BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
HỒ THỊ THANH HUYỀN
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI VIỆC
XÂY DỰNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRỞ THÀNH
ĐÔ THỊ THÔNG MINH ĐẾN NĂM 2025
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
HỒ THỊ THANH HUYỀN
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI VIỆC
XÂY DỰNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRỞ THÀNH
ĐÔ THỊ THÔNG MINH ĐẾN NĂM 2025
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 8310102
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG AN QUỐC
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn dẫn rõ ràng, không sao chép từ các công
trình nghiên cứu khác.
Tác giả luận văn
Hồ Thị Thanh Huyền
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới .................................................................. 2
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................... 4
2.3. Các công trình nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh .................................. 7
2.4. Những khoảng trống và hướng nghiên cứu của luận văn ............................... 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 10
6. Kết quả, đóng góp của Luận văn .............................................................................. 10
7. Kết cấu nội dung của luận văn .................................................................................. 11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG
MINH Ở VIỆT NAM
1.1. Những khái niệm lý luận cơ bản ............................................................................ 12
1.1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành .................................................. 12
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành .......... 13
1.1.3. Những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ............... 21
1.1.4. Đô thị thông minh .................................................................................... 22
1.2. Một số mô hình, lý thuyết và quan điểm của Đảng – Nhà nước về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành .......................................................................................................... 28
1.2.1. Một số mô hình, lý thuyết hiện đại .......................................................... 28
1.2.2. Quan điểm của Đảng – Nhà nước về “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
gắn với xây dựng Đô thị thông minh” ............................................................... 30
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây dựng đô thị thông
minh ở một số địa phương ........................................................................................... 38
1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hà Nội ....................................................... 38
1.3.2. Kinh nghiệm của Tp.Đà Nẵng ................................................................. 39
1.3.3. Một số bài học rút ra ................................................................................ 41
Kết luận chương 1 ......................................................................................................... 44
Chương 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐÔ THỊ
THÔNG MINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1 Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành ở TP. HCM ............................................................................................. 46
2.1.1. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... 46
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ......................................................................... 47
2.2. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh theo định hướng đô thị thông minh .............................................................. 49
2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ba khu vực kinh tế ................................................... 49
2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế .................................................... 52
2.2.3. Quá trình triển khai xây dựng đô thị thông minh tại Thành phố Hồ Chí
Minh .............................................................................................................................. 66
2.3. Đánh giá chung ..................................................................................................... 71
2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................... 73
2.3.2. Một số hạn chế, tồn tại ............................................................................ 75
2.3.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra ....................................................... 80
Kết luận chương 2 ......................................................................................................... 87
Chương 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG
TP.HCM TRỞ THÀNH ĐÔ THỊ THÔNG MINH ĐẾN NĂM 2025
3.1. Những quan điểm cơ bản ...................................................................................... 89
3.1.1. Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ............................................... 89
3.1.2. Quan điểm về xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông
minh .................................................................................................................... 93
3.2. Phương hướng, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với việc xây dựng
Tp.HCM trở thành đô thị thông minh ........................................................................... 96
3.2.1. Những định hướng cơ bản ........................................................................ 96
3.2.2. Mục tiêu đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 .................................... 98
3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành gắn với việc xây dựng Tp.HCM trở thành đô thị thông minh đến năm 2025.. 101
3.3.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, thể chế ........................................................ 101
3.3.2. Nhóm giải pháp về qui hoạch và cơ sở hạ tầng .................................... 107
3.3.3. Nhóm giải pháp về huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực ....... 112
3.3.4. Nhóm giải pháp về hợp tác - hội nhập .................................................. 121
Kết luận chương 3 ....................................................................................................... 124
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 126
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCKT Cơ cấu kinh tế
CDCCKT Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
CCN Cụm Công nghiệp
CNH Công nghiệp hóa
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
(viết tắt của Gross Domestic Product)
GRDP Tổng sản phẩm tính trên phạm vi một vùng
(viết tắt của Gross Regional Domestic Product)
GTGT Giá trị gia tăng
IIP Chỉ số sản xuất công nghiệp
(viết tắt của Index - Industry Products)
KT-XH Kinh tế - Xã hội
ODA Vốn vay ưu đãi từ nước ngoài
(viết tắt của Official Development Assistance)
TM-DV Thương mại – Dịch vụ
TFP Nhân tố năng suất tổng hợp
(viết tắt của Total Factor Productivity)
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
WB Ngân hàng Thế giới
(viết tắt của World Bank)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: GDP trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chia theo khu vực kinh tế giai
đoạn 2011-2017 (tính theo giá so sánh 2010) ............................................................... 51
Bảng 2.2: Cơ cấu GDP chia theo ngành dịch vụ trên địa bàn Tp.HCM giai đoạn 2000 –
2017 (tính theo giá thực tế) ............................................................................................ 52
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng các ngành Dịch vụ, Công nghiệp, Nông nghiệp qua các năm .... 52
Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng các lĩnh vực trong ngành Dịch vụ qua các năm.......................... 55
Biểu đồ 2.3: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp................................................... 59
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ so sánh tốc độ phát triển các ngành công nghiệp ......................... 62
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những vấn đề trung tâm của nền
kinh tế đang phát triển. Thực tế cho thấy những thành công hay thất bại trong việc
phát triển kinh tế đều bắt nguồn từ việc xác định cơ cấu kinh tế có hợp lí hay không.
Việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm phát
huy tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và tiến tới ngày
càng nâng cao đời sống người dân.
Trong thời gian qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đề ra,
đồng thời đạt được một số tích cực, là động lực cho tăng trưởng kinh tế: Trong giai
đoạn 2015-2017, tổng sản phẩm nội địa (GRDP) trên địa bàn thành phố tăng
8,2%/năm, đạt kế hoạch đề ra, trong đó khu vực dịch vụ tăng 8,1%/năm, khu vực
công nghiệp – xây dựng tăng 7,8%/năm, khu vực nông nghiệp tăng 5,8%/năm,
GRDP bình quân quân đầu người năm 2017 đạt 5.550 USD/người/ năm1. Chất lượng
tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực và
đúng hướng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, TP.HCM phải đối mặt
với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đó là: mô hình tăng trưởng kinh tế của thành phố
còn tồn tại nhiều vấn đề về tốc độ tăng trưởng, tính bền vững; hiệu quả và cạnh tranh
nhất là năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố có phần giảm sút so với một số địa
phương trong nước và khu vực; các chính sách và giải pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế hiện vẫn chưa đủ mạnh, còn chưa tạo được sự đột phá; Sự chuyển dịch
1 Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh.
các ngành kinh tế diễn ra tương đối chậm; Tỷ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
2
có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, giá trị gia tăng cao còn thấp, tính cạnh tranh
của nhiều sản phẩm còn khá yếu so với khu vực và quốc tế.
Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh
giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025” đã được Ủy ban nhân dân Tp.HCM
công bố ngày 26 tháng 11 năm 2017. Đề án tập trung vào bốn mục tiêu tổng quát là
đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế, hướng đến kinh tế tri thức, kinh tế số; quản trị
đô thị hiệu quả trên cơ sở dự báo; nâng cao chất lượng môi trường sống và làm việc;
tăng cường sự tham gia quản lý của người dân. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất
của Đề án là phát triển kinh tế bền vững, phải dự báo, thấy trước khó khăn, giải pháp
phòng ngừa và liên kết tốt; phải làm sao kết hợp các nguồn lực để đạt hiệu quả cao
hơn trong khi từng nguồn lực không thay đổi, cùng với đó tạo môi trường sống của
người dân phải tốt trong các vấn đề như hạ tầng, chất lượng không khí, thúc đẩy dịch
vụ y tế…
Vì vậy, để kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phát triển bền vững, đạt được
những mục tiêu đề ra đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế ngành phù hợp với những
dự báo chính xác và giải pháp hiệu quả. Đây sẽ là vấn đề có tính chất quyết định.
Xuất phát từ lý do đó, học viên lựa chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
gắn với việc xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh đến
năm 2025” làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị của
mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới:
3
Cơ cấu kinh tế (CCKT), chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) là những
vấn đề được rất nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và là chủ đề
được đưa bàn luận trong nhiều hội thảo, hội nghị trong nước và quốc tế.
Vấn đề về CDCCKT được C.Mác đề cập đến trong học thuyết về phân
công lao động xã hội và học thuyết về tái sản xuất xã hội. Kinh tế học thuộc trào lưu
chính đã đi sâu phân tích các điều kiện bảo đảm sự hoạt động hữu hiệu của thị
trường, coi đây là động lực phát triển kinh tế, nhưng cũng đã đề cao vai trò can thiệp
của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm hoạt động bình
thường của thị trường, duy trì sự ổn định vĩ mô.
Lý luận về giai đoạn phát triển kinh tế với đại biểu nổi bật W.Rostow đã
chia quá trình phát triển kinh tế của một nước thành 5 giai đoạn, gồm có: xã hội
truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, tăng trưởng và mức tiêu dùng cao. Cùng
quan điểm với nhà kinh tế học D.Bell, mới đây, học giả Tatyana P.Soubbotina đã
làm rõ thêm quá trình phát triển kinh tế qua các giai đoạn nông nghiệp, công nghiệp
hóa, hậu công nghiệp. Học giả Tatyana cũng rất quan tâm đến cuộc cách mạng tri
thức, trong đó đề cao vai trò của cách mạng khoa học, công nghệ và chất xám trong
quá trình phát triển của các quốc gia.
Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, quá trình phát triển kinh tế bao gồm
các giai đoạn nghèo đói, công nghiệp hóa, phát triển tiêu thụ. Đằng sau sự phát triển
kinh tế là mối quan hệ khăng khít giữa tăng trưởng kinh tế với chuyển dịch CCKT.
Ngân hàng Thế giới có hai công trình nghiên cứu lớn về CDCCKT: “Sự
thần kỳ của Đông Á” và “Suy ngẫm lại sự thần kỳ của Đông Á”. Hai công trình này
xem xét chính sách cơ cấu của các nước Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Singapore). Trong cuốn “Sự thần kỳ của Đông Á”, WB cho rằng CCKT là một trong
những nhân tố quyết định đến sự thần kỳ Đông Á. Điều này muốn nói rằng, vai trò
của Nhà Nước là rất lớn quyết định đến sự phát triển thần kỳ của khu vực này. Tuy
4
nhiên, trong cuốn “Suy ngẫm lại sự thần kỳ của Đông Á”, các tác giả, trong đó có
J.Stinglirt – đạt giải nobel kinh tế năm 2002 lại cho rằng, cơ bản chính sách cơ cấu ít
có tác động, mà sự CDCCKT chủ yếu do thị trường chi phối, quyết định.
Dowring (1959) cho rằng quy mô lớn của khu vực nông nghiệp làm khó
khăn cho quá trình chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp.
Trong khi Johnton và Kilby (1975) thì cho rằng sự chuyển dịch cơ cấu lao động
chậm là do nhu cầu của khu vực công nghiệp còn nhỏ và lương của người lao động
còn thấp.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã có nhiều công trình được công bố
trên các góc độ tiếp cận khác nhau:
Luận án Tiến sỹ của nghiên cứu sinh Phạm Thị Nga (2016): “Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững”, Viện Hàn
Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Tác giả đã hệ thống hóa được cơ cở lý luận và thực
tiễn về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quan điểm của Đảng và chính
sách pháp luật của Nhà nước về CDCCKT và quan điểm về phát triển bền vững.
Luận văn đã phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tại tỉnh Thái
Nguyên theo hướng phát triển bền vững. Làm rõ được những kết quả đạt được trong
quá trình CDCCKT ngành tại Thái Nguyên thời gian qua, những hạn chế và nguyên
nhân của những hạn chế đó. Từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy
quá trình CDCCKT ngành tại Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững.
Luận án Tiến sỹ của Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Cẩm Vân (2015): “Các
mô hình phân tích sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Đề tài đã rút ra được
những kết luận rất quan trọng, cụ thể: (1) Cơ cấu ngành của khu vực sơ cấp chuyển
5
dịch từ nông nghiệp sang khai khoáng rồi đến thủy sản. So với các nền kinh tế khác,
Việt Nam là một trong số rất ít các quốc gia mà khu vực sơ cấp đi theo định hướng
xuất khẩu. Đặc điểm này chứng tỏ công nghiệp hóa ở Việt Nam vẫn ở giai đoạn
thấp. (2) Mặc dù đã có tín hiệu chuyển dịch tích cực trong cơ cấu ngành của khu vực
chế biến chế tạo nhưng sự chuyển dịch này diễn ra chậm. Các ngành thâm dụng tài
nguyên và lao động vẫn chiếm ưu thế hơn so với các ngành thâm dụng vốn và công
nghệ. (3). Quá trình chuyển dịch chậm chạp đã tạo ra một cơ cấu ngành có hiệu quả
và năng lực cạnh tranh thấp. Xu hướng giảm giá trị gia tăng, tăng chi phí trung gian
ở cả ba nhóm ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ là một đặc điểm quan
trọng của quá trình Công nghiệp hóa (CNH) ở Việt Nam. (4). Các kết quả đều nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc nâng tỷ trọng vốn, đặc biệt là tỷ trọng lao động công
nghiệp đối với tăng trưởng của các ngành phi nông nghiệp và của nền kinh tế. Đây là
kết quả chưa được trả lời rõ ràng trong các nghiên cứu trước. (5). Các phát hiện của
luận án sẽ giúp các nhà quản lý và hoạch định chính sách nhận diện được những đặc
trưng trong chuyển dịch cơ cấu ngành và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, và giúp
gợi ý một số khuyến nghị về cơ cấu ngành hợp lý để thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng nhanh và CNH thành công. Tuy nhiên, đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành của thành phố Hồ Chí Minh có khác với mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của cả nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay xây dựng thành phố Hồ Chí Minh
trở thành đô thị thông minh, đây chính là nội dung chưa được đề cập tới trong luận
án tiến sỹ này.
Một nghiên cứu khác về “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội
nhập với khu vực và thế giới” của GS.TSKH.Lê Du Phong và PGS.TS Nguyễn
Thành Độ đã đề cập tới luận cứ khoa học của CDCCKT theo hướng hội nhập, thực
trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta từ những năm 1991 – 1997, thực trạng
CDCCKT ở một số vùng, phương hướng và giải pháp CDCCKT ở nước ta theo
6
hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Trong tài liệu này, phân
tích CDCCKT nói chung và CDCCKT ngành nói riêng chưa được đề cập đến.
“Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam - Thông tin chung” của
PGS.TS Bùi Tất Thắng, nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2009. Trên cơ sở khái
quát những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, những tiêu
chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, đề tài đánh giá quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ thực hiện chính sách đổi mới kinh tế.
Trong đó, bao gồm cả quá trình chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành và trong nội bộ
các ngành. Phân tích, khái quát tác động của những nhân tố mới cả trên thế giới và
trong nước đối với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong giai đoạn
tới.
“Bàn về cải tiến cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam” của PGS.TS Ngô
Doãn Vịnh - Viện Chiến lược phát triển, đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo số
tháng 1 – 2010. Bài báo đưa ra quan niệm về cải tiến cơ cấu kinh tế, theo đó cải tiến
cơ cấu kinh tế là một quá trình nhằm phát huy được lợi thế so sánh của đất nước, tạo
ra khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả lớn và đảm bảo yêu cầu bền vững cho
toàn bộ quá trình phát triển. Chủ thể chủ yếu và trực tiếp của việc cải tiến cơ cấu
kinh tế là nhà nước và doanh nghiệp. Muốn cải tiến thành công thì nhà nước và
doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị chu đáo. Tác giả cũng chỉ rõ tình trạng cơ cấu kinh
tế của Việt Nam trong hệ thống kinh tế thế giới. Đồng thời, khái quát những lợi thế
so sánh chủ yếu và khả năng cải tiến cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
Đề tài "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô Hà Nội đến năm 2020”, Luận
án Tiến Sĩ của tác giả Nguyễn Đình Dương. Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống cơ sở lý
luận về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong xu thế hội nhập quốc tế. Đánh giá thực trạng những thành tựu và hạn
7
chế cơ bản trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thủ đô Hà Nội
trong thời kỳ đổi mới; đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô đến năm 2020.
2.3. Các công trình nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh:
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh và Việt Nam theo hướng cạnh tranh đến năm 2020”, của đồng chủ biên
PGS.TS. Lương Minh Cừ - PGS.TS. Đào Duy Huân - ThS. Phạm Đức Hải, nhà xuất
bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012. Nội dung tập trung nghiên cứu
về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế của Thành phố
Hồ Chí Minh và Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những
giải pháp nhằm thay đổi mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế
theo hướng cạnh tranh để phát huy tiềm năng và thế mạnh của kinh tế thành phố theo
hướng nâng cao tính bền vững, hiệu quả, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, hài hòa
với mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển an sinh xã hội.
Nghiên cứu của tác giả Vương Đức Hoàng Quân (2014): Nhìn lại quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”. Nội dung
bài viết xoay quanh các vấn đề về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; mà trước hết là định
hướng và các chính sách được đề xuất bởi các cấp chính quyền TP.HCM. Xuất phát
từ thực trạng của quá trình chuyển dịch, nghiên cứu cho thấy được những thành tựu
và hạn chế, cũng như nguyên nhân của vấn đề. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải
pháp đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững.
2.4. Những khoảng trống và hướng nghiên cứu của luận văn
Thành phố Hồ Chí Minh được đánh giá là một trung tâm kinh tế lớn và
năng động của Việt Nam. Vì vậy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo, bài
viết về kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh. Các công trình nghiên cứu nói trên đều
8
đã đề cập đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nhiều góc độ, phạm vi khác
nhau. Tuy nhiên, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với giải pháp để xây
dựng Thành phố trở thành Đô thị thông minh là vấn đề mới, chưa có nhiều công
trình nghiên cứu đề cập đến.
Mặt khác, trong tình hình thực tế hiện nay của Thành phố Hồ Chí Minh
xuất hiện nhiều thời cơ, thách thức mới (sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0; Nghị quyết 54 của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc thù
phát triển Thành phố Hồ Chí Minh,…) đòi hỏi hướng giải pháp phải phù hợp hơn,
phải có tính đột phá mới có thể giúp tháo gỡ những khó khăn còn tồn tại, thúc đẩy cơ
cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, góp phần thực hiện được mục tiêu Xây
dựng Thành phố trở thành Đô thị thông minh. Luận văn sẽ tập trung vào nghiên cứu,
hệ thống hóa các vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh dưới góc nhìn kinh tế chính trị gắn với tình hình thực tế cấp bách hiện
nay của thành phố như: yêu cầu thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tận
dụng những lợi thế từ ưu đãi về cơ chế chính sách đặc thù dành cho Thành phố theo
tinh thần Nghị quyết 54 của Chính phủ; thực hiện Đề án xây dựng Thành phố trở
thành Đô thị thông minh đến năm 2025. Trên cơ sở đó, khuyến nghị một số giải pháp
nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng định hướng, đảm bảo nền kinh
tế phát triển bền vững góp phần thực hiện được mục tiêu đặt ra của Đề án “Xây dựng
Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm
nhìn đến năm 2025”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
9
Phân tích, luận giải về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với
Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn
2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025”
Nhiệm vụ
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành gắn với việc xây dựng đô thị thông minh ở Việt Nam
Khảo sát, đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh những năm qua, chỉ ra kết quả, hạn chế và
những vấn đề đặt ra
Đề xuất một số quan điểm, định hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành hướng tới mục tiêu xây dựng Thành phố
Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh đến năm 2025
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề cơ cấu kinh tế ngành và quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với việc xây dựng đô thị thông minh trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ kinh tế chính trị học.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Luận văn khảo sát trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
(có tìm hiểu một số thành phố khác như Hà Nội, Đà Nẵng để liên hệ, so sánh)
10
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2000,
tầm nhìn đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng – Nhà nước, và các văn kiện, nghị quyết
của Đảng bộ - Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tổng quát của luận văn là phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, được sử dụng trong việc nghiên cứu về các vấn đề về
CDCCKT ngành và xây dựng đô thị thông minh, trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
Luận văn cũng vận dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế
chính trị và kinh tế học hiện đại như phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương
pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp thống kê - mô
tả, phương pháp so sánh – đối chiếu... Các phương pháp này được sử dụng để khảo
sát, đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, những lợi thế đặc thù
của thành phố từ đó đưa ra những định hướng, mục tiêu và giải pháp phù hợp, xác
đáng.
6. Kết quả, đóng góp của luận văn:
11
Về lý luận: Góp phần hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây dựng đô thị thông minh ở Việt
Nam
Về thực tiễn: Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực tế, luận văn đề
xuất một số định hướng, giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế hướng tới mục tiêu xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành
Đô thị thông minh vào năm 2025.
7. Kết cấu nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục; luận văn gồm 3 chương, 9 mục
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
gắn với đô thị thông minh.
Chương 2 : Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên
địa bàn Tp. Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành góp phần xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô
thị thông minh đến năm 2025.
12
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI XÂY DỰNG
ĐÔ THỊ THÔNG MINH Ở VIỆT NAM
------
1.1. Những khái niệm lý luận cơ bản:
1.1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành:
Cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ
hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Cơ cấu kinh tế là một tổng thể kinh tế bao gồm
nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một
khoảng không gian và thời gian nhất định và được thể hiện ở mặt định tính và định
lượng, chất lượng và số lượng phù hợp với mục tiêu xác định của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế có nhiều loại, mỗi một loại cơ cấu phản ánh những nét đặc
trưng của các bộ phận và các cách mà chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát
triển nền kinh tế (PGS.TS. Đoàn Thị Thu Hà và PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền,
2007, trang 273) . Có các loại cơ cấu kinh tế như sau: Cơ cấu thành phần kinh tế; Cơ
cấu vùng – lãnh thổ; Cơ cấu ngành kinh tế…. Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế – tổ
hợp các ngành trong nền kinh tế theo một quan hệ tỷ lệ về lượng, thể hiện mối quan
hệ giữa các ngành – giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ quá trình và phản ánh trình độ
phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế tăng trưởng đòi hỏi tất yếu phải có
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế ngành:
13
Cơ cấu ngành của nền kinh tế là quan hệ tỷ lệ của tập hợp tất cả các ngành
hình thành nên nền kinh tế và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng. Cơ cấu
ngành là một chỉnh thể liên kết các ngành kinh tế theo một kiểu cấu trúc nhất định,
tạo ra những thuộc tính mới, chất lượng mới của hệ thống mà những thuộc tính này
không thể có ở từng bộ phận riêng rẽ hợp thành hệ thống; Là tổng thể những mối
quan hệ về số lượng (số lượng ngành, tỷ trọng) và chất lượng giữa các ngành trong
nền kinh tế (Phạm Thị Khanh, 2010, trang 12). Việt Nam phân loại ngành kinh tế
theo hướng dẫn phân loại ngành do Liên hiệp quốc ban hành, có thể khái quát thành
ba nhóm ngành lớn: 1. Nông – Lâm – Ngư nghiệp; 2. Công nghiệp, xây dựng; 3.
Thương mại và dịch vụ.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Là quá trình làm thay đổi cấu trúc và các mối quan hệ của một nền kinh
tế theo một chủ đích và một phương hướng nhất định. Đó là quá trình tăng tốc độ
và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế gắn liền với đổi mới căn bản
về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân và từng bước phát triển nền kinh tế dịch vụ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ có
mối quan hệ qua lại chặt chẽ. Tiến bộ khoa học công nghệ làm cho cơ cấu kinh tế
có sự thay đổi phù hợp, những thay đổi cơ cấu kinh tế lại có tác dụng mở đường
cho việc thực hiện tiến bộ khoa học công nghệ.
Quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước tuân
thủ những tính quy luật chung. Song do những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế
14
- xã hội… của mỗi nước, những xu thế thay đổi cơ cấu chung sẽ được biểu hiện qua
hình thái đặc thù của từng giai đoạn phát triển. Vì vậy nói đến vấn đề vận dụng
những tính quy luật chung vào việc xác định chính sách cơ cấu kinh tế của đất nước
cần phân tích những nhân tố ảnh hưởng đối với quá trình hình thành cơ cấu, có
nhiều nhân tố quy định cơ cấu kinh tế. Từng nhân tố riêng sẽ ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp, ít hoặc nhiều tới sự hình thành cơ cấu kinh tế (trước hết tới cơ cấu
sản xuất), đồng thời chúng cũng gắn bó với nhau chặt chẽ tạo thành một hệ thống
và tác động tới cơ cấu kinh tế như là kết quả của một sức mạnh tổng hợp.
Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao
gồm:
(1) Nhu cầu của thị trường: Thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội
quy định chất lượng và số lượng của hàng hóa – dịch vụ; đồng thời có tác động
đến quy mô, trình độ phát triển của các cơ sở kinh tế, xu hướng phát triển và phân
công lao động xã hội.
(2) Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: Sự phát triển của lực
lượng sản xuất sẽ tác động hình thành một cơ cấu kinh tế với vị trí, tỉ trọng các
ngành và lĩnh vực phù hợp hơn, không những thích ứng được yêu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất, mà còn đáp ứng nhu cầu của xã hội.
(3) Định hướng, chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà
nước: Các cơ quan quản lý nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt, quy định tỷ lệ
các ngành nghề; tuy nhiên vẫn tác động gián tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thông qua các định hướng, chiến lược và các chính sách khuyến khích ưu đãi hỗ
trợ.
15
(4) Yếu tố tiến bộ khoa học – kỹ thuật: Trên cơ sở ứng dụng khoa học –
kỹ thuật và công nghệ, năng suất lao động sẽ gia tăng; sản phẩm – dịch vụ có giá
trị gia tăng cao được phát triển, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế các
ngành nghề nhanh chóng và hiệu quả.
(5) Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế: Xu thế toàn cầu
hóa kinh tế sẽ tạo ra sự dịch chuyển các luồng vốn, lao động và công nghệ. Sự gia
nhập của các quốc gia vào các tổ chức và hiệp hội thương mại quốc tế giúp xóa bỏ
các rào cản thương mại giữa các nước. Từ đó, các chuỗi sản xuất liên kết giữa các
quốc gia sẽ được hình thành.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành:
Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc, tính chuyên môn hoá trong lao động ngày càng cao, sẽ làm xuất hiện hoặc
biến mất một số ngành kinh tế. Nói cách khác, sự phát triển của phân công lao động
xã hội và lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành nghề. Như
vậy, cơ cấu kinh tế ngành luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố
hợp thành cơ cấu kinh tế luôn vận động, phát triển. Sự thay đổi đó bao gồm cả về
số lượng và về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành. Từ đó, có thể hiểu: Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành là sự thay đổi về số lượng, vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương
tác giữa các ngành trong nền kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất và phân công lao động xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành không chỉ là thay đổi về số lượng, vị
trí, tỷ trọng và mối quan hệ giữa các ngành mà còn là sự thay đổi về lượng và chất
trong nội bộ các ngành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là cải tạo cơ cấu cũ, lạc
hậu, chưa phù hợp thành cơ cấu mới hoàn thiện và phù hợp hơn. Như vậy, thực
16
chất chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự điều chỉnh mối quan hệ, tỷ trọng giữa
các ngành cho phù hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội đã xác định cho từng thời
kỳ phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành được thể hiện rõ nét thông qua hai quá
trình:
Chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành là sự thay đổi về vị trí, tỷ trọng giữa
các ngành trong nền kinh tế cả về cơ cấu giá trị, cơ cấu vốn, cơ cấu lao động. Theo
đó, khi vị trí, tỷ trọng của nhóm ngành này tăng lên sẽ đồng nghĩa với việc vị trí và
tỷ trọng nhóm ngành khác giảm xuống tương ứng trong tổng giá trị sản phẩm xã
hội. Quá trình chuyển dịch giữa các ngành được xác định thông qua các chỉ số về
tổng giá trị sản phẩm xã hội làm ra. Đây cũng là tiêu chí đánh giá quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách chính xác.
Song song với quá trình chuyển dịch giữa các ngành luôn có sự chuyển
dịch trong nội bộ ngành. Theo đó, cùng với sự thay đổi vị trí, vai trò và tỷ trọng của
từng ngành trong tổng giá trị xã hội thì ngay trong một ngành cũng có sự thay đổi
về mặt cơ cấu giữa các phân ngành. Chuyển dịch trong nội bộ ngành là sự chuyển
dịch vị trí, vai trò và tỷ trọng của các phân ngành trong nội bộ ngành đó. Đối với
ngành nông nghiệp là sự dịch chuyển giữa các ngành nông, lâm, ngư; đối với công
nghiệp là công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, công nghiệp
khai thác; đối với dịch vụ và du lịch là thương mại, du lịch và dịch vụ. Sự dịch
chuyển trong nội bộ ngành thể hiện rõ nét quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế ngành thể hiện rõ nét bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế,
quá trình thay đổi của cơ cấu kinh tế ngành luôn chịu sự tác động của những nhân
17
tố ảnh hưởng đến nền kinh tế, bao gồm cả nhân tố bên ngoài và nhân tố bên trong;
cả nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
Nhân tố bên ngoài:
Trước hết, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phụ thuộc và chịu ảnh
hưởng lớn từ xu thế chính trị - xã hội trong khu vực và thế giới.
Xét đến cùng chính trị là biểu hiện tập trung của nền kinh tế. Sự biến
động về chính trị - xã hội của một nước hay một số nước, nhất là nước lớn, sẽ tác
động mạnh mẽ đến các hoạt động ngoại thương, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao
công nghệ, tiếp thu khoa học kỹ thuật… của các nước khác trên thế giới và khu
vực. Do đó, khi thị trường và nguồn lực từ nước ngoài thay đổi, buộc các quốc gia
phải điều chỉnh chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cho phù
hợp.
Hai là, xu thế toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá lực lượng sản xuất
Xu thế này tạo ra sự phát triển đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh của
nhau, hợp tác với nhau một cách toàn diện cả trong sản xuất và trao đổi hàng hoá,
dịch vụ. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế cho phép hình thành mạng lưới sản xuất
quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới và sự phát triển mạnh mẽ của các
công ty đa quốc gia, đã thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội vượt xa hơn
biên giới của một vùng lãnh thổ. Ngày nay, một sản phẩm hàng hoá không chỉ là
sản phẩm của một quốc gia, mà có thể có sự tham gia của nhiều công ty, xí nghiệp
thuộc nhiều nước trong khu vực và thế giới cùng sản xuất. Đối với các quốc gia
hướng về xuất khẩu thì yếu tố này trở thành nhân tố không thể thiếu trong quá trình
hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Xu thế này tạo ra sự đan xen vào
nhau, khai thác thế mạnh của nhau, thúc đẩy hợp tác với nhau một cách toàn diện
18
cả trong sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ và chuyển giao tiến bộ khoa học công
nghệ. Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tăng lên, các mối quan hệ hợp
tác kinh tế giữa các nước và các khu vực ngày càng trở lên sâu rộng và mật thiết
hơn.
Ba là, các thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ
Thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ thông tin là những
yếu tố bên ngoài tác động và ảnh hưởng lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Các yếu tố này tạo điều kiện cho các nhà sản xuất kinh doanh nắm bắt thông tin,
hiểu thị trường và hiểu đối tác mình muốn hợp tác. Từ đó, giúp họ định hướng sản
xuất kinh doanh, thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh phù hợp với xu thế hợp tác
đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh của nhau, cùng nhau phân chia lợi nhuận.
Khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến được coi là nhân tố quyết định
đối với quá trình sản xuất, làm tăng mạnh giá trị kinh tế các ngành, lĩnh vực, tạo ra
những bước đột phá lớn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các nhân tố bên ngoài có vai trò rất quan trọng và là nhân tố tác động
đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Song nhân tố bên trong
mới là những yếu tố quyết định.
Nhân tố bên trong
Một là, nhân tố thị trường và tiêu dùng của xã hội: Thị trường và nhu cầu
xã hội là người đặt hàng cho tất cả các ngành kinh tế. Nếu như xã hội không có nhu
cầu thì không thể có bất kỳ một quá trình sản xuất nào diễn ra cả. Cũng như vậy
không có thị trường thì không có kinh tế hàng hoá. Thị trường và nhu cầu xã hội
không chỉ quy định về số lượng mà cả về chất lượng các sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ. Vì vậy, nó có tác động trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển của các cơ
19
sở kinh tế; đến xu hướng phát triển và phân công lao động xã hội; đến vị trí và tỷ
trọng giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Hai là, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất bao
gồm tư liệu lao động và con người có khả năng sử dụng tư liệu lao động để tác
động vào điều kiện tự nhiên, tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu
xã hội. Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, là động lực phát triển của xã hội.
Nhu cầu của xã hội là vô tận và ngày càng đòi hỏi khắt khe. Muốn đáp ứng đầy đủ
những nhu cầu xã hội đòi hỏi trước hết là phải phát triển lực lượng sản xuất. Sự
phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất sẽ làm thay đổi quy mô sản xuất,
thay đổi công nghệ, thiết bị, hình thành các ngành nghề mới, biến đổi lao động giản
đơn thành lao động phức tạp, tạo ra sự phát triển của ngành này hoặc ngành khác.
Sự phát triển đó phá vỡ cân đối cũ, hình thành một cơ cấu kinh tế ngành mới với vị
trí, tỷ trọng của các ngành phù hợp hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội. Quá
trình phát triển đó diễn ra một cách khách quan và từng bước tạo ra một sự cân đối
hợp lý hơn, có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và nước ngoài. Như vậy,
sự phát triển của lực lượng sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành cơ cấu
kinh tế ngành. Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng khiến cho cơ cấu kinh tế
ngành cũng luôn luôn thay đổi. Mặt khác, cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, điều kiện tự nhiên ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành. Những yếu tố tự nhiên tạo điều kiện cho phép phát triển một ngành
sản xuất nào đó một cách thuận lợi hoặc khó khăn. Lợi thế tự nhiên tác động đến
tăng trưởng kinh tế không những theo chiều rộng mà còn đảm bảo cho tăng trưởng
theo chiều sâu nếu có chính sách khai thác, sử dụng hiệu quả. Lợi thế tự nhiên tạo
ra những lợi thế cho nền kinh tế, là cơ sở hình thành và phát triển các ngành kinh tế
khác nhau. Tuy nhiên, những yếu tố, điều kiện tự nhiên chỉ là nền tảng để có thể
phát triển kinh tế, tích luỹ đầy đủ các yếu tố để phát triển theo chiều sâu.
20
Ba là, quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cơ chế
quản lý: Cơ chế quản lý của Nhà nước có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế ngành nói riêng. Nếu cơ chế
chính sách khoa học, phù hợp với quy luật khách quan và tình hình thực tiễn thì sẽ
thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế diễn ra nhanh và hiệu quả. Ngược lại, nếu cơ chế chính sách thiếu căn cứ khoa
học, không xuất phát từ quy luật khách quan sẽ kìm hãm, làm chậm lại quá trình
phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trên thực tế, thể chế chính trị - xã hội -
kinh tế tác động đến quá trình phát triển trên khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý
và môi trường xã hội. Vì vậy, mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan và tính
lịch sử xã hội, nhưng nó lại chịu sự tác động, chi phối của Nhà nước. Nhà nước tác
động gián tiếp thông qua định hướng chiến lược, đặt ra các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội và khuyến khích mọi ngành kinh tế phát triển nhằm đạt các mục tiêu đề
ra. Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt các ngành nghề, không quy định cụ thể về
cơ cấu kinh tế song thông qua hệ thống pháp luật, các quy định, thể chế, chiến lược
phát triển, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước có sự điều tiết vĩ mô, dẫn
dắt các ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển theo định hướng chung, đảm bảo tính cân
đối và đồng bộ của nền kinh tế.
Bốn là, đặc điểm văn hoá - xã hội: Nhân tố văn hoá - xã hội bao trùm
nhiều mặt từ các tri thức phổ thông đến các tích luỹ tinh hoa của văn minh nhân
loại về khoa học, công nghệ, văn học, lối sống và các ứng xử trong quan hệ giao
tiếp, những phong tục tập quán,… Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ
văn minh cao và sự phát triển cao. Những đặc điểm văn hoá - xã hội có thể có tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
21
Năm là, dân số: Dân số được xem là nguồn lực quan trọng cho chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành được xem xét trên các mặt chủ yếu sau:
Kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật
mới… Trình độ dân trí và kết cấu dân cư ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguồn
nhân lực. Các ngành nghề chỉ có thể phát triển mạnh mẽ và bền vững trên cơ sở
nguồn nhân lực của nền kinh tế dồi dào. Không thể phát triển khoa học kỹ thuật
trên cơ sở dân trí thấp, khả năng tiếp thu hạn chế.
Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập dân cư có ảnh hưởng đến quy
mô và tính chất của thị trường. Dân số đông là tiền đề cho một thị trường rộng lớn,
thu nhập dân cư ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành các ngành sản xuất và các
loại thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ.
1.1.3. Những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, những chỉ tiêu cơ bản
phản ánh sự chuyển dịch bao gồm:
(1) Mức độ thay đổi của cơ cấu GDP
Phân tích sự thay đổi tỷ lệ phần trăm GDP của các ngành nông nghiệp,
công nghiệp, và dịch vụ là một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để
đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành.
(2) Mức độ thay đổi của cơ cấu lao động
22
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn được đánh giá qua một chỉ tiêu
rất quan trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế được phân bổ như
thế nào vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
(3) Mức độ thay đổi của cơ cấu hàng xuất khẩu
Mức độ thay đổi này thường trải qua một quá trình là: từ chỗ chủ yếu sản
xuất và xuất khẩu các loại sản phẩm sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp như lắp
ráp, sản phẩm dệt may, chế biến nông lâm thủy sản… chuyển dần sang các loại sản
phẩm sử dụng nhiều lao động trình độ cao, công nghệ kỹ thuật hiện đại như sản
phẩm cơ khí chế tạo, hóa chất, điện tử,… Chính vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng
xuất khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang những loại sản phẩm chế biến dựa trên cơ
sở công nghệ - kỹ thuật cao luôn được xem như một trong những thước đo rất quan
trọng đánh giá mức độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Bên cạnh ba chỉ tiêu chủ yếu trên, một nhóm các chỉ tiêu khác cũng
thường được sử dụng để đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu kinh tế. Đó là các chỉ số
về tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động xã hội, chỉ số ICOR, mức độ tiêu
hao năng lượng trên mỗi đơn vị GDP được tạo ra, số lượng việc làm mới được tạo
ra, tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ giảm nghèo…
1.1.4. Đô thị thông minh
Quá trình hình thành khái niệm “Đô thị thông minh”
Nếu như khái niệm "Cách mạng công nghiệp 4.0" đang là xu thế tất yếu
của sự phát triển trên toàn thế giới thì "Đô thị thông minh" hay “Thành phố thông
minh" cũng là một hệ quả tất yếu của "Cách mạng 4.0".
23
Mặc dù việc xây dựng thành phố thông minh đã có từ trước nhưng phải
đến khi cách mạng 4.0 có được những thành quả nhất định thì việc triển khai thành
phố thông minh mới thật sự bùng nổ. Những công nghệ chủ đạo của nền công nghiệp
4.0 giờ đây cũng trở thành các công cụ đắc lực để xây dựng thành phố thông minh.
Những quốc gia đang triển khai xây dựng thành phố thông minh, có thể kể
đến như:
Singapore với Chiến lược "người dân tay nghề cao, nền kinh tế sáng tạo,
Thành phố toàn cầu riêng biệt" hay Chiến lược Intelligent Nation 2015 (iN2015)
được thực hiện bởi Infocomm Development Authority (IDA).
Thành phố Barcerlona (Tây Ban Nha) đã tiến hành chiến lược với tên
"CityOS" để xây dựng thành phố thông minh thông qua công nghệ cảm biến và được
coi là thành phố thông minh nhất thế giới trong năm 2015 (theo một nghiên cứu của
Juniper Research).
Thành phố thông minh Amsterdam (Hà Lan) đã bắt đầu khởi động từ năm
2009 với hơn 170 dự án để ứng dụng công nghệ thiết bị không dây vào đời sống
nhằm giảm các vấn đề giao thông, ô nhiễm môi trường hay lãng phí năng lượng...
Malaysia: Chiến lược “Chính phủ số” - Digital Govement (đến năm 2020
- tất cả mọi thứ, mọi người đều kết nối Internet để truy cập dịch vụ thông minh) -
Smart Government (Social-Mobile-BigDataAnalytics, Radical openess, Trust)
Hàn Quốc: Chiến lược U-Korea và Kế hoạch “Seoul thông minh đến
2015”
Trung Quốc: Thành phố Urban Smart 4.0
24
Liên minh Châu Âu (EU): Các thành phố thông minh tiêu biểu như
Stockholm, Copenhagen, Barcelona, Helsinki, London, Vien,…
Hoa Kỳ: Các thành phố thông minh tiêu biểu là Dubuque (bang Iowa),
NY, Chicago, Columbus, Bang Ohio ….
Canada: Thành phố Vancouver (Greenest Vancouver city by 2020)
Khái niệm “Đô thị thông minh”
Trên thế giới, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về “Đô thị thông minh”.
Qua nhiều hội thảo trong và ngoài nước, các chuyên gia chỉ ra rằng: “Một thành phố
chỉ thực sự thông minh khi hội tụ ba yếu tố: (1) Hạ tầng hiệu quả; (2) Phát triển bền
vững; và (3) Môi trường sống thân thiện”2.
Có thể định nghĩa khái quát như sau: Thành phố thông minh là thành phố
sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để thu thập, truyền, lưu trữ và xử lý dữ
liệu (lớn) hướng tới phục vụ người dân (nâng cao chất lượng cuộc sống đô thị) và
quản lý đô thị thông minh (chủ động trong các tình huống hiện tại và có dự báo cho
tương lai).
Mục tiêu cơ bản của thành phố thông minh là nâng cao chất lượng dịch vụ
cung cấp cho người dân và quản lý hiệu quả đô thị (tiết kiệm năng lượng, giảm ô
nhiễm, tăng cường an ninh,... với tính dự báo cao). Từ đó làm nền tảng cho phát triển
bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường.
Những vấn đề "trụ cột" để xây dựng một "thành phố thông minh": Nghiên
2 Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025
cứu của Giffinger và cộng sự (2007) đã đưa ra 4 vấn đề về đô thị thông minh, bao
25
gồm: (1) Sự biến đổi của các ngành sản xuất công nghiệp; (2) Sự phát triển của
công dân đô thị; (3) Sự hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật đô thị; (4) Sự phát triển của
chính quyền đô thị.
Để có thể xây dựng các "trụ cột" này, nền tảng cốt lõi của nó chính là IOT
(hay Vạn vật kết nối - Internet of Things) cùng sự tích hợp công nghệ truyền đạt và
thông tin (ICT) như: Những tòa nhà thông minh, thân thiện môi trường, hệ thống
giao thông thông minh, quản lý thông minh, hệ thống chăm sóc sức khỏe thông
minh, cơ sở hạ tầng thông minh, bảng thông tin tương tác thông minh, đèn giao
thông thông minh, ứng dụng thông minh...
Tiêu chí đánh giá “Đô thị thông minh”
Trên thế giới chưa có các tiêu chuẩn chính thức về thành phố thông minh.
Tuy nhiên, một số tiêu chí chính sau cũng được các tổ chức, các nước lựa chọn
để đánh giá và làm tiêu chí cho một thành phố thông minh là: (1) Nền kinh tế thông
minh; (2) Di chuyển thông minh; (3) Môi trường thông minh; (4) Quản lý đô thị hiện
đại; (5) Cư dân thông minh; (6) Cuộc sống thông minh. Trong một thành phố thông
minh, hoạt động quản lý nhà nước của bộ máy chính quyền hay “Chính quyền điện
tử”, “Chính quyền thông minh” đóng vai trò chủ đạo.
“Dù có đến 6 tiêu chí để xác định một thành phố thông minh, tuy nhiên,
ngay cả trên thế giới, mỗi thành phố cũng lại xác định một hướng trọng tâm, chẳng
hạn như các nước Châu Âu thường hướng tới môi trường xanh, tiết kiệm năng
lượng, đặc biệt là các ứng dụng trong lĩnh vực giao thông thông minh. Các nước ở
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương hướng nhiều hơn đến việc ứng dụng Công nghệ
thông tin trong các lĩnh vực Chính quyền điện tử, y tế, giao thông, giáo dục, quản lý
đô thị,...”
26
Ở nước ta, việc tiếp cận và thực hiện thành phố thông minh chủ yếu lấy
“Chính quyền điện tử” làm trọng tâm và phát triển hơn một số các tiêu chí, phù hợp
với nhu cầu, điều kiện và nguồn lực có thể có của từng thành phố và từng giai đoạn,
cụ thể như:
Năm 2012, Đà Nẵng là đô thị đầu tiên của nước ta được Tập đoàn công
nghệ IBM chọn là 1 trong 33 thành phố trên thế giới triển khai thành phố thông
minh. Đà Nẵng khi đó được nhận tài trợ từ chương trình thành phố thông minh hơn
với tổng giá trị tài trợ trên 50 triệu USD, sử dụng giải pháp điều hành trung tâm
thông minh để đảm bảo chất lượng nguồn nước phục vụ người dân, cung cấp giao
thông công cộng tốt nhất và giảm thiểu ách tắc giao thông, song song với đó là hoàn
thiện mô hình Chính quyền điện tử.
Năm 2015, Hà Nội đã thực hiện đề án xây dựng thành phố thông minh
hơn với trọng tâm là Chính quyền điện tử, hiệu quả trong quản lý điều hành, phát
triển giáo dục y tế, văn hóa, giao thông,... hướng đến hình thành và phát triển kinh tế
tri thức đưa Thủ đô tham gia vào các diễn đàn thành phố thông minh trên thế giới.
Ngày 23 tháng 11 năm 2017, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh đã ban hành Quyết định số 6179/QĐ-UNBD về việc phê duyệt Đề án
“Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 -
2020, tầm nhìn đến năm 2025” với tầm nhìn đến năm 2025 là: “Thành phố Hồ Chí
Minh sẽ phát triển kinh tế tương đối cao, bền vững, trên nền tảng khai thác tốt nhất
các nguồn lực, với người dân là trung tâm của đô thị”. Những tiêu chí cơ bản cần đạt
được là: Xây dựng TP. HCM trở thành nơi có chất lượng sống và môi trường làm
việc tốt; đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế hướng đến kinh tế tri thức; Xây dựng
chính quyền điện tử, ứng dụng các mô hình dự báo kinh tế; Đối với người dân, phải
27
tạo ra các kênh tương tác giữa chính quyền và người dân cũng như các tiện ích
thông minh để tương tác; Kiến tạo môi trường hoạt động minh bạch…
Có 4 nguyên tắc định hướng trong việc triển khai xây dưng Đô thị thông
minh
Thứ nhất, Tầm nhìn chính xác, xuyên suốt và được sự đồng thuận cao.
Tầm nhìn phải đạt độ chính xác cao, bao hàm được khả năng dự báo phát triển của
đô thị thông minh. Tầm nhìn cho từng lĩnh vực phải gắn kết với tầm nhìn chung của
địa phương, được sự đồng thuận cao của người dân. Lãnh đạo các cấp cần phải cam
kết với tầm nhìn tổng quát của địa phương thông qua những hoạt động, chỉ đạo, định
hướng cụ thể và xuyên suốt. Tận dụng được tầm ảnh hưởng của nhiều đơn vị, tổ
chức, hiệp hội, cộng đồng...
Thứ hai, Luôn lắng nghe, nắm bắt và phục vụ kịp thời các nguyện vọng và
nhu cầu của người dân. Chính quyền luôn luôn lắng nghe, nắm bắt và phục vụ kịp
thời các nguyện vọng và nhu cầu của người dân, đảm bảo cung cấp các tiện ích, cung
cấp các dữ liệu hỗ trợ người dân ra quyết định. Sự đổi mới luôn phải được xuất phát
từ nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Người dân được tích cực tham gia trong
quá trình giám sát quản lý và xây dựng thành phố.
Thứ ba, Công nghệ là công cụ hỗ trợ phát triển. Tận dụng tối đa các cơ
hội để phát triển không gian mạng, số hóa, kết nối và tích hợp các hệ thống, quy
trình, dịch vụ phục vụ công tác dự báo và điều hành một cách tổng thể. Phải đảm bảo
4 chủ thể (chính quyền, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân) đều
được hưởng lợi từ việc ứng dụng công nghệ nhằm tối ưu quá trình ra quyết định.
Thứ tư, Huy động mọi nguồn lực. Chia sẻ và tái sử dụng các nguồn lực:
Tuân thủ các tiêu chuẩn mở và kiến trúc hướng dịch vụ để đảm bảo tính đồng vận
28
hành, tránh đầu tư trùng lắp. Tất cả các dự án mới phải nghiên cứu khả năng chia sẻ
và mở rộng nền tảng hạ tầng, cơ sở dữ liệu, ứng dụng hiện hữu. Luôn tạo cơ hội để
khuyến khích hợp tác sáng tạo. Khuyến khích tinh thần sáng tạo thông qua giáo dục
và hình thành một nếp văn hóa xã hội sẵn sàng tiếp nhận đổi mới. Đồng thời xây
dựng cơ chế chính sách và hành lang pháp lý để triển khai các mô hình cộng tác,
kinh doanh mới và có các chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp sáng tạo,
khởi nghiệp. Đảm bảo tính linh hoạt và thích ứng cao: Tuân thủ phương châm tư duy
tổng thể, triển khai linh hoạt. Triển khai theo từng giai đoạn để đảm bảo người dân,
doanh nghiệp và chính quyền có thời gian thích ứng với thay đổi.
1.2. Một số mô hình, lý thuyết và quan điểm của Đảng – Nhà nước về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.2.1. Một số mô hình, lý thuyết hiện đại
Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis
Một trong những lý thuyết nổi tiếng ra đời sớm trong lĩnh vực phát triển
về sự thay đổi cơ cấu do W.Arthur Lewis (1915-1991, là nhà kinh tế học Jamaica
được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1979) đưa ra vào vào giữa thập niên 1950, sau
đó được John Fei và Gustav Ranis bổ sung, khai triển thêm. Trong mô hình Lewis,
nền kinh tế chậm phát triển luôn có hai khu vực cơ bản:
Thứ nhất, khu vực nông thôn truyền thống (traditional sector). Khu vực
này tập trung phần lớn dân số và đang trong tình trạng dư thừa lao động. Do đó,
Lewis xếp lao động này như là “dư thừa”, tức là lượng lao động này mà có rút ra
khỏi khu vực nông nghiệp thì vẫn không làm giảm sản lượng của nông nghiệp.
29
Thứ hai, khu vực thành thị công nghiệp hiện đại (modern sector) với đặc
trưng là năng suất cao. Trong khu vực này, nếu có lao động tăng thêm sẽ làm tăng
sản lượng. Do vậy, mô hình này gợi ý về sự di chuyển lao động trong khu vực nông
thôn sang khu vực thành thị công nghiệp hiện đại. Sản lượng trong khu vực công
nghiệp gia tăng là do tỷ lệ đầu tư và tích lũy vốn ngày càng tăng đã thu hút lao động
từ khu vực nông nghiệp chuyển đến ngày càng nhiều. Sự phát triển của khu vực công
nghiệp quyết định quá trình tăng trưởng của nền kinh tế.
Như vậy, để phát triển thì các quốc gia đang phát triển cần phải mở rộng
khu vực công nghiệp hiện đại và không cần quan tâm đến khu vực nông nghiệp
truyền thống. Khu vực công nghiệp phát triển sẽ thu hút hết lượng lao động dư thừa
trong nông nghiệp chuyển sang và từ trạng thái nhị nguyên nền kinh tế sẽ chuyển
sang một nền kinh tế công nghiệp phát triển.
Mặc dù mô hình phát triển của Lewis vừa đơn giản và cung cấp một ý
nghĩa thực tế trong ý tưởng chính sách về chuyển dịch cơ cấu ở các nước đang phát
triển. Thế nhưng, chính sự đơn giản hóa, bằng các giả định của mô hình, tự nó đã
kéo mô hình ra quá xa với thực tế. Đó là: Điều gì sẽ xảy ra nếu lợi nhuận tăng thêm
của các nhà tư bản được tái đầu tư vào các loại thiết bị hiện đại có tính chất tiết kiệm
lao động; Trong thực tế quan sát ở nhiều nước đang phát triển cho thấy có thất
nghiệp đồng thời ở cả thành thị và nông thôn; Một điều quan trọng khác mà mô hình
cũng đã đơn giản hóa, đó là lao động là đồng nhất. Nghĩa là lao động ở nông thôn có
thể di chuyển lên thành thị và hòa nhập một cách nhanh chóng. Điều này trên thực tế
rất khó có thể xảy ra. Mọi sự dịch chuyển lao động từ khu vực này sang khu vực
khác, từ ngành này sang ngành khác đều phải cần thời gian thích nghi, đào tạo.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế ở các nước Châu Á gió mùa của Harry
Toshima
30
Lý thuyết này do nhà kinh tế học Nhật Bản là Harry Toshima đưa ra. Ông
phê phán lý thuyết tăng trưởng của Athur Lewis là không thực tế đối với các nước
Châu Á gió mùa. Theo H. Toshima, “vẫn giữ lại số lao động trong nông nghiệp, chỉ
tạo thêm nhiều hoạt động sản xuất ở những tháng nhàn rỗi bằng cách tăng vụ, đa
dạng hóa cây trồng, chăn nuôi gia súc và gia cầm, mở thêm ngành sản xuất cần nhiều
lao động, nhờ đó thu nhập của nông dân tăng lên và mở rộng thị trường cho các
ngành dịch vụ và công nghiệp. Như vậy lực lượng lao động sẽ được sử dụng hết. Khi
đó, tổng sản phẩm quốc gia và GNP tính theo đầu người cũng tăng nhanh. Từ phân
tích trên, ông cho rằng: “nông nghiệp hóa” là con đường tốt nhất để phát triển kinh tế
ở các nước Châu Á gió mùa, tiến tới một xã hội có cơ cấu kinh tế công nông nghiệp
– dịch vụ”3.
Lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu của Moise Syrquin
Có thể tóm tắt lý thuyết chuyển dịch cơ cấu kinh tế của M. Syrquin gồm
ba giai đoạn: (1) sản xuất nông nghiệp, (2) công nghiệp hóa, và (3) nền kinh tế phát
triển.
Giai đoạn 1: có đặc trưng chính là các hoạt động của khu vực khai thác
chiếm ưu thế, đặc biệt là nông nghiệp, trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng kinh tế
chung khá chậm do tỷ trọng tương đối cao của khu vực nông nghiệp trong tổng giá
trị gia tăng (hay GDP).
Giai đoạn 2 hay là giai đoạn công nghiệp hóa: có đặc điểm nổi bật là tầm
quan trọng trong nền kinh tế đã được dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu
vực chế biến và chỉ tiêu chính để đo lường sự dịch chuyển này là tầm quan trọng của
3 TS. Nguyễn Minh Tuấn và TS. Nguyễn Hữu Thảo (2009, trang 200)
khu vực chế biến trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung ngày càng tăng lên.
31
Giai đoạn 3: là giai đoạn của một nền kinh tế phát triển. Giai đoạn này
được thể hiện qua việc giảm sút tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP
hay trong cơ cấu lực lượng lao động. Khu vực dịch vụ trở thành khu vực quan trọng
nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP cũng như cơ cấu lao động. Trong
giai đoạn này, nhân tố đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng là nhân tố năng suất tổng
hợp (Total Factor Productivity - TFP).”
Nhìn chung, lý thuyết chuyển dịch cơ cấu của M. Syrquin thể hiện khá
chính xác về sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới, có thể tóm
lược qua 4 giai đoạn phát triển chính như sau: Giai đoạn 1: Nông nghiệp – Công
nghiệp – Dịch vụ; Giai đoạn 2: Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ; Giai đoạn 3:
Công nghiệp – Dịch vụ – Nông nghiệp; Giai đoạn 4: Dịch vụ – Công nghiệp – Nông
nghiệp
1.2.2. Quan điểm của Đảng – Nhà nước về “Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành gắn với xây dựng Đô thị thông minh”
Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại
của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn
2011 – 2015, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Tập
trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược
(hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và
đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.”
32
“Trên cơ sở quan điểm phát triển đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2011 - 2020, qua thực tiễn 5 năm 2011 - 2015 và yêu cầu của bối cảnh tình
hình mới, quan điểm phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020 được xác định
là: Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và không
ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển hài hòa
giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri
thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã
hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm quốc
phòng, an ninh và giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước”4.
Đảng – Nhà nước ta cũng đề ra nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện
phát triển Đô thị thông minh, có thể kể đến như:
Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII về “Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền
kinh tế” đã đề cập đến một nội dung “ưu tiên phát triển một số đô thị thông minh”;
Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về chính
phủ điện tử.
Quyết định 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của
cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 – 2020, trong đó yêu cầu: "Triển khai đô thị thông
minh ít nhất tại 3 địa điểm theo các tiêu chí do Bộ Thông tin và Truyền thông hướng
4 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
dẫn".
33
Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc
tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Từ những chủ trương, đường lối trên, có thể khái quát một số quan điểm
cơ bản của Đảng – Nhà nước về “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây
dựng Đô thị thông minh” ở nước ta như sau:
Một là: Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế;
đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững
“Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp có hiệu quả
phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất
lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng
dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế phát triển nhanh và
bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu
và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa vào cả vốn đầu tư, xuất khẩu và thị
trường trong nước. Động lực quan trọng nhất và cũng là điều kiện để đổi mới mô
hình tăng trưởng là đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới,
sáng tạo.
Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn kết chặt chẽ với thực hiện ba đột phá
chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế với trọng tâm ưu tiên là: Hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân
đối lớn của nền kinh tế; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi
cho khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học -
5 Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 Hội nghị Trung ương 4 khóa XII
công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài”5
34
Nâng cao khả năng dự báo chính xác hơn xu hướng phát triển trong tương
quan với các số liệu yếu tố đầu vào đa ngành góp phần đề ra các chính sách tổng thể
và phù hợp nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo đúng định hướng. Công tác
điều hành mang tính tổng thể, tích hợp liên ngành cao trên cơ sở kết nối, dùng chung
dữ liệu và nguồn lực giúp tối ưu chi phí, góp phần tăng hiệu quả sử dụng ngân sách.
Đô thị thông minh cũng tạo cơ hội để các thành phố đẩy mạnh phát triển
lĩnh vực công nghệ cao như công nghiệp vi mạch (góp phần vào sự phát triển của các
giải pháp ứng dụng IoT - Internet vạn vật (IoT) chính là nền tảng cốt lõi của cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0). Tận dụng dữ liệu mở, người dân, doanh nghiệp, và
chính quyền có thể đẩy mạnh hợp tác cùng xây dựng một hệ sinh thái sản phẩm tiện
ích có giá trị cao, kiến tạo môi trường khuyến khích sáng tạo và khởi nghiệp trên nền
tảng công nghệ theo định hướng mở. Đồng thời, thông qua việc hỗ trợ nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực (tập trung vào nguồn nhân lực chất lượng cao và nguồn nhân
lực trong tương lai), cải cách hành chính và tăng cường hiệu quả hoạt động của các
lĩnh vực, đô thị thông minh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế các
thành phố theo hướng kinh tế tri thức.
Hai là: Ưu tiên phát triển các ngành – lĩnh vực công nghệ cao, hướng
đến kinh tế tri thức, kinh tế số
“Tập trung xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc
gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn; phát triển có chọn lọc
một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công
nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá chất, công nghiệp xây
dựng, xây lắp. Rà soát, bổ sung chiến lược phát triển công nghiệp; phân bố công
nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp.
Đẩy nhanh phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học, công nghệ, có
35
tỉ trọng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng cao; có lợi thế cạnh tranh, tham gia mạng
sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp, xây
dựng bình quân khoảng 8,0 - 8,5%/năm; đến năm 2020 tỉ trọng công nghiệp, xây
dựng trong GDP khoảng 40%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP
khoảng 25%, trong đó công nghiệp chế tạo khoảng 15%.”
“Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu
sản xuất cơ bản của nền kinh tế. Phát triển công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa
dầu, hóa chất với công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm có
khả năng cạnh tranh. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp cơ khí chế tạo mạnh và
sản phẩm cơ khí trọng điểm. Có chính sách phát triển công nghiệp điện tử, công
nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp phần mềm. Ưu tiên phát triển công nghiệp
phục vụ nông nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật tư và máy
nông nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường liên kết giữa các
tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước, hình thành các khu công nghiệp
hỗ trợ theo cụm liên kết ngành. Hỗ trợ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, nhất
là năng lượng gió, mặt trời”6.”
“ “Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến. Tiếp cận và làm chủ
các công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực công nghiệp xây lắp, đáp ứng yêu cầu xây
dựng trong nước và có khả năng cạnh tranh quốc tế. Phát triển mạnh công nghiệp vật
liệu xây dựng, nhất là vật liệu mới, vật liệu chất lượng cao.”
“Xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia, tạo khuôn khổ
chính sách đồng bộ, trọng tâm, đột phá hướng vào tăng năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh; Tập trung vào những ngành công nghiệp nền tảng, có lợi thế
6 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
cạnh tranh và có ý nghĩa chiến lược đối với tăng trưởng nhanh, bền vững; lựa chọn
36
sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp chủ lực để ưu tiên phát triển, cơ cấu lại;
phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, tăng mạnh năng suất nội bộ ngành, tăng
hàm lượng công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; Chú trọng phát triển
công nghiệp sản xuất linh kiện, cụm linh kiện, thúc đẩy một số mặt hàng tham gia
sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị, phân phối toàn cầu.”7
Ba là: Khai thác, phát huy tốt nhất mọi nguồn lực:
Các văn kiện Đại hội Đảng từ khi đổi mới đến nay đều thống nhất quan
niệm về các nguồn lực phát triển kinh tế theo nghĩa rộng, bao gồm: vốn, tài nguyên
thiên nhiên, lao động và khoa học công nghệ.
Trong các giai đoạn phát triển tiếp theo kể từ năm 2000, Đảng đều nhấn
mạnh vào việc chăm lo phát triển nguồn nhân lực, khẳng định mục tiêu và động lực
chính của sự phát triển là “vì con người, do con người”. Báo cáo chính trị tại Đại hội
XI nêu rõ “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển
và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững”8.
Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải tập trung phát triển nguồn nhân
lực, các nguồn lực khác của tăng trưởng như vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học
công nghệ… cũng luôn được quan tâm bởi vì vai trò quan trọng của việc tổng hợp
các nguồn lực trong quá trình phát triển đất nước. Gần đây nhất, trong Báo cáo chính
7 Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 Hội nghị Trung ương 4 khóa XII 8 Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 130
trị tại Đại hội XII của Đảng (2016), các nguồn lực cơ bản và quan trọng tiếp tục
37
được đề cập trọng tâm trong định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế: “Nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao
năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập
quốc tế, phát triển nhanh và bền vững”9. “Khai thác, sử dụng và quản lý hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó
với biến đổi khí hậu”10.
Như vậy, Đảng đã có nhận thức rõ ràng, thống nhất về các nguồn lực, vai
trò của các nguồn lực và sự tương tác giữa các nguồn lực này trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội đất nước, đặc biệt là từ khi thực hiện đổi mới đến nay.
Bốn là: Nâng cao chất lượng môi trường sống và làm việc của người
dân:
Tập trung chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt
nhất những vấn đề bức thiết của người dân (tình hình giao thông, chất lượng môi
trường, ngập nước, y tế, giáo dục...)
Thông qua việc kết nối và cung cấp các thông tin dữ liệu theo thời gian
được cá nhân hóa cho người dân và doanh nghiệp (dữ liệu thống kê ngành nghề, thị
trường tiêu dùng, xuất nhập khẩu, hoạt động tài chính, chứng khoán...); Thông qua
các kênh kết nối phù hợp và thông qua việc cung cấp dữ liệu mở rộng rãi, chính
quyền tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp nêu ý kiến, phản
ánh các bức xúc, thực hiện vai trò giám sát của mình để cung cấp thông tin cho chính
9 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình bày tại Đại hội XII của Đảng, tr. 30 10 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình bày tại Đại hội XII của Đảng, tr. 22
quyền về các vấn đề như y tế, an toàn thực phẩm, môi trường... đối thoại với chính
38
quyền và tham gia trong suốt quá trình xây dựng và triển khai các chính sách, giải
pháp, dịch vụ.
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây dựng
đô thị thông minh ở một số địa phương
1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hà Nội
Năm 1991, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XI đã xác định cơ cấu kinh
tế Hà Nội là công nghiệp - thương mại, du lịch, dịch vụ và nông nghiệp. Theo định
hướng đó, các ngành công nghiệp - thương mại ở Hà Nội được phát triển mạnh mẽ
và có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế thủ đô. Tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân đầu người của Hà Nội trong giai đoạn 1991-1995 đạt 12,52%, giai đoạn 1996-
2000 đạt 10,38%. Từ năm 1991 đến năm 1999, GDP bình quân đầu người của Hà
Nội tăng từ 470 USD lên 915 USD, gấp 2,07 lần so với mức thu nhập bình quân đầu
người của cả nước. Theo số liệu năm 2000, GDP của Hà Nội chiếm 7,22% GDP của
cả nước và khoảng 41% GDP của toàn bộ vùng đồng bằng sông Hồng.
Tuy nhiên, nền kinh tế Hà Nội đã và đang bộc lộ nhiều nhược điểm, đặc
biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường và mất mỹ quan đô thị do phát triển công nghiệp
nằm ngay trong lòng thành phố. Hơn thế nữa, tốc độ tăng trưởng GDP những năm
cuối thập niên 1990 có xu hướng chậm lại. Chính vì thế, vào năm 2000, Đại hội
Đảng bộ thành phố lần thứ XIII vẫn xác định cơ cấu kinh tế như vậy nhưng nhấn
mạnh thêm là phát triển mạnh lực lượng sản xuất, để rồi từ đó sẽ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp trong giai đoạn tiếp theo.
Hướng đi mới này thực sự đã “cởi trói” cho ngành dịch vụ phát triển.
Tại Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVI (tháng 11/2015)
đã đánh giá 5 năm 2011-2015, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích
39
cực: tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 54%, công nghiệp - xây dựng chiếm 41,5% và
nông nghiệp là 4,5%; các nhóm ngành đều có mức tăng trưởng khá.
Năm 2015, Hà Nội đã triển khai đề án xây dựng thành phố thông minh
hơn với trọng tâm là Chính quyền điện tử, hiệu quả trong quản lý điều hành, phát
triển giáo dục y tế, văn hóa, giao thông,... hướng đến hình thành và phát triển kinh tế
tri thức, đưa Thủ đô tham gia vào các diễn đàn thành phố thông minh trên thế giới.
Hiện nay, Thủ đô Hà Nội đang đẩy nhanh tiến trình xây dựng thành phố thông minh
mà trong đó, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, phấn đấu đến năm
2030 trở thành thành phố thông minh phát triển mạnh mẽ, hiện đại xứng tầm với các
đô thị lớn trong khu vực và thế giới.
Trong Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội đến năm
2030, UBND thành phố Hà Nội đã đặt ra mục tiêu: “Cơ cấu kinh tế của thủ đô năm
2020 sẽ là: Dịch vụ 61-62% GDP, công nghiệp và xây dựng là 35-36,5% GDP, nông
nghiệp 2,5-3% GDP. Đến năm 2030 Hà Nội sẽ là trung tâm sáng tạo hàng đầu của cả
nước với nhiều lĩnh vực đạt trình độ quốc tế. Không những thế, Hà Nội sẽ còn là
trung tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ và thương mại lớn nhất ở phía Bắc, thứ hai của
cả nước...” Với các mục tiêu đề ra như trên, có thể thấy phát triển kinh tế dịch vụ là
hướng đi chủ đạo của Hà Nội trong thời gian tới. Hướng đi này là đúng đắn, nó có
tác dụng kích thích kinh tế Hà Nội phát triển nhanh, bền vững hơn và nâng tầm vị
thế của Thủ đô so với các thành phố khác trong khu vực.
1.3.2. Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng
Một trong những hướng đi đột phá thời kỳ đầu để đẩy mạnh công nghiệp
hóa mà Đà Nẵng đã lựa chọn, là ưu tiên phát triển công nghiệp. Để đạt mục tiêu phát
triển kinh tế bền vững, ngay trong những năm tiếp theo, các nhà hoạch định chính
40
sách đã lựa chọn mô hình phát triển của một thành phố có môi trường thân thiện và
hiện đại, đưa Đà Nẵng phát triển theo một hướng đi mới, lấy ngành dịch vụ làm
chủ đạo. Giai đoạn 2005-2015 đánh dấu sự tăng trưởng mạnh của ngành Dịch vụ với
tốc độ tăng bình quân gần 20%/năm, cao hơn gấp hai lần so với giai đoạn 1997-
2005. Sự phát triển của ngành Dịch vụ không chỉ đóng góp cao trong cơ cấu GDP
mà còn tạo sự chuyển dịch lao động mạnh mẽ ra khỏi ngành nông nghiệp. Giai đoạn
này, lượng vốn đầu tư bắt đầu chảy vào ngành dịch vụ cao hơn so với các ngành còn
lại, với tỷ trọng 70% tổng lượng vốn đầu tư. Sự chuyển dịch trong nội bộ ngành
Thương mại, Vận tải, Thông tin liên lạc, Khách sạn, Tài chính... đang tạo ra giá trị
tăng thêm của ngành Dịch vụ, làm tăng tỷ trọng đóng góp của ngành trong cơ cấu
GDP thành phố.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Đà Nẵng thời gian qua được các chuyên
gia kinh tế đánh giá như một quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng sức
cạnh tranh ở khu vực dịch vụ với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ước đạt
16%/năm. Kết quả này nhờ việc tập trung chuyển dịch sâu trong nội bộ ngành Dịch
vụ, trong đó lựa chọn du lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn. Trong năm 2017, tổng
lượt khách tham quan, du lịch đến Đà Nẵng đạt hơn 5 triệu lượt, tăng 22,7% so với
cùng kỳ năm 2016; Trong đó khách quốc tế đạt 1,7 triệu lượt, khách nội địa đạt 3,3
triệu lượt; Tổng thu du lịch đạt hơn 15 ngàn tỷ đồng, tăng 24,4% so với năm 2016.
Năm 2012, Đà Nẵng là đô thị đầu tiên của nước ta triển khai xây dựng
thành phố thông minh. Đà Nẵng khi đó được nhận tài trợ từ chương trình thành phố
thông minh hơn với tổng giá trị tài trợ trên 50 triệu USD, sử dụng giải pháp điều
hành trung tâm thông minh để đảm bảo chất lượng nguồn nước phục vụ người dân,
cung cấp giao thông công cộng tốt nhất và giảm thiểu ách tắc giao thông, song song
với đó là hoàn thiện mô hình Chính quyền điện tử.
41
Ngày 19/4/2018, UBND thành phố Đà Nẵng và Công ty Cổ phần FPT tổ
chức Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác về Xây dựng thành phố thông minh giai
đoạn 2018 – 2020. Theo đó, UBND thành phố và Công ty FPT sẽ hoàn thành xây
dựng Cổng thông tin Giao thông trực tuyến, Cổng thông tin về Nông nghiệp và nông
thôn nhằm giúp chính quyền và người dân kết nối thông tin minh bạch, nhanh chóng.
Giữ vững mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển đô thị hiện đại, Đà
Nẵng đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, để đến năm 2020 cơ bản hình thành
mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng tăng trưởng, nâng
cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế thành phố tiếp
tục chuyển dịch nhanh theo hướng “dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp”, để Đà
Nẵng sớm trở thành một trong những trung tâm dịch vụ lớn của cả nước, là cửa ngõ
giao thương với nước ngoài, có các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, tạo ra
giá trị gia tăng lớn để trở thành các ngành kinh tế chủ lực.
1.3.3. Một số bài học rút ra
Từ thực tiễn phát triển kinh tế xã hội và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của các địa phương, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh
phải xuất phát từ đặc thù của mỗi địa phương.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh
luôn được các địa phương coi là giải pháp hàng đầu và là con đường tất yếu để phát
triển kinh tế - xã hội. Do đó, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và xây dựng
đô thị thông minh phải được nhận thức đúng, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Từ các chủ trương, định hướng của Đảng, chính quyền địa phương đã
quán triệt và vận dụng chỉ đạo vào thực tiễn phù hợp. Tăng cường huy động các
42
nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Nhìn chung, các địa phương đều giảm tỷ trọng ngành
nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng
công nghệ trong sản phẩm ở những giai đoạn tới; từng bước xây dựng lộ trình cụ thể
để xây dựng địa phương trở thành đô thị thông minh.
Hai là, lựa chọn một số ngành - sản phẩm mũi nhọn đóng vai trò “đầu
tàu” để phát triển
Thực hiện lựa chọn các ngành, các sản phẩm phù hợp với từng vùng, địa
phương và trong từng giai đoạn nhằm tạo ra các sản phẩm mũi nhọn, ngành mũi
nhọn, vùng mạnh đóng vai trò “đầu tàu” kéo theo sự phát triển của các sản phẩm,
ngành và địa phương khác trong vùng. Từ đó tạo được nguồn lực đủ lớn để xây dựng
và thực hiện Đề án xây dựng thành phố trở thành đô thị thông minh.
Ba là, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh:
Trước hết đó là việc xóa bỏ các rào cản, tạo điều kiện cho thị trường phát
triển. Đây có thể coi là vai trò quan trọng nhất của quản lý nhà nước đối với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh. Tuy nhiên,
trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,
không phải chủ thể kinh tế nào cũng luôn có khả năng nắm bắt và hành động theo
các quy luật kinh tế thị trường. Trước hết, đó là khó khăn trong việc tiếp cận và khả
năng phân tích thông tin; sau đó là các điều kiện để thực hiện các quyết định kinh
doanh khi đã nắm chắc được cơ hội. Đây là lý do khách quan cần có vai trò của Nhà
nước trong việc định hướng, hỗ trợ, điều tiết các chủ thể kinh tế trong việc chuyển
43
dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh góp phần đảm bảo phát triển
kinh tế bền vững.”
“Vai trò thứ hai của Nhà nước là định hướng, hỗ trợ quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh: Định hướng bằng các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Điều tiết, định hướng các hoạt động
của các chủ thể kinh tế thông qua chính sách thuế, chính sách khuyến khích, ưu đãi
đầu tư…”
“Hỗ trợ các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận thông tin, phân tích xu
hướng, nhu cầu của thị trường; trực tiếp hỗ trợ về vốn, dịch vụ khoa học, kỹ thuật,
xúc tiến thương mại, hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu…”
Trực tiếp hỗ trợ, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thông qua đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế như hệ thống giao thông, thuỷ lợi,
cung cấp điện, nước sạch… là một điều kiện quan trọng hàng đầu để chuyển dịch cơ
cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh.
“Vai trò thứ ba của Nhà nước trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
gắn với xây dựng đô thị thông minh là kiểm soát, hạn chế những mặt trái của cơ chế
thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Như
Bốn là, chú trọng việc học hỏi kinh nghiệm của các thành phố lớn trên
thế giới và ở trong nước, áp dụng có hiệu quả vào tình hình thực tế từng địa
phương
Với đặc điểm riêng của từng vùng, mỗi thành phố sẽ lựa chọn những
thành tựu và học hỏi những kinh nghiệm của các thành phố lớn trên thế giới và trong
nước về xây dựng đô thị thông minh để áp dụng hiệu quả cho từng thành phố trên cơ
44
sở xây dựng được tiêu chí đánh giá cụ thể; triển khai theo lộ trình và giai đoạn phù
hợp; Cần tránh việc triển khai thực hiện ồ ạt, gây lãng phí lớn về đầu tư nhưng lại
không mang lại hiệu quả như mong đợi.
Kết luận chương 1
Từ việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành, về đô thị thông minh và các mô hình lý thuyết về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là tất yếu khách quan,
là quá trình vận động theo những xu hướng mang tính quy luật chung và phụ thuộc
vào các điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng vùng và từng giai đoạn cụ thể nhất
định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây dựng đô thị thông minh,
nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường không những là mục tiêu chiến
lược phát triển của không chỉ riêng Thành phố Hồ Chí Minh mà còn là hướng đi của
nhiều tỉnh, thành trên cả nước trong thời gian tới. Nhằm hạn chế rủi ro trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và xây dựng đô thị thông minh, cần vận dụng
lý luận và kinh nghiệm của các nước và địa phương đi trước để thực hiện có hiệu quả
đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với việc xây dựng đô thị thông minh
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm về quá trình thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành và quá trình xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn một
số thành phố, luận văn đã nêu bật những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng để
Thành phố Hồ Chí Minh có thể vận dụng nhằm góp phần tạo ra một nền kinh tế tốt
hơn, nâng cao chất lượng sống cho người dân hơn nữa, quản lý và điều hành đô thị
45
tốt hơn, người dân được tham gia giám sát trong quá trình xây dựng và phát triển
Thành phố thông minh.
46
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH
TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH THEO ĐỊNH HƯỚNG
ĐÔ THỊ THÔNG MINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
-------
2.1 Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở TP. HCM
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh cách thủ đô Hà Nội gần 1.730km đường bộ, nằm
ở ngã tư quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Ðông sang Tây,
là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á. Đây là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh
trong vùng và là cửa ngõ quốc tế (Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh
Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang). Với tổng diện tích
hơn 2.095 km2, thành phố được phân chia thành 19 quận, 05 huyện với 322 phường -
xã. Theo kết quả tại thời điểm 1/4/2014, điều tra dân số của Việt Nam cho thấy dân
số Tp.HCM là 7,95 triệu người (chiếm khoảng hơn 8,5% dân số Việt Nam), mật độ
trung bình 3.795 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký
thì dân số thực tế của thành phố vào khoảng 10 triệu người.
Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, cũng như một số tỉnh Nam bộ khác
Thành phố Hồ Chí Minh không có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông rõ rệt, nhiệt độ cao
đều và mưa quanh năm (mùa khô ít mưa). Trong năm, thành phố Hồ Chí Minh có 2
mùa là biến thể của mùa hè: mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng
47
5 tới tháng 11 (khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao mưa nhiều), còn mùa khô từ tháng 12
tới tháng 4 năm sau (khí hậu khô mát, nhiệt độ cao vừa mưa ít).
Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, thành
phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng. Hệ thống sông,
kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu ảnh
hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông, thủy triều thâm nhập sâu đã gây nên
những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu
vực nội thành.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Trong hơn 40 năm qua, kinh tế TP. Hồ Chí Minh luôn duy trì tăng trưởng
ở mức cao. Nếu như giai đoạn trước đổi mới 1976 - 1985, tổng sản phẩm nội địa
(GDP) của Thành phố chỉ tăng bình quân 2,7%/năm thì giai đoạn 1991-2010, Thành
phố là một trong rất ít địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hai con số
trong suốt 20 năm (giai đoạn 1991 - 1995 tăng 12,6%; giai đoạn 1996 - 2000 tăng
10,1%; giai đoạn 2001 - 2005 tăng 11%; giai đoạn 2006 - 2010 tăng 11,4%). Từ năm
2011 đến nay, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu song Thành
phố cũng đạt mức tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 10%/năm, gấp 1,66 lần mức bình quân
chung của cả nước (5,8%). Kể từ Nghị quyết đầu tiên về phát triển Tp. Hồ Chí Minh
của Bộ Chính trị vào tháng 9/1982, đến nay GDP bình quân đầu người Thành phố đã
đạt mức hơn 5.500 USD và dự kiến đến năm 2020 sẽ đạt đến 9.800 USD.
Tỷ lệ thuận với đà tăng trưởng, quy mô nền kinh tế, tiềm lực và sự đóng
góp của Tp. Hồ Chí Minh cho cả nước ngày càng lớn. Ðến nay, Thành phố đã đóng
góp khoảng 1/3 giá trị sản xuất công nghiệp, 1/5 kim ngạch xuất khẩu, 30% trong
tổng thu ngân sách quốc gia.
48
Kinh tế tăng trưởng vượt bậc, tốc độ đô thị hóa cũng được đẩy mạnh,
không gian đô thị ngày càng rộng mở giúp Thành phố Hồ Chí Minh dần tạo được
vóc dáng riêng của mình trong một thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa. Sau
hơn 40 năm, Thành phố tự hào trở thành đô thị loại đặc biệt trực thuộc Trung ương
và là một trong những đô thị hấp dẫn, năng động nhất của Việt Nam. Nhiều công
trình trọng điểm vừa mang tính chất công trình hạ tầng giao thông vừa là điểm nhấn
trong kiến trúc cảnh quan của Thành phố đã và đang hoàn thành đưa vào sử dụng
như: cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, đường hầm sông Sài Gòn, các trục giao thông
quan trọng như đại lộ Nguyễn Văn Linh, đại lộ Võ Văn Kiệt, đại lộ Phạm Văn
Đồng… Ngoài ra còn phải kể đến những tuyến metro đầu tiên Bến Thành - Suối
Tiên, Bến Thành - Tham Lương đang được triển khai xây dựng, dự kiến đưa vào
khai thác năm 2020 và 2022. Cùng với hạ tầng giao thông đồng bộ, các khu đô thị
mới như: khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị Phú Mỹ Hưng, khu đô thị Tây Bắc, khu
đô thị cảng Hiệp Phước…cũng được đầu tư xây dựng, phát triển hiện đại, hài hòa với
tổ chức không gian của Thành phố. Ngoài ra, Thành phố còn có 11 dự án khu đô thị
mới quy mô từ 200 ha trở lên và 44 dự án khu dân cư, khu đô thị mới có quy mô nhỏ
hơn 200 ha, với tổng diện tích đất khoảng 23.370 ha. Các khu đô thị mới đã và đang
được quan tâm đầu tư phát triển, kỳ vọng sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng đời
sống nhân dân, tạo nên diện mạo mới cho không gian đô thị Thành phố và đóng góp
tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Không chỉ dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế, Tp. Hồ Chí Minh còn
tiên phong đi đầu trong rất nhiều mô hình phát triển, thể hiện rõ nét sự năng động,
sáng tạo của con người nơi đây. Thành phố là địa phương tiên phong của cả nước
trong việc triển khai xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp; hình thành trung
tâm giao dịch chứng khoán, phát triển hệ thống ngân hàng cổ phần, quỹ đầu tư phát
triển đô thị; xây dựng các chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư của các thành phần
kinh tế để phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; xây dựng cơ chế thúc đẩy phát
49
triển mạnh các loại hình thị trường hàng hóa - dịch vụ, thị trường vốn, thị trường
chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học -
công nghệ… Những mô hình phát triển này không chỉ là bệ phóng cho những bước
đột phá mạnh mẽ của Thành phố trong hội nhập kinh tế quốc tế mà còn tạo động lực
cho quá trình đô thị hóa của các khu vực lân cận.
2.2. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa
bàn Tp.HCM theo đi ̣nh hướ ng đô thi ̣ thông minh
2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ba khu vực kinh tế
Để thuận tiện nghiên cứu, có thể chia ra các giai đoạn cụ thể như sau:”
Giai đoạn 2000 - 2010, tỷ trọng ngành Công nghiệp không có thay đổi
đáng kể (45.5% năm 2000 và đến năm 2010 là 45.3%); tỷ trọng ngành Dịch vụ trong
giai đoạn này có xu hướng tăng lên (52.6% năm 2000 và đến năm 2010 là 58.4%);
ngành Nông nghiệp giảm từ 2.0% năm 2000 xuống còn 1.1% năm 2010.
Các khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ phát triển là do các khu
chế xuất, khu công nghiệp và trung tâm thương mại mới được hình thành và phát
triển. Giai đoạn 2000-2005 khu vực công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh do đầu
tư phát triển nhiều khu chế xuất và khu công nghiệp trong giai đoạn này. Giai đoạn
2005-2010 khu vực dịch vụ giữ vai trò đầu tàu về tăng trưởng kinh tế của thành phố
do hình thành và phát triển các trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị (Xem Phụ
lục 1).
Giai đoạn 2010 - 2015, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tp.HCM giai đoạn
này theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ diễn ra nhanh hơn. Cơ cấu kinh tế
50
trên địa bàn thành phố giai đoạn 2010-2015 đã chuyển dịch tích cực theo hướng
giảm dần tỷ trọng GDP hai khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản và công
nghiệp - xây dựng, đồng thời tăng dần tỷ trọng GDP khu vực dịch vụ. Sự chuyển
dịch này đã đi đúng định hướng tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng bộ TP.HCM lần
thứ IX nhiệm kỳ 2011-2015. Trong đó, khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản
giảm từ 1,06% năm 2010 xuống còn 0,99% năm 2015; khu vực công nghiệp - xây
dựng giảm từ 42,96% năm 2010 xuống còn 39,57% năm 2015; khu vực dịch vụ tăng
từ 55,98% năm 2010 lên 59,44% năm 2015 (Xem phụ lục 2, 3, 4). Như vậy, tính đến
cuối năm 2015, cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố là dịch vụ; công nghiệp - xây
dựng; nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản.
Giai đoạn 2016 đến nay, Nghị quyết đại hội Đảng bộ TP.HCM lần thứ X
nhiệm kỳ 2015-2020 đã xác định chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa
trên địa bàn thành phố (GRDP) bình quân hàng năm từ 8% - 8,5% (tính theo GDP thì
tăng hơn 1,5 lần mức tăng trưởng GDP bình quân của cả nước), chuyển dịch cơ cấu
theo định hướng dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp; trong đó tỷ trọng
ngành dịch vụ trong GRDP đến năm 2020 chiếm từ 56% đến 58%.
Kết quả đạt được: Khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản giảm từ
0,84% năm 2016 xuống còn 0,81% năm 2017; khu vực công nghiệp - xây dựng giảm
từ 28,76% năm 2016 xuống còn 24,78% năm 2017; khu vực dịch vụ tăng từ 54,8%
năm 2016 lên 58,34% năm 2017 (tính theo giá thực tế - Xem Phụ lục 5). Như vậy,
tính đến cuối năm 2017, cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố đã dịch chuyển theo
đúng định hướng như tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X đề
ra.
Tăng trưởng kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trong hơn 40 năm qua đã
cho thấy tiềm năng và lợi thế lớn nhất của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là dịch vụ
51
và điều này được thể hiện ngày càng rõ nét trong những năm gần đây. Cụ thể, bình
quân giai đoạn 2011-2015 khu vực dịch vụ tăng 11,12%/năm; kế đến là khu vực
công nghiệp - xây dựng tăng 7,56%/năm và khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy
sản tăng 5,73%/năm (tính theo giá so sánh 2010).
Bảng 2.1: GDP trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chia theo khu vực kinh tế
giai đoạn 2011-2017 (tính theo giá so sánh 2010)
GDP (Tỷ đồng)
Tốc độ tăng trưởng (%/năm)
Trong đó
Trong đó
Tốc độ
Nông -
Năm
tăng
Công
Công
Tổng số
lâm -
Nông -lâm -
trưởng
nghiệp -
Dịch vụ
nghiệp -
Dịch vụ
thủy
thủy sản
chung
xây dựng
xây dựng
sản
510.785
5.175
214.336 291.273
10,25
5,61
7,70
12,30
2011
557.571
5.485
230.718 321.368
9,16
5,99
7,64
10,33
2012
609.350
5.792
247.679 355.879
9,29
5,60
7,35
10,74
2013
668.095
6.134
265.512 396.449
9,59
5,90
7,19
11,32
2014
733.922
6.489
286.939 440.494
9,85
5,79
8,07
12,30
2015
790.357
5.656
230.799 432.275
8,08
5,81
7,88
8,07
2016
842.376
5.696
203.411 494.867
8,25
6,35
7,84
8,23
2017
Nguồn: Xử lý số liệu từ Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng các ngành Dịch vụ, Công nghiệp, Nông nghiệp
qua các năm
52
Nguồn: Tổng hợp báo cáo tình hình KT-XH các năm của Cục Thống kê
2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế
Khu vực Thương mại - Dịch vụ
Sau 43 năm giải phóng (từ năm 1975-2018), nền kinh tế của thành phố Hồ
Chí Minh chủ yếu dựa vào hai khu vực công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, khu vực
dịch vụ đã được xác định là thế mạnh số một của thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 2.2. Cơ cấu GDP khu vực dịch vụ trên địa bàn TP.HCM
giai đoạn 2000 – 2017 (tính theo giá thực tế)
Ngành dịch vụ
2000
2005
2010
2015
2017
I. Giá trị
Tổng số (Tỷ đồng)
39.929
83.638
259.382
569.060
618.773
Chia theo ngành dịch vụ
53
1. Thương nghiệp bán buôn và
bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe
10.946
20.818
56.375
119.928
138.264
máy
2. Vận tải kho bãi
3.352
8.413
23.285
68.218
91.541
3. Dịch vụ lưu trú và ăn uống
4.703
8.301
14.654
31.020
30.362
4.Thông tin và truyền thông
3.340
8.301
23.105
48.218
43.495
5.Tài chính, ngân hàng và bảo
2.415
8.672
52.540
101.122
66.425
hiểm
6.Kinh doanh bất động sản
6.569
10.958
24.284
33.527
77.763
7. Hoạt động chuyên môn, khoa
236
497
19.686
57.917
47.424
học và công nghệ
8. Giáo dục – đào tạo
2.604
5.126
10.421
26.927
37.504
9. Y tế
2.007
5.436
13.673
33.845
26.825
II. Cơ cấu (%)
Chia theo ngành dịch vụ
1.Thương nghiệp bán buôn và
bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe
27,41
24,89
21,73
21,07
22,3
máy
2.Vận tải kho bãi
8,48
10,89
9,84
13,23
14,8
3.Dịch vụ lưu trú và ăn uống
11,78
9,92
5,65
5,45
4,9
4.Thông tin và truyền thông
8,28
9,09
8,04
7,23
7,0
5.Tài chính, ngân hàng và bảo
6,05
10,37
20,26
17,77
10,7
hiểm
6.Kinh doanh bất động sản
16,45
13,10
9,36
5,89
12,6
7. Hoạt động chuyên môn, khoa
0,59
0,59
7,59
10,18
7,7
học và công nghệ
54
8.Giáo dục – đào tạo
6,52
6,13
4,02
4,73
6,1
9.Y tế
5,03
6,50
5,27
5,95
4,3
Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM các năm 2000 – 2017
Về tỷ trọng các lĩnh vực trong ngành Dịch vụ, ba lĩnh vực chiếm tỷ trọng
lớn nhất đó là thương mại, tài chính ngân hàng và vận tải kho bãi. Trong đó, thương
mại là lĩnh vực có tỷ trọng cao nhất trong ngành Dịch vụ, các giai đoạn có tốc độ
tăng trưởng lần lượt là 12.6% giai đoạn 2000 – 2010; 8% giai đoạn 2010 – 2015;
năm 2017 là 13%. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đứng thứ hai, tốc độ tăng trưởng
23% năm 2011, -2.3% năm 2012, 8% trong năm 2015 và 6,3% năm 2017. Vận tải
kho bãi là ngành đứng thứ ba: năm 2011 có tốc độ tăng trưởng 13.2%, năm 2012 là
12% và năm 2015 - 2017 là 8.6% chiếm tỷ trọng 14.8%.
Năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 11,32%
(cùng kỳ tăng 9,1%). Thị trường bán lẻ thành phố đã phát triển mạnh mẽ với nhiều
kênh thương mại hiện đại ngày càng phổ biến (các hệ thống siêu thị, trung tâm
thương mại, cửa hàng tiện lợi cùng sự khởi sắc của thương mại điện tử…)
Hướng tăng trưởng trong nội ngành dịch vụ cho thấy, dịch vụ du lịch có
xu hướng tăng cao, tiếp đến là dịch vụ lưu trú, ăn uống và cuối cùng là thương mại
bán buôn, bán lẻ hàng hóa (xem Phụ lục 6)
Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng các lĩnh vực trong ngành Dịch vụ qua các năm
55
Nguồn: Tổng hợp báo cáo tình hình KT-XH các năm của Cục Thống kê
Về thành phần hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, xu hướng những năm
gần đây, doanh nghiệp nước ngoài (FDI) có tập trung đầu tư và mở rộng thị phần, cơ
sở vật chất kinh doanh thương mại, do vậy mức tăng cao; doanh nghiệp ngoài nhà
nước chiếm tỷ lệ cao trong thời gian 1996-2012, sau đó tăng chậm hơn so với khu
vực nước ngoài; doanh nghiệp nhà nước tăng chậm và giảm dần (xem Phụ lục 7).
Nhóm các ngành dịch vụ chủ yếu có mức tăng trưởng cao trong giai đoạn
2015-2017, cụ thể: GRDP ngành thương mại tăng bình quân 7,5%/năm, ngành vận
tải - kho bãi tăng 11,1%/năm, ngành thông tin truyền thông tăng 9,7%/năm, ngành
tài chính ngân hàng tăng 8,8%/năm, ngành chuyên, môn khoa học công nghệ tăng
6,8%/năm, ngành giáo dục đào tạo tăng 9,2%/năm, y tế tăng 7,4%/năm, ngành kinh
doanh bất động sản tăng 7,8%/năm, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống chỉ tăng
3,3%/năm. Xu hướng đóng góp trong GRDP cho thấy, nhóm dịch vụ về giáo dục, y
56
tế, văn hóa, xã hội có động thái tăng cao nhất; tiếp theo là dịch vụ ngân hàng, tài
chính, khoa học công nghệ; tiếp theo dịch vụ hạ tầng; còn dịch vụ thương mại, du
lịch có mức tăng chậm (xem Phụ lục 8)
Năm 2017, tỷ trọng GRDP các ngành dịch vụ chiếm 52,76% trong tổng
GRDP trên địa bàn thành phố (năm 2015 là 52,65%, năm 2016 là 52,58%). Chuyển
dịch nội bộ ngành trong khu vực dịch vụ có xu hướng tăng dần tỷ trọng các ngành
thông tin truyền thông từ 4,08% năm 2015 lên 4,1% năm 2017, giáo dục đào tạo từ
3,35% lên 3,54%, y tế từ 2,29% lên 2,53%, vận tải - kho bãi từ 8,48% năm 2015 lên
8,63% năm 2017... điều này cho thấy thông qua việc khuyến khích người dân, doanh
nghiệp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và xây dựng thành phố thông minh có sự
chuyển biến nhanh nhất ở các ngành thông tin truyền thông, giáo dục đào tạo, y tế và
vận tải – kho bãi, các ngành còn lại cần có lộ trình để phát huy hiệu quả đầu tư.
Kết quả của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành dịch
vụ như đánh giá phần trên có nguyên nhân là đầu tư cho ngành dịch vụ cũng theo
hướng mức đầu tư cho nhóm ngành dịch vụ về giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội tăng
cao; tiếp theo là đầu tư cho dịch vụ tài chính ngân hàng, khoa học công nghệ; dịch
vụ về hạ tầng, (xem Phụ lục biểu đồ 8)
Ngành thương mại
Thương mại là lĩnh vực có tỷ trọng cao nhất trong ngành dịch vụ, năm
2011 có tốc độ tăng trưởng 12,6% chiếm tỷ trọng 22%; năm 2012 có tốc độ tăng
trưởng 12,6% chiếm tỷ trọng 22,2%; năm 2013 tốc độ tăng trưởng 11,8% chiếm tỷ
trọng 22,1%.
Nhiều doanh nghiệp thương mại đã củng cố và phát triển hệ thống phân
phối, triển khai các loại hình bán buôn, bán lẻ mới theo hướng hiện đại và chuyên
57
nghiệp. Hệ thống phân phối hiện đại phát triển nhanh về số lượng, tính đến cuối năm
2017, thành phố có 207 siêu thị, 43 trung tâm thương mại, 1.100 cửa hàng tiện lợi.
Ngành du lịch
Thành phố thực hiện các giải pháp tích cực để xây dựng ngành du lịch là
một trong những ngành kinh tế mũi nhọn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả
nước. Chất lượng các sự kiện, lễ hội du lịch được nâng cao so với trước, có đổi mới
phương thức truyền thông quảng bá nên đã mang lại những kết quả tích cực, thu hút
được đông đảo sự quan tâm của truyền thông, du khách và người dân thành phố.
Năm 2017, khách quốc tế đến thành phố đạt 6.389.480 lượt khách, khách du lịch nội
địa đến thành phố đạt 24.982.800 lượt; Tổng doanh thu ngành du lịch (nhà hàng, lưu
trú, lữ hành) đạt 115.978 ngàn tỷ đồng.
Ngành vận tải – kho bãi
Giai đoạn 2010-2017, kết cấu hạ tầng trên địa bàn Thành phố đã phát triển
mạnh mẽ tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Thành phố nói chung và
thúc đẩy lĩnh vực vận tải kho bãi của Thành phố nói riêng phát triển.
Vận tải đường biển đạt tổng sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển năm
2017 là 105 triệu tấn; Hàng hóa thông qua các cảng, bến thủy nội địa đạt 28,085 triệu
tấn).
Về vận tải hành khách công cộng: Chỉ tiêu số lượt người tham gia vận tải
hành khách công cộng đạt 604,1 triệu lượt hành khách, tăng 6% so với năm 2016
và đạt 101% so với kế hoạch năm 2017 (600 triệu lượt hành khách).
Thông tin truyền thông
Là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất (2011 tăng trưởng 16,1%; năm
2012 tăng trưởng 26,8%; năm 2015 tăng trưởng 20%).
58
Lĩnh vực viễn thông – Internet: Người dân có xu hướng chuyển sang dùng
điện thoại di động với công nghệ 3G, 4G tốc độ cao, vừa tiện lợi vừa linh động trong
quá trình di chuyển.
Lĩnh vực bưu chính: Số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường tại thành
phố ngày càng gia tăng; các dịch vụ bưu chính được tăng cường chất lượng, mở rộng
các loại hình bưu chính, chuyển phát, trong đó phát triển mạnh dịch vụ bưu chính
gắn với các dịch vụ công phục vụ người dân.
Năm 2017, doanh thu lĩnh vực bưu chính - viễn thông đạt 35.305 tỷ đồng
(tăng 9% so với năm 2016), trong đó doanh thu bưu chính đạt 7.088 tỷ đồng (tăng
12% so với năm 2016) và doanh thu viễn thông đạt 28.217 tỷ đồng (tăng 8% so với
năm 2016).
Tài chính ngân hàng
Là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong ngành Dịch vụ nhưng tốc độ
tăng trưởng lại thấp thứ 2 trong ngành. Có nghịch lý như vậy là do những năm qua
hệ thống ngân hàng gặp nhiều khó khăn, hoạt động tín dụng tăng trưởng chậm và
thị trường bất động sản chưa phục hồi khả quan đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như hoạt động của lĩnh vực tài chính
ngân hàng.
Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng năm 2011 là 23% năm 2011, năm
2012 tăng trưởng -2.3% và năm 2015 là 8% đã cho thấy dấu hiệu phục hồi khả
quan của lĩnh vực này.”
Khoa học - công nghệ
Một số chỉ tiêu thể hiện sự đóng góp của yếu tố khoa học và công nghệ
vào tăng trưởng GDP như sau: Tỉ lệ ứng dụng các công trình nghiên cứu khoa học
vào thực tế bình quân năm: 34,18% (năm 2011) và 35% (năm 2015); Số đơn đăng ký
sáng chế: Năm 2011: 153, năm 2015: 200; Số bằng sáng chế được cấp trong năm
59
2011: 18, năm 2015: 50; Tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thực hiện đầu
tư đổi mới công nghệ thiết bị đạt 17,33% năm 2011, đến năm 2015 đạt bình quân
60%.
Giai đoạn 2015-2017, các loại hình dịch vụ khoa học công nghệ về hỗ trợ
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được phát triển mạnh với 24 tổ chức hỗ trợ khởi
nghiệp trên địa bàn thành phố, nổi bật là các Trung tâm ươm tạo tại các trường Đại
học Bách Khoa, Khu Công nghệ phần mềm - Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, Khu Công nghệ cao, Khu Nông nghiệp Công nghệ cao, Trung tâm hỗ trợ
Thanh niên khởi nghiệp (BSSC), Công ty TNHH ươm tạo phần mềm Quang Trung,
Saigon Innovation Hub và Vietnam Silicon Valley.
Giáo dục đào tạo
Hiện nay, việc xã hội hóa dịch vụ công ở thành phố được tập trung thực
hiện trong lĩnh vực giáo dục với số lượng các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công
được thành lập ngày càng nhiều, từng bước khẳng định được chỗ đứng trong mạng
lưới dịch vụ ở thành phố như loại hình dịch vụ tư vấn du học, trung tâm ngoại ngữ,
thành lập các trường mầm non, phổ thông ngoài công lập ở các cấp học… Năm
2017, số trường ngoài công lập là 763 đơn vị.
Nhìn chung, qua phân tích sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành dịch
vụ như trên có thể thấy, trong cơ cấu giá trị sản xuất dịch vụ có sự chuyển biến theo
hướng tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, có lợi
thế cạnh tranh phục vụ nhiều hơn cho sản xuất kinh doanh. Đó là một sự chuyển dịch
đúng hướng.
Khu vực Công nghiệp
60
Thực trạng tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp của thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2000 đến nay đang có xu hướng chậm lại, thể hiện qua biểu đồ 2.3
dưới đây:
Biểu đồ 2.3: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp
Nguồn: Tổng hợp báo cáo tình hình Kinh tế - xã hội các năm của Cục thống kê
“Trong giai đoạn 2000 - 2005, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp
trên địa bàn tăng bình quân 15%/năm, chiếm tỉ trọng gần 30% so với công nghiệp cả
nước, đến giai đoạn 2006 - 2010 giá trị sản xuất là 12,6%/năm. Qua hai giai đoạn
này, công nghiệp thành phố mới đạt được sự thay đổi về số lượng và còn chậm thay
đổi về chất lượng. Những ngành có tỷ trọng lớn vẫn là những ngành thâm dụng lao
động; còn những ngành có hàm lượng chất xám cao (điện tử, công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, cơ khí chế tạo) tuy có tăng, nhưng tỷ trọng còn rất khiêm tốn
trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Trong giai đoạn 2011-2017,
tốc độ phát triển giá trị sản xuất khu vực công nghiệp bình quân tăng 7.7%/năm.”
61
“Nhìn chung, tốc độ phát triển của ngành Công nghiệp tăng nhanh từ năm
2000 đến 2007, nhưng từ năm 2008 đến những năm gần đây ngày càng có xu hướng
chậm lại. Về chuyển dịch nội bộ ngành Công nghiệp, chiếm tỷ trọng lớn trong ngành
Công nghiệp bao gồm các ngành công nghiệp trọng yếu 57.9% (năm 2015), trong
đó: dẫn đầu là Hóa dược, Cao su, Nhựa 19.1%, thứ hai là Cơ khí chế tạo 17.5%, Chế
biến lương thực thực phẩm 16.4% và Điện tử - Viễn thông - Tin học là 4.9%. Hai
ngành công nghiệp truyền thống là Dệt may và Giày da chiếm 18% tỷ trọng ngành
Công nghiệp. Sản xuất của bốn ngành công nghiệp trọng yếu: Điện - Điện tử, Cơ
khí, Hóa - Nhựa, Chế biến tinh lương thực - thực phẩm được tập trung đầu tư để phát
triển nhanh, ngày càng tăng trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành và có mức tăng
trưởng cao hơn mức bình quân chung của khu vực công nghiệp.”
“Theo báo cáo sơ kết Chương trình Hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
thành phố thì quy mô sản lượng sản xuất của ngành Điện tử - Công nghệ thông tin
chiếm khoảng trên 27%; chiếm tỷ trọng trên 39% đối với ngành Hóa chất và trên
45% đối với ngành Cao su, Nhựa so với cả nước. (Xem biểu đồ 2.4)
Từ Biểu đồ 2.4, có thể nhận thấy các ngành: Chế biến lương thực thực
phẩm, Dệt may và Giày da có tốc độ tăng trưởng ngày càng giảm đáng kể. Điều này
cho thấy những ngành sử dụng nhiều tài nguyên và thâm dụng lao động giảm dần và
chuyển dịch về các tỉnh lân cận. Tuy tốc độ tăng trưởng của ngành Chế biến lương
thực thực phẩm giảm mạnh từ 21.9% năm 2010 xuống 6.7% năm 2017 nhưng đây là
sự giảm dần đầu tư theo chiều rộng và tập trung đầu tư theo chiều sâu bằng cách đưa
công nghệ sản xuất mới, công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm tinh chế, chất
lượng cao và giá trị gia tăng lớn. Trong khi tỷ trọng các ngành thâm dụng lao động
và tài nguyên giảm dần thì tỷ trọng các ngành điện tử - công nghệ và hóa chất cũng
tăng trong những năm qua. Điều này chứng tỏ công nghiệp có hàm lượng tri thức,
62
công nghệ cao, lợi thế cạnh tranh có xu hướng tăng dần trong cơ cấu của ngành
Công nghiệp.”
Nguồn: Tổng hợp báo cáo tình hình Kinh tế - xã hội các năm của Cục thống kê
“Nhìn chung, tốc độ phát triển của ngành Công nghiệp có xu hướng ngày
càng giảm nhưng chuyển dịch nội bộ các ngành trong Công nghiệp lại cho thấy một
bước phát triển tốt để tập trung phát triển công nghiệp theo chiều sâu, tránh dàn trải
và ngày càng hiện đại, tạo giá trị gia tăng cao hơn.”
Đóng góp của ngành công nghiệp cho GRDP có xu hướng tăng, tuy nhiên
thời gian gần đây tốc độ có chậm lại (xem Phụ lục 10)
Giá trị của nội bộ ngành công nghiệp, đặc biệt bốn ngành trọng điểm của
thành phố có xu hướng tăng trưởng liên tục và cao, ngành hóa dược, cao su tăng cao
63
nhất, tiếp đến là ngành lương thực thực phẩm; hàng điện tử và cuối cùng là ngành cơ
khí (xem Phụ lục 11)
Năm 2017, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trên địa bàn thành phố tăng
7,9% nhờ các doanh nghiệp thành phố tiếp tục mở rộng thị trường, đầu tư đổi mới
thiết bị để nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong đó, 4
ngành công nghiệp trọng yếu (cơ khí chế tạo, điện tử, hóa chất - cao su - nhựa và chế
biến tinh lương thực thực phẩm) tăng 12,78% cao hơn mức tăng trưởng của toàn
ngành, chi tiết ngành cơ khí - chế tạo thành phố tăng 2,37%; điện tử - công nghệ
thông tin tăng 39,11%, công nghiệp hóa chất - nhựa - cao su tăng 3,35%; chế biến
tinh lương thực - thực phẩm tăng 3,89%, điều này chứng tỏ nhờ các chương trình
kích cầu đầu tư công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ của thành phố đã thúc đẩy các
doanh nghiệp đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ cao, tiên tiến ở các
ngành công nghiệp trọng yếu như điện tử - công nghệ thông tin và cơ khí chế tạo
máy.
Ngành điện tử - công nghệ thông tin
Năm 2017, chỉ số IIP tăng 39,11% (năm 2016 chỉ tăng 8,83%). Có hơn
260 doanh nghiệp tham gia sản xuất trên địa bàn, nhưng đây là ngành có mức tăng
trưởng cao trong năm 2017, tăng trên 30% nhờ việc tiếp thu, áp dụng công nghệ,
khoa học kỹ thuật ở trình độ tiên tiến trên thế giới.
Giai đoạn 2013-2016, Chương trình phát triển vi mạch của thành phố đã
thu hút các công ty lớn có vốn đầu tư nước ngoài vào thành phố như Intel, Samsung,
Nidec, Microchip… bước đầu tạo nên những nét chính của hệ sinh thái vi mạch, đặc
biệt trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực và thu hút đầu tư. Một số sản phẩm đầu
cuối đã được nghiên cứu và sản xuất thành công, đang triển khai đưa vào thị trường
tiêu thụ như: thiết bị đo điện tử, hộp đen gắn trên ôtô và xe máy, hệ thống giám sát
64
container… Năm 2017, thực hiện theo chủ trương của Thủ tướng Chính phủ, thành
phố tiếp tục triển khai xây dựng Chương trình phát triển công nghiệp vi mạch quốc
gia trên cơ sở Chương trình phát triển công nghiệp vi mạch thành phố.
Ngành chế biến lương thực, thực phẩm
Những năm gần đây, ngành chế biến lương thực, thực phẩm tăng trưởng
chậm dần. Năm 2017, chỉ số IIP tăng 3,89%, thấp hơn mức tăng năm 2016 (tăng
11,88%) do nhu cầu thị trường (đặc biệt là thị trường trong nước) không có nhiều
biến động lớn. Đây cũng là ngành hàng tiêu dùng thiết yếu đang phải cạnh tranh với
các mặt hàng nhập khẩu và chịu tác động của lộ trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối
với mặt hàng rượu bia (thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế VAT chiếm tới 35% giá bán, lộ
trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt từ mức 55% năm 2016, lên 60% năm 2017 và 65%
năm 2018).
Ngành hóa chất - nhựa - cao su
Năm 2017, chỉ số IIP tăng 3,35%, kể từ năm 2015 có xu hướng tăng chậm
và giảm dần (năm 2015 tăng 0,85%; năm 2016 giảm 0,58%) do di dời và hạn chế sản
phẩm gây ô nhiễm môi trường, nay sản xuất công nghiệp của nhóm ngành này đang
được bù đắp bởi nhu cầu nhập khẩu cao su của thị trường Trung Quốc (hiện chiếm
53,8% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cao su của các doanh nghiệp thành phố).
Ngành cơ khí chế tạo
Ngành cơ khí thành phố còn nhiều dư địa phát triển một số ngành sản xuất
như ngành ô tô còn nhiều tiềm năng phát triển với định hướng thị trường của
Mercedes (tập trung sản xuất tại Việt Nam để phân phối cho thị trường ASEAN),
cũng như việc gia nhập thị trường của Daehan Motors, Vĩnh Phát Motors,
SAMCO,… sẽ góp phần cho công nghiệp ô tô thành phố phát triển, từ đó kéo theo
65
các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ nói riêng và cơ khí nói chung cho ngành ô tô phát
triển. Năm 2017, chỉ số IIP tăng 2,37% (năm 2016 tăng 7,98%).
“Cùng với việc quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp trọng yếu, trợ
giúp các doanh nghiệp về năng lực quản lý, công nghệ, thành phố tiếp tục tập trung
đào tạo nguồn lao động có tay nghề cao và để giải quyết khó khăn về nguồn nhân
lực, thành phố đã xây dựng chương trình đào tạo nhân lực, nhất là đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ phát triển bốn ngành công nghiệp trọng yếu.”
“Thực hiện chuyển đổi cơ cấu công nghiệp theo hướng bền vững, thành
phố Hồ Chí Minh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp sản xuất sản phẩm phụ
trợ, chủ động phát triển trung tâm và công nghệ phần mềm tập trung, xây các khu
công nghiệp kỹ thuật cao để hút các nhà đầu tư, nhất là các dự án đầu tư vào các
ngành công nghiệp trọng yếu. Một trong những điểm đáng chú ý là thời gian qua,
các dự án về cơ khí đã tập trung nhiều trang thiết bị, công nghệ mới, bảo vệ môi
trường, sử dụng công nghệ tiên tiến và ngày càng có nhiều các dự án lớn của các tập
đoàn lớn trên thế giới đầu tư.”
Có thể nói, việc tập trung phát triển các ngành công nghiệp trọng yếu của
Thành phố Hồ Chí Minh là hướng đi đúng, thành phố tiếp tục ưu tiên phát triển
những ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao, sử dụng những công nghệ
mới, hiện đại, hiệu quả kinh tế lớn, ít ô nhiễm môi trường để ngày càng nâng cao
năng lực cạnh tranh và đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của thành
phố trong thời gian tới.
Khu vực Nông nghiệp
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015, tỷ trọng ngành Nông nghiệp
có xu hướng ngày càng giảm (từ 2.0% năm 2000 xuống 1.0% trong năm 2015; đạt
mục tiêu đề ra).”
66
Theo báo cáo của UBND Thành phố, giá trị sản xuất tăng bình quân
5,9%/năm trong 5 năm 2011-2015, cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch phát
triển ngành Nông nghiệp thành phố giai đoạn 2011 - 2015 (chỉ tiêu giá trị sản xuất
tăng bình quân 6%/năm). Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo
hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững.”
Tỷ trọng các ngành đến cuối năm 2015 so với năm 2011 như sau: Trồng
trọt từ 24.7% tăng lên 27.9%; Chăn nuôi giảm từ 46.9% còn 39.1%; Thủy sản từ
20.5% lên 25.8%; Lâm nghiệp từ 1.1 còn 0.9%.”
“Ngành Nông nghiệp của thành phố đang chuyển dần sang nông nghiệp
chất lượng cao, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh
học trong sản xuất các loại giống cây, giống con; chuyển dịch cơ cấu sang các loại
cây, con mới phù hợp với đặc thù của nông nghiệp đô thị, nông nghiệp sinh thái.
Ngành Trồng trọt đã chuyển dịch đúng hướng, giảm diện tích trồng lúa, tăng diện
tích các loại cây trồng đem lại giá trị gia tăng cao hơn trên một đơn vị diện tích như
trồng hoa, rau an toàn, cỏ chăn nuôi và cây công nghiệp hàng năm; ngành Chăn nuôi
cũng đang chuyển sang nuôi các loại vật nuôi có giá trị kinh tế cao.”
Thành phố tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp đô thị hiện
đại, hiệu quả, bền vững theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học,
trở thành trung tâm sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất, chất
lượng, giá trị gia tăng cao đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân, đã đẩy mạnh hoạt
động khuyến nông, chuyển giao các tiến bộ về giống và ứng dụng công nghệ cao,
công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng
và giá trị cao, đặc biệt đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất hoa lan; phát triển giống
cây, giống con chất lượng cao, cá cảnh, hoa - cây kiểng, bò thịt, nâng cao chất lượng
đàn bò sữa. Thông qua đó, tốc độ tăng trưởng GRDP khu vực nông nghiệp tăng bình
quân 5,9%/năm giai đoạn 2015- 2017 đạt so với kế hoạch đề ra là 5,8-6%/năm.
67
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng nông nghiệp
đô thị, giảm diện tích trồng lúa một vụ và diện tích trồng mía hiệu quả thấp sang các
loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện của thành phố
như hoa lan, mai, cây kiểng, bò thịt, cá cảnh, rau an toàn, chim yến…
2.2.3. Quá trình triển khai xây dựng đô thi ̣ thông minh ta ̣i Thành phố
Hồ Chí Minh
Ngày 26 tháng 11 năm 2017, Ủ y ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức công bố đề án “Xây dựng TP.HCM trở thành đô thị thông minh giai đoạn
2017-2020, tầm nhìn đến năm 2025”. Ngoài mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển
các lĩnh vực công nghệ cao, TP.HCM hướng đến hình thức quản trị đô thị hiệu quả
trên cơ sở các dự báo.
Bốn mục tiêu mà thành phố thông minh đặt ra là: Phát triển kinh tế cao và
bền vững, môi trường sống của người dân tốt, hạ tầng, chất lượng không khí tốt. Với
thành phố thông minh, bản thân người dân cũng phát huy tối đa quyền của mình
bằng cách tham gia giám sát chính quyền. Để thực hiện, 4 nhiệm vụ trọng tâm được
ưu tiên xây dựng gồm: kho dữ liệu dùng chung và phát triển hệ sinh thái dữ liệu mở.
Song song đó là xây dựng trung tâm nghiên cứu mô phỏng dự báo xây dựng chiến
lược phát triển kinh tế xã hội; trung tâm điều hành thông minh và trung tâm an toàn
thông tin.
Theo chính quyền thành phố, vận hành một đô thị lớn như TP. HCM đòi
hỏi việc phải có đầy đủ các thông tin đa chiều để điều phối xử lý, dự báo, hoạch định
chiến lược. Do đó, ưu tiên hàng đầu là phải xây dựng Kho dữ liệu dùng chung và
phát triển hệ sinh thái dữ liệu mở cho thành phố. Đây được cho là điều kiện tiên
quyết để triển khai thành công trung tâm điều hành thành phố thông minh - là nơi
khai thác tất cả các nguồn thông tin, dữ liệu hàng ngày của thành phố trên tất cả các
68
lĩnh vực giúp xử lý tình huống và giúp lãnh đạo các cấp điều hành một cách tổng thể.
Song song đó là xây dựng trung tâm nghiên cứu mô phỏng dự báo xây dựng chiến
lược phát triển kinh tế xã hội; trung tâm điều hành thông minh và trung tâm an toàn
thông tin.
Đề án đô thị thông minh hướng đến bốn chủ thể chính của đô thị gồm:
chính quyền, người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Đối với chính quyền,
thành phố thông minh sẽ đáp ứng nhu cầu dự báo phát triển chính xác hơn, và thông
qua xây dựng chính quyền điện tử, kết nối chia sẻ thông tin dữ liệu nhằm gia tăng
hiệu quả điều hành trên các lĩnh vực; Người dân sẽ được cung cấp các tiện ích hỗ trợ
để ra quyết định tối ưu. Việc tương tác giữa người dân với chính quyền sẽ dễ dàng;
đồng thời tham gia giám sát, quản lý và xây dựng thành phố; Doanh nghiệp sẽ có
môi trường minh bạch, đơn giản, thuận tiện hoạt động và được cung cấp nhiều thông
tin để có quyết định kinh doanh chính xác; Còn đối với các tổ chức xã hội, đô thị
thông minh tạo ra kết nối phản hồi thông tin để họ tham gia một cách hiệu quả vào
quá trình cung cấp các dịch vụ cho đô thị. người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã
hội.
Tiến trình thực hiện qua các giai đoa ̣n như sau:
Ngày 27 tháng 12 năm 2005, Ủ y ban nhân dân Thành phố ban hành
Quyết định số 6566/QĐ-UBND về duyệt Quy hoạch chi tiết Khu Trung tâm đô thị
mới Thủ Thiêm tỷ lệ 1/2000;
Ngày 21 tháng 7 tháng 2006, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành
Quyết định số 113/2006/QĐ-UBND về Kế hoạch triển khai Chương tình hành
động thực hiện Công trình xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm (giai đoạn 2006-
2010);
69
Ngày 19 tháng 6 năm 2012, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Quyết
định số 3165/QĐ-UBND về duyệt đồ án điều chỉnh cục bộ quy hoạch phân khu tỷ
lệ 1/2000 Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Quận 2;
Ngày 29 tháng 9 năm 2016, Ủy ban nhân dân Thành phố và Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) ký kết thỏa thuận hơ ̣p tác về "Tư vấn
Khung về công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong xây dựng và triển khai
Đề án Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành thành phố thông minh giai
đoạn 2017- 2025, tầm nhìn đến năm 2030";
Ngày 12 tháng 12 năm 2016, Văn phòng ủy ban nhân dân Thành phố ban
hành Thông báo số 863/TB-VP về nội dung chỉ đạo của Chủ tịch ủy ban nhân dân
thành phố Nguyễn Thành Phong về việc triển khai kết quả chuyến thăm và làm
việc tại Hoa Kỳ và Vương quốc Anh của Đoàn Đại biểu Thành phố, trong đó có
nêu “Giao Ban Quản lý đầu tư xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm phối hơ ̣p Sở
Quy hoạch - Kiên trúc, Sở Thông tin và Truyền thông, Tập đoàn Bưu chính Viễn
thông Việt Nam và các Sở ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất phương án triển
khai các hạng mục xây dựng thành phố thông minh tại Khu đô thị mới Thủ
Thiêm;
Ngày 19 tháng 6 năm 2017, Văn phòng ủy ban nhân dân Thành phố ban
hành Thông báo số 502/TB-VP về Nội dung kết luận của Chủ tịch ủy ban nhân
dân Thành phố Nguyễn Thành Phong tại cuộc họp Ban chỉ đạo Dự án đầu tư, xây
dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm”, trong đó “Giao Ban Quản lý Đầu tư Xây dựng
Khu đô thị mới Thủ Thiêm chủ trì, phối hơ ̣p với Sở Thông tin và Truyền thông và
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) - Chi nhánh TP.HCM nghiên
cứu, đề xuất phương án bổ sung đồng bộ các hạng mục xây dựng, đảm bảo theo
định hướng Thành phố thông minh trong khu đô thị mới Thủ Thiêm”;
70
Ngày 23 tháng 11 năm 2017, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành
Quyết định số 6179/QĐ-UBND về phê duyệt Đề án "Xây dựng Thành phố Hồ Chí
Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến 2025" (viết
tắt là Đề án Thành phố Hồ Chí Minh).
Là khu đô thị mới đang trong quá trình hình thành và phát triển, Khu đô
thị mới Thủ Thiêm có lợi thế lớn để triển khai các giải pháp quản lý điều hành đô
thị một cách bài bản trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin ngay từ đầu. Lợi
thế này mang ý nghĩa hết sức quan trọng và là một trong những cơ sở cần thiết cho
việc xây dựng đô thị thông minh tại khu đô thị Thủ Thiêm. Thủ Thiêm sẽ có ưu thế
gần như lý tưởng so với một đô thị đã thành hình lâu đời như Thành phố Hồ Chí
Minh, nơi mà các ngành, lĩnh vực đã có một thời gian dài phát triển theo chiều dọc
và có sự độc lập rất cao - khiến việc gắn kết về dữ liệu và hoạt động phải mất nhiều
thời gian mới đạt đến độ chặt chẽ cần thiết để triển khai đô thị thông minh.
Tầm nhìn chủ yếu trong việc xây dựng đô thị thông minh tại Khu đô thị
mới Thủ Thiêm tập trung giải quyết 02 nhu cầu chính, đó là: Nâng cao chất lượng
sống cho nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng đô thị; Nâng
cao năng lực quản lý, dự báo và phục vụ nhân dân của chính quyền.
Để bám sát tầm nhìn và đồng bộ với các mục tiêu của Đề án triển khai xây
dựng đô thị thông minh tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đề án này đề xuất 02 mục tiêu
cho việc xây dựng đô thị thông minh tại Khu đô thị mới Thủ Thiêm như sau:
Mục tiêu 1: Công tác phục vụ nhân dân và công tác quản lý vận hành đô
thị mang tính liên thông kết nố i và chủ đô ̣ng cao dựa trên nền tảng công nghệ thông
tin và truyền thông (hạ tầng, dữ liệu và các giải pháp) được xây dựng bài bản.
71
Mục tiêu 2: Nhân dân hài lòng vớ i chất lượng sống tốt, tham gia tích cực
vào quá trình xây dựng và bảo vệ môi trường sống.
Đề án triển khai xây dựng đô thị thông minh tại Khu đô thị mới Thủ
Thiêm cũng sẽ được xây dựng theo từng bước, với quy mô thực hiện được xác định
theo kế hoạch ngân sách và được rà soát cập nhật thường xuyên để phù hợp với
định hướng phát triển của Đề án Thành phố Hồ Chí Minh cũng như nhu cầu của
người dân. Hiện nay, trong điều kiện Khu đô thị mới Thủ Thiêm vẫn còn đang hình
thành, thì các giải pháp triển khai thí điểm cũng mang tính nhỏ, gọn nhưng đảm
bảo khả năng mở rộng về sau.
2.3. Đánh giá chung
Từ năm 2000 đến nay, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức
tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
giai đoạn 2007 - 2008 đã tác động bất lợi đến kinh tế cả nước nói chung và thành
phố nói riêng. Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về
những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội, tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội của thành phố đã đạt nhiều
thành tựu có ý nghĩa quan trọng, đúng hướng trên hầu hết các lĩnh vực, cụ thể như
sau: Kinh tế thành phố tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý; cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng đi vào chiều sâu, lạm phát
được kiểm soát, các nguồn lực xã hội được phát huy, các ngành, lĩnh vực, thị trường
phát triển ổn định. Đạt được kết quả như trên là do thành phố đã triển khai đồng bộ
các chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy các hoạt động đổi mới
sáng tạo, khuyến khích khởi nghiệp, nhờ đó chất lượng tăng trưởng kinh tế thành
72
phố đã từng bước chuyển biến theo hướng tích cực, môi trường kinh doanh ngày một
thuận lợi giúp doanh nghiệp yên tâm mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh, tạo thêm
nhiều việc làm mới, tăng quy mô và chất lượng nguồn lao động, kéo giảm tỉ lệ thất
nghiệp đô thị từ 4,4% cuối năm 2016 còn dưới 3,95% năm 2017 (đạt so với kế hoạch
là còn dưới 4%) góp phần đảm bảo an sinh xã hội thành phố. Ngoài ra chất lượng
nguồn nhân lực trong giáo dục nghề nghiệp được nâng cao thể hiện qua công tác
tuyển sinh nghề nghiệp, tỷ lệ lao động đang làm việc qua đào tạo và người thất
nghiệp được đào tạo nghề để quay trở lại thị trường lao động đều vượt kế hoạch đề
ra.
Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế đang được đẩy mạnh cùng với việc quyết liệt cải cách thủ tục hành chính,
hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển,… đang tạo môi trường đầu tư thuận
lợi cho doanh nghiệp. Hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, làm tăng cơ hội tiếp cận
thị trường của hàng hóa Việt Nam.
Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp từng bước đạt được những kết quả nhất
định, góp phần cải thiện rõ rệt niềm tin của doanh nghiệp trong và ngoài nước vào
môi trường đầu tư kinh doanh của thành phố, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI) của thành phố.
Thành phố đã phê duyệt và triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng Thành
phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến
năm 2025” cùng với việc thực hiện hoàn thiện xây dựng Chính phủ điện tử theo
Nghị quyết 36a của Chính phủ; thí điểm Chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung -
mô hình liên kết chuỗi công viên phần mềm đầu tiên được Thủ tướng Chính phủ
chấp thuận triển khai trong giai đoạn 2016-2020.
73
Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp được duy trì ổn định, liên kết và
củng cố thị trường tiêu thụ. Một số ngành công nghiệp phát huy được thế mạnh, đặc
biệt là các ngành công nghiệp trọng yếu. Cơ cấu các ngành công nghiệp và cơ cấu
xuất khẩu sản phẩm công nghiệp có sự dịch chuyển tích cực theo hướng công nghiệp
hóa. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, kim ngạch xuất khẩu
tăng cao, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế chung của thành phố.
2.3.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, Thành phố đã thể hiện được vai trò đầu tàu so với cả nước
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiên tiến, hiện đại
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
trong thời gian qua đã có những tác động sâu sắc đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
cả nước. Vai trò đầu tàu của kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thể hiện thông qua yếu tố kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh chiếm tỷ trọng lớn đối với cả nước và có xu hướng gia tăng. Xét trong giai
đoạn 2000-2017, tỷ trọng GDP theo giá thực tế trên địa bàn thành phố tăng 4,15%
(từ 17,18% vào năm 2000 lên 21,33% vào năm 2017). Khu vực có tỷ trọng tăng cao
nhất là dịch vụ tăng 5,4% (từ 23,34% vào năm 2000 lên 28,74% vào năm 2017).
Thứ hai, kinh tế Thành phố đã chuyển dần từ phát triển theo chiều
rộng sang phát triển kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua có
những chuyển biến tích cực, kinh tế chuyển dần từ phát triển theo chiều rộng sang
phát triển kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu. Từ sau năm 1975 đến năm 2005
kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực
công nghiệp và xây dựng đồng thời giảm mạnh khu vực dịch vụ và nông nghiệp.
Đến năm 2005 khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng gần gấp đôi về mặt tỷ trọng so
74
với năm 1975 trong khi khu vực nông nghiệp giảm 6,34%. Sang giai đoạn 2010-
2017 đã chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng GDP hai khu vực nông
nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản và công nghiệp - xây dựng, đồng thời tăng dần tỷ
trọng GDP khu vực dịch vụ. Sự chuyển dịch này đã đi đúng định hướng tinh thần
Nghị quyết đại hội Đảng bộ TP.HCM các thời kỳ. Trong đó, khu vực nông nghiệp -
lâm nghiệp - thủy sản giảm từ 1,06% năm 2010 xuống còn 0,81% năm 2017; khu
vực công nghiệp - xây dựng giảm từ 42,96% năm 2010 xuống còn 24,78% năm
2017; khu vực dịch vụ tăng từ 55,98% năm 2010 lên 58,35% năm 2017 (tính theo
giá thực tế). Như vậy, tính đến cuối năm 2017, cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố
là Dịch vụ - Công nghiệp, xây dựng - Nông, lâm nghiệp, thủy sản. Giai đoạn 2018 -
2020, dự báo kinh tế thành phố và cả nước gặp nhiều thuận lợi; đồng thời các cơ chế,
chính sách đặc thù cho thành phố theo Nghị quyết 54 của Quốc hội được triển khai
hiệu quả; thành phố sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm tăng từ
8-8,5%, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Sự chuyển dịch cơ cấu GDP chia theo ngành kinh tế thời gian qua là đúng
hướng tập trung phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao và các ngành dịch
vụ cao cấp. Điều này thể hiện qua tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến và các ngành
dịch vụ như tài chính - ngân hàng, vận tải - kho bãi ngày càng tăng trong tổng GDP
trên địa bàn thành phố. Đây là nền tảng cơ bản để nền kinh tế thành phố nâng cao
chất lượng tăng trưởng và chuyển đổi nhanh chóng mô hình tăng trưởng từ chiều
rộng sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu.
Thứ ba, Thành phố đã xác định đúng các nhóm ngành công nghiệp và
dịch vụ trọng yếu cần tập trung đầu tư phát triển, hướng tới cuộc cách mạng 4.0
Thành phố chủ trương phát triển 4 nhóm ngành công nghiệp trọng
yếu gồm cơ khí chế tạo, điện tử - công nghệ thông tin, hóa dược - nhựa cao su, chế
75
biến tinh lương thực - thực phẩm và chú trọng 9 nhóm ngành dịch vụ cao cấp, bao
gồm: tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm; thương mại; vận tải, kho bãi, dịch
vụ cảng; bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông; kinh doanh
tài sản - bất động sản; dịch vụ tư vấn, khoa học - công nghệ; du lịch; y tế; giáo dục -
đào tạo chất lượng cao. Trong những năm qua các nhóm ngành dịch vụ này đã có
những bước phát triển quan trọng, đóng vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế của
thành phố, đặc biệt là các ngành tài chính - ngân hàng, thương mại, bưu chính viễn
thông và công nghệ thông tin truyền thông.
Thứ tư, Thành phố bước đầu đã triển khai thực hiện tốt Đề án “Xây
dựng đô thị thông minh tầm nhìn đến năm 2025”
Với mục tiêu là Thành phố Hồ Chí Minh sẽ phát triển kinh tế tương đối
cao, bền vững, trên nền tảng khai thác tốt nhất các nguồn lực, với người dân là trung
tâm của đô thị; và những tiêu chí cụ thể như: Xây dựng TP. HCM trở thành nơi có
chất lượng sống và môi trường làm việc tốt, đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế
hướng đến kinh tế tri thức; Xây dựng chính quyền điện tử, ứng dụng các mô hình dự
báo kinh tế; thí điểm Chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung - mô hình liên kết
chuỗi công viên phần mềm đầu tiên được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận triển khai
trong giai đoạn 2016-2020.
2.3.2. Một số hạn chế, tồn tại
(1) Chất lượng tăng trưởng dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của Thành phố
Mặc dù Tp.HCM đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hơn cùng kỳ các năm
trước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục
được cải thiện, công tác quy hoạch chỉnh trang và phát triển đô thị có sự chuyển biến
đáng kể, ứng dụng công nghệ trong thông tin quy hoạch mang lại nhiều tiện tích cho
76
người dân… Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của thành phố thì đến nay vẫn còn
nhiều khó khăn, thách thức mà thành phố phải đối mặt. Cụ thể là một số chỉ tiêu
thành phần về đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh chưa
đạt so với kế hoạch đề ra. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững,
năng lực cạnh tranh chưa cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu nội bộ các ngành
còn chậm. Chưa tạo sự đột phá trong việc thực hiện các chính sách, giải pháp hỗ trợ
chuyển dịch cơ cấu ngành.
Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ chỉ đạt 8,1%/năm (Kế hoạch tăng
bình quân hàng năm từ 9 - 9,6%). Công nghiệp phát triển chậm lại ở các ngành công
nghiệp trọng điểm, chưa có đột phá về phát triển hạ tầng đô thị, chưa có đột phá về
huy động vốn xã hội cho đầu tư; năng lực cạnh tranh chưa tương xứng vị trí, vai trò
và tiềm năng của thành phố; tỷ trọng các dịch vụ cao cấp, sản phẩm công nghiệp có
hàm lượng khoa học công nghệ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế.
Đóng góp nhiều nhất vào sự tăng trưởng kinh tế của thành phố trong
những năm qua vẫn là các ngành công nghiệp truyền thống, thâm dụng lao động và
tài nguyên thiên nhiên (như chế biến thực phẩm, dệt - may, giày- da, cao su – nhựa)
và các ngành dịch vụ giản đơn, có giá trị gia tăng thấp (như thương nghiệp, vận tải,
kho bãi, khách sạn, nhà hàng). Phần đóng góp của các ngành công nghiệp có hàm
lượng công nghệ cao (như cơ khí chế tạo, điện tử, phần mềm tin học, vật liệu mới,
công nghệ sinh học) và các ngành dịch vụ cao cấp có giá trị gia tăng cao như tài
chính, tín dụng là rất nhỏ bé.
(2) Cơ cấu các ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố chuyển
dịch chậm, kém hiệu quả và không rõ nét
77
Thực tế những năm qua cho thấy khu vực công nghiệp trên địa bàn
thành phố vẫn chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng, chưa thực sự phát triển theo
chiều sâu. Tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất trong ngành công nghiệp có
xu hướng giảm, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến. Điều này đã làm xói
mòn lợi thế cạnh tranh của các ngành công nghiệp thành phố.
Chiếm tỷ trọng cao nhất và liên tục trong nhiều năm qua vẫn là nhóm
ngành truyền thống, thâm dụng lao động và tài nguyên thiên nhiên, như: chế biến
lương thực thực phẩm, dệt may, da giày, hóa chất, cao su, nhựa, thuốc lá… Các
ngành công nghiệp được xác định là thế mạnh của thành phố có tỷ trọng còn quá
thấp và phát triển quá chậm. Các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao,
tuy được nhắc đến nhiều với những yêu cầu đòi hỏi phải phát triển đi trước một
bước, nhưng trên thực tế gần như vẫn giẫm chân tại chỗ, chưa thấy có sự chuyển
biến tích cực nào đáng kể.
Đóng góp nhiều nhất vào sự tăng trưởng của công nghiệp chế biến trên
địa bàn thành phố cũng là nhóm ngành truyền thống, có tỷ trọng cao. Một số
ngành như cơ khí, điện tử, thiết bị tin học, phương tiện truyền thông… tuy có tốc
độ tăng trưởng cao trong những năm gần đây nhưng vì chiếm tỷ trọng quá thấp
nên cũng không có tác động gì đáng kể đối với sự tăng trưởng chung.
Có thể dự báo trong tương lai, nhóm các ngành công nghiệp truyền
thống sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh và không duy trì được tốc độ tăng trưởng cao
như trước. Do đó, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp trên
địa bàn thành phố chắc chắn sẽ giảm sút.
Cơ cấu công nghiệp trên địa bàn thành phố cũng không có sự khác biệt
nhiều so với các địa phương khác. Giữa Tp.HCM và các địa phương khác cho đến
78
nay vẫn chưa có được một sự phối hợp và khoảng giao thoa nào. Thế mạnh của
từng địa phương, trong đó có TP.HCM vẫn chỉ ở dạng tiềm năng, chưa được khai
thác một cách triệt để. Các ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố vẫn chưa
thật sự phát huy được lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh của mình trong tổng
thể sự phát triển và hội nhập chung của cả nước.
(3) Tỷ trọng của khu vực thương mại – dịch vụ còn thấp, các ngành
dịch vụ thể hiện thế mạnh và vai trò trung tâm của thành phố chưa có sự
chuyển biến nào đáng kể.
Nhìn chung so với thời kỳ bao cấp, hoạt động dịch vụ trên địa bàn
thành phố đã có sự phát triển vượt bậc, tuy nhiên trình độ của các hoạt động này
còn ở mức thấp so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế, quy mô và chất lượng các
sản phẩm dịch vụ còn kém xa so với trình độ chung của khu vực và thế giới.
Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ, nhất là các loại dịch vụ cao cấp
hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, là mục tiêu chiến lược được thành phố đề ra
và thực hiện từ nhiều năm qua. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố nhiều lần
khẳng định “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố phải lấy việc phát triển thương
mại - dịch vụ làm trọng tâm”. Tuy nhiên kết quả thu được trên thực tế cho đến nay
dường như vẫn đi ngược lại sự mong đợi khi tỷ trọng của khu vực này trong giá trị
tổng sản phẩm nội địa (GDP) của thành phố liên tục giảm sút.
Các loại hình dịch vụ thể hiện thế mạnh và vai trò trung tâm của thành
phố chưa có sự thay đổi nào đáng kể. Các ngành dịch vụ hiện đại tuy có sự tăng
trưởng nhưng vẫn chưa phản ánh hết tiềm năng và thế mạnh của thành phố. Tỷ trọng
các nhóm ngành trên trong cơ cấu GDP của thành phố từ năm 1990 tới nay hầu như
ít có sự thay đổi.
79
Nhìn về tương lai, mục tiêu trở thành đô thị văn minh, hiện đại chỉ có
thể đạt được một cách vững chắc nếu thành phố có được một hệ thống các ngành
dịch vụ hiệu quả cao. Hơn thế nữa, chỉ với một hệ thống các ngành dịch vụ có chất
lượng và hiệu quả cao mới có thể nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế trong
thời đại kinh tế tri thức. Như vậy, hướng tới xây dựng khối các ngành dịch vụ có
chất lượng và hiệu quả cao phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến
lược phát triển của thành phố trong thời gian tới.
(4) Sự phát triển của kinh tế tri thức, kinh tế số còn nhiều hạn chế, bất
cập; môi trường sống, môi trường làm việc của người dân chưa thực sự được đảm
bảo
Phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay tập trung vào
việc phát triển những ngành có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao nhằm
nâng cao năng suất lao động, tăng trưởng GDP và bảo đảm quá trình phát triển bền
vững. Sự phát triển của kinh tế tri thức trên địa bàn Thành phố đã bước đầu định
hình trên một số lĩnh vực chủ yếu như: công nghệ thông tin và truyền thông; công
nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới; công nghệ năng lượng.Tuy nhiên, bên cạnh
những thuận lợi, vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức đối với phát triển kinh
tế tri thức, đó là:
Nền kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường tại TP.Hồ Chí Minh
nói riêng và ở nước ta nói chung còn nhiều yếu kém, bất cập: Hệ thống thể chế kinh
tế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo, không minh bạch,
và nhất là năng lực thực thi pháp luật còn yếu. Cải cách hành chính diễn ra chậm
chạp, khiến cho năng lực hỗ trợ của nền hành chính cho phát triển kinh tế bị hạn chế,
thậm chí trong nhiều trường hợp các thủ tục hành chính lạc hậu, rườm rà gây cản trở
cho phát triển kinh tế;
80
Các ngành công nghệ cao đang ở trình độ phát triển sơ khai. Số doanh
nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) nhằm tạo ra công nghệ mới là
không đáng kể. Đây chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thành
phố hiện chỉ có một số doanh nghiệp nhà nước có cơ sở hoạt động và nghiên cứu
phát triển công nghệ, nhưng lượng vốn đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp này
còn thấp so với nhu cầu đổi mới và phát triển;
Ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống kinh tế - xã hội còn rất hạn
chế. Mạng thông tin đa phương tiện tuy đã và đang được mở rộng khá nhanh, nhưng
chưa bao phủ rộng khắp, chưa kết nối được đến hầu hết các tổ chức và các hộ gia
đình… Các phương thức kinh doanh mới như thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ
chức ảo, doanh nghiệp ảo, làm việc từ xa… còn ở trình độ thấp.
Do vậy, Tp. Hồ Chí Minh cần sớm xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể cho
việc phát triển kinh tế tri thức dựa trên bốn trụ cột là: giáo dục, phát minh, sáng chế;
cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông; hệ thống thể chế chính sách kinh
tế. Các lĩnh vực công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao phải đủ mạnh, và bảo
đảm một thể chế, chính sách được thực thi có hiệu quả. Bên cạnh đó, thành phố cần
tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và kinh tế tri thức;
phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường,
tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững hơn.
2.3.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
(1) Công tác quy hoạch – kế hoạch chưa thực sự khoa học, các
chương trình - mục tiêu phát triển ngành kinh tế chủ lực còn nhiều hạn chế
Trong một thời gian dài, thành phố hầu như không có được một quy
hoạch toàn diện, dài hạn về phát triển các ngành kinh tế nên đã xảy ra tình trạng
81
mạnh ngành nào ngành nấy phát triển. Các chương trình mục tiêu hỗ trợ chuyển
đổi cơ cấu kinh tế của thành phố còn rất mờ nhạt, triển khai chậm và tác dụng còn
rất hạn chế. Trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thiếu quy hoạch – kế hoạch nên có
sự hỗn tạp, trùng lắp, dẫm đạp lên nhau, trong khi đó thị trường lại bị bỏ ngỏ để
hàng ngoại nhập chiếm lĩnh…
Một số ít ngành - lĩnh vực bước đầu đã có qui hoạch phát triển thì lại
chưa có được những giải pháp cụ thể, sát thực nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh
đầu tư, đổi mới công nghệ, phát triển thị trường, nâng cao giá trị gia tăng các sản
phẩm… Trên thực tế có tình trạng: Chính quyền thành phố cứ hoạch định mục tiêu,
còn các ngành, các doanh nghiệp cứ làm ăn, phát triển tự phát. Nhiều sở ngành chỉ
quan tâm tới Doanh nghiệp Nhà nước thuộc ngành mình, còn vấn đề làm sao cho
các thành phần kinh tế khác phát triển được thì không mấy quan tâm… Sự bất cập
của bộ máy quản lý hành chính so với yêu cầu phát triển cũng là nhân tố làm hạn
chế sự phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
(2) Hệ thống cơ chế – chính sách thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế chưa cụ thể, đồng bộ, hiệu lực chưa cao
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lần thứ VIII giai đoạn 2006 - 2010 xác định là 1 trong 5 chương trình trọng
tâm và được Đại hội Đảng bộ Thành phố khóa IX, khóa X tiếp tục xác định hỗ trợ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế là một trong
những chương trình đột phá; Các mục tiêu nổi bật như: “Xây dựng thành phố Hồ Chí
Minh có chất lượng sống tốt” hay “Xây dựng Thành phố sớm trở thành một trong
những trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của khu
vực Đông - Nam Á”… đây là sự mạnh dạn đề ra mục tiêu phấn đấu đưa thành phố
Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ, xứng tầm với tiềm năng có được. Thành phố có đủ
82
điều kiện, cơ sở thực hiện các giải pháp hiệu quả trong thời gian tới để đạt được mục
tiêu này. Vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đã có có sự đổi mới về cơ chế, chính sách
và có chương trình hỗ trợ chuyển dịch đang được tích cực triển khai, góp phần thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố.
Tuy nhiên, các cơ chế, chính sách, biện pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong thời gian qua còn chưa theo kịp với chủ trương, định hướng, mục
tiêu đã đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Chẳng hạn, Thành phố
chưa có chính sách, giải pháp đột phá để hỗ trợ, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, chậm đầu tư công nghiệp hỗ trợ, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu
nhập khẩu; Một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp sau nhiều
năm không thoát khỏi tình trạng làm gia công cho nước ngoài... Bên cạnh đó, các
yếu tố tác động trực tiếp nhanh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng kinh tế như sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, công
nghiệp công nghệ cao, phát triển hạ tầng... và sự đầu tư còn dàn trải gây lãng phí
và không tập trung. Các chính sách nhằm tạo động lực cho sự phát triển nhanh và
bền vững như chính sách tài chính - tín dụng, chính sách khuyến khích đầu tư
trong nước, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách quản lý và sử dụng
đất đai, chính sách đổi mới và nâng cao hiệu quả tác động của công nghệ,... tuy đã
nhiều lần được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đem lại tác dụng thiết thực.
Có thể nói cho đến nay thành phố vẫn chưa tạo dựng được một môi
trường đầu tư và kinh doanh thực sự thông thoáng. Các cơ chế thúc đẩy sự liên kết
- hợp tác giữa các ngành - doanh nghiệp, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trong cạnh
tranh, cơ chế phối hợp hoạt động giữa TP.HCM với các địa phương khác, cơ chế
liên kết – hội nhập trong và ngoài nước… hoặc chưa hình thành, hoặc chưa đem
lại hiệu quả như mong muốn.
83
Để kích thích sự tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, Thành phố
phải có được một hệ thống cơ chế – chính sách cụ thể, đồng bộ, có tính đột phá và
có hiệu lực cao. Chính sự thiếu đồng bộ và kém hiệu lực của hệ thống cơ chế -
chính sách này đã hạn chế rất nhiều khả năng huy động các nguồn lực trong và
ngoài nước, tạo ra những rào cản hữu hình và vô hình đối với sự phát triển và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn Tp.HCM.
(3) Chưa bảo đảm khai thác tốt và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực
Nguồn lực Vốn:
Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và chuyển đổi cơ cấu kinh tế hiệu quả,
thành phố cần huy động được một lượng vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu
tư trên địa bàn thành phố những năm qua còn nhiều hạn chế do tỷ lệ tích lũy / GDP
của thành phố còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước. Tổng vốn đầu tư dường
như có dấu hiệu chững lại về yếu tố tăng bình quân. Cụ thể, yếu tố tăng bình quân 5
năm 2011 - 2015 là 9% và 2 năm 2016 - 2017 là tăng 8%.
Để chuyển đổi cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và
dịch vụ có giá trị gia tăng cao thì vốn đầu tư cho các ngành này cũng phải tăng dần
cả về khối lượng và tỷ trọng. Hiện chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư trên địa bàn
thành phố vẫn là các ngành nghề - lĩnh vực truyền thống, trong khi vốn đầu tư cho
các lĩnh vực cần ưu tiên phát triển còn thấp.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, trong
những năm qua, FDI trên địa bàn thành phố còn manh mún, lại thường tập trung vào
những ngành nghề truyền thống, thâm dụng tài nguyên - lao động và hướng tới nhu
cầu tiêu dùng nội địa… nên hiệu quả chưa cao. Để thúc đẩy sự phát triển và hội
84
nhập, FDI phải được chuyển hướng, đầu tư mạnh vào các ngành áp dụng công nghệ
hiện đại, có giá trị gia tăng cao và hướng vào xuất khẩu.
Nguồn nhân lực:
Trong những năm qua Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng trong
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đã đạt được những kết quả khả quan bước
đầu trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy vậy, nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao vẫn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố; Việc lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành chính sách, tổ chức thực hiện các
chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chính sách thu hút, trọng dụng
nhân tài, đào tạo đội ngũ chuyên gia, lao động kỹ thuật cao còn ít; chính sách và
công tác tổ chức đào tạo nghề chưa theo kịp yêu cầu nâng cao năng suất lao động,
chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước, cải cách
hành chính có hiệu quả; đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề còn ít.
Thực trạng thị trường lao động những năm gần đây tại thành phố luôn
diễn biến tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ nghề chuyên
môn lành nghề; cho thấy tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động chất lượng cao
trong các ngành kỹ thuật, quản lý sản xuất – kinh doanh. Một trong những khó khăn
hiện nay là thành phố có khoảng hơn 300 cơ sở đào tạo, dạy nghề nhưng chất lượng
đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp, nhiều doanh nghiệp thiếu lao
động có trình độ kỹ thuật, gây khó khăn cho phát triển công nghiệp nhất là các ngành
công nghiệp có hàm lượng chất xám cao.
Nguồn lực Khoa học – công nghệ
85
Quá trình đẩy mạnh các hoạt động khoa học - công nghệ, đổi mới thiết bị
công nghệ, tập trung hiện đại hóa trang bị và công nghệ trong các ngành kinh tế nói
chung và lĩnh vực công nghiệp nói riêng còn có những hạn chế, làm giảm tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chẳng hạn như trong lĩnh vực công nghiệp, trình độ
công nghệ của đa số các doanh nghiệp chỉ đạt mức trung bình; tốc độ đổi mới công
nghệ của các doanh nghiệp diễn ra chậm. Tỷ lệ doanh nghiệp có trình độ công nghệ
ở mức yếu chiếm tới 60-70%. Ngoài ra, chỉ có 29% dây chuyền sản xuất hoàn toàn
đồng bộ, số còn lại là tương đối và không đồng bộ, thậm chí chắp vá. Hơn nữa, phần
lớn công nghệ sản xuất của doanh nghiệp có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ… chiếm tới 79% nên chất lượng sản phẩm không cao. Thiết bị nhập từ
Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản chỉ chiếm khoảng 18%. Đối với doanh nghiệp ngoài Khu
Chế xuất, Khu Công nghiệp, có đến 60% doanh nghiệp đầu tư thiết bị đã qua sử
dụng;
Thành phố chưa có nhiều doanh nghiệp tích cực đổi mới công nghệ. Hơn
nữa, đổi mới công nghệ hiện nay chủ yếu mang tính cải tiến, rất ít doanh nghiệp phát
triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ hoàn toàn mới trên thị trường. Đa phần doanh
nghiệp chưa đầu tư nhiều vào bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D). Thay vào đó,
khi có ý tưởng mới về sản phẩm, doanh nghiệp sẽ đặt hàng thiết kế, sản xuất với đối
tác cung ứng.
(4) Công tác quản lý đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị chưa
đáp ứng nhu cầu
Quy hoạch và quản lý đô thị thời gian qua trên địa bàn thành phố chủ yếu
được thực hiện dựa vào các nguyên tắc thiết kế tĩnh, thiếu linh hoạt theo hướng thị
trường. Trong khi đó, đô thị ngày càng khẳng định vai trò động lực then chốt trong
nền kinh tế, do đó cần cải cách công nghệ và quy trình lập quy hoạch xây dựng đô
86
thị theo hướng chuyển từ quy hoạch tĩnh sang quy hoạch động, với cách tiếp cận đa
ngành mà Quy hoạch chiến lược là một ví dụ.
Trên thực tế, quy hoạch và quản lý đô thị, đặc biệt là phân vùng đô thị,
nhiều vấn đề đặt ra rất cần được nghiên cứu kỹ. Chẳng hạn như việc mở rộng quá
mức không gian đô thị, mâu thuẫn giữa quy mô và chất lượng đô thị, đảm bảo đô thị
phát triển bền vững... Vấn đề ô nhiễm môi trường do ảnh hưởng từ công tác quy
hoạch và việc điều chỉnh quy hoạch của Tp.HCM chưa phù hợp, đã tạo ra những khó
khăn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Có thể ví dụ điển hình như
việc quy hoạch các cụm công nghiệp (CCN) để đưa các cơ sở sản xuất về một mối,
nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường và xây dựng nền công nghiệp tập trung. Thế
nhưng, việc này thực chất là đưa ô nhiễm từ nơi này qua nơi khác. Tại địa bàn quận
12 có CCN Tân Thới Nhất và CCN Quang Trung. Theo quy hoạch, CCN Tân Thới
Nhất rộng 50ha, tập trung các nhà máy, cơ sở sản xuất thuộc ngành nghề dệt, cơ khí.
Đến nay CCN Tân Thới Nhất đã có 150 nhà máy, cơ sở sản xuất đi vào hoạt động
nhưng không tập trung, mà nằm đan xen trong khu dân cư; hàng ngày khói bụi, chất
thải tác động đến cuộc sống cả một vùng dân cư đông đúc; Còn CCN Quang Trung
có diện tích 50ha với hơn 30 nhà máy, cơ sở sản xuất đang hoạt động, gây ô nhiễm
nặng cho các khu dân cư nằm xen kẽ trong CCN. Tình trạng kẹt xe, giao thông quá
tải tại nhiều khu vực thường xuyên xảy ra, chưa khắc phục được: Khu vực phía
Đông Thành phố bao gồm các quận 2, 9, Thủ Đức đến thời điểm này hầu như chỉ
phát triển các dự án bất động sản và nhà ở, còn các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giải
trí được xây dựng mới rất ít. Xa lộ Hà Nội, cầu Sài Gòn - tuyến giao thông huyết
mạch nối các quận với trung tâm thành phố luôn trong tình trạng quá tải. Vấn đề quy
hoạch, quản lý đô thị tại Khu đô thị mới Thủ Thiêm thời gian vừa qua cũng đã gây ra
dư luận bức xúc, cản trở không nhỏ đến việc thực hiện Đề án xây dựng đô thị thông
minh thí điểm tại khu đô thị này (Quy hoạch khu Đô thị Thủ Thiêm là quy hoạch có
87
tầm nhìn lâu dài, mục tiêu của quy hoạch là xây dựng Thủ Thiêm trở thành trung tâm
tài chính, thương mại chứ không phải quy hoạch để xây dựng nhà ở thương mại như
bây giờ)
Kết luận chương 2
Qua phân tích các điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cũng như phân tích về thực trạng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành của Tp.HCM giai đoạn từ năm 2000 đến nay, chúng ta đã có thể
nhận thấy Thành phố Hồ Chí Minh đã thể hiện được vai trò đầu tàu kinh tế so với cả
nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nền kinh tế đã chuyển dần từ phát triển theo
chiều rộng sang phát triển theo hình thức kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; Sự
chuyển dịch cơ cấu GDP chia theo ngành kinh tế thời gian qua đã đi đúng hướng tập
trung phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao và các ngành dịch vụ cao cấp;
thành phố đã xác định được 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu và 9 nhóm ngành
dịch vụ cần tập trung đầu tư phát triển; Đặc biệt, Thành phố đã phê duyệt và triển
khai thực hiện Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông
minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025” với việc đảm bảo tốc độ tăng
trưởng kinh tế hướng đến kinh tế tri thức sẽ góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo đúng định hướng, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững.
Trên cơ sở đánh giá những mặt đạt được, chúng ta cũng đã nhận thấy những
hạn chế còn tồn tại như: Chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, môi
trường sống chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đặt ra của thành phố; Chưa bảo đảm
khai thác tốt và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực; Quy hoạch, quản lý đô thị và
phát triển kết cấu hạ tầng đô thị còn nhiều bất cập cần khắc phục.
88
Từ những hạn chế còn tồn tại cũng như xác định đúng nguyên nhân của
những vấn đề đặt ra như vậy sẽ là cơ sở cho những khuyến nghị giải pháp góp phần
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn Thành phố đi đúng
định hướng, góp phần thực hiện được những mục tiêu đặt ra, phấn đấu đưa thành phố
Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ, xứng tầm với tiềm năng có được.
89
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI VIỆC
XÂY DỰNG TP.HCM TRỞ THÀNH ĐÔ THỊ THÔNG MINH ĐẾN NĂM 2025
-------
3.1. Những quan điểm cơ bản
3.1.1. Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trên cơ sở Đề án “Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị
thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025”, có thể xác định một số
quan điểm cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố như sau:
(1) Chuyển dịch cơ cấu ngành trên địa bàn Tp.HCM phải hướng tới
mục tiêu phát triển kinh tế cao và bền vững
Để thực hiện được quan điểm phát triển này, Thành phố Hồ Chí Minh cần
xây dựng các chỉ tiêu chủ yếu phải thực hiện, bao gồm:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn thành phố
(GRDP) bình quân hằng năm từ 8% - 8,5% (tính theo GDP thì tăng hơn 1,5 lần mức
tăng trưởng GDP bình quân của cả nước), chuyển dịch cơ cấu theo định hướng dịch
vụ, công nghiệp - xây dựng, nông - lâm nghiệp và thủy sản; trong đó tỷ trọng của
dịch vụ trong GRDP đến năm 2020 chiếm từ 56% đến 58%.
Thứ hai, tỷ trọng đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP) vào GRDP bình quân hằng năm từ 35% trở lên.
90
Thứ ba, các yếu tố như: Tổng vốn đầu tư xã hội chiếm bình quân khoảng
30% GRDP; Đến năm 2025, GRDP bình quân đầu người đạt 10.000 USD, tỷ lệ lao
động đang làm việc đã qua đào tạo nghề đạt 85% trong tổng lao động làm việc, tỷ lệ
thất nghiệp đô thị dưới 4,5%.
Thứ tư, về năng lực quản lý của bộ máy chính quyền, cần phấn đấu đưa
thành phố trở thành một trong nhóm 5 địa phương dẫn đầu cả nước về xếp hạng chỉ
số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI), chỉ số cải cách hành chính (PAR-index).
(2) Chuyển dịch cơ cấu ngành trên địa bàn Tp.HCM phải hướng tới
việc xây dựng thành phố sớm trở thành một trong những trung tâm lớn về kinh tế,
tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ của khu vực Đông - Nam Á.
Với việc mạnh dạn đề ra mục tiêu phấn đấu “Sớm xây dựng Thành phố
Hồ Chí Minh trở thành một trong những trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương
mại, khoa học - công nghệ của khu vực Đông - Nam Á”, có thể nhận thấy thành phố
có đủ điều kiện, cơ sở thực hiện các giải pháp hiệu quả trong thời gian tới để đạt
được mục tiêu này góp phần xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ,
xứng tầm với tiềm năng có được.
(3) Chuyển dịch cơ cấu ngành trên địa bàn Tp.HCM phải hướng tới
việc xây dựng thành phố có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình
Với việc xác định quan điểm phát triển như vậy, hệ thống các chỉ tiêu và
các giải pháp chủ yếu của Thành phố cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng đời
sống cho Nhân dân, cụ thể như: Đến năm 2025, đảm bảo nước sạch cho 100% hộ
dân, diện tích nhà ở bình quân đầu người đạt 20 m2/người, đạt 300 phòng học/10.000
dân trong độ tuổi đi học (từ 3 tuổi đến 18 tuổi), đạt tỷ lệ 20 bác sĩ/10.000 dân, 42
91
giường bệnh đạt chuẩn quốc gia/10.000 dân và xử lý chất thải y tế cũng như nước
thải công nghiệp đạt 100%.
(4) Chuyển dịch cơ cấu ngành trên địa bàn Tp.HCM phải hướng tới
những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để hoàn thành các chương trình đột phá
Các chương trình đột phá gồm có: (1) Chương trình nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực; (2) Chương trình cải cách hành chính; (3) Chương trình nâng cao
chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố; (4) Chương trình
giảm ùn tắc giao thông, giảm tai nạn giao thông; (5) Chương trình giảm ngập nước,
ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; (6) Chương trình giảm ô nhiễm môi
trường; (7) Chương trình chỉnh trang và phát triển đô thị.
Với tình hình thực tiễn của sự phát triển thành phố Hồ Chí Minh, việc đề
ra chương trình đột phá này rất cần thiết và cũng có nhiều cơ sở, điều kiện để thực
hiện các giải pháp để đạt được thành công chương trình. Tập trung hoàn thành việc
di dời, tái bố trí toàn bộ nhà ở trên và ven kênh rạch, nâng cấp các khu phố có nhiều
nhà lụp xụp, xây dựng mới các chung cư xuống cấp gắn với chỉnh trang đô thị, tạo
thêm quỹ đất dành cho giao thông và công trình công cộng. Đồng thời quy hoạch,
xây dựng, phát triển các đô thị vệ tinh đồng bộ, văn minh, hiện đại; qua đó, tổ chức
lại cuộc sống của dân cư, cải thiện điều kiện sống, tăng mức độ tiếp cận của Nhân
dân với các dịch vụ công; tăng diện tích mảng xanh và cây xanh, tạo môi trường
sống tốt hơn, hợp lý, hài hòa với không gian kiến trúc, cảnh quan xung quanh; phù
hợp với sự phát triển chung của đô thị đặc biệt. Phối hợp với các bộ, ngành Trung
ương và các địa phương liên quan tập trung xây dựng hệ thống giao thông công cộng
có sức chở lớn, đường sắt đô thị, phát triển đường vành đai, đường trên cao, đường
cao tốc, luồng tàu đường biển, đường sông.”
92
Thành phố cần xác định rõ nhiệm vụ trong thời gian tới là:
Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển kinh tế tri
thức và tăng trưởng xanh, nâng cao chất lượng tăng trưởng và nâng cao năng lực
cạnh tranh;
Triển khai có hiệu quả các giải pháp bình ổn thị trường; khuyến khích, tạo
điều kiện để các thành phần kinh tế trong nước chiếm lĩnh thị trường bán lẻ;
Phát triển sản phẩm tài chính, định chế tài chính và thị trường tài chính.
Hiện đại hóa hệ thống thanh toán, hướng đến áp dụng hệ thống thanh toán không
dùng tiền mặt, nhanh chóng sử dụng phổ biến, an toàn các loại thẻ thanh toán điện tử
trong giao dịch. Phát triển mạnh, vững chắc hệ thống tài chính phi ngân hàng như thị
trường chứng khoán, các loại quỹ đầu tư, tổ chức bảo hiểm;
Tập trung đầu tư xuất khẩu sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và chiếm tỷ
trọng lớn trên thị trường, chủ động tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; đa dạng hóa sản
phẩm và chú trọng phát triển thị trường xuất khẩu;
Hoàn thiện chính sách để thu hút nguồn lực xã hội, đặc biệt là tài chính
doanh nghiệp; đầu tư phát triển khoa học - công nghệ, khuyến khích đầu tư xã hội,
tăng đầu tư công để nâng chất lượng, hiệu quả các chương trình khoa học - công
nghệ trọng điểm; Có chính sách thu hút đầu tư hiện đại hóa ngành xây dựng, sử dụng
vật liệu mới, tiết kiệm năng lượng, ứng dụng phổ biến công nghệ xây dựng hiện đại;
Liên kết xây dựng và phát triển dịch vụ du lịch đạt hiệu quả, ngang tầm
khu vực Đông Nam Á. Tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch vào các thị trường
trọng điểm, gắn với mở rộng hợp tác liên kết và kêu gọi đầu tư, đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao;
93
Tiếp tục tập trung phát triển các ngành công nghiệp trọng yếu trên cơ sở
xác định chiến lược phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ gắn với doanh nghiệp sản
xuất vừa và nhỏ.”
3.1.2. Quan điểm xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị
thông minh
(1) Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh
trên cơ sở phát triển kinh tế cao, bền vững
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn
bình quân hàng năm cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước. Tăng
trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển,
gắn với bảo vệ môi trường, tiến tới phát triển bền vững và phát triển kinh tế tri thức,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phấn đấu tổng sản phẩm nội
địa (GDP) bình quân đầu người vào năm 2025 đạt khoảng 10.000 USD.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ môi trường, chủ động ứng
phó biến đổi khí hậu; gắn liền với trách nhiệm của cộng đồng dân cư và doanh
nghiệp trong công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường; sử dụng hợp lý, có hiệu quả
các nguồn tài nguyên thiên nhiên; khắc phục và ngăn chặn có hiệu quả tình trạng ô
nhiễm môi trường; xử lý tốt chất thải rắn, nước thải và khí thải.
(2) Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh trên
cơ sở khai thác tốt nhất mọi nguồn lực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Ðể có nền tảng xây dựng thành phố thông minh, trước mắt, TP Hồ Chí
Minh sẽ xây dựng một khu đô thị sáng tạo tại phía đông thành phố (gồm ba quận:
Quận 2, 9, Thủ Ðức). Ý tưởng này được đặt ra trên nền tảng về thể chế, lợi thế kinh
tế, cơ sở hạ tầng mà thành phố đã có với khu công nghệ cao (quận 9); làng Ðại học
Quốc gia hơn 80 nghìn sinh viên, giảng viên (quận Thủ Ðức); khu đô thị mới, trung
tâm tài chính Thủ Thiêm (quận 2). Quận 9 hiện có khu công nghệ cao lớn thứ nhì cả
94
nước với hơn 700 ha, 35 nghìn lao động, sáu tỷ USD vốn đầu tư; còn Thủ Ðức với
12 trường đại học, trung tâm Ðại học Quốc gia. Hai quận này tạo nên hai cực công
nghệ và trí tuệ cao, kết hợp với trung tâm hành chính ở quận 2 sẽ trở thành khu đô
thị sáng tạo tương tác cao và đây cũng sẽ là trung tâm để các doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo.
Một thuận lợi nữa để TP Hồ Chí Minh tự tin xây dựng thành công khu đô
thị sáng tạo là Nghị quyết 54 của Quốc hội đã cho phép Tp. Hồ Chí Minh được quyết
định chủ trương đầu tư đối với những dự án nhóm A có sử dụng vốn ngân sách thành
phố. Ðây là một tiền đề rất quan trọng để thành phố đẩy nhanh tiến độ thực hiện các
dự án, giảm thiểu chi phí đầu tư, thu hút sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp
trong và ngoài nước vào công cuộc xây dựng, kiến thiết thành phố…
(3) Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh trên
cơ sở phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng
4.0
Hiện nay và trong nhiều năm tới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt
Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng phải dựa vào tiềm năng tài
nguyên trí tuệ, đầu tư mạnh vào việc nuôi dưỡng và phát triển nguồn tài nguyên trí
tuệ nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch từ cơ cấu ngành kinh tế truyền thống lên
kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức. Cần nắm bắt kịp thời cơ hội, phát huy năng
lực trí tuệ, đổi mới cách nghĩ, cách làm, mở rộng một cách có hiệu quả việc áp dụng
công nghệ mới hiện đại vào phát triển các ngành truyền thống, đẩy mạnh phát triển
các ngành kỹ thuật cao, đẩy mạnh việc sáng tạo các thành tựu khoa học và công nghệ
mới. Theo đó, mục tiêu xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả đến
năm 2025 như sau:
Ngành công nghiệp, tập trung nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của
các sản phẩm; phát triển các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có khả
95
năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, ưu tiên phát triển những sản
phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, áp dụng công nghệ mới, công nghệ sạch, sử
dụng tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu
nội bộ ngành công nghiệp theo hướng tăng nhanh công nghiệp chế biến, chế tạo,
công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hiện
đại. Các ngành công nghiệp nền tảng được ưu tiên để đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản
xuất cơ bản của nền kinh tế; Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cơ khí, công
nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường;
Ngành nông nghiệp, hướng vào phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới có
năng lực cạnh tranh cao và thương hiệu tốt. Phát triển nông nghiệp toàn diện, nâng
cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm; phát huy lợi thế so sánh
về điều kiện tự nhiên và sinh thái của mỗi vùng, mỗi địa phương. Tập trung đầu tư
khâu nghiên cứu và phát triển giống cây trồng, vật nuôi, nghiên cứu ứng dụng công
nghệ sinh học. Đổi mới đào tạo nhân lực, đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thức
khoa học công nghệ đến với người nông dân; sử dụng công nghệ sinh học làm gia
tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản;
Ngành dịch vụ đẩy mạnh phát triển, nhất là các dịch vụ có giá trị, hàm
lượng tri thức cao, tiềm năng lớn, có lợi thế và có sức cạnh tranh, như du lịch, hàng
hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế; hình thành một số trung tâm
dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Phát triển các dịch vụ có giá trị gia
tăng cao, như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics, dịch vụ phát triển phần mềm
công nghệ thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác. Đẩy mạnh tham gia
mạng phân phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi
thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước; xây dựng thương hiệu hàng hóa và dịch vụ
Việt Nam.
(4) Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh trên
cơ sở nâng cao chất lượng môi trường sống, môi trường làm việc của người dân
96
Đề án Xây dựng Tp.HCM trở thành đô thị thông minh xác định có 4 mục
tiêu là đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế và hướng đến kinh tế tri thức, nâng cao
chất lượng môi trường sống và làm việc, quản trị đô thị hiệu quả, tăng cường sự
tham gia quản lý của người dân, phát huy trí tuệ nhân dân. Theo đó, việc tập trung
nâng cao chất lượng môi trường sống và làm việc của người dân trở thành mục tiêu
quan trọng và cấp thiết.
Với việc xác định quan điểm phát triển như vậy, hệ thống các chỉ tiêu và
các giải pháp chủ yếu của Thành phố cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng môi
trường sống và làm việc, cụ thể như: đảm bảo nước sạch cho người dân, diện tích
nhà ở bình quân đầu người đạt 20 m2/người, đạt 300 phòng học/10.000 dân trong độ
tuổi đi học, đạt tỷ lệ 20 bác sĩ/10.000 dân, 42 giường bệnh đạt chuẩn quốc gia/10.000
dân; xử lý chất thải y tế và nước thải công nghiệp đạt 100%; tỷ lệ lao động đang làm
việc đã qua đào tạo nghề đạt 85% trong tổng lao động làm việc; tỷ lệ thất nghiệp đô
thị dưới 4%; thu nhập bình quân đầu người tăng...
3.2 Phương hướng, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn
với việc xây dựng Tp.HCM trở thành đô thị thông minh
3.2.1. Những định hướng cơ bản
Thứ nhất, đẩy nhanh tiến độ xây dựng thành phố trở thành đô thị
thông minh, năng động, hiện đại với khả năng kết nối sâu rộng vào chuỗi giá trị
khu vực và quốc tế, cạnh tranh được với các thành phố lớn của Châu Á; là điểm nhấn
về thu hút đầu tư và khởi nghiệp; phát huy vai trò trung tâm nguồn nhân lực chất
lượng cao. Triển khai thực hiện Đề án với 4 trụ cột gồm: trung tâm dữ liệu dùng
chung, trung tâm dự báo và mô phỏng, trung tâm điều hành và trung tâm an ninh
mạng.
97
Thứ hai, tranh thủ tối đa các cơ chế, chính sách mới phù hợp với Nghị
quyết 54 của Quốc hội để thành phố có sự bứt phá trong phát triển: Thành phố cần
rà soát tất cả các lĩnh vực để đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, điều
chỉnh các Nghị định, Thông tư theo hướng phân cấp mạnh mẽ cho thành phố chủ
động thực hiện các quy trình, thủ tục phù hợp với khả năng và tình hình thực tiễn của
thành phố.
Thứ ba, tiếp tục thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng
kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, trọng tâm là phát triển kinh tế tri thức, tăng
trưởng xanh, nâng cao tỷ trọng yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong
tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn thành phố (GRDP), sử dụng toàn diện và hiệu quả
các nguồn lực, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, nâng cao phúc lợi xã
hội và chất lượng cuộc sống của nhân dân; Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án
phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành phố, trong đó tập trung xây dựng,
triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút và hỗ trợ đầu tư
cho phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm giảm nhập khẩu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa
các sản phẩm gia công, lắp ráp.
Thứ tư, tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế
thành phố đáp ứng yêu cầu hội nhập sớm trở thành trung tâm kinh tế của khu vực;
cải cách thủ tục hành chính, đẩy nhanh tiến trình xây dựng đô thị thông minh, chính
quyền điện tử.
Xây dựng, tích hợp, chia sẻ và quản lý hệ thống thông tin địa lý (GIS)
dùng chung cho thành phố; xây dựng cơ sở dữ liệu thủ tục hành chính tập trung của
thành phố nhằm quản lý và kiểm soát các thủ tục hành chính trên địa bàn thành phố,
tạo điều kiện thuận lợi khi triển khai các dịch vụ công trực tuyến; triển khai Kế
98
hoạch xây dựng kho dữ liệu dùng chung và phát triển hệ sinh thái dữ liệu mở thành
phố.
Thúc đẩy thực hiện Đề án xây dựng Khu công viên phần mềm Quang
Trung 2; triển khai Chương trình phát triển công nghiệp vi mạch Thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2017-2020.
3.2.2. Mục tiêu đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025
Kinh tế thế giới năm 2018 được dự báo sẽ tiếp tục xu hướng cải thiện tích
cực nhờ sự gia tăng hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, chế tạo, xây dựng, thương
mại bán buôn và bán lẻ, ngân hàng và du lịch, tạo tiền đề thuận lợi hơn cho phát triển
kinh tế và xuất khẩu đặc biệt khi tận dụng tốt cơ hội của các hiệp định thương mại đã
ký kết. Môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng cải thiện, hội nhập kinh tế ngày
càng sâu rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư tư
nhân, giúp thúc đẩy sản xuất trong nước và thương mại. Những nỗ lực của Chính
phủ trong tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy tăng trưởng được thực
hiện triệt để và quyết liệt trong năm 2017 sẽ phát huy hiệu quả trong năm 2018 và
những năm tiếp theo là những căn cứ để dự báo mô hình tăng trưởng kinh tế
Tp.HCM như sau:
Về tốc độ tăng trưởng GRDP
Dự báo tăng trưởng GRDP thành phố Hồ Chí Minh sẽ đạt mức 8,48%
năm 2018; sẽ tăng cao trong 2 năm 2019 và 2020: đạt mức 8,8% năm 2019 và đạt
mức 8,9% vào năm 2020. Tăng trưởng bình quân mỗi năm từ 2018 đến 2020 đạt
8,5%/năm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân của đại hội đại biểu Đảng bộ
thành phố lần thứ X đã đề ra là 8- 8,5%/năm.
99
Năm
2018
2019
2020
Giai đoạn 2020-2025
Dịch vụ
8.55
8.93
9.05
9.25
Công nghiệp - XD Nông, Thủy sản
7.83 6.00
8,05 6.18
8.09 6.23
8.17 6.24
GRDP(%)
8.48
8.80
8.90
9.25
Về các thành phần cấu thành GRDP
Khu vực thương mại - Dịch vụ
Tăng trưởng GRDP ngành dịch vụ thành phố Hồ Chí Minh đạt mức
8,55% năm 2018; năm 2019: 8,93% và 9,05% năm 2020. Tăng trưởng bình quân
GRDP ngành Dịch vụ thành phố mỗi năm từ 2020 đến 2025 đạt 9,25%/năm. Ứng
với kịch bản này 9 ngành dịch vụ trọng điểm của thành phố đều phải được quan
tâm đầu tư đúng mức để có mức tăng trưởng cao.
Trong giai đoạn đến năm 2025, ba nhóm ngành dịch vụ ưu tiên cần đầu
tư theo thứ tự hội tụ ngành như sau:
Năm 2020: Thực hiện đề án xây dựng Thành phố thành trung tâm mua
sắm - thương mại điện tử của khu vực và cả nước;
Năm 2022: Thực hiện đề án xây dựng Thành phố thành trung tâm tài
chính- ngân hàng- bảo hiểm ngang tầm khu vực Đông Nam Á;
Năm 2025: Thực hiện đề án xây dựng Thành phố thành trung tâm dịch vụ
bất động sản khu vực và cả nước.
Giai đoạn 2018-2025 tập trung nguồn lực cho 3 nhóm ngành dịch vụ trên,
tạo tiền đề để Tp.HCM phát triển mạnh dịch vụ khoa học - công nghệ để trở
thành trung tâm khoa học - công nghệ trong giai đoạn 2021-2025 thông qua thực
hiện đề án đô thị thông minh, cơ sở hạ tầng thương mại hiện đại, trung tâm tài
100
chính khu vực, ứng dụng công nghệ 4.0 (trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, big
data...), đảm bảo mục tiêu tăng trưởng xanh.
Khu vực Công nghiệp - Xây dựng
Tăng trưởng GRDP ngành công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đạt mức
7,83% năm 2018; năm 2019: 8,05% và 8,09% năm 2020. Tăng trưởng bình quân
GRDP ngành Công nghiệp thành phố mỗi năm từ 2020 đến 2025 đạt 8,17%/năm.
Ứng với kịch bản này là Thành phố tập trung nhiều nguồn lực và cải thiện tốt môi
trường đầu tư, nhất là các chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao,
tận dụng thật tốt các thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào ngành
công nghiệp nói riêng và vào tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội nói
chung, nhất là vào quản lý đô thị theo mô hình “Thành phố thông minh”.
Trong giai đoạn đến năm 2025, ba nhóm ngành công nghiệp ưu tiên cần
đầu tư theo thứ tự hội tụ ngành như sau:
Năm 2020: Tập trung nguồn lực phát triển ngành điện tử - công nghệ
thông tin, ứng dụng công nghệ 4.0 vào thực hiện đề án đô thị thông minh, trọng
tâm là công nghệ vi mạch, trí tuệ nhân tạo, mạng internet vạn vật và big data;
Năm 2022: Tập trung nguồn lực phát triển ngành cơ khí chế tạo (phát
triển công nghiệp hỗ trợ nhằm xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm cơ khí chế tạo
thành phố);
Năm 2025: Tập trung nguồn lực phát triển nhóm ngành hóa chất, trọng
tâm là ngành hóa dược và nhóm ngành chế biến thực phẩm, trọng tâm là phát
triển các thương hiệu hàng đầu của Việt Nam.
Khu vực Nông nghiệp
Tăng trưởng GRDP ngành nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đạt mức
6% năm 2018; năm 2019: 6,18% và tăng 6,23% năm 2020. Tăng trưởng bình
101
quân mỗi năm từ 2020 đến 2025 đạt 6,24%/năm. Mức tăng trưởng này dựa trên
nền tảng ngành Nông nghiệp thành phố phát huy các lợi thế của trung tâm giống,
nông nghiệp đô thị, nông nghiệp xanh và nông nghiệp sạch. Tập trung nguồn lực
ứng dụng thành tựu công nghệ sinh học, công nghệ 4.0 vào sản xuất và quản lý
nông nghiệp thành phố.
3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành gắn với xây dựng Tp.HCM trở thành đô thị thông minh đến năm 2025
3.3.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, thể chế
Thứ nhất, đổi mới tư duy về chức năng quản lý của các cấp chính
quyền phù hợp với sự vận hành của cơ chế thị trường.
Chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp cần kiên trì thực hiện theo nguyên
tắc: Nhà nước sử dụng các chính sách, biện pháp và công cụ để tác động vào thị
trường theo định hướng của nhà nước; Chính thị trường sẽ tác động vào sự định
hướng đầu tư của doanh nghiệp (trên cơ sở quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh),
chứ Nhà nước không ''cầm tay chỉ việc" cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, xác định
rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc sử dụng các
công cụ hỗ trợ thị trường.
Thứ hai, sử dụng hiệu quả công cụ chính sách kinh tế - tài chính để
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tái cấu trúc nội bộ các ngành
kinh tế.
Sự đổi mới quyết liệt các chính sách về thuế, phí, đất đai, đầu tư công,
cung ứng dịch vụ công sẽ khuyến khích có điều kiện, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các
102
doanh nghiệp tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm và hình thành những ''cụm liên kết sản
xuất”, góp phần giúp chuyển nền công nghiệp từ gia công sang sản xuất. Kinh
nghiệm của quốc tế cũng đã cho thấy, việc chuyển nền kinh tế từ giai đoạn gia công
sang giai đoạn sản xuất là sử dụng linh hoạt và hiệu quả chính sách thuế để định
hướng đầu tư cho doanh nghiệp. Trong những năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh tuy
đã có một số kinh nghiệm về hỗ trợ doanh nghiệp chuyển dịch hướng đầu tư kinh
doanh thông qua các chính sách sử dụng đất, hỗ trợ tín dụng... có hiệu quả nhưng
vẫn còn hạn chế chính sách chung ở tầm vĩ mô.
Đồng thời, đẩy nhanh việc tái cơ cấu và cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước để tập trung nguồn vốn vào các ngành nghề có lợi thế, nhất là 9 nhóm
ngành dịch vụ thế mạnh và 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu. Ngoài ra, Thành
phố cần kịp thời điều chỉnh các quy định về một số cơ chế tài chính, ngân sách phù
hợp với Nghị quyết số 54/2017/QH14 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát
triển Thành phố Hồ Chí Minh đã được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2017.
Thứ ba, sử dụng các tổ chức kinh tế của Nhà nước như công cụ để
khắc phục và hạn chế những khuyết tật của thị trường.
Hiện có những lĩnh vực cần sự can thiệp mạnh của lực lượng kinh tế nhà
nước như cung cấp hàng hóa và dịch vụ công; Các ngành kinh tế có hiệu quả sinh lời
thấp, nhưng cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa như cơ khí chế tạo, công nghiệp
phụ trợ, đầu tư cho thị trường bất động sản sơ cấp, nghiên cứu, ứng dụng và phát
triển công nghiệp công nghiệp cao… Quan trọng hơn, Nhà nước cần phải thể hiện
quyết tâm chính trị trong đầu tư phát triển, không phải để mặc doanh nghiệp nhà
nước tự cân nhắc hiệu quả tài chính đơn thuần.
Thứ tư, chuyển từ cơ cấu kinh tế địa phương sang cơ cấu kinh tế vùng.
103
Thực tiễn cho thấy, Tp. Hồ Chí Minh đã và đang là ''hạt nhân” trong mối
quan hệ ''mang tính cơ cấu'' của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nếu có chính
sách thúc đẩy và cơ chế điều hành phù hợp sẽ nâng cao được chất lượng tăng trưởng
kinh tế và phát triển đô thị bền vững cho cả Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Đồng thời cũng tạo động lực cho sự phát triển của cả miền Đông Nam bộ, Tây
Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long.
Thời gian tới Thành phố cần chủ động phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các
bộ, ngành và các tỉnh trong khu vực và thực hiện thống nhất quy hoạch, tạo sự đồng
bộ trong phát triển kết cấu hạ tầng; Xây dựng những cơ chế, chính sách đầu tư chung
để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn vùng, trong đó phát triển những vùng
nguyên liệu, công nghiệp hỗ trợ kết nối, đưa TP. Hồ Chí Minh trở thành trung tâm
sản xuất công nghệ cao với các vệ tinh cung cấp là các tỉnh, thành lân cận.
Thứ năm, đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền đô thị trong
khuôn khổ tổ chức hệ thống chính quyển địa phương theo phương thức mở rộng
tính tự chủ và chịu trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao.
Để nâng cao hiệu năng quản lý nhà nước của chính quyền địa phương về
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, đặc biệt là quản lý đô thị đối với các đô thị
trong hệ thống tổ chức chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan chuyên ngành
cần phải đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo
hướng: Nhiệm vụ của cấp nào thì cấp đó chịu trách nhiệm, có thẩm quyền đầy đủ tự
quyết, tự quản đối với công việc được giao; không trùng lắp nhiệm vụ do Trung
ương giao và công việc giữa các cấp chính quyền… nhằm tránh sự đùn đẩy trách
nhiệm, chồng chéo.
104
Khi đã tạo sự chủ động cho chính quyền cấp dưới, nhiệm vụ chính yếu
của chính quyền cấp trên là ban hành các quy định và kiểm tra giám sát việc tuân thủ
các quy định của cấp dưới. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa mô hình phân cấp
hiện hành với mô hình tăng tính tự chủ của chính quyền địa phương. Việc phân cấp
cần dựa trên nguyên tắc thống nhất của nền hành chính quốc gia, bảo đảm tính chất
của một Nhà nước đơn nhất, nhưng phải đề cao tính tự chủ của địa phương trên nền
tảng lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh của các địa phương, các vùng kinh tế và các
đô thị.
Để thích ứng với đặc điểm của cơ chế thị trường và mối quan hệ giữa Nhà
nước với thị trường, xu hướng chung của thế giới là mở rộng quyền tự quản về ngân
sách và cung cấp dịch vụ đô thị của chính quyền các đô thị. Do đó, cần nghiên cứu
hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan, tổ chức chính quyền địa phương
các cấp, trong đó có chính quyền đô thị theo hướng làm rõ mô hình tổ chức chính
quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo đã được đề ra.
Với sự quyết tâm cao, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sự chung tay của
cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, năm 2018 và các năm tiếp theo
chắc chắn Thành phố sẽ hoàn thành tốt nhất những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ Thành phố lần thứ X đề ra, xây dựng Thành phố văn minh, hiện đại, từng
bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ
của cả nước và trong khu vực.
Thứ sáu, Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới chính sách kinh tế tạo hành
lang cho sự phát triển các ngành kinh tế đã quy hoạch
Quá trình hoàn thiện chính sách ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian
tới cần nhận thức một cách đầy đủ vị trí quan trọng của chính sách hỗ trợ và khuyến
105
khích đầu tư trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoàn thiện chính sách có
vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thông qua chính sách
các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế thể hiện rõ được mục tiêu huy động vốn cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy, chính sách có thể tạo điều kiện cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng đề ra. Ngược lại, nếu không phù hợp,
chính sách sẽ làm chậm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong thực tế những năm vừa qua, việc thực hiện các giải pháp chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của thành phố là kịp thời, đúng hướng. Tuy nhiên, các chính sách
đó cũng còn chưa đủ mạnh nhằm thay đổi, phát triển mạnh các ngành kinh tế như:
chưa có chính sách, giải pháp đột phá để hỗ trợ, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, chậm đầu tư công nghiệp hỗ trợ, chính sách kinh tế vĩ mô thời gian qua chưa có
tác động tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cạnh tranh, nhất là
các chính sách định hướng cho doanh nghiệp chuyển từ gia công sang sản xuất... Vì
vậy, cần hoàn thiện chính sách trên địa bàn. Cụ thể cần thực hiện tốt các nội dung
sau:
Thành phố cần đẩy mạnh rà soát, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong tất
cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh; Tăng cường hỗ trợ cho các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa về đầu tư, xúc tiến thương mại và các chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp. Đồng thời, đẩy nhanh việc tái cơ cấu và cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước để tập trung nguồn vốn vào các ngành nghề có lợi thế, nhất
là 9 nhóm ngành dịch vụ thế mạnh và 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu. Ngoài
ra, thành phố cần kiến nghị điều chỉnh các quy định về một số cơ chế tài chính, ngân
sách đặc thù đối với Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng tạo điều kiện cho thành
phố chủ động trong huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển.
106
Thành phố Hồ Chí Minh cũng thường xuyên làm việc với Ngân hàng Nhà
nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, phối hợp với các ngân hàng thương mại và
quận, huyện rà soát, nắm bắt danh sách các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, hỗ trợ
kí các văn bản cam kết, các hợp đồng tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp; tập trung rà
soát dư nợ các khoản vay cũ, điều chỉnh lãi suất…; Thực hiện có hiệu quả chương
trình hỗ trợ lãi suất vay thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đô thị của
thành phố. Theo đó, thành phố sẽ hỗ trợ lãi suất vay cho các gia đình, trang trại,
doanh nghiệp chuyển dịch cơ cấu để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách xây dựng môi trường đầu
tư thông thoáng, bình đẳng tạo hành lang pháp lý vững chắc cho sự phát triển các
ngành kinh tế đã quy hoạch; trong đó, tập trung rà soát, bãi bỏ những thủ tục không
cần thiết, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuế, hải quan và các
dịch vụ hành chính; công khai, minh bạch quy trình, thủ tục, chuẩn hóa mô hình áp
dụng cơ chế “một cửa liên thông”, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin tại cơ
quan hành chính các cấp để giảm phiền hà cho tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân.
Hoàn thiện và triển khai thực hiện Đề án Tái cấu trúc nền kinh tế thành
phố do Viện nghiên cứu phát triển chủ trì để định hướng cho thực hiện Chương trình
hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế thành
phố.
Nhanh chóng triển khai các biện pháp hoàn thiện môi trường đầu tư kinh
doanh trên địa bàn Thành phố trên cơ sở cải thiện các chỉ số PCI, PAPI, PAR Index,
nhất là tập trung cải thiện các chỉ tiêu thành phần đang có điểm thấp; Nhanh chóng
ban hành cơ chế chính sách để triển khai có hiệu quả đề án xây dựng thành phố
thông minh trên cơ sở ứng dụng các thành tựu công nghệ của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 vào tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội, quản lý đô thị,
107
an ninh, quốc phòng của thành phố để tăng hiệu quả, hiệu lực quản lý công, quản trị
doanh nghiệp, tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, thời gian...
Tập trung giải quyết các vướng mắc của người dân về đền bù, giải tỏa, thu
hồi quyền sử dụng đất ở các dự án đô thị, tập trung giải quyết khu vực Đô thị mới
Thủ Thiêm. Cần thiết tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện thủ tục đền bù cho người
dân bị thu hồi quyền sử dụng đất để đề xuất hoàn thiện cơ chế chính sách về thu hồi
đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
Đẩy mạnh triển khai các chính sách hỗ trợ, khuyến khích nghiên cứu và
ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất, đời sống, tăng cường chuyển
giao công nghệ tiến tiến từ nước ngoài, đổi mới công nghệ thiết bị, đẩy mạnh các
dịch vụ hỗ trợ phát triển thị trường.
Giải quyết bất cập trong cơ sở pháp lý, hướng dẫn thực hiện của các cơ
quan Trung ương, chủ yếu là trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường, xây dựng
và đầu tư đối với việc thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa
liên thông.
Nghiên cứu xây dựng và ban hành các cơ chế chính sách phù hợp nhằm
thu hút khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng giao
thông và tạo sự đột phá trong hình thức đầu tư hợp tác công tư (PPP).
3.3.2. Nhóm giải pháp về qui hoạch và cơ sở hạ tầng
Quy hoạch là một lĩnh vực chuyên môn, có tính mục đích nhằm nâng cao
hiệu quả của nền kinh tế. Do vậy, quy hoạch có vai trò rất quan trọng, là công cụ
quản lý của cơ quan Nhà nước nhằm đảm bảo cho các ngành phát triển theo định
108
hướng đã định, bảo đảm hiệu quả cao nhất cho bản thân của mỗi ngành, cũng như
nền kinh tế.
Trong những năm vừa qua, mặc dù công tác quy hoạch của thành phố có
những mặt tích cực, tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tuy nhiên cũng
còn có những mặt hạn chế nhất định. Vì vậy, thời gian tới khuyến nghị cần thực hiện
theo các nội dung sau:
Thứ nhất, Rà soát và điều chỉnh Quy hoạch chung Thành phố đến năm
2030 phù hợp với Quy hoạch vùng Thành phố Hồ Chí Minh; cụ thể hóa các nội
dung của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X; tái cấu trúc đô thị theo
định hướng giao thông công cộng, thích ứng biến đổi khí hậu; xác định rõ các khu
vực đô thị quan trọng ưu tiên phát triển và tái phân bổ dân cư phù hợp, đồng thời xác
định tầm nhìn dài hạn cho phát triển bền vững của Thành phố trong tương lai.
Thứ hai, Tập trung nâng cao chất lượng của đồ án quy hoạch: Nâng
cao chất lượng sản phẩm của các đơn vị tư vấn thiết kế (đặc biệt là công tác khảo sát
thu thập thông tin hiện trạng), chất lượng công tác thẩm định đồ án (nhân sự thẩm
định, quy trình, công tác phối hợp thẩm định,...); đồng thời đề xuất các giải pháp để
rút ngắn thời gian thẩm định, trình phê duyệt quy hoạch. Rà soát các quy hoạch phân
khu, lập các Quy chế quản lý kiến trúc đô thị và thiết kế đô thị cho các khu vực quan
trọng Thành phố: trên cơ sở các quy hoạch phân khu đã được phê duyệt, căn cứ tình
hình thực tế và định hướng phát triển của Quy hoạch chung Thành phố, rà soát
và điều chỉnh, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư, quản lý đô thị và nhu cầu của
nhân dân trong khu vực quy hoạch.
Thứ ba, Ban hành Bộ Quy chuẩn quy hoạch đô thị áp dụng cho Thành
phố Hồ Chí Minh: Căn cứ theo Quy chuẩn quốc gia về quy hoạch đô thị, nghiên cứu
109
các quy định cụ thể áp dụng cho đô thị đặc biệt Thành phố Hồ Chí Minh. Phối hợp
với các bộ, ngành có liên quan đẩy mạnh công tác quy hoạch xây dựng mở rộng khu
vực sân bay Tân Sơn Nhất, nhằm nâng công suất của sân bay Tân Sơn Nhất đảm bảo
nhu cầu vận chuyển hàng không ngày càng gia tăng nhanh, góp phần thúc đẩy kinh
tế thành phố tăng trưởng nhanh; Đẩy nhanh tiến độ thực hiện sắp xếp hệ thống cảng
biển khu vực Thành phố theo quy hoạch, đảm bảo an toàn giao thông và phát triển
kinh tế; Đặc biệt chú trọng đến kêu gọi vốn đầu tư các tuyến tàu điện ngầm còn lại
của thành phố để giải quyết bài toán về giao thông đang ngày càng phức tạp hiện
nay, cũng như tạo hình ảnh thành phố hiện đại, năng động trước du khách trong và
ngoài nước. Tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Đô thị mới Thủ
thiêm; Tập trung nguồn lực cho phát triển khu vực Quận Thủ đức, Quận 9, Quận 2
trở thành khu đô thị khoa học - công nghệ và sáng tạo.
Thứ tư, hoàn thiện việc qui hoạch phát triển, chủ động xây dựng
chương trình mục tiêu phát triển các ngành kinh tế chủ lực
Với khối ngành dịch vụ
Đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ hiện đại phải được xem là trọng
tâm của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm phát huy lợi thế và vai trò trung
tâm của thành phố. Với định hướng đó, thành phố cần tập trung vào các lĩnh vực sau:
Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu phát triển
ngành thương mại, tập trung vào các nhóm giải pháp chính như: Tăng cường đầu tư,
xây dựng cơ sở vật chất, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng và
nâng cấp các trung tâm thương mại nội địa theo quy hoạch chung, hợp tác với các
tỉnh để tổ chức tốt các kênh phân phối hàng hóa, hỗ trợ xuất khẩu và xúc tiến thương
mại…
Gắn việc phát triển dịch vụ sản xuất kinh doanh với phát triển dịch vụ hậu
cần phục vụ giao thương nội địa và quốc tế, khai thác ưu thế dịch vụ của hệ thống
110
cảng và kho vận trên địa bàn thành phố, trọng tâm là xây dựng khu đô thị cảng Hiệp
Phước.
Triển khai chương trình mục tiêu phát triển ngành tài chính, tín dụng,
ngân hàng đến năm 2025, chủ động đề xuất với chính phủ phê duyệt đề án xây dựng
thành phố thành trung tâm tài chính của cả nước.
Phát triển dịch vụ viễn thông và giá trị gia tăng gắn với sự phát triển của
công nghệ tin học và phần mềm, phát triển dịch vụ gia công xử lý, quản lý dữ liệu từ
xa cho các khách hàng trong nước và quốc tế, hội nhập giữa các dịch vụ viễn thông -
tin học - truyền thông, phát triển dịch vụ đa chức năng…
Phát triển dịch vụ bất động sản trong Chương trình mục tiêu phát triển thị
trường bất động sản, bao gồm các loại hình thị trường chuyển nhượng, cho thuê, thế
chấp và các dịch vụ tư vấn, định giá, môi giới, quản lý bất động sản…
Phát triển các chương trình du lịch trên địa bàn thành phố, phát huy thế
mạnh của trung tâm du lịch lớn nhất phía Nam để tăng cường hợp tác liên kết với các
địa phương khác trong khu vực. Tham gia các tổ chức du lịch quốc tế nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh và phát triển du lịch quốc tế, xây dựng thành phố thành điểm
đến hấp dẫn và an toàn cho du khách.
Phát triển dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực luật pháp, kinh doanh và khoa học
kỹ thuật, hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng vào
sản xuất, chú trọng phát triển lĩnh vực thiết kế, tạo mẫu và lĩnh vực quảng cáo; Phát
triển thị trường công nghệ.
Tập trung nâng cao chất lượng của dịch vụ y tế, xây dựng một số trung
tâm y tế có chất lượng ngang bằng so với các nước trong khu vực nhưng với chi phí
phục vụ rẻ hơn; Nghiên cứu xây dựng một số trung tâm y tế - sinh thái, kết hợp
khám chữa bệnh và nghỉ dưỡng. Tiếp tục xã hội hóa y tế, nghiên cứu áp dụng mô
hình bệnh viện cổ phần.
111
Xây dựng thành phố thành trung tâm giáo dục - đào tạo hàng đầu của các
tỉnh phía Nam, tập trung đào tạo các ngành nghề đáp ứng quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chú trọng đào tạo về quản lý kinh tế để thúc đẩy việc chuyển dịch cơ
cấu sang các ngành dịch vụ, tiếp tục xã hội hóa giáo dục đào tạo, khuyến khích các
trường - cơ sở giáo dục quốc tế thành lập chi nhánh tại thành phố…
Với khối ngành công nghiệp
Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cần
dựa trên lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, vị trí địa lý, giao thông vận tải và phải
gắn kết chặt chẽ sản xuất với thị trường, gắn với các khu vực kinh tế khác trong tỉnh
và trong nước;
Thành phố cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực có hàm lượng khoa
học - công nghệ và giá trị gia tăng cao, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng như
cơ khí; điện tử - công nghệ thông tin; hóa dược - cao su; chế biến tinh lương thực
thực phẩm; công nghệ sinh học, công nghiệp thời trang, thiết kế…; chuyển dần từ
hoạt động gia công lắp ráp sang hoạt động sản xuất. Tiếp tục phát triển các khu công
nghiệp công nghệ cao; bố trí lại sản xuất trong các khu, cụm công nghiệp đã được
quy hoạch; đồng thời phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển
công nghiệp cơ khí, điện tử - tin học; hạn chế các dự án đầu tư mới thâm dụng lao
động phổ thông.
Với lĩnh vực nông nghiệp
Điều chỉnh phân bố các vùng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản, hình thành các vùng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp đô
thị, nông nghiệp chuyên canh, vùng phát triển vườn cây ăn trái tập trung, các vùng
rừng trồng, rừng phòng hộ, rừng ngập nước, rừng ngập mặn, hình thành các vùng
đánh bắt nuôi trồng thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu. Bảo tồn các vùng cảnh
quan thiên nhiên, vùng sinh thái đặc trưng; điều chỉnh định hướng phân bố hệ
112
thống hạ tầng xã hội và dịch vụ, bao gồm các trung tâm chuyên ngành cấp vùng,
tiểu vùng, quốc gia và quốc tế; Xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp phải
nằm trong tổng thể và mặt bằng chung của thành phố, phải phù hợp trình độ, khả
năng người lao động; Cần tập trung vào việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nhất là các sản phẩm chủ lực của
thành phố.
3.3.3. Nhóm giải pháp về huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn
lực
Về nguồn nhân lực
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Thành phố Hồ Chí
Minh phải có các điều kiện như: vốn, nhân lực, khoa học công nghệ… Trong các
điều kiện đó, nguồn nhân lực đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nghị quyết hội nghị
lần thứ bảy ban chấp hành trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ đã chỉ rõ: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công
tác cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận
trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho
phát triển lâu dài, bền vững”. Điều đó cho thấy, đào tạo và sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành một trong các yếu
tố then chốt thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển cũng như trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Trong những năm qua Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng
trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đã đạt được những kết quả khả quan
bước đầu trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho quá trình
113
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy vậy, nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao vẫn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố; cơ cấu nguồn nhân lực chưa phù hợp; đội ngũ công nhân kỹ thuật lành
nghề còn ít. Nguyên nhân cơ bản là do giữa các trung tâm đào tạo nhân lực và nơi sử
dụng nhân lực chưa có sự tương thích hoàn toàn. “Ðộ vênh” giữa nhà trường và
doanh nghiệp còn khá lớn. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng chưa có chiến lược, kế
hoạch dài hạn về nhu cầu nhân lực của mình, đồng thời chưa thật sự chủ động tham
gia, góp sức vào quá trình đào tạo nhân lực.Vì vậy, trong thời gian tới cần hướng
vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, Cần quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên và phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế xã – hội của thành phố, phù hợp với xu hướng
chuyển dịch của cơ cấu ngành kinh tế.
Quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực phù hợp về cơ cấu ngành và lĩnh vực.
Đặc biệt, cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Thành phố Hồ Chí Minh,
phục vụ công cuộc đổi mới. Trước những định hướng phát triển thành phố hiện đại
với các ngành kĩ thuật cao, nhưng nguồn nhân lực kĩ thuật cao lại đang thiếu. Vì thế,
thành phố cần tập trung đầu tư vào các nhóm đối tượng đặc biệt, có vai trò quyết
định và tạo sự đột phá trong phát triển nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội. Trong
giai đoạn từ nay đến năm 2025, ưu tiên phát triển nhân lực đủ để cung cấp cho
những ngành có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao. Phải tăng cường
sự kết hợp giữa các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để tạo nguồn lao động phù hợp
yêu cầu của doanh nghiệp; nâng cao chất lượng cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo
ở tất cả các cấp, đổi mới nội dung phương pháp đào tạo; gắn nội dung đào tạo trong
nhà trường với hoạt động thực tiễn của các doanh nghiệp.
114
Thứ hai, Đẩy mạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở đổi
mới cơ chế chính sách đào tạo, thu hút, sử dụng, đãi ngộ và phát triển nhân lực
trong tất cả các khu vực hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt trong khu vực công và
khu vực doanh nghiệp.
Xây dựng và triển khai đề án đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức trong toàn hệ thống chính trị Thành phố để sắp xếp, bố trí lại cho hiệu quả trên
tinh thần tinh gọn bộ máy quản lý dựa trên cơ sở ứng dụng thành tựu của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 vào quản lý hành chính công.
Nhanh chóng xây dựng và triển khai đề án nâng cao thu nhập cho lực
lượng công chức, viên chức thành phố không quá 1,8 lần lương cơ bản; xây dựng và
triển khai đề án thu hút và đãi ngộ chuyên gia tham gia cống hiến trí tuệ cho Thành
phố theo tinh thần Nghị Quyết 54 của Quốc hội; trong đó, cần tập trung thu hút
nguồn nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội chủ lực của thành
phố theo tinh thần Nghị quyết 54 của Quốc hội.
Thứ ba, Rà soát, điều chỉnh, đổi mới cơ chế, chính sách giáo dục nghề
nghiệp trên địa bàn Thành phố, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
ngoài công lập thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đăng ký hoạt động giáo dục
nghề nghiệp, tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động.
Khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tăng cường liên kết với doanh nghiệp,
hợp tác với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có uy tín trong khu vực để xây dựng
chương trình và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực có tính thực tiễn cao. Đẩy mạnh hợp
tác đào tạo giữa các trường và doanh nghiệp thực hiện mô hình: “Đưa doanh nghiệp
vào cơ sở đào tạo”. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ công tác đào
tạo nghề theo xu hướng hội nhập quốc tế.
115
Về khoa học và công nghệ
Khoa học - công nghệ có vai trò quan trọng đối với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, vai trò đó ngày càng tăng lên trong điều kiện cách mạng khoa học -
công nghệ hiện đại và đang trở thành động lực thúc đẩy thành công quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của thành phố. Bởi vì, chỉ có thể dựa vào khoa học - công nghệ
hiện đại mới có thể đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất trong khu vực.
Tiến bộ khoa học - công nghệ còn trực tiếp nâng cao trình độ dân trí, kích thích học
hỏi, làm thay đổi tư duy kinh tế, tiếp cận các phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện
đại, tạo ra giá trị kinh tế cao.
Trong thời gian qua, thành phố đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động khoa
học - công nghệ, ưu tiên đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, tập trung hiện đại
hóa trang thiết bị và công nghệ trong các ngành kinh tế. Tuy nhiên, quá trình đẩy
mạnh các hoạt động khoa học - công nghệ, đổi mới thiết bị công nghệ, tập trung hiện
đại hóa trang bị và công nghệ trong các ngành kinh tế nói chung và lĩnh vực công
nghiệp nói riêng còn có những hạn chế, làm giảm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chẳng hạn như trong lĩnh vực công nghiệp, trình độ công nghệ của đa số các doanh
nghiệp chỉ đạt mức trung bình; tốc độ đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp diễn
ra chậm. Vì vậy, trong thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp góp phần phát
triển thị trường khoa học – công nghệ
Phát triển thị trường khoa học - công nghệ gắn với thực thi quyền sở hữu
trí tuệ, đưa vào khai thác sàn giao dịch công nghệ nhằm thúc đẩy chuyển giao công
nghệ trong và ngoài nước đến các doanh nghiệp; phát triển hạ tầng thông tin khoa
học - công nghệ.
116
Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo, ứng dụng công nghệ tiên tiến;
giảm thâm dụng lao động, áp dụng mô hình quản trị hiện đại và tự động hóa quy
trình sản xuất.
Đẩy mạnh thực hiện chuyển các đơn vị, tổ chức sự nghiệp khoa học và
công nghệ sang hoạt động theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hình thành lực
lượng doanh nghiệp khoa học - công nghệ theo đúng tinh thần Nghị Quyết Trung
ương 6 (khóa XII).
Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ qua các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu
tư trực tiếp và thương mại quốc tế, nhất là các khu công nghệ cao, nông nghiệp công
nghệ cao, khu công nghệ phần mềm trên địa bàn.
Đầu tư trang thiết bị có công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, tiết kiệm,
từng bước hiện đại hóa các ngành sản xuất công nghiệp để nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Thứ hai, Tăng cường đầu tư cho các sản phẩm khoa học và công nghệ
ứng dụng trực tiếp vào sản xuất và đời sống xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế cao
nhằm ươm tạo ra các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam trọng điểm của Thành
phố.
Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ; Tập trung xây dựng
hệ sinh thái khởi nghiệp, hệ sinh thái phục vụ phát triển cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, đặt yếu tố phát triển công nghệ là nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, Tập trung nguồn vốn phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sự phát
triển khoa học và công nghệ; Đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực công nghệ cao, từng bước phát triển và kết nối hai Khu công nghệ
117
cao Thành phố Hồ Chí Minh và Khu công nghệ phần mềm Quang Trung theo mô
hình thung lũng Silicon của Mỹ; tập trung nguồn lực triển khai xây dựng Thành phố
sáng tạo tại phía Đông bao gồm: Quận Thủ đức, Quận 9 và Quận 2.
Đẩy mạnh phát triển Khu Nông nghiệp Công nghệ cao của thành phố, xây
dựng mô hình mẫu nông nghiệp công nghệ cao và đẩy mạnh chuyển giao tiến bộ
khoa học - công nghệ trong nông nghiệp cho người nông dân thành phố. Tập trung
nguồn lực cho công tác khuyến nông, đào tạo, dạy nghề cho người nông dân và nhà
quản lý về nông nghiệp công nghệ cao nhằm phát triển nông nghiệp thành phố
hướng vào những ngành có lợi thế như: Cây, Con giống, nông nghiệp đô thị, nông
nghiệp xanh và sạch....
Về nguồn vốn - tín dụng
Huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là điều kiện quan trọng tác
động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nói riêng.
Để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nói riêng, thành phố cần huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước của mọi thành
phần kinh tế ước khoảng 1,8 triệu tỷ đồng nhưng khả năng ngân sách Thành phố
chỉ đáp ứng được khoảng 20%. Đó là thách thức lớn của Thành phố trong thời gian
tới.
Trong bối cảnh nguồn vốn ngân sách để đầu tư phát triển bị thắt chặt, các
nguồn vốn ODA có thời gian vay ngắn hơn và lãi suất cao hơn so với giai đoạn
trước, việc tăng cường thu hút đầu tư xã hội hóa theo hình thức hợp tác công tư PPP,
tận dụng các nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân được xem là giải pháp hữu hiệu.
Trong thời gian qua, Thành phố Hồ Chí Minh rất quan tâm đến huy động
và sử dụng vốn nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển theo định hướng
118
đề ra. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động và sử dụng còn có những bất cập, chưa đủ
mạnh đã làm giảm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy, trong những năm tới
để đảm bảo vốn cho phát triển cần hướng vào các giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, Để có thể huy động được lượng vốn đầu tư, thành phố cần có
nhiều giải pháp, tập trung vào cả hai nguồn vốn trong và ngoài nước.
Với nguồn vốn trong nước:
Vốn trong nước bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng, vốn
đầu tư trong dân và doanh nghiệp.
Đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, đây là nguồn vốn rất quan
trọng để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Để đảm bảo nguồn vốn từ
Nhà nước cần quan tâm nuôi dưỡng các nguồn thu, nguồn tín dụng ưu đãi hỗ trợ đầu
tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Đối với các dự án sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước của thành
phố: Căn cứ mục tiêu, định hướng, nguyên tắc và khả năng cân đối vốn đầu tư, các
sở - ban - ngành, Ủy ban nhân dân các quận - huyện và chủ đầu tư dự kiến danh mục
dự án và mức vốn cho từng dự án theo đú ng các nguyên tắc. Tăng cường công tác
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Các dự án sử dụng
vốn ngân sách nhà nước của thành phố phân cấp cho Ủy ban nhân dân quận - huyện
quản lý và nguồn vốn ngân sách quận - huyện phù hợp với kế hoạch đầu tư trung hạn
của quận - huyện theo đúng các nguyên tắc quy định, bảo đảm bố trí vốn tập trung và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Sắp xếp lại nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách
nhà nước, theo hướng mở rộng việc xã hội hóa đối với các lĩnh vực trước đây do
ngân sách đầu tư như chấm dứt việc đầu tư trực tiếp vốn ngân sách cho việc thành
lập doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, giảm dần đi đến chấm dứt khoản chi sự
119
nghiệp có thu,… tổ chức triển khai các biện pháp bổ sung nguồn vốn đầu tư phát
triển như: công trái, trái phiếu công trình, tiền thu về giá quyền sử dụng đất…
Đối với nguồn vốn tín dụng, áp dụng chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng
thông qua sự can thiệp của nhà nước vào thị trường bằng công cụ lãi suất tín dụng,
hướng luồng vốn vào các ngành, các lĩnh vực ưu tiên.
Đối với nguồn vốn đầu tư trong dân và doanh nghiệp, tăng cường thu hút
nguồn vốn trong dân, khuyến khích doanh nghiệp và các cá nhân đầu tư kinh doanh
sản xuất và đóng góp công ích dưới các hình thức bằng sức lao động hoặc bằng tiền
của, kết hợp cùng với nguồn vốn Nhà nước xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng và thực
hiện chính sách xã hội. Khuyến khích huy động các nguồn lực, tài sản, tiền của nhàn
rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh, làm giàu cho cá nhân và đóng góp
cho xã hội.
Trên tinh thần Nghị quyết 54 của Quốc hội về phần cấp ủy quyền cho
Thành phố trong quản lý ngân sách, quản lý đầu tư, về thẩm quyền quản lý tài chính
- ngân sách nhà nước: Thành phố được vay thông qua phát hành trái phiếu chính
quyền địa phương, vay từ các tổ chức tài chính trong nước, các tổ chức khác trong
nước và từ nguồn Chính phủ vay ngoài nước về cho Thành phố vay lại với tổng mức
dư nợ vay không vượt quá 90% số thu ngân sách thành phố. Do đó, để phát huy được
những lợi thế ưu đãi như vậy, ngay trong năm 2018, Thành phố cần tập trung xây
dựng và triển khai nhanh các đề án để thực hiện cơ chế đặc thù này trên các mặt: Xác
định danh mục các hàng hóa và dịch vụ cần nâng mức thuế tiêu thụ đặc biệt; Xây
dựng và ban hành kế hoạch đầu tư công trung hạn; Tập trung đổi mới phương thức
thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (BOT, BT...); Công khai,
minh bạch hóa các thông tin về đầu tư công tại thành phố; Thực hiện các biện pháp
để quản lý nguồn thu và bồi dưỡng nguồn thu; đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời
120
theo quy định của pháp luật; Điều hành dự toán chi ngân sách theo đúng dự toán
được duyệt, đúng chế độ; Tập trung đẩy nhanh công tác sắp xếp lại doanh nghiệp
nhà nước thuộc Thành phố để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào
sản xuất - kinh doanh tại doanh nghiệp.
Với nguồn vốn nước ngoài:
Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) căn cứ trên danh
mục các lĩnh vực trọng điểm cần khuyến khích đã xác định. Tăng cường xúc tiến đầu
tư trực tiếp, xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung qua mạng điện tử để cung cấp cho các
nhà đầu tư những thông tin rõ ràng về môi trường đầu tư của thành phố, về các cơ
chế chính sách ưu đãi, về thủ tục đầu tư nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu
tư và tập đoàn nước ngoài.
Đối với nguồn vốn ODA: Tập trung kêu gọi nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cần vốn lớn như: các tuyến
Metro, các dự án thoát nước quan trọng, phát triển mạng lưới cấp nước sạch... Việc
kêu gọi đầu tư từ nguồn vốn ODA phải phù hợp với chiến lược phát triển của thành
phố và tận dụng được mọi đối tác, sử dụng thích hợp cho các lĩnh vực. Đồng thời
chú ý nâng cao chất lượng xây dựng các dự án và công tác chuẩn bị các dự án như
triển khai công tác điều tra khảo sát, bồi thường giải phóng mặt bằng, chuẩn bị
nguồn lực. Tập trung chỉ đạo thực hiện các dự án ODA đang triển khai nhằm bảo
đảm tiến độ giải ngân đã cam kết với nhà tài trợ. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt
động của các Ban quản lý dự án; tăng cường năng lực các Ban quản lý dự án theo
hướng chuyên nghiệp.
Thứ hai, Tiếp tục sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, quy định pháp
luật về tạo vốn, hỗ trợ vốn để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước từ nhiều
121
thành phần kinh tế, theo nhiều hình thức đa dạng và phù hợp: xây dựng - khai thác -
chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT), hợp tác công tư (PPP), chuyển
nhượng quyền kinh doanh khai thác, khai thác quỹ đất và các dịch vụ liên quan…
nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phục vụ quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ ba, Đổi mới các nguồn vốn trong nước, đa dạng hóa các phương
thức huy động vốn theo nguyên tắc: Nhà nước định hướng và tạo môi trường pháp
lý thông thoáng, thuận lợi để các thành phần kinh tế huy động vốn, tự chịu trách
nhiệm đầu tư vào các công trình, các ngành, các lĩnh vực và địa bàn phục vụ mục
tiêu chung của cả nước.
Thứ tư, Nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành tài chính –
ngân hàng trong việc hình thành và mở rộng thị trường vốn, bao gồm thị trường
tài chính, bảo hiểm… thành lập quỹ xúc tiến đầu tư huy động các nguồn vốn tài trợ,
đóng góp của các hiệp hội, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong, ngoài nước.
Cần chuyển hướng mạnh mẽ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo
chiều sâu trong tất cả các ngành kinh tế, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật mới và thiết bị
máy móc vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên
thị trường trong nước và ngoài nước, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay.
3.3.4. Nhóm giải pháp về hợp tác, hội nhập
Thứ nhất, Thực hiện cơ chế liên kết - hợp tác giữa các ngành, các địa
phương, giữa trong nước và ngoài nước
Thúc đẩy sự liên kết - hợp tác giữa các ngành
122
Việc phát triển mạng lưới liên kết - hợp tác chiến lược và hệ thống chia
sẻ thông tin giữa các ngành trên địa bàn thành phố có tác dụng trợ giúp đắc lực cho
việc xây dựng năng lực phát triển trong từng ngành, đặc biệt là trong những ngành
có hàm lượng công nghệ cao nhưng tỷ trọng hiện còn thấp .
Mạng lưới liên kết và hợp tác là yếu tố vô cùng then chốt, nó tạo điều
kiện cho thông tin được trao đổi giữa các tổ chức kinh tế và từ đó thúc đẩy đổi mới
công nghệ và phát triển sản phẩm. Chính những mạng lưới liên kết - hợp tác về
thương mại, thông tin, công nghệ, trí thức… sẽ tạo ra các cụm ngành kinh tế có sức
mạnh và kỹ năng để cạnh tranh hiệu quả. Ngoài ra xây dựng mạng lưới liên kết –
hợp tác còn góp phần xây dựng sự tín nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh
giữa các đơn vị kinh tế thông qua các hoạt động cộng tác, phối hợp, liên doanh, liên
kết…
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Tp.HCM với các địa phương trong cả
nước
Thành phố cần chủ động phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương
trong cả nước, trước hết là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhằm tạo thêm sức
mạnh và điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đồng thời, thành
phố cũng phải nhận được sự phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ của các bộ, ngành, địa
phương khác trong việc xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, cơ chế,
chính sách phát triển các ngành trên địa bàn, kiểm tra và tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc.
Trước mắt, cần xây dựng một cơ chế phối hợp và liên kết các cụm - khu
công nghiệp giữa Tp.HCM với các địa phương khác trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, hướng tới phát triển thành các cụm ngành kinh tế trong đó có sự kết hợp
123
chặt chẽ của các dịch vụ hỗ trợ sản xuất như tài chính, tư vấn viễn thông, điện, nước
cho thuê văn phòng, kho bãi, giao thông… với các hoạt động sản xuất công nghiệp.
Biện pháp này sẽ được kết hợp với việc tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc trong di
dời, hỗ trợ về vốn vay, và đầu tư đổi mới công nghệ.
Thứ hai, Thiết lập và phát triển các quan hệ hợp tác – hội nhập với
khu vực và thế giới
Đối với các nền kinh tế trong khu vực, Việt Nam nói chung và Tp.HCM
nói riêng là nơi có nguồn lao động dồi dào, vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên đa
dạng, dung lượng thị trường tiêu thụ rộng lớn… Nền công nghiệp Việt Nam còn
chưa phát triển, và chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu của Việt Nam là
phù hợp với chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế của họ. Ngoài ra, sự gần gũi về
địa lý và sự tương đồng về văn hóa cũng là những nhân tố cơ bản tạo điều kiện
thuận lợi cho sự liên kết - hợp tác.
Với xuất phát điểm hiện tại và những tiềm năng - lợi thế đặc thù của
mình, Tp.HCM cần bắt nhịp với “làn sóng cơ cấu” đang diễn ra trong khu vực bằng
cách một mặt tiếp nhận sự chuyển giao, mặt khác mở rộng sự hợp tác - liên kết trong
những ngành – lĩnh vực phù hợp. Chẳng hạn, đối với các ngành công nghiệp có hàm
lượng lao động cao có thể tiếp nhận sự chuyển giao từ các nền kinh tế mới công
nghiệp hóa (Newly Industrialized Economies – NIEs) Đông Á và liên kết với các
nước ASEAN, Trung Quốc…, các ngành có hàm lượng vốn cao và công nghệ ở
mức trung bình có thể tiếp nhận sự chuyển giao từ Nhật Bản và liên kết với NIEs
Đông Á, các ngành có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao có thể liên kết –
hợp tác với Nhật Bản…
124
Phương châm cơ bản là tránh cạnh tranh, đối đầu trực tiếp mà nên tận
dụng mọi cơ hội, xây dựng các liên minh hợp tác chiến lược để “vừa làm vừa trưởng
thành” trước khi hội nhập thị trường toàn cầu. Nhìn rộng ra, hiện tại cũng như trong
tương lai, Thành phố cần xây dựng các mối quan hệ chiến lược lâu dài với các quốc
gia, các trung tâm kinh tế lớn, các tập đoàn hàng đầu trên thế giới, vì đây là những
đối tác có tiềm lực tài chính lớn, có kỹ năng quản trị hiện đại, có công nghệ “nguồn"
tiên tiến, có mức độ tin cậy cao, và có uy tín trên thương trường…
Kết luận chương 3
Trên cơ sở đề xuất những quan điểm cơ bản về tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Quan điểm về xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở
thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025; luận văn đã
tổng hợp thành hệ thống các chỉ tiêu và các giải pháp chủ yếu mà thành phố cần tập
trung thực hiện góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh
của kinh tế thành phố; Xây dựng thành phố sớm trở thành một trong những trung
tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ của khu vực Đông
Nam Á cũng như đạt được mục tiêu đặt ra là xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đạt
tốc độ phát triển kinh tế tương đối cao, bền vững, trên nền tảng khai thác tốt nhất các
nguồn lực, với người dân là trung tâm của đô thị.
Năm 2018 quy mô kinh tế của thành phố sẽ lớn hơn, trách nhiệm sẽ nhiều
hơn. Đặc biệt, từ ngày 15/01/2018, Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cơ chế,
chính sách đặc thù phát triển thành phố có hiệu lực cho nên cần tập trung thực hiện
đồng bộ những giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
theo hướng phát triển bền vững, bám sát nội dung Kết luận 21 của Bộ Chính trị;
125
Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù; Đề án xây dựng
Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh đến năm 2025 góp phần xây
dựng thành phố ngày càng phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.
Việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược (hoàn thiê ̣n thể chế kinh tế thi ̣ trườ ng đi ̣nh hướ ng xã hô ̣i chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồ n nhân lực nhất là nguồ n nhân lực chất lươ ̣ng cao; xây dựng hê ̣ thố ng kết cấu ha ̣ tầng đồ ng bô ̣)
gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội cùng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ nhanh chóng
thực hiện được mục tiêu Xây dựng Thành phố trở thành Đô thị thông minh.
126
KẾT LUẬN
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng tiên tiến, hiện đại là một
yêu cầu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển, nhằm khai thác tiềm năng thế
mạnh cho Thành phố, phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của
đất nước.
Những năm qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đã có
bước chuyển quan trọng theo đúng định hướng đã đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục như: Một số chỉ
tiêu thành phần về đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh
chưa đạt so với kế hoạch đề ra, công nghiệp phát triển chậm lại ở các ngành công
nghiệp trọng điểm, chưa có đột phá về phát triển hạ tầng đô thị, chưa có đột phá về
huy động vốn xã hội cho đầu tư; năng lực cạnh tranh chưa tương xứng vị trí, vai trò
và tiềm năng của Thành phố; tỷ trọng các dịch vụ cao cấp, sản phẩm công nghiệp có
hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng cao và yếu tố năng suất tổng hợp
(TFP) đóng góp vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế…
Để tiếp tục thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành góp phần
đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững và thực hiện được mục tiêu đặt ra của Đề án
Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh đến năm 2025, cần
giải quyết các hạn chế còn tồn tại như: chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa
tương xứng với tiềm năng của Thành phố; chưa đảm bảo khai thác tốt nhất mọi
nguồn lực; Sự phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số của Thành phố còn nhiều hạn
chế, bất cập; Môi trường sống, môi trường làm việc chưa đảm bảo, còn nhiều hạn
chế.
127
Để phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm còn hạn chế góp phần thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh trong thời gian tới có
hiệu quả, đòi hỏi phải thực hiện đúng phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành và
thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu mà luận văn đã đề cập. Phương hướng và
giải pháp mà luận văn xác định là một hệ thống toàn diện, đồng bộ trên tất cả các
lĩnh vực. Phương hướng mang tính chất chỉ đạo, các giải pháp là đồng bộ, toàn diện
trên các góc độ quản lý Nhà nước; cơ chế, chính sách đến tổ chức thực hiện… Vì
vậy, nếu chúng ta thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời gian tới đạt được hiệu quả như
mục tiêu đặt ra.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp thực
hiện, tác giả mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị như sau:
Đối với chính phủ: Việc phân cấp nguồn thu ngân sách (điển hình nhất là
tỷ lệ phân chia nguồn thu cho Ngân sách địa phương của Tp. Hà Nội và Tp.HCM
hiện nay còn nhiều bất cập – Tp.HCM thu ngân sách nhiều nhưng chỉ được giữ lại từ
23% đối với thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2015; giảm còn 18% thời kỳ 2017 –
2020; tỷ lệ hưởng ít hơn so với Hà Nội hiện nay được giữ lại 35% số thu được). Do
đó, trong thời gian tới Việt Nam có thể chuyển sang áp dụng tỷ lệ cứng đối với các
sắc thuế chia sẻ cho tất cả tỉnh, thành như đa số các nước trên thế giới áp dụng mà
không ảnh hưởng đáng kể đến thu ngân sách trung ương hiện nay. Ưu điểm của cách
phân chia này là tạo ra một tỷ lệ đóng góp công bằng cho tất cả các tỉnh, thành.
Những địa phương có thặng dư ngân sách sẽ tìm cách phát triển cơ số thuế để tăng
nguồn thu, qua đó được giữ lại cho địa phương mình nhiều hơn để chi cho đầu tư
phát triển; Các tỉnh này sẽ có động lực xây dựng kế hoạch chi tiêu dài hạn một cách
hiệu quả để không những đảm bảo cân đối ngân sách mà còn nuôi dưỡng được
nguồn thu trong tương lai. Trong khi đó, các tỉnh thâm hụt ngân sách sẽ bị đối diện
128
với một nguồn trợ cấp từ ngân sách trung ương. Để có thể mở rộng ngân sách chi
tiêu, các tỉnh này buộc phải sử dụng ngân sách có hiệu quả hơn để gia tăng nguồn
thu. Kết quả là, tỷ lệ trợ cấp từ ngân sách trung ương sẽ giảm dần, Nhà nước sẽ có
điều kiện tốt hơn để cân đối ngân sách cũng như có nhiều ngân sách hơn để sử dụng
cho các mục tiêu phát triển quốc gia.
Đối với chính quyền Tp.HCM: Để thực hiện Đề án xây dựng thành phố
trở thành đô thị thông minh thì việc đầu tiên phải giải quyết triệt để tình trạng ô
nhiễm, kẹt xe, ngập nước (những vấn đề làm giảm chất lượng môi trường sống và
làm việc, gây ảnh hưởng không nhỏ đối với tăng trưởng kinh tế thời gian qua của
Thành phố). Khi giải quyết được những vấn đề cấp bách như vậy thì việc xây dựng
đô thị thông minh mới thực sự trở thành hiện thực, không còn là những khẩu hiệu
hoặc xa rời thực tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với đề án xây dựng thành phố trở
thành đô thị thông minh là một vấn đề lớn, nhiều khó khăn, phức tạp; là thách thức
mới và cũng là yêu cầu cấp thiết đối với Tp.HCM trong thời điểm hiện nay. Những
nội dung được trình bày trong luận văn chỉ là những gợi mở ban đầu. Để làm sáng tỏ
vấn đề này, cần phải có những đầu tư nghiên cứu nhiều hơn nữa trên thực tiễn mới
có thể đáp ứng yêu cầu đề ra trong thời gian tới.
129
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Tất Thắng, 2006. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam, Nhà Xuất bản
khoa học xã hội.
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2018. Nghị quyết về định
hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045.
3. Đoàn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền, 2007. Giáo trình Chính sách kinh tế - xã
hội. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Lần thứ XII.
NXB Chính trị quốc gia.
5. Đảng cộng sản Việt Nam, 2018. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khóa XII về xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp.
6. Hoàng An Quốc, 2016. Chuyên đề các môn học Lịch sử các học thuyết kinh tế . Nhà
xuất bản Kinh tế Tp.HCM.
7. Hoàng An Quốc, 2007. Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới - Phương hướng và
những giải pháp cơ bản. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
8. Học viện chính trị Khu vực II, 2017. Tập bài giảng môn học Quản lý kinh tế. Nhà xuất
bản Lý luận chính trị.
9. Lê Ngọc Uyển, Nguyễn Ngọc Danh, 2012. Kinh tế phát triển , tóm tắt lý thuyết, trắc
nghiệm, bài tập. Nhà xuất bản Kinh tế Tp.HCM.
10. Lương Minh Cừ, Đào Duy Huân, Phạm Đức Hải, 2012. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam theo
hướng cạnh tranh đến năm 2020. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Mai Văn Tân, 2014. Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình
tăng trưởng tại TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Tài chính, Số 3/2014.
12. Nguyễn Hồng Sơn, 2010. Hà Nội trong làn sóng phát triển ngành dịch
vụ của các đô thị tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Số 26 (2010) trang 135-143.
13. Nguyễn Minh Tuấn , Nguyễn Hữu Thảo, 2009. Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh
tế. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Tp.HCM.
14. Nguyễn Trọng Hoài, 2013. Kinh tế phát triển. Nhà xuất bản Kinh tế Tp.HCM.
15. Phạm Quang Phan, Vũ Anh Tuấn, Tô Đức Hạnh (đồng chủ biên, 2005). Hướng dẫn
học môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin, 2005. Nhà xuất bản Thống kê.
16. Phạm Thị Khanh, 2010. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở
Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
17. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24 tháng 11
năm 2017 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Sở Công Thương TP.HCM, 2014. Thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển ngành
công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam và TPHCM. Tài liệu hội thảo khoa học Thực trang,
định hướng và giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, trang 65 – 78.
19. Sở Khoa học công nghệ TPHCM, 2010. Định hướng phát triển Khoa học và Công nghệ
TP.HCM đến năm 2020.
20. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 về phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2025.
21. Thủ tướng Chính Phủ, Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm 2012 về việc
Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020.
22. Thủ tướng Chính Phủ, Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2013 về
việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025
23. Trần Anh Tuấn, 2015. Chuyển dịch cơ cấu, đổi mới mô hình tăng
trưởng kinh tế Tp.HCM giai đoạn 2015 – 2020. Tạp chí Nghiên cứu Phát triển, Số 12
(02/2015).
24. Trần Du Lịch, 2014. Thành phố Hồ Chí Minh - Chuyển dịch đúng hướng, tăng sức
cạnh tranh. Tạp chí Đầu tư Tài chính ngày 28/4/2014.
25. Trần Quang Phú, 2014. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ban Kinh tế phát
triển – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương.
26. Trương Thị Hiền, 2011. Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng mô
hình tăng trưởng kinh tế tại TP. Hồ Chí Minh theo hướng cạnh tranh. Tạp chí Phát
triển và Hội nhập, số 1 (01/2011).
27. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê TP. Hồ Chí Minh từ năm 2000
– 2017.
28. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo số 215/BC ngày 04 tháng 12 năm
2013, Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế thành phố (2011 - 2013) và nhiệm vụ giai đoạn
2014 – 2015
29. Ủy ban Nhân dân TP.HCM, 2010. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành
phố Hồ Chí Minh lần thứ IX nhiệm kỳ 2010 – 2015.
30. Ủy ban Nhân dân TP.HCM, 2015. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành
phố Hồ Chí Minh lần thứ X nhiệm kỳ 2015 – 2020.
31. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 24/2011/QĐ-UBND ngày
14/5/2011 về Kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về
Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế
thành phố giai đoạn 2011-2015.
32. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 04/2016/QĐ-UBND ngày 23
tháng 02 năm 2016 ban hành quy định về khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2016 – 2020.
33. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 6179/QĐ-UBND ngày 23
tháng 11 năm 2017 về phê duyệt Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành
đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025”.
34. Vương Đức Hoàng Quân, 2016. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. Hồ Chí Minh tầm nhìn
đến năm 2025. Tạp chí Tài chính, Số tháng 6/2016.
35. Vương Đức Hoàng Quân, 2014. Nhìn lại quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí khoa học trường đại học Mở Tp.HCM , Số
6/2014.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: GDP trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chia theo khu vực kinh
tế thời kỳ 1976-2010 (tính theo giá so sánh 1994)
Tốc độ tăng trưởng (%/năm) GDP (Tỷ đồng)
Trong đó Trong đó Tốc độ Nông - Công Nông Công Năm Giai đoạn tăng Tổng số lâm - nghiệp Dịch -lâm - nghiệp Dịch trưởng thủy - xây vụ thủy -xây vụ chung sản dựng dựng sản
721 1975 9.432 2.330 6.381 1976-1980 0,91 -0,39 2,48 0,46
707 1980 9.871 2.634 6.530 1981-1985 4,58 6,45 4,10 1,56
764 1985 12.349 3.601 7.984 1986-1990 7,82 10,46 6,93 3,51
908 1990 17.993 5.921 11.164 1991-1995 12,62 16,21 11,16 3,78
1995 32.596 1.093 12.551 18.952 1996-2000 10,11 13,18 8,34 1,09
2000 52.754 1.154 23.313 28.287 2001-2005 10,99 12,37 10,03 4,97
2005 88.866 1.471 41.770 45.625 2006-2010 11,18 10,12 12,23 4,83
2010 150.943 1.862 67.629 81.452 1976-2010 8,24 10,10 7,54 2,75
Nguồn: Xử lý số liệu từ Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh
Phụ lục 2: GDP trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chia theo khu vực kinh
tế giai đoạn 2011-2015 (tính theo giá so sánh 2010)
GDP (Tỷ đồng) Tốc độ tăng trưởng (%/năm)
Trong đó Trong đó
Tốc độ Nông Nông Công Công Năm Tổng tăng - lâm -lâm nghiệp Dịch nghiệp Dịch số trưởng - -thủy -xây vụ - xây vụ chung thủy sản dựng dựng sản
5,61 7,70 12,30 2011 510.785 5.175 214.336 291.273 10,25
9,16 5,99 7,64 10,33 2012 557.571 5.485 230.718 321.368
9,29 5,60 7,35 10,74 2013 609.350 5.792 247.679 355.879
9,59 5,90 7,19 11,32 2014 668.095 6.134 265.512 396.449
9,85 5,79 8,07 12,30 2015 733.922 6.489 286.939 440.494
9,65 5,73 7,56 11,12 2011 - 2015
Nguồn: Xử lý số liệu từ Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh
Phụ lục 3: Tốc độ tăng GDP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chia
theo ngành kinh tế giai đoạn 2010-2015 (tính theo giá so sánh 2010)
BQ GĐ
2011-2015 Ngành kinh tế 2010 2011 2012 2013 2014 2015
(%/năm)
Tổng số (tỷ đồng) 463.295 510.785 557.571 609.280 667.712 733.472 9,62
Chia theo ngành
kinh tế
1. Nông nghiệp - lâm 4.900 5.175 5.485 5.792 6.134 6.494 5,79
nghiệp - thủy sản
2. Công nghiệp chế 164.004 176.421 190.119 204.568 219.092 236.181 7,57
biến
3. Công nghiệp khác 6.852 8.837 9.624 10.341 11.040 11.655 11,21
4. Xây dựng 28.158 29.079 30.975 32.770 35.359 39.072 6,77
5. Thương nghiệp 56.375 63.491 71.475 79.865 88.507 95.792 11,19
6. Vận tải - kho bãi 34.227 38.734 43.382 47.096 53.730 64.745 13,60
7. Khách sạn - nhà 14.654 15.814 16.604 18.941 20.917 22.172 8,63
hàng
8. Thông tin - truyền 12.163 14.127 17.910 21.487 23.701 26.843 17,15
thông
9. Tài chính - ngân 52.540 64.602 63.152 68.190 76.661 83.331 9,66
hàng
10. Kinh doanh bất 24.285 19.677 20.661 20.496 22.345 24.692 0,33
động sản
11. Khoa học - công 19.687 23.647 28.376 32.787 37.384 42.543 16,66
nghệ
12. Giáo dục - đào 10.421 11.665 13.264 15.101 16.494 17.615 11,07
tạo
13. Y tế 13.674 16.865 20.395 22.703 24.978 27.226 14,77
14. Văn hóa - thể 2.617 2.779 3.270 3.621 3.905 4.482 11,36
thao
15. Dịch vụ khác 18.738 19.872 22.879 25.522 27.465 30.630 10,33
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Phụ lục 4: Cơ cấu GDP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chia theo
ngành kinh tế giai đoạn 2010-2015 (tính theo giá thực tế)
Ngành kinh tế
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Giá
trị
Cơ cấu
Giá
trị
Cơ cấu
Giá
trị
Cơ cấu
Giá
trị
Cơ cấu
Giá
trị
Cơ cấu
Giá
trị
Cơ cấu
(tỷ đồng)
(tỷ đồng)
(tỷ đồng)
(tỷ đồng)
(tỷ đồng)
(tỷ đồng)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
Tổng số
463.295
100,00
576.225
100,00
658.898
100,00
763.965
100,00
852.523
100,00
957.358
100,00
Chia
theo
ngành kinh tế
1.Nông nghiệp
4.900
1,06
5.946
1,04
7.140
1,08
7.769
1,02
8.778
1,03
9.502
0,99
- lâm nghiệp -
thủy sản
2. Công nghiệp
164.004
35,40
194.935
33,83
218.468
33,16
256.732
33,61
274.982
32,26
306.524
32,02
chế biến
3. Công nghiệp
6.852
1,48
9.244
1,60
10.317
1,57
15.187
1,99
17.259
2,02
17.787
1,86
khác
4. Xây dựng
28.158
6,08
33.048
5,74
36.584
5,55
38.720
5,07
43.329
5,08
54.485
5,69
5.
Thương
56.375
12,17
73.142
12,69
85.734
13,01
98.452
12,89
110.554
12,97
119.928
12,53
nghiệp
6. Vận
tải - 34.227
7,39
44.312
7,69
54.150
8,22
63.703
8,34
74.186
8,70
82.985
8,67
kho bãi
7. Khách sạn -
14.654
3,16
19.423
3,37
22.341
3,39
26.162
3,42
29.224
3,43
31.020
3,24
nhà hàng
8. Thông tin -
12.163
2,63
15.225
2,64
22.221
3,37
26.629
3,49
29.407
3,45
33.451
3,49
truyền thông
9. Tài chính -
52.540
11,34
74.537
12,94
72.416
10,99
80.362
10,52
94.391
11,07
101.122
10,56
ngân hàng
10.
Kinh
24.285
5,24
22.668
3,93
25.641
3,89
26.142
3,42
29.304
3,44
33.527
3,50
doanh bất động
sản
11. Khoa học -
19.687
4,25
27.241
4,73
35.076
5,32
41.651
5,45
46.919
5,50
57.917
6,05
công nghệ
12. Giáo dục -
10.421
2,25
12.464
2,16
14.731
2,24
20.280
2,65
22.781
2,67
26.927
2,81
đào tạo
13. Y tế
13.674
2,95
17.955
3,12
22.730
3,45
25.877
3,34
28.920
3,39
33.845
3,54
14. Văn hóa -
2.617
0,56
3.060
0,53
3.697
0,56
4.393
0,58
4.950
0,58
5.720
0,60
thể thao
15. Dịch vụ
18.738
4,04
23.025
4,00
27.652
4,20
31.906
4,18
37.539
4,40
42.618
4,45
khác
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Phụ lục 5: Tốc độ tăng GRDP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
chia theo ngành kinh tế năm 2016, 2017 và 6 tháng đầu năm 2018
(tính theo giá thực tế và giá so sánh 2010)
2016
2016
2017
2017
6
tháng đầu
6 tháng đầu năm
năm 2018 (giá
2018 (giá so sánh
(giá thực tế)
(giá
so
sánh
(giá thực tế)
(giá
so
sánh
thực tế)
2010)
2010)
2010)
Giá trị
Chỉ số
Giá
Giá trị
Chỉ số
Giá trị
Cơ
Giá trị
Chỉ
số
Cơ
Giá
Cơ
Ngành kinh
cấu
trị
(tỷ
phát
trị
cấu
(tỷ
phát
(tỷ
cấu
(tỷ
phát
tế
(tỷ
đồng)
triển
(tỷ
đồng)
triển
đồng)
đồng)
triển so
(%)
(%)
(%)
đồng)
so với
đồng)
so với
vơi
6
năm
tháng
năm
2016
2017
2015
Tổng số
1.023
100
790.35
108,08
1.060
100
842.37
108,25
585.63
100
459.56
107,27
.926
.618
7
5
0
6
Chia
theo
ngành kinh
tế
1.Nông
8.588
0,84
5.656
105,81
8.539
0,81
5.696
106,25
3.714
0,6
2.479
106,08
nghiệp - lâm
nghiệp
-
thủy sản
2.
Công
294.5
28,76
230.79
107,88
262.7
24,78
203.41
107,84
134.53
23,0
104.30
107,17
72
nghiệp
và
01
9
1
8
1
xây dựng
3. Dịch vụ
561.1
54,80
432.27
108,07
618.7
58,34
494.86
108,23
370.23
63,2
292.22
107,29
73
21
5
6
9
7
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh
Phụ lục 6: Biểu đồ tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ
Dịch vụ lưu trú, ăn uống
Bán lẻ
Du lịch
84052,0
66437,0
62472,0 81951,0 7676170,0436,0
57699,0
78413,0
534315,0
89026,0
49809,0 70228,0
45865,0
523428,0
64764,0
484803,0
32023,0 55156,0
460651,0
470123,0
49465,0 416599,0429288,0
28620,0 379464,0
40014,0
23210,0 304536,0
31399,0 19587,0 27177,0 236421,0
124252865,0 197871,0
114561620,0 156418,0
0,0 117356,0 10,04 103 826 718 5210,0 687495670597,00,0
464167951104,70,0 475270113469,,000,0 58508965246,50,0 86248467,50,0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Phụ lục 7: Biểu đồ Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ theo thành phần kinh tế
Nhà nước
Ngoài nhà nước
FDI
55561
54184034362
39104073037
25253442754
1527
384273399830
8343216951
629757538
12028980645
1095150639
7156230176
8181365984
17318549980
885427220568969
111051758116461241859470330
430405184962055
726724339303196931615130741451634154584929406186951315
49025442613733
020,061 02,61 01,62 02,37 040,93 2012 0625 03160 05221 70 04422 0129065 970069 901650730220487035041630049010715014380914501681540797409727675909180940010218989512391432818453170091770922572
6 7 9 1
0 8 9 1
5 8 9 1
0 9 9 1
5 9 9 1
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
Dịch vụ (thương mại, du lịch )
Dịch vụ hạ tầng cơ sở (vận tải, nhà đất, Viên thông)
Dịch vụ (tài chính , ngân hàng, khoa học công nghệ)
Dịch vụ (giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội )
64329
66492
113849
56651 159039
72425
50550 141310
212799
41158 122013
73077
33479 107492
149963
120637
101778
132897
26710
116474
102012
72226
21785
82205
168626
150948160201
139778
19339 40902 70674
32517
16690
124614
51376
108075
15296 21491 45805
13384 14179 36364
92565 71029
50136 58133
8672 9940 172351768 2971691 31059
29119 32093 38850
2303 278785
539 31897484656 19499930 16236125116 1371547910218 143610984 154575723 17385 641 141 14611 15649 16469 18333 20112 24328
512439407690493 713515521828601 146297006243148 215915132879045 1162061726585
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Phụ lục 8: Biểu đồ GRDP của nội bộ ngành dịch vụ
Phụ lục 10: Biểu đồ tăng trưởng GRDP và tăng trưởng công nghiệp
GRDP chung
Công nghiệp
324311,0 217382
242708
292241,0
1060000
271919,0
957358 970000
228785,0
852123
204179,0
763965
658898
170854,0
576225
110720 127864,4063294 ,0
71014,080067,093325,0287513 337040
34508,039941,049485,058966,0165297 190562 229256
8378,0 1207635940,01334945986,01470395413,0149658837,0252898178,02567743802,03705087559,084852 96403 113326 136487
167169654,0 21963
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Phụ lục 11: Giá trị của bốn ngành công nghiệp trọng điểm
Ngành hóa dược cao su
Ngành lương thực thực phẩm
Ngành sản xuất hàng điện tử
Nhóm ngành cơ khí
202797196
198080582
188756880
191386000
173108000
170095607
163884127
161628000
157183902
150156000
145785079
136907000
128749815
116570100,0
1021501660080303,600,0 113732865,0
105374054
99476284,0
98497421,0
96253525
94919194
87535158,0
81815550,0
76808581
82045731,0 84161000,0
74149034,0
74170260040906,703,0
70111222,0
69303086
68928305,0
59990679,0 54609538,0 59282318,0
54639403
47018422,0
45396749,0
42484592,0
39914700,0
528834377018,01598,0 38413021,0
20921774863163,300,0 26935198584591,902,0
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016