèo và

người giàu.

- Phát triển nguồn nhân lực của huyện. Coi trọng đào tạo để nâng cao trình độ

dân trí, trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế.

- Quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi

trường sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững.

- Kết hợp phát triển với an ninh quốc phòng, đảm bảo môi trường sinh thái.

2.1.3. Định hướng phát triển giáo dục từ nay đến năm 2010

Cùng với sự phát triển công nghiệp và các ngành khác, việc đầu tư để phát triển

ngành giáo dục và đào tạo là cấp bách, đáp ứng với nhu cầu lực lượng lao động về số

lượng, chất lượng ngày càng tăng của huyện Thuận An nói riêng và của tỉnh Bình

Dương nói chung. Đồng thời với chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của cả nước

nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng, ngành giáo dục đào tạo huyện Thuận An

còn có vai trò hỗ trợ về giáo dục và đào tạo cho các huyện thị lân cận và TP. HCM.

Những mục tiêu tổng quát đến năm 2000: Chương trình được gọi là "Chương

trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo". Chương trình này gồm 4 mục tiêu, đó

là:

2.1.3.1. Mục tiêu nâng cao dân trí

- Chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.

- Đảm bảo hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn trước khi

vào lớp một nhằm phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước. Tiểu học sẽ học 2

buổi/ngày. Thu nhận tối đa học sinh tiểu học vào trung học cơ sở.

- Thanh toán nạn mù chữ cho độ tuổi 15-35 nhằm phổ cập giáo dục tiểu học và

xóa mù chữ một cách vững chắc. Trong đó phải chú trọng giáo dục sức khoẻ sinh sản

và giới tính cho cộng đồng dân cư.

2.1.3.2. Mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực

Đào tạo nguồn nhân lực phải đảm bảo về 2 mặt:

- Số lượng

- Chất lượng

Trong đó chú trọng đào tạo chuyên môn kỹ thuật tay nghề và đạo đức nghề

nghiệp. Tức là phải đào tạo cho con người phát triển toàn diện cả “đức” lẫn “tài” mà

trong đó GDGT có vai trò quan trọng trong giáo dục đạo đức nhằm giáo dục định

hướng cho con người phát triển toàn diện về mặt nhân cách.

2.1.3.3. Mục tiêu bồi dưỡng nhân lực

Chương trình xây dựng hệ thống trường sư phạm và xây dựng đội ngũ giáo

viên đạt chuẩn:

- Tăng cường đội ngũ cán bộ giỏi, đào tạo mũi nhọn, tạo điều kiện xây dựng

các trường trọng điểm, trường chất lượng cao, trường chuyên để tập trung phát hiện

và bồi dưỡng nhân tài.

- Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên. Đội ngũ CBQL trường phổ thông phải

đạt 40-50% là thạc sĩ trở lên.

- Đào tạo đủ giáo viên cốt cán cho các loại hình giáo viên (trong đó vấn đề đào

tạo đội ngũ có trình độ chuyên môn về giáo dục giới tính là rất cần thiết).

2.1.3.4. Mục tiêu tăng cường cơ sở vật chất trường học

a) Ở Phổ thông:

- Xóa bỏ xong việc học 3 ca, các lớp tạm và tiến hành lầu hóa, có đủ trang thiết

bị, đồ dùng dạy học.

- Trường học có nhà vệ sinh, giếng nước.

- Có cơ sở vật chất tối thiểu để rèn luyện thể chất và đáp ứng đủ các yêu cầu

giảng dạy cho tất cả các bộ môn. Trong đó phải chú trọng đến cơ sở vật chất cho giáo

dục SKSS và giới tính cho học sinh.

- Chuyển dần học sinh tiểu học sang học 2 buổi/ngày

b) Ở khối đào tạo:

- Tập trung xây dựng các ký túc xá trường đại học và trung học sư phạm để

phát triển giáo dục đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và tạo điều kiện cho

con em nông dân, dân tộc nghèo có thể đi học được.

- Tăng cường trang bị cho các phòng thí nghiệm và sản xuất của trường đại

học, cao đẳng, trung học, trung học chuyên nghiệp. Trong đó có một số phòng thí

nghiệm, các thiết bị dạy học, phương tiện hiện đại phục vụ cho công tác đào tạo,

nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Đồng thời phải chú trọng công tác

giáo dục dân số nói chung và giáo dục giới tính nói riêng cho thế hệ công dân mới

trong giai đoạn hiện nay.

* Như vậy để thực hiện được 4 mục tiêu trên, ngành giáo dục phải đào tạo cho con

người phát triển toàn diện về cả tài năng và nhân cách. Trong đó giáo dục giới tính

phải được quan tâm.

2.2. Thực trạng việc quản lý giáo dục giới tính ở các trường Trung học cơ sở

trên địa bàn Huyện Thuận An, Tỉnh Bình Dương

2.2.1. Tìm hiểu quan điểm của giáo viên về giáo dục giới tính

2.2.1.1 Quan điểm của giáo viên về hình thức giáo dục giới tính

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 1 sau đây:

Bảng 2.1: Quan điểm của giáo viên về các hình thức GDGT

SL Tỉ lệ % T.số

Số TT

Hình thức GDGT

1

Lồng ghép vào GDCD+Sinh

95

79,2

120

2

SHCN.

72

60,0

120

3

SH Ngoại khoá

66

55,0

120

4

GD ngoài giờ lên lớp

77

64,2

120

5

Mời báo cáo viên

112

93,3

120

Nhận xét bảng 2.1:

+ Việc lồng ghép vào các môn GDCD-Sinh học: Có 79,2% ý kiến giáo viên

cho rằng việc giáo dục giới tính cho học sinh bậc THCS nên lồng ghép vào đây.

Qua phỏng vấn trực tiếp một số giáo viên các trường THCS đã cho biết thêm ở

hình thức giáo dục này nên được tổ chức thực hiện đầy đủ hơn và là một trong các

hình thức tổ chức giáo dục hiệu quả nhất.

+ Các hình thức 2,3,4 được giáo viên cho ý kiến với tỉ lệ 60,0%; 55,0%; 64,2%

cho rằng nên đưa giáo dục giới tính vào các hình thức giáo dục này. Nhất là trong

công tác đổi mới tổ chức các hình thức giáo dục sinh động và phù hợp với tình hình

thực tiễn. Một số giáo viên và cán bộ quản lý ở các trường qua trao đổi trực tiếp cho

biết thêm: các hình thức tổ chức còn sơ sài, chưa có tính khoa học, còn phụ thuộc vào

sự điều hành và hướng dẫn của cấp trên một cách thụ động, hướng dẫn đến đâu thực

hiện đến đó, chưa chủ động trong tổ chức. Đó là nguyên nhân hoạt động đem lại hiệu

quả giáo dục không cao và phụ thuộc nhiều vào các điều kiện khách quan hơn chủ

quan của bản thân mỗi cán bộ giáo viên khi tham gia giáo dục giới tính.

+ Qua quan sát chúng tôi nhận thấy đội ngũ CBGV tại huyện Thuận An chưa

nhạy bén với những vấn đề giáo dục mới tiến bộ, còn rập khuôn theo lối mòn mà làm

chậm các vấn đề, chưa theo kịp yêu cầu giáo dục ngày càng cao của xã hội, ít nghiên

cứu, ít tham khảo tài liệu. Việc tổ chức giáo dục giới tính còn mang nặng tính cảm

tính, chưa phù hợp với tình hình phát triển tâm sinh lý học sinh hiện nay. Việc giảng

dạy lồng ghép ở các môn có liên quan như: môn Sinh học và GDCD ở khối 8-9, các

phương pháp giảng dạy tích cực có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền tải

các nội dung giáo dục giới tính. Bởi như chúng ta đã biết, đây là những vấn đề rất

nhạy cảm, khó trình bày trước đông người. Các phương pháp giảng dạy tích cực như:

học theo nhóm,trò chuyện, giải quyết vấn đề... tỏ ra rất có hiệu quả. Chính vì vậy, dự

án VIE 97/P13 đã xây dựng chuyên đề phương pháp giảng dạy các chủ đề nhạy cảm

trong giáo dục DS-SKSS vị thành niên nói chung và vấn đề giới tính nói riêng và đã

tổ chức huấn luyện cho giáo viên các trường phổ thông. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có

nhiều giáo viên sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực. Việc giáo dục giới tính

được lồng ghép trong các giờ sinh hoạt chủ nhiệm được phần lớn cán bộ giáo viên ở

các trường THCS đánh giá là tương đối cần thiết (60,0%), được phần lớn các giáo

viên chủ nhiệm lớp thực hiện bằng những kiến thức của bản thân (qua một số tài liệu

và kinh nghiệm sống) để giáo dục cho các em. Đây chỉ là một yếu tố tự phát, do vậy

không thống nhất về hình thức, nội dung cũng như phương pháp giáo dục nên mang

lại hiểu quả chưa cao. Một số giáo viên đánh giá hoạt động giáo dục giới tính trong

giờ sinh hoạt chủ nhiệm của họ phát sinh do phát hiện một số học sinh của mình bước

vào tình yêu trai gái quá sớm nên họ cố gắng giáo dục để hướng học sinh vào nhiệm

vụ chính là học tập.

+ Mời báo cáo viên, quan điểm tán thành của giáo viên ở hình thức này khi

được khảo sát có tỉ lệ khá cao (93,3%). Tuy nhiên bằng quan sát thực tế, chúng tôi

nhận thấy hình thức này chưa được thực hiện.

Từ quan điểm của giáo viên về các hình thức giáo dục giới tính trên đây,

chúng tôi nhận thấy việc tổ chức các hình thức giáo dục giới tính chưa có sự thống

nhất, chỉ mang tính hình thức đối phó theo yêu cầu giáo dục chung của ngành, còn

theo cảm tính của mỗi cá nhân, chưa đi vào chiều sâu nhằm mang lại hiệu quả cao

trong giáo dục toàn diện về mặt nhân cách cho học sinh.

2.2.1.2. Quan điểm của giáo viên về khối lớp được giáo dục giới tính

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2 sau đây:

Bảng 2.2: Quan điểm của giáo viên về khối lớp được GDGT

SL Tỉ lệ % T. số

Số TT

Nội dung khảo sát

1

GDGT cho Khối 6

23

19,2

120

2

GDGT cho Khối 7

34

28,3

120

3

GDGT cho Khối 8

98

81,7

120

4

GDGT cho Khối 9

102

85,0

120

Nhận xét bảng 2.2:

+ Việc giáo dục giới tính cho khối lớp 9 được được giáo viên tán thành nhiều

nhất qua khảo sát (85,0%). Khối lớp được tán thành thực hiện giáo dục giới tính thứ

hai là khối lớp 8 (81,7%).

Qua trao đổi trực tiếp với một số giáo viên, chúng tôi được cho biết: Lên lớp

8,9 thì phần lớn học sinh đã bước vào tuổi dậy thì nên phải được nhà trường quan tâm

giáo dục giới tính trước các khối lớp 6,7 ở các trường trung học cơ sở.

+ Nhiệm vụ chính của học sinh là học tập nhằm trang bị các kiến thức để vượt

qua bậc trung học cơ sở bước vào bậc trung học phổ thông, nên việc giáo dục giới

tính đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng nhân cách cho các em góp

phần giáo dục toàn diện cho học sinh khi bước vào giai đoạn chuyển tiếp về tâm sinh

lí.

+ Ngoài ra, một số giáo viên còn cho rằng nên giáo dục giới tính cho học sinh

khối 6 (19,2%) và cho khối 7 (28,3%) nhằm trang bị cho các em một số kiến thức cơ

bản trong việc tự chăm sóc bản thân.

2.2.1.3. Quan điểm của giáo viên về số tiết thực hiện giáo dục giới tính hàng

tháng

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 3 sau đây:

Bảng 2.3: Quan điểm của giáo viên về số tiết thực hiện GDGT hàng tháng

Số TT

Số tiết thực hiện GDGT hàng tháng

SL Tỉ lệ % T.số

1

Số tiết thực hiện = 2

67

55,8

120

2

Số tiết thực hiện = 4

53

44,2

120

3

Số tiết thực hiện = 8

0

0

120

Nhận xét bảng 2.3:

+ Có 55,8% giáo viên được khảo sát cho rằng nên tổ chức giảng dạy giáo dục

giới tính cho học sinh bậc THCS là 2 tiết/ 1 tháng là đủ để trang bị cho các em những

kiến thức cơ bản các vấn đề về giới tính.

+ Bên cạnh đó, có 44,2% giáo viên cho rằng phải thực hiện 4 tiết / 1 tháng mới

có đủ thời lượng để cung cấp các kiến thức về các vấn đề giới tính cho học sinh. Qua

phỏng vấn, một số giáo viên cho biết thêm việc giáo dục giới tính bao gồm nhiều vấn

đề đối với từng khối lớp được giáo dục giới tính như: Đặc điểm sinh lí cơ thể, tâm lí

lúa tuổi, tình yêu, tình bạn… Do đó, thời lượng giáo dục phải là 4 tiết/ 1 tháng.

+ Ngoài ra, không có giáo viên nào chọn thời lượng GDGT là 8 tiết/ 1 tháng.

Qua trao đổi trực tiếp một số giáo viên cho biết do không thể phân bố thời gian giáo

dục giới tính với thời lượng nhiều hơn 4 tiết/ 1 tháng vì chương trình giáo dục bậc

trung học cơ sở chính khoá hiện nay đã chiếm gần hết thời gian và cơ sở vật chất như

phòng ốc không đáp ứng đủ,…

Qua kết quả điều tra ở bảng 3 chúng tôi nhận thấy số tiết thực hiện giảng dạy

giáo dục giới tính hàng tháng chưa được thống nhất.

2.2.1.4. Quan điểm của giáo viên về tầm quan trọng các nội dung giáo dục giới

tính

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.4 sau đây:

Nhận xét bảng 2.4:

+ Các giáo viên cho rằng nội dung giáo dục thứ 2: “Nhận thức các tệ nạn xã

hội” được giáo viên lựa chọn nhiều nhất (80,8%), kế đến là nội

dung thứ 1: “SKSSVTN.” được giáo viên lựa chọn (75,8%).

Bảng 2.4: Quan điểm của giáo viên về tầm quan trọng các nội dung

giáo dục giới tính

Số TT

Các nội dung GDGT.

SL Tỉ lệ %

T.số

1

SKSSVTN.

91

75,8

120

2

Nhận thức các tệ nạn xã hội

97

80,8

120

3

Các bệnh lây qua đường tình dục.

38

31,7

120

4

Các vấn đề khác cần GD.

49

40,8

120

+ Các vấn đề khác cần giáo dục (40,8%)và các bệnh lây qua đường tình dục

(31,7%), quan điểm giáo viên cho là ít quan trọng trong việc nhận thức tầm quan

trọng của các nội dung cần giáo dục vì qua phỏng vấn trực tiếp nhiều giáo viên cho

rằng các nội dung 1 và 2 là tương đối đầy đủ để giáo dục cho học sinh hiểu và nắm

bắt dược các vấn đề về giới tính, để làm nền tảng cho sự phát triển nhân cách của các

em và từ đó giúp các em nhận thức thêm về các vấn đề cần tìm hiểu khác qua sách

báo, tài liệu,…

Qua kết quả khảo sát nhận thức về tầm quan trọng nội dung chương trình giáo

dục giới tính cho học sinh được đội ngũ CBGV các trường THCS trong huyện Thuận

An đánh giá là quan trọng mà trong đó hai nội dung 1 và 2 được giáo viên đánh giá

cao, giúp học sinh hiểu rõ những vấn đề cơ bản về giới, giới tính,SKSS VTN theo các

tài liệu sách giáo khoa hiện hành của Bộ GD&ĐT. Từ đó giúp học sinh biết cách tự

chăm sóc bản thân một cách khoa học, biết nhận thức đúng đắn về các loại tệ nạn xã

hội để phòng chống, tìm hiểu được một số bệnh lây qua đường tình dục.

2.2.1.5. Đánh giá của giáo viên về nội dung chương trình giáo dục giới tính

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.5 sau đây:

Bảng 2.5: Đánh giá của giáo viên về nội dung chương trình GDGT

Số TT

Mức độ

SL

Tỉ lệ % T.số

1

Rất đầy đủ

71

59,2

120

2

Đầy đủ

49

40,8

120

3

Chưa đầy đủ

00

0

120

4

Ý kiến khác

00

0

120

Nhận xét bảng 2.5:

Quan sát bảng 2.5 ta thấy tỉ lệ lựa chọn ở mức độ “rất đầy đủ” là 59,2%, “đầy

đủ” là 40,8%. Như vậy tất cả giáo viên đều cho rằng các nội dung chương trình giáo

dục giới tính tương đối đầy đủ, bao hàm những kiến thức các vấn đề về giới tính

nhằm giáo dục cho học sinh phát triển nhân cách một cách có định hướng theo sự

phát triển của một xã hội hiện đại, văn minh.

2.2.1.6. Ý kiến của giáo viên về thời gian giáo dục giới tính

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 6 sau đây:

Bảng 2.6: Ý kiến của giáo viên về thời gian GDGT

Ý kiến của giáo viên về thời

Số TT

SL

Tỉ lệ % T.số

gian giảng dạy GDGT.

Xuyên suốt năm học

1

00

0

120

2

Ở HK I

00

0

120

3

Ở HK II

00

0

120

4

120

Không thường xuyên

120

100

Nhận xét bảng 2.6:

+ Thời gian giảng dạy qua khảo sát ở các nội dung 1,2,3 là 00% đã cho thấy

việc thực hiện GDGT chưa được tổ chức có kế hoạch năm, các học kỳ ở mỗi năm

học.

+ Ở nội dung thứ 4: “ không thường xuyên” có tỉ lệ lựa chọn là 100% cho thấy

việc thực hiện GDGT còn mang tính tự phát.

Qua kết quả nghiên cứu ở bảng 8 chúng tôi nhận thấy thời gian giáo dục giới

tính chưa được thực hiện đúng, đủ theo các hướng dẫn thực hiện giảng dạy chương

trình giáo dục giới tính hiện hành của Bộ Giáo dục & Đào tạo trên cơ sở các dự án hỗ

trợ giáo dục Dân số-Sức khoẻ sinh sản trong nhà trường được triển khai thực hiện từ

năm 1989 đến nay như: VIE88/P09; VIE01/P11. Do đó hiệu quả của giáo dục toàn

diện cho học sinh các trường THCS tại huyện Thuận An chưa cao.

2.2.1.7. Quan điểm của giáo viên về trách nhiệm giáo dục giới tính cho học

sinh

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.7 sau đây:

Bảng 2.7: Quan điểm của giáo viên về trách nhiệm GDGT

Số TT

Trách nhiệm của

SL Tỉ lệ % T.số

Nhà trường

1

120

100

120

Gia đình

2

114

95,0

120

3

Học sinh tự tìm hiểu

54

45,0

120

Nhận xét bảng 2.7:

+ Xác định trách nhiệm của “Nhà trường” có 100% giáo viên lựa chọn. Điều

đó cho thấy việc nhận thức trách nhiệm của giáo viên ở mức độ cao nhất.

+ Trách nhiệm thuộc về “Gia đình” có 95,0% giáo viên lựa chọn.

+ Tuy nhiên, ở nội dung thứ 3 “Học sinh tự tìm hiểu” có 45,0% giáo viên lựa

chọn. Đây là một quan điểm sai lầm khi để mặc cho học sinh tự tìm hiểu các vấn đề

về giới tính mà không có sự giáo dục định hướng từ giáo viên. Và chính quan điểm

này của một bộ phận giáo viên đã ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giáo dục giới tính

cho học sinh từ trước đến nay ở các trường THCS tại huyện Thuận An.

2.2.1.8. Sự quan tâm và thái độ của giáo viên trong việc giáo dục các vấn đề về

giới tính

Qua phỏng vấn trực tiếp đội ngũ giáo viên tham gia giáo dục giới tính nhận

thấy mình còn những mặt chưa tốt cần khắc phục như: kiểm soát tình cảm và hành

động của bản thân, chưa biết lắng nghe ý kiến của học sinh nên hiệu quả mang lại

chưa cao.

+ Phần lớn chỉ tập trung vào chuyên môn, chưa được tập huấn về vấn đề này:

Có quá ít giáo viên ở các trường THCS trong huyện Thuận An hăng hái và chịu khó

sáng tạo sư phạm đối với hoạt động giáo dục này. Nhiều giáo viên coi hoạt động giáo

dục giới tính như một thứ "gia vị thêm" vào một hệ thống các môn học; Dạy một giờ

Toán, một giờ Văn đạt danh hiệu giáo viên giỏi thì vẽ vang hơn là thực hiện được

một giờ Sinh hoạt giáo dục giới tính đạt danh hiệu giỏi.

+ Giáo viên còn e ngại khi giảng dạy những vấn đề nhạy cảm: Đã từ lâu, giới

tính là vấn đề nhạy cảm ít được quan tâm trong học đường. Mà cũng phải thôi khi

thầy cô giáo đứng lớp còn mắc cỡ thì làm sao khiến học trò mình hiểu thấu đáo. Khi

những câu hỏi khá "bạo" được đặt ra thì thầy cô luôn né tránh. Những tiết ngoại khóa

với các giáo viên hoặc chuyên viên tâm lý thường xoay quanh chuyện "yêu" như thế

nào hoặc quá lắm là "quan hệ như thế nào để không có thai ?". Những chuyện đó

dường như trở thành "cổ tích" với đám học trò ngày càng ma mãnh trong thời đại

internet. Thực tế cho thấy không phải "lũ trẻ" tiến bộ quá nhanh mà do sự chủ quan

của người lớn. Nhiều giáo viên cho rằng học sinh mình còn bé, khó có thể hiểu được

chuyện người lớn. Và quả thật, cách đây vài năm ở 02 trường THCS trong huyện

Thuận An có hai trường hợp học sinh lớp 8 và lớp 9 quan hệ với nhau dẫn đến có thai

và hậu quả là phải bỏ học giữa chừng. Từ đó chúng tôi kết luận rằng, đội ngũ giáo

viên chưa thật sự quan tâm và có thái độ lơ là đối với công tác giáo dục giới tính ở

các trường THCS tại huyện Thuận An.

2.2.2. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên về giáo dục giới tính

Số lần bồi dưỡng giáo viên về giáo dục giới tính:

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.8 sau đây:

Bảng 2.8: Số lần bồi dưỡng GV. Về GDGT

Số TT Mức độ

SL Tỉ lệ %T.s

1

Một lần

10

8,3

120

2

Hàng năm

00

0

120

3

Đôi khi

00

0

120

4

Chưa có

110

91,7

120

Nhận xét bảng 2.8:

+ Có 8,3% giáo viên được khảo sát chỉ được bồi dưỡng một lần từ trước đến

nay về công tác giáo dục giới tính. Ở mức độ 2và 3 (00%).

+ Bằng quan sát, hàng năm vào dịp hè toàn thể giáo viên THCS trên địa bàn

tỉnh Bình Dương được tập trung bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và cả về công tác

sinh hoạt nội khóa, ngoại khóa, Nhưng chúng tôi chưa thấy được bất kỳ nội dung tập

huấn nào có liên quan đến việc giáo dục giới tính cho học sinh bậc THCS nên phần

lớn các giáo viên được phân công tham gia giáo dục giới tính có kiến thức rất hạn chế

về vấn đề này(Qua thực tế điều tra ở bảng 5 cho thấy giáo viên chưa được bồi dưỡng

chiếm đến 91,7% trong đội ngũ tham gia giáo dục giới tính.

Từ kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên

tham gia giáo dục giới tính chưa được các cấp quản lí giáo dục tỉnh Bình Dương nói

chung và tại huyện Thuận An nói riêng quan tâm.

2.2.3. Phân công giáo viên giáo dục giới tính :

Việc phân công giáo viên giảng dạy giáo dục giới tính:

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.9 sau đây:

Bảng 2.9: Việc phân công giáo viên giảng dạy GDGT

GV. được phân công giảng

Số TT

SL

Tỉ lệ % T.số

dạy GDGT

1

GV. môn GDCD.

25

20,8

120

2

GV. môn Sinh học

46

38,3

120

3

GV. TPT. Đội

00

0

120

4

GV. BT. Chi Đoàn

00

0

120

Nhận xét bảng 2.9:

+ Có 20,8% giáo viên môn Giáo dục công dân được phân công giảng dạy giáo

dục giới tính, có 38,3% giáo viên môn Sinh học được phân công giảng dạy giáo dục

giới tính. Đây là một yếu tố thuận lợi trong việc giáo dục giới tính cho học sinh bậc

trung học cơ sở, được lồng ghép vào các tiết học có liên quan ở hai môn học này

trong các giờ học chính khoá.

Tuy nhiên, qua trao đổi trực tiếp một số giáo viên cho biết thêm mặc dù được

phân công giảng dạy lồng ghép ở hai môn trên nhưng việc thực hiện còn mang tính

hình thức, sơ sài; Qua dự giờ một số tiết học có liên quan đến giáo dục giới tính ở các

môn GDCD và môn Sinh học, chúng tôi nhận thấy phần lớn giáo viên chưa thực hiện

và ở một vài tiết có thực hiện chỉ lướt qua một cách sơ sài.

+ Việc phân công giảng dạy giáo dục giới tính chưa được phân công cho giáo

viên tổng phụ trách Đội TNTP HCM. và giáo viên là bí thư Đoàn TNCS HCM.

(00%).

Qua thực trạng việc phân công giáo viên, chúng tôi thấy rằng việc giáo dục

giới tính chưa được Ban giám hiệu các trường THCS quan tâm tổ chức phân công

thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục này.

2.2.4. Quản lý về tài liệu giáo dục giới tính

Ý kiến của giáo viên về tài liệu giảng dạy GDGT

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.10 sau đây

Bảng 2. 10: Ý kiến của giáo viên về tài liệu giảng dạy GDGT

Mức độ

Số

Loại tài liệu

Rất đầy

Tỉ lệ

Chưa đầy

TT

Tỉ lệ % Đầy đủ

Tỉ lệ %

%

đủ

đủ

70,0

84

9

7,5

27

22,5

1

Sách giáo khoa

59,2

71

17

14,1

32

26,7

2

Tài liệu

65,0

78

23

19,2

19

15,8

3

Giáo trình

26,2

32

88

73,3

00

0

4

Tranh ảnh

Nhận xét bảng 2.10:

- Sách giáo khoa:

+ Được cán bộ giáo viên đánh giá là rất đầy đủ (22,5%), đầy đủ (70,0%), chưa

đầy đủ (7,5%). Nhìn chung, các loại sách giáo khoa ở các trường THCS trong huyện

Thuận An đạt yêu cầu cho hoạt động giáo dục giới tính, thể hiện khá đầy đủ các nội

dung cần giáo dục phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi học sinh bậc THCS. Qua quan sát

thực tế ở các thư viện trường trung học cơ sở trong huyện Thuận An, chúng tôi thấy

có một số đầu sách chính như sau:

* Sách: Phương pháp giảng dạy những chủ đề nhạy cảm về SKSS vị thành niên

- Bộ Giáo dục-Đào tạo năm 2000 đã hướng dẫn rất rõ về các nội dung cần giáo dục

cho học sinh theo từng chủ đề của từng tháng ở khối lớp 8 và 9 trong năm học.

* Sách: “Trò chuyện về tình yêu, giới tính, sức khoẻ”-NXB Phụ nữ Năm 2000.

* Sách:"Vì tương lai cuộc sống"-Của BS. Mai Huy Hồng được BGD&ĐT cho

tái bản năm 2001.

* Sách: “ Tuổi dậy thì”-Của tác giả Đặng Xuân Hoài, NXB Cà Mau, 1990.

- Tài liệu:

+ Được CBGV đánh giá rất đầy đủ (26,7%), đầy đủ (59,2%).

Qua trao đổi trực tiếp, các giáo viên cho biết thêm các tài liệu sẳn có đã hổ trợ

giáo viên trong việc soạn giảng các chuyên đề về giáo dục giới tính, các tài liệu thể

hiện khá đầy đủ các nội dung nhằm đáp ứng các yêu cầu giáo dục giới tính giúp cho

giáo viên tham gia giáo dục giới tính dễ dàng xây dựng các chương trình giáo dục.

Qua trao đổi trục tiếp, cán bộ thư viện các trường THCS cho biết thêm, các tài

liệu này được trang bị sẳn ở những năm học trước nhưng rất ít được giáo viên quan

tâm nghiên cứu.

+ Bên cạnh đó, một số giáo viên cho rằng còn thiếu vắng một số tài liệu tự

nghiên cứu cho giáo viên để tìm hiểu thêm về các vấn đề nhạy cảm cần giáo dục

(14,1%).

Qua quan sát, chúng tôi thấy chỉ có ở thư viện các trường một số tài liệu sau:

a. Hướng dẫn giảng dạy về giáo dục dân số - BGD & ĐT (xuất bản năm 1995).

b. Tài liệu giáo dục sức khoẻ vị thành niên ở Việt Nam – NXB Y học. Hà Nội

2002.

Qua việc nghiên cứu thực trạng về sách giáo khoa, tài liệu chúng tôi thấy tạm

thời đã đáp ứng được yêu cầu giáo dục giới tính trong các trường THCS tại huyện

Thuận An trong giai đoạn hiện nay.

- Giáo trình:

+ Có 15,8% giáo viên đánh giá là rất đầy đủ, có 65,0% giáo viên đánh giá ở

mức đầy đủ vì có hướng dẫn các chủ đề đáp ứng được yêu cầu soạn giảng các vấn đề

về giới tính.

+ Có 19,2% giáo viên cho là còn thiếu. Vì cho rằng chưa có giáo trình nào

hướng dẫn chi tiết ở từng vấn đề.

- Tranh, ảnh:

Được CBGV đánh giá rất đầy đủ là 00%, đầy đủ là 26,2%, chưa đầy đủ 73,3%.

Qua phỏng vấn trực tiếp giáo viên đã cho biết: Tranh, ảnh minh hoạ cho các tiết học

có lồng ghép GDGT là rất hạn chế. Phần lớn các tiết học này xem như giáo viên chỉ

sử dụng phương pháp thuyết trình, không được minh hoạ bằng tranh, ảnh nhằm phát

huy tính tích cực của học sinh, không tạo được hứng thú học tập cho các em. Vì vậy,

hiệu quả mang lại chưa cao.

2.2.5. Quản lý việc tìm hiểu nhận thức và thái độ học tập giáo dục giới tính

của học sinh

2.2.5.1. Ý kiến của giáo viên về thái độ đối với việc học tập kiến thức về GDGT

của học sinh

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2. 11 sau đây:

Bảng 2. 11: Ý kiến đối với việc học tập kiến thức về GDGT của học sinh

Số TT

Mức độ

SL Tỉ lệ % T.số

1

Rất thích

88

73,3

120

2

Thích

29

24,2

120

3

Không thích lắm

03

2,5

120

4

Hoàn toàn không thích

00

0

120

Nhận xét bảng 2.11:

+ Có 73,3% ý kiến đánh giá của giáo viên về thái độ học tập của học sinh trong

giáo dục giới tính là “Rất thích”. Đây là một yếu tố thuận lợi đảm bảo cho công tác

giáo dục giới tính cho học sinh bậc THCS đạt hiệu quả cao, đó cũng là một trong

những yếu tố góp phần phát huy nhận thức của học sinh đối với những chuyên đề cần

giáo dục. Qua phỏng vấn đa số giáo viên nhìn nhận rằng thái độ học tập của học sinh

phụ thuộc phần lớn vào toàn bộ quá trình giáo dục, không phải phụ thuộc riêng vào

quá trình giáo dục giới tính để đánh giá thái độ học tập của các em. Thầy Đặng Minh

Hòa, nguyên hiệu trưởng trường THCS Bình Chuẩn tâm sự:''Mỗi thầy cô giáo khi

tham gia vào công tác giáo dục giới tính phải có kiến thức khoa học nhất định và

phương pháp phù hợp cho từng đối tượng học sinh và phải có sự kết hợp giáo dục

thống nhất của tập thể sư phạm trong việc phát huy tinh thần và thái độ học tập cho

học sinh''. Trãi qua thời gian công tác trong ngành giáo dục chúng tôi nhìn nhận điều

này là đúng, nhất là đối với những đối tượng học sinh dạng cá biệt, học sinh này đa

số có năng lực học tập yếu nên đạo đức cũng yếu, thường hay gây sự với bạn bè, vô

lễ với thầy cô, có nhận thức lệch lạc về các vấn đề thuộc về giới tính. Vì thế mỗi giáo

viên phải có phương pháp phù hợp trong giáo dục đạo đức và thái độ học tập cho các

em. Để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục nhà trường hiện nay nói chung và giáo dục giới

tính nói riêng. Điều đó đòi hỏi ở mỗi giáo viên phải có tính hài hước, lịch thiệp phù

hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, nội dung cần truyền đạt, trong việc góp ý xây dựng

nhằm giáo dục đạo đức, thái độ học tập cho học sinh trong mọi tình huống giáo dục.

+ Có 24,2% ý kiến đánh giá của giáo viên về thái độ học tập của học sinh trong

giáo dục giới tính ở là “Thích”. Tức là các em có sự tiếp thu nghiêm túc nhưng ở một

số chuyên đề về giới tính các em chưa thật sự quan tâm.

+ Có 2,5% ý kiến giáo viên đánh giá về thái độ học tập của học sinh ở mức

trung bình. Vì một bộ phận học sinh chưa nghiêm túc trong các tiết học được lồng

ghép giáo dục giới tính và trong các buổi sinh hoạt ngoại khoá như: đùa giỡn, trêu

chọc bạn, đưa ra một số câu hỏi sai lệch vấn đề…

2.2.5.2. Kiến thức chung của học sinh về giới tính

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.12 sau đây:

Bảng 2.12: Kiến thức chung của học sinh về giới tính

Số TT

Mức độ

SL

Tỉ lệ % T.số

1

Rất đầy đủ

66

24,0

275

2

Chưa đầy đủ

161

58,5

275

3

Rất ít

44

16,0

275

4

Hoàn toàn không biết

04

1,5

275

Nhận xét bảng 2.12:

+ Ở mức độ “rất đầy đủ” có 24,0% học sinh tự cho là mình hiểu biết rất đầy đủ

các kiến thức chung về giới tính, ở mức độ “chưa đầy đủ” có 58,5% lựa chọn. Qua

phỏng vấn trực tiếp nhiều học sinh, phần lớn các em cho biết cũng chỉ hiểu được một

cách chung nhất về một số kiến thức liên quan đến vấn đề giới tính và cũng không

hiểu rõ ràng.

+ Bên cạnh đó, có 16,0% học sinh tự nhận rằng các em biết “rất ít” và 1,5%

cho là các em “Hoàn toàn không biết” các kiến thức chung về giới tính. Qua kết quả

phỏng vấn một số giáo viên và các nhà quản lí giáo dục ở địa phương đã cho biết

nhiều học sinh chưa biết những kiến thức chung cơ bản về giới tính. Ngay cả những

em cho là biết rất đầy đủ và chưa đầy đủ cũng chỉ là cũng chỉ là nhận thức chủ quan

vì các em không biết thông tin nào là đúng thông tin nào là không đúng. Các nguồn

cung cấp thông tin cho các em cũng rất phức tạp từ các sách báo trên thị trường, phim

ảnh, kinh nghiệm của ngưòi lớn… khiến các em nhầm tưởng đó là những kiến thức

đầy đủ về giới tính. Chính điều này đã dẫn đến hậu quả là các em có hành vi sai lầm

trong đời sống giới tính.

2.2.5.3. Những kiến thức cụ thể của học sinh về GDGT

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.13 sau đây

Các mức độ

Biết

Tỉ lệ

Biết

Tỉ lệ

Biết

Tỉ lệ

Hoàn

Tỉ lệ

Bảng 2.13: Những kiến thức cụ thể của học sinh về GDGT

Các nội dung

rất

%

chưa

%

rất ít

%

toàn

%

đầy

đầy

không

đủ

biết

đủ

1. Những kiến thức cơ

105 38,2

134

48,7

25

9,1

11

4

bản về giới tính

2. Anh hưởng của giới

0

65

23,6

177

64,4

33

12,0

0

tính với bản thân, gia

đình và xã hội.

3. Các dấu hiệu bước

12

4,4

128 46,5

96

34,9

39

14,2

vào tuổi dậy thì.

4. Sức khỏe sinh sản vị

36

13,1

117 42,5

104

37,8

18

6,5

thành niên.

0

0

5. Các biện pháp tránh

155 56,4

39

14,2

81

29,5

thai.

6. Vai trò của nhà

0

0

63

22,9

159

57,8

53

19,3

trường trong việc

giáo dục giới tính.

Nhận xét bảng 2.13:

+ Những kiến thức cơ bản về giới tính: Có 4% học sinh tự cho là biết rất đầy

đủ, 38,2% biết chưa đầy đủ, 48,7% biết rất ít, 9,1% hoàn toàn không biết.

+ Anh hưởng của giới tính với bản thân, gia đình và xã hội: Không có học sinh

nào chọn ở mức độ biết rất rõ, có 23,6% tự cho là biết chưa đầy đủ, 64,4% tự cho là

biết rất ít, 12,0% tự cho là hoàn toàn không biết.

+ Các dấu hiệu bước vào tuổi dậy thì: Có 4,4% học sinh tự nhận là biết rất rõ,

có 46,5% tự cho là biết chưa đầy đủ, 34,9% tự cho là biết rất ít, 14,2% tự cho là hoàn

toàn không biết. Đây là một trong các đặc điểm sinh lí nổi bậc của các vấn đề về giới

tính.

+ Sức khoẻ sinh sản vị thành niên: Có 13,1% học sinh tự nhận là biết rất rõ, có

42,5% tự cho là biết chưa đầy đủ, 37,8% tự cho là biết rất ít, 6,5% tự cho là hoàn toàn

không biết.

+ Các biện pháp tránh thai: Không có học sinh nào chọn ở mức độ biết rất rõ,

có 56,4% tự cho là biết chưa đầy đủ, 14,2% tự cho là biết rất ít, 29,5% tự cho là hoàn

toàn không biết.

+ Vai trò của nhà trường trong việc giáo dục giới tính:Không có học sinh nào

chọn ở mức độ biết rất rõ, có 22,9% tự cho là biết chưa đầy đủ, 57,8% tự cho là biết

rất ít, 19,3% tự cho là hoàn toàn không biết.

Tuy nhiên trong thực tế khi phỏng vấn trực tiếp ngẫu nhiên nhiều học sinh thì

các em rất lúng túng không trả lời được những kiến thức cụ thể đã nêu trên. Thậm chí

có những em còn trả lời hoàn toàn sai lệch những kiến thức về giới tính.

2.2.5.4. Hiểu biết của học sinh về khái niệm giới tính

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.14 sau đây:

Bảng 2.14: Hiểu biết của học sinh về khái niệm giới tính

Số

Nội dung

Tỉ lệ

TS

SL

Giới tính là:

TT

%

1 Giống đực và giống cái.

17

6,2

275

2 Các đặc điểm khác nhau về sinh lí cơ thể.

91

33,1

275

3 Con trai-con gái.

19

6,9

275

Những đặc điểm khác nhau về tâm sinh lí con

4

148

53,8

275

người.

Nhận xét bảng 2.14:

+ Có 46,2% đã nhận thức chưa đầy đủ về khái niệm giới tính. Các em chỉ nhận

thức được một mặt nào đó trong các khái niệm về giới tính như: Giống đực và giống

cái(6,2%), các đặc điểm khác nhau về sinh lí cơ thể (33,1%), con trai - con gái(6,9%).

+ Chỉ có 53,8% học sinh chọn khái niệm về giới tính là “Những đặc điểm khác

nhau về tâm sinh lí con người”. Đây là nhận thức khái niệm tương đối đầy đủ về giới

tính.

2.2.5.5. Hiểu biết của học sinh về thời điểm xác định giới tính

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.15 sau đây:

Bảng 2. 15: Hiểu biết của học sinh về thời điểm xác định giới tính

Số TT Giới tính được xác định khi:

SL

Tỉ lệ %

TS

1

Thụ thai

128

46,5

275

2

Chào đời

99

36,0

275

3

Bước vào tuổi dậy thì

31

11,3

275

4

Đã trưởng thành

17

6,2

275

Nhận xét bảng 2.15:

+ Chỉ có 46,5% học sinh chọn giới tính được xác định từ khi thụ thai. Đây là

một kiến thức khoa học đầy đủ đã được các nhà khoa học nghiên cứu và đã được

công nhận.

+ Các nội dung còn lại có đến 53,5% học sinh chọn.

Trên đây là một trong những kiến thức khoa học về giới tính được lồng ghép

giảng dạy ở môn Sinh học. Tuy nhiên tỉ lệ học sinh hiểu được chính xác các kiến thức

này chưa cao.

2.2.5.6 Hiểu biết của học sinh về một số mục tiêu GDGT

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.16 sau đây:

Bảng 2.16: Hiểu biết của học sinh về một số mục tiêu GDGT

Số TT

GDGT là để:

SL

Tỉ lệ %

TS

GD những đặc điểm về tâm lí.

1

183

66,5

275

Biết những đặc điểm sinh lí cơ thể.

2

176

64,0

275

Biết cách giao tiếp với bạn khác giới.

3

163

59,3

275

Biết cách phòng tránh thai.

4

77

28,0

275

Biết cách tự chăm sóc mình.

5

188

68,4

275

Biết cách giao tiếp với mọi người xung quanh.

6

192

69,8

275

Nhận xét bảng 2.16:

+ Các em cho rằng: Giáo dục những đặc điểm về tâm lí(66,5%), Biết những

đặc điểm sinh lí cơ thể(64,0%), Biết cách giao tiếp với bạn khác giới(59,3%), Biết

cách tự chăm sóc mình(68,4%), Biết cách giao tiếp với mọi người xung

quanh(69,8%).

Việc xác định các mục tiêu này cho thấy các em cũng tự nhận thức được một

cách cơ bản các mục tiêu của giáo dục giới tính. Điều đó nói lên được có phần thuận

lợi trong việc triển khai công tác giáo dục giới tính tại huyện Thuận An hiện nay.

+ Song chỉ có 28,0% học sinh chọn mục tiêu “Biết cách phòng tránh thai”.

Chứng tỏ các em còn e ngại khi được hỏi về các vấn đề nhạy cảm.

2.2.5.7. Hiểu biết chung của học sinh về đặc điểm sinh lí giới tính của bạn

khác giới

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.17 sau đây:

Bảng 2. 17: Hiểu biết chung của học sinh về đặc điểm sinh lí giới tính

của bạn khác giới

Số TT

Nội dung

SL

Tỉ lệ %

TS

1

Biết rất rõ

00

0

275

2

Biết chút ít

227

82,5

275

3

Không biết

48

17,5

275

Nhận xét bảng 2.17:

+ Không có học sinh nào cho là mình biết rất rõ về đặc điểm sinh lí của bạn

khác giới.

+ Có 82,5% tự cho rằng mình “Biết chút ít” và 17,5% học sinh cho là họ

“Không biết” gì về đặc điểm sinh lí giới tính của bạn khác giới. Qua trao đổi trực tiếp

với một số học sinh về các đặc điểm sinh lí giới tính của bạn khác giới thì hầu hết các

em không trả lời được hoặc trả lời sai lệch về các vấn đề được hỏi. Các nguồn thông

tin về các về các đặc điểm sinh lí của con người rất phức tạp khiến học sinh nghĩ rằng

chúng đã chính xác. Chính điều này đã dẫn đến có hành vi cư xử sai lệch trong giao

tiếp với bạn khác giới và kích thích sự tò mò trong đời sống sinh lí của tuổi mới lớn.

2.2.5.8 Hiểu biết của học sinh về bệnh AIDS

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.18 sau đây:

Bảng 2.18: Hiểu biết của học sinh về bệnh AIDS

Số TT

Nội dung

SL

Tỉ lệ %

TS

1

Biết rất rõ

00

0

275

2

Biết chút ít

242

88,0

275

3

Không biết

33

12,0

275

Nhận xét bảng 2.18:

+ Có 88,0% học sinh “Biết chút ít” về bệnh AIDS. Với tỉ lệ này là điều đáng

mừng cho xã hội ta hiện nay, là một yếu tố thuận lợi trong việc giáo dục các kiến

thức về giới tính cho học sinh.

+ Tuy nhiên có 12,0% học sinh “Không biết” gì về bệnh AIDS. Đây là một

điều đáng lo ngại nhất của xã hội đối với học sinh khi bước vào tuổi vị thành niên

hiện nay, lứa tuổi có sự thay đổi rất lớn về mặt tâm sinh lí và qua quan sát thực tế tình

hình học sinh một vài năm gần đây, chúng tôi được biết một số ít học sinh đã có quan

hệ tình dục.

Qua phỏng vấn trực tiếp nhiều học sinh, các em đã cho biết nguồn thông tin về

căn bệnh thế kỉ AIDS. qua báo đài và các phương tiện thông tin khác tương đối đầy

đủ. Bên cạnh đó có một bộ phận học sinh cư ngụ ở những khu vực nông thôn có mật

độ dân cư thưa thớt nên còn thiếu thông tin cụ thể về căn bệnh này.

2.2.5.9. Hiểu biết của học sinh về nguồn lây nhiễm của HIV

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.19 sau đây:

Bảng 2.19: Hiểu biết của học sinh về nguồn lây nhiễm của HIV

Số TT

Nội dung

SL Tỉ lệ %

TS

Truyền máu

1

244

88,7

275

Quan hệ tình dục

2

253

92,0

275

Tiêm chích ma tuý

3

267

97,1

275

4

Nói chuyện với người nhiễm HIV.

18

6,5

275

Nhận xét bảng 2.19:

+ Có 88,7% học sinh chọn “Truyền máu”, 92,0% học sinh chọn “Quan hệ tình

dục”, 97,1% học sinh chọn “Tiêm chích ma tuý” là nguồn lây nhiễm HIV. Điều đó có

nghĩa là đa số học sinh đã nắm được các kiến thức cơ bản về nguồn lây nhiễm HIV

để có ý thức phòng tránh hiệu quả sự xâm nhập của vi-rút chết người này cho bản

thân.

+ Tuy nhiên, bên cạnh đó có 6,5% học sinh chọn “Nói chuyện với người nhiễm

HIV” là nguồn lây nhiễm HIV. Đây cho thấy một vấn đề còn hạn chế trong công tác

giáo dục tuyên truyền cho học sinh các kiến thức về HIV/AIDS trong nhà trường.

2.2.5.10. Thái độ đối với việc học tập kiến thức về giáo dục giới tính của học

sinh

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.20 sau đây:

Bảng 2.20: Thái độ đối với việc học tập kiến thức về GDGT

của học sinh:

Số TT

Mức độ

SL Tỉ lệ %

TS

1

Rất thích

214

77,8

275

2

Thích

53

19,3

275

3

Không thích lắm

08

2,9

275

4

Hoàn toàn không thích

00

0

275

Nhận xét bảng 2.20:

+ Có 77,8% học sinh tự đánh giá thái độ học tập của bản thân là “Rất thích”.

Đa số các em muốn tiếp thu kiến thức về giới tính một cách khoa học và nghiêm túc

nhằm ứng dụng vào đời sống xã hội như: Tự chăm sóc bản thân và ứng xử trong giao

tiếp. Qua phỏng vấn trực tiếp một số học sinh, các em cũng nhìn nhận rằng: Nhu cầu

cần được giáo dục giới tính của các em rất cao, nhưng việc được cung cấp các kiến

thức về vấn đề này rất ít và còn hạn hẹp, chưa được thầy, cô giải thích rõ ràng và

hiếm khi được đề cập đến trong quá trình giáo dục. Các em cho rằng nhà trường chưa

thật sự quan tâm đến vấn đề này. Do đó, các em phải tự tìm hiểu qua bạn bè, sách

báo, phim ảnh… nhưng những nguồn cung cấp này rất hạn chế và đôi khi còn lệch

lạc.

+ Có 19,3% học sinh tự đánh giá thái độ học tập của bản thân “Thích”, 2,9%

học sinh tự đánh giá thái độ học tập của bản thân là “Không thích lắm”. Qua trao đổi

trực tiêp, một số em cho biết ở một số vấn đề về giới tính được giáo dục các em chưa

thật sự quan tâm và tự nhận thấy đôi lúc bản thân còn chưa nghiêm túc trong khi

được giáo dục giới tính và thường bị thầy cô nhắc nhỡ.

Tương tự phần đánh giá của giáo viên về nhận thức và thái độ học tập của học sinh

qua bảng điểm so sánh, chúng tôi nhận thấy rằng mức độ sai lệch không lớn lắm, có

thể chấp nhận được.

2.2.6. Quản lý nguồn cung cấp những kiến thức về giới tính cho học sinh và

việc tổ chức hướng dẫn cho cha mẹ học sinh về giáo dục giới tính

2.2.6.1. Nguồn cung cấp những kiến thưc về giới tính cho học sinh

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.21 sau đây:

Bảng 2.21: Nguồn cung cấp những kiến thức về giới tính cho học sinh

SốTT

Nội dung

SL

Tỉ lệ %

TS

Thầy cô

1

89

32,4

275

Cha, mẹ

2

72

26,2

275

Anh, chị

3

47

17,1

275

Bạn bè

4

166

60,4

275

Sách báo

5

127

46,2

275

6

49,5

275

Các phương tiện thông tin

136

7

42

15,3

275

Những nơi khác

Nhận xét bảng 2.21:

+ Những kiến thức về giới tính của học sinh có được chủ yếu thông qua bạn bè,

sách báo, các phương tiện thông tin là chính. Đa số học sinh thừa nhận đây là những

phương tiện thường xuyên và thỉnh thoảng cung cấp những kiến thức về giới tính cho

các em, nhất là qua bạn bè. Song qua bạn bè thì những kiến thức khoa học về giới

tính chưa dược nghiêm túc và thường bị lệch lạc. Hơn nữa có nhiều học sinh do tiếp

xúc thường xuyên với các loại văn hoá phẩm độc hại và các “Trang Web đen” khó

kiểm soát được là những mầm mống vô cùng nguy hiểm làm cho các em nhận thức

không đúng về giới tính.

+ Có 32,4% học sinh được cung cấp các kiến thức về giới tính từ thầy cô. Nên

những kiến thức này có tính khoa học cao và đã giúp các em hiểu được một số vấn đề

khó nói về giới tính. Tuy nhiên qua phỏng vấn phần lớn học sinh cho biết thỉnh

thoảng được học và chỉ được các thầy cô giải thích qua loa các vấn đề về giới tính.

+ Một vấn đề chúng tôi cần lưu ý là có đến 56,7% học sinh chưa được cung

cấp những thông tin về giới tính từ phía gia đình. Chỉ có 26,2% học sinh được cha mẹ

cung cấp, 17,1% được anh chị cung cấp các kiến thức về kiến thức về giới tính. Có

thể ở gia đình cha mẹ và những người thân khác nghĩ rằng học sinh bước vào tuổi

trưởng thành phải để các em tự tìm hiểu mà không có sự hướng dẫn, giải thích, hay

họ giáo dục một cách qua loa. Ở đây chúng tôi chưa đề cập đến cách giáo dục sai lầm

của không ít cha mẹ. Họ ít quan tâm đến đời sống tinh thần của con. Khi con cái bước

vào tuổi dậy thì, nhiều gia đình lại áp đặt, cấm đoán hơn là việc giáo dục giúp các em

nhận thức đúng vấn đề.

Qua đó, chúng tôi thấy rằng: những kiến thức về giới tính mà học sinh có được

chủ yếu bằng con đường tự phát từ bạn bè, từ sách báo mà họ có dịp đọc, từ các

phương tiện thông tin đại chúng khác… Thực trạng đó đã làm cho sự hiểu biết về

giới tính của học sinh còn rất đơn giản, mơ hồ, thậm chí sai lệch. Và điều này làm

cho các em nhận thức về giới tính chưa đầy đủ, chưa đúng.

Để biết được thực trạng về việc hiểu biết các vấn đề về giới tính và giáo dục

giới tính trong gia đình nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp, chúng tôi tiến hành

tìm hiểu thực trạng qua phiếu trưng cầu ý kiến đến một số cha, mẹ học sinh ở các

trường THCS đang nghiên cứu và kết quả thu được sau đây:

2.2.6.2. Hiểu biết của cha mẹ học sinh về các vấn đề giới tính

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.22 sau đây:

Bảng 2.22: Hiểu biết của cha mẹ học sinh về các vấn đề giới tính

Mức độ

SL

Tỉ lệ %

TS

1

Biết rất rõ

00

0

50

2

Biết chút ít

29

58,0

50

3

Không biết

21

42,0

50

Số TT

Nhận xét bảng 2.22:

+ Có 58,0% các bậc cha mẹ qua khảo sát tự đánh giá là có “Biết chút ít” về các

vấn đề giới tính. Tức là họ tự đánh giá mình chỉ hiểu biết chút ít các kiến thức về các

vấn đề giới tính trong việc GDGT cho con em mình. Tuy nhiên, qua phỏng vấn chúng

tôi nhận thấy phần lớn họ chưa hiểu về tâm sinh lí của con mình theo sự phát triển cơ

thể qua từng giai đoạn lứa tuổi một cách khoa học để có biện pháp giáo dục cho phù

hợp, họ còn giao khoáng việc giáo dục con em họ cho nhà trường và cũng không để ý

đến việc sinh hoạt của con mình sau giờ học ở trường mà nguyên nhân chủ yếu của

vấn đề là phần lớn cha mẹ học sinh đều là công nhân lao động nghèo nên chỉ chú

trọng vào “cơm, áo, gạo, tiền” là chính chứ không chú ý hoặc ít chú ý đến việc giáo

dục đạo đức cho các em. Điển hình là số lượng học sinh vi phạm kỉ luật ngày càng

nhiều, có hiện tượng ''yêu sớm''trong nhà trường, hút thuốc lá, uống rượu, đánh

nhau,... Chẳng hạn, phát hiện học sinh hút thuốc lá trong nhà vệ sinh ở các trường

THCS Nguyễn văn Tiết, Phú Long; Học sinh yêu nhau và quan hệ tình dục đến có

thai phải đi nạo phá ở trường THCS Trịnh Hoài Đức…

Qua quan sát, chúng tôi thấy đôi khi có một số em vi phạm nội quy nhà trường

và nhà trường đã mời cha mẹ nhưng họ không đến đã gây khó khăn rất nhiều trong

việc kết hợp giáo dục các em về các mặt nói chung và GDGT nói riêng dẫn tới hiệu

quả giáo dục chưa cao.

+ Có 42,0% cha, mẹ học sinh được khảo sát đã cho biết họ hoàn toàn không có

kiến thức về giáo dục giới tính. Đây cũng chính là một thực trạng chung mà xã hội

mà các nhà quản lí giáo dục và các nhà nghiên cứu về giáo dục đang quan tâm.

2.2.6.3. Nguồn cung cấp các vấn đề về GT. cho cha mẹ

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.23 sau đây:

Bảng 2.23: Nguồn cung cấp các vấn đề về GT. cho cha mẹ

Số TT

Nguồn cung cấp

SL

Tỉ lệ %

TS

1

Nghe, xem đài

07

14,0

50

2

Sách, báo, tài liệu

05

10,0

50

3

Kinh nghiệm bản thân

42

84,0

50

4

Bạn bè, đồng nghiệp

14

28,0

50

Nhận xét bảng 2.23:

+ Nguồn cung cấp kiến thức về các vấn đề về giới tính cho cha mẹ qua “Nghe,

xem đài” là 14,0%, “Sách, báo, tài liệu” là 10,0%, “Bạn bè, đồng nghiệp” là 28,0%.

Đây là yếu tố tự phát của các bậc cha mẹ tự tìm hiểu từ nhiều nguồn nhưng còn rất

hạn chế.

+ Có 84,0% cho biết kiến thức có được chỉ do kinh nghiệm bản thân nên tính

khoa học rất thấp và thường không phù hợp với điều kiện giáo dục thực tế cho con

em hiện nay.

2.2.6.4. Số lần trao đổi các vấn đề về GT. giữa cha, mẹ với học sinh

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.24 sau đây:

Mức độ

Bảng 2.24: Số lần trao đổi các vấn đề về GT. giữa cha, mẹ với học sinh

Số TT

SL

Tỉ lệ %

TS

1

Thường xuyên

04

8,0

50

2

Đôi khi

22

44,0

50

3

Không có

24

48,0

50

Nhận xét bảng 2.24:

+ Có 48,0% cha mẹ học sinh qua khảo sát cho biết họ không có sự trao đổi với

con cái về các vấn đề giới tính. Qua phỏng vấn, họ cho biết do không có thời gian và

cũng ngại trao đổi với con cái về các vấn đề nhạy cảm này hoặc không có kiến thức

về giới tính.

+ Có 44,0% cha mẹ đôi khi có trao đổi với con em mình về các vấn đề giới

tính, 8,0% có sự trao đổi thường xuyên. Phần lớn các bậc cha mẹ học sinh qua phỏng

vấn đã cho biết thêm ít nhiều họ cũng có chút kinh nghiệm từ chính mình để hướng

dẫn cho con em một số kinh nghiệm tự chăm sóc bản thân nhưng còn hạn chế ở rất

nhiều mặt trong việc giáo dục toàn diện về đạo đức cho con em họ.

Từ thực trạng giáo dục giới tính ở gia đình học sinh, chúng tôi kết luận rằng:

Phần lớn các bậc cha, mẹ chỉ tập trung vào việc chăm lo đời sống kinh tế cho gia đình

và nếu có trao đổi thì cũng chỉ tập trung vào vấn đề học tập các môn văn hoá của con

em mình và một số vấn đề luân lý khác và thường mang tính áp đặt. Chính vì vậy

hiệu quả giáo dục toàn diện chưa cao.

2.2.6.5. Đánh giá của cha mẹ về việc hiểu biết các vấn đề về GT của con cái

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.25 sau đây:

Bảng 2.25: Đánh giá của cha mẹ về việc hiểu biết các vấn đề về GT của con cái

Số TT

Mức độ

SL.

Tỉ lệ %

TS.

1

Biết rất rõ

00

0

50

2

Biết chút ít

41

82,0

50

3

Không biết

09

18,0

50

Nhận xét bảng 25:

Trong nghiên cứu bảng 25 có 82,0% cho rằng con họ “Biết chút ít” các vấn đề

về giới tính, 18,0% cho rằng “Không biết”. Đây chỉ là sự nhận xét theo cảm tính cá

nhân của các bậc cha mẹ. Qua phỏng vấn trực tiếp, họ đã cho biết thêm rằng họ

không có thời gian quan tâm đúng mức đến đời sống tâm lí của con em mình do phần

lớn cha mẹ là công nhân lao động nghèo nên chỉ tập trung chăm lo kinh tế gia đình là

chính. Do đó họ không thể đánh giá được một cách tương đối chính xác về sự hiểu

biết các vấn đề về giới tính của con cái.

2.2.6.6. Quan điểm của cha mẹ học sinh về trách nhiệm GDGT

Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 2.26 sau đây:

Bảng 2.26: Quan điểm của cha mẹ học sinh về trách nhiệm GDGT

Tỉ lệ lựa chọn

Số TT

Trách nhiệm của

Giáo viên

Thứ

Cha mẹ

Thứ

(Tỉ lệ %)

hạng

(Tỉ lệ %)

hạng

1

Nhà trường

100

1

92,0

1

2

Gia đình

95,0

2

84,0

2

3

Học sinh tự tìm hiểu

45,0

3

76,0

3

Nhận xét bảng 2.26:

+ Xác định trách nhiệm của “Nhà trường” có 92,0% cha mẹ học sinh lựa chọn.

Trách nhiệm thuộc về “Gia đình” có 84,0% cha mẹ học sinh lựa chọn đã cho thấy ý

thức trách nhiệm của cha mẹ học sinh đối với việc GDGT cho con em họ ở mức độ

cao.

+ Tuy nhiên, ở nội dung thứ 3 “Học sinh tự tìm hiểu” có 76,0% cha mẹ học

sinh lựa chọn. Đây là một quan điểm sai lầm, nhất là đối với các bậc cha mẹ khi để

mặc cho con cái tự tìm hiểu các vấn đề về giới tính mà không có sự giáo dục định

hướng cho các em như chúng tôi đã đề cập ở mục 2.2.9.

2.2.7. Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục giới tính giới

Qua kết quả chúng tôi đã nghiên cứu bằng phỏng vấn và qua quan sát cho thấy:

tính ở các trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An

2.2.7.1. Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch chung

Các trường THCS trong huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương hiện nay (năm học

2006-2007) có 168 lớp với 7.366 học sinh (trong đó học sinh khối 8 -9 chiếm 2/5

tổng số). Tuy nhiên, Ban giám hiệu các trường THCS chưa có kế hoạch tổ chức phân

công và trực tiếp phụ trách, phối hợp cùng các đoàn thể trong nhà trường chủ động

xây dựng kế hoạch thực hiện việc giáo dục giới tính trong nhà trường. Qua phỏng vấn

trực tiếp một số chuyên viên phòng giáo dục Thuận An đã cho biết thêm, đội ngũ

CBQL ở các trường THCS trong huyện hiện nay đa số còn thiếu tính quyết đoán, phụ

thuộc hoàn toàn vào cấp trên trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, sợ trách

nhiệm. Điển hình ở hầu hết các trường THCS trong huyện Thuận An nhiều năm liền

chúng tôi chưa thấy có kế hoạch chung để thực hiện công tác giáo dục này, một số

giáo viên bộ môn cho biết có đề nghị Ban giám hiệu đưa vào kế hoạch hoạt động

hàng năm để giáo dục những chuyên đề về giới tính bằng việc tăng tiết khác buổi,

tăng cường hoạt động ngoại khoá nhưng các đồng chí hiệu trưởng không đồng ý vì sợ

tài chính không duyệt thừa giờ, cấp trên chưa có công văn hướng dẫn cụ thể. . .

2.2.7.2. Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch cụ thể

Qua quan sát, chúng tôi thấy các trường trung học cơ sở trong huyện Thuận

An chưa có kế hoạch cụ thể để học sinh trên tích cực tham gia vào các cuộc vận động

thực hiện các chính sách về xã hội. Chưa nghiên cứu áp dụng các Chỉ thị, Nghị định,

Nghị quyết, Văn bản hướng dẫn của cấp trên đối với việc giáo dục các vấn đề về giới

tính nhằm cụ thể hoá kế hoạch thực hiện GDGT ở các trường THCS. Từ thực tế kế

hoạch hoạt động giáo dục DS-SKSS VTN nói chung và giáo dục giới tính nói riêng

trong những năm qua, có thể nói ở các trường THCS trong huyện Thuận An, tỉnh

Bình Dương đã chưa có kế hoạch hoạt động chủ động, tích cực nhằm góp phần giáo

dục các em học sinh bậc THCS - những người chủ tương lai của đất nước có những

nhận thức đúng, rèn luyện kỹ năng sống tốt và có những hành vi ứng xử đẹp hướng

tới mục tiêu bình đẳng giới trong một xã hội văn minh. Có thể nói rằng việc triển khai

giáo dục giới tính trong nhà trường phổ thông bậc THCS thật sự cần thiết và để có

hiệu quả cao cần tiến hành nhanh chóng, cụ thể hóa bằng kế hoạch ngay từ mỗi đầu

năm học bằng những hình thức phong phú, đa dạng với sự phối hợp đồng bộ giữa

giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, các đoàn thể trong nhà trường.

2.2.7.3. Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch mời chuyên gia tư vấn

Qua trao đổi trực tiếp với CBQL và giáo viên các trường THCS trong huyện

Thuận An, trong các năm học gần đây, các trường THCS đã chưa chủ động tổ chức

mời các chuyên gia tư vấn (Bác sĩ, chuyên viên tư vấn của các trung tâm tư vấn về

"SKSS - giới tính và tình dục" để nói chuyện chuyên đề về sự thay đổi tâm sinh lý ở

tuổi dậy thì cho các em học sinh ở khối 8-9; Hướng dẫn việc thực hiện vệ sinh cho nữ

sinh, nhất là các em học sinh ở khối 6-7 và giáo dục về giới, giới tính cho học sinh

nam, nữ khối lớp 8-9 nhằm nâng cao hiểu biết về các vấn đề tình bạn, tình bạn khác

giới, tình yêu để học sinh có những hành vi đẹp và đúng đắn trong giao tiếp ứng xử

và tránh được những hậu quả đáng tiếc của việc quan hệ không trong sáng trong tình

bạn, rất cần thiết là các đoàn thể trong nhà trường THCS tại huyện Thuận An, tỉnh

Bình Dương như Đoàn TNCS HCM, Đội TNTP HCM nên có kế hoạch cụ thể trong

hoạt động mỗi năm học theo các chủ điểm của từng tháng. Đồng thời hoạch định kế

hoạch cụ thể tham mưu với Ban giám hiệu trường để mời chuyên viên Trung tâm tư

vấn về hôn nhân và gia đình của tỉnh đến sinh hoạt chuyên đề "Tình bạn, tình yêu

trong nhà trường".

2.2.7.4. Quản lý việc thực hiện và xây dựng kế hoạch sinh hoạt ngoại khoá

Qua trao đổi trực tiếp với giáo viên tổng phụ trách Đội TNTP HCM, bí thư Đoàn

TNCS HCM, cán bộ phụ trách Ban “Các vấn đề xã hội” ở các trường THCS trong

huyện Thuận An đã cho biết các buổi sinh hoạt ngoại khoá chỉ được thực hiện theo kế

hoạch đề ra ở mỗi đầu năm học của huyện Đoàn, Hội đồng Đội huyện và của Ban

“Các vấn đề xã hội huyện” chỉ xoay quanh các vấn đề về an toàn giao thông, sinh

hoạt văn nghệ,...Bản thân các đồng chí giáo viên có trách nhiệm được nêu trên chưa

có sự nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng trong việc giáo dục giới tính cho học sinh,

chưa có sự đổi mới phương pháp trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh phù hợp

với quá trình phát triển về mọi mặt của xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Từ thực trạng về những kế hoạch hoạt động ngoại khóa nêu trên chưa kích thích

được sự tham gia tìm hiểu một cách tích cực của học sinh, các cán bộ, giáo viên đã

không chú ý đến vấn đề và tham gia nghiên cứu hoặc góp ý bộ chương trình phát thảo

tích hợp các nội dung giáo dục DS-SKSS VTN nói chung và giáo dục giới tính nói

riêng ở trong hoạt động ngoài giờ lên lớp do Ban dự án "Hỗ trợ giáo dục DS-SKSS

trong nhà trường" (VIE 88/P09; VIE/01/P11) tổ chức.

2.2.7.5. Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch sinh hoạt chuyên đề

Qua phỏng vấn trực tiếp một số giáo viên và học sinh ở các trường THCS trong

huyện đã cho chúng tôi biết các buổi sinh hoạt chuyên đề do Đoàn thanh niên ở một

số trường tổ chức có đề cập một phần đến các vấn đề như: Tình yêu, tình bạn và vệ

sinh cá nhân. Ngoài ra, các vấn đề khác về giới tính thì chưa bao giờ bàn đến. Các

buổi sinh hoạt chuyên đề khác ở các trường THCS chủ yếu chỉ tập trung vào các

phương pháp giảng dạy bộ môn, các kỉ năng giúp học sinh nắm vững về các kiến thức

khoa học bộ môn. Một số giáo viên còn cho biết thêm là đôi khi họ có đề nghị tổ

chức các buổi sinh hoạt các chuyên đề về giáo dục giới tính cho giáo viên và học sinh

nhưng không được phần lớn giáo viên ủng hộ và cán bộ quản lý các trường thì lơ là

và cho rằng các vấn đề này chưa thật sự cần thiết trong giai đoạn giáo dục hiện nay.

2.2.8. Quản lý việc tham gia giáo dục giới tính của các đoàn thể và cán bộ

trong nhà trường

- Sự quan tâm đến công tác giáo dục giới tính của giáo viên và cán bộ

trong nhà trường:

Qua quan sát, chúng tôi nhận thấy việc hoạch định chương trình giáo dục giới

tính cho học sinh ở các trường THCS trong tỉnh Bình Dương nói chung và các trường

THCS trong huyện Thuận An nói riêng rất khác nhau tùy theo hoàn cảnh của từng địa

phương, từng trường. Tuy nhiên, đa số cán bộ quản lý (cán bộ quản lí ở phòng giáo

dục các huyện-thị và hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường trung học cơ sở) chưa

thật sự quan tâm đến việc giáo dục giới tính cho học sinh ở các trường trung học cơ

sở:

+ Những nhà quản lý giáo dục ở địa phương (bao gồm cán bộ quản lý cấp

phòng Giáo dục và hiệu trưởng, phó hiệu trưởng ở các trường THCS) chưa có sự

quan tâm cụ thể và đầy đủ về vấn đề này. Chỉ chú trọng vào các biện pháp nhằm nâng

cao chất lượng và hiệu quả đối với việc học tập văn hóa của học sinh.

+ Mối quan hệ trong quản lý của các cấp còn lỏng lẽo, nhất là công tác thanh,

kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới đối với việc giáo dục các vấn đề về giới tính.

- Kinh phí cho hoạt động giáo dục giới tính:

Qua phỏng vấn trực tiếp nhiều giáo viên đã cho biết là không có kinh phí cho

hoạt động GDGT.

+ Theo chỉ thị liên tịch giữa Bộ GD-ĐT và Công đoàn giáo dục Việt Nam ngày

25 tháng 05 năm 1992 về công tác giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình đã đưa ra

tổ chức việc chỉ đạo, thực hiện giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình trong ngành

: "Ban GDDS-KHHGĐ các cấp dự trù kinh phí hàng năm cho các hoạt động về

GDDS, GDĐSGĐ và KHHGĐ, chú ý tạo điều kiện kinh phí thích hợp cho hoạt động

KHHGĐ. Tổ chức khai thác các nguồn lực để đảm bảo được kinh phí hoạt động. Sử

dụng có hiệu quả sự giúp đỡ, hợp tác của các tổ chức quốc tế, của Uỷ ban quốc gia

DS-KHHGĐ, Uỷ ban DS-KHHGĐ địa phương và của các ngành hữu quan; kịp thời

khen thưởng từng mức từ bằng khen cho tới việc đề nghị Nhà nước tặng Huân

chương cho những cá nhân, đơn vị của ngành có thành tích xuất sắc trong công tác

GDDS-KHHGĐ; đồng thời cũng kiên quyết áp dụng các hình thức kỷ luật cần thiết

với cán bộ, giáo viên, công nhân viên... vi phạm chính sách dân số của Nhà nước; các

cơ sở giáo dục của ngành và các trường học hàng năm lấy ngày 20/10 là ngày họp

tổng kết biểu dương khen thưởng về công tác GDDS-KHHGĐ". Tuy nhiên cho đến

nay, qua tìm hiểu bằng phỏng vấn Ban giám hiệu ở các trường THCS trong huyện

Thuận An đã cho biết ở những năm học trước đây đã có lên dự trù kinh phí cho hoạt

động này nhưng không được Phòng Tài chính-Kế hoạch huyện phê duyệt với lý do:

chưa có công văn liên tịch hướng dẫn việc cấp kinh phí cho hoạt động này.

+ Việc vận dụng kinh phí đối với Công đoàn cơ sở không thể trích kinh phí chi

cho hoạt động này do nguồn quỹ hoạt động hàng năm rất hạn chế, mà hoạt động này

nếu muốn đạt hiệu quả thì hàng năm cần kinh phí hoạt động không nhỏ (khoảng từ 8

đến 10 triệu / 1 trường / 1 năm).

- Sự tham gia của các đoàn thể đối với giáo dục giới tính:

Qua điều tra bằng phỏng vấn và quan sát chúng tôi thấy:

+ Đoàn TNCS HCM, Đội TNTP HCM chỉ tập trung vào công tác phong trào

được phát động từ huyện Đoàn là chính; đa số các đồng chí Bí thư chi đoàn ở các

trường THCS là những giáo viên kiêm nhiệm. Do đó không có thời gian riêng tổ

chức cho hoạt động này ngoài các hoạt động phong trào khác đã nêu trong phương

hướng hoạt động hàng năm, và trong phương hướng hoạt động của huyện Đoàn chưa

đề cấp đến vấn đề này. Chính vì vậy, ở các chi Đoàn cơ sở, Đội TNTP HCM ở các

trường gặp không ít khó khăn trong việc dự trù kinh phí và lên kế hoạch hoạt động

giáo dục giới tính trong học đường cũng như kinh phí phối hợp để mời báo cáo viên

về vấn đề này. Đoàn TNCS HCM, Đội TNTP HCM trong các trường phổ thông nói

chung và các trường THCS nói riêng chỉ tập trung vào công tác phong trào và các

hoạt động hỗ trợ khác giáo dục hạnh kiểm cho học sinh nhưng chưa chú ý đến việc

giáo dục giới tính trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa. Do đó, việc lên kế hoạch và

dự trù kinh phí cho hoạt động này hầu như không được thực hiện.

+ Các tổ chức xã hội khác như các cơ quan Chính quyền, Công an, Tòa án ...

và các đoàn thể xã hội như Đoàn thanh niên, Hội cha mẹ học sinh, Hội phụ nữ, Hội

chữ thập đỏ chưa có kế hoạch phối hợp cụ thể trong các hoạt động giáo dục nói

chung và giáo dục giới tính nói riêng.

2.2.9. Nhận xét chung về thực trạng

Qua nghiên cứu thực thực trạng hoạt động giáo dục giới tính ở các trưòng

THCS trong huyện Thuận An, chúng tôi nhận xét chung như sau:

* Ưu điểm:

+ Phần lớn giáo viên tán thành các hình thức giáo dục giới tính được khảo sát.

Đa số cán bộ giáo viên thấy rõ được tầm quan trọng trong việc giáo dục giới tính cho

học sinh ở các trường THCS nói chung, đặc biệt là đối với học sinh khối lớp 8-9 và

hoạt động giáo dục giới tính có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển nhân cách

học sinh ở tuổi mới lớn.

+ Nội dung chương trình giáo dục giới tính hiện hành tương đối đầy đủ, bao

hàm những kiến thức nhằm giáo dục định hướng nhân cách cho học sinh trung học cơ

sở.

+ Ban giám hiệu các trường trung học cơ sở có phân công giáo viên giảng dạy

giáo dục giới tính; Một bộ phận giáo viên có thực hiện lồng ghép giáo dục giới tính

vào các tiết học có liên quan như ở môn Sinh học và môn Giáo dục công dân.

+ Sách giáo khoa và tài liệu có liên quan đến giáo dục giới tính đạt yêu cầu cho

việc giảng dạy giáo dục giới tính.

+ Thái độ học tập của học sinh khi được giáo dục giới tính là nghiêm túc.

+ Phần lớn học sinh có sự hiểu biết về các bệnh xã hội liên quan đến vấn đề

giới tính hiện nay.

+ Một bộ phận cha mẹ học sinh có sự hiểu biết về các vấn đề giới tính và có sự

trao đổi thường xuyên với con em mình đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giáo

dục giới tính cho học sinh. Đồng thời họ cũng nhận thức được trách nhiệm đối với

việc giáo dục giới tính cho con em mình.

* Hạn chế:

+ Việc tổ chức các hình thức giáo dục giới tính còn mang tính cảm tính, việc

đề ra kế hoạch cho hoạt động giáo dục này chưa được thực hiện đồng bộ và cụ thể.

Do đó chưa thống nhất về nội dung, hình thức, thời gian giảng dạy giáo dục giới tính

trong mỗi trường và giữa các trường trung học cơ sở trong huyện với nhau.

+ Đội ngũ cán bộ giáo viên ở các trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An

chưa nhạy bén với các vấn đề giáo dục tiến bộ, chưa theo kịp yêu cầu giáo dục ngày

càng cao của xã hội, ít nghiên cứu, ít tham khảo tài liệu.

+ Cán bộ quản lý ở phòng giáo dục, các trường trung học cơ sở và giáo viên

trong huyện chưa thật sự quan tâm, chưa có sự quan tâm cụ thể về vấn đề này, giáo

viên còn e ngại khi trực tiếp giảng dạy các vấn đề nhạy cảm.

+ Nhu cầu tìm hiểu của học sinh về các vấn đề về giới tính là rất lớn, nhưng

chưa được tổ chức giảng dạy giáo dục giới tính một cách nghiêm túc và đi vào chiều

sâu nhằm mang lại hiệu quả cao trong giáo dục toàn diện.

+ Các hình thức tổ chức trong việc quản lý hoạt động giáo dục này còn sơ sài,

chỉ được thực hiện qua loa nên chưa đáp ứng được yêu cầu mục tiêu phát triển nhân

cách toàn diện cho học sinh.

+ Đội ngũ giáo viên tham gia hoạt động giáo dục này còn thiếu nhiều cả về số

lượng lẫn chất lượng (phần lớn chưa đựoc đào tạo-bồi dưỡng) nên việc thực hiện còn

mang tính tự phát.

+ Cán bộ quản lý ở các trường trung học cơ sở trong huyện chưa có kế hoạch

chung, kế hoạch cụ thể để quản lý việc thực hiện các hoạt động giáo dục giới tính đối

với các bộ phận, đoàn thể và cá nhân tham gia giáo dục giới tính trong nhà trường.

+ Cán bộ quản lý giáo dục các cấp ở địa phương chưa chủ động vận dụng các

nguồn tạo kinh phí cho hoạt động giáo dục giới tính.

+ Các tổ chức xã hội trong nhà trường chưa tích cực chủ động tham gia vào các

hoạt động giáo dục giới tính trong nhà trường.

+ Đa số cha, mẹ học sinh trong địa bàn nghiên cứu là công nhân và lao động

phổ thông nên việc giáo dục gần như phó mặc cho nhà trường.

+ Kiến thức của học sinh về các vấn đề giới tính còn rất hạn chế và sai lệch.

Chương trình GDĐSGĐ được thực hiện từ năm học 1990 -1991 ở các thành phố

lớn và sau đó được thí điểm ở 17 tỉnh, thành trong đó có Bình Dương (Sông Bé cũ) ở

một số khối lớp 9, 10, 11, 12. Đến nay, chương trình được áp dụng rộng rãi hầu hết ở

các trường phổ thông trong cả nước. Tuy nhiên chỉ được triển khai thực hiện ở những

năm đầu của thập niên 90 ở tỉnh Bình Dương nói chung và tại huyện Thuận An nói

riêng.

Để giảng dạy chương trình này cần sử dụng phối hợp một cách linh hoạt một số

phương pháp: thuyết trình, hội thảo theo đơn vị lớp, hoặc khối lớp theo những chủ đề

định trước, thảo luận nhóm nhỏ theo đơn vị tổ, soạn các mệnh đề chưa đầy đủ để học

sinh bổ sung theo ý mình, sau đó giáo viên tập hợp ý kiến và xây dựng nội dung bài.

Ngoài ra còn có thể dùng nhiều biến pháp khác giúp cho việc truyền đạt tri thức đạt

kết quả cao mà vẫn đảm bảo được sự tế nhị (tính đặc thù cần lưu ý khi dạy chương

trình này) như : thu lượm các câu hỏi không ghi tên, hướng dẫn những cuốn sách đọc

thêm, mời chuyên gia báo cáo thực tế... Nhưng vì chưa được quan tâm nên ở một số

trường có thực hiện thì rập khuôn theo sách giáo khoa và tài liệu có sẳn.

Các hoạt động của đề án GDĐSGĐ và giới tính (mang ký hiệu VIE/ 88-P09)

được tiến hành từ năm 1988. Chương trình được triển khai trong hệ thống các trường

sư phạm để bồi dưỡng giáo viên dạy chương trình này. Nhưng đến năm 1996 thì

không còn dược thực hiện nữa.

Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ ba lực lượng gia đình, nhà trường, các tổ chức

xã hội chưa đựơc thực hiện một cách nghiêm túc nên chưa nâng cao được hiệu quả

giáo dục, rèn luyện cho thế hệ trẻ. Chính vì vậy, Hồ Chủ tịch đã căn dặn trong bài nói

tại hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo dục tháng 6/1957 : "Giáo dục trong nhà

trường chỉ là một phần, cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình, để giúp

cho việc giáo dục trong nhà trường tốt hơn. Giáo dục nhà trường dù tốt đến mấy,

nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn

toàn".

2.2.10. Nguyên nhân của thực trạng

Qua tìm hiểu thực trạng, chúng tôi biết được một số nguyên nhân sau:

2.2.10.1. Giáo viên chưa được đào tạo hay tập huấn về các chuyên đề này

Trong quá trình tập huấn các phương pháp giảng dạy tích cực, giáo viên chưa

được đề cập chuyên sâu nhằm lồng ghép các vấn đề này trong quá trình soạn giảng

mà chỉ tập trung vào những kiến thức chuyên môn là chính, thời gian giảng dạy chính

khóa cho những nội dung này quá ít (ở chương trình phổ thông bậc Trung học nói

chung, bậc THCS nói riêng, cả năm học, tổng thời gian dành cho DS-SKSS trong mỗi

môn chỉ có từ 3-7 tiết) vừa bị xé lẽ vào nhiều nội dung, mục khác nhau của môn học

được lồng ghép (chỉ từ 3-10 phút). Việc phân bố thời gian như trên dẫn đến, một mặt,

các kiến thức về DS-SKSS khó đảm bảo tính hệ thống; mặt khác, việc áp dụng các

phương pháp giảng dạy cùng tham gia là rất khó khăn. Điều này là dễ hiểu bởi những

nội dung DS-SKSS được lồng ghép với các môn kia. Đồng thời việc tổ chức thực

hiện chưa đồng bộ về thời lượng và nội dung GDGT trong mỗi tháng.

2.2.10.2. Chưa được sự quan tâm của các cấp quản lý

Ở các trường THCS trong huyện Thuận An hiện nay việc giáo dục giới tính

không được sự quan tâm đúng mức của các cán bộ quản lý giáo dục cơ sở (Hiệu

trưởng + các P. hiệu trưởng trường THCS). Họ chỉ xem việc giáo dục giới tính cho

học sinh là một việc vô bổ và thực hiện cho có để báo cáo theo yêu cầu của cấp trên.

Các hoạt động giáo dục giới tính trong nhà trường THCS chưa được quản lý chặt chẽ.

2.2.10.3. Thời gian lên lớp bị hạn chế do sự quá tải của chương trình giáo dục

hiện nay và thiếu thốn về cơ sở vật chất

Từ khi thực hiện Thông tư số 13/TT ngày 18/4/1988 của Bộ giáo dục về việc

đưa chương trình GDDS nói chung và giới tính nói riêng vào nhà trường và chỉ thị

13/CTLT ngày 4/7/1987 của Bộ GD và CĐGD Việt Nam về công tác DS-KHHGĐ

và giáo dục Giới tính từ năm học 1988 - 1989 các đơn vị trường học đều được thành

lập Ban DS-KHHGĐ đã đi vào hoạt động. Và từ đó, chương trình giáo dục dân số và

giới tính được thực hiện cho đến nay nhưng ngày càng không được quan tâm cho lắm

nhất là không được thực hiện tốt ở thời gian lên lớp do sự quá tải của chương trình

giáo dục hiện nay và thiếu thốn về cơ sở vật chất như: thiếu phòng ốc, phương tiện

giảng dạy,…

2.2.10.4. Công tác kiểm tra và đánh giá hiệu quả của việc giáo dục giới tính

chưa được thực hiện

Từ khi có chỉ thị liên tịch số 11/CTLT ngày 25 tháng 9 năm 1992 của Bộ Giáo

dục và Đào tạo về công tác giáo dục dân số - KHHGĐ nói chung và giáo dục giới

tính nói riêng đã phát triển nhiều ở các ngành học, bậc học và được thực hiện trong

giai đoạn từ 1992-1995 đã đưa giáo dục dân số, giáo dục đời sống gia đình vào các

ngành học cụ thể như ngành học phổ thông, bổ túc, sư phạm,… nhằm giáo dục học

sinh dần có ý thức đầy đủ và tiến tới có hành vi đúng đắn về dân số, biết tổ chức đời

sống gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống. Sau mỗi năm học, Sở GD-ĐT và các

phòng giáo dục huyện, thị đã tổ chức kiểm tra và đánh giá hiệu quả công tác này. Tuy

nhiên, từ năm 1996 đến nay, công tác này ngày càng bị mờ đi và không được quan

tâm nhiều.

Ban Giáo dục Dân số-Kế họach hoá gia đình ở cấp Sở có phân công cụ thể

nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao như việc tổng hợp , theo dõi và kiểm tra thực

hiện ở các huyện thị chưa chú trọng đến công tác truyền thông, thông tin...

Ở cấp Phòng, có thành lập Ban này nhưng phần lớn chỉ tập trung vào việc

thống kê các hoạt động chứ chưa chú trọng vào việc đề ra kế hoạch và kiểm tra thực

hiện của các trường phổ thông trong phạm vi quản lý.

Ở các trường trung học cơ sở có thành lập và tổ chức “Ban các vấn đề xã hội”

ngay từ mỗi đầu năm học do Hiệu trưởng làm trưởng ban có kế hoạch và phương

hướng hoạt động cụ thể cho từng năm học. Tuy nhiên, chưa có tổng kết, đánh giá

hiệu quả công tác này sau mỗi năm học. Trong quá trình thực hiện sau này chỉ tập

trung tuyên truyền sơ sài vào các ngày chủ điểm về các vấn đề An toàn giao thông

đường bộ, Chữ thập đỏ, Thế giới phòng chống AIDS và chưa phù hợp với đặc thù tổ

chức sư phạm của nhà trường bậc Trung học cơ sở.

Ban GDDS-KHHGĐ các cấp ngành có xây dựng kế hoạch, mục tiêu cụ thể cho

từng năm nhưng chưa tổ chức và phối hợp thực hiện các mục tiêu đã đề ra như: kiểm

tra, nắm tình hình ở các đơn vị, giải quyết các trường hợp sai phạm, đánh giá kết quả

và tổng kết kinh nghiệm.

2.2.10.5. Công tác thông tin-tuyên truyền trong nhà trường còn hạn chế

Việc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng về giáo dục giới tính

chưa được đưa vào các trường phổ thông. Các tạp chí thông tin của Ngành Giáo dục

về giáo dục giới tính chưa được cán bộ-giáo viên quan tâm nghiên cứu và áp dụng

vào giảng dạy. Chưa biết lập hệ thống truyền thông-thông tin liên thông các cấp trong

toàn ngành nhằm phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý và điều hành có hiệu

quả các chính sách và chương trình giáo dục dân số nói chung và giáo dục giới tính

nói riêng của Nhà nước và của ngành; đồng thời phục vụ cho hoạt động nghiên cứu,

tuyên truyền... về lĩnh vực này.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG

HỌC CƠ SỞ TẠI HUYỆN THUẬN AN

3.1. Cơ sở của việc đề xuất các giải pháp

* Cơ sở 1: Môt số vấn đề về lí luận:

Việc đưa các nội dung giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản vào trường phổ

thông của nước ta nói chung và ở tỉnh Bình Dương được thực hiện từ đầu những năm

1980 nhưng hiện nay cần phải được thể chế hóa. Chiến lược truyền thông giáo dục

chuyển đổi hành vi về dân số-sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hóa gia đình giai đoạn

2001-2005 và 2006-2010 đã đặt ra đối với nhóm vị thành niên và thanh niên là ''góp

phần tăng hành vi đúng đắn và trách nhiệm về dân số, sức khỏe sinh sản kế hoạch hóa

gia đình để phòng ngừa quan hệ tình dục sớm, không an toàn, có thai ngoài ý muốn''.

Để đạt được mục tiêu này, chiến lược đề ra giải pháp ''mở rộng và nâng cao chất

lượng các hình thức giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, giới

và giới tính trong và ngoài nhà trường cho vị thành niên và thanh niên.''

* Cơ sở 2: Là thực trạng việc quản lý giáo dục giới tính ở các trường trung

học cơ sở đã được điều tra.

3.2. Các giải pháp cụ thể

Thực hiện chủ trương trên, dựa trên cơ sở nghiên cứu đánh giá thực trạng ở các

trường THCS tại huyện Thuận An - Bình Dương, chúng tôi đưa ra một số giải pháp

cụ thể như sau:

- Giải pháp 1: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng giáo viên:

Sở Giáo dục & Đào tạo có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên, định

kỳ cho đội ngũ giáo viên tham gia giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở

trong tỉnh Bình Dương nói chung và tại huyện Thuận An nói riêng ngay trong mỗi

năm học và trong dịp hè hàng năm nhằm bổ sung những kiến thức và phương pháp

mới khi tham gia vào giáo dục giới tính trong nhà trường.

- Giải pháp 2: Tăng cường sự quan tâm của lãnh đạo các cấp và cha mẹ

học sinh:

Sở Giáo dục & Đào tạo có kế hoạch chỉ đạo cho Phòng Giáo dục các huyện, thị

đề ra kế hoạch cụ thể đối với hoạt động giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ

sở; Tổ chức thanh tra, kiểm tra thường xuyên đối với hoạt động giáo dục giới tính ở

các trường trung học cơ sở ở các huyện-thị trong toàn tỉnh Bình Dương.

Cán bộ quản lý các trường phải phối hợp với “Ban đại diện cha mẹ học sinh”

để vận động các bậc cha mẹ học sinh thường xuyên giữ mối liên hệ và kết hợp với

nhà trường để có biện pháp giáo dục phù hợp về mọi mặt cho từng đối tượng học

sinh.

- Giải pháp 3: Nâng cao chất lượng giảng dạy lồng ghép các nội dung

GDGT trong chính khóa:

Nâng cao chất lượng việc giảng dạy lồng ghép các nội dung GDGT trong chính

khóa thông qua việc tăng cường áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực và tăng

thêm thời gian cho các nội dung này trong các môn sinh học, địa lí, giáo dục công

dân.

Các phương pháp giảng dạy tích cực có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc

truyền tải các nội dung giáo dục giới tính - SKSS, bởi như chúng ta biết, đây là những

vấn đề rất nhạy cảm, khó trình bày trước đông người. các phương pháp giảng dạy tích

cực theo nhóm, trò chuyện, giải quyết vấn đề...tỏ ra có hiệu quả. Chính vì vậy, dự án

VIE 97/P13 đã xây dựng chuyên đề về phương pháp giảng dạy các chủ đề nhạy cảm

trong giáo dục DS- SKSS vị thành niên và đã tổ chức huấn luyện cho giáo viên các

trường phổ thông. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có nhiều giáo viên sử dụng phương pháp

giảng dạy tích cực. Một trong những nguyên nhân trên là thời gian giảng dạy chính

khóa dành cho những nội dung này quá ít, cần phải tăng thêm thời gian cho việc lồng

ghép giảng dạy GDGT thể hiện qua giáo án ở các môn như: Sinh học, Địa lý, Giáo

dục công dân và nói rõ quy chế giảng dạy về thời gian tăng thêm được sử dụng như

thế nào.

- Giải pháp 4: Tăng cường các hoạt động ngoại khóa về DS-SKSS và giáo

dục giới tính:

Ngại đề cập một cách trực tiếp đến những vấn đề nhạy cảm như giao hợp, tình

dục... vẫn là một hiện tượng khá phổ biến ở các trường THCS hiện nay. Đây là một

đặc điểm của văn hóa phương Đông, chứ không phải do thái độ không ủng hộ việc

giáo dục học sinh về những vấn đề này. Trong điều kiện thời gian nội khóa hạn hẹp,

lại tùy thuộc vào khả năng tích hợp lồng ghép của mỗi giáo viên nên các hoạt động

ngoại khóa trở nên quan trọng. Các hình thức ngoại khóa vừa sinh động, vừa tạo ra sự

chủ động tích cực của người học. Các hình thức này vừa là sự nối tiếp của nội khóa,

vừa là sự nâng cao các kiến thức thu được trong nội khóa. Mặt khác, các hoạt động

ngoại khóa dễ dàng gắn được và đáp ứng nhu cầu của mỗi nhóm đối tượng học sinh

nên dễ thu hút học sinh. Có thể nói, hoạt động ngoại khóa sẽ là rất hiệu quả không chỉ

với vai trò hỗ trợ, mà là quyết định hiệu quả giáo dục trong lĩnh vực nhạy cảm này.

Do đó, cần nghiên cứu hệ thống các hình thức hoạt động ngoại khóa để ''Quy chế

hóa'' một số hình thức phổ dụng nhất và từ đó có quy định về điều kiện thực hiện.

Cần coi các hình thức này như là các hình thức bắt buộc. Các hoạt động ngoại khóa

cần được quản lý chặt chẽ như nội khóa và vẫn cần sự hướng dẫn của giáo viên các

môn học có liên quan và sự cộng tác của các bộ phận khác trong nhà trường.

- Giải pháp 5: Xây dựng Trung tâm tư vấn học đường trong các trường

THCS:

Qua thực tế cho thấy đây không chỉ là những vấn đề được giảng dạy trên lớp,

càng không phải chỉ là nói giáo lý. Công tác này vừa phải chú ý bề nổi (qua các cuộc

thi tìm hiểu, liên hoan văn hóa văn nghệ...) vừa phải chú ý bề sâu. Học sinh cần được

giáo dục thông qua tư vấn với những kiến thức đầy đủ đúng đắn và với lời khuyên

kịp thời, dễ chấp nhận để từ đó xác định đúng thái độ và có quyết định phù hợp với

từng hoàn cảnh. Đối với học sinh phổ thông, sự giúp đỡ này càng cần thiết hơn

bất cứ nhóm dân cư nào, vì đây là nhóm vị thành niên.

Hiện nay ở nhiều trường trung học cơ sở trong huyện, qua tìm hiểu từ giáo

viên, chúng tôi nhận thấy học sinh đã tìm đến thầy cô khi gặp vướng mắc, khó khăn

để hỏi ý kiến về những vấn đề thầm kín, riêng tư này, mặc dù cha mẹ vẫn là người

được hỏi nhiều. Một số em khác viết thư hỏi báo. Tuy nhiên, cha mẹ, anh chị không

phải khi nào cũng đưa ra lời khuyên đúng. Đối với thầy cô thì do số học sinh quá

đông nên việc đáp ứng nhu cầu riêng biệt của mỗi em là rất khó khăn. Rõ ràng rằng,

cần có những người được đào tạo tốt, chuyên trách hoặc bán chuyên trách phụ trách

vấn đề này qua việc thành lập Trung tâm tư vấn học đường. Đây là một nhu cầu có

thực và rất cấp bách cần được giải quyết.

- Giải pháp 6: Tăng cường công tác thông tin-tuyên truyền về giáo dục

Đội TNTP HCM, Đoàn TNCS HCM, Hội Chữ Thập Đỏ, Ban “Các vấn đề xã

SKSS và giới tính trong và ngoài nhà trường:

hội” các trường có kế hoạch thường xuyên tổ chức tuyên truyền về SKSSVTN và các

vấn đề về giới tính cho học sinh trong các buổi sinh hoạt ngoại khoá, sinh hoạt dưới

cờ… phát động phong trào đọc sách ở thư viện trường trong giờ ra chơi. Từ đó giúp

học sinh nắm được các kiến thức khoa học về giới tính thông qua các hoạt động này.

Đồng thời với công tác thông tin tuyên truyền trong nhà trường, các tổ chức xã hội ở

địa phương như Hội Chữ Thập Đỏ, Đoàn TNCS HCM, Ban Dân số-Kế hoạch hoá gia

đình ở các Xã-Thị trấn nên tăng cường công tác thông tin tuyên truyền bằng nhiều

biện pháp nhằm cung cấp các kiến thức khoa học về các vấn đề giới tính cho các bậc

cha mẹ.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

1.1. Về mặt lí luận

- Giáo dục là một hoạt động thường xuyên trong xã hội loài người. Nó có vai

trò quyết định rất lớn đến sự phồn vinh hay tan rã của một chế độ xã hội. Mà trong đó

giáo dục giới tính có quan hệ mật thiết với quá trình giáo dục xã hội góp phần giáo

dục định hướng nhân cách con người trong mỗi xã hội để cùng chung sống với nhau

và chung sức xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp.

- Giáo dục giới tính góp phần giáo dục sức khoẻ, chống lại các bệnh tật, nhất là

đường tình dục, giáo dục về tính dục, giáo dục về tình yêu, hôn nhân và gia đình, về

sự sinh sản, giáo dục thái độ tôn trọng đối với những người khác giới.

- Để đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp GD-ĐT phục vụ cho sự nghiệp

CNH-HĐH đất nước Việt Nam ta, xây dựng một xã hội văn minh, giàu mạnh. Việc

nâng cao hiệu quả của giáo dục giới tính trong nhà trường phổ thông nói chung và ở

bậc THCS nói riêng là một yếu tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định trực tiếp để xây dựng

nhân cách con người trong xã hội ngay khi chuẩn bị và bước vào tuổi vị thành niên.

1.2. Về kết quả nghiên cứu thực trạng

Qua nghiên cứu thực trạng việc quản lí giáo dục giới tính cho học sinh ở các

trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương, chúng tôi rút ra kết

luận sau đây:

1.2.1. Về quan điểm của giáo viên

- Các hình thức giáo dục giới tính chưa sinh động và phù hợp với tình hình

thực tiễn.

- Giáo dục giới tính được tổ chức thực hiện ở hầu hết các trường trung học cơ

sở nhưng chưa thống nhất về hình thức, nội dung, khối lớp, thời gian giảng dạy.

- Thái độ học tập của học sinh khi được giáo dục giới tính là tốt. Tuy nhiên,

phần lớn giáo viên tham gia giảng dạy giáo dục giới tính khi thực hiện còn mang tính

tự phát, các kiến thức truyền thụ phần lớn từ kinh nghiệm bản thân và đa số giáo viên

chưa được tập huấn hay đào tạo chuyên môn về giáo dục giới tính; Giáo viên còn e

ngại khi giảng dạy những chủ đề nhạy cảm.

- Đội ngũ cán bộ giáo viên ở các trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An

chưa nhạy bén với các vấn đề giáo dục tiến bộ, chưa theo kịp yêu cầu giáo dục ngày

càng cao của xã hội, ít nghiên cứu, ít tham khảo tài liệu. Giáo viên còn e ngại khi trực

tiếp giảng dạy các vấn đề nhạy cảm

- Nhu cầu tìm hiểu của học sinh về các vấn đề về giới tính là rất lớn, nhưng

chưa được tổ chức giảng dạy giáo dục giới tính một cách nghiêm túc và đi vào chiều

sâu nhằm mang lại hiệu quả cao trong giáo dục toàn diện.

- Đội ngũ giáo viên tham gia hoạt động giáo dục này còn thiếu nhiều cả về số

lượng lẫn chất lượng (phần lớn chưa đựoc đào tạo-bồi dưỡng) nên việc thực hiện còn

mang tính tự phát.

1.2.2. Việc quản lý triển khai giáo dục giới tính

Việc giảng dạy giáo dục giới tính đã được thực hiện ở các trường THCS trong

huyện Thuận An. Tuy nhiên hiện nay nó chưa được sự quan tâm đúng mức của cán

bộ quản lý các trường (Hiệu trưởng + các Phó hiệu trưởng trường THCS). Họ chỉ

xem việc giáo dục giới tính cho học sinh là một việc “vô bổ” và thực hiện cho có để

báo cáo theo yêu cầu của cấp trên. Chính vì vậy, các hoạt động giáo dục giới tính

trong nhà trường THCS chưa được triển khai giáo dục một cách có hệ thống, chặt chẽ

và đồng bộ.

- Cán bộ quản lý ở phòng giáo dục, các trường trung học cơ sở và giáo viên

trong huyện chưa thật sự quan tâm, chưa có sự quan tâm cụ thể về vấn đề này.

- Cán bộ quản lý ở các trường trung học cơ sở trong huyện chưa có kế hoạch

chung, kế hoạch cụ thể để quản lý việc thực hiện các hoạt động giáo dục giới tính đối

với các bộ phận, đoàn thể và cá nhân tham gia giáo dục giới tính trong nhà trường.

- Cán bộ quản lý giáo dục các cấp ở địa phương chưa chủ động vận dụng các

nguồn tạo kinh phí cho hoạt động giáo dục giới tính.

- Các tổ chức xã hội trong nhà trường chưa tích cực chủ động tham gia vào các

hoạt động giáo dục giới tính trong nhà trường.

- Các hình thức tổ chức trong việc quản lý hoạt động giáo dục này còn sơ sài,

chỉ được thực hiện qua loa nên chưa đáp ứng được yêu cầu mục tiêu phát triển nhân

cách toàn diện cho học sinh.

- Việc tổ chức các hình thức giáo dục giới tính còn mang tính cảm tính, việc đề

ra kế hoạch cho hoạt động giáo dục này chưa được thực hiện đồng bộ và cụ thể. Do

đó chưa thống nhất về nội dung, hình thức, thời gian giảng dạy giáo dục giới tính

trong mỗi trường và giữa các trường trung học cơ sở trong huyện với nhau.

1.2.3. Về phía cha mẹ học sinh và học sinh

- Một số ít cha mẹ học sinh có trao đổi các vấn đề về luân lý nhằm giáo dục đạo

đức cho con em mình. Tuy nhiên, phần đông cha mẹ có kiến thức hạn chế về các vấn

đề giới tính nên việc giáo dục giới tính ở gia đình học sinh gần như chưa được thực

hiện+ Đa số cha, mẹ học sinh trong địa bàn nghiên cứu là công nhân và lao động phổ

thông nên việc giáo dục gần như phó mặc cho nhà trường.

- Kiến thức của học sinh về các vấn đề giới tính còn rất hạn chế và sai lệch.

Nguyên nhân của tình hình trên là do:

1. Giáo viên chưa được đào tạo hay tập huấn về các chuyên đề này.

2. Chưa được sự quan tâm của các cấp quản lý.

3. Thời gian lên lớp bị hạn chế do sự quá tải của chương trình giáo dục hiện

nay và thiếu thốn về cơ sở vật chất.

4. Công tác kiểm tra và đánh giá hiệu quả của việc giáo dục giới tính chưa

được thực hiện.

5. Công tác thông tin tuyên truyền trong nhà trường còn hạn chế.

Từ đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp:

a. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.

b. Tăng cường biện pháp quản lí.

c. Nâng cao chất lượng giảng dạy lồng ghép các nội dung GDGT trong chính

khóa.

d. Tăng cường các hoạt động ngoại khóa về DS-SKSS và giáo dục giới tính.

e. Xây dựng Trung tâm tư vấn học đường trong các trường THCS.

f. Tăng cường công tác thông tin-tuyên truyền về giáo dục SKSS và giới tính

trong và ngoài nhà trường.

2. Kiến nghị

Để thực hiện nâng cao hiệu quả giáo dục giới tính ở các trường THCS tại

huyện Thuận An- tỉnh Bình Dương trong thời gian tới, chúng tôi kiến nghị một số

vấn đề đối với các cấp như sau:

2.1 Đối với Sở GD-ĐT

- Sớm tham mưu với UBND tỉnh để khắc phục những vấn đề về cơ sở vật chất,

các chính sách hỗ trợ giáo dục cho đội ngũ CBQL và giáo viên tham gia giáo dục giới

tính ở các trường. Trước mắt cần khuyến khích người tham gia tốt công tác này nhằm

tạo điều kiện phát triển vấn đề cần giáo dục.

- Đối với chương trình giáo dục giới tính cần đưa vào nội dung, kế hoạch

thường xuyên hàng năm bằng nhiều hình thức nhằm giúp đội ngũ giáo viên bắt kịp xu

thế phát triển chung của xã hội.

2.2. Đối với UBND huyện

- Thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách do Nhà nước ban hành đối với ngành

giáo dục. Cần có phương án bổ sung chế độ chính sách cho CBQL -GV tham dự các

lớp bồi dưỡng kiến thức cũng như phương pháp trong hoạt động GDGT.

- Cần có chế độ chính sách ưu đãi đối với giáo viên nữ, tạo điều kiện thuận lợi

cho họ tham gia tốt vào hoạt động GDGT.

2.3. Đối với Phòng GD

- Cần sớm có kế hoạch cụ thể cho hoạt động GDGT ở các trường THCS.

- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất (tham mưu với UBND huyện), trang bị các

thiết bị dạy học và giáo dục hiện đại, đầy đủ, chất lượng.

- Cần tranh thủ sự quan tâm, hỗ trợ của các ngành để có những chủ trương phù

hợp với điều kiện hiện nay cho công tác giáo dục nói chung và GDGT nói riêng.

2.4. Đối với các trường THCS

- Phải xác định rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc quản lý và tổ

chức giáo dục giới tính cho học sinh bậc THCS, nhất là ở khối lớp 8 - 9 trong điều

kiện văn hóa - xã hội hiện nay ở Thuận An -Bình Dương.

- Không ngừng rèn luyện, tu dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt. Cố gắng học

tập, nghiên cứu tài liệu, phát huy nội lực, ngoại lực nhằm đưa hoạt động GDGT ngày

càng đạt hiệu quả cao hơn.

Tóm lại, trong thời gian qua ngành GD Thuận An -Bình Dương đã có những

đổi mới phù hợp với xu thế phát triển chung với sự phát triển kinh tế -văn hóa -xã hội

của huyện, tỉnh. Đã góp phần từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho

thế hệ trẻ. Tuy nhiên, trong nội tại của hoạt động này ở các trường THCS trong huyện

Thuận An còn những yếu kém, hạn chế nhất định cần được khắc phục. Để thực hiện

tốt mục tiêu GD bậc THCS nhằm đáp ứng yêu cầu nhân cách con người trong giai

đoạn mới, cần phải xây dựng một kế hoạch hoàn chỉnh, thống nhất đối với công tác

GDGT ở các trường THCS. Đây là vấn đề cấp thiết cần được làm ngay mới thực hiện

được mục tiêu giáo dục đã đề ra trong giai đoạn 2001-2010 của đất nước.

3. Hướng phát triển của đề tài

Vì thời gian có hạn, chúng tôi chỉ dừng lại ở 5 trường THCS trong huyện

Thuận An, tỉnh Bình Dương. Nhưng đề tài sẽ được phát triển theo hướng:

- Nghiên cứu thực trạng GDGT toàn bộ các trường THCS trong tỉnh Bình

Dương.

- Thử nghiệm các biện pháp đã đề xuất ở chương III.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC TÀI LIỆU KINH ĐIỂN

1. Các chương trình VIE 88/P.09; VIE 97/P11-12-13

2. Phương pháp giảng dạy những chủ đề nhạy cảm về SKSS vị thành niên – Bộ giáo

dục đào tạo 2000.

3. Trò chuyện về tình yêu, giới tính, sức khỏe NXB Phụ nữ 2000

4. Luật giáo dục Việt Nam 1999.

5. Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010.

6. Quản lý giáo dục và đào tạo Bộ GD-ĐT-2003.

7. Chiến lược Dân Số Việt Nam 2001 -2010.

8. Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình. Hà Nội – 2000.

9. Pháp lệnh Dân số.

10. Sức khoẻ vị thành niên ở Việt Nam. Chương trình hợp tác y tế Việt Nam-Thuỵ

Điển, lĩnh vực chính sách y tế – Trường Đại học Y Thái Bình, Trung tâm

Nghiên cứu dân số và sức khoẻ nông thôn. NXB Y học. HàNội - 2002.

11. Sở GD&ĐT Tỉnh Bình Dương: Qui hoạch, phát triển ngành GD-ĐT

12. Đảng Cộng Sản Việt Nam – Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung

ương (khoá VIII) – NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 1997.

13. Bộ GD – ĐT: Điều lệ trường PT 1994

14. Bộ GD – ĐT: Quy định về nhiệm vụ giáo viên, Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng

trường THCS.

15. Bộ GD – ĐT: Những vấn đề chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ CNH,

HĐH – NXB GD – ĐT – 1998.

16. Sở GD –ĐT Bình Dương: Báo cáo tổng kết năm học 1999-2000, 2000-2001,

2001-2002, 2002-2003,2003-2004, 2004-2005.

17. Từ điển bách khoa Việt Nam Tập 1 – Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa

Việt Nam – Hà Nội 1995.

18. Từ điển Tiếng Việt – Ngôn ngữ học Việt Nam – NXB Thanh Hoá – Thanh Hóa

1998.

SÁCH BÁO, TẠP CHÍ VÀ TÀI LIỆU KHÁC

19. Bùi Ngọc Oánh, Đề cương bài giảng Tâm lý học Giới tính, ĐHSP TPHCM, 2003.

20. Hoàng Chúng(chủ biên) – Phạm Thanh Liêm, Một số vấn đề lí luận quản lý giáo

dục tập 1, Tài liệu lưu hành nội bộ, TPHCM,1983.

21. Phạm Minh Hạc, Một số vấn đề GD và Khoa học GD, NXBGD, Hà Nội, 1986.

22. Trần Kiểm, Quản lý giáo dục và nhà trường, Viện KHGD Hà Nội, 1997.

23. Trần Hồng Quân: Một số ván đề đổi mới trong lĩnh vực GD và ĐT, NXB Giáo

dục, 1995.

24. Nguyễn Thị Việt Hưng, “Các biện pháp tăng cường quản lý giáo dục SKSS. VTN

cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc

sĩ khoa học giáo dục, Tp.HCM, 2000.

25. Nói với tuổi mới lớn – NXB Trẻ 2004.

26. Nguyễn Văn Mai, Giáo dục giới tính và gia đình.

27. I.P.Masolova, Giới tính tuổi hoa, NXB Hà Nội, 2000.

28. Bùi Ngọc Oánh, Tâm lí học giới tính và giáo dục giới tính, NXB Giáo dục, 2006.

29. Lê Thị Bừng, Tình yêu nhìn từ góc độ giáo dục, NXB Phụ nữ, 1997.

30. Trần Trọng Thuỷ, Vấn đề giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho thế hệ trẻ,

VIE/88/P09, 1990.

PHẦN PHỤ LỤC

PHỤ LỤC: 1

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

Quý đồng nghiệp thân mến!

Nhằm đánh giá thực trạng và đề ra những giải pháp hoàn thiện hơn việc giáo

dục giới tính trong nhà trường phổ thông bậc trung học cơ sở. Chính vì vây, chúng tôi

rất mong được quý đồng nghiệp cho ý kiến của mình về vấn đề trên bằng cách đánh

dấu “X” vào các ô phù hợp hoặc viết thêm vào chổ trống (…..) ý kiến của quý đồng

nghiệp. Xin chân thành cảm ơn!

Câu1: Xin ông/bà vui lòng cho biết đôi điều về bản thân :

a.Giới tính: nam

b.Trình độ chuyên môn:

-Cao đẳng chuyên ngành: ............................. Đã được phân công dạy lớp môn

trong năm học 2005-2006

-Đại học chuyên ngành:........................

-Đã tham gia vào việc giáo dục giới tính cho học sinh trong nhà trường:

Có chưa

Câu 2: Xin ông /bà vui lòng cho biết việc tổ chức giáo dục giới tính ở đơn vị mình

được tổ chức dưới các hình thức :

a.Lồng ghép vào các môn : GDCD và sinh học

b.Trong giờ SHCN

c.Trong các buổi sinh hoạt ngoại khoá

d.Tổ chức giáo dục ngoài giờ lên lớp

e.Mời báo cáo viên

Câu 3: Việc giáo dục giới tính ở đơn vị ông/bà đang công tác đựơc triển khai giáo dục

ở:

a. Khối lớp 6:

b. Khối lớp 7:

c. Khối lớp 8:

d. Khối lớp 9:

Câu 4: Số tiết thực hiện chuyên đề giáo dục giới tính trong 1 tháng ở 1 lớp đơn vị

mình là:

a. 2 tiết

b. 4 tiết

c. 8 tiết

Câu 5 : Giáo dục giới tính là trách nhiệm của:

a. Nhà trường

b.Cha, mẹ – ông, bà

c. Anh chị em ruột

d.Tự tìm hiểu

Câu 6:Nội dung giáo dục giới tính được tập trung vào các vấn đề:

a. Sức khoẻ sinh sản vị thành niên

b. Nhận thức về các tệ nạn xã hội

c. Biết về các bệnh lây qua đường sinh dục

d. Cac vấn đề khác cần giáo dục

Câu 7: Thái độ học tập của học sinh đối với chuyên đề này:

a. Rất thích

b. Thích

c. Không thích lắm

d. Hoàn toàn không thích

Câu 8: Bản thân ông/bà đã được tập huấn về chuyên đề này trong quá trình công tác

đến nay:

a. Một lần

b. Hàng năm

c. Đôi khi

d. Chưa có

Câu 9: Nội dung chương trình giáo dục giới tính bậc THCS hiện nay theo ông bà là:

a. Đầy đủ

b. Rất đầy đủ

c. Chưa đầy đủ

d. Ý kiến của ông/ bà về nội dung GDGT bậc THCS hiện nay:

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-----------------------------------------

Câu 10: Việc tổ chức GDGT ở đơn vị ông/ bà đang côngtác được phân công cho:

a. Giáo viên môn GDCD

b. Giáo viên môn Sinh học

c. Tổng phụ trách Đội TNTP HCM.

d. Bí thư Đoàn TNCS HCM.

Câu 11: Việc tổ chức giáo dục giới tính ở đơn vị ông/ bà đang công tác:

a.Xuyên suốt năm học

b.Chỉ trong học kỳ I

c.Chỉ trong học kỳII

d. Không thường xuyên

Câu 12: Theo ông/bà thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho việc giáo dục giới tính ở

đơn vị mình đạt ở mức độ nào sau đây:

a. Sách giáo khoa:

- Chưa đầy đủ.

- Đầy đủ.

- Rất đầy đủ.

b. Tài liệu:

- Chưa đầy đủ.

- Đầy đủ.

- Rất đầy đủ.

c. Giáo trình:

- Chưa cụ thể, rõ ràng.

- Cụ thể, rõ ràng.

d. Tranh ảnh:

- Còn thiếu thốn.

- Đầy đủ.

Câu 13: Ý kiến của ông/bà về việc tổ chức giáo dục giới tính cho vị thành niên ở các

trường THCS trong huyện Thuận An hiện nay:

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

----------------------------

Một lần nữa xin chân thành cám ơn sự hợp tác của ông bà!

PHỤ LỤC: 2

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

Các em học sinh thân mến!

Giới tính là một vấn đề thuộc về tâm lý con người. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến sự

phát triển của xã hội loài người nói chung và góp phần trong việc hình thành nhân

cách ở mỗi cá nhân. Chính vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng

góp từ các em để góp phần xây dựng công tác giáo dục giới tính trong nhà trường

ngày càng tốt hơn bằng cách đánh dấu “X” vào các ô

phù hợp hoặc viết thêm vào chổ trống (…)ý kiến của các em.

Câu 1 : Về các nội dung giáo dục giới tính trong nhà trường, bản thân em đã biết :

a. Rất đầy đủ

b. Chưa đầy đủ

c. Rất ít

e. Hoàn toàn không biết

Câu 2 : Em biết ở mức nào đối với nội dung cụ thể về giáo dục giới tính trong nhà

trường : (Em hãy đánh dấu “X” vào cột mức độ tương ứng mà mình chọn).

Các nội dung

Các mức độ

Biết rất đầy đủ

Biết chưa đầy

Biết rất ít

Hoàn toàn

đủ

không biết

1. Những kiến thức cơ bản về

.....................

......................

......................

......................

giới tính

2. Anh hưởng của giới tính

......................

......................

......................

......................

với bản thân, gia đình và xã

hội.

3. Các dấu hiệu bước vào tuổi

......................

......................

......................

......................

dậy thì.

4. Sức khỏe sinh sản vị thành

......................

......................

......................

......................

niên.

5. Các biện pháp tránh thai.

......................

......................

......................

......................

6. Vai trò của nhà trường

trong việc giáo dục giới tính.

......................

......................

......................

......................

Câu 3 : Em hiểu giới tính là :

a. Giống đực và giống cái

b. Các đặc điểm khác nhau về sinh lý cơ thể

c. Con trai – con gái và những người đồng tính

d. Những đặc điểm khác nhau về tâm sinh lý con người

Câu 4 : Giới tính được xác định từ :

a. Khi thụ thai

b. Khi chào đời

c. Khi bước vào tuổi dậy thì

d. Khi đã trưởng thành

Câu 5 : Giáo dục giới tính là :

a. Giáo dục những đặc điểm về tâm lý---------------------

b. Để biết những đặc điểm sinh lý cơ thể------------------

c. Biết cách giao tiếp với bạn khác giới--------------------

d. Biết cách phòng tránh thai--------------------------------

e. Biết cách tực chăm sóc cho mình--------------------------

f. Biết cách giao tiếp với mọi người xung quanh----------

Câu 6 : Em biết thế nào về những đặc điểm sinh lý của bạn khác giới :

a. Biết rất rõ ---------------------------------------------

b. Biết chút ít --------------------------------------------------

c. Không biết --------------------------------------------------

Câu 7 : Em biết thế nào về căn bệnh thế kỷ : Si-da (Aids)

a. Biết rất rõ -------------------------------------------------

b. Biết chút ít --------------------------------------------------

c. Không biết gì ------------------------------------------------

Câu 8 : Si-da dễ lây nhiễm qua đường nào sau đây :

a. Truyền máu -------------------------------------------------

b. Quan hệ tình dục -------------------------------------------

c. Tiêm, chích ma túy -----------------------------------------

d. Nói chuyện với người bị nhiễm HIV.------------------

Câu 9 : Em biết những vấn đề về giới tính từ :

Thầy cô ---------------------------------------------------------

Cha mẹ----------------------------------------------------------

Anh, chị---------------------------------------------------------

Bạn bè ---------------------------------------------------

Sách báo--------------------------------------------------------

Các phương tiện thông tin như phát thanh, truyền hình---

Những nơi khác-------------------------------------------------

Câu 10 : Được cung cấp những kiến thức về giới tính trong nhà trường em cảm thấy :

Rất thích --------------------------------------

Thích-------------------------------------------

Không thích lắm------------------------------

Hoàn toàn không thích----------------------

Câu 11 : Em muốn hỏi hoặc biết thêm về vấn đề gì trong giáo dục giới tính?

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

----------------------------

Chúc các em luôn đạt được kết quả tốt.

PHỤ LỤC 3:

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

Quý phụ huynh thân mến!

Để đánh giá đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao

hiệu quả giáo dục giới tính từ gia đình và nhà trường góp phần hoàn thiện nhân cách

cho thế hệ tương lai. Chính vì vậy, chúng tôi rất mong được quý phụ huynh cho ý

kiến của mình về vấn đề trên bằng cách đánh dấu “X” vào các ô

phù hợp hoặc viết thêm vào chổ trống (…) ý kiến của ông, bà. Xin chân thành cám

ơn!

- Câu 1 : xin ông/bà vui lòng cho biết đôi điều về bản thân :

a/. Giới tính : Nam

b/. Tuổi : ……………………… Nghề nghiệp : ………………………

- Câu 2 : Xin ông/bà vui lòng cho biết về mức độ hiểu biết của mình về việc giáo

dục giới tính :

a/. Biết rất rõ

b/. Biết chút ít

c/. Không biết

- Câu 3 : Ông/bà cập nhật các thông tin về giới tính qua các phương tiện :

a/. Nghe, xem đài

b/.Sách,báo,tàiliệu

.......................................................................................

c/. Kinh nghiệm bản thân

d/. Bạn bè, đồng nghiệp

- Câu 4 : Ông/bà vui lòng cho biết việc trao đổi với con em mình về vấn đề giới

tính, về các vấn đề cụ thể gì :

a/. Không có

b/.Đôikhi

…………………………………………………………………………………………

………………………………….

c/.Thườngxuyên

…………………………………………………………………………………………

…………………………

- Câu 5 : Theo Ông/bà, việc hiểu biết về vấn đề giới tính của con em mình ở mức

độ :

a/. Không biết

b/. Biết chút ít

c/. Biết rất rõ

- Câu 6: Theo Ông/bà giáo dục giới tính là trách nhiệm của:

a/. Nhà trường

b/. Gia đình

c/. Tự tìm hiểu

- Câu 7 : Ý kiến của Ông/bà về việc giáo dục giới tính ở nhà trường và gia đình :

a/. Nhà trường :

.................................................................................................................... b/. Gia

đình :

....................................................................................................................

Một lần nữa xin chân thành cám ơn sự hợp tác của ông bà!