BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

L ý Thị Hồng Thắm

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VIỆC XỬ LÝ

HỌC SINH VI PHẠM KỶ LUẬT TẠI MỘT SỐ

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Ở TP. HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

L ý Thị Hồng Thắm

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VIỆC XỬ LÝ

HỌC SINH VI PHẠM KỶ LUẬT TẠI MỘT SỐ

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Ở TP. HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục

Mã số: 60 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. VÕ VĂN NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

MỤC LỤC

3TMỤC LỤC3T ................................................................................................................ 3

3TMỞ ĐẦU3T ................................................................................................................... 5

3T1. Lý do chọn đề tài3T ......................................................................................................... 5

3T2. Mục đích nghiên cứu:3T ................................................................................................. 6

3T3. Khách thể & đối tượng:3T .............................................................................................. 6

3T4. Giả thuyết khoa học:3T................................................................................................... 6

3T5. Nhiệm vụ nghiên cứu:3T ................................................................................................. 7

3T6. Phương pháp nghiên cứu:3T .......................................................................................... 7

3T7. Phạm vi nghiên cứu3T .................................................................................................. 10

3TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU3T ....................... 11

3T1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:3T .................................................................................... 11

3T1.2 Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu:3T .................................................................... 13

3T1.2.1 “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” là gì?3T ............................................. 13

3T1.2.2 Cơ sở pháp l ý của việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật:3T ...................................... 15

3T1.3. Một số khái niệm liên quan:3T .................................................................................. 17

3T1.3.1. Học sinh cá biệt:3T ................................................................................................ 17

3T1.3.2 Kỷ luật học sinh:3T ................................................................................................ 18

3T1.3.3. Quản l ý nhà nước về giáo dục:3T .......................................................................... 18

3TTIỂU KẾT CHƯƠNG 13T ............................................................................................... 21

3TCHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VIỆC XỬ LÝ HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VI PHẠM KỶ LUẬT TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH3T ............................................................................................. 23

3T2.1 Tổng quan về kinh tế - xã hội và giáo dục phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh:3T ....................................................................................................................................... 23

3T2.1.1 Đặc điểm Kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh:3T ..................................... 23

3T2.1.2 Đặc điểm về giáo dục phổ thông ở TP Hồ Chí Minh:3T ......................................... 26

3T2.2. Thực trạng quản lý việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh3T ............................................................................................ 29

3T2.2.1. Thực trạng giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật theo văn bản quy phạm pháp luật của ngành tại một số trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh3T .............................. 29

3T2.2.2 Thực trạng quản l ý giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh theo 04 chức năng quản l ý:3T ...................................... 50

3TTIỂU KẾT CHƯƠNG 23T ............................................................................................... 66

3TCHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VIỆC XỬ LÝ HỌC SINH VI PHẠM KỶ LUẬT TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH3T .............................................................................. 68

3T3.1. Một số giải pháp cấp bách quản lý việc xử lý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số trường THPT thành phố Hồ Chí Minh3T ....................................................................... 68

3T3.2. Một số giải pháp lâu dài trong quản lý việc xử lý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh3T ........................................................ 70

3T3.3. Khảo cứu tính khả thi của các biện pháp3T ............................................................. 72

3TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3T ................................................................................ 81

3TTÀI LIỆU THAM KHẢO3T ..................................................................................... 88

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chủ đề năm học từ năm học 2008-2009, được xác định là "Năm học đẩy mạnh ứng

dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lý tài chính và triển khai phong trào xây dựng

trường học thân thiện, học sinh tích cực ", nhằm triển khai phong trào "2TXây dựng trường

học thân thiện, học sinh tích cực2T" theo Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 và

Kế hoạch số 307/KH-BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo phù hợp với các

loại hình trường.

“Thân thiện” ở đây có nghĩa là thầy cô phải giống như người cha, người mẹ thứ hai

của học sinh - người dẫn dắt các em vào đời. Thầy cô phải gần gũi, thân mật, tạo niềm tin,

giúp các em phấn đấu học tập tốt vì nếu có sự ngăn cách, các em sẽ khó học tập tốt môn học

đồng thời cũng khó phấn đấu rèn luyện nhân cách của mình. Các nhà quản l ý giáo dục đều

thống nhất rằng mục tiêu của “học sinh tích cực” là học sinh được tham gia các hoạt động

trong nhà trường một cách chủ động, năng nổ, được bộc lộ quan điểm, rèn luyện các kỹ

năng và hình thành quan hệ tốt trong giao tiếp với thầy cô và bạn bè. Xây dựng trường học

thân thiện, học sinh tích cực là phong trào thi đua được phát động sâu rộng trong phạm vi cả

nước. Tại cuộc sơ kết một năm thực hiện phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân

thiện, học sinh tích cực", Phó Thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

Nguyễn Thiện Nhân khẳng định: “Phong trào này, không chỉ góp phần nâng cao chất lượng

giáo dục mà còn góp phần lưu giữ phát triển truyền thống văn hóa dân tộc. Năm học mới

này, phong trào cần được nhân rộng hơn với nhiều chủ đề mới gắn với các sự kiện của đất

nước”.

Trên tinh thần đó, các trường đều có những chuyển biến tích cực, đáng mừng. Tuy

nhiên trong thực tế vẫn tồn tại một số giáo viên của một số trường tỏ ra “lạc hậu” với yêu

cầu trên. Thậm chí có nơi, có lúc còn xử l ý học sinh một cách thiếu thân thiện, làm “hao

hụt” tính tích cực vốn có và phải có ở học sinh.

Tình hình trên cho thấy, hiện nay một bộ phận giáo viên phổ thông còn lúng túng

thậm chí ứng xử sai luật trong công tác xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật. L ý do chính là giáo

viên bộ môn và thậm chí là giáo viên chủ nhiệm lớp vẫn chưa nắm rõ văn bản Thông tư 08

(TT08) ra ngày 21.8.1988 của Bộ Giáo dục hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ

luật học sinh các trường phổ thông là văn bản quy phạm pháp luật của ngành giáo dục đào

tạo có tính bắt buộc chung trong toàn ngành, nên dẫn đến việc giáo viên không biết rõ quy

định quyền hạn và cách xử l ý của mình trong trường hợp học sinh vi phạm kỷ luật. Bức xúc

trước thực trạng của ngành giáo dục như trên dẫn đến l ý do tác giả chọn đề tài nghiên cứu

khoa học: “Thực trạng quản l ý việc xử l ý học sinh trung học phổ thông vi phạm kỷ luật tại

một số trường ở thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản l ý

giáo dục.

2. Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở khảo sát thực trạng quản l ý việc xử l ý học sinh trung học phổ thông vi

phạm kỷ luật ở thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất một số biện pháp để cung cấp

thông tin nhằm giúp CBQL quản l ý giáo viên hình thành ý thức đúng đắn và đầy đủ về việc

áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong xử l ý học sinh trung học phổ thông vi phạm kỷ

luật hiện nay.

3. Khách thể & đối tượng:

3.1. Khách thể nghiên cứu:

Công tác quản l ý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số trường Trung học phổ thông ở

thành phố Hồ Chí Minh.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Thực trạng quản l ý việc xử l ý học sinh Trung học phổ thông vi phạm kỷ luật ở thành phố

Hồ Chí Minh hiện nay.

4. Giả thuyết khoa học:

Khi đánh giá đúng thực trạng việc quản l ý xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số

trung học phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh thì có thể đề xuất những giải pháp phù hợp

để góp phần vào phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm của giáo viên trong xử l ý kỷ

luật học sinh làm cho tình hình xử l ý kỷ luật đúng tinh thần của phong trào “Xây dựng

trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu:

5.1 Hệ thống hóa tài liệu để xác lập cơ sở l ý luận cho đề tài

5.2 Khảo sát thực trạng “quản l ý giáo viên áp dụng văn bản pháp luật trong xử l ý

học sinh phổ thông vi phạm kỷ luật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, gồm:

* Địa điểm:

- Một số trường ở khu trung tâm

- Một số trường ở vùng ven

- Một số trường ở ngoại thành

(có tính cả trường ngoài công lập)

* Đối tượng khảo sát:

- Ban giám hiệu (Cán bộ quản l ý)

- Giáo viên

- Học sinh

5.3 Đề xuất giải pháp

6. Phương pháp nghiên cứu:

6.1 Phương pháp nghiên cứu l ý luận:

Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu về l ý luận giáo dục; về văn bản pháp luật,

hiệu lực pháp luật về việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật.

6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

6.2.1 Phương pháp quan sát thực trạng việc quản l ý xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật của

Ban giám hiệu nhà trường, giáo viên chủ nhiệm ở trường trung học phổ thông đóng tại:

* Khu trung tâm: chọn một số trường thuộc một trong số quận 1, 3, 4.

* Vùng ven: chọn một số trường thuộc một trong số quận 12, Tân Bình, Tân Phú, Gò Vấp.

* Ngoại thành: chọn một số trường thuộc một trong số huyện Hóc Môn, Bình Chánh.

6.2.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

- Khách thể điều tra: hiệu trưởng, hiệu phó, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn,

học sinh ở trường THPT.

- Nội dung điều tra:

 Thái độ, nhận thức của giáo viên, học sinh đối với việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ

luật.

 Mức độ điều chỉnh, cập nhật TT08 cho phù hợp với thời kỳ mới.

 Nhận thức về sự cần thiết của việc quản lý công tác xử l ý học sinh vi phạm kỷ

luật theo quy định.

 Các công tác quản lý cụ thể: dự tập huấn và tập huấn, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát,

đánh giá.

 Các biện pháp cụ thể để quản lý hiệu quả công tác xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật

theo quy định.

- Mẫu điều tra: 14 trường THPT tại thành phố Hồ Chí Minh:

 THPT Thalmann, Quận 1

 THPT Lê Qúy Đôn, Quận 3

 THPT Nguyễn Thị Diệu, Quận 3

 THPT Nguyễn Trãi, Quận 4

 THPT Võ Trường Toản, Quận 12

 THPT Nguyễn Thượng Hiền, Quận Tân Bình

 THPT Nguyễn Chí Thanh, Quận Tân Bình

 THPT Tây Thạnh, Quận Tân Phú

 THPT Trần Phú, Quận Tân Phú

 THCS-THPT Đinh Tiên Hoàng, Quận Tân Phú

 THPT Chu Văn An, Quận Tân Phú

 THPT Nguyễn Công Trứ, Quận Gò Vấp

 THPT An Lạc, Quận Bình Tân

 THPT Bà Điểm, Huyện Hóc Môn.

- Bảng hỏi được phát cho khách thể nghiên cứu là 35 CBQL, 228 giáo viên, 300 học

sinh ở 14 trường Trung học phổ thông tại TPHCM.

Từ những lý luận của đề tài, chúng tôi xây dựng ba bảng hỏi như sau:

Bảng hỏi thứ nhất, dành cho khách thể điều tra chính của đề tài gồm 10 câu, phân

thành các nội dung:

- Phần 1: các câu hỏi về thực trạng áp dụng TT08 ở các trường Trung học phổ thông tại

thành phố Hồ Chí Minh, gồm các câu: câu 1 khảo sát phân loại giáo viên biết qua TT08 và

chưa biết nội dung TT08 này; câu 2, 3, 4 tìm hiểu mức độ phổ biến, thực hiện nội dung

TT08 (rất thường xuyên, thường xuyên, không thường xuyên, hiếm khi, hoàn toàn không);

câu 5 tìm hiểu thực trạng áp dụng văn bản quy phạm pháp luật ở trường.

- Phần 2: các câu hỏi về thực trạng áp dụng TT08 có những điều gì cần điều chỉnh cho

phù hợp với tình hình thực tế ở các trường THPT tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, gồm

các câu:

+ Câu 6, 7, 8 tìm hiểu nhận thức và thái độ của giáo viên về việc áp dụng quy định

trong xử l ý tình huống thực tế học sinh vi phạm trong giờ học.

+ Câu 9 tìm hiểu nhận thức giáo viên về sự cần thiết của TT08 trong nghề nghiệp hiện

nay (rất cần thiết, cần thiết, không ý kiến, hơi cần thiết, không cần thiết).

+ Câu 10 tìm hiểu có hay không mức độ nhận thức sự khác biệt giữa quy định của

TT08 với thực tế áp dụng của giáo viên khi xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật.

Bảng hỏi thứ hai, dành cho khách thể điều tra bổ trợ của đề tài là các cán bộ quản l ý

tại 14 trường Trung học phổ thông tại TPHCM. Bảng hỏi này được thiết kế với 7 câu hỏi

như sau:

- Phần 1: Câu 1 khảo sát thực trạng nhận thức của CBQL về việc giáo viên áp dụng

TT08 trong khi xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật. Câu 2,3,4: chọn lọc một số câu hỏi trong

bảng hỏi thứ nhất với mục đích để so sánh, đối chiếu với kết quả khảo sát ở bảng hỏi thứ

nhất. Đồng thời thêm câu 5 khảo sát mức độ thực hiện những yêu cầu để quản l ý công tác

xử lý học sinh vi phạm kỷ luật (Tốt, khá, trung bình, yếu, kém); câu 6 khảo sát thực trạng

mức độ CBQL áp dụng các biện pháp để quản l ý công tác xử lý học sinh vi phạm tại trường

của họ (rất thường xuyên, thường xuyên, thỉnh thoảng, không, hoàn toàn không); câu 7

khảo sát kiến nghị của CBQL nhằm quản l ý tốt công tác xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật

trong trường THPT.

- Phần 2: Các câu hỏi về thông tin cá nhân của CBQL , gồm các câu hỏi thu thập thông

tin về họ tên, đơn vị công tác, chuyên môn giảng dạy, trình độ đào tạo, giới tính, thâm niên

công tác, chức vụ của CBQL.

Bảng hỏi thứ ba, gồm 3 câu hỏi. Bảng hỏi này được phát cho 300 học sinh ở một số

trường Trung học phổ thông tại TPHCM. Trong đó, câu 1 tìm hiểu thực thực trạng nhận

thức của học sinh về việc triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của

Bộ Giáo dục và Đào tạo (đồng ý); câu 2 tìm hiểu mức độ thực hiện các hình thức xử l ý học

sinh vi phạm kỷ luật ở trường học sinh đang học (có, không); câu 3 tìm hiểu về những kiến

nghị của học sinh về việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật cho phù hợp với tinh thần “Xây

dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ Giáo dục và Đào tạo (kiến nghị).

Kết quả thu được từ bảng hỏi thứ hai và bảng hỏi thứ ba là cơ sở để nhận định về

mức độ phù hợp giữa công tác quản lý việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật theo TT08 của

CBQL với nhận định của giáo viên và học sinh.

6.2.3 Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

• Lấy ý kiến về việc lựa chọn các nội dung cần thiết để điều chỉnh TT08 nhằm giúp giáo

dục học sinh Trung học phổ thông khi các em vi phạm kỷ luật.

• Lấy ý kiến về biện pháp kiểm tra và cách thức đánh giá hiệu quả công tác giáo viên xử lý

học sinh vi phạm kỷ luật theo đúng tinh thần TT08 hướng dẫn.

• Lấy ý kiến về việc bổ nhiệm giáo viên chuyên tham vấn tâm lý cho học sinh.

Cụ thể:

• Lấy ý kiến CBQL, Thanh tra Sở Giáo dục – Đào tạo về việc lựa chọn các nội dung cần

thiết để điều chỉnh TT08 nhằm giáo dục học sinh Trung học phổ thông khi các em vi

phạm kỷ luật.

• Lấy ý kiến CBQL, Thanh tra Sở Giáo dục – Đào tạo về biện pháp kiểm tra và cách thức

đánh giá hiệu quả công tác giáo viên xử lý học sinh vi phạm kỷ luật theo đúng tinh thần

TT08 hướng dẫn.

• Lấy ý kiến CBQL về việc bổ nhiệm giáo viên chuyên tham vấn tâm lý cho học sinh.

6.2.4 Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phần mềm SPSS for Windows phiên bản 11.5 để xử lý thống kê làm cơ sở

để bình luận số liệu thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

7. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng quản lý việc xử lý học sinh vi phạm kỷ luật theo

đúng tinh thần TT08 hướng dẫn ở 14 trường THPT tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

Quá trình nghiên cứu cũng như kết quả của đề tài chỉ tiến hành và áp dụng trong

phạm vi thành phố Hồ Chí Minh.

Việc nghiên cứu thực trạng quản lý việc xử lý học sinh trung học phổ thông vi phạm

kỷ luật đáp ứng những yêu cầu thực hiện năm chủ điểm chú trọng giáo dục toàn diện học

sinh và phong trào xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:

Trường học thân thiện (Child-friendly 4Tschool4T) là mô hình trường do Quỹ Nhi đồng

Liên hợp quốc (UNICEF) đề xướng từ những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 và đã được triển

khai có kết quả tốt ở nhiều nước trên thế giới với những đặc điểm do UNICEF đưa ra.

Những dự án này được thực hiện ở một số nước Đông Nam Á và một số nước phát triển.

Ở Việt Nam, từ năm 2001, phối hợp với UNICEF, Bộ đã làm thí điểm nhiều năm

nay ở 50 trường tiểu học và THCS (trong đó có một số trường ở TP.HCM). Từ kết quả thí

điểm, Bộ chủ trương tiến hành đại trà trong năm học 2008 - 2009 ở tất cả các trường tiểu

học và THCS trong toàn quốc, rồi phát triển đến tất cả các trường phổ thông cho tới năm

2013.

Mô hình này không hoàn toàn mới đối với Việt Nam. Từ những thập niên 60, 70 thế

kỷ XX, với triết lý “Đời sống học đường là cuộc sống thực của trẻ em ngay ngày hôm nay,

lúc này; chứ không chỉ chuẩn bị cho tương lai”, nên phương châm “mỗi ngày đến trường là

một niềm vui” đã được phổ biến và áp dụng ngay từ những ngày đó. Đặc biệt phương châm

này đã được bền bỉ thực hiện rất có kết quả tại Trung tâm Công nghệ giáo dục (do Hồ Ngọc

Đại làm Giám đốc).

Năm 1981, ở Hà Nội xuất hiện mô hình trường học mới do giáo sư Hồ Ngọc Đại –

người đã có một thời gian nghiên cứu và thực nghiệm tại Matxcơva – đó là trường phổ

thông cơ sở Thực Nghiệm. Với sự trưởng thành nhanh chóng của cơ quan nghiên cứu thực

nghiệm, ngày 11/8/1984, Bộ trưởng Bộ Giáo dục đã ra quyết định thành lập Trung tâm

Thực Nghiệm giáo dục phổ thông trực thuộc Bộ Giáo dục. 6TNăm 1988, Trung tâm đã có

trường thực nghiệm với đủ các cấp, từ tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông.

Năm 1992, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định đổi tên Trung tâm thực nghiệm giáo dục

phổ thông thành Trung tâm công nghệ giáo dục trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Từ đó,

Trung tâm trở thành một cơ quan nghiên cứu và thực nghiệm6T được trang bị đầy đủ trang

thiết bị hiện đại. Triết lý của trung tâm chính là: “Đi học là hạnh phúc. Mỗi ngày đến

trường là náo nức một niềm vui”. Qua một thời gian dài, trung tâm có trên 207 cán bộ giáo

viên, nhân viên và hơn 2.000 học sinh từ mẫu giáo đến lớp 12 của hệ thống Trường Thực

nghiệm.

Giáo dục Thực nghiệm đã được triển khai công nghệ tới 43 tỉnh, thành và vùng sâu

vùng xa. Hồ Ngọc Đại nói rằng: "Cái gì tự nhiên là cái đáng tin nhất. Càng tự nhiên càng vĩ

đại. Trung tâm đã nghiên cứu một mô hình nhà trường mới theo khả năng phát triển tối ưu

của trẻ em Việt Nam bằng giáo dục thực nghiệm".

Như vậy, những vấn đề lý thuyết có liên quan đến trường học thân thiện đã được đề

cập đến từ năm học 1992 – 1993 và mô hình này đã được bền bỉ thực hiện và có kết quả tốt

tại Trung tâm Công nghệ giáo dục của Hồ Ngọc Đại làm Giám đốc. Sau đó, được áp dụng

rộng rãi ở nhiều tỉnh trong cả nước khi đề tài khoa học cấp nhà nước “Mô hình nhà trường

mới theo khả năng phát triển tối ưu của trẻ em Việt Nam bằng giáo dục thực nghiệm” được

nghiệm thu với kết quả đánh giá tốt.

Tuy nhiên sau nhiều lần thay Bộ trưởng, vì những lẽ khác nhau nên mô hình trên đã

bị lãng quên. (Giữa “trường học thân thiện” và “công nghệ giáo dục” gặp nhau ở phần

“ngọn” (mỗi ngày đi học là một niềm vui), nhưng có sự khác biệt ở phần “gốc” (triết lý giáo

dục)).

Theo Trần Kiều, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học giáo dục cũng nhấn mạnh,

trường học thân thiện là thành tố tác động vào việc phổ cập giáo dục phổ thông thông qua

việc hạn chế tối đa học sinh bỏ học. Đặc biệt, trong việc vận động học sinh đến trường còn

có sự tham gia tích cực của chính học sinh. Các em cảm thấy yêu trường lớp hơn, lễ phép,

tôn trọng thầy cô và người lớn tuổi. Đặc biệt, kỹ năng ứng xử giao tiếp, tinh thần đoàn kết

thân ái, tôn trọng và bảo vệ được nâng cao hơn.

Ngày 31/3/2009, lãnh đạo của hơn 30 Sở Giáo dục-Đào tạo các tỉnh, thành phố phía

Nam tham gia hội thảo “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Câu lạc bộ

giám đốc Sở Giáo dục-Đào tạo các tỉnh phía Nam tổ chức tại Nha Trang. Hầu hết các đại

biểu đều nhất trí với các tiêu chí về trường học thân thiện của Bộ Giáo dục-Đào tạo và có

những đề nghị cụ thể về các biện pháp xây dựng trường học thân thiện, trong đó đặc biệt

nhấn mạnh đến vai trò chủ động của Hiệu trưởng các trường.

Ngày 30/01/2010, được sự giúp đỡ của Bộ Giáo dục & Đào tạo mà trực tiếp là Ban

chỉ đạo phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", Sở Giáo dục & Đào

tạo Thái Bình đã tổ chức Ngoại khóa phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện,

học sinh tích cực". Nội dung chủ yếu của buổi ngoại khóa được thầy Phùng Khắc Bình - Vụ

trưởng Vụ Công tác Học sinh Sinh viên trình bày tập trung vào các biện pháp thiết thực để

xây dựng trường học thân thiện và vai trò của các nhà quản lý giáo dục.

5TNgày 1/9/2010 tại Hà Nội, 5TBộ Giáo dục & Đào tạo 5Tcùng các bộ, ngành (Văn hóa,

Thể thao & Du lịch, Trung ương đoàn TNCS HCM, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội

khuyến học) đã ký kết kế hoạch liên tịch chương trình phối hợp thực hiện phong trào thi đua

“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” năm học 2010 – 2011. 5TMỗi Bộ, ngành,

đoàn thể đóng góp vào phong trào thi đua phù hợp với thế mạnh của mình và thông qua kế

hoạch phối hợp để phát huy sức mạnh tổng hợp trong việc chăm lo sự nghiệp “trồng người”,

vì tương lai của mỗi gia đình và sự phát triển của đất nước.

Những vấn đề lý thuyết về trường học thân thiện và quản lý việc xây dựng trường

học thân thiện trên thế giới và ở Việt Nam còn rất ít, tuy vậy trên cơ sở những nghiên cứu

thì việc thực hiện phong trào “xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực” ở Việt

Nam đang được sự quan tâm của ngành và dư luận xã hội.

1.2 Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu:

1.2.1 “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” là gì?

1.2.1.1 Trường học thân thiện:

“Thân thiện” là có tình cảm tốt, đối xử tử tế và thân thiết với nhau. Bản thân khái

niệm “thân thiện” đã hàm chứa sự bình đẳng, dân chủ về pháp lý và sự đùm bọc, cưu mang

đầy tình người về đạo lý. Bởi nếu bất bình đẳng, mất dân chủ, vô cảm trong quan hệ giữa

người với người thì đâu còn gì mà “thân” với “thiện”. “Thân thiện” bắt nguồn từ sứ mệnh

của nhà trường và thiên chức của nhà giáo đối với thế hệ trẻ và xã hội, chứ không dừng ở

thái độ bề ngoài trong quan hệ ứng xử. Khẩu hiệu trong nhà trường là mỗi giáo viên phải

như mẹ hiền. Trong tiếng Việt, bản thân từ ghép “nhà trường” cho thấy trường học trước hết

là mái nhà thân thương.

“Trường học thân thiện” là mô hình trường học do 4TUNICEF4T đưa ra và đã được áp

dụng thành công ở nhiều nước. Ở 4TViệt Nam4T giáo dục phổ thông hiện nay còn cần rất nhiều

yếu tố 4Tquan4T trọng để tạo ra một “trường học thân thiện” bao gồm: môi trường thân thiện,

phương pháp dạy học thân thiện, phương pháp kiểm tra – đánh giá thân thiện, các mối quan

hệ thân thiện. Trong phạm vi của đề tài, phần cơ sở lý luận chỉ nêu nội dung của các mối

quan hệ thân thiện.

Phương pháp dạy theo hướng “Lấy người dạy là trung tâm” (Teacher-centered)

hiện nay đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ thầy trò. Nhiều giáo viên vẫn duy trì quan niệm

rằng thầy là “người trên” và học sinh là “người dưới” nên dẫn đến sự xa cách trong quan hệ

thầy trò. Học sinh rất ít khi dám tranh luận với giáo viên vì sợ giáo viên phật ý; ngược lại

các giáo viên cũng ít khi dám thừa nhận mình sai hay nhầm lẫn vì sợ học sinh đánh giá. Do

đó, họ thường có thái độ áp đặt và chủ quan với học sinh. Phần lớn giáo viên hiện nay vì

vậy rất khó có thể trở thành người bạn tin cậy để học sinh có thể chia sẻ mọi vấn đề vì giữa

họ và học sinh luôn có khoảng cách về tuổi tác và tri thức, nhất là rào cản tâm l ý.

Việc thay đổi phương pháp dạy học theo hướng “lấy người học làm trung tâm”

(learner-centered) giúp giáo viên có được mối quan hệ thân thiện với học sinh vì học sinh

được xem là nhân vật trung tâm của quá trình giáo dục; các em được tôn trọng và được tự

do bày tỏ ý kiến cá nhân; mối quan hệ thầy trò sẽ gần gũi, thoải mái hơn.

Giáo viên cần học cách lắng nghe ý kiến của học sinh, biết chấp nhận những ý kiến

“đối lập” từ học sinh và cũng có thể hoàn thiện kiến thức thêm nhờ tranh luận với học sinh.

Giáo viên có thể lấy ý kiến đánh giá của học sinh thông qua các phiếu điều tra không ghi tên

để không ngừng tự hoàn thiện mình. Để có một “Ngôi trường thân thiện” thực sự nếu như

chỉ chú trọng đưa vào các hoạt động vui chơi, các trò chơi dân gian, tìm hiểu và chăm sóc di

tích lịch sử hay các hoạt động ngoại khoá khác thì chưa đầy đủ. Vì đó mới là những hoạt

động bổ trợ cho nhiệm vụ chính là học tập của các em.

Vấn đề quan trọng nhất mà các em cần là môi trường học tập thân thiện, phương

pháp học tập và phương pháp dạy học thân thiện, các mối quan hệ thân thiện và những sự

phục vụ thân thiện của nhà trường. Có như vậy, các em mới thấy thật sự thoải mái và yêu

mến trường như ngôi nhà của mình. Mỗi khi xa trường một ngày các em chỉ mong chóng trở

lại trường, học sinh sẽ gắn bó với trường học và mỗi ngày đến trường mới thực sự là một

ngày vui của các em.

1.2.1.2. Học sinh tích cực:

Là sự chủ động, hứng thú của người học trong việc tham gia vào quá trình học tập,

rèn luyện ở cả nhà trường, gia đình và cộng đồng. Tùy theo điều kiện cụ thể mà chuyển dần

từ học thụ động sang tự học, tự rèn luyện của học sinh, học chủ động vì mục tiêu mai sau

cho mình, cho gia đình, cho quê hương, đất nước.

Học sinh tích cực là những học sinh của thời đại mới, năng động sáng tạo, không thụ

động trong mọi công việc, nỗ lực phấn đấu trong mọi hoàn cảnh, học tập theo tấm gương

đạo đức của Bác. Vậy chủ động trong học tập như thế nào?

Đó là việc chủ động tìm hiểu kiến thức, nắm vững kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.

Học ở thầy cô, bè bạn, xã hội. Không chỉ học kiến thức hiện tại để làm chủ tương lai mà

cũng là nhìn nhận về quá khứ với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời, bồi dưỡng thêm lòng

yêu nước. Chủ động cũng là những sự sáng tạo của tuổi trẻ trong cách tiếp nhận tri thức.

1.2.1.3 Quan hệ giữa “Trường học thân thiện và học sinh tích cực”:

- Thân thiện là tạo tiền đề cho tích cực, không có thân thiện thì khó có thể phát huy

tính tích cực của con người.

- Tích cực là kết quả của sự thân thiện. Mục tiêu cuối cùng là sự tích cực của người

học để tiếp thu được tri thức, rèn luyện được kỹ năng, hình thành lòng đam mê với cuộc

sống thông qua việc học.

- Tích cực thì sẽ tạo điều kiện cho thân thiện có chiều sâu và bền vững hơn. Người ta

có thể chấp nhận điều kiện còn khó khăn vì vật chất và có thể xây dựng môi trường thân

thiện. Tuy nhiên nếu các bên tham gia không cố gắng tạo điều kiện một cách không tương

xứng với hoàn cảnh thì đó chưa phải là thân thiện. Thân thiện phải được thể hiện thông qua

sự tích cực của các bên tham gia.

1.2.2 Cơ sở pháp l ý của việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật:

1.2.2.1 Văn bản pháp luật:

Hiện tại, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (được quy định trong Luật ban hành

văn bản quy phạm pháp luật ngày 03 tháng 6 năm 2008) bao gồm:

* Văn bản luật

1. Hiến pháp

2. Luật (bộ luật)

3. Nghị quyết của Quốc hội.

* Văn bản dưới luật

1. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

2. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

3. Nghị định của Chính phủ.

4. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Tổng Kiểm toán Nhà nước.

5. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội

đồng nhân dân

6. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

7. Nghị quyết liên tịch giữa ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính

phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.

8. Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

9. Quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân.

Như vậy văn bản quy phạm pháp luật có nội dung là quy phạm pháp luật, tức là những

quy tắc xử sự cụ thể có dự kiến giả định, quy định, chế tài, có tính bắt buộc chung do các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Thông tư 08/TT ngày 21.8.1988 của Bộ Giáo

dục hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh các trường phổ thông là

văn bản quy phạm pháp luật của ngành giáo dục đào tạo có tính bắt buộc chung trong toàn

ngành.

1.2.2.2 Hiệu lực pháp luật; hiệu lực pháp lí:

Các văn bản quy phạm pháp luật khác có hiệu lực pháp lí sau các văn bản quy phạm

pháp luật Quốc hội và của Ủy ban thường vụ Quốc hội, thường được gọi chung là văn bản

dưới luật.

Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn

đề thì áp dụng văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao hơn (Điều 80 – Luật ban

hành văn bản quy phạm pháp luật). Giá trị bắt buộc thi hành của một văn bản quy phạm

pháp luật: từ một thời điểm bắt đầu đến thời điểm chấm dứt, hoặc có văn bản khác thay thế,

hay có văn bản bãi bỏ, hủy bỏ (Hiệu lực về thời gian); trên một lãnh thổ nhất định (Hiệu lực

về không gian; Hiệu lực về đối tượng áp dụng).

Theo nguyên tắc chung, văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lực về sau tức là thời

điểm sau khi văn bản ra đời được ghi trên văn bản ấy hoặc theo nguyên tắc đã được quy

định ( Hiệu lực về thời gian).

Thực tế hiện nay chỉ có Quy chế 40/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 10 năm 2006

của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mới về đánh giá, xếp loại học sinh để làm

cơ sở khen thưởng, xét lên lớp... nhưng vẫn chưa có văn bản nào khác thay thế phần xử l ý

học sinh vi phạm kỷ luật.

Đồng thời theo điều 40,41,42 Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ

thông và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số

07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định

những điều học sinh không được làm, khen thưởng và kỷ luật học sinh còn sơ sài, thiếu chi

tiết để áp dụng mức phạt cho đúng mức nên gây khó khăn cho giáo viên khi áp dụng.

Từ thực tế như trên nên Thông tư 08/TT ngày 21.8.1988 của Bộ Giáo dục hướng dẫn

chi tiết về việc thi hành kỷ luật học sinh các trường phổ thông vẫn còn giữ nguyên giá trị và

hiệu lực pháp lí.

1.3. Một số khái niệm liên quan:

1.3.1. Học sinh cá biệt:

Trước nay chúng ta vẫn quen dùng thuật ngữ "học sinh cá biệt" để nói về các em học

sinh hay quậy phá, vi phạm nội quy có hệ thống. Nhưng trong không khí toàn ngành giáo

dục đang thực hiện cuộc vận động "Trường học thân thiện, học sinh tích cực", cách gọi như

trên có lẽ gây ra sự phân biệt và mặc định các em học sinh trên không tiến bộ được. Thiết

nghĩ chúng ta có thể đổi cụm từ "học sinh cá biệt" thành "học sinh chưa ngoan".

Theo tác giả, cụm từ học sinh cá biệt đã gắn sâu vào tiềm thức của giáo viên và thông

thường học sinh được xếp vào loại này đều được hưởng sự "quan tâm đặc biệt" gây ức chế

cho học sinh và đôi khi bất lợi cho công tác giáo dục. Vì vậy cần phải loại bỏ cụm từ này ra

khỏi hệ thống ngôn ngữ của trường học để tạo sự bình đẳng trong đối xử với học sinh, phù

hợp với môi trường thân thiện mà nhà trường đang thực hiện.

Những học sinh chưa ngoan là những học sinh đặc biệt. Vì những học sinh này

thường có cá tính mạnh, không biết cách kiềm chế cảm xúc và thường mong muốn chứng tỏ

mình với bạn bè chung quanh.

Mặt khác, xét cho cùng, mỗi học sinh đều là một cá thể riêng biệt – là một học sinh

cá biệt có: cá biệt giỏi – cá biệt kém, cá biệt ngoan – cá biệt chưa ngoan. Một số thầy cô

giáo vì nhọc nhằn, mệt mỏi trong cuộc sống mưu sinh, gia đình... thường gặp những học

sinh chưa ngoan nên cũng hay bực bội, quát mắng hoặc xử l ý vi phạm theo cảm tính của

giáo viên với mong muốn lập lại nhanh nhất trật tự trường lớp. Nhưng kết quả thường là trái

ngược, vô tình các thầy cô đã xúc phạm nhân cách học sinh, chạm tới lòng tự ái hoặc có thể

ảnh hưởng tới sức khỏe của các em.

1.3.2 Kỷ luật học sinh:

Việc kỷ luật đối với học sinh cần nghiêm minh, nhưng phải dựa trên nguyên tắc giáo

dục là chính và bảo đảm tính nhân văn, phù hợp với Luật của Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, số 25/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về bảo vệ, chăm sóc

và giáo dục trẻ em.. Do đó khi áp dụng, giáo viên phải thực hiện đúng những quy định của

Bộ Giáo dục và Đào tạo, đồng thời có phối hợp chặt chẽ với gia đình, chính quyền địa

phương (khi cần thiết) để có biện pháp giúp đỡ những em vi phạm kỷ luật có cơ hội tiến bộ.

Bên cạnh đó cũng cần chú trọng đến những giải pháp ngăn chặn, phòng ngừa, cảm hóa để

hạn chế đến mức thấp nhất việc phải dùng các hình thức kỷ luật. Đây là việc cần làm để xây

dựng trường học thân thiện.

Nhà trường là cái nôi để giáo dục đạo đức học sinh, vì vậy không thể chấp nhận

những hành vi kỷ luật học sinh trái phép, không mang tính sư phạm cho dù có được biện

minh vì bất kỳ mục đích gì. Học sinh và phụ huynh cũng cần được biết những quy định về

kỷ luật cũng như những quyền lợi chính đáng của con em mình và có quyền khiếu nại, tố

cáo với các cơ quan chức năng về những hành vi vi phạm của nhà trường khi xâm hại đến

quyền và lợi ích hợp pháp của học sinh.

Đây là giải pháp cần thiết để chống sự lạm dụng, áp dụng thái quá các biện pháp của

việc xử l ý kỷ luật học sinh.

1.3.3. Quản l ý nhà nước về giáo dục:

Theo Từ điển bách khoa về giáo dục, khái niệm quản l ý nhà nước về giáo dục được

giải nghĩa là việc “Thực hiện công quyền để quản l ý các hoạt động giáo dục trong phạm vi

toàn xã hội”.

Có thể hiểu một cách tường minh hơn như sau:

Quản l ý nhà nước về giáo dục là việc nhà nước thực hiện quyền lực công để điều

hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội, nhằm thực hiện

mục tiêu giáo dục quốc gia.

Trong khái niệm quản l ý nhà nước về giáo dục nổi lên ba bộ phận chính. Đó là: chủ

thể, đối tượng, mục tiêu quản l ý nhà nước về giáo dục.

Chủ thể quản l ý nhà nước về giáo dục là các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan

lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) được phân công theo quy định của pháp luật.

Chủ thể trực tiếp là bộ máy quản l ý giáo dục từ trung ương đến cơ sở được cụ thể hóa ở

Điều 100 của Luật Giáo dục 2005.

Đối tượng của quản l ý nhà nước về giáo dục là hệ thống giáo dục quốc dân, hoặc

rộng hơn là mọi hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội.

Mục tiêu quản l ý nhà nước về giáo dục là bảo đảm tuân thủ các quy định pháp luật

trong các hoạt động giáo dục, để thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,

bồi dưỡng nhân tài cho xã hội; hoàn thiện và phát triển nhân cách của công dân. Ở mỗi cấp,

bậc học và trình độ đào tạo mục tiêu này được cụ thể hóa trong Luật Giáo dục và Điều lệ

nhà trường.

Xuất phát từ khái niệm quản l ý nhà nước về giáo dục cùng với việc phân tích các tính

chất, đặc điểm và nguyên tắc quản l ý nhà nước về giáo dục có thể rút ra:

Quản l ý nhà nước về giáo dục là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do

nhà nước quy định, phân cấp trong các hoạt động quản l ý giáo dục các cấp. Quản l ý nhà

nước về giáo dục thực chất là quản l ý các hoạt động hành chính – giáo dục, vì vậy nó có hai

mặt thâm nhập vào nhau, đó là quản l ý hành chính sự nghiệp giáo dục và quản l ý chuyên

môn trong quá trình sư phạm.

Cách xác định đó cho phép phân biệt rõ quản l ý nhà nước với quản l ý của nhà

trường, được hiểu là “thực hiện hoạt động quản l ý giáo dục trong tổ chức nhà trường và chịu

sự tác động của những chủ thể quản l ý bên trên nhà trường nhằm hướng dẫn vào tạo điều

kiện cho hoạt động của nhà trường và các mối liên hệ bên ngoài nhà trường, các thực thể

trong cộng đồng, nhằm xây dựng những định hướng về sự phát triển của nhà trường và hỗ

trợ, tạo điều kiện cho nhà trường phát triển”.

Quản lý nhà trường

“Quản l ý, lãnh đạo nhà trường là quản lý, lãnh đạo hoạt động dạy của giáo viên, hoạt

động học của học sinh, hoạt động phục vụ việc dạy và việc học của cán bộ, nhân viên trong

trường”.

Theo quan điểm phổ biến hiện nay, quản lý trường học là hệ thống gồm bốn chức

năng cơ bản và chủ yếu sau:

 Kế hoạch hóa: là việc làm cho tổ chức phát triển theo kế hoạch. Là quá trình xác

định hình thành các mục tiêu phát triển của nhà trường, đồng thời xác định, đảm bảo các

nguồn lực và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Sản phẩm quan

trọng của chức năng kế hoạch hóa là kế hoạch. Có ba loại kế hoạch: kế hoạch chiến lược

(giải quyết mục tiêu chiến lược); kế hoạch chiến thuật (giải quyết mục tiêu chiến thuật) và

kế hoạch tác nghiệp (giải quyết mục tiêu tác nghiệp).

 Tổ chức: được tiến hành sau khi xây dựng kế hoạch nhằm thực hiện kế hoạch đã

đề ra. Tổ chức là quá trình phân phối và sắp xếp nguồn nhân lực theo những cách thức nhất

định để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra. Đó là quá trình hình thành nên cấu trúc

các quan hệ giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm thực hiện thành công kế hoạch và đạt

được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nếu tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối

hợp, điều phối tốt hơn các nguồn lực. Nội dung chủ yếu của tổ chức là xây dựng cơ cấu tổ

chức: xác định các bộ phận cần có, thiết lập các mối quan hệ hàng ngang và dọc của các bộ

phận, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng thành viên, từng bộ phận (xây

dựng qui chế hoạt động); quản lí nhân sự bao gồm tuyển dụng, đào tạo, bố trí, sắp xếp, đề

bạt, sa thải, tổ chức các hoạt động.

 Chỉ đạo: là quá trình liên kết, liên hệ các thành viên trong tổ chức; tập hợp được

các lực lượng tổ chức và phối hợp tối ưu với nhau. Bên cạnh đó, người chỉ huy theo dõi,

giám sát hoạt động của bộ máy để chỉ huy, ra lệnh cho các bộ phận đồng thời điều khiển,

hướng dẫn, điều chỉnh công việc hợp lý, nhịp nhàng và động viên khuyến khích người lao

động để các hoạt động của nhà trường diễn ra đúng hướng, đúng kế hoạch; các thành viên

hoàn thành những nhiệm vụ nhất định nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.

 Kiểm tra: là quá trình đánh giá và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho các hoạt động

đạt tới các mục tiêu của tổ chức. Theo lý thuyết hệ thống, kiểm tra là quá trình thiết lập mối

liên hệ ngược trong quản lý. Hoạt động kiểm tra trong quản lý là một nỗ lực có hệ thống

nhằm thực hiện bốn chức năng: kiểm soát phát hiện, động viên phê phán, đánh giá và thu

thập thông tin. Nhờ có kiểm tra mà người quản lý đánh giá được thành tựu công việc và uốn

nắn điều chỉnh hoạt động một cách đúng hướng. Kiểm tra phải theo chuẩn. Chuẩn phải xuất

phát từ mục tiêu, là đòi hỏi bắt buộc đối với mọi thành viên của tổ chức.

Kiểm tra trong quản lý trường học: là hoạt động nghiệp vụ quản lý của người Hiệu

trưởng nhằm theo dõi, xem xét, phát hiện, kiểm nghiệm quá trình diễn biến và kết quả của

các hoạt động giáo dục trong phạm vi nội bộ trường học. Đánh giá kết quả của hoạt động

giáo dục có phù hợp với mục tiêu, kế hoạch, quy chế đề ra hay không. Phát hiện những ưu

điểm để động viên khuyến khích; hoặc những thiếu sót, lệch lạc để có những biện pháp uốn

nắn, giúp đỡ và điều chỉnh nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục trong nhà

trường.

Trong chu trình quản lý, cả bốn chức năng trên phải được thực hiện liên tiếp, đan xen

vào nhau; phối hợp bổ sung cho nhau tạo sự kết nối từ chu kỳ này sang chu kỳ sau theo

hướng phát triển. Trong đó yếu tố thông tin luôn giữ vai trò xuyên suốt, không thể thiếu

trong việc thực hiện các chức năng quản lý và là cơ sở cho việc ra quyết định quản lý.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Nhiệm vụ thường xuyên của nhà trường cũng đã bao quát hết các nội dung của

“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Các nhiệm vụ của “Trường học thân thiện, học

sinh tích cực” đều là nhiệm vụ, trách nhiệm của các trường khi mục tiêu chung là phát huy

tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một

cách phù hợp, hiệu quả.

Quản lý công tác giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật theo quy định của văn bản

quy phạm pháp luật là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý một

cách có định hướng nhằm đưa việc giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật theo đúng quy

định của văn bản quy phạm pháp luật của ngành ở từng cơ sở giáo dục vận hành và đạt được

mục tiêu đã định trên cơ sở nhận thức, vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ

thống quản lý giáo dục.

Hiểu theo cách khác thì đó là quản lý công tác xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật theo

quy định của Thông tư 08/TT ra ngày 21.8.1988 của Bộ Giáo dục hướng dẫn về việc khen

thưởng và thi hành kỷ luật học sinh các trường phổ thông là văn bản quy phạm pháp luật

của ngành giáo dục đào tạo có tính bắt buộc chung trong toàn ngành, để giáo viên biết rõ

quy định quyền hạn và cách xử l ý của mình trong trường hợp học sinh vi phạm kỷ luật

nhằm đảm bảo hiệu quả công tác triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích

cực”.

Trong đề tài này, việc khảo sát thực trạng công tác xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật

theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ở việc:

- Nhận thức về tầm quan trọng của vận dụng đúng quy định pháp luật trong xử l ý học

sinh vi phạm kỷ luật theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật trong giáo viên và

CBQL.

- Thực hiện bốn chức năng quản lý: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện,

kiểm tra – đánh giá công tác xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật theo quy định của văn bản quy

phạm pháp luật.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VIỆC XỬ LÝ HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VI PHẠM KỶ LUẬT TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1 Tổng quan về kinh tế - xã hội và giáo dục phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh:

2.1.1 Đặc điểm Kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh:

3Tkinh tế3T, 3Tvăn hóa3T, 3Tgiáo dục3T quan trọng của 3TViệt Nam3T. Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò

Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm

đầu tàu kinh tế của cả 3TViệt Nam3T. Năm 3T20083T, thu nhập bình quân đầu người ở thành phố đạt

2.534 3TUSD3T/người/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 1024 USD/năm. Quy mô

kinh tế thành phố đến năm 2010 bằng 1,7 lần năm 2005, GDP bình quân đầu người năm

2010 ước 2.800 USD, bằng 1,68 lần năm 2005 (1.660 USD) [11]

Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác 3Tmỏ3T, 3Tthủy

sản3T, 3Tnông nghiệp3T, 3Tcông nghiệp3T chế biến, 3Txây dựng3T đến 3Tdu lịch3T, 3Ttài chính3T... Cơ cấu kinh tế

của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn

lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao

nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng; nông nghiệp; lâm nghiệp và thủy sản

chỉ chiếm 1,2% . Tính đến giữa năm 3T20063T, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Thành

phố Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư

nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ 3TUSD3T và 19,5 nghìn tỉ 3TVND3T. Thành phố cũng

đứng đầu Việt Nam về tổng lượng vốn 3Tđầu tư trực tiếp nước ngoài3T với 2.530 dự án FDI,

P, tổ chức thành 24 quận,

2 Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích tự nhiên 2.093,7 kmP

tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 3T20073T[24].

huyện (gồm 19 quận và 5 huyện với 322 phường - xã, thị trấn). Điều kiện kinh tế dân cư

tương đối thuận lợi nhưng không đồng đều; vẫn còn một bộ phận khó khăn, thiếu thốn. Hệ

thống trường lớp đáp ứng nhu cầu học tập của người dân và từng bước được cải thiện theo

hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, ở một số huyện ngoại thành cự ly đến trường

của học sinh còn xa (có nơi trên 7 km); riêng huyện Cần Giờ mật độ dân cư còn thấp, giao

thông đi lại còn khó khăn.

Theo số liệu điều tra, dân số thành phố đã tăng từ 5 triệu người năm 1998 lên trên 7

triệu người vào tháng 4 năm 2009. Đối tượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở và đối tượng

phổ cập bậc trung học tuổi từ 11 đến 21 tuổi là 723.395 người (chỉ tính hộ khẩu thường trú

hoặc tạm trú dài hạn KT3). Dân cư hầu hết là dân tộc Kinh; một số ít dân tộc Hoa, Chăm,

Khơme, Nùng, … trong đó, ngoài dân tộc Kinh thì dân tộc Hoa đông nhất, có trên nửa triệu

người, sống tập trung ở các quận 5, 6, 8, 10, 11, Tân Bình.

Thành phố tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất cho hệ thống giáo dục phổ thông, dạy nghề,

giáo dục thường xuyên, quy hoạch xây dựng Khu đại học Tây Bắc và Đông Bắc thành phố.

Tăng cường các giải pháp chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên

và cán bộ quản lý giáo dục, chú trọng biểu dương, nhân rộng các điển hình về đổi mới

phương pháp dạy và học; đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục - đào

tạo; phát huy vai trò của hội khuyến học trong phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng

xã hội học tập; phổ cập ngoại ngữ, tin học cho học sinh phổ thông.

Quy mô đào tạo các cấp học (mầm non, phổ thông, cao đẳng, đại học) tăng lên; giáo

dục thường xuyên, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề được mở rộng; chất lượng dạy và học

từng bước được nâng lên, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông khá cao và ổn định; hoàn

thành phổ cập bậc trung học, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí thành phố. Mạng lưới các

trường chuyên nghiệp phát triển nhanh; cơ cấu ngành nghề và chương trình đào tạo ngày

càng sát với nhu cầu xã hội; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt chỉ tiêu đề ra.

Chương trình phát triển nguồn nhân lực bước đầu đạt kết quả tích cực trong việc đào

tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực trọng yếu, nhất là chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ,

đào tạo cán bộ cho hệ thống chính trị, đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý và doanh

nghiệp.

Quy mô của ngành giáo dục và đào tạo thành phố :

Tổng số trường học mầm non và phổ thông trong năm học 2009 - 2010 là 1540 trường,

trong đó :

+ Mầm non : 678 (ngoài công lập 277)

+ Tiểu học : 470 (ngoài công lập 35)

+ THCS : 242 (ngoài công lập 4)

+ THPT : 150 (ngoài công lập 60)

- Số trường chuyên nghiệp do Sở GD&ĐT quản lý là 41, trong đó :

+ Trường CĐ : 8

+ Trường TCCN : 33

(Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo TPHCM)

Số liệu về học sinh:

BẬC SỐ LƯỢNG

A.Mầm non 270.841

1.Nhà trẻ 52.014

2.Mẫu giáo 218.827

B.Phổ thông 959.749

1.Tiểu học 472.131

2.THCS 307.738

3.THPT 179.880

C.GDCN 78.948

CỘNG 1.309.538

Cơ cấu giáo viên:

Số lượng Số TT Giáo viên

1 Mầm non 12.419

2 Tiểu học 15.379

3 THCS 14.979

4 THPT 9.861

5 GDCN 5.313

Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo TPHCM

2.1.2 Đặc điểm về giáo dục phổ thông ở TP Hồ Chí Minh:

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về xây dựng kế hoạch liên

tịch đẩy mạnh hoạt động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích

cực” giai đoạn 2009 – 2013, Sở Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Hội Khuyến học và

Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh ký kết liên tịch số 2802/CTr/GDĐT-HKH-

HLHPN ngày 10/12/2009 với Thành Đoàn, Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch. Bằng sự phối

hợp này, thành phố đã huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà

trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả và đáp ứng nhu cầu

xã hội. Các sở ngành và tổ chức Hội đoàn đã cùng đồng hành với ngành giáo dục và đào tạo

thành phố thực hiện tốt các nội dung trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân

thiện, học sinh tích cực” giai đoạn 2009 – 2013.

Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được sự

hưởng ứng tích cực của các đơn vị cơ sở trường học trên địa bàn thành phố. Có 100% đơn

vị trường phổ thông đã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện nghiêm túc trong Hội

đồng sư phạm, học sinh của nhà trường. Nhiều hoạt động phong phú, sáng tạo từ các đơn vị

trường học đã dấy lên phong trào thi đua đổi mới phương pháp học tập trong học sinh và

tham gia tốt các hoạt động xã hội, kỹ năng sống... Năm học 2009 – 2010, Sở Giáo dục và

Đào tạo TP Hồ Chí Minh tiếp tục chỉ đạo các đơn vị tập trung “Đổi mới toàn diện nhà

trường” nhằm từng bước xây dựng các trường tiên tiến, đạt chuẩn quốc tế, hội nhập giáo

dục khu vực. Một trong các nội dung đổi mới của giáo dục thành phố là đổi mới phương

pháp giảng dạy và học tập, chuyển từ dạy học “số đông”, “từ chương” sang dạy học “cá thể”

với các biện pháp cụ thể như đổi mới hiệu quả phương pháp dạy học: Sở đã chỉ đạo các

trường đổi mới cách biên soạn đề và đã tổ chức nhiều hội thảo, nhiều hội nghị chuyên môn

theo định hướng đổi mới công tác biên soạn đề kiểm tra theo định hướng thúc đẩy đổi mới

phương pháp dạy học, đặc biệt đối với các môn học KHXH như Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý,

Giáo dục Công dân. Thông qua các Hội đồng bộ môn và hoạt động chuyên môn của các

cụm trường như: thao giảng, hội nghị chuyên đề, giáo viên các trường đã trao đổi kinh

nghiệm đổi mới phương pháp dạy học; tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh ngân hàng đề thi các

môn học, chú trọng việc biên soạn các câu hỏi dưới dạng mở, khuyến khích học sinh sáng

tạo trong giải quyết vấn đề, tránh học vẹt từ chương, thuộc lòng, ghi nhớ máy móc.

Nhằm lắng nghe những nguyện vọng, đề đạt của học sinh thành phố, góp phần thực

hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, vào ngày

25/3/2010, Sở Giáo dục & Đào tạo đã tổ chức buổi tọa đàm “Tiếng nói của học sinh thành

phố Hồ Chí Minh lần 2 - 2010” với sự tham dự của 80 em là học sinh, cán bộ Đoàn tiêu

biểu đến từ các trường THPT. Qua 45 ý kiến phát biểu tại hội trường và hơn 27 ý kiến

chuyển đến thư ký buổi tọa đàm, cho thấy học sinh THPT thành phố ngoài việc phấn đấu

học tập tốt, các em còn rất quan tâm đến đất nước, đến thành phố, đến ngành giáo dục và sự

phát triển của chính các em. Tất cả các ý kiến của các em đều xuất phát từ những suy nghĩ

rất thật của tuổi trẻ trường học hôm nay.

Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội thảo “Phòng chống bạo lực trong nhà trường”

vào ngày 09/4/2010. Hội thảo quy tụ các chuyên gia tâm lý học, các nhà quản lý giáo dục,

các giáo viên phụ trách đoàn thể, giáo viên chủ nhiệm…đã phân tích, đánh giá những tác

động của xã hội hiện nay dẫn đến việc học sinh có những hành vi bạo lực trong nhà trường

và đề ra những giải pháp khắc phục tích cực, hiệu quả.

Thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà trường trung học tiên tiến, Sở Giáo dục và Đào tạo

đã chỉ đạo các trường Trung học Phổ thông và Trung học Cơ sở qua Phòng Giáo dục và Đào

tạo quận - huyện thực hiện nghiêm túc qui chế chuyên môn, đổi mới nội dung chương trình

và phương pháp dạy học. Các hoạt động giáo dục (Ngoài giờ lên lớp, Giáo dục hướng

nghiệp, Giáo dục nghề phổ thông…) được các trường tổ chức thực hiện đầy đủ và chất

lượng.

Giáo dục trung học đã nhân rộng phong trào xây dựng trường học thân thiện học sinh

tích cực và đạt được những kết quả tốt đẹp. Từng trường học đã chú ý xây dựng môi trường

sư phạm sạch đẹp, phòng học khang trang, đạt chuẩn; tăng cường mối quan hệ bình đẳng,

dân chủ trong hội đồng sư phạm, nâng cao ý thức tự giác trong cán bộ, giáo viên, thân thiện

với học sinh trong quá trình dạy học; tổ chức các hoạt động tập thể nhằm giáo dục toàn diện

và phát huy tính tích cực trong học sinh. Các trường tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động

chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Ban Giám hiệu các trường đã tổ chức

thực hiện hiệu quả phương pháp dạy học cá thể, tự chủ về thời lượng, dạy sát đối tượng học

sinh, tổ chức soạn giáo án tập thể và kiểm tra chung. Hầu hết các trường đều đã sử dụng

công nghệ thông tin trong dạy học, quản lý. Với sự hỗ trợ của Intel và Microsoft, phương

pháp dạy học mới thông qua công nghệ thông tin đã làm cho nhà trường đổi mới mạnh mẽ,

thầy thích dạy, học sinh thích học, giảm thiểu tình trạng quá tải trong nhà trường.

Đối với xã hội và địa phương, giáo dục trung học là lực lượng nòng cốt của ngành

trong việc tham gia phong trào xây dựng nếp sống văn minh đô thị. Trong năm học 2009 -

2010, số lượng học sinh vi phạm luật giao thông giảm, phong trào giữ gìn vệ sinh trường

lớp và môi trường sư phạm, văn minh trong giao tiếp đã được các trường thực hiện có kế

hoạch, có tổ chức và có kiểm tra đánh giá.

Quán triệt đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhận thức sâu sắc ý nghĩa

của công tác phổ cập giáo dục và phổ cập bậc trung học, thành phố có quyết tâm cao trong

công tác phổ cập giáo dục và phổ cập bậc trung học. Đến nay số xã phường đạt chuẩn quốc

gia PCGD THCS là 322/322 phường xã, đạt 100%. Số quận huyện đạt chuẩn quốc gia

PCGD THCS : 24/24 quận huyện, đạt tỉ lệ 100%. Thành phố đã hoàn thành phổ cập bậc

trung học (theo chuẩn của thành phố) với 24/24 quận huyện đạt chuẩn, tỉ lệ 100%. (Nguồn:

Sở Giáo dục và Đào tạo TPHCM)

Kết quả trong năm học 2010 - 2011, giáo dục trung học vẫn tiếp tục là niềm tự hào

của ngành giáo dục và đào tạo thành phố Hồ Chí Minh; là nơi tổ chức thi cử nghiêm túc đạt

được chuẩn chất bền vững trong bốn năm liền thông qua nhiều hình thức kiểm tra đánh giá

khác nhau của Bộ Giáo dục và Đào tạo từ cuộc vận động “2 không”. Tỉ lệ thi đậu tốt nghiệp

THPT đạt 94,60 %; trong đó học sinh tốt nghiệp khá, giỏi đạt 14,7 %. Giáo dục trung học

được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là đơn vị xuất sắc của ngành trong năm học.

Ngành giáo dục và đào tạo thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục:

- Đổi mới toàn diện nhà trường, đi đầu thực hiện kết luận của Bộ Chính trị theo tinh

thần thông báo 242-TB/TW, xây dựng nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc,

phục vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ hội nhập.

- Tích cực đổi mới quản lý và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo; tạo điều

kiện tốt nhất cho cán bộ quản lý và giáo viên tự học, tự rèn; không ngừng nâng cao trình độ,

đáp ứng yêu cầu hội nhập; chủ động và sáng tạo thực hiện hiệu quả thiên chức dạy người; tổ

chức cho học sinh tích cực tự rèn luyện trở thành những người công dân văn minh tiến bộ

của thời đại từ nhân cách, thể chất và trí tuệ, kỹ năng làm chủ cuộc sống.

- Những chỉ tiêu chính phải phấn đấu trong năm học là :

1. Trong từng ngành học, cấp học ở từng địa phương quận huyện phải xây dựng

được ít nhất 1 đơn vị trường học đạt chuẩn của khu vực và quốc tế.

2. Tiếp tục đảm bảo đủ chỗ học đạt chuẩn ở mọi cấp học, ngành học; không còn một

đơn vị trường học nào yếu kém về cơ sở vật chất và môi trường sư phạm.

3. Tất cả cán bộ, giáo viên và nhân viên nhà trường đều quán triệt và thực hiện có

hiệu quả 8 bài học đổi mới nhà trường, không có trường hợp không học và làm trái những

điều đã học. Cán bộ, giáo viên đều biết sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý và dạy

học.

4. Tất cả học sinh phổ thông đều được học tin học, ngoại ngữ; đều được tổ chức

hoạt động tập thể, văn nghệ, thể dục thể thao; được giáo dục kỹ năng sống; được hướng dẫn

phương pháp tự học đạt hiệu quả.

5. Tất cả phụ huynh học sinh đều quan tâm đến việc học tập của con em, chia sẻ

được với nhà trường những thuận lợi khó khăn, tích cực cùng nhà trường chăm lo tổ chức

tốt hoạt động dạy và học.

2.2. Thực trạng quản lý việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Thực trạng giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật theo văn bản quy phạm

pháp luật của ngành tại một số trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh

a. Thực trạng nhận thức về văn bản quy phạm pháp luật và việc giáo viên xử l ý học

sinh tại một số trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh

Nhận thức có vai trò rất quan trọng, là ngọn đuốc soi đường để con người thực

hiện hành động. Trước khi thực hiện một hành động nào đó, con người cần phải ý thức được

các thao tác và cả biểu tượng sản phẩm đạt được. Nhận thức càng đúng đắn, sâu sắc thì kết

quả hành động càng cao và ngược lại. Như vậy, để có thể thực hiện công tác quản lý việc

giáo viên xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật cho tốt, CBQL và giáo viên phải nhận thức

đúng được tầm quan trọng của việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong

tình huống học sinh phạm lỗi. Về phía học sinh, để có thể học tốt trong ngôi trường đang

xây dựng phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” trước hết, phải hiểu mục

đích của việc triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ Giáo

dục và Đào tạo.

 Nhận thức về tầm quan trọng của áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành

trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật

Khảo sát nhận thức của CBQL và giáo viên về tầm quan trọng của áp dụng văn bản

quy phạm pháp luật của ngành trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật, kết quả được

trình bày ở bảng 2.1.

Bảng 2.1. Nhận thức của CBQL và giáo viên về mức độ cần thiết của áp dụng

văn bản quy phạm pháp luật của ngành

CBQL Giáo viên STT Mức độ Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %

1 Rất cần thiết 15 42.9 69 30.3

2 Cần thiết 20 57.1 137 60.1

Có hay không cũng được 3 0 0 14 6.1 (không ý kiến)

4 0 0 Hơi cần thiết 6 2.6

5 0 0 Hoàn toàn không cần thiết 2 .9

4.43 4.16 Điểm trung bình

.502 .724 Độ lệch chuẩn

- Số liệu ở bảng trên cho thấy các CBQL đã nhận thức được tầm quan trọng của áp dụng

văn bản quy phạm pháp luật của ngành (Thông tư 08/TT) trong xử l ý học sinh THPT vi

phạm kỷ luật. Điều này thể hiện qua tỉ lệ 100% CBQL cho rằng áp dụng văn bản quy phạm

pháp luật của ngành trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật là cần thiết, trong đó tỉ lệ

khẳng định là “rất cần thiết” lên đến 42,9%.

Còn số liệu khảo sát ở giáo viên ở bảng trên cho thấy:

- Đa số các giáo viên THPT đã nhận thức được tầm quan trọng của áp dụng văn bản quy

phạm pháp luật của ngành trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật. Điều này thể hiện

qua tỉ lệ 90,4% giáo viên cho rằng áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong xử

l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật là cần thiết, trong đó tỉ lệ khẳng định là “rất cần thiết”

lên đến 30,1%.

- Tuy vậy, nhiều người đang lo ngại vì cũng còn có những giáo viên chưa thực sự quan

tâm đến áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong xử l ý học sinh THPT vi

phạm kỷ luật nên đã chọn mức độ “không ý kiến” - “có hay không cũng được”, tỉ lệ 6,1%.

Đặc biệt, có 2,6% giáo viên quan niệm áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành

trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật chỉ là “hơi cần thiết”. Thậm chí có 0,9% giáo

viên còn cho rằng việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong xử l ý học sinh

THPT vi phạm kỷ luật là “hoàn toàn không cần thiết”. Như vậy, tỉ lệ giáo viên nhận thức

không tích cực về vấn đề này cao hơn CBQL.

Do đó, có thể nói, tất cả CBQL và một bộ phận khá lớn giáo viên THPT đã nhận thức

đúng đắn về tầm quan trọng của áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong xử l ý

học sinh THPT vi phạm kỷ luật (CBQL = 100%; giáo viên = 90,4%) với điểm trung bình ở

mức khá cao (CBQL = 4,43; giáo viên = 4,16) và với độ lệch chuẩn gần như nhau (

ĐLC RCBQL R = 0,502; ĐLCRGVR = 0,724). Điều này cho phép khẳng định, việc áp dụng văn bản

quy phạm pháp luật của ngành trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật được rất nhiều

CBQL và giáo viên quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa nhận thức

đúng đắn về tầm quan trọng, vai trò, ý nghĩa của áp dụng Thông tư 08 trong xử l ý học sinh

THPT vi phạm kỷ luật. Bằng con đường nào, bằng cách nào để sự quan tâm này hiệu quả

và hợp lý; để việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong xử l ý học sinh

THPT vi phạm kỷ luật được thực sự thực hiện, thực hiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả?

Chính điều này, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sát hơn về cách áp dụng văn bản quy

phạm pháp luật của ngành trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật; đồng thời, phải có sự

chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của

ngành trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật của CBQL các cấp để việc triển khai

“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” có hiệu quả cao.

Để có thêm số liệu khách quan, chúng tôi khảo sát tình hình nhận thức của học sinh

về mục đích của việc triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Nhằm

tìm hiểu nhận thức của học sinh, người nghiên cứu tiến hành khảo sát trên 300 học sinh

thuộc ba khối lớp (khối 10, khối 11, khối 12) và thuộc ba địa bàn (Nội thành, Vùng ven,

Ngoại thành) khác nhau.

 Thực trạng nhận thức của học sinh

- Trong số học sinh thuộc mẫu nghiên cứu là 300 có 50,2% học sinh đã nhận thức

đúng đắn về mục đích của việc triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích

cực”: Đó là xu thế thời đại mới đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng nhu

cầu học tập, rèn luyện của mỗi cá thể thành con người năng động thích ứng và điều chỉnh

mối quan hệ thầy trò theo hướng dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

Bảng 2.2. Nhận thức của học sinh về mục đích của việc triển khai “Xây dựng trường

học thân thiện, học sinh tích cực”

Đồng ý Không đồng ý TT Các lựa chọn Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ %

Nâng cao năng lực cá nhân, giúp học sinh tồn 1 28 9.3 272 90.7 tại và thích ứng với cuộc sống hàng ngày.

Nâng cao năng lực tâm lý xã hội, giúp học 2 47 15.7 253 84.3 sinh tự tin bước vào cuộc sống xã hội.

Truyền thống hiếu học của dân tộc đòi hỏi

phải đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng 3 76 25.3 224 74.7 nhu cầu học tập, rèn luyện của mỗi cá thể

thành con người năng động thích ứng.

Xu thế thời đại mới đòi hỏi phải đổi mới

phương pháp dạy học để đáp ứng nhu cầu học 4 71 23.7 229 76.3 tập, rèn luyện của mỗi cá thể thành con người

năng động thích ứng.

Điều chỉnh mối quan hệ thầy trò theo hướng 5 98 32.7 202 67.3 dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

- Kết quả khảo sát tại Bảng 2.2 chứng tỏ nhận thức về chương trình của học sinh còn

nhiều hạn chế. Còn khá nhiều học sinh chưa nhận thức đúng hoặc nhận thức chưa rõ về vấn

đề này: có 9,3% học sinh cho rằng mục đích đó là giúp cá nhân tồn tại và thích ứng với cuộc

sống hàng ngày; 15,7% học sinh cho rằng đó là nhằm nâng cao năng lực tâm lý xã hội giúp

cho học sinh tự tin bước vào cuộc sống xã hội; một số lượng lớn học sinh, chiếm tỉ lệ

25,3%, nhận thức một cách quá khái quát về mục đích, cho rằng mục đích của việc triển

khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” là truyền thống hiếu học của dân

tộc đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng nhu cầu học tập, rèn luyện của

mỗi cá thể thành con người năng động thích ứng.. Tất cả những quan niệm này là những suy

nghĩ chưa đúng đắn hoặc chưa sâu sắc.

Đâu là nguyên nhân của hiện trạng trên? Theo nhận định của người nghiên cứu đó có

thể là khâu tuyên truyền, giáo dục của giáo viên và các cấp quản lý về ý nghĩa của chương

trình còn nhiều hạn chế hoặc thời gian dành cho công tác phổ biến nội dung không cho phép

nên việc tiếp cận của học sinh chưa được thấu đáo.

Điều này, một phần gây trở ngại cho người làm công tác quản l ý giáo dục. Vì nếu các

em học sinh chưa hiểu rõ mục đích của việc triển khai phong trào này của Bộ Giáo dục và

Đào tạo vì cho rằng việc triển khai phong trào trên chỉ là một trong số các hoạt động giáo

dục bình thường trong nhà trường. Từ đó, các em sẽ không tạo ra được kỷ luật – tự giác phát

huy, khơi dậy sự chủ động, tự tin, tích cực trong học tập, rèn luyện. Điều này có phần nào

ảnh hưởng đến việc triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và hiệu

quả thực hiện công tác này trong ngành giáo dục.

b. Thực trạng đánh giá về mức độ áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành

trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật

Thực trạng cho thấy rõ việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong

xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật ở các trường được các CBQL và giáo viên đánh giá

mức độ thực hiện khác nhau:

Bảng 2.3. Mức độ phổ biến, nghiên cứu đầy đủ các quy định Thông tư 08 để áp dụng

khi xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật

Mức độ

CBQL

Giáo viên

Tần số

Tỉ lệ %

Tần số

Tỉ lệ %

3

1.3

1

2.9

Không

3

1.3

1

2.9

Hiếm khi

55

24.1

0

0

Không thường xuyên

126

55.3

26

74.3

Thường xuyên

41

18.0

7

20.0

Rất thường xuyên

Việc phổ biến, nghiên cứu đầy đủ các quy định Thông tư 08 để áp dụng khi xử l ý học

sinh vi phạm kỷ luật được CBQL thực hiện thường xuyên hơn với 94,3% trong khi ở giáo

viên mức độ này là 73,3%, trong đó mức độ thường xuyên ở CBQL cao hơn rất nhiều

(CBQL = 74,3%, giáo viên = 55,3%). Tuy nhiên, bên cạnh những số liệu khả quan trên thì

việc giáo viên đứng lớp là người trực tiếp giáo dục học sinh nên rất cần áp dụng thường

xuyên thì lại thấp hơn CBQL và khi khảo sát một số giáo viên thì số giáo viên chủ nhiệm

chiếm số đông (Xem bảng 2.4)

Bảng 2.4 Tỉ lệ giáo viên làm chủ nhiệm

Giáo viên chủ nhiệm

Tần số

Tỉ lệ %

152

66.7

76

33.3

Không

Đồng thời, số lượng giáo viên đã biết về Thông tư 08 là 189 người (chiếm tỉ lệ khá

cao là 82,9%) khi so với số lượng giáo viên chưa biết gì về Thông tư 08 là 39 người

(17,1%). Và khi đã được tập huấn về văn bản quy phạm pháp luật của ngành là Thông tư 08

thì có một bộ phận giáo viên khá lớn (70,6%) nhận thấy trường họ công tác vẫn còn có

những giáo viên có cách xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật chưa phù hợp với quy định. Ví dụ

như vẫn còn giáo viên đánh học sinh, bắt học sinh vi phạm kỷ luật chép phạt quá nhiều,

đuổi học sinh vi phạm ra đứng ngoài hành lang trước cửa lớp...

Kết quả khảo sát cho thấy:

Tuy tỉ lệ giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp – trực tiếp quản l ý, xử lý học sinh đã

biết qua Thông tư 08 là cao nhưng thực tế thì vẫn còn không ít giáo viên đứng lớp tiến hành

kỷ luật học sinh của mình theo kinh nghiệm bản thân (32,9% - xem bảng 2.6) nên tính hiệu

quả của cách xử l ý chưa cao, còn mang tính chủ quan của giáo viên, và vì vậy giáo viên vẫn

còn xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật không đúng với tinh thần của TT 08. Do đó sau khi đối

chiếu với TT08, giáo viên nhận thấy họ vẫn còn xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật chưa phù

hợp với quy định của TT08 ở mức cao so với CBQL ( giáo viên = 70,6%, CBQL = 14,3% -

xem bảng 2.5)

Bảng 2.5 Mức độ không phù hợp với quy định TT08 mà trường thường hay mắc phải

trong việc xử lý kỷ luật hs ở trường THPT thời gian qua

CBQL Giáo viên Mức độ Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ %

85.7 30 67 29.4 Phù hợp

14.3 5 161 70.6 Chưa phù hợp

Bảng 2.6 Thực tế giáo viên đã xử lý kỷ luật học sinh của mình theo cách nào?

Xử lý kỷ luật học sinh Tần số Tỉ lệ %

153 67.1 Áp dụng như Thông tư 08

75 32.9 Theo kinh nghiệm bản thân

Cho dù CBQL rất quan tâm đến việc phổ biến, cho giáo viên nghiên cứu TT08 để xử

lý học sinh vi phạm kỷ luật được đúng với quy định của ngành, nhưng thực tế vẫn còn một

bộ phận không nhỏ giáo viên chưa nắm được nội dung TT08 hoặc đã biết nhưng chưa áp

dụng vào tình huống học sinh vi phạm kỷ luật. Đặc biệt, đối với trường có độ tuổi của giáo

viên tương đối trẻ - thâm niên dưới 10 năm - đông thì mức độ áp dụng văn bản quy phạm

pháp luật của ngành khi xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật ở mức không thường xuyên là rất

lớn (chiếm 50%) trong khi trường ở nội thành, có giáo viên đứng lớp lâu năm thì mức áp

dụng không thường xuyên ít hơn nhiều (chỉ 9,8% - xem bảng 2.7) bởi l ý do là giáo viên mới

về trường công tác sau thời điểm Ban giám hiệu trường phổ biến, tập huấn quy định của

ngành nên mức độ phổ biến, nghiên cứu đầy đủ các quy định Thông tư 08 để áp dụng khi xử

l ý học sinh vi phạm kỷ luật ở mức độ rất thường xuyên còn ít (10%). Tại sao có nguyên

nhân này? Đó là do giáo viên vắng mặt khi trường triển khai Thông tư 08; Ban giám hiệu

các trường thường tổ chức phổ biến, tập huấn văn bản quy phạm pháp luật vào buổi họp hội

đồng sư phạm đầu năm học mà hiện nay các trường THPT được học sớm từ khoảng tuần

thứ 3 của tháng 8, thời điểm này sinh viên ra trường chưa nhận nhiệm sở; hoặc giáo viên trẻ

xin thuyên chuyển cũng chưa được nhận nhiệm sở.

Kết quả khảo sát cho thấy, giáo viên có thâm niên công tác từ 10 năm trở xuống:

- THPT An Lạc (ngoại thành): 47/70 giáo viên (67,1%)

- THPT Võ Trường Toản (vùng ven): 48/66 giáo viên (72,7%)

- THPT Nguyễn Trãi và THPT Nguyễn Thị Diệu (nội thành): 43/92 giáo viên (46,7%)

Bảng 2.7 Mức độ phổ biến, nghiên cứu đầy đủ các quy định Thông tư 08 để áp dụng khi xử

l ý học sinh vi phạm kỷ luật

Nội thành Vùng ven Ngoại thành Mức độ

Tần số

Tỉ lệ %

Tần số

Tỉ lệ %

Tần số

Tỉ lệ %

2 2.2 1 1.5 0 0

Không

3 3.3 0 0 0 0

Hiếm khi

9 9.8 11 16.7 35 50.0

Không thường xuyên

56 60.9 42 63.6 28 40.0

Thường xuyên

22 23.9 12 18.2 7 10.0

Rất thường xuyên

Tuy nhiên, bên cạnh những số liệu khả quan trên, tại các trường ở khu vực nội thành

ở mức độ không áp dụng có 3,3% giáo viên cho là mình hiếm khi thực hiện, thậm chí còn

có 2,2% giáo viên hoàn toàn không; khu vực vùng ven có 1,5% hoàn toàn không thực hiện

(xem bảng 2.7). Nhìn bao quát hơn cùng có 1,3% giáo viên và cùng có 2,9% CBQL cho

rằng ở trường mình hiếm hoặc hoàn toàn không nghiên cứu văn bản quy phạm pháp luật của

ngành để áp dụng trong xử l ý kỷ luật học sinh vi phạm kỷ luật. Con số này cho phép khẳng

định vẫn còn một số CBQL và giáo viên chưa chú trọng đến việc nghiên cứu văn bản quy

phạm pháp luật của ngành (TT 08) để áp dụng trong xử l ý kỷ luật học sinh vi phạm kỷ luật

(xem bảng 2.3). Điều này cũng thể hiện rõ trong thực tế, có nhiều giáo viên tự tin xử l ý học

sinh vi phạm kỷ luật theo kinh nghiệm, cảm xúc bản thân nên dẫn đến hai kết quả xử l ý là

hoặc sẽ quá nhẹ, không đủ sức răn đe học sinh tái phạm hoặc áp dụng hình phạt thái quá,

dẫn đến phản giáo dục.

Bảng 2.8 Mức độ không phù hợp với quy định TT08 mà giáo viên thường hay mắc

phải trong việc xử lý kỷ luật hs ở trường THPT thời gian qua

Nội thành

Vùng ven

Ngoại thành

Mức độ

Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ %

Tần số

Tỉ lệ %

22

23.9

26

39.4

19

27.1

Phù hợp

70

76.1

40

60.6

51

72.9

Chưa phù hợp

Nếu so sánh bảng 2.7 với bảng 2.8, chúng ta nhận thấy có điều mâu thuẫn khi tỉ lệ

giáo viên ở khu vực nội thành có mức độ nghiên cứu các quy định của TT08 từ thường

xuyên trở lên rất cao (rất thường xuyên = 23,9%, thường xuyên = 60,9%) nhưng mức độ

chưa phù hợp với quy định của TT08 mà giáo viên thường hay mắc phải trong việc xử lý

kỷ luật hs ở trường THPT thời gian qua lại cao hơn tỉ lệ giáo viên ở khu vực khác (nội thành

là 76,1% trong khi vùng ven là 60,6%, ngoại thành là 72,9%). Số liệu trên cho thấy, việc

nghiên cứu, áp dụng văn bản quy phạm pháp luật chưa được sự đồng nhất giữa việc nghiên

cứu và thực hiện của giáo viên. Cũng như chưa có sự đồng nhất giữa việc thực hiện của giáo

viên với sự quản lý việc thực hiện đó của CBQL (xem bảng 2.7).

Kết quả phỏng vấn một số CBQL và giáo viên cho thấy: Sở dĩ có sự không đồng nhất

như nêu trên là do một số nội dung của TT08 không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay

nên giáo viên không hoàn toàn làm theo quy định của TT08 mà thay đổi nội dung cho phù

hợp hơn với học sinh trong thời đại mới nhưng lại không phù hợp với quy định của TT08.

c. Thực trạng thực hiện các biện pháp xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số

THPT ở thành phố Hồ Chí Minh

Nhằm tìm hiểu thực trạng xử lý học sinh theo tinh thần TT08 của các trường khảo

sát, người nghiên cứu đưa ra câu hỏi “Theo em, việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật ở trường

em được thực hiện như thế nào?” mỗi học sinh căn cứ vào nội dung của từng câu hỏi phù

hợp mà trả lời có hoặc không. Bảng 2.9 là kết quả của khảo sát.

Bảng 2.9 Các hình thức xử lý kỷ luật của các trường

NỘI DUNG STT Có (%) Thứ hạng

1 62.3 6 Tất cả đều báo về cho giáo viên chủ nhiệm (GVCN) quyết định

2 Do giáo viên bộ môn (GVBM) tự xử lý trong giờ dạy của 58 8

3 38.7 12

4 76 2

5

36.7 14 mình rồi báo cho GVCN Lần đầu HS vi phạm: Bị GVBM ghi sổ đầu bài  Viết tự kiểm  Báo về cha mẹ  Mời cha mẹ gặp GVCN Lần đầu HS vi phạm: GVBM nhắc nhở/ khiển trách để HS nhận ra sai phạm (sẽ không bị ghi ghi sổ đầu bài) Lần đầu HS vi phạm: Cho tự chọn hình thức phạt tại lớp (sẽ không bị ghi ghi sổ đầu bài) như thụt dầu, hít đất, tự tát vào mặt, chép phạt…

6

64.3 4 Tái phạm (tính từ lần vi phạm thứ 2 trong 1 tháng): khiển trách trước lớp trong sinh hoạt chủ nhiệm, có tham khảo ý kiến cán bộ lớp.

7 59.3 7

28.7 15 Tái phạm (3 lần trở lên trong 1 tháng) khiển trách trước lớp trong sinh hoạt chủ nhiệm, có tham khảo ý kiến cán bộ lớp. 8 Bị thúc ép phải đánh nhau với bạn dù không muốn và được thầy cô phát hiện sớm: bị đuổi học 01 tuần lễ mà không cần phải ra Hội đồng kỷ luật.

9 Đánh nhau với bạn có tổ chức và gây thương tích cho

37.3 13 người khác: bị đuổi học 01 tuần lễ mà không cần phải ra Hội đồng kỷ luật

76.3 1 10 Có thái độ kém văn hóa hoặc hành vi thiếu đạo đức đối với GV: bị GV la mắng và đuổi ngay ra khỏi lớp trong tiết đó.

11 Bất cứ lỗi vi phạm gì nhưng HS làm GV đứng lớp không

46.3 11 hài lòng là bị la mắng  đưa xuống giám thị ngay tiết học đó.

49 10 12 Hội đồng kỷ luật của nhà trường gồm: Hiệu trưởng hoặc Hiệu phó, Giám thị phụ trách lớp của HS phạm lỗi.

64.7 3 13 Hội đồng kỷ luật của nhà trường gồm: Hiệu trưởng, Trợ l ý TN, GVCN lớp của HS phạm lỗi, hai GV có kinh nghiệm ở trường.

53.7 9 14 Sau khi HS vi phạm kỷ luật bị xử l ý và có thông báo quyết định kỷ luật thì HS và cha mẹ HS có quyền khiếu nại về kỷ luật của mình trong thời hạn 01 tuần lễ.

15 Sau khi HS vi phạm kỷ luật bị xử l ý và có thông báo quyết

64.3 4 định kỷ luật thì phải chấp hành hình thức kỷ luật đó ngay hôm sau.

Bảng hỏi gồm 15 câu hỏi nhỏ tần số trả lời được tính bằng tỉ lệ phần trăm (%). Căn

cứ vào tỉ lệ % để xếp hạng. Câu hỏi có tỉ lệ % cao sẽ được xếp thứ hạng 1 và lần lượt cho

đến hết. Theo tinh thần TT08 thì việc khen thưởng và kỷ luật nhằm:

1. Việc khen thưởng và thi hành kỉ luật đối với học sinh là một trong các biện pháp giáo dục quan trọng trong nhà trường phổ thông, nhằm mục đích:

- Khuyến khích học sinh phấn đấu vươn lên, noi theo các gương tốt để tu dưỡng và rèn luyện bản thân.

- Ngăn chặn không để các hiện tượng sai trái phát triển, giáo dục các học sinh phạm sai lầm, giúp các học sinh này phấn đấu trở thành học sinh tốt.

- Thúc đẩy học sinh tự giác thực hiện quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao ý thức góp phần xây dựng mọi nề nếp, kỷ cương trong nhà trường.

2. Việc khen thưởng và kỉ luật đối với học sinh được thực hiện đúng đắn sẽ góp phần tích cực vào việc củng cố và phát triển phong trào thi đua “Hai tốt” trong nhà trường phổ thông từng bước thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường và từng cấp học. Muốn vậy, cần phải đảm bảo được các nguyên tắc sau:

a) Chính xác, khách quan, vô tư, không định kiến, hẹp hòi, tùy tiện.

b) Dân chủ, bình đẳng, có lí có tình đối với mọi học sinh.

c) Lấy giáo dục làm chính, đồng thời giữ nghiêm kỉ luật. Phát huy ưu điểm, bồi dưỡng những nhân tố tích cực, lấy đó làm chỗ dựa để khắc phục những thiếu sót, những biểu hiện tiêu cực.

d) Tiến hành kịp thời những hình thức thích hợp.

e) Tạo ra trong nhà trường và ngoài xã hội một dư luận đúng đắn, ủng hộ cái tốt, phê phán cái sai.

f) Có kế hoạch theo dõi sự tiến bộ và sửa chữa của học sinh phạm lỗi.

g) Khen phải kèm theo hình thức thưởng thích đáng.

Người nghiên cứu đưa ra các câu hỏi nhỏ của bảng hỏi trên sẽ có mục phù hợp với

tinh thần thông tư nhưng cũng có mục không phù hợp (nhưng vẫn được sử dụng), nhằm

mục đích tìm hiểu thực trạng việc tiến hành xử lý kỷ luật tại các trường.

- Xếp hạng 1 là mục 10: “Khi học sinh có thái độ kém văn hóa hoặc hành vi thiếu

đạo đức đối với GV: thì bị GV la mắng và đuổi ngay ra khỏi lớp trong tiết đó.” Có 76,3%

các em học sinh cho rằng giáo viên trường mình có áp dụng phương pháp đó. Tuy nhiên,

mức độ áp dụng giữa các trường cũng không giống nhau. Biểu đồ 2.1 thể hiện mức độ áp

dụng hình thức trên giữa các trường.

Biểu đồ 2.1

Sự chênh lệch giữa các trường là không cao, điều này thể hiện mức độ áp dụng là

“khá đồng đều”. Có vẻ như do nôn nóng và muốn có hiệu quả tức thời nên các giáo viên

thường “đốt cháy giai đoạn” và tùy tiện áp dụng phương pháp như trên. Tuy nhiên cần nhìn

nhận sự việc trên toàn cục diện của vấn đề, để tìm ra những cách xử lý có tình có lý nhưng

không cứng nhắc rập khuôn. Nếu giáo viên vận dụng không đúng các hình thức kỷ luật nói

chung và từng vụ việc cụ thể nói riêng thì hậu quả của nó sẽ rất khó kiểm soát. TT08 nêu

rằng nếu học sinh có “thái độ kém văn hóa hoặc hành vi thiếu đạo đức đối với GV” thì giáo

viên cần bình tĩnh nhắc nhở, khiển trách học sinh đó trước lớp nhằm mục đích để học sinh

vi phạm hiểu ra và đồng thời giáo viên nhắc nhở những học sinh khác trong lớp. Còn khi

học sinh “có lời nói và hành động vô lễ với thầy cô giáo...” sẽ bị cảnh cáo trước toàn

trường. Như vậy trong văn bản quy phạm pháp luật của ngành không hề có hình thức la

mắng và đuổi ra khỏi lớp học trong giờ học. Tuy nhiên sự nhập nhằng giữa hai khái niệm

này với hai mức độ xử lý khác nhau khiến học sinh lớp 12 có thể bị cấm thi tốt nghiệp do

cảm tính của người thầy bởi hình thức cảnh cáo trước toàn trường sẽ được ghi vào học bạ

cũng đồng nghĩa với hạ bậc hạnh kiểm và hạ xuống đến yếu là khỏi thi tốt nghiệp. Những

lỗi này lại rất thường rơi vào học sinh, mà đôi khi chỉ là do cách ứng xử thiếu cân nhắc, lỡ

lời... của lứa tuổi học sinh THPT. Mặt khác nếu giáo viên đứng lớp nôn nóng, mất bình tĩnh

mà xử lý thì hình ảnh của giáo viên trong suy nghĩ của học sinh cũng có nhiều bất cập. Một

khi hình ảnh giáo viên bị “méo mó”, uy tín bị giảm sút thì sự tự tin trong chuyên môn cũng

bị ảnh hưởng. Về phía học sinh khi bị tổn thương nặng nề thì dẫn đến sự chai lì và thường

có phản ứng tiêu cực.

Như vậy, điều cần quan tâm lúc này là khả năng ứng xử linh hoạt của giáo viên trong

từng hành vi của học sinh, mặt khác giáo viên cũng cần rèn luyện cho mình khả năng kiềm

chế cảm xúc. Hành động trong lúc mất bình tĩnh sẽ có những hậu quả không như mong

muốn.

- Xếp hạng 2 là mục 4 với 76,0% “Lần đầu HS vi phạm: GVBM nhắc nhở/ khiển

trách để HS nhận ra sai phạm (sẽ không bị ghi ghi sổ đầu bài)” điều này phù hợp với tinh

thần thông tư và mang tính giáo dục cao. Xem biểu đồ 2.2

Biểu đồ 2.2

Tỉ lệ (%) chênh lệch giữa các trường khảo sát là không cao chứng tỏ biện pháp này

thường được giáo viên các trường áp dụng khá đồng đều. Trên 70% học sinh ở cả 03 trường

khảo sát cho rằng thầy cô có sử dụng hình thức trên. Và đáng mừng là ngược lại với mục 4

là mục 5 “Lần đầu HS vi phạm: Cho tự chọn hình thức phạt tại lớp (sẽ không bị ghi ghi sổ

đầu bài) như thụt dầu, hít đất, tự tát vào mặt, chép phạt…” xếp hạng 14 vì ít học sinh nhận

thấy giáo viên của mình có cách hành xử như vậy. Tuy nhiên vẫn còn 36,7% học sinh các

trường khảo sát cho rằng học sinh vi phạm sẽ được giáo viên bộ môn cho tự chọn hình thức

phạt tại lớp là chép phạt để không bị ghi sổ đầu bài chứ giáo viên không có các yêu cầu như

thụt dầu, hít đất, tự tát vào mặt...

Thế nhưng biện pháp giáo viên phạt học sinh không học bài hoặc làm bài... bằng

cách cho chép phạt cũng phản tác dụng, thiếu tính răn đe. Hình thức chép phạt khiến những

dịch vụ ăn theo cũng từ đó mà phát sinh. Điển hình là dịch vụ chép phạt thuê, cứ một đôi 10

ngàn đồng, 10 đôi 100 ngàn đồng.... Riêng những nạn nhân của biện pháp chép phạt thì than

thở: "Tiền ăn không có nhiều nhưng vì sợ mất thời gian cho những môn học khác nên em

đành nhở bạn bè chép hộ, thà chi cho nó ít tiền còn hơn gò lưng ra chép không khéo hôm

sau vào lớp không thuộc bài của những môn khác thì nguy to”. Lắm lúc chính áp lực phải

chép phạt cho đầy đủ và giao nộp đúng hạn đã tạo nhiều áp lực, khiến cho học sinh đối phó

bằng cách chọn những môn có giáo viên dễ tính lấy bài phạt ra chép lén lút, hậu quả là môn

học đó chẳng tiếp thu được gì.

- Xếp hạng 3 là mục 13 “Hội đồng kỷ luật của nhà trường gồm: Hiệu trưởng, Trợ l ý

thanh niên, GVCN lớp của HS phạm lỗi, hai giáo viên có kinh nghiệm ở trường.” với 64.7%

học sinh cho rằng Hội đồng kỷ luật của nhà trường lập ra gồm những thành viên nêu trên.

Điều này hoàn toàn phù hợp với thông tư và thể hiện rằng nhà trường hiện nay vẫn bám sát

TT08 khi lập Hội đồng kỷ luật học sinh. Thế nhưng vẫn còn 49% học sinh cho rằng ở mục

12 - Hội đồng kỷ luật của nhà trường chỉ có Hiệu trưởng hoặc Hiệu phó, Giám thị phụ trách

lớp của HS phạm lỗi mà không cần giáo viên chủ nhiệm lớp học sinh phạm lỗi và hai giáo

viên có kinh nghiệm ở trường với l ý do là giáo viên bận đứng lớp, không có thời gian dự

họp.

Song song đó, trong những năm gần đây do áp lực của nhiều phía (thành tích, kết quả

học tập, kết quả rèn luyện, các chỉ tiêu tiên tiến...) mà giáo viên bộ môn cũng như giáo viên

chủ nhiệm thường hay xử phạt học sinh một các tùy tiện không theo quy định cụ thể nào cả

nhằm mau chóng lập lại trật tự trong lớp. Điều này thường dẫn đến sự phản giáo dục và giáo

viên vi phạm vào những quy định của văn bản quy phạm pháp luật của ngành. Khi xét tới

đồng hạng 4, kết quả khảo sát thể hiện một số điều cần quan tâm như sau:

- Xếp hạng 4 là mục 6 “Tái phạm (tính từ lần vi phạm thứ 2 trong 1 tháng): khiển

trách trước lớp trong sinh hoạt chủ nhiệm, có tham khảo ý kiến cán bộ lớp.” Khi 64,3% học

sinh cho rằng thầy cô mình có làm như thế. Trong khi TT08 quy định từ ba lần trở lên trong

thời gian một tháng mới bị khiển trách trước lớp (mục 7) có 59,3% học sinh đồng ý với giáo

viên có cách tiến hành xử l ý đúng luật. Ở những hành vi vi phạm thông thường mà học sinh

hay mắc phải như: nghỉ học không xin phép, không thuộc bài hoặc làm bài, đi học không

đúng giờ thì thực tế hiện nay đa số giáo viên thường tính là học sinh tái phạm khi học sinh

vi phạm lỗi lần thứ hai trong 01 tháng trong khi TT08 quy định từ ba lần trở lên trong thời

gian một tháng.

Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy thực tế vẫn còn nhiều giáo viên chưa nắm được

nội dung văn bản quy phạm pháp luật, lo lắng học sinh học không tốt môn mình... nên vội

vàng xử l ý nhằm mục đích ngăn chặn sự lặp lại của hành vi vi phạm nhưng đi ngược lại tinh

thần giáo dục của TT08.

- Cùng xếp hạng 4 là mục 15 “Sau khi HS vi phạm kỷ luật bị xử l ý và có thông báo

quyết định kỷ luật thì phải chấp hành hình thức kỷ luật đó ngay hôm sau.” với 64,3% học

sinh trả lời có, trong khi mục 14 “Sau khi HS vi phạm kỷ luật bị xử l ý và có thông báo quyết

định kỷ luật thì HS và cha mẹ HS có quyền khiếu nại về kỷ luật của mình trong thời hạn 01

tuần lễ” mới đúng quy định của văn bản quy phạm pháp luật của ngành thì xếp hạng 9 với

53,7% học sinh đồng ý. Điều này cho thấy hiện nay vẫn còn nhà trường vội vàng trong xử

l ý học sinh vi phạm kỷ luật. Đặc biệt nghiêm trọng nếu ở hình thức đuổi học có thời hạn vậy

mà không ít giáo viên hiện nay vì ngại giáo dục, vì bệnh thành tích và cả sự hiểu biết chưa

thấu đáo những quy phạm pháp luật mà đã đẩy học sinh ra xã hội ở cái tuổi ăn chưa no lo

chưa tới... Hoặc khi cha mẹ học sinh khiếu nại quyết định đuổi học có thời hạn chưa đúng

luật của Hội đồng kỷ luật nhà trường được Thanh tra ngành xử lại thì con em họ đã bị nghỉ

học, mất kiến thức.

Những mục được xếp hạng dưới là những mục thể hiện hành vi mang tính tự phát,

thiếu kiềm chế của giáo viên khi tiến hành xử lý kỷ luật học sinh. Tuy không nhiều nhưng

đây là những tiếng chuông cảnh báo nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời thì hậu quả

của nó sẽ rất khó lường. Với tỉ lệ rất cao 62,3% học sinh trả lời là tất cả mọi việc trong lớp

đều báo về cho giáo viên chủ nhiệm quyết định (mục 1) nên vai trò của giáo viên chủ nhiệm

rất quan trọng. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng giáo viên chủ nhiệm chưa thực hiện đúng chức

năng quan trọng của mình.

Chẳng hạn trong nội dung mục 3 (với 38,7% học sinh trả lời có), ở mức độ khiển

trách trước lớp, trước trường thuộc phạm vi của giáo viên chủ nhiệm, chưa phải mời cha mẹ

học sinh hoặc thông báo gia đình. Nhưng thực tế nhiều giáo viên chủ nhiệm sẵn sàng đẩy

trách nhiệm về phía gia đình, bất cứ vi phạm nào của học sinh cũng mời cha mẹ học sinh

vào trường. Thậm chí rất nhiều giáo viên chủ nhiệm còn "vô tư" thông báo sai phạm của học

sinh ngay tại cuộc họp chi hội cha mẹ học sinh lớp khiến nhiều cha mẹ học sinh có con bị

nêu tên không khỏi ngượng ngùng.

Viết kiểm điểm là một việc có tác động lớn đến cá nhân người viết và cả bạn bè. Tất

nhiên lỗi vi phạm phải lớn hoặc lặp đi lặp lại, giáo viên chủ nhiệm mới yêu cầu học sinh

thực hiện để các em thật sự thấy mình sai và đề ra hướng sửa chữa nhưng thực tế hiện nay là

bất cứ việc gì học sinh vi phạm cũng bị giáo viên yêu cầu viết kiểm điểm, dẫn đến việc có

học sinh đã kiểm điểm nhiều lần mà rồi đâu vẫn vào đấy! Thay vào bảng tự kiểm đó, hàng

ngày khi đến lớp, giáo viên luôn nhắc nhở học sinh của mình rằng không gì giá trị hơn sự

phán xét của bản thân. Nếu thật sự học sinh hối hận về những lỗi lầm thì hãy chứng minh

2TTừ đầu năm 2009 đến nay, cả nước xảy ra gần 1.600 vụ việc học sinh đánh nhau ở

bằng hành động.

trong và ngoài trường học [Theo 2Tbáo cáo của các Sở GD&ĐT tại Hội thảo quốc gia phòng chống

bạo lực xâm hại trẻ em diễn ra sáng ngày 24/9/2010 tại Hà Nội]2T. Trong đó, đáng lo ngại là các vụ

học sinh nữ đánh nhau hội đồng, làm nhục bạn, quay phim rồi tung lên mạng Internet, xảy

ra ở nhiều địa phương. Điều này một lần nữa cho thấy sự xuống cấp về đạo đức, lối sống,

văn hoá ứng xử của một bộ phận học sinh. Và đó là nguyên nhân khiến nhà trường rất “dị

ứng” với hành vi đánh nhau của học sinh nên khi phát hiện vụ việc là xử l ý thật nghiêm để

ngăn chặn với mức cao nhất là đuổi học có thời hạn. Tuy nhiên nếu nhà trường chưa tìm

hiểu thấu đáo mà vội dựa vào hành vi đánh nhau của học sinh để ra quyết định đuổi học thì

chưa đúng mục tiêu của giáo dục phổ thông (nội dung mục 8, mục 9 với 28,7% và 37,3%

học sinh trả lời có) mà 2Tgiáo viên chủ nhiệm lớp lại có vai trò quyết định đối với việc ngăn

chặn tình trạng học sinh đánh nhau. Giáo viên chủ nhiệm là người hiểu rõ hoàn cảnh của

học sinh sẽ kịp thời động viên, giải tỏa các mâu thuẫn của học sinh. Và đây chính là nhân

vật chủ chốt giúp ngăn chặn, phòng ngừa tình trạng học sinh đánh nhau. Đặc biệt, đối với

những em có hoàn cảnh gia đình đặc biệt như bố mẹ ly hôn, gia đình lục đục... giáo viên chủ

nhiệm cần có các hình thức quan tâm, giúp đỡ cụ thể để các em tránh được ảnh hưởng về

mặt tâm lý, dễ gây hành vi bột phát.

Theo ông Đinh Phương Duy - Chủ tịch Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục TP.HCM,

mục tiêu cuối cùng của việc kỷ luật học sinh là giáo dục chứ không phải trừng phạt. Vì vậy

không nên lạm dụng, không nên xem đó là cách xử lý đơn giản để thực hiện một cách vô

cảm mà phải tính tới từng cá nhân học sinh: việc thi hành kỷ luật đó sẽ đưa học sinh đến

đâu, hệ quả thế nào.

Sau khi xử lý kỷ luật học sinh, thầy cô chủ nhiệm, giám thị cũng cần có sự động viên

học sinh. Cha mẹ bằng tình cảm phân tích để học sinh có thể nhận ra khuyết điểm của mình

và cha mẹ học sinh hiểu vấn đề để cùng hợp tác với nhà trường giáo dục con em. Bên cạnh

đó, tâm huyết và tấm gương của người thầy luôn là sự cảm hóa tốt nhất đối với những học

sinh chưa ngoan.

d. Quan điểm của CBQL và giáo viên về văn bản quy phạm pháp luật của ngành

(Thông tư 08)

Bảng 2.10 Có cần tách phần xử lý kỷ luật HS ra một văn bản riêng?

Giáo viên

CBQL

Ý kiến

Tần số

Tỉ lệ %

Tần số

Tỉ lệ %

158

69.3

24

68.6

Không cần

70

30.7

11

31.4

Cần

- Kết quả khảo sát phần hình thức của TT08 (xem bảng 2.10), ta nhận thấy đa số là

CBQL (68,6%) và giáo viên (69,3%) cho rằng không cần sửa hình thức của TT08 khi tách

phần xử lý kỷ luật HS ra một văn bản riêng vì thực tế hiện nay đã có Quy chế 40/2006/QĐ-

BGDĐT quy định về đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh THPT để nhà

trường căn cứ vào đó xếp loại học lực, hạnh kiểm và khen thưởng cho học sinh.

Riêng về 31,4% ý kiến của CBQL và 30,7% giáo viên cho rằng cần tách phần xử l ý

kỷ luật học sinh ra một văn bản riêng, thầy Nguyễn Trung An – Phó hiệu trưởng trường

THPT Chu Văn An l ý giải mục đích là để phần kỷ luật học sinh được hệ thống liên tục từ

hình thức (mức kỷ luật) đến thủ tục và hồ sơ, như vậy sẽ giúp cho giáo viên dễ nhớ, dễ thực

hiện và vận dụng.

- Đặc biệt phần nội dung, khảo sát mức xử phạt nào không phù hợp trong giai đoạn

hiện nay, có 40% CBQL cho rằng có mức xử phạt không phù hợp trong giai đoạn hiện nay

nhưng chỉ 18% giáo viên cùng quan điểm, trong khi có tới 82% giáo viên cho rằng mức độ

xử phạt vẫn phù hợp (xem bảng 2.11). L ý do của việc chênh lệch này là do CBQL khi xử l ý

kỷ luật học sinh vi phạm phải nghiên cứu cẩn thận, đầy đủ văn bản quy phạm pháp luật để

áp dụng cho phù hợp đối với tất cả các trường hợp xảy ra trong toàn trường nên CBQL thấy

được điểm không phù hợp của một số mức xử phạt. Còn giáo viên chỉ áp dụng cụ thể đối

với từng trường hợp cụ thể xảy ra đối với học sinh của riêng lớp mình nên chưa nghiên cứu

đầy đủ văn bản quy phạm pháp luật vì vậy tỉ lệ rất cao giáo viên cho rằng mức xử phạt quy

định trong TT08 vẫn phù hợp.

Bảng 2.11 Có mức xử phạt nào không phù hợp trong giai đoạn hiện nay

Giáo viên

CBQL

Ý kiến

Tần số

Tỉ lệ %

Tần số

Tỉ lệ %

187 82.0 21 60.0 Không có

41 18.0 14 40.0 Có

Có nhiều ý kiến CBQL cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xem lại mức xử phạt ở

mục 4 phần III – “Đuổi học 01 tuần lễ” cần bỏ vì không phù hợp. Theo thầy Phạm Danh

Tấn – Hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Thị Diệu nhận định: đuổi học 01 tuần lễ chỉ làm

cho học sinh hổng kiến thức, mà học sinh vi phạm kỷ luật thường là học sinh yếu, lười học

nên khi nhà trường áp dụng mức xử phạt này dẫn đến các em đó không tiếp thu bài được và

sau khi đi học lại sẽ học tệ hơn, gây tâm l ý chán nản bỏ học.

Thầy Nguyễn Hào Hiệp - Hiệu Trưởng THPT Trần Phú nêu quy định mức khiển

trách trước lớp khi vi phạm trong giờ lao động là không còn phù hợp do hiện nay công tác

lao động không còn là mặt giáo dục như thời đại trước.

Còn cô Phan Thị Thu Hường – Phó hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Trãi cho rằng:

mức xử phạt ở mục 5 phần III – “Đuổi học 01 năm” hiện khó có thể áp dụng do đi ngược lại

với chủ trương phổ cập giáo dục hiện nay.

- Từ kết quả khảo sát nêu trên dẫn đến phần nội dung có cần thêm hay bớt hình thức,

mức kỷ luật nào khác hay không, kết quả như ở bảng 2.12 cho thấy có 48.6% CBQL và

13.6% giáo viên cho rằng cần thêm hoặc bớt hình thức, mức kỷ luật để phù hợp tình hình

giáo dục trong thời đại mới hơn. Cô Hoàng Thị Hồng Vân - giáo viên trường THPT Nguyễn

Trãi cho rằng cần quy định thêm là ở mức kỷ luật đuổi học 01 tuần lễ thì nhà trường phải

đợi hết thời hạn khiếu nại của cha mẹ học sinh vi phạm mới thực hiện quyết định kỷ luật.

Bởi trong thực tế hiện nay, có rất nhiều trường sau khi Hội đồng kỷ luật ra quyết định kỷ

luật với mức kỷ luật đuổi học 01 tuần lễ là áp dụng luôn mà không vì quyền lợi của học sinh

để đợi ý kiến khiếu nại (nếu có) của cha mẹ học sinh. Vì vậy có trường hợp Hội đồng kỷ

luật nhà trường giải quyết chưa thỏa đáng, cha mẹ học sinh vi phạm khiếu nại để Hiệu

trưởng xem xét lại vụ kỷ luật thì con em của họ đã bị đuổi học rồi dù còn trong hạn thời

gian cho phép khiếu nại được quy định trong Thông tư 08 làm ảnh hưởng tới việc đến

trường của học sinh.

Bảng 2.12 Nội dung cần thêm/bớt mức kỷ luật nào khác

Giáo viên

CBQL

Ý kiến

Tần số

Tỉ lệ %

Tần số

Tỉ lệ %

197 86.4 18 51.4 Không có

31 13.6 17 48.6 Có

Cô Phan Thị Thu Hường – Phó hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Trãi nhận định với

tình hình xã hội hiện nay, nội dung quy định mức xử phạt mục 1 phần III “Có thái độ kém

văn hóa, thiếu đạo đức đối với thầy, cô giáo, bạn bè...” mà chỉ “khiển trách trước lớp” là

quá nhẹ, thiếu tính răn đe nên cần chuyển vào mục 3 phần III là “cảnh cáo trước toàn

trường” chứ không chờ tới khi học sinh “có lời nói và hành động vô lễ với thầy cô giáo...”

do khó phân định rõ hai khái niệm hành vi này. Đồng thời hành vi “gây gổ, đánh nhau với

bạn bè và những người ở ngoài nhà trường...” ở mục 2 – “Khiển trách trước Hội đồng kỷ

luật nhà trường” cũng nên đưa vào mục 3 – “Cảnh cáo trước toàn trường” mới phần nào răn

đe, hạn chế tình trạng học sinh đánh nhau như hiện nay.

Những năm đầu thế kỉ 21, viễn thông phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều so với thập

niên 80 thế kỉ 20 – thời điểm TT08 ra đời, nên việc học sinh thời đại mới sử dụng điện thoại

di động là phổ biến. Vì vậy cầm thêm quy định mức xử phạt cho hành vi học sinh sử dụng

điện thoại di động trong giờ học, quay phim bằng điện thoại di động rồi phát tán hình ảnh

không phù hợp môi trường giáo dục lên mạng Internet... là đồng ý kiến của CBQL các

trường THPT Nguyễn Thượng Hiền, THPT Nguyễn Công Trứ, THPT Tây Thạnh.

Bên cạnh đó, cũng trong thời đại mới hôm nay, học sinh có nhiều thay đổi do xã hội

thay đổi nên thầy Nguyễn Hào Hiệp - Hiệu Trưởng THPT Trần Phú cho rằng cần thêm hình

thức xử l ý học sinh vi phạm Luật An toàn giao thông.

Xét tổng quát, CBQL và giáo viên thấy mức “Khiển trách trước Hội đồng kỷ luật”

cần bỏ và thay bằng hình thức kỷ luật kỷ luật khác. Vì việc học sinh phạm lỗi bị khiển trách

trước Hội đồng kỷ luật chỉ có vài thành viên thì chưa đủ tính răn đe, mức xử phạt này đã

không còn phù hợp với tâm l ý học sinh thời đại mới.

- Khi tiến hành khảo sát các ý kiến về thành phần Hội đồng kỷ luật trong nhà trường

xem đã phù hợp chưa và có cần thêm bớt thành viên nào không, kết quả thể hiện ở bảng

2.13 cho thấy một bộ phận khá lớn CBQL và giáo viên cho là thành phần Hội đồng kỷ luật

đã phù hợp, bao gồm: Hiệu trưởng, đại biểu Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh hoặc

đại biểu Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp

của học sinh phạm lỗi và hai giáo viên có kinh nghiệm giáo

dục và được Hội đồng giáo dục tín nhiệm.

Bảng 2.13 Mức độ phù hợp của Thành phần Hội đồng kỷ luật

Giáo viên

CBQL

Mức độ

Tần số

Tỉ lệ %

Tần số

Tỉ lệ %

48 21.1 8 22.9 Không phù hợp

180 78.9 27 77.1 Phù hợp

Tuy nhiên với 21,1% giáo viên và 22,9% CBQL cho là thành phần Hội đồng kỷ luật

nêu trên không phù hợp. Vì trong thực tế hiện nay, ở trường THPT có chức danh giám thị

khối lớp. Đó là người theo sát, quản l ý học sinh bên cạnh giáo viên nên sẽ hiểu rất rõ từng

cá tính học sinh khối lớp mình phụ trách. Do đó khi học sinh thuộc khối lớp của giám thị

nào vi phạm kỷ luật thì cần có giám thị khối lớp đó trong Hội đồng kỷ luật.

Còn cụm danh từ “đại biểu Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh” thì dễ gây hiểu

nhầm vì thực tế tại các trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh có chia ra riêng gồm tổ chức

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh dành cho giáo viên và học sinh. Đứng đầu tổ chức

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh dành cho giáo viên là Bí thư chi đoàn giáo viên,

chi đoàn trực thuộc Quận, huyện đoàn nơi trường đóng. Đứng đầu tổ chức Đoàn Thanh niên

cộng sản Hồ Chí Minh dành cho học sinh là Bí thư Đoàn trường do học sinh bầu lên, Đoàn

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh của học sinh có một giáo viên được phân công phụ trách

hoạt động của học sinh gọi là Trợ l ý thanh niên. Vậy ai sẽ đại diện để có mặt trong Hội

đồng kỷ luật? Từ thực tế này, một số ý kiến cho rằng người đại diện cho tổ chức Đoàn

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có mặt trong Hội đồng kỷ luật nên quy định là Trợ l ý

thanh niên.

Đồng thời, trong điều 21 Điều lệ nhà trường ban hành kèm theo Quyết định số

07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định có

Trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh của trường trong thành phần Hội đồng kỷ luật. Theo ý

kiến của thầy Nguyễn Trung An – Phó hiệu trưởng trường THPT Chu Văn An (trường

ngoài công lập) thì cần xem lại quy định này vì nếu duy trì chính xác nhân vật này trong Hội

đồng kỷ luật thì ở trường ngoài công lập, thậm chí cả ở một số trường công lập có học sinh

vi phạm kỷ luật nhiều nên phải lập Hội đồng kỷ luật liên tiếp để xử l ý học sinh vi phạm

khiến vị Trưởng ban phải liên tục vào trường dự họp. Hoặc nếu học sinh vi phạm kỷ luật

phải ra Hội đồng kỷ luật chính là con em của Trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh nhà

trường thì phải làm giấy ủy quyền cho Phó trưởng ban... là không hợp l ý. Vì vậy chỉ cần

quy định là cử đại diện ban đại diện cha mẹ học sinh của trường vào thành phần Hội đồng

kỷ luật. Ngược lại, ý kiến của CBQL ở trường THPT Trần Phú cho rằng không cần đưa đại

diện ban đại diện cha mẹ học sinh của trường vào dự Hội đồng kỷ luật vì không cần thiết.

- Xem xét về hồ sơ kỷ luật có còn phù hợp trong thời đại mới, có 84,6% giáo viên và

37,1% CBQL cho rằng hồ sơ kỷ luật được quy định trong TT08 vẫn còn phù hợp, tuy nhiên

một bộ phận không nhỏ CBQL (62,9%) cho rằng hồ sơ kỷ luật không phù hợp với những

nguyên nhân như sau:

Thầy Nguyễn Tấn Tài – Phó hiệu trưởng trường THPT Võ Trường Toản thấy cần

điều chỉnh lại quy định về hồ sơ kỷ luật là thêm Biên bản họp lớp có đề nghị đưa học sinh vi

phạm ra Hội đồng kỷ luật chứ không phải chỉ “tham khảo ý kiến của tập thể lớp của học

sinh phạm lỗi” chung chung nên không rõ ràng là đối tượng cụ thể nào giữa ý kiến của cả

lớp hay ban cán sự lớp về học sinh phạm lỗi. Bên cạnh đó, do đã có chức danh Giám thị nên

Còn cô Phan Thị Thu Hường – Phó hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Trãi nhận định mức

“Khiển trách trước lớp” không cần biên bản đề nghị của giáo viên chủ nhiệm nữa vì đó là thẩm

quyền giải quyết của chính họ.

cần có thêm trong hồ sơ kỷ luật các báo cáo của Giám thị về học sinh phạm lỗi.

2.2.2 Thực trạng quản l ý giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số trường

THPT ở thành phố Hồ Chí Minh theo 04 chức năng quản l ý:

Đầu tiên, có thể phân tích quản lý công tác giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật

phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành theo khái niệm về quản lý công tác giáo dục

của một số tác giả:

Theo khái niệm QLGD của tác giả Trần Kiểm, ta có thể xem quản lý công tác giáo

viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành là một

chuỗi tác động hợp lí (có mục đích, tự giác, hệ thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức – sư

phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng giáo dục

trong và ngoài trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phù hợp, tham gia vào mọi hoạt

động giáo dục của nhà trường nhằm làm cho quá trình này vận hành tối ưu tới việc hoàn

thành mục tiêu xây dựng thành công “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

Dựa vào khái niệm QLGD của tác giả Nguyễn Gia Quý, ta có thể xem công tác quản

lý giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành

là tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý, nhằm đưa hoạt động giáo

dục của nhà trường tới mục tiêu đã định là phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học

sinh tích cực”, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ

thống. Quản lý việc giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm

pháp luật của ngành được vận dụng bốn chức năng: lập kế hoạch tập huấn, phổ biến văn bản

quy phạm pháp luật của ngành; tổ chức triển khai kế hoạch, chỉ đạo thực hiện kế hoạch,

kiểm tra – đánh giá công tác giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật có áp dụng thường

xuyên văn bản quy phạm pháp luật của ngành để thực hiện các nhiệm vụ công tác của mình.

a. Kế hoạch hóa công tác tập huấn, phổ biến văn bản quy phạm pháp luật của

ngành trong năm học

Nội dung kế hoạch hóa công tác tập huấn, phổ biến văn bản quy phạm pháp luật của

ngành (Thông tư 08...) phụ thuộc vào mục tiêu của công tác giáo dục của nhà trường trong

năm học và các nhiệm vụ phải thực hiện để đạt mục tiêu đó. Để xác định nội dung kế hoạch

tập huấn, phổ biến văn bản quy phạm pháp luật của ngành cần căn cứ vào kế hoạch tổng thể

và nhiệm vụ cụ thể công tác giáo dục của nhà trường trong năm học đó. Kế hoạch tác tập

huấn, phổ biến văn bản quy phạm pháp luật của ngành cần được cụ thể hóa thành kế hoạch

tháng hoặc học kỳ để nếu có giáo viên mới chuyển về trường công tác thì sẽ được biết các

văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời nhắc nhở giáo viên đã biết văn bản phải tiến hành

xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật theo đúng quy định của ngành.

Có thể xây dựng kế hoạch theo cấu trúc sau:

+ Tình hình nhà trường đầu năm học

+ Nội dung hoạt động và những biện pháp chính:

o Xây dựng đội ngũ tập huấn pháp luật o Xây dựng môi trường pháp luật o Công tác dự tập huấn, tổ chức tập huấn cho giáo viên o Công tác tổ chức tập huấn cho học sinh o Công tác giám sát o Công tác kiểm tra – đánh giá o Cải tiến tổ chức quản lý

- Khảo sát mức độ thực hiện công tác lập kế hoạch của Ban giám hiệu để quản lý

việc giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của

ngành, kết quả thể hiện mức độ dự tập huấn ở bảng 2.14

Bảng 2.14 Mức độ dự tập huấn của CBQL

Mức độ thực hiện Tần số Tỉ lệ %

14 40.0 Tốt

17 48.6 Khá

1 2.9 Trung bình

2 5.7 Yếu

1 2.9 Kém

Phần lớn CBQL lên kế hoạch dự tập huấn của Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức dành

cho CBQL được thực hiện ở mức khá trở lên. Cụ thể có 88,6% CBQL đánh giá công tác dự

tập huấn được thực hiện khá hoặc tốt. Trong đó, mức tốt được CBQL lựa chọn với tỉ lệ là

40%. Tuy nhiên, vẫn có số ít CBQL cho là công tác dự tập huấn chỉ đạt mức trung bình

(2,9%). Đồng thời cũng còn có một bộ phận CBQL cho rằng công tác dự tập huấn chỉ đạt ở

mức độ yếu, chiếm tỉ lệ 5,7%, thậm chí có 2,9% cho là đạt mức kém.

Để giải thích cho điều này, chúng tôi tìm hiểu CBQL để xem có gặp khó khăn gì về

việc dự tập huấn hay không. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân, chúng tôi thấy có hai l ý do

khiến mức độ thực hiện việc dự tập huấn chưa cao là:

+ L ý do đầu tiên là một số CBQL mới được bổ nhiệm nên chưa dự tập huấn

dành cho CBQL về công tác quản l ý giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn

bản quy phạm pháp luật của ngành.

+ Có thể nói l ý do thứ hai đáng lo ngại khi Hiệu trưởng các trường THPT ở

Việt Nam đang là người đảm nhiệm quá nhiều “vai”, quán xuyến ít nhất bốn công việc: từ

chuyên môn, quản lý nhân sự, cơ sở vật chất và tài chính, thậm chí thầy cô vẫn phải đứng

lớp ít nhất hai tiết học mỗi tuần theo quy định. Vì vậy mà họ không còn thời gian để dự tập

huấn, và cũng không thể lên kế hoạch dự tập huấn khi mà thời điểm tổ chức do cấp trên

quyết định. Mặt khác, CBQL các trường phổ thông hiện nay hầu hết đều xuất thân từ giáo

viên giỏi chuyên môn, có phẩm chất đạo đức nhưng đa số chưa qua đào tạo bài bản về năng

lực, kỹ năng quản lý mà kiến thức quản lý thường chỉ được được bồi dưỡng từ 2 đến 3

tháng. Thực tế này khiến CBQL các trường phổ thông gặp không ít khó khăn khi điều hành

công việc. Vì vậy không ít trường hợp, khi có trường hợp học sinh vi phạm kỷ luật thì

CBQL mới mở văn bản ra nghiên cứu hướng xử l ý chứ không hiểu được tầm quan trọng

của văn bản quy phạm pháp luật để dự tập huấn trước.

- Xét về việc tổ chức cho giáo viên được nghe tập huấn, phổ biến văn bản quy phạm

pháp luật của ngành (Thông tư 08...) trong xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật để giáo viên có

hướng giải quyết phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành, chúng tôi khảo sát với kết

quả thể hiện ở bảng 2.15.

Có khá nhiều CBQL cho là mức độ khi thực hiện công tác tập huấn cho giáo viên

được quan tâm, nên chiếm tỉ lệ 94,3% ở mức độ từ khá trở lên. Chính vì chủ động được thời

gian nên việc lập kế hoạch cho giáo viên được tập huấn, phổ biến văn bản quy phạm pháp

luật của ngành ở mức khá tới 65,7% và làm tốt chiếm 28,6%.

Bảng 2.15 Mức độ tổ chức tập huấn cho giáo viên trong trường

Mức độ thực hiện Tần số Tỉ lệ %

10 28.6 Tốt

23 65.7 Khá

2 5.7 Trung bình

Tỉ lệ này cũng phù hợp với mức độ phổ biến, nghiên cứu đầy đủ các quy định của

TT08 để áp dụng khi xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật thể hiện ở bảng 2.3. Việc tổ chức tập

huấn, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật của ngành thường được CBQL tổ chức đầu

năm học, thậm chí một số trường tổ chức đầu mỗi học kỳ. Tuy nhiên, bên cạnh những số

liệu khả quan trên thì vẫn còn 5,7% CBQL thực hiện công tác này ở mức độ trung bình,

nguyên nhân là do một số CBQL thấy văn bản TT08 ra đời quá lâu nên chủ quan cho rằng

giáo viên đã được tập huấn. Thế nhưng đợt mỗi tập huấn tổ chức cách nhau vài năm, vì vậy

một số giáo viên giảng dạy lâu năm ở trường thì có thể đã quên văn bản, số giáo viên khác

mới chuyển trường về thì không được biết vì vậy giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật

theo kinh nghiệm bản thân với tỉ lệ không nhỏ chiếm 32,9% (xem bảng 2.6).

Ví dụ có giáo viên ra trường tháng 9/2007 về nhận nhiệm sở ở trường THPT Nguyễn

Trãi nhưng khi được khảo sát đã hỏi lại “Nội dung TT08 là như thế nào?” Nguyên nhân là

trường đã tổ chức mời báo cáo viên là Thanh tra Sở về tập huấn văn bản quy phạm pháp

luật của ngành cho giáo viên vào đầu năm học 2006-2007, thế nhưng từ đó đến nay do

trường xây dựng mới khu Hành chính nên không có hội trường để tổ chức tập huấn lại nên

những giáo viên trẻ về sau năm học đó đa số không biết về văn bản quy phạm pháp luật của

ngành, mà trong trường Đại học Sư phạm đào tạo giáo viên cũng không hề đưa nội dung xử

l ý học sinh vi phạm kỷ luật thành nội dung giảng dạy để sinh viên theo ngành nắm rõ vấn đề

này ngay từ khi là sinh viên sư phạm.

b.Tổ chức thực hiện các biện pháp để quản l ý giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ

luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành

- Tổ chức cơ cấu: xây dựng cấu trúc quản lý công tác giáo viên xử l ý học sinh vi

phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành hoặc bộ máy quản lý công

tác xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành bao

gồm phân chia thành các bộ phận khác nhau và xác định nhiệm vụ cho từng bộ phận.

Trong quá trình xây dựng cơ cấu tổ chức cần phải xác định những hoạt động quan

trọng, cần thiết để đạt được mục đích của công tác quản l ý giáo viên xử l ý học sinh vi phạm

kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành.

Cần phải căn cứ vào số lượng giáo viên, thời gian làm việc, chức năng nhiệm vụ, đối

tượng học sinh mà giao cho khối trưởng chủ nhiệm triển khai ở từng nhóm nhỏ chủ nhiệm

(nhóm chủ nhiệm chia theo khối lớp).

- Tổ chức quá trình: thiết kế các biện pháp quản lý công tác giáo viên xử l ý học

sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành làm cho cơ cấu quản

lý được xây dựng có thể vận hành được trong thực tế thông qua việc xây dựng các biện

pháp, nội quy, quy chế trong hợp tác nội bộ; tạo mối liên hệ giữa các bộ phận trong quá

trình thực hiện kế hoạch của đơn vị.

Cần xây dựng một quá trình phối hợp giữa các hành động của các bộ phận trong cơ

cấu tổ chức nhằm đạt được mục tiêu “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

Việc này có mục đích phân chia quyền lực và quy trình thực hiện công tác quản l ý giáo viên

xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành.

- Tổ chức nhân sự: xác định số lượng giáo viên chủ nhiệm và giao nhiệm vụ cho ba

khối trưởng chủ nhiệm cùng Phó hiệu trưởng phụ trách công tác học sinh triển khai, chỉ đạo,

giám sát, kiểm tra việc xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật của các giáo viên trong nhà trường.

Tìm hiểu mức độ thực hiện công tác tổ chức của Ban giám hiệu để quản lý công tác

công tác giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của

ngành, việc đầu tiên là chúng tôi khảo sát biện pháp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho giáo

viên nơi công cộng, kết quả được thể hiện ở bảng 2.16.

Bảng 2.16 Mức độ bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho những giáo viên qua máy

tính chung ở thư viện trường.

Mức độ áp dụng

Tần số

Tỉ lệ %

7

20.0

12

34.3

Rất thường xuyên

Thường xuyên

9

25.7

Thỉnh thoảng

6

17.1

Không

1

2.9

Hoàn toàn không

Bảng 2.16 cho thấy phần lớn CBQL cho là công tác tổ chức của CBQL bằng biện

pháp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho những giáo viên quan tâm qua máy tính chung ở

thư viện trường được thực hiện ở mức “Thường xuyên” trở lên cao với tỉ lệ 54,3%. Cụ thể

có 34,3% CBQL đã đánh giá mức độ tổ chức được thực hiện ở mức độ “thường xuyên” và

20% CBQL cho rằng mức độ “rất thường xuyên” áp dụng biện pháp này để phổ biến kiến

thức pháp luật cho giáo viên của trường mình. Có thể nói đây là một biện pháp hữu hiệu để

giáo viên luôn nắm được các quy định nói chung và các văn bản quy phạm pháp luật về xử

l ý học sinh vi phạm kỷ luật nói riêng.

Việc phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật thông qua máy tính chung ở thư viện

trường lại khó thành công ở các trường có đông giáo viên đứng tuổi như THPT Nguyễn Thị

Diệu, THPT Nguyễn Chí Thanh... vì phần lớn giáo viên đứng tuổi ngại tiếp xúc với máy

tính, đặc biệt là máy tính dùng chung trong thư viện trường do kiến thức tin học còn hạn chế

mà máy dùng chung dễ bị nhiễm virut, nếu bị sự cố tin học các giáo viên này không giải

quyết tốt...Vì thế mà có 25,7% CBQL chỉ áp dụng biện pháp này ở mức độ “Thỉnh thoảng”.

Thậm chí có 20% CBQL không áp dụng biện pháp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho

những giáo viên quan tâm qua máy tính chung ở thư viện trường để quản lý công tác công

tác giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của

ngành.

Ở biện pháp họp triển khai công tác xử lý học sinh vi phạm đúng văn bản quy phạm

pháp luật vào kỳ họp Hội đồng sư phạm đầu năm học, kết quả khảo sát thể hiện ở bảng 2.17

như sau:

Bảng 2.17 Biện pháp họp triển khai công tác xử lý HS vi phạm vào kỳ họp Hội

đồng sư phạm đầu năm học

Mức độ áp dụng

Tần số

Tỉ lệ %

10

28.6

Rất thường xuyên

21

60.0

Thường xuyên

2

5.7

Thỉnh thoảng

2

5.7

Không

0

0

Hoàn toàn không

Kết quả khảo sát cho thấy, trên cho thấy phần lớn CBQL nhận xét là công tác tổ chức

của CBQL bằng biện pháp họp triển khai công tác xử lý học sinh vi phạm vào kỳ họp Hội

đồng sư phạm đầu năm học được nhà trường thực hiện ở mức thường xuyên trở lên rất cao

với tỉ lệ 88,6%. Trong đó, có 60% CBQL đã đánh giá mức độ tổ chức được thực hiện ở mức

độ “thường xuyên” và 28,6% CBQL cho rằng ở mức độ “rất thường xuyên” áp dụng biện

pháp này; do buổi họp Hội đồng sư phạm đầu năm học rất quan trọng. Trong buổi họp này,

Ban giám hiệu nhà trường tóm tắt về những thành tích đã đạt được, phân tích những ưu

khuyết điểm, đề ra những phương hướng cho thầy và trò năm học mới như nhắc nhở giáo

viên luôn phải tự làm mới mình, tìm tòi, đổi mới phương pháp giảng dạy để đạt hiệu quả

cao nhất, sao cho phù hợp với đối tượng học sinh mới nhập học... Khi triển khai công tác xử

l ý học sinh sinh vi phạm sao cho đúng quy định sẽ giúp ngay từ đầu tránh được những sai

lầm của giáo viên đứng lớp như quá khắt khe với học sinh, tránh những đánh giá chưa sát

với năng lực và thực tế học sinh làm ảnh hưởng, thiệt thòi cho học sinh.

Tuy nhiên, vẫn có một số CBQL cho là biện pháp họp triển khai công tác xử lý HS vi

phạm vào kỳ họp Hội đồng sư phạm đầu năm học chỉ đạt mức “thỉnh thoảng”, chiếm tỉ lệ

5,7%. Đồng thời cũng có một bộ phận CBQL cho rằng “Không” tổ chức biện pháp này, với

tỉ lệ 5,7%. Đây là con số khiến chúng ta suy nghĩ về việc thực hiện biện pháp phổ biến trong

quản lý công tác xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật tại các trường THPT ở thành phố Hồ Chí

Minh.

Vậy đa số CBQL chọn biện pháp nào để việc quản l ý công tác xử lý học sinh vi

phạm tại trường của họ được hiệu quả hơn? Khảo sát ở biện pháp kế tiếp là tổ chức họp

triển khai công tác xử lý học sinh vi phạm vào kỳ họp dành riêng cho GVCN có kết quả thể

hiện ở bảng 2.18

Bảng 2.18 Biện pháp tổ chức họp triển khai công tác xử lý học sinh vi phạm vào

kỳ họp dành riêng cho GVCN

Mức độ áp dụng

Tần số

Tỉ lệ %

Rất thường xuyên 9 25.7

23 65.7 Thường xuyên

0

0

3 8.6 Thỉnh thoảng

Không

0

0

Hoàn toàn không

Với 91,4% CBQL chọn mức độ áp dụng từ “thường xuyên” trở lên ở biện pháp tổ

chức họp triển khai công tác xử lý học sinh vi phạm vào kỳ họp dành riêng cho GVCN cho

thấy: đây là biện pháp được CBQL các trường quan tâm chọn để lồng ghép triển khai các

văn bản quy phạm pháp luật giúp giáo viên chủ nhiệm xử lý học sinh vi phạm đúng quy

định.

Đối tượng giáo viên chủ nhiệm được CBQL quan tâm nhiều vì giáo viên chủ nhiệm

có một vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng, cũng như hình thành nhân cách cho

học sinh. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm khi tham gia công tác giáo dục, không chỉ là nắm

được những chỉ số của quản lý hành chính đơn thuần như tên, tuổi, số lượng, hoàn cảnh gia

đình của học sinh, trình độ học sinh về học lực, hạnh kiểm mà còn phải dự báo xu hướng tổ

chức giáo dục, dạy học phù hợp điều kiện khả năng của từng khối lớp, từng học sinh... Còn

đối với học sinh thì khi bước vào năm học mới háo hức đầu tiên của các em là được gặp

giáo viên chủ nhiệm. Người chủ nhiệm lớp sẽ như thế nào: dữ, hiền, khó chịu, có công

bằng, có lo cho lớp ... là những dấu hỏi trong các em. Đó cũng chính là những điều mà

người làm công tác chủ nhiệm phải quan tâm.

Để làm công tác chủ nhiệm thành công không phải chỉ tính kết quả học tập mà đó

còn là sự thông cảm chia sẻ, sự động viên không ngừng trong học tập, trong cuộc sống của

các em. Trong đó có cả những giọt nước mắt, những nụ cười và đôi khi có cả những sự hiểu

lầm mà qua thời gian mới giải đáp được như Bác từng nói : "Vì lợi ích mười năm trồng cây.

Vì lợi ích trăm năm trồng người". Làm chủ nhiệm phải có tâm, có lòng yêu nghề, có lòng

nhân ái, chịu khó... thì mới có thể tương đối hoàn thành nhiệm vụ. Cuộc sống cuả con người

ngày nay có nhiều những yêu cầu nhưng yêu cầu cơ bản của học sinh là quan tâm là giáo

viên chủ nhiệm hiểu các em, đối xử công bằng... Muốn vậy không phải người giáo viên chỉ

có mặt trong lớp, trong giờ học chỉ nói chuyện học, chuyện trường lớp...mà người giáo viên

còn biết chia chia sẻ những thông tin khác nữa. Phải làm sao cho các em tin yêu, kể cho

nghe những chuyện khác với chuyện học của các em để qua đó giáo viên chủ nhiệm có thể

nắm bắt được những điều đang diễn biến trong các em. Sẽ rất khó quản lí lớp nếu giáo viên

chủ nhiệm không có sự đồng tình ủng hộ của học sinh.

Bên cạnh đó, số lượng giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp luôn chiếm số đông

trong trường. Sau khi khảo sát 228 giáo viên tại 04 trường THPT thuộc 03 khu vực (nội

thành, ngoại thành và vùng ven) ở thành phố Hồ Chí Minh, kết quả ở biểu đồ 2.3 cho thấy

số lượng giáo viên làm chủ nhiệm lớp luôn chiếm tỉ lệ trên 50% ở cả ba khu vực. Cụ thể:

• Ở khu vực nội thành: số giáo viên là GVCN chiếm 75%

• Ở khu vực ngoại thành: số giáo viên là GVCN chiếm 55,7%

• Ở khu vực vùng ven: số giáo viên là GVCN chiếm 66,7%

Biểu đồ 2.3 Số lượng giáo viên là GVCN

Mặt khác, chính vì tính chất, vai trò đặc biệt quan trọng của người GVCN nên hàng

tuần, cuối mỗi học kỳ, Ban giám hiệu đều cùng khối trưởng chủ nhiệm tổ chức họp GVCN.

Do đó, việc kết hợp trong các buổi họp công tác chủ nhiệm để triển khai công tác xử l ý học

sinh vi phạm kỷ luật là hợp l ý.

Vì những nguyên nhân trên mà CBQL các trường áp dụng thường xuyên biện pháp

tổ chức họp triển khai công tác xử lý học sinh vi phạm vào kỳ họp dành riêng cho GVCN.

Tuy nhiên, vẫn có một số CBQL cho là biện pháp họp triển khai công tác xử lý HS vi

phạm vào kỳ họp dành riêng cho GVCN chỉ đạt mức “thỉnh thoảng”, chiếm tỉ lệ 8,6%. L ý

giải cho việc áp dụng biện pháp này để quản lý công tác xử lý học sinh vi phạm kỷ luật tại

trường mình chỉ ở mức độ thỉnh thoảng, một số CBQL cho rằng: công tác của giáo viên rất

nhiều, trong lúc GVCN vừa làm công tác chủ nhiệm vừa giảng dạy nên không thể thực hiện

tốt nhất nhiều yêu cầu đòi hỏi. Bên cạnh đó, công tác giáo dục học sinh giữa các GVCN vẫn

chưa thật sự đều tay khi có những giáo viên kiên trì, tâm huyết với học sinh nhưng cũng còn

có những GVCN làm việc đối phó, chưa tâm huyết, thiếu linh hoạt trong công tác chủ

nhiệm.

Tương tự như vậy, ở biện pháp, “Giao cho Phó hiệu trưởng phụ trách công tác học

sinh chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc xử lý học sinh vi phạm”, được CBQL quan tâm thực

hiện thường xuyên nhất với 94,3% thể hiện ở bảng 2.19

Bảng 2.19 Biện pháp giao Phó hiệu trưởng phụ trách công tác học sinh chỉ đạo, giám

sát, kiểm tra việc xử lý học sinh vi phạm

Mức độ áp dụng

Tần số

Tỉ lệ %

Rất thường xuyên 14 40.0

19 54.3 Thường xuyên

1 2.9 Thỉnh thoảng

1 2.9 Không

0

0

Hoàn toàn không

Các Phó Hiệu trưởng nói chung, có nhiệm vụ giúp Hiệu trưởng điều hành và theo dõi

một số công việc do Hiệu trưởng phân công và chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng, trước

pháp luật về công việc được Hiệu trưởng phân công phụ trách đó.

Như vậy Phó hiệu trưởng theo nhiệm vụ được phân công là phụ trách công tác liên

quan tới học sinh ( ở một số trường thường được gọi là Hiệu phó Học sinh vụ, Hiệu phó kỷ

luật…), sẽ giúp Hiệu trưởng tổ chức triển khai từng phần việc cụ thể liên quan tới việc phổ

biến các văn bản quy phạm pháp luật của ngành cho cả giáo viên và học sinh, đồng thời

giám sát, kiểm tra và đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch, đề xuất những giải pháp để thực

hiện các biện pháp quản l ý công tác xử lý học sinh vi phạm tại trường sao cho đúng quy

định, góp phần triển khai thành công “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

Số liệu một lần nữa được khẳng định ở CBQL áp dụng ở mức độ “Rất thường xuyên” là

40% và ở mức độ “Thường xuyên” là 54,3% . Điều này có thể khẳng định: biện pháp này là

quan trọng hàng đầu và được hầu hết CBQL quan tâm thực hiện.

Với tỉ lệ 2,9% CBQL chỉ áp dụng biện pháp “Giao cho Phó hiệu trưởng phụ trách

công tác học sinh chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc xử lý học sinh vi phạm” ở mức “Thỉnh

thoảng” và là 2,9% CBQL còn cho rằng “Không thường xuyên” áp dụng biện pháp trên vì

theo một trong những nội dung của Thông tư ban hành Quy định về chế độ làm việc đối với

giáo viên phổ thông vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Thông tư mới này bắt đầu

có hiệu lực từ ngày 06/12/2009. Theo đó, Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng trường phổ thông có

nhiệm vụ giảng dạy một số tiết để nắm được nội dung, chương trình giáo dục và tình hình

học tập của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý. Thông tư quy định

Hiệu trưởng dạy 2 tiết/tuần, Phó hiệu trưởng dạy 4 tiết/tuần. Bên cạnh đó, công việc chính

của Phó hiệu trưởng rất nhiều khi phải tham mưu cho Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch, điều

động con người, giải quyết tình huống quản lý, giải quyết tình huống sư phạm; khi được ủy

quyền trực tiếp điều hành cuộc họp; khi phát biểu trước tập thể giáo viên, học sinh… Vì

nhận thấy Phó hiệu trưởng đã quá nhiều việc hoặc ở một số trường THPT không có Phó

hiệu trưởng phụ trách riêng công tác học sinh mà giao một người kiêm nhiệm nhiều nhiệm

vụ (như thêm nhiệm vụ quản l ý cơ sở vật chất nhà trường…) nên biện pháp “Giao cho Phó

hiệu trưởng phụ trách công tác học sinh chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc xử lý học sinh vi

phạm” chỉ được thực hiện ở mức độ thỉnh thoảng.

c. Chỉ đạo thực hiện các biện pháp để quản l ý giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật

phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành

Hiệu trưởng cần thường xuyên bám sát, nắm chắc tình hình thực hiện công tác quản

l ý giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật phù hợp văn bản quy phạm pháp luật của ngành,

phân tích các vấn đề thực tiễn một cách nhanh chóng để đưa ra những quyết định đúng đắn.

Muốn như vậy, cần có biện pháp thu thập thông tin một cách chính xác, biết phân tích và xử

lý các nguồn thông tin và đưa ra quyết định đúng. Ở đây, hiệu trưởng có thể chỉ đạo ở các

vấn đề sau:

- Chỉ đạo Phó hiệu trưởng dự tập huấn và lên kế hoạch tập huấn thường xuyên các văn

bản quy phạm pháp luật của ngành cho giáo viên.

- Chỉ đạo Phó hiệu trưởng phụ trách công tác học sinh phối hợp Khối trưởng chủ

nhiệm xây dựng tiêu chí đánh giá công tác chủ nhiệm của giáo viên có lồng ghép công tác

xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật đúng quy định.

- Chỉ đạo Ban hoạt động Ngoài giờ lên lớp hoặc Phó hiệu trưởng tổ chức các buổi sinh

hoạt dưới cờ, sinh hoạt ngoại khóa nhằm nâng cao nhận thức của học sinh về tầm quan

trọng của chấp hành nội quy nhà trường nhằm tránh cho học sinh phải bị xử l ý kỷ luật.

- Chỉ đạo giáo viên toàn trường xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật đúng theo quy định

TT08.

Để giải thích cho điều này, chúng tôi khảo sát một số vấn đề. Đầu tiên, chúng tôi khảo

sát mức độ CBQL thực hiện công tác chỉ đạo giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật đúng

theo quy định TT08 thể hiện ở bảng 2.20

Bảng 2.20 CBQL chỉ đạo GV xử lý HS vi phạm theo quy định TT08

Mức độ thực hiện

Tần số

Tỉ lệ %

Tốt 16 45.7

Khá 19 54.3

Như kết quả khảo sát thể hiện, 100% CBQL thực hiện công tác chỉ đạo giáo viên xử l ý

học sinh vi phạm kỷ luật đúng theo quy định TT08 ở mức “Khá” trở lên. Trong đó với tỉ lệ

45,7% đánh giá ở mức độ “Tốt” cho thấy một điều quan trọng giúp công tác GVCN của

ngành Giáo dục & Đào tạo thành phố thu được kết quả phải kể đến công tác lãnh đạo, chỉ

đạo của Ban Giám hiệu các trường phổ thông là khá tốt. Khi phân công GVCN lớp, CBQL

các trường đã lựa chọn những người có trình độ chuyên môn vững vàng, tinh thần trách

nhiệm, nhiệt tình cao, có kinh nghiệm sống.

Bên cạnh đó, hàng tháng hầu hết các nhà trường bố trí họp bàn và trao đổi kinh nghiệm

với các GVCN để nắm tình hình, đề ra phương pháp thiết thực để giải quyết vướng mắc, từ

đó có nhiều biện pháp hay, hiệu quả, kịp thời khắc phục yếu kém, nâng cao chất lượng giáo

dục học sinh. Đặc biệt, công tác GVCN được đưa vào tiêu chí thi đua của các trường.

Nhiều trường phổ thông mà chúng tôi khảo sát, đã có sự chỉ đạo và quản lý có hiệu quả

công tác GVCN như trường THPT Nguyễn Thượng Hiền, THPT Trần Phú, THPT Nguyễn

Công Trứ...góp phần đưa thành tích giáo dục của các trường trên của thành phố Hồ Chí

Minh lên cao nên có tên trong Top 200 trường phổ thông có điểm thi đại học trung bình cao

nhất nước.

Khảo sát cụ thể mức độ áp dụng biện pháp CBQL “Nhắc nhở giáo viên thực hiện công

tác xử lý học sinh vi phạm theo quy định của TT08”, kết quả ở biểu đồ 2.4:

Biểu đồ 2.4 MỨC ĐỘ ÁP DỤNG

THỈNH THOẢNG 8,6%

THƯỜNG XUYÊN 65,7%

RẤT THƯỜNG XUYÊN 25,7%

Chiếm tỉ lệ cao 65,7% CBQL thường xuyên nhắc nhở giáo viên thực hiện công tác xử

(Cổng thông tin nhà trường). 5TTrang thông tin này chứa thông tin hoạt động chung của nhà

lý học sinh vi phạm theo quy định của TT08 bằng hình thức mới là 5Tsử dụng trang Web

trường (từ cấp tổ chuyên môn, Đoàn thanh niên, Công đoàn, Ban giám hiệu và Chi bộ), lưu

trữ văn bản quy phạm pháp luật các cấp bên cạnh phục vụ tra cứu danh sách, điểm, thời

khóa biểu của giáo viên và học sinh… Song song đó CBQL cho dán các văn bản quy phạm

pháp luật vào bảng Thông báo tại phòng Giáo viên. Đối với các trường có học sinh đầu vào

chưa cao là khó khăn và thử thách rất lớn với các thầy, cô giáo, đặc biệt là GVCN trẻ, chưa

có kinh nghiệm. CBQL nhắc nhở giáo viên trong các buổi họp Hội đồng sư phạm hàng

tháng, hàng qu ý... cần kiên trì, nắm bắt tâm tư tình cảm của học sinh lớp phụ trách, tìm

những biện pháp hữu hiệu... để giáo viên giáo dục, thuyết phục các em trở thành con ngoan,

trò giỏi. Bởi mục đích của TT08 với giáo dục là chính chứ không để đến mức xử l ý kỷ luật.

CBQL nhắc nhở, chỉ đạo Phó hiệu trưởng dự tập huấn và lên kế hoạch mời Thanh tra Sở về

tập huấn các văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong xử l ý kỷ luật học sinh vi phạm kỷ

luật cho giáo viên đứng lớp nói chung và GVCN nói riêng.

Kết quả khảo sát cho thấy mức độ áp dụng biện pháp nhắc nhở giáo viên thực hiện

công tác xử lý học sinh vi phạm nói chung được thể hiện ở biểu đồ 2.5:

Đa số CBQL nhất trí với tỉ lệ 65,7 % ở mức độ “Thường xuyên” và 28,6% mức độ

“Rất thường xuyên” ở biện pháp nhắc nhở các thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm nỗ lực

khắc phục những hạn chế, yếu kém, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao bằng cách hạn chế tối

đa việc phải xử l ý kỷ luật học sinh vi phạm kỷ luật, nếu có học sinh vi phạm kỷ luật giáo

viên phải xử l ý thấu tình đạt lý để các em hiểu ra mà không tái phạm hoặc vi phạm ở mức

nghiêm trọng hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, hình thành nhân cách cho học

sinh, giúp các em trở thành những con người vừa có tri thức, vừa có bản lĩnh, lý tưởng, có

phẩm chất đạo đức và nhân cách tốt đẹp – đúng tinh thần của phong trào “Trường học thân

Biểu đồ 2.5 MỨC ĐỘ NHẮC NHỞ GV THỰC HIỆN CÔNG TÁC XỬ LÝ HS VI PHẠM

THỈNH THOẢNG 5,7%

THƯỜNG XUYÊN 65,7%

RẤT THƯỜNG XUYÊN 28,6%

thiện, học sinh tích cực”.

d. Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các biện pháp quản l ý công tác xử lý học sinh vi

phạm kỷ luật

Có thể đề cập đến các bước thực hiện của việc giám sát, kiểm tra - đánh giá thực hiện

các biện pháp quản l ý công tác xử lý học sinh vi phạm kỷ luật như sau:

Trước tiên, Phó hiệu trưởng phụ trách công tác học sinh tự đánh giá về kết quả thực

hiện kế hoạch trong tháng, qu ý, học kỳ; bao gồm những việc đã hoàn thành, việc chưa hoàn

thành – nguyên nhân, số liệu học sinh vi phạm,…từ GVCN, Giám thị, Khối trưởng chủ

nhiệm; các kết quả sau khi xử l ý. Sau đó, Hiệu trưởng tập họp các báo cáo cá nhân, biên bản

họp giao ban để xác định các việc bị trì hoãn, các vấn đề phát sinh và các việc đã hoàn thành

theo tiến độ kế hoạch ban đầu và kết quả xử l ý đạt được trên thực tế…Kế đến, Hiệu trưởng

điều chỉnh các yêu cầu, biện pháp phù hợp cho quản l ý tốt công tác hạn chế và xử lý học

sinh vi phạm kỷ luật, đồng thời điều chỉnh phương án tổ chức thực hiện đối với các kế

hoạch chưa triển khai được do phương án không phù hợp.

Khảo sát yêu cầu CBQL giám sát giáo viên xử lý học sinh vi phạm kỷ luật được thực

hiện ở mức nào, kết quả thể hiện ở bảng 2.21

Bảng 2.21 Mức độ giám sát giáo viên xử lý học sinh vi phạm kỷ luật

Mức độ thực hiện

Tần số

Tỉ lệ %

Tốt 22 62.9

Khá 11 31.4

Trung bình 2 5.7

Mức độ CBQL thực hiện những yêu cầu về giám sát ở mức độ “Tốt” có tỉ lệ rất cao

với 62,9% cho thấy CBQL ý thức cao về yêu cầu giám sát. Cách thông thường nhất là

CBQL cử người đi giám sát các lớp trong giờ học, một số trường gắn máy có thể giám sát

tiết dạy của giáo viên... Tuy nhiên vẫn có 5,7% CBQL cho rằng việc giám sát chỉ thực hiện

Mức độ thực hiện

Tần số

Tỉ lệ %

mứ

c độ

trun

g

bìn

h vì

cho

rằng đây không phải là biện pháp tốt để quản lý hoạt động dạy - học. Việc cử người đi giám

sát tới đâu cũng không thể theo dõi toàn bộ hoạt động trong các lớp học. Thậm chí, việc Ban

giám hiệu cử người đi giám sát vừa mất thời gian, vừa gây ức chế cho giáo viên trong thời

gian giảng dạy.

Do đó, chúng tôi khảo sát mức độ áp dụng biện pháp Kiểm tra, giám sát để quản l ý

công tác xử lý học sinh vi phạm kỷ luật, kết quả cho thấy (xem bảng 2.22): Tỉ lệ (%) ở mức

độ thực hiện “Tốt” hiện cao 54,3%. Đồng thời cũng có một bộ phận khá lớn (94,3%) CBQL

đánh giá từ mức khá trở lên, chứng tỏ CBQL thực hiện yêu cầu kiểm tra, giám sát ở mức tự

giác.

Trong đó, khảo sát biện pháp CBQL kiểm tra, giám sát giáo viên áp dụng TT08

trong xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật có mức độ thể hiện ở bảng 2.23 cho thấy thực tế giữa

các trường vẫn còn chưa thật sự đồng bộ trong việc áp dụng theo văn bản quy phạm pháp

luật của ngành trong xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật.

19

54.3

Tốt

14

40.0

Bả Khá ng

1

2.9

Trung bình 2.2

1

2.9

2 Kém

Mứ

c độ CBQL kiểm tra, đánh giá công tác xử lý học sinh vi phạm

Mức độ thực hiện

Tần số

Tỉ lệ %

6

17.1

Rất thường xuyên

24

68.6

Thường xuyên

4

11.4

Thỉnh thoảng

1

2.9

Hoàn toàn không

Bảng 2.23 Mức độ CBQL kiểm tra, giám sát GV áp dụng TT08

Với tỉ lệ khá cao là 85,7% CBQL cho rằng mức độ kiểm tra, giám sát giáo viên áp

dụng TT08 từ mức “Thường xuyên” trở lên. Ở mức độ “Thỉnh thoảng” tỉ lệ được CBQL

chọn là 11,4%, thậm chí vẫn có 2,9% CBQL cho rằng “Hoàn toàn không” kiểm tra, giám sát

giáo viên áp dụng TT08 trong xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật.

Số liệu trên cho thấy công tác kiểm tra, giám sát giáo viên áp dụng TT08 chưa được

diễn ra đồng bộ ở CBQL. Mặc dù phần lớn CBQL ở mức thường xuyên, thậm chí có 17,1%

cho rằng rất thường xuyên kiểm tra, giám sát giáo viên áp dụng TT08 nhưng vẫn còn không

ít CBQL (14,3%) chỉ thỉnh thoảng hoặc hoàn toàn không có sự kiểm tra, giám sát giáo viên

áp dụng TT08 trong quá trình thực hiện công tác giáo dục tại trường họ đang quản l ý.

Sau khi khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng tuy CBQL các trường có quan tâm phổ

biến các văn bản quy phạm pháp luật của ngành nói chung và TT08 nói riêng thường xuyên

đến giáo viên (88,6% giáo viên – xem bảng 2.17 và 91,4% giáo viên chủ nhiệm – xem bảng

2.18) nhưng công tác kiểm tra, giám sát giáo viên có áp dụng văn bản quy phạm pháp luật

của ngành trong khi tiến hành xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật hay không thì lại chưa thật sự

tốt, nhất là việc kiểm tra, giám sát giáo viên có áp dụng TT08 khi tiến hành xử l ý học sinh vi

phạm kỷ luật. Đây là một trong những nguyên nhân khiến một bộ phận giáo viên tiến hành

xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật không theo quy định. Quy định đã được nghiên cứu, đặt ra

với mục đích răn đe, giáo dục học sinh hơn là phải trừng trị nhưng nếu chúng ta giám sát và

xử lý vi phạm không chặt chẽ sẽ phát sinh tiêu cực. Những hành vi như dùng thước đánh

vào tay học sinh... vẫn thường được bỏ qua nhưng bỏ qua cái nhỏ thì tính chất vụ việc sẽ

ngày càng nghiêm trọng hơn. Do đó, chúng ta phải kiên quyết ngăn chặn ngay từ đầu tất cả

những hiện tượng phi giáo dục. Khi một chuỗi sự kiện xảy ra và tập trung vào vấn đề đạo

đức, trình độ và nghiệp vụ người thầy, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo cũng nên có tiếng

nói. Trên cơ sở đó, thúc đẩy toàn bộ cơ quan quản lý các cấp đẩy mạnh hơn việc thực hiện

nghiêm túc việc quản l ý nhiệm vụ giáo dục của nhà trường sao cho đúng quy định pháp luật,

giúp triển khai thành công “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

2TQuá trình giáo dục, về một phương diện nào đó là quá trình bồi đắp dần cái hay và là

quá trình uốn nắn chỗ lệch lạc. 2T Không một thầy giáo chủ nhiệm nào không muốn lớp mình

luôn êm thấm. Những chuyện như: hôm nay có vài em không chuẩn bị bài, ngày mai có vài

em quên vở bài tập, hay làm việc riêng trong lớp... là khó tránh khỏi. Giáo viên cần tránh

một cái nhìn lý tưởng hóa đối với học sinh ở mỗi lớp học. Giáo viên và đặc biệt là giáo viên

chủ nhiệm cần hiểu rằng những sự bất thường ở mỗi người, sự không đồng đều ở mỗi lớp,

và rộng hơn nữa, có thể xem như là một điều tất yếu. Cái đáng lo chăng là sự không đồng

đều đó quá lớn, chuyện bất thường xảy ra nhiều đến thành bình thường. Suy nghĩ như vậy sẽ

tránh được nôn nóng, giữ được sự bình tĩnh trước lớp và trước học sinh có vi phạm, có sai

sót. Trước khi tỏ rõ thái độ và tiến hành giải quyết những sai sót của cá nhân cũng như tập

thể học sinh, người thầy có kinh nghiệm, thường nhìn nhận, phân tích những sai sót đó từ

góc độ giáo dục. Cách nhìn từ góc độ giáo dục, về nhiều điểm không giống với cách nhìn từ

góc độ khác. Nếu người thường chỉ nhằm mục đích đánh giá thì người nhìn ở góc độ giáo

dục không dừng ở đánh giá, mà ở mức độ cao hơn đó là để uốn nắn giáo dục.

Mục đích khác nhau, cách nhìn khác nhau, tất yếu sẽ đưa đến những cách làm và kết

quả khác nhau. Cũng là một một học sinh có tiếng kêu cất lên bất ngờ giữa lớp học, người

thầy cố gắng để phân biệt đâu là sự xem thường kỷ luật, đâu là do năng lực kiềm chế kém.

Cũng là học sinh không nói sự thật, nhưng trường hợp nào là dối trá, trường hợp nào là do

sợ hãi. Cùng tham gia vào một vụ xô xát, nhưng trường hợp nào là gây gỗ, côn đồ, trường

hợp nào là hành động bảo vệ bạn bè. Cũng là đi học muộn nhưng có em thiếu nề nếp, có em

là do dẫu cố gắng hết sức mà không thể khác được...

Theo 04 chức năng quản l ý, kết quả khảo sát cho thấy:

- Việc lập kế hoạch, CBQL chưa chủ động thực hiện tốt việc dự tập huấn nhưng có

chủ động hơn trong lên kế hoạch về phương pháp tiến hành tập huấn cho giáo viên các văn

bản quy phạm pháp luật của ngành; công tác hoạch định nhân sự, dự tập huấn, trang bị, bồi

dưỡng kiến thức, phương pháp, phương tiện chưa được chú trọng; chưa có lên kế hoạch

kiểm tra – đánh giá việc thực hiện.

- Việc tổ chức, rất ít CBQL xác định rõ cần thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp

luật cho những giáo viên quan tâm qua máy tính chung ở thư viện trường (54,3%). Hầu hết

CBQL tập trung vào tổ chức triển khai thường xuyên các biện pháp để quản l ý công tác xử

lý học sinh vi phạm kỷ luật tại các buổi họp của nhà trường như: họp Hội đồng sư phạm đầu

năm học (88,6%), họp dành riêng cho GVCN (91,4%). Đặc biệt, các trường đều chú trọng

tới vai trò của Phó hiệu trưởng phụ trách công tác học sinh của nhà trường (94,3%). Trong

đó các trường thường tập trung triển khai cho giáo viên vào thời điểm đầu năm học và đầu

học kỳ II.

- Việc chỉ đạo, đa phần CBQL thực hiện tốt việc nhắc nhở giáo viên thực hiện công

tác xử lý học sinh vi phạm kỷ luật đúng quy định của văn bản quy phạm pháp luật của

ngành khi tỉ lệ trên 90%.

- Việc kiểm tra, giám sát, đánh giá, số CBQL thực hiện công tác kiểm tra, giám sát

giáo viên có áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong khi tiến hành xử l ý học

sinh vi phạm kỷ luật hay không thì lại chưa thật sự tốt, nhất là việc kiểm tra, giám sát giáo

viên có áp dụng TT08 khi tiến hành xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật.

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VIỆC XỬ LÝ HỌC SINH VI PHẠM KỶ LUẬT TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Một số giải pháp cấp bách quản lý việc xử lý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số trường THPT thành phố Hồ Chí Minh

Giải pháp 1: Tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến sự cần thiết và tầm quan

trọng của văn bản quy phạm pháp luật của ngành đến ba đối tượng: học sinh, giáo

viên và cha mẹ học sinh

a. Ý nghĩa

- Tạo được sự thống nhất giữa gia đình và nhà trường về việc giáo dục đạo đức cho

học sinh.

- Tránh được những mâu thuẫn về cách giáo dục học sinh giữa gia đình và nhà

trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và rèn luyện nhân cách ở học sinh.

b. Yêu cầu

- Sở Giáo dục và Đào tạo cần chỉ đạo các trường đề ra kế hoạch tổ chức các hoạt

động đa dạng nhằm phổ biến văn bản quy phạm pháp luật của ngành với cả ba đối tượng:

học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh.

- Với đối tượng là giáo viên, Sở Giáo dục và Đào tạo cần hỗ trợ các trường người tập

- Với đối tượng là học sinh và cha mẹ học sinh, các trường phổ biến các văn bản quy

huấn triển khai lại văn bản quy định công tác xử l ý học sinh vi phạm.

phạm pháp luật của ngành về xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật mỗi đầu năm học, nhắc lại khi

có vụ việc xảy ra…để học sinh ghi nhớ những điều không được phép làm để không phải bị

xử l ý kỷ luật. Đồng thời, phổ biến cho cha mẹ học sinh nắm để họ có thể phản ánh khi nhận

thấy nhà trường ra quyết định kỷ luật chưa đúng quy định. Hiệu quả sẽ rất tốt nếu đó là phản

ánh công tâm và mang tính xây dựng, phản ánh để dư luận biết chứ không nhằm vùi dập cơ

sở giáo dục hoặc giáo viên nào đó. Với một tinh thần, tình thương như vậy, xã hội sẽ tạo dư

luận rất tốt để giúp giáo viên tỉnh táo hơn trong cách hành xử có thể là vô tình nhưng cũng

có thể là hữu ý của mình. Giáo viên thấy mình bị xã hội kiểm soát sẽ càng phấn đấu để

không vi phạm những điều trái quy định.

Giải pháp 2: 5TGiáo viên phải là trung tâm của đổi mới5T: Giáo viên cần phải biết

lắng nghe học sinh trình bày.

a. Ý nghĩa:

Khi người thầy chăm chú lắng nghe, học trò ít khi dám bày đặt. . . nếu các thầy, cô

giáo không hiểu được tẩm trạng của học sinh khi bị mắc khuyết điểm, thì hay cáu gắt. Việc

cáu gắt có thể sẽ làm học sinh sợ mà “chối cho qua”. Đó là kinh nghiệm rất có ích cho

những người làm công tác giáo dục.

b. Yêu cầu:

- Khi có những vụ việc mà cả tập thể học sinh mắc sai lầm, bao giờ lớp cũng hồi hộp,

chờ đợi thái độ của người thầy. Sự thả lỏng của thầy chủ nhiệm sẽ làm lớp hư hỏng. Cách

giải quyết không đúng (chặt chẽ quá đáng, không nhìn rõ thật giả, đúng sai) sẽ làm học sinh

cả lớp kết lại với nhau đứng về một phía, đặt thầy sang phía khác. Cán bộ lớp lúc ấy sợ thầy

vậy giáo viên chủ nhiệm còn cần biết động viên, biết vận động thuyết phục.

mà khi làm việc, sự ủng hộ với thầy, sự nhiệt tình trong công việc có khi không còn nữa. Vì

- Giáo dục học sinh chưa ngoan đòi hỏi phải công phu. Với một số em nào đó cần

phải có sự chờ đợi. Và thường không phải đợi lâu. Khá nhiều em đến nhận sai sót của mình

mà không cần sự đe nẹt của thầy. Vì vậy người thầy phải giữ được lòng tin ở học sinh. Khi

học sinh mắc sai lầm, sau khi phân tích, cắt nghĩa cần tạo ra hoàn cảnh thuận lợi để học sinh

tự bộc lộ.

- Giáo viên cần thận trọng khi xem xét, tìm nguyên nhân, cân nhắc khi chọn cách giải

quyết; cứng rắn về nguyên tắc, mềm mỏng trong thái độ đó là cách giải quyết có hiệu quả

cao trong giáo dục mà giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm cần biết và ghi nhớ.

Giải pháp 3: Nhà trường cần có giáo viên tham vấn tâm l ý cho học sinh

a. Ý nghĩa:

Trước tình trạng “bạo lực học đường” có chiều hướng gia tăng, rất cần thiết phải có

phòng tư vấn tâm lý trong các trường học. Giáo viên giảng dạy không thể có chuyên môn

nghiệp vụ về tâm lý, nếu kiêm nhiệm sẽ khó đạt hiệu quả. Vì vậy, cần thành lập phòng tư

vấn tâm lý có mời chuyên gia tâm lý về làm việc thực hiện tư vấn cho học sinh gặp khó

khăn học đường, khó khăn gia đình, khó khăn tâm lý đơn thuần và những vấn đề giới tính...

b.Yêu cầu:

- Ban giám hiệu ở các trường cần chỉ đạo thành lập bộ phận phụ trách công tác tham

vấn học đường xác định các nội dung, phương tiện cần thiết để bộ phận này trở thành một

hoạt động trợ giúp tâm lý học đường thật sự chuyên nghiệp.

- Nhà trường cần làm tốt công tác tuyên truyền cho học sinh, cha mẹ học sinh và

những người làm công tác giáo dục nhận thức được tính cấp thiết của tâm lý học đường đối

với mỗi trường học, mỗi học sinh. Gieo nhu cầu và kích thích nhu cầu sử dụng tâm lý học

đường để nâng cao chất lượng cuộc sống học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục.

- Ngành Giáo dục và Ðào tạo cần xây dựng chương trình đào tạo những cán bộ làm

công tác tư vấn học đường trong các trường phổ thông một cách chính thức và bài bản để

giúp học sinh có thể tự giải quyết các khó khăn và đạt được kết quả học tập cao nhất. Tăng

cường giao lưu và học hỏi từ thực tế trường học kết hợp với lý thuyết chuyên môn. Nội

dung chương trình tham vấn học đường không chỉ bó hẹp trong khung lý thuyết về tham vấn

mà cần phải được mở rộng, kết hợp với việc hình thành cho học sinh nhiều kỹ năng về học

tập, định hướng nghề nghiệp, phát triển nhân cách. Hình thức tham vấn không chỉ hướng

đến cá nhân mà còn hướng đến toàn thể học sinh để hỗ trợ các em phát triển nhân cách hoàn

thiện.

3.2. Một số giải pháp lâu dài trong quản lý việc xử lý học sinh vi phạm kỷ luật tại một số trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh

Giải pháp 4: Sở Giáo dục và Đào tạo cần nâng cao chất lượng và số lượng

chuyên viên Thanh tra giáo dục

a. Ý nghĩa:

Đội ngũ Thanh tra các cấp (Sở Giáo dục và Đào tạo và phòng Giáo dục quận, huyện)

có khả năng phát hiện những vấn đề chuyên môn cần thiết khi đi thanh tra để từ thực tế đó

xây dựng chuyên đề nâng cao chất lượng đội ngũ cho giáo viên (trong đó có kiến thức pháp

luật) giúp giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật đúng quy định ở các văn bản quy phạm

pháp luật của ngành.

b. Yêu cầu:

Sở Giáo dục và Đào tạo cần nâng cao chất lượng và số lượng chuyên viên Thanh tra

giáo dục để có đủ người tập huấn TT08 cho Ban giám hiệu, giáo viên các trường trên địa

bàn thành phố.

Giải pháp 5: Thanh tra giáo dục của Sở Giáo dục và Đào tạo cần kiến nghị cập

nhật hóa TT08

a. Ý nghĩa:

- TT08 vẫn đang tiếp tục áp dụng nhưng do phổ biến quá lâu (1988) nên dẫn đến nó

không còn phù hợp với tâm sinh l ý học sinh thời đại mới cũng như thực tế xã hội.

- TT08 không gắn kết được với những tội danh có trong Luật Hình sự (những yếu tố

cấu thành tội và xử l ý vi phạm) để khi giáo viên phát hiện hành vi vi phạm của học sinh thì

lại nhận định không chính xác để xử đúng với hành vi học sinh vi phạm kỷ luật. Đây là l ý

do khiến giáo viên luôn xử lý học sinh nặng hơn hành vi thật sự mà học sinh đó vi phạm, do

nhà trường thường hình sự hóa các hành vi vi phạm của học sinh.

b. Yêu cầu:

Luật Giáo dục năm 2005 có 03 điều về Thanh tra giáo dục. (gồm có điều 111; 112;

113). Tại khoản 2 điều 111 Luật giáo dục năm 2005 có nêu rõ 07 nhiệm vụ của Thanh tra

giáo dục mà nhiệm vụ thứ sáu là: Kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về

giáo dục, đề nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách và quy định của nhà nước về giáo dục. Do

đó, Thanh tra giáo dục của thành phố cần đề nghị cấp trên cập nhật hóa TT08 cho phù hợp

thời đại mới vì TT08 vẫn đang tiếp tục áp dụng nhưng do phổ biến quá lâu (1988) nên dẫn

đến nó không còn phù hợp thời đại mới.

3.3. Khảo cứu tính khả thi của các biện pháp

Qua các biện pháp đã nêu trong phần 3.1 và 3.2 về việc quản lý công tác xử lý học

sinh THPT vi phạm kỷ luật tại một số trường thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã tiến

hành khảo sát bằng phiếu xin ý kiến với 35 CBQL và 300 học sinh các trường THPT tại

thành phố Hồ Chí Minh cũng như phỏng vấn, lấy ý kiến CBQL, Thanh tra Sở Giáo dục và

Đào tạo. Kết quả cho thấy hầu hết các biện pháp đều nhận được nhận được sự ủng hộ của

đội ngũ CBQL và học sinh như sau:

Giải pháp 1: Tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến sự cần thiết và tầm quan

trọng của văn bản quy phạm pháp luật của ngành đến ba đối tượng: học sinh, giáo

viên và cha mẹ học sinh

Theo ý kiến của chuyên viên Thanh tra giáo dục Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố

Hồ Chí Minh cho rằng:

1. Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật:

Phổ biến, giáo dục pháp luật là một từ ghép hai từ phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật.

Phổ biến pháp luật có hai nghĩa: - Nghĩa hẹp: Là giới thiệu tinh thần bản pháp luật cho đối tượng của nó;

- Nghĩa rộng: Là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên cả nước. Trong

các văn bản của ta, nghĩa này được sử dụng nhiều hơn nghĩa hẹp.

Giáo dục pháp luật là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức

pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách (Thuyết phục, nêu gương, ám thị...) hình thành

tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật,

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.

Cả cụm từ phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:

- Nghĩa hẹp: Là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình

cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm

chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.

- Nghĩa rộng: Là công tác, lĩnh vực, ngạch (theo nghĩa thông thường mà không phải

nghĩa trong pháp luật về cán bộ công chức) phổ biến giáo dục pháp luật bao gồm tất cả các

công đoạn phục vụ cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật:

· Định hướng công tác phổ biến,giáo dục pháp luật; · Lập chương trình, kế hoạch phổ biến,giáo dục pháp luật; · Áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; · Triển khai chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật;

· Kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, sơ kết, tổng kết công tác phổ biến giáo dục pháp luật, đúc

rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lí luận... về phổ biến giáo dục pháp

luật.

2. Vị trí, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong đời sống xã hội

hiện nay.

a. Phổ biến, giáo dục pháp luật tác động vào ý thức của đối tượng.

Với nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao

nhận thức và tác động trực tiếp đến ý thức của đối tượng. Trước hết, các hoạt động này tạo

ra sự quan tâm đối với pháp luật. Từ chỗ không để ý đến sự tồn tại của pháp luật, đối tượng

được phổ biến, giáo dục bắt đầu dành sự quan tâm của mình đối với pháp luật, đồng thời sự

hiểu biết về pháp luật cũng ngày càng được nâng cao. Pháp luật chính là phương tiện hàng

đầu để Nhà nước quản lý xã hội và cũng là phương tiện cho mỗi người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giúp cho đối tượng nhận thức

được những giá trị cao đẹp ấy của pháp luật và biết sử dụng phương tiện hữu hiệu đó trong

cuộc sống.

Một vai trò hết sức quan trọng của phổ biến, giáo dục pháp luật là tạo được niềm tin

vào pháp luật. Khi đã có niềm tin, đối tượng sẽ biết tự điều chỉnh hành vi của mình theo

đúng các quy định của pháp luật. Không những thế, họ còn có ý thức phê phán, lên án

những hành vi vi phạm, đi ngược lại với các quy định của pháp luật.

b. Giáo dục ý thức pháp luật và đạo đức.

Đạo đức là những tiêu chuẩn, những nguyên tắc ứng xử được dư luận xã hội thừa

nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội.

Trong các quan niệm về công bằng, thiện ác, nhân đạo, tự do, lương tâm, danh dự...

không có sự đối lập giữa pháp luật và đạo đức. Pháp luật là chỗ dựa và là cơ sở của việc

hình thành đạo đức mới. Các nguyên tắc căn bản của đạo đức mới được thể chế hoá thành

các quy phạm pháp luật. Do đó, pháp luật bảo vệ và phát triển đạo đức, bảo vệ tính công

bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người. Giáo dục đạo đức tạo nên

những tiền đề cần thiết để hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối với pháp luật. Ng-

ược lại, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập trong đời sống thực tiễn thường ngày

những nguyên tắc của đạo đức, củng cố các nghĩa vụ đạo đức, thiết lập lập trường không

dung thứ với các biểu hiện chống đối xã hội.

Có thể nói, giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cùng tác động vào lòng tin của

con người đối với sự cần thiết tuân theo những nguyên tắc cơ bản của đạo đức mới, lòng tin

đối với giá trị xã hội của pháp luật và lòng tin đối với những quy phạm đạo đức và pháp luật

trong đời sống thực tế hàng ngày, hướng đến hoàn thiện những mối quan hệ lẫn nhau giữa

con người với con người.

Trong thực tế, không phải lúc nào việc chấp hành pháp luật cũng trở thành ý thức tự

nguyện. Bởi vậy trong điều kiện hiện nay, vai trò của giáo dục pháp luật là hình thành ý

thức pháp luật, góp phần giúp mỗi người nhận ra tính công bằng của pháp luật, chấp hành

pháp luật trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu của bản thân, mà không phải do sự sợ

hãi trước sự trừng phạt.

Trình độ văn hóa pháp lý không chỉ phản ánh sự hiểu biết các quy định của pháp luật

một cách tổng thể, cần thiết cho mỗi con người, gắn liền với các nghĩa vụ của họ mà còn là

sự hiểu biết một cách sâu sắc ý nghĩa của pháp luật trong cuộc sống xã hội, sự tôn trọng

pháp luật và biết vận dụng pháp luật một cách đúng đắn.

Tóm lại, giáo dục pháp luật với những phương thức khác nhau, trong đó có phổ biến,

tuyên truyền pháp luật, tạo điều kiện cho việc nâng cao trình độ văn hoá pháp lý của người

dân. Đồng thời, sự phát triển của văn hóa pháp lý cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt

động thực thi pháp luật của các cơ quan Nhà nước. Hiệu quả tác động này lại phụ thuộc vào

trình độ văn hoá pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức; phụ thuộc vào việc họ thức thi

đúng pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật. Bởi vậy, thực hiện nhiệm vụ nâng cao văn

hoá pháp lý đòi hỏi không chỉ nâng cao trình độ văn hoá chung của nhân dân mà còn phải

tăng cường năng lực thực thi pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan Nhà n-

ước. Một trong những nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật là do trình độ văn hoá

pháp lý của một bộ phận nhân dân, trong đó có cả cán bộ, công chức còn thấp. Rõ ràng, việc

nâng cao văn hoá pháp lý có quan hệ gắn bó mật thiết với việc tiếp tục tăng cường pháp

chế.

Trong điều kiện xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì một trong

những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham gia tích cực vào các hoạt

động quản lý xã hội bằng pháp luật. Chính điều này đã nâng cao trách nhiệm của mỗi người

trong xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự lớn

mạnh của tính tích cực, đảm bảo hành trang kiến thức pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào

hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật.

Giải pháp 2: 5TGiáo viên phải là trung tâm của đổi mới5T: Giáo viên cần phải biết

lắng nghe học sinh trình bày.

Nhằm tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em về việc xử lý học sinh vi phạm kỷ

luật, người nghiên cứu tiến hành khảo sát học sinh trên tinh thần “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” Kết quả khảo sát được thể hiện tại bảng 2.24

Với 86,3% xếp hạng 1, học sinh đề nghị khi tiến hành xử lý kỷ luật thì giáo viên nên

tìm hiểu kỹ nguyên nhân. Đây là yêu cầu chính đáng và mang tính giáo dục cao. Giáo viên

không thể lấy quyền của mình để “phán quyết” một cách vô căn cứ. Mà mọi biện pháp đưa

ra phải hợp tình hợp lý làm được như vậy hình ảnh của người giáo viên mới được tôn trọng

trong mắt học sinh của mình. Nhiều khi do chủ quan và nóng vội mà giáo viên “kết án” oan

cho học sinh dẫn đến tình trạng không nể phục của các em và ảnh hưởng không nhỏ đến vai

trò và uy tín của người giáo viên.

Bảng 2.24 Kết quả kiến nghị của học sinh

STT NỘI DUNG Kiến nghị (%) Xếp hạng

1 82.7 2 Giáo viên cần chú ý đến tâm l ý lứa tuổi HS THPT nhiều hơn.

2 51 3 Giáo viên nên chấp nhận những ý kiến đối lập của HS trong giờ học.

3 86.3 1 Giáo viên nên tìm hiểu kỹ nguyên nhân HS phạm lỗi trước khi xử l ý.

4 15 4 Hễ có HS phạm lỗi trong giờ học là GV được toàn quyền xử l ý theo ý để làm gương cho HS khác.

Các em cũng có nhu cầu được quan tâm chia sẻ không những trong học tập mà còn

trong tâm tư tình cảm của mình. Lứa tuổi THPT là lứa tuổi có những biến động mạnh về

tâm sinh lý. Ở lứa tuổi này các em dễ có những biểu hiện tiêu cực khi cảm thấy mình không

được tôn trọng. Cho nên các em đề nghị “Giáo viên cần chú ý đến tâm l ý lứa tuổi học sinh

THPT nhiều hơn” được xếp hạng 2 với 82,7%. Sự hiểu biết và chia sẻ kịp thời của giáo viên

sẽ có kết quả rất tốt trong giáo dục. Nó vừa tạo được sự tin tưởng và là chỗ dựa vững chắc

về tinh thần của các em.

Kiến nghị này của học sinh đã được các cấp lãnh đạo nhìn ra được khi Bộ Giáo dục

và Đào tạo vừa công bố dự thảo chương trình khung bồi dưỡng thường xuyên giáo viên

THCS và THPT nhằm giúp giáo viên bồi dưỡng nâng cao trình độ về phẩm chất chính trị,

đạo đức nghề nghiệp, kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp để đáp ứng yêu cầu

nâng cao chất lượng giáo dục. Theo dự thảo, trong một năm học mỗi giáo viên THCS và

THPT phải thực hiện bồi dưỡng 120 tiết (60 tiết bắt buộc và 60 tiết tự chọn). Riêng giáo

viên THPT, ngoài kỹ năng phân tích được các đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT để

vận dụng vào công tác giảng dạy, giáo dục học sinh (lứa tuổi từ 16 đến 18 tuổi) thì phải có

kĩ năng giải quyết tình huống sư phạm trong công tác chủ nhiệm, kĩ năng cần thiết khi giải

quyết tình huống, phân tích và giải quyết một số tình huống điển hình trong công tác chủ

nhiệm ở trường THPT, đồng thời tạo dựng môi trường học tập dân chủ, thân thiện, hợp tác,

cộng tác, thuận lợi, an toàn và lành mạnh; khuyến khích học sinh mạnh dạn, tự tin, không

chỉ trả lời các câu hỏi của giáo viên mà còn nêu thắc mắc và trình bày ý kiến của mình…

Khi được hỏi “Hễ có học sinh phạm lỗi trong giờ học là giáo viên được toàn quyền

xử l ý theo ý để làm gương cho học sinh khác” thì chỉ nhận được 15% và xếp hạng cuối.

Đây chính là sự phản kháng của các em. Đành rằng các em học sinh vẫn còn nhiều khuyết

điểm trong quá trình hoàn thiện nhân cách nhưng nếu nhà giáo được toàn quyền xử l ý theo ý

như vậy là không chấp nhận được. Nếu gặp học sinh có hành vi vô lễ trong giờ thì giáo viên

phải dừng giảng bài để giải quyết sự vụ. Nếu lúc đó học sinh biết nghe và xin lỗi thì tiếp tục

dạy. Nếu học sinh tiếp tục vô lễ, giáo viên yêu cầu cán bộ lớp lập biên bản vi phạm nội quy

nhà trường. Lập biên bản cũng là hình thức giáo dục, thời nay mọi sự việc đều đứng về phía

có chứng cứ. Sau đó mời học sinh về văn phòng giao cho giám thị xử lý. Với học sinh phổ

thông, giáo viên không nên và quy định của văn bản quy phạm pháp luật cũng không cho

phép đuổi học sinh ra khỏi lớp một mình dù với l ý do là nhằm để giáo viên mau chóng lập

lại trật tự trong lớp. Giả sử học sinh đó ra ngoài, có sự rủi ro thì giáo viên sẽ gánh chịu trách

nhiệm. Nếu rủi ro lớn với học sinh thì giáo viên sẽ chịu áp lực rất lớn từ dư luận nhiều phía.

Giáo viên cũng cần nhớ rằng trao đổi giữa giáo viên và học sinh phải luôn được coi trọng

trong môi trường sư phạm; giáo viên cần tránh thái độ nóng giận, thiếu kiềm chế ngôn từ.

Tốt nhất dùng khả năng sư phạm để cảm hóa các em (dẫu sao đó cũng là trẻ vị thành niên).

Còn dạng cá biệt dở, vi phạm kỷ luật nghiêm trọng phải chịu thua thì giáo viên gửi học sinh

đó xuống Ban giám hiệu giải quyết theo đúng quy định của TT08.

Ngoài ra, để tìm hiểu sự khác biệt giữa kiến nghị của nam và nữ trong vấn đề giáo

viên xử lý học sinh vi phạm như thế nào, người nghiên cứu thu được kết quả như biểu đồ

2.6

Biểu đồ 2.6 Tỉ lệ giới tính học sinh

CÂU 4

NỮ

NAM

CÂU 3

CÂU 2

CÂU 1

0

20

40

60

80

100

Nhìn vào biểu đồ ta thấy tỉ lệ chênh lệch về kiến nghị của các bạn nam và nữ là

không cao. Với tỉ lệ cụ thể như sau:

TỈ LỆ %

CÂU

NAM

NỮ

CÂU 1 80.6 84.5

CÂU 2 57.6 45.3

CÂU 3 87.1 85.7

CÂU 4 15.8 14.3

Chứng tỏ những kiến nghị trên đây là không có sự khác biệt về mặt giới tính, nó hoàn

toàn phù hợp với tâm tư nguyện vọng của các em.

Giải pháp 3: Nhà trường cần có giáo viên tham vấn tâm l ý cho học sinh

Với tỉ lệ 70,3% học sinh đề nghị “Nên có chuyên gia về tâm lý ở các trường THPT để

tiếp xúc với HS phạm lỗi” vấn đề này trong thời gian qua đã được nhắc đến nhiều. Một số

trường đã triển khai giáo viên tâm lý nhưng chủ yếu là kiêm nhiệm hoặc có mời các chuyên

gia tâm lý về tư vấn cho các em nhưng thời gian không nhiều nên đạt hiệu quả chưa cao. Và

dù có phòng tư vấn tâm lý nhưng trong ba năm học có một bộ phận không ít học sinh THPT

chưa vào vì ngại gặp và kể chuyện của mình với thầy cô tư vấn. Khi gặp vướng mắc thì học

sinh chia sẻ với bạn bè thân chứ không nói với gia đình hoặc thầy cô giáo vì không thoải

mái nói do sợ bị lộ chuyện. Chính vì chưa tìm được chỗ dựa tin cậy về tinh thần để chia sẻ

những khó khăn gặp phải nên các em thường “hành xử” thiếu suy nghĩ nên dẫn đến vi phạm

kỷ luật. Cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhất là từ phía gia đình thì chuyện phát hiện sớm

những tâm tư, biểu hiện của học sinh và tư vấn mới thực sự hiệu quả.

Khi khảo sát CBQL, kết quả thu được cũng cho thấy sự nhất trí cao của CBQL các

trường về sự cần thiết của giáo viên tham vấn tâm l ý cho học sinh. Với tỉ lệ 88,6% CBQL

đồng ý bổ nhiệm giáo viên chuyên tư vấn tâm lý cho học sinh thể hiện CBQL các trường

đều đã nhận thấy vai trò rất cần thiết và quan trọng của phòng tư vấn tâm lý học đường cho

học sinh bên cạnh công tác chuyên môn là giảng dạy. (xem bảng 2.25)

Từ năm học 2009-2010, Sở Nội vụ, UBND thành phố đã phê duyệt cho biên chế mỗi

trường có một phòng tham vấn và có một thầy cô chuyên môn đảm nhận trách nhiệm này

cho học sinh. Vì vậy 5TSở GD-ĐT TPHCM đã tuyển dụng giáo viên tư vấn tâm lý học sinh từ

tháng 5T7/20095T. 5TGiáo viên tư vấn tâm lý học sinh tại các trường THCS, THPT có bằng tốt

nghiệp Đại học Luật hoặc Đại học chuyên ngành tâm lý học.

Bảng 2.25 Kiến nghị bổ nhiệm giáo viên chuyên tư vấn tâm lý cho HS.

Không kiến nghị

Đồng ý kiến nghị Tần số 4 31 Tỉ lệ % 11.4 88.6

Giải pháp 4: Sở Giáo dục và Đào tạo cần nâng cao chất lượng và số lượng

chuyên viên Thanh tra giáo dục

Ý kiến của 68,6% CBQL trong khảo sát cho thấy: các trường rất cần Sở Giáo dục-

Đào tạo hỗ trợ người tập huấn giáo viên công tác xử lý học sinh vi phạm cho họ. Mà lực

lượng tập huấn đó chính là đội ngũ chuyên viên Thanh tra giáo dục. Họ giúp cho giáo viên

hiểu được các quy phạm pháp luật quy định chi tiết các hành vi được phép và hành vi bị

cấm đoán. Đồng thời, chuyên viên Thanh tra giáo dục còn giúp giáo viên biết quy phạm

pháp luật còn xác định cụ thể các cách cư xử lẫn những hình phạt sẽ áp dụng nếu chủ thể vi

phạm. Tuy nhiên vẫn còn hạn chế ở phần nhận thức khi còn rất nhiều người hiểu thanh tra là

những người chỉ chuyên đi giải quyết các vụ việc khiếu nại tố cáo hoặc xem xét, tìm những

ai đó sai sót để xử lý. Họ chưa nhận thức đầy đủ nhiệm vụ tư vấn, tập huấn kiến thức pháp luật của thanh tra viên.

Giải pháp 5: Thanh tra giáo dục của Sở Giáo dục và Đào tạo cần kiến nghị cập

nhật hóa TT08

Vấn đề quan trọng hơn hết đối với thanh tra ngành giáo dục đào tạo là phải xây dựng

hành lang pháp lý mang tính khả thi cao để mọi người tự giác thực hiện và có thể dựa vào đó mà thanh tra.

Khảo sát nội dung của giải pháp này ở CBQL các trường, chúng tôi nhận thấy có hai

kết quả như sau (xem biểu đồ 2.7)

Biểu đồ 2.7 Ý kiến về cập nhật hóa Thông tư 08

80

60

40

ĐỒNG Ý

20

KHÔNG ĐỒNG Ý

0

Điều chỉnh văn bản

Ban hành mới văn bản

Khảo sát kiến nghị “Bộ Giáo dục-Đào tạo cần điều chỉnh TT08 cho phù hợp với tâm

sinh lý học sinh thời đại mới” của CBQL các trường có 80% đồng ý và 20% không đồng ý

với kiến nghị trên. Ý kiến của thầy Ngô Tương Đại – Hiệu trưởng trường THPT Nguyễn

Trãi cho rằng để thi hành pháp luật của một cơ quan nhà nước nào đó (Bộ Giáo dục và Đào

tạo) có hiệu quả thì trước hết pháp luật được thi hành phải rõ ràng, minh bạch, đủ cụ thể, thể

hiện đúng đắn các giá trị mà xã hội có, xã hội cần và xã hội ủng hộ; các quy định pháp luật

thống nhất, đồng bộ, ổn định, ít thay đổi. Vì văn bản quy phạm pháp luật của ngành về xử l ý

học sinh vi phạm kỷ luật (TT08) ra đời, tồn tại quá lâu nên nhiều nội dung đã không còn đủ

tính rõ ràng, minh bạch, đủ cụ thể, thể hiện đúng đắn các giá trị mà xã hội có, xã hội cần và

xã hội ủng hộ nên cần điều chỉnh lại cho phù hợp.

Ngược lại, với thầy Phạm Danh Tấn – Hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Thị Diệu

thì cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo không cần điều chỉnh lại TT08 mà bỏ luôn thông tư

này vì trong Điều lệ trường 5Ttrung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ

thông có nhiều cấp học do5T 5TBộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Quyết định số

07/2007/QĐ-BGDĐT ban hành đã quá đủ để nhà trường làm căn cứ soạn thảo nội quy của từng trường cho phù hợp với đặc điểm của địa phương mà trường đóng.

Đồng thời khảo sát kiến nghị “Bộ Giáo dục-Đào tạo sớm soạn thảo, ban hành lại văn

bản xử lý kỷ luật HS tách riêng phần khen thưởng cho dễ dàng áp dụng trong phạm vi học

đường” có 34,3% đồng ý và 65,7% không đồng ý kiến nghị trên vì theo đa số CBQL được

khảo sát cho rằng ngày 05 tháng 10 năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế

về Đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông (Ban hành

kèm theo Quyết định số: 40/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng

Bộ Giáo dục và Đào tạo) Đó chính là cơ sở cho phần khen thưởng học sinh mà không cần

tách riêng phần khen thưởng trong TT08 cho dễ dàng áp dụng trong phạm vi học đường

nữa.

Trên đây mới chỉ là những đề xuất từ kết quả nghiên cứu bước đầu. Các giải pháp

quản lý công tác xử lý học sinh vi phạm ở các trường THPT tại TPHCM cần được kiểm

nghiệm thường xuyên trong thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục tại từng trường trên địa

bàn. Có như thế thì mới đánh giá được chính xác kết quả các biện pháp quản lý công tác xử

lý học sinh vi phạm kỷ luật ở các trường THPT tại TPHCM.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Qua kết quả đạt được ở các chương, luận văn đã hoàn thành mục đích nhiệm vụ đề

ra. Thông qua việc nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

1.1. Năm học 2008 – 2009, năm học đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực

hiện mô hình xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Đây là mô hình cải thiện

linh hoạt các hoạt động thường ngày của nhà trường nhằm làm cho các hoạt động giáo dục

trở nên nhẹ nhàng, vui tươi, nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào

tạo đã triển khai thí điểm tại 50 trường học và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Trên cơ

sở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức xây dựng mô hình này ở tất cả các trường trong cả

nước.

Phong trào thi đua xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã có tác

động đáng kể vào hoạt động dạy và học ở các trường. Khi đã yêu quý ngôi trường, cảm thấy

thầy cô, bạn bè thân thiện, an toàn… học sinh sẽ chú tâm vào việc học. Một trong những

nội dung của phong trào này là nhà trường phải tận tình giúp đỡ học sinh chưa ngoan, giúp

đỡ học sinh học lực yếu kém, giảm lưu ban, bỏ học, ...Cuộc vận động “Xây dựng trường học

thân thiện” nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, xây dựng

trong mỗi trường học môi trường sư phạm lành mạnh, an toàn tạo cơ sở vững chắc cho việc

nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên nhận thức về nội dung của cuộc vận động này vẫn

chưa thật sự rõ ràng ở học sinh và cả ở giáo viên.

Quản lý công tác xử lý học sinh vi phạm kỷ luật ở các trường là sự tác động có ý thức

của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý một cách có định hướng nhằm đưa hoạt động

quản lý công tác xử lý học sinh vi phạm kỷ luật ở các trường vận hành và đạt được mục tiêu

đã định trên cơ sở nhận thức, vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ thống quản

lý giáo dục. Quản lý công tác xử lý học sinh vi phạm kỷ luật ở các trường cũng dựa trên

việc thực hiện bốn chức năng quản lý: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện,

kiểm tra đánh giá.

1.2 Về kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy:

- Mặt nhận thức: hầu hết tất cả CBQL và một bộ phận khá lớn giáo viên THPT đã

nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của ngành

trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật (CBQL = 100%; giáo viên = 90,4%) với điểm

trung bình ở mức khá cao (CBQL = 4,43; giáo viên = 4,16) và với độ lệch chuẩn gần như

nhau ( ĐLC RCBQL R = 0,502; ĐLC RGVR = 0,724). Điều này cho phép khẳng định, việc áp dụng

văn bản quy phạm pháp luật của ngành trong xử l ý học sinh THPT vi phạm kỷ luật được rất

nhiều CBQL và giáo viên quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa nhận

thức đúng đắn về tầm quan trọng, vai trò, ý nghĩa của áp dụng Thông tư 08 trong xử l ý học

sinh THPT vi phạm kỷ luật. Điều này có thể ảnh hưởng tới việc triển khai “Trường học

thân thiện, học sinh tích cực” khi giáo viên còn xử l ý học sinh vi phạm theo kinh nghiệm cá

nhân hơn là áp dụng văn bản pháp luật.

- Mặt nội dung: TT08 ra đời từ ngày 21 tháng 3 năm 1988 hướng dẫn về việc khen

thưởng và thi hành kỷ luật học sinh các trường phổ thông đã quá lâu. Nhưng hiện nay các

trường vẫn tiếp tục áp dụng văn bản quy phạm pháp luật này vì nó vẫn còn nguyên giá trị và

hiệu lực pháp l ý. Vì vậy đã có nhiều ý kiến, nhiều nhất là của CBQL các trường xung quanh

nội dung văn bản có nhiều điều không còn phù hợp, cần điều chỉnh. Từ kết quả khảo sát cho

thấy, do đặc thù công tác, CBQL nghiên cứu văn bản quy phạm pháp luật kỹ hơn giáo viên.

- Việc thực hiện các chức năng quản lý: Việc lập kế hoạch dự tập huấn CBQL chưa

thực hiện tốt, tuy nhiên công tác tập huấn, trang bị, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, việc chỉ

đạo và tổ chức các biện pháp để quản l ý công tác xử lý học sinh vi phạm tại các trường đa

số được chú trọng. Về mặt kiểm tra – đánh giá công tác giáo viên xử lý học sinh vi phạm kỷ

luật , số CBQL thực hiện công tác kiểm tra – đánh giá giáo viên áp dụng TT08 còn chưa

cao. Do đó, dễ dẫn đến tình trạng giáo viên xử lý học sinh vi phạm mang tính chủ quan,

không đúng quy định, có thể giáo viên hành xử phản giáo dục.

định nhằm thực hiện thành công phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, có thể sử

dụng các giải pháp sau:

- Giải pháp 1: Tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến sự cần thiết và tầm quan trọng

1.3 Để nâng cao hiệu quả quản lý giáo viên xử lý học sinh vi phạm kỷ luật đúng quy

của văn bản quy phạm pháp luật của ngành đến ba đối tượng: học sinh, giáo viên và cha mẹ

học sinh

- Giải pháp 2: 5TGiáo viên phải là trung tâm của đổi mới5T: Giáo viên cần phải biết lắng

nghe học sinh trình bày.

- Giải pháp 3: Nhà trường cần có giáo viên tham vấn tâm l ý cho học sinh

- Giải pháp 4: Sở Giáo dục và Đào tạo cần nâng cao chất lượng và số lượng chuyên

viên Thanh tra giáo dục

- Giải pháp 5: Thanh tra giáo dục của Sở Giáo dục và Đào tạo cần kiến nghị cập nhật

hóa TT08

Tính khả thi của các biện pháp qua đánh giá là khá cao. Mỗi biện pháp có một vị trí

và chức năng khác nhau nhưng các biện pháp trên cần tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ để

đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, toàn diện giữa các lực lượng tham gia vào công tác quản lý

giáo viên xử lý học sinh THPT vi phạm kỷ luật đúng quy định trong văn bản quy phạm pháp

luật của ngành, nhằm triển khai có hiệu quả phong trào “Trường học thân thiện, học sinh

tích cực” tại mỗi trường học.

2. Kiến nghị

Để thực hiện quản lý hiệu quả công tác quản lý giáo viên xử lý học sinh vi phạm kỷ

luật đúng quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của ngành tại các trường THPT ở

thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới, chúng tôi kiến nghị một số vấn đề với các cấp

như sau:

2.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo:

Tổ chức Hội nghị các cấp để lấy ý kiến tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp

luật của ngành mới hơn TT08 để các trường phổ thông áp dụng trong việc quản l ý giáo viên

xử lý học sinh vi phạm kỷ luật.

* Phải có phần giải thích từ ngữ trong văn bản để giáo viên và nhà trường có hiểu biết

Khi soạn thảo, ban hành văn bản thay thế Thông tư 08, cần chú ý:

đầy đủ, đúng ý nghĩa theo yêu cầu nội dung văn bản và những cấu thành lỗi đối với những

lỗi vi phạm có trong pháp luật hình sự. Cụ thể như thế nào là:

- Tái phạm nhiều lần,

- Có thái độ kém văn hóa hoặc hành vi thiếu đạo đức đối với thầy, cô giáo,…

- Có lời nói và hành động vô lễ với thầy cô giáo, có hành vi thô bỉ với phụ nữ,…

- Bao che hoặc đồng tình với hành động sai trái của bạn,…

- Trộm cắp, cướp giật, trấn lột

- Dùng vũ khí đánh nhau có tổ chức và gây thương tích,..

* Phải xác định rõ mối liên quan giữa việc xử l ý kỷ luật học sinh với Quy chế Đánh

giá xếp loại học sinh THCS và THPT (Ban hành kèm theo Quyết định số 40/2006/QĐ-

BGDĐT ngày 05/10/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Vì vậy khi học sinh vi

phạm kỷ luật, cần phải được đưa ra Hội đồng kỷ luật xử lý trước. Trên cơ sở quyết định xử

lý kỷ luật học sinh của hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm mới tiến hành đánh giá xếp loại

hạnh kiểm của học sinh đó.

Xem xét lại việc xây dựng chương trình học của các trường Sư phạm trên toàn quốc

về lồng ghép nội dung kỷ luật học sinh đúng quy định của ngành cho giáo sinh trước khi ra

trường.

2.2. Đối với UBND Thành phố Hồ Chí Minh:

Từ năm học 2009-2010, Sở Nội vụ, UBND thành phố đã phê duyệt cho biên chế mỗi

trường có một phòng tham vấn và có một thầy cô chuyên môn tâm l ý. Vì vậy cần thực hiện

đầy đủ chế độ, chính sách đã ban hành đối với giáo viên, chuyên viên tham vấn tâm l ý của

ngành giáo dục.

Áp dụng chế độ thỏa đáng, chính sách ưu đãi cho các giám thị trường học được tăng

thu nhập và học nâng cao trình độ về tâm l ý học đường.

Cần có phương án bổ sung chế độ chính sách cho CBQL và giáo viên tham dự các

lớp bồi dưỡng về tâm l ý học và khuyến khích các giáo viên tự học nâng cao trình độ về tâm

l ý học đường.

2.3. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh:

Sở Giáo dục và Đào tạo cần có kế hoạch cụ thể để thu hút và bổ nhiệm chuyên gia về

tâm lý đã được đào tạo tại các trường Sư phạm về các trường THPT.

Cần sớm tham mưu với Ủy Ban Nhân Dân TPHCM để khắc phục những vấn đề về

lực lượng giám thị hợp đồng tại các trường; đồng thời có các kế hoạch hỗ trợ giáo dục pháp

luật cho đội ngũ CBQL và giáo viên, tổ chức kiểm tra việc thực hiện ở các trường. Khi chưa

văn bản thay thế, Sở cần chỉ đạo phòng Thanh tra lên kế hoạch triển khai lại TT08 cho

CBQL, giáo viên, học sinh các trường.

Tổ chức các hội thảo, hội thi sáng kiến kinh nghiệm toàn ngành về công tác chủ

nhiệm giỏi nhằm kích thích giáo viên sáng tạo trong công tác này đồng thời qua đó tìm kiếm

và nhân rộng các mô hình giáo dục đã đạt hiệu quả cao.

2.4. Đối với Ban Giám Hiệu các trường THPT tại TPHCM:

Phải xác định rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc quản lý và tổ chức triển

khai “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” khi giáo viên xử l ý học sinh vi phạm kỷ luật

đúng quy định của ngành trong điều kiện văn hóa – xã hội hiện nay ở TPHCM.

Không ngừng tạo điều kiện để giáo viên rèn luyện và nâng cao trình độ về pháp luật,

tâm l ý học đường. Trong đó, các trường cần chú trọng công tác bồi dưỡng kiến thức về tâm

l ý học đường cho lực lượng giám thị.

TT08 là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành cách đây trên 20 năm, trước khi

có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật do đó không đạt yêu cầu nhiều mặt về hình

thức và trình tự thủ tục ban hành theo luật định. Sớm muộn gì, Thông tư này cũng sẽ được

thay thế bằng một văn bản quy phạm pháp luật khác phù hợp hơn. Tuy nhiên, văn bản quy

phạm pháp luật có tính hệ thống và thứ bậc cao trong hệ thống văn bản Luật nên Ban giám

hiệu cần lưu ý một số vấn đề sau:

Ở Điều lệ Trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều 2.4.1

cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ

GDĐT) có quy định:

- Điều 21: Các hội đồng khác trong nhà trường

1. Hội đồng thi đua và khen thưởng

2. Hội đồng kỷ luật

a) Hội đồng kỷ luật được thành lập để xét hoặc xóa kỷ luật đối với học sinh theo

từng vụ việc. Hội đồng kỷ luật do Hiệu trưởng quyết định thành lập và làm

chủ tịch, gồm: Hiệu trưởng, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

(nếu có), Tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (nếu có),

giáo viên chủ nhiệm lớp học sinh phạm lỗi, một số giáo viên có kinh nghiệm

giáo dục và Trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh của trường.

b) …

- Điều 40 và Điều 41, bổ sung hành vi học sinh phải làm và không được làm

- Điều 41: Khen thưởng và kỷ luật

1. Học sinh có thành tích trong học tập …

2. Học sinh vi phạm khuyết điểm trong quá trình học tập, rèn luyện có thể được

khuyên răn hoặc xử lý kỷ luật theo các hình thức sau đây:

- Phê bình trước lớp, trước trường;

- Khiển trách và thông báo với gia đình;

- Cảnh cáo ghi học bạ;

- Buộc thôi học có thời hạn.

2.4.2 Đối chiếu 2 văn bản nêu trên, khi tạm thời còn áp dụng Thông tư 08, cần chú ý:

2.4.2.1 Phải xử lý kỷ luật học sinh vi phạm theo tên gọi mới có trong Điều lệ nhà

trường, cụ thể:

o Phê bình trước lớp, trước trường (Theo TT08 là khiển trách trước lớp)

Đây chỉ là một hình thức kỷ luật chưa phải là mức kỷ luật của Hội đồng kỷ luật xử

lý, nó mang tích giáo dục, khuyên răn và còn trong phạm vi trách nhiệm xử lý của GVCN

lớp. Tùy trường hợp vi phạm, không nhất thiết phải thông báo hay mời cha mẹ học sinh đến

làm việc.

o Từ mức cảnh cáo ghi học bạ (Theo TT08 là cảnh cáo trước toàn trường)

đến buộc thôi học có thời hạn (Theo TT08 là đuổi học 1 tuần, đuổi học 1 năm)

Đây mới là các mức kỷ luật của Hội đồng kỷ luật quyết định xử lý nên khi xử lý cần

phải đảm bảo các yêu cầu về trình tự thủ tục và thiết lập đầy đủ hồ sơ đúng theo quy định.

2.4.2.2 Trình tự thủ tục và hồ sơ xét kỷ luật học sinh vi phạm :

a) Hồ sơ đề nghị xét kỷ luật do GVCN lớp lập và báo cáo ngay với Hiệu trưởng

và Hội đồng kỷ luật của nhà trường.

b) Hội đồng kỷ luật nhà trường do Hiệu trưởng thành lập và làm chủ tịch, thành

phần Hội đồng kỷ luật đúng theo Điều 21, điều lệ nhà trường:

- Giáo viên có kinh nghiệm giáo dục phải là người được Hội đồng giáo dục tín

nhiệm và đề cử tham gia Hội đồng kỷ luật.

- Cha mẹ học sinh và học sinh phạm lỗi được mời đến tham dự buổi họp của

Hội đồng kỷ luật để nghe báo cáo về khuyết điểm, sai phạm của học sinh. Khi Hội đồng kỷ

luật bàn bạc và biểu quyết hình mức kỷ luật (họp kín) thì không được tham dự.

- Phương thức Hội đồng kỷ luật biểu quyết là bỏ phiếu kín, theo đa số. Riêng

hình thức đuổi học phải có ít nhất 2/3 số thành viên biểu quyết tán thành.

- Phải có biên bản họp phần có cha mẹ học sinh và học sinh phạm lỗi dự phần

thảo luận và biểu quyết của Hội đồng kỷ luật.

- Hiệu trưởng xét quyết định mức kỷ luật có thể không nhất trí với kết quả

biểu quyết của Hội đồng kỷ luật nhưng phải báo cáo cơ quan quản lý giáo dục liền trên. Phải

thông báo ngay cho gia đình học sinh.

- Nếu có khiếu nại của cha mẹ học sinh, học sinh, hồ sơ khiếu nại phải được

lập đúng theo quy định của Luật Khiếu nại – Tố cáo.

c) Hồ sơ xử lý kỷ luật phải được bảo quản đầy đủ và lưu giữ lâu dài tại văn phòng

nhà trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1988), Thông tư 08/TT ngày 21.8.1988 - Bộ Giáo dục

hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh các trường phổ thông.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Quyết định số: 40/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 1.

tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Đánh giá, xếp loại học sinh

trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Học viện Quản lý giáo dục, Kỷ yếu Hội thảo 2.

khoa học – Đổi mới quản lý giáo dục: Thành tựu, thách thức và các giải pháp.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Điều lệ trường THCS, THPT và trướng PT có 3.

nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 - Bộ

Giáo dục – Đào tạo)

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Chỉ thị số: 40/2008/CT-BGDĐT về việc phát 4.

động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các

trường phổ thông giai đoạn 2008-2013.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Quyết định 16/2008 /QĐ-BGD&ĐT ban hành 5.

16-4-2008 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT quy định về đạo đức nhà giáo.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (3/2010), Dự án phát triển giáo dục THPT, chuyên đề 4, 6.

Tài liệu tập huấn bồi dưỡng tăng cường năng lực quản l ý điều hành cho Hiệu trưởng

trường THPT.

Hoàng Chúng, Quan hệ quản l ý và quan hệ giáo dục. 7.

Nguyễn Hữu Châu (2006), Quản l ý giáo dục , NXB Đại học Sư phạm. 8.

Nguyễn Cảnh Chất (dịch và biên soạn) (2004), Tinh hoa quản lý, NXB Lao động 9.

– Xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Hữu Châu (chủ biên), Đỗ Thị Bích Loan, Vũ Trọng Rỹ (2007), Giáo dục 10.

Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, NXB Giáo dục – Hà Nội.

Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ TP Hồ Chí Minh lần IX (Nhiệm kỳ 11.

3TNguyễn Văn Giao3T1T, 0T1T 0T3TNguyễn Hữu Quỳnh3T1T, 0T1T 0T3TVũ Vǎn Tảo3T1T, 0T1T 0T3TBùi Hiền3T1T (2001), Từ điển

12.

2010-2015)

giáo dục học, NXB Từ điển Bách khoa.

13.

Trần Kiểm (2004), Khoa học quản l ý giáo dục một số vấn đề l ý luận và thực

tiễn, NXB Giáo dục

Lưu Văn Kim (2004), Nâng cao hiệu quả quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên, 14.

Tạp chí Giáo dục số 84.

15.

Trần Văn Kim, Vũ Trung Thành (2009), Điều hành các hoạt động trong trường

học, NXB Hà Nội.

Hồ Văn Liên (2007), Tài liệu giảng dạy tổ chức quản l ý giáo dục và trường học, 16.

khoa Tâm l ý ĐHSP TPHCM.

Trung Nguyên (2008), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Giao 17.

thông vận tải.

Ngô Đình Qua (2005), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, ĐHSP 18.

TPHCM.

19.

Nguyễn Gia Quý (2000), Lí luận về quản lý giáo dục và quản lý nhà trường,

Phan Thế Sủng (2000), Cách xử thế trong quản lý trường học, NXB Văn hóa

20.

NXB Giáo dục, Hà Nội.

Dân tộc.

21.

Dương Thiệu Tống (2005), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm

Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với

22.

lý, NXB Khoa học xã hội.

Thái Duy Tuyên (2007), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, NXB

23.

SPSS, NXB Thống kê.

Giáo dục.

24.

Website Sở Ngoại vụ TP Hồ Chí Minh, “TP Hồ Chí Minh sau một năm gia nhập

WTO – Vượt lên chính mình” (2008).

25.

Pam Robbins, Harvey B. Alvy (10/2004), Cẩm nang dành cho hiệu trưởng, NXB

Chính trị quốc gia – Hà Nội.