BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

HỒ THỊ THANH HUYỀN

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI VIỆC

XÂY DỰNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRỞ THÀNH

ĐÔ THỊ THÔNG MINH ĐẾN NĂM 2025

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

HỒ THỊ THANH HUYỀN

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI VIỆC

XÂY DỰNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRỞ THÀNH

ĐÔ THỊ THÔNG MINH ĐẾN NĂM 2025

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 8310102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG AN QUỐC

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn dẫn rõ ràng, không sao chép từ các công

trình nghiên cứu khác.

Tác giả luận văn

Hồ Thị Thanh Huyền

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2

2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới .................................................................. 2

2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................... 4

2.3. Các công trình nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh .................................. 7

2.4. Những khoảng trống và hướng nghiên cứu của luận văn ............................... 7

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 9

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 10

6. Kết quả, đóng góp của Luận văn .............................................................................. 10

7. Kết cấu nội dung của luận văn .................................................................................. 11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN

DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG

MINH Ở VIỆT NAM

1.1. Những khái niệm lý luận cơ bản ............................................................................ 12

1.1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành .................................................. 12

1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành .......... 13

1.1.3. Những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ............... 21

1.1.4. Đô thị thông minh .................................................................................... 22

1.2. Một số mô hình, lý thuyết và quan điểm của Đảng – Nhà nước về chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành .......................................................................................................... 28

1.2.1. Một số mô hình, lý thuyết hiện đại .......................................................... 28

1.2.2. Quan điểm của Đảng – Nhà nước về “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

gắn với xây dựng Đô thị thông minh” ............................................................... 30

1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây dựng đô thị thông

minh ở một số địa phương ........................................................................................... 38

1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hà Nội ....................................................... 38

1.3.2. Kinh nghiệm của Tp.Đà Nẵng ................................................................. 39

1.3.3. Một số bài học rút ra ................................................................................ 41

Kết luận chương 1 ......................................................................................................... 44

Chương 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

NGÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐÔ THỊ

THÔNG MINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1 Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành ở TP. HCM ............................................................................................. 46

2.1.1. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... 46

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ......................................................................... 47

2.2. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn Thành phố Hồ

Chí Minh theo định hướng đô thị thông minh .............................................................. 49

2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ba khu vực kinh tế ................................................... 49

2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế .................................................... 52

2.2.3. Quá trình triển khai xây dựng đô thị thông minh tại Thành phố Hồ Chí

Minh .............................................................................................................................. 66

2.3. Đánh giá chung ..................................................................................................... 71

2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................... 73

2.3.2. Một số hạn chế, tồn tại ............................................................................ 75

2.3.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra ....................................................... 80

Kết luận chương 2 ......................................................................................................... 87

Chương 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG

TP.HCM TRỞ THÀNH ĐÔ THỊ THÔNG MINH ĐẾN NĂM 2025

3.1. Những quan điểm cơ bản ...................................................................................... 89

3.1.1. Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ............................................... 89

3.1.2. Quan điểm về xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông

minh .................................................................................................................... 93

3.2. Phương hướng, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với việc xây dựng

Tp.HCM trở thành đô thị thông minh ........................................................................... 96

3.2.1. Những định hướng cơ bản ........................................................................ 96

3.2.2. Mục tiêu đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 .................................... 98

3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành gắn với việc xây dựng Tp.HCM trở thành đô thị thông minh đến năm 2025.. 101

3.3.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, thể chế ........................................................ 101

3.3.2. Nhóm giải pháp về qui hoạch và cơ sở hạ tầng .................................... 107

3.3.3. Nhóm giải pháp về huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực ....... 112

3.3.4. Nhóm giải pháp về hợp tác - hội nhập .................................................. 121

Kết luận chương 3 ....................................................................................................... 124

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 126

Danh mục tài liệu tham khảo

Phụ lục

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CCKT Cơ cấu kinh tế

CDCCKT Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

CCN Cụm Công nghiệp

CNH Công nghiệp hóa

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

(viết tắt của Gross Domestic Product)

GRDP Tổng sản phẩm tính trên phạm vi một vùng

(viết tắt của Gross Regional Domestic Product)

GTGT Giá trị gia tăng

IIP Chỉ số sản xuất công nghiệp

(viết tắt của Index - Industry Products)

KT-XH Kinh tế - Xã hội

ODA Vốn vay ưu đãi từ nước ngoài

(viết tắt của Official Development Assistance)

TM-DV Thương mại – Dịch vụ

TFP Nhân tố năng suất tổng hợp

(viết tắt của Total Factor Productivity)

TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh

WB Ngân hàng Thế giới

(viết tắt của World Bank)

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: GDP trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chia theo khu vực kinh tế giai

đoạn 2011-2017 (tính theo giá so sánh 2010) ............................................................... 51

Bảng 2.2: Cơ cấu GDP chia theo ngành dịch vụ trên địa bàn Tp.HCM giai đoạn 2000 –

2017 (tính theo giá thực tế) ............................................................................................ 52

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng các ngành Dịch vụ, Công nghiệp, Nông nghiệp qua các năm .... 52

Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng các lĩnh vực trong ngành Dịch vụ qua các năm.......................... 55

Biểu đồ 2.3: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp................................................... 59

Biểu đồ 2.4: Biểu đồ so sánh tốc độ phát triển các ngành công nghiệp ......................... 62

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những vấn đề trung tâm của nền

kinh tế đang phát triển. Thực tế cho thấy những thành công hay thất bại trong việc

phát triển kinh tế đều bắt nguồn từ việc xác định cơ cấu kinh tế có hợp lí hay không.

Việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm phát

huy tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và tiến tới ngày

càng nâng cao đời sống người dân.

Trong thời gian qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa

bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đề ra,

đồng thời đạt được một số tích cực, là động lực cho tăng trưởng kinh tế: Trong giai

đoạn 2015-2017, tổng sản phẩm nội địa (GRDP) trên địa bàn thành phố tăng

8,2%/năm, đạt kế hoạch đề ra, trong đó khu vực dịch vụ tăng 8,1%/năm, khu vực

công nghiệp – xây dựng tăng 7,8%/năm, khu vực nông nghiệp tăng 5,8%/năm,

GRDP bình quân quân đầu người năm 2017 đạt 5.550 USD/người/ năm1. Chất lượng

tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực và

đúng hướng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, TP.HCM phải đối mặt

với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đó là: mô hình tăng trưởng kinh tế của thành phố

còn tồn tại nhiều vấn đề về tốc độ tăng trưởng, tính bền vững; hiệu quả và cạnh tranh

nhất là năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố có phần giảm sút so với một số địa

phương trong nước và khu vực; các chính sách và giải pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ

cấu kinh tế hiện vẫn chưa đủ mạnh, còn chưa tạo được sự đột phá; Sự chuyển dịch

1 Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh.

các ngành kinh tế diễn ra tương đối chậm; Tỷ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ

2

có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, giá trị gia tăng cao còn thấp, tính cạnh tranh

của nhiều sản phẩm còn khá yếu so với khu vực và quốc tế.

Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh

giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025” đã được Ủy ban nhân dân Tp.HCM

công bố ngày 26 tháng 11 năm 2017. Đề án tập trung vào bốn mục tiêu tổng quát là

đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế, hướng đến kinh tế tri thức, kinh tế số; quản trị

đô thị hiệu quả trên cơ sở dự báo; nâng cao chất lượng môi trường sống và làm việc;

tăng cường sự tham gia quản lý của người dân. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất

của Đề án là phát triển kinh tế bền vững, phải dự báo, thấy trước khó khăn, giải pháp

phòng ngừa và liên kết tốt; phải làm sao kết hợp các nguồn lực để đạt hiệu quả cao

hơn trong khi từng nguồn lực không thay đổi, cùng với đó tạo môi trường sống của

người dân phải tốt trong các vấn đề như hạ tầng, chất lượng không khí, thúc đẩy dịch

vụ y tế…

Vì vậy, để kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phát triển bền vững, đạt được

những mục tiêu đề ra đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế ngành phù hợp với những

dự báo chính xác và giải pháp hiệu quả. Đây sẽ là vấn đề có tính chất quyết định.

Xuất phát từ lý do đó, học viên lựa chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

gắn với việc xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh đến

năm 2025” làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị của

mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới:

3

Cơ cấu kinh tế (CCKT), chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) là những

vấn đề được rất nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và là chủ đề

được đưa bàn luận trong nhiều hội thảo, hội nghị trong nước và quốc tế.

Vấn đề về CDCCKT được C.Mác đề cập đến trong học thuyết về phân

công lao động xã hội và học thuyết về tái sản xuất xã hội. Kinh tế học thuộc trào lưu

chính đã đi sâu phân tích các điều kiện bảo đảm sự hoạt động hữu hiệu của thị

trường, coi đây là động lực phát triển kinh tế, nhưng cũng đã đề cao vai trò can thiệp

của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm hoạt động bình

thường của thị trường, duy trì sự ổn định vĩ mô.

Lý luận về giai đoạn phát triển kinh tế với đại biểu nổi bật W.Rostow đã

chia quá trình phát triển kinh tế của một nước thành 5 giai đoạn, gồm có: xã hội

truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, tăng trưởng và mức tiêu dùng cao. Cùng

quan điểm với nhà kinh tế học D.Bell, mới đây, học giả Tatyana P.Soubbotina đã

làm rõ thêm quá trình phát triển kinh tế qua các giai đoạn nông nghiệp, công nghiệp

hóa, hậu công nghiệp. Học giả Tatyana cũng rất quan tâm đến cuộc cách mạng tri

thức, trong đó đề cao vai trò của cách mạng khoa học, công nghệ và chất xám trong

quá trình phát triển của các quốc gia.

Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, quá trình phát triển kinh tế bao gồm

các giai đoạn nghèo đói, công nghiệp hóa, phát triển tiêu thụ. Đằng sau sự phát triển

kinh tế là mối quan hệ khăng khít giữa tăng trưởng kinh tế với chuyển dịch CCKT.

Ngân hàng Thế giới có hai công trình nghiên cứu lớn về CDCCKT: “Sự

thần kỳ của Đông Á” và “Suy ngẫm lại sự thần kỳ của Đông Á”. Hai công trình này

xem xét chính sách cơ cấu của các nước Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,

Singapore). Trong cuốn “Sự thần kỳ của Đông Á”, WB cho rằng CCKT là một trong

những nhân tố quyết định đến sự thần kỳ Đông Á. Điều này muốn nói rằng, vai trò

của Nhà Nước là rất lớn quyết định đến sự phát triển thần kỳ của khu vực này. Tuy

4

nhiên, trong cuốn “Suy ngẫm lại sự thần kỳ của Đông Á”, các tác giả, trong đó có

J.Stinglirt – đạt giải nobel kinh tế năm 2002 lại cho rằng, cơ bản chính sách cơ cấu ít

có tác động, mà sự CDCCKT chủ yếu do thị trường chi phối, quyết định.

Dowring (1959) cho rằng quy mô lớn của khu vực nông nghiệp làm khó

khăn cho quá trình chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp.

Trong khi Johnton và Kilby (1975) thì cho rằng sự chuyển dịch cơ cấu lao động

chậm là do nhu cầu của khu vực công nghiệp còn nhỏ và lương của người lao động

còn thấp.

2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước

Liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã có nhiều công trình được công bố

trên các góc độ tiếp cận khác nhau:

Luận án Tiến sỹ của nghiên cứu sinh Phạm Thị Nga (2016): “Chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững”, Viện Hàn

Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Tác giả đã hệ thống hóa được cơ cở lý luận và thực

tiễn về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quan điểm của Đảng và chính

sách pháp luật của Nhà nước về CDCCKT và quan điểm về phát triển bền vững.

Luận văn đã phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tại tỉnh Thái

Nguyên theo hướng phát triển bền vững. Làm rõ được những kết quả đạt được trong

quá trình CDCCKT ngành tại Thái Nguyên thời gian qua, những hạn chế và nguyên

nhân của những hạn chế đó. Từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy

quá trình CDCCKT ngành tại Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững.

Luận án Tiến sỹ của Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Cẩm Vân (2015): “Các

mô hình phân tích sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước” tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Đề tài đã rút ra được

những kết luận rất quan trọng, cụ thể: (1) Cơ cấu ngành của khu vực sơ cấp chuyển

5

dịch từ nông nghiệp sang khai khoáng rồi đến thủy sản. So với các nền kinh tế khác,

Việt Nam là một trong số rất ít các quốc gia mà khu vực sơ cấp đi theo định hướng

xuất khẩu. Đặc điểm này chứng tỏ công nghiệp hóa ở Việt Nam vẫn ở giai đoạn

thấp. (2) Mặc dù đã có tín hiệu chuyển dịch tích cực trong cơ cấu ngành của khu vực

chế biến chế tạo nhưng sự chuyển dịch này diễn ra chậm. Các ngành thâm dụng tài

nguyên và lao động vẫn chiếm ưu thế hơn so với các ngành thâm dụng vốn và công

nghệ. (3). Quá trình chuyển dịch chậm chạp đã tạo ra một cơ cấu ngành có hiệu quả

và năng lực cạnh tranh thấp. Xu hướng giảm giá trị gia tăng, tăng chi phí trung gian

ở cả ba nhóm ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ là một đặc điểm quan

trọng của quá trình Công nghiệp hóa (CNH) ở Việt Nam. (4). Các kết quả đều nhấn

mạnh tầm quan trọng của việc nâng tỷ trọng vốn, đặc biệt là tỷ trọng lao động công

nghiệp đối với tăng trưởng của các ngành phi nông nghiệp và của nền kinh tế. Đây là

kết quả chưa được trả lời rõ ràng trong các nghiên cứu trước. (5). Các phát hiện của

luận án sẽ giúp các nhà quản lý và hoạch định chính sách nhận diện được những đặc

trưng trong chuyển dịch cơ cấu ngành và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, và giúp

gợi ý một số khuyến nghị về cơ cấu ngành hợp lý để thúc đẩy nền kinh tế tăng

trưởng nhanh và CNH thành công. Tuy nhiên, đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành của thành phố Hồ Chí Minh có khác với mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh

tế của cả nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay xây dựng thành phố Hồ Chí Minh

trở thành đô thị thông minh, đây chính là nội dung chưa được đề cập tới trong luận

án tiến sỹ này.

Một nghiên cứu khác về “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội

nhập với khu vực và thế giới” của GS.TSKH.Lê Du Phong và PGS.TS Nguyễn

Thành Độ đã đề cập tới luận cứ khoa học của CDCCKT theo hướng hội nhập, thực

trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta từ những năm 1991 – 1997, thực trạng

CDCCKT ở một số vùng, phương hướng và giải pháp CDCCKT ở nước ta theo

6

hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Trong tài liệu này, phân

tích CDCCKT nói chung và CDCCKT ngành nói riêng chưa được đề cập đến.

“Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam - Thông tin chung” của

PGS.TS Bùi Tất Thắng, nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2009. Trên cơ sở khái

quát những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, những tiêu

chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, đề tài đánh giá quá trình chuyển dịch

cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ thực hiện chính sách đổi mới kinh tế.

Trong đó, bao gồm cả quá trình chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành và trong nội bộ

các ngành. Phân tích, khái quát tác động của những nhân tố mới cả trên thế giới và

trong nước đối với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong giai đoạn

tới.

“Bàn về cải tiến cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam” của PGS.TS Ngô

Doãn Vịnh - Viện Chiến lược phát triển, đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo số

tháng 1 – 2010. Bài báo đưa ra quan niệm về cải tiến cơ cấu kinh tế, theo đó cải tiến

cơ cấu kinh tế là một quá trình nhằm phát huy được lợi thế so sánh của đất nước, tạo

ra khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả lớn và đảm bảo yêu cầu bền vững cho

toàn bộ quá trình phát triển. Chủ thể chủ yếu và trực tiếp của việc cải tiến cơ cấu

kinh tế là nhà nước và doanh nghiệp. Muốn cải tiến thành công thì nhà nước và

doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị chu đáo. Tác giả cũng chỉ rõ tình trạng cơ cấu kinh

tế của Việt Nam trong hệ thống kinh tế thế giới. Đồng thời, khái quát những lợi thế

so sánh chủ yếu và khả năng cải tiến cơ cấu kinh tế của Việt Nam.

Đề tài "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô Hà Nội đến năm 2020”, Luận

án Tiến Sĩ của tác giả Nguyễn Đình Dương. Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống cơ sở lý

luận về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa trong xu thế hội nhập quốc tế. Đánh giá thực trạng những thành tựu và hạn

7

chế cơ bản trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thủ đô Hà Nội

trong thời kỳ đổi mới; đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô đến năm 2020.

2.3. Các công trình nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh:

“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế Thành phố Hồ

Chí Minh và Việt Nam theo hướng cạnh tranh đến năm 2020”, của đồng chủ biên

PGS.TS. Lương Minh Cừ - PGS.TS. Đào Duy Huân - ThS. Phạm Đức Hải, nhà xuất

bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012. Nội dung tập trung nghiên cứu

về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế của Thành phố

Hồ Chí Minh và Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những

giải pháp nhằm thay đổi mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế

theo hướng cạnh tranh để phát huy tiềm năng và thế mạnh của kinh tế thành phố theo

hướng nâng cao tính bền vững, hiệu quả, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, hài hòa

với mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển an sinh xã hội.

Nghiên cứu của tác giả Vương Đức Hoàng Quân (2014): Nhìn lại quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”. Nội dung

bài viết xoay quanh các vấn đề về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; mà trước hết là định

hướng và các chính sách được đề xuất bởi các cấp chính quyền TP.HCM. Xuất phát

từ thực trạng của quá trình chuyển dịch, nghiên cứu cho thấy được những thành tựu

và hạn chế, cũng như nguyên nhân của vấn đề. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải

pháp đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững.

2.4. Những khoảng trống và hướng nghiên cứu của luận văn

Thành phố Hồ Chí Minh được đánh giá là một trung tâm kinh tế lớn và

năng động của Việt Nam. Vì vậy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo, bài

viết về kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh. Các công trình nghiên cứu nói trên đều

8

đã đề cập đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nhiều góc độ, phạm vi khác

nhau. Tuy nhiên, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với giải pháp để xây

dựng Thành phố trở thành Đô thị thông minh là vấn đề mới, chưa có nhiều công

trình nghiên cứu đề cập đến.

Mặt khác, trong tình hình thực tế hiện nay của Thành phố Hồ Chí Minh

xuất hiện nhiều thời cơ, thách thức mới (sự phát triển như vũ bão của cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0; Nghị quyết 54 của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc thù

phát triển Thành phố Hồ Chí Minh,…) đòi hỏi hướng giải pháp phải phù hợp hơn,

phải có tính đột phá mới có thể giúp tháo gỡ những khó khăn còn tồn tại, thúc đẩy cơ

cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, góp phần thực hiện được mục tiêu Xây

dựng Thành phố trở thành Đô thị thông minh. Luận văn sẽ tập trung vào nghiên cứu,

hệ thống hóa các vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn Thành phố

Hồ Chí Minh dưới góc nhìn kinh tế chính trị gắn với tình hình thực tế cấp bách hiện

nay của thành phố như: yêu cầu thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tận

dụng những lợi thế từ ưu đãi về cơ chế chính sách đặc thù dành cho Thành phố theo

tinh thần Nghị quyết 54 của Chính phủ; thực hiện Đề án xây dựng Thành phố trở

thành Đô thị thông minh đến năm 2025. Trên cơ sở đó, khuyến nghị một số giải pháp

nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng định hướng, đảm bảo nền kinh

tế phát triển bền vững góp phần thực hiện được mục tiêu đặt ra của Đề án “Xây dựng

Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm

nhìn đến năm 2025”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích

9

Phân tích, luận giải về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với

Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn

2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025”

Nhiệm vụ

Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành gắn với việc xây dựng đô thị thông minh ở Việt Nam

Khảo sát, đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh những năm qua, chỉ ra kết quả, hạn chế và

những vấn đề đặt ra

Đề xuất một số quan điểm, định hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành hướng tới mục tiêu xây dựng Thành phố

Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh đến năm 2025

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề cơ cấu kinh tế ngành và quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với việc xây dựng đô thị thông minh trên

địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ kinh tế chính trị học.

Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian: Luận văn khảo sát trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

(có tìm hiểu một số thành phố khác như Hà Nội, Đà Nẵng để liên hệ, so sánh)

10

Về thời gian: Luận văn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2000,

tầm nhìn đến năm 2025.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận:

Luận văn dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,

quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng – Nhà nước, và các văn kiện, nghị quyết

của Đảng bộ - Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp nghiên cứu tổng quát của luận văn là phép duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử, được sử dụng trong việc nghiên cứu về các vấn đề về

CDCCKT ngành và xây dựng đô thị thông minh, trong bối cảnh nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.

Luận văn cũng vận dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế

chính trị và kinh tế học hiện đại như phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương

pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp thống kê - mô

tả, phương pháp so sánh – đối chiếu... Các phương pháp này được sử dụng để khảo

sát, đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, những lợi thế đặc thù

của thành phố từ đó đưa ra những định hướng, mục tiêu và giải pháp phù hợp, xác

đáng.

6. Kết quả, đóng góp của luận văn:

11

Về lý luận: Góp phần hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản

về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây dựng đô thị thông minh ở Việt

Nam

Về thực tiễn: Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực tế, luận văn đề

xuất một số định hướng, giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế hướng tới mục tiêu xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành

Đô thị thông minh vào năm 2025.

7. Kết cấu nội dung của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục; luận văn gồm 3 chương, 9 mục

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

gắn với đô thị thông minh.

Chương 2 : Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên

địa bàn Tp. Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra.

Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp đẩy mạnh chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành góp phần xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô

thị thông minh đến năm 2025.

12

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN

VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI XÂY DỰNG

ĐÔ THỊ THÔNG MINH Ở VIỆT NAM

------

1.1. Những khái niệm lý luận cơ bản:

1.1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành:

Cơ cấu kinh tế:

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ

hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Cơ cấu kinh tế là một tổng thể kinh tế bao gồm

nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một

khoảng không gian và thời gian nhất định và được thể hiện ở mặt định tính và định

lượng, chất lượng và số lượng phù hợp với mục tiêu xác định của nền kinh tế.

Cơ cấu kinh tế có nhiều loại, mỗi một loại cơ cấu phản ánh những nét đặc

trưng của các bộ phận và các cách mà chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát

triển nền kinh tế (PGS.TS. Đoàn Thị Thu Hà và PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền,

2007, trang 273) . Có các loại cơ cấu kinh tế như sau: Cơ cấu thành phần kinh tế; Cơ

cấu vùng – lãnh thổ; Cơ cấu ngành kinh tế…. Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế – tổ

hợp các ngành trong nền kinh tế theo một quan hệ tỷ lệ về lượng, thể hiện mối quan

hệ giữa các ngành – giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ quá trình và phản ánh trình độ

phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế tăng trưởng đòi hỏi tất yếu phải có

chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Cơ cấu kinh tế ngành:

13

Cơ cấu ngành của nền kinh tế là quan hệ tỷ lệ của tập hợp tất cả các ngành

hình thành nên nền kinh tế và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng. Cơ cấu

ngành là một chỉnh thể liên kết các ngành kinh tế theo một kiểu cấu trúc nhất định,

tạo ra những thuộc tính mới, chất lượng mới của hệ thống mà những thuộc tính này

không thể có ở từng bộ phận riêng rẽ hợp thành hệ thống; Là tổng thể những mối

quan hệ về số lượng (số lượng ngành, tỷ trọng) và chất lượng giữa các ngành trong

nền kinh tế (Phạm Thị Khanh, 2010, trang 12). Việt Nam phân loại ngành kinh tế

theo hướng dẫn phân loại ngành do Liên hiệp quốc ban hành, có thể khái quát thành

ba nhóm ngành lớn: 1. Nông – Lâm – Ngư nghiệp; 2. Công nghiệp, xây dựng; 3.

Thương mại và dịch vụ.

1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

Là quá trình làm thay đổi cấu trúc và các mối quan hệ của một nền kinh

tế theo một chủ đích và một phương hướng nhất định. Đó là quá trình tăng tốc độ

và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế gắn liền với đổi mới căn bản

về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao của toàn bộ nền

kinh tế quốc dân và từng bước phát triển nền kinh tế dịch vụ.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ có

mối quan hệ qua lại chặt chẽ. Tiến bộ khoa học công nghệ làm cho cơ cấu kinh tế

có sự thay đổi phù hợp, những thay đổi cơ cấu kinh tế lại có tác dụng mở đường

cho việc thực hiện tiến bộ khoa học công nghệ.

Quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước tuân

thủ những tính quy luật chung. Song do những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế

14

- xã hội… của mỗi nước, những xu thế thay đổi cơ cấu chung sẽ được biểu hiện qua

hình thái đặc thù của từng giai đoạn phát triển. Vì vậy nói đến vấn đề vận dụng

những tính quy luật chung vào việc xác định chính sách cơ cấu kinh tế của đất nước

cần phân tích những nhân tố ảnh hưởng đối với quá trình hình thành cơ cấu, có

nhiều nhân tố quy định cơ cấu kinh tế. Từng nhân tố riêng sẽ ảnh hưởng trực tiếp

hoặc gián tiếp, ít hoặc nhiều tới sự hình thành cơ cấu kinh tế (trước hết tới cơ cấu

sản xuất), đồng thời chúng cũng gắn bó với nhau chặt chẽ tạo thành một hệ thống

và tác động tới cơ cấu kinh tế như là kết quả của một sức mạnh tổng hợp.

Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao

gồm:

(1) Nhu cầu của thị trường: Thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội

quy định chất lượng và số lượng của hàng hóa – dịch vụ; đồng thời có tác động

đến quy mô, trình độ phát triển của các cơ sở kinh tế, xu hướng phát triển và phân

công lao động xã hội.

(2) Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: Sự phát triển của lực

lượng sản xuất sẽ tác động hình thành một cơ cấu kinh tế với vị trí, tỉ trọng các

ngành và lĩnh vực phù hợp hơn, không những thích ứng được yêu cầu phát triển

của lực lượng sản xuất, mà còn đáp ứng nhu cầu của xã hội.

(3) Định hướng, chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà

nước: Các cơ quan quản lý nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt, quy định tỷ lệ

các ngành nghề; tuy nhiên vẫn tác động gián tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế

thông qua các định hướng, chiến lược và các chính sách khuyến khích ưu đãi hỗ

trợ.

15

(4) Yếu tố tiến bộ khoa học – kỹ thuật: Trên cơ sở ứng dụng khoa học –

kỹ thuật và công nghệ, năng suất lao động sẽ gia tăng; sản phẩm – dịch vụ có giá

trị gia tăng cao được phát triển, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế các

ngành nghề nhanh chóng và hiệu quả.

(5) Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế: Xu thế toàn cầu

hóa kinh tế sẽ tạo ra sự dịch chuyển các luồng vốn, lao động và công nghệ. Sự gia

nhập của các quốc gia vào các tổ chức và hiệp hội thương mại quốc tế giúp xóa bỏ

các rào cản thương mại giữa các nước. Từ đó, các chuỗi sản xuất liên kết giữa các

quốc gia sẽ được hình thành.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành:

Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng

sâu sắc, tính chuyên môn hoá trong lao động ngày càng cao, sẽ làm xuất hiện hoặc

biến mất một số ngành kinh tế. Nói cách khác, sự phát triển của phân công lao động

xã hội và lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành nghề. Như

vậy, cơ cấu kinh tế ngành luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố

hợp thành cơ cấu kinh tế luôn vận động, phát triển. Sự thay đổi đó bao gồm cả về

số lượng và về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành. Từ đó, có thể hiểu: Chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành là sự thay đổi về số lượng, vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương

tác giữa các ngành trong nền kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng

sản xuất và phân công lao động xã hội.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành không chỉ là thay đổi về số lượng, vị

trí, tỷ trọng và mối quan hệ giữa các ngành mà còn là sự thay đổi về lượng và chất

trong nội bộ các ngành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là cải tạo cơ cấu cũ, lạc

hậu, chưa phù hợp thành cơ cấu mới hoàn thiện và phù hợp hơn. Như vậy, thực

16

chất chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự điều chỉnh mối quan hệ, tỷ trọng giữa

các ngành cho phù hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội đã xác định cho từng thời

kỳ phát triển.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành được thể hiện rõ nét thông qua hai quá

trình:

Chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành là sự thay đổi về vị trí, tỷ trọng giữa

các ngành trong nền kinh tế cả về cơ cấu giá trị, cơ cấu vốn, cơ cấu lao động. Theo

đó, khi vị trí, tỷ trọng của nhóm ngành này tăng lên sẽ đồng nghĩa với việc vị trí và

tỷ trọng nhóm ngành khác giảm xuống tương ứng trong tổng giá trị sản phẩm xã

hội. Quá trình chuyển dịch giữa các ngành được xác định thông qua các chỉ số về

tổng giá trị sản phẩm xã hội làm ra. Đây cũng là tiêu chí đánh giá quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách chính xác.

Song song với quá trình chuyển dịch giữa các ngành luôn có sự chuyển

dịch trong nội bộ ngành. Theo đó, cùng với sự thay đổi vị trí, vai trò và tỷ trọng của

từng ngành trong tổng giá trị xã hội thì ngay trong một ngành cũng có sự thay đổi

về mặt cơ cấu giữa các phân ngành. Chuyển dịch trong nội bộ ngành là sự chuyển

dịch vị trí, vai trò và tỷ trọng của các phân ngành trong nội bộ ngành đó. Đối với

ngành nông nghiệp là sự dịch chuyển giữa các ngành nông, lâm, ngư; đối với công

nghiệp là công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, công nghiệp

khai thác; đối với dịch vụ và du lịch là thương mại, du lịch và dịch vụ. Sự dịch

chuyển trong nội bộ ngành thể hiện rõ nét quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Cơ cấu kinh tế ngành thể hiện rõ nét bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế,

quá trình thay đổi của cơ cấu kinh tế ngành luôn chịu sự tác động của những nhân

17

tố ảnh hưởng đến nền kinh tế, bao gồm cả nhân tố bên ngoài và nhân tố bên trong;

cả nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.

Nhân tố bên ngoài:

Trước hết, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phụ thuộc và chịu ảnh

hưởng lớn từ xu thế chính trị - xã hội trong khu vực và thế giới.

Xét đến cùng chính trị là biểu hiện tập trung của nền kinh tế. Sự biến

động về chính trị - xã hội của một nước hay một số nước, nhất là nước lớn, sẽ tác

động mạnh mẽ đến các hoạt động ngoại thương, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao

công nghệ, tiếp thu khoa học kỹ thuật… của các nước khác trên thế giới và khu

vực. Do đó, khi thị trường và nguồn lực từ nước ngoài thay đổi, buộc các quốc gia

phải điều chỉnh chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cho phù

hợp.

Hai là, xu thế toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá lực lượng sản xuất

Xu thế này tạo ra sự phát triển đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh của

nhau, hợp tác với nhau một cách toàn diện cả trong sản xuất và trao đổi hàng hoá,

dịch vụ. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế cho phép hình thành mạng lưới sản xuất

quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới và sự phát triển mạnh mẽ của các

công ty đa quốc gia, đã thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội vượt xa hơn

biên giới của một vùng lãnh thổ. Ngày nay, một sản phẩm hàng hoá không chỉ là

sản phẩm của một quốc gia, mà có thể có sự tham gia của nhiều công ty, xí nghiệp

thuộc nhiều nước trong khu vực và thế giới cùng sản xuất. Đối với các quốc gia

hướng về xuất khẩu thì yếu tố này trở thành nhân tố không thể thiếu trong quá trình

hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Xu thế này tạo ra sự đan xen vào

nhau, khai thác thế mạnh của nhau, thúc đẩy hợp tác với nhau một cách toàn diện

18

cả trong sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ và chuyển giao tiến bộ khoa học công

nghệ. Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tăng lên, các mối quan hệ hợp

tác kinh tế giữa các nước và các khu vực ngày càng trở lên sâu rộng và mật thiết

hơn.

Ba là, các thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ

Thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ thông tin là những

yếu tố bên ngoài tác động và ảnh hưởng lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.

Các yếu tố này tạo điều kiện cho các nhà sản xuất kinh doanh nắm bắt thông tin,

hiểu thị trường và hiểu đối tác mình muốn hợp tác. Từ đó, giúp họ định hướng sản

xuất kinh doanh, thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh phù hợp với xu thế hợp tác

đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh của nhau, cùng nhau phân chia lợi nhuận.

Khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến được coi là nhân tố quyết định

đối với quá trình sản xuất, làm tăng mạnh giá trị kinh tế các ngành, lĩnh vực, tạo ra

những bước đột phá lớn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Các nhân tố bên ngoài có vai trò rất quan trọng và là nhân tố tác động

đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Song nhân tố bên trong

mới là những yếu tố quyết định.

Nhân tố bên trong

Một là, nhân tố thị trường và tiêu dùng của xã hội: Thị trường và nhu cầu

xã hội là người đặt hàng cho tất cả các ngành kinh tế. Nếu như xã hội không có nhu

cầu thì không thể có bất kỳ một quá trình sản xuất nào diễn ra cả. Cũng như vậy

không có thị trường thì không có kinh tế hàng hoá. Thị trường và nhu cầu xã hội

không chỉ quy định về số lượng mà cả về chất lượng các sản phẩm hàng hoá và

dịch vụ. Vì vậy, nó có tác động trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển của các cơ

19

sở kinh tế; đến xu hướng phát triển và phân công lao động xã hội; đến vị trí và tỷ

trọng giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân.

Hai là, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất bao

gồm tư liệu lao động và con người có khả năng sử dụng tư liệu lao động để tác

động vào điều kiện tự nhiên, tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu

xã hội. Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, là động lực phát triển của xã hội.

Nhu cầu của xã hội là vô tận và ngày càng đòi hỏi khắt khe. Muốn đáp ứng đầy đủ

những nhu cầu xã hội đòi hỏi trước hết là phải phát triển lực lượng sản xuất. Sự

phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất sẽ làm thay đổi quy mô sản xuất,

thay đổi công nghệ, thiết bị, hình thành các ngành nghề mới, biến đổi lao động giản

đơn thành lao động phức tạp, tạo ra sự phát triển của ngành này hoặc ngành khác.

Sự phát triển đó phá vỡ cân đối cũ, hình thành một cơ cấu kinh tế ngành mới với vị

trí, tỷ trọng của các ngành phù hợp hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội. Quá

trình phát triển đó diễn ra một cách khách quan và từng bước tạo ra một sự cân đối

hợp lý hơn, có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và nước ngoài. Như vậy,

sự phát triển của lực lượng sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành cơ cấu

kinh tế ngành. Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng khiến cho cơ cấu kinh tế

ngành cũng luôn luôn thay đổi. Mặt khác, cùng với sự phát triển của lực lượng sản

xuất, điều kiện tự nhiên ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành. Những yếu tố tự nhiên tạo điều kiện cho phép phát triển một ngành

sản xuất nào đó một cách thuận lợi hoặc khó khăn. Lợi thế tự nhiên tác động đến

tăng trưởng kinh tế không những theo chiều rộng mà còn đảm bảo cho tăng trưởng

theo chiều sâu nếu có chính sách khai thác, sử dụng hiệu quả. Lợi thế tự nhiên tạo

ra những lợi thế cho nền kinh tế, là cơ sở hình thành và phát triển các ngành kinh tế

khác nhau. Tuy nhiên, những yếu tố, điều kiện tự nhiên chỉ là nền tảng để có thể

phát triển kinh tế, tích luỹ đầy đủ các yếu tố để phát triển theo chiều sâu.

20

Ba là, quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cơ chế

quản lý: Cơ chế quản lý của Nhà nước có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế ngành nói riêng. Nếu cơ chế

chính sách khoa học, phù hợp với quy luật khách quan và tình hình thực tiễn thì sẽ

thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

tế diễn ra nhanh và hiệu quả. Ngược lại, nếu cơ chế chính sách thiếu căn cứ khoa

học, không xuất phát từ quy luật khách quan sẽ kìm hãm, làm chậm lại quá trình

phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trên thực tế, thể chế chính trị - xã hội -

kinh tế tác động đến quá trình phát triển trên khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý

và môi trường xã hội. Vì vậy, mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan và tính

lịch sử xã hội, nhưng nó lại chịu sự tác động, chi phối của Nhà nước. Nhà nước tác

động gián tiếp thông qua định hướng chiến lược, đặt ra các mục tiêu phát triển kinh

tế - xã hội và khuyến khích mọi ngành kinh tế phát triển nhằm đạt các mục tiêu đề

ra. Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt các ngành nghề, không quy định cụ thể về

cơ cấu kinh tế song thông qua hệ thống pháp luật, các quy định, thể chế, chiến lược

phát triển, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước có sự điều tiết vĩ mô, dẫn

dắt các ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển theo định hướng chung, đảm bảo tính cân

đối và đồng bộ của nền kinh tế.

Bốn là, đặc điểm văn hoá - xã hội: Nhân tố văn hoá - xã hội bao trùm

nhiều mặt từ các tri thức phổ thông đến các tích luỹ tinh hoa của văn minh nhân

loại về khoa học, công nghệ, văn học, lối sống và các ứng xử trong quan hệ giao

tiếp, những phong tục tập quán,… Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ

văn minh cao và sự phát triển cao. Những đặc điểm văn hoá - xã hội có thể có tác

động tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

21

Năm là, dân số: Dân số được xem là nguồn lực quan trọng cho chuyển

dịch cơ cấu kinh tế. Sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành được xem xét trên các mặt chủ yếu sau:

Kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật

mới… Trình độ dân trí và kết cấu dân cư ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguồn

nhân lực. Các ngành nghề chỉ có thể phát triển mạnh mẽ và bền vững trên cơ sở

nguồn nhân lực của nền kinh tế dồi dào. Không thể phát triển khoa học kỹ thuật

trên cơ sở dân trí thấp, khả năng tiếp thu hạn chế.

Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập dân cư có ảnh hưởng đến quy

mô và tính chất của thị trường. Dân số đông là tiền đề cho một thị trường rộng lớn,

thu nhập dân cư ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành các ngành sản xuất và các

loại thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ.

1.1.3. Những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, những chỉ tiêu cơ bản

phản ánh sự chuyển dịch bao gồm:

(1) Mức độ thay đổi của cơ cấu GDP

Phân tích sự thay đổi tỷ lệ phần trăm GDP của các ngành nông nghiệp,

công nghiệp, và dịch vụ là một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để

đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành.

(2) Mức độ thay đổi của cơ cấu lao động

22

Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn được đánh giá qua một chỉ tiêu

rất quan trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế được phân bổ như

thế nào vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau.

(3) Mức độ thay đổi của cơ cấu hàng xuất khẩu

Mức độ thay đổi này thường trải qua một quá trình là: từ chỗ chủ yếu sản

xuất và xuất khẩu các loại sản phẩm sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp như lắp

ráp, sản phẩm dệt may, chế biến nông lâm thủy sản… chuyển dần sang các loại sản

phẩm sử dụng nhiều lao động trình độ cao, công nghệ kỹ thuật hiện đại như sản

phẩm cơ khí chế tạo, hóa chất, điện tử,… Chính vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng

xuất khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang những loại sản phẩm chế biến dựa trên cơ

sở công nghệ - kỹ thuật cao luôn được xem như một trong những thước đo rất quan

trọng đánh giá mức độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Bên cạnh ba chỉ tiêu chủ yếu trên, một nhóm các chỉ tiêu khác cũng

thường được sử dụng để đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu kinh tế. Đó là các chỉ số

về tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động xã hội, chỉ số ICOR, mức độ tiêu

hao năng lượng trên mỗi đơn vị GDP được tạo ra, số lượng việc làm mới được tạo

ra, tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ giảm nghèo…

1.1.4. Đô thị thông minh

Quá trình hình thành khái niệm “Đô thị thông minh”

Nếu như khái niệm "Cách mạng công nghiệp 4.0" đang là xu thế tất yếu

của sự phát triển trên toàn thế giới thì "Đô thị thông minh" hay “Thành phố thông

minh" cũng là một hệ quả tất yếu của "Cách mạng 4.0".

23

Mặc dù việc xây dựng thành phố thông minh đã có từ trước nhưng phải

đến khi cách mạng 4.0 có được những thành quả nhất định thì việc triển khai thành

phố thông minh mới thật sự bùng nổ. Những công nghệ chủ đạo của nền công nghiệp

4.0 giờ đây cũng trở thành các công cụ đắc lực để xây dựng thành phố thông minh.

Những quốc gia đang triển khai xây dựng thành phố thông minh, có thể kể

đến như:

Singapore với Chiến lược "người dân tay nghề cao, nền kinh tế sáng tạo,

Thành phố toàn cầu riêng biệt" hay Chiến lược Intelligent Nation 2015 (iN2015)

được thực hiện bởi Infocomm Development Authority (IDA).

Thành phố Barcerlona (Tây Ban Nha) đã tiến hành chiến lược với tên

"CityOS" để xây dựng thành phố thông minh thông qua công nghệ cảm biến và được

coi là thành phố thông minh nhất thế giới trong năm 2015 (theo một nghiên cứu của

Juniper Research).

Thành phố thông minh Amsterdam (Hà Lan) đã bắt đầu khởi động từ năm

2009 với hơn 170 dự án để ứng dụng công nghệ thiết bị không dây vào đời sống

nhằm giảm các vấn đề giao thông, ô nhiễm môi trường hay lãng phí năng lượng...

Malaysia: Chiến lược “Chính phủ số” - Digital Govement (đến năm 2020

- tất cả mọi thứ, mọi người đều kết nối Internet để truy cập dịch vụ thông minh) -

Smart Government (Social-Mobile-BigDataAnalytics, Radical openess, Trust)

Hàn Quốc: Chiến lược U-Korea và Kế hoạch “Seoul thông minh đến

2015”

Trung Quốc: Thành phố Urban Smart 4.0

24

Liên minh Châu Âu (EU): Các thành phố thông minh tiêu biểu như

Stockholm, Copenhagen, Barcelona, Helsinki, London, Vien,…

Hoa Kỳ: Các thành phố thông minh tiêu biểu là Dubuque (bang Iowa),

NY, Chicago, Columbus, Bang Ohio ….

Canada: Thành phố Vancouver (Greenest Vancouver city by 2020)

Khái niệm “Đô thị thông minh”

Trên thế giới, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về “Đô thị thông minh”.

Qua nhiều hội thảo trong và ngoài nước, các chuyên gia chỉ ra rằng: “Một thành phố

chỉ thực sự thông minh khi hội tụ ba yếu tố: (1) Hạ tầng hiệu quả; (2) Phát triển bền

vững; và (3) Môi trường sống thân thiện”2.

Có thể định nghĩa khái quát như sau: Thành phố thông minh là thành phố

sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để thu thập, truyền, lưu trữ và xử lý dữ

liệu (lớn) hướng tới phục vụ người dân (nâng cao chất lượng cuộc sống đô thị) và

quản lý đô thị thông minh (chủ động trong các tình huống hiện tại và có dự báo cho

tương lai).

Mục tiêu cơ bản của thành phố thông minh là nâng cao chất lượng dịch vụ

cung cấp cho người dân và quản lý hiệu quả đô thị (tiết kiệm năng lượng, giảm ô

nhiễm, tăng cường an ninh,... với tính dự báo cao). Từ đó làm nền tảng cho phát triển

bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường.

Những vấn đề "trụ cột" để xây dựng một "thành phố thông minh": Nghiên

2 Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025

cứu của Giffinger và cộng sự (2007) đã đưa ra 4 vấn đề về đô thị thông minh, bao

25

gồm: (1) Sự biến đổi của các ngành sản xuất công nghiệp; (2) Sự phát triển của

công dân đô thị; (3) Sự hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật đô thị; (4) Sự phát triển của

chính quyền đô thị.

Để có thể xây dựng các "trụ cột" này, nền tảng cốt lõi của nó chính là IOT

(hay Vạn vật kết nối - Internet of Things) cùng sự tích hợp công nghệ truyền đạt và

thông tin (ICT) như: Những tòa nhà thông minh, thân thiện môi trường, hệ thống

giao thông thông minh, quản lý thông minh, hệ thống chăm sóc sức khỏe thông

minh, cơ sở hạ tầng thông minh, bảng thông tin tương tác thông minh, đèn giao

thông thông minh, ứng dụng thông minh...

Tiêu chí đánh giá “Đô thị thông minh”

Trên thế giới chưa có các tiêu chuẩn chính thức về thành phố thông minh.

Tuy nhiên, một số tiêu chí chính sau cũng được các tổ chức, các nước lựa chọn

để đánh giá và làm tiêu chí cho một thành phố thông minh là: (1) Nền kinh tế thông

minh; (2) Di chuyển thông minh; (3) Môi trường thông minh; (4) Quản lý đô thị hiện

đại; (5) Cư dân thông minh; (6) Cuộc sống thông minh. Trong một thành phố thông

minh, hoạt động quản lý nhà nước của bộ máy chính quyền hay “Chính quyền điện

tử”, “Chính quyền thông minh” đóng vai trò chủ đạo.

“Dù có đến 6 tiêu chí để xác định một thành phố thông minh, tuy nhiên,

ngay cả trên thế giới, mỗi thành phố cũng lại xác định một hướng trọng tâm, chẳng

hạn như các nước Châu Âu thường hướng tới môi trường xanh, tiết kiệm năng

lượng, đặc biệt là các ứng dụng trong lĩnh vực giao thông thông minh. Các nước ở

khu vực Châu Á - Thái Bình Dương hướng nhiều hơn đến việc ứng dụng Công nghệ

thông tin trong các lĩnh vực Chính quyền điện tử, y tế, giao thông, giáo dục, quản lý

đô thị,...”

26

Ở nước ta, việc tiếp cận và thực hiện thành phố thông minh chủ yếu lấy

“Chính quyền điện tử” làm trọng tâm và phát triển hơn một số các tiêu chí, phù hợp

với nhu cầu, điều kiện và nguồn lực có thể có của từng thành phố và từng giai đoạn,

cụ thể như:

Năm 2012, Đà Nẵng là đô thị đầu tiên của nước ta được Tập đoàn công

nghệ IBM chọn là 1 trong 33 thành phố trên thế giới triển khai thành phố thông

minh. Đà Nẵng khi đó được nhận tài trợ từ chương trình thành phố thông minh hơn

với tổng giá trị tài trợ trên 50 triệu USD, sử dụng giải pháp điều hành trung tâm

thông minh để đảm bảo chất lượng nguồn nước phục vụ người dân, cung cấp giao

thông công cộng tốt nhất và giảm thiểu ách tắc giao thông, song song với đó là hoàn

thiện mô hình Chính quyền điện tử.

Năm 2015, Hà Nội đã thực hiện đề án xây dựng thành phố thông minh

hơn với trọng tâm là Chính quyền điện tử, hiệu quả trong quản lý điều hành, phát

triển giáo dục y tế, văn hóa, giao thông,... hướng đến hình thành và phát triển kinh tế

tri thức đưa Thủ đô tham gia vào các diễn đàn thành phố thông minh trên thế giới.

Ngày 23 tháng 11 năm 2017, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ

Chí Minh đã ban hành Quyết định số 6179/QĐ-UNBD về việc phê duyệt Đề án

“Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 -

2020, tầm nhìn đến năm 2025” với tầm nhìn đến năm 2025 là: “Thành phố Hồ Chí

Minh sẽ phát triển kinh tế tương đối cao, bền vững, trên nền tảng khai thác tốt nhất

các nguồn lực, với người dân là trung tâm của đô thị”. Những tiêu chí cơ bản cần đạt

được là: Xây dựng TP. HCM trở thành nơi có chất lượng sống và môi trường làm

việc tốt; đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế hướng đến kinh tế tri thức; Xây dựng

chính quyền điện tử, ứng dụng các mô hình dự báo kinh tế; Đối với người dân, phải

27

tạo ra các kênh tương tác giữa chính quyền và người dân cũng như các tiện ích

thông minh để tương tác; Kiến tạo môi trường hoạt động minh bạch…

Có 4 nguyên tắc định hướng trong việc triển khai xây dưng Đô thị thông

minh

Thứ nhất, Tầm nhìn chính xác, xuyên suốt và được sự đồng thuận cao.

Tầm nhìn phải đạt độ chính xác cao, bao hàm được khả năng dự báo phát triển của

đô thị thông minh. Tầm nhìn cho từng lĩnh vực phải gắn kết với tầm nhìn chung của

địa phương, được sự đồng thuận cao của người dân. Lãnh đạo các cấp cần phải cam

kết với tầm nhìn tổng quát của địa phương thông qua những hoạt động, chỉ đạo, định

hướng cụ thể và xuyên suốt. Tận dụng được tầm ảnh hưởng của nhiều đơn vị, tổ

chức, hiệp hội, cộng đồng...

Thứ hai, Luôn lắng nghe, nắm bắt và phục vụ kịp thời các nguyện vọng và

nhu cầu của người dân. Chính quyền luôn luôn lắng nghe, nắm bắt và phục vụ kịp

thời các nguyện vọng và nhu cầu của người dân, đảm bảo cung cấp các tiện ích, cung

cấp các dữ liệu hỗ trợ người dân ra quyết định. Sự đổi mới luôn phải được xuất phát

từ nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Người dân được tích cực tham gia trong

quá trình giám sát quản lý và xây dựng thành phố.

Thứ ba, Công nghệ là công cụ hỗ trợ phát triển. Tận dụng tối đa các cơ

hội để phát triển không gian mạng, số hóa, kết nối và tích hợp các hệ thống, quy

trình, dịch vụ phục vụ công tác dự báo và điều hành một cách tổng thể. Phải đảm bảo

4 chủ thể (chính quyền, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân) đều

được hưởng lợi từ việc ứng dụng công nghệ nhằm tối ưu quá trình ra quyết định.

Thứ tư, Huy động mọi nguồn lực. Chia sẻ và tái sử dụng các nguồn lực:

Tuân thủ các tiêu chuẩn mở và kiến trúc hướng dịch vụ để đảm bảo tính đồng vận

28

hành, tránh đầu tư trùng lắp. Tất cả các dự án mới phải nghiên cứu khả năng chia sẻ

và mở rộng nền tảng hạ tầng, cơ sở dữ liệu, ứng dụng hiện hữu. Luôn tạo cơ hội để

khuyến khích hợp tác sáng tạo. Khuyến khích tinh thần sáng tạo thông qua giáo dục

và hình thành một nếp văn hóa xã hội sẵn sàng tiếp nhận đổi mới. Đồng thời xây

dựng cơ chế chính sách và hành lang pháp lý để triển khai các mô hình cộng tác,

kinh doanh mới và có các chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp sáng tạo,

khởi nghiệp. Đảm bảo tính linh hoạt và thích ứng cao: Tuân thủ phương châm tư duy

tổng thể, triển khai linh hoạt. Triển khai theo từng giai đoạn để đảm bảo người dân,

doanh nghiệp và chính quyền có thời gian thích ứng với thay đổi.

1.2. Một số mô hình, lý thuyết và quan điểm của Đảng – Nhà nước về

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

1.2.1. Một số mô hình, lý thuyết hiện đại

Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis

Một trong những lý thuyết nổi tiếng ra đời sớm trong lĩnh vực phát triển

về sự thay đổi cơ cấu do W.Arthur Lewis (1915-1991, là nhà kinh tế học Jamaica

được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1979) đưa ra vào vào giữa thập niên 1950, sau

đó được John Fei và Gustav Ranis bổ sung, khai triển thêm. Trong mô hình Lewis,

nền kinh tế chậm phát triển luôn có hai khu vực cơ bản:

Thứ nhất, khu vực nông thôn truyền thống (traditional sector). Khu vực

này tập trung phần lớn dân số và đang trong tình trạng dư thừa lao động. Do đó,

Lewis xếp lao động này như là “dư thừa”, tức là lượng lao động này mà có rút ra

khỏi khu vực nông nghiệp thì vẫn không làm giảm sản lượng của nông nghiệp.

29

Thứ hai, khu vực thành thị công nghiệp hiện đại (modern sector) với đặc

trưng là năng suất cao. Trong khu vực này, nếu có lao động tăng thêm sẽ làm tăng

sản lượng. Do vậy, mô hình này gợi ý về sự di chuyển lao động trong khu vực nông

thôn sang khu vực thành thị công nghiệp hiện đại. Sản lượng trong khu vực công

nghiệp gia tăng là do tỷ lệ đầu tư và tích lũy vốn ngày càng tăng đã thu hút lao động

từ khu vực nông nghiệp chuyển đến ngày càng nhiều. Sự phát triển của khu vực công

nghiệp quyết định quá trình tăng trưởng của nền kinh tế.

Như vậy, để phát triển thì các quốc gia đang phát triển cần phải mở rộng

khu vực công nghiệp hiện đại và không cần quan tâm đến khu vực nông nghiệp

truyền thống. Khu vực công nghiệp phát triển sẽ thu hút hết lượng lao động dư thừa

trong nông nghiệp chuyển sang và từ trạng thái nhị nguyên nền kinh tế sẽ chuyển

sang một nền kinh tế công nghiệp phát triển.

Mặc dù mô hình phát triển của Lewis vừa đơn giản và cung cấp một ý

nghĩa thực tế trong ý tưởng chính sách về chuyển dịch cơ cấu ở các nước đang phát

triển. Thế nhưng, chính sự đơn giản hóa, bằng các giả định của mô hình, tự nó đã

kéo mô hình ra quá xa với thực tế. Đó là: Điều gì sẽ xảy ra nếu lợi nhuận tăng thêm

của các nhà tư bản được tái đầu tư vào các loại thiết bị hiện đại có tính chất tiết kiệm

lao động; Trong thực tế quan sát ở nhiều nước đang phát triển cho thấy có thất

nghiệp đồng thời ở cả thành thị và nông thôn; Một điều quan trọng khác mà mô hình

cũng đã đơn giản hóa, đó là lao động là đồng nhất. Nghĩa là lao động ở nông thôn có

thể di chuyển lên thành thị và hòa nhập một cách nhanh chóng. Điều này trên thực tế

rất khó có thể xảy ra. Mọi sự dịch chuyển lao động từ khu vực này sang khu vực

khác, từ ngành này sang ngành khác đều phải cần thời gian thích nghi, đào tạo.

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế ở các nước Châu Á gió mùa của Harry

Toshima

30

Lý thuyết này do nhà kinh tế học Nhật Bản là Harry Toshima đưa ra. Ông

phê phán lý thuyết tăng trưởng của Athur Lewis là không thực tế đối với các nước

Châu Á gió mùa. Theo H. Toshima, “vẫn giữ lại số lao động trong nông nghiệp, chỉ

tạo thêm nhiều hoạt động sản xuất ở những tháng nhàn rỗi bằng cách tăng vụ, đa

dạng hóa cây trồng, chăn nuôi gia súc và gia cầm, mở thêm ngành sản xuất cần nhiều

lao động, nhờ đó thu nhập của nông dân tăng lên và mở rộng thị trường cho các

ngành dịch vụ và công nghiệp. Như vậy lực lượng lao động sẽ được sử dụng hết. Khi

đó, tổng sản phẩm quốc gia và GNP tính theo đầu người cũng tăng nhanh. Từ phân

tích trên, ông cho rằng: “nông nghiệp hóa” là con đường tốt nhất để phát triển kinh tế

ở các nước Châu Á gió mùa, tiến tới một xã hội có cơ cấu kinh tế công nông nghiệp

– dịch vụ”3.

Lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu của Moise Syrquin

Có thể tóm tắt lý thuyết chuyển dịch cơ cấu kinh tế của M. Syrquin gồm

ba giai đoạn: (1) sản xuất nông nghiệp, (2) công nghiệp hóa, và (3) nền kinh tế phát

triển.

Giai đoạn 1: có đặc trưng chính là các hoạt động của khu vực khai thác

chiếm ưu thế, đặc biệt là nông nghiệp, trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng kinh tế

chung khá chậm do tỷ trọng tương đối cao của khu vực nông nghiệp trong tổng giá

trị gia tăng (hay GDP).

Giai đoạn 2 hay là giai đoạn công nghiệp hóa: có đặc điểm nổi bật là tầm

quan trọng trong nền kinh tế đã được dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu

vực chế biến và chỉ tiêu chính để đo lường sự dịch chuyển này là tầm quan trọng của

3 TS. Nguyễn Minh Tuấn và TS. Nguyễn Hữu Thảo (2009, trang 200)

khu vực chế biến trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung ngày càng tăng lên.

31

Giai đoạn 3: là giai đoạn của một nền kinh tế phát triển. Giai đoạn này

được thể hiện qua việc giảm sút tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP

hay trong cơ cấu lực lượng lao động. Khu vực dịch vụ trở thành khu vực quan trọng

nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP cũng như cơ cấu lao động. Trong

giai đoạn này, nhân tố đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng là nhân tố năng suất tổng

hợp (Total Factor Productivity - TFP).”

Nhìn chung, lý thuyết chuyển dịch cơ cấu của M. Syrquin thể hiện khá

chính xác về sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới, có thể tóm

lược qua 4 giai đoạn phát triển chính như sau: Giai đoạn 1: Nông nghiệp – Công

nghiệp – Dịch vụ; Giai đoạn 2: Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ; Giai đoạn 3:

Công nghiệp – Dịch vụ – Nông nghiệp; Giai đoạn 4: Dịch vụ – Công nghiệp – Nông

nghiệp

1.2.2. Quan điểm của Đảng – Nhà nước về “Chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành gắn với xây dựng Đô thị thông minh”

Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại

của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn

2011 – 2015, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Tập

trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và

sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược

(hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản

và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực

chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và

đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.”

32

“Trên cơ sở quan điểm phát triển đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế

- xã hội 2011 - 2020, qua thực tiễn 5 năm 2011 - 2015 và yêu cầu của bối cảnh tình

hình mới, quan điểm phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020 được xác định

là: Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và không

ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển hài hòa

giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri

thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã

hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm quốc

phòng, an ninh và giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước”4.

Đảng – Nhà nước ta cũng đề ra nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện

phát triển Đô thị thông minh, có thể kể đến như:

Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 Hội nghị Trung ương 4 khóa

XII về “Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng

trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền

kinh tế” đã đề cập đến một nội dung “ưu tiên phát triển một số đô thị thông minh”;

Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về chính

phủ điện tử.

Quyết định 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của

cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 – 2020, trong đó yêu cầu: "Triển khai đô thị thông

minh ít nhất tại 3 địa điểm theo các tiêu chí do Bộ Thông tin và Truyền thông hướng

4 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

dẫn".

33

Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc

tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Từ những chủ trương, đường lối trên, có thể khái quát một số quan điểm

cơ bản của Đảng – Nhà nước về “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây

dựng Đô thị thông minh” ở nước ta như sau:

Một là: Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế;

đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững

“Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp có hiệu quả

phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất

lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng

dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế phát triển nhanh và

bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu

và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa vào cả vốn đầu tư, xuất khẩu và thị

trường trong nước. Động lực quan trọng nhất và cũng là điều kiện để đổi mới mô

hình tăng trưởng là đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới,

sáng tạo.

Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn kết chặt chẽ với thực hiện ba đột phá

chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế với trọng tâm ưu tiên là: Hoàn thiện thể chế kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân

đối lớn của nền kinh tế; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi

cho khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học -

5 Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 Hội nghị Trung ương 4 khóa XII

công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài”5

34

Nâng cao khả năng dự báo chính xác hơn xu hướng phát triển trong tương

quan với các số liệu yếu tố đầu vào đa ngành góp phần đề ra các chính sách tổng thể

và phù hợp nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo đúng định hướng. Công tác

điều hành mang tính tổng thể, tích hợp liên ngành cao trên cơ sở kết nối, dùng chung

dữ liệu và nguồn lực giúp tối ưu chi phí, góp phần tăng hiệu quả sử dụng ngân sách.

Đô thị thông minh cũng tạo cơ hội để các thành phố đẩy mạnh phát triển

lĩnh vực công nghệ cao như công nghiệp vi mạch (góp phần vào sự phát triển của các

giải pháp ứng dụng IoT - Internet vạn vật (IoT) chính là nền tảng cốt lõi của cuộc

cách mạng công nghiệp 4.0). Tận dụng dữ liệu mở, người dân, doanh nghiệp, và

chính quyền có thể đẩy mạnh hợp tác cùng xây dựng một hệ sinh thái sản phẩm tiện

ích có giá trị cao, kiến tạo môi trường khuyến khích sáng tạo và khởi nghiệp trên nền

tảng công nghệ theo định hướng mở. Đồng thời, thông qua việc hỗ trợ nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực (tập trung vào nguồn nhân lực chất lượng cao và nguồn nhân

lực trong tương lai), cải cách hành chính và tăng cường hiệu quả hoạt động của các

lĩnh vực, đô thị thông minh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế các

thành phố theo hướng kinh tế tri thức.

Hai là: Ưu tiên phát triển các ngành – lĩnh vực công nghệ cao, hướng

đến kinh tế tri thức, kinh tế số

“Tập trung xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc

gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn; phát triển có chọn lọc

một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công

nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá chất, công nghiệp xây

dựng, xây lắp. Rà soát, bổ sung chiến lược phát triển công nghiệp; phân bố công

nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp.

Đẩy nhanh phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học, công nghệ, có

35

tỉ trọng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng cao; có lợi thế cạnh tranh, tham gia mạng

sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp, xây

dựng bình quân khoảng 8,0 - 8,5%/năm; đến năm 2020 tỉ trọng công nghiệp, xây

dựng trong GDP khoảng 40%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP

khoảng 25%, trong đó công nghiệp chế tạo khoảng 15%.”

“Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu

sản xuất cơ bản của nền kinh tế. Phát triển công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa

dầu, hóa chất với công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm có

khả năng cạnh tranh. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp cơ khí chế tạo mạnh và

sản phẩm cơ khí trọng điểm. Có chính sách phát triển công nghiệp điện tử, công

nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp phần mềm. Ưu tiên phát triển công nghiệp

phục vụ nông nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật tư và máy

nông nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường liên kết giữa các

tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước, hình thành các khu công nghiệp

hỗ trợ theo cụm liên kết ngành. Hỗ trợ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, nhất

là năng lượng gió, mặt trời”6.”

“ “Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến. Tiếp cận và làm chủ

các công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực công nghiệp xây lắp, đáp ứng yêu cầu xây

dựng trong nước và có khả năng cạnh tranh quốc tế. Phát triển mạnh công nghiệp vật

liệu xây dựng, nhất là vật liệu mới, vật liệu chất lượng cao.”

“Xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia, tạo khuôn khổ

chính sách đồng bộ, trọng tâm, đột phá hướng vào tăng năng suất, chất lượng, hiệu

quả và sức cạnh tranh; Tập trung vào những ngành công nghiệp nền tảng, có lợi thế

6 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

cạnh tranh và có ý nghĩa chiến lược đối với tăng trưởng nhanh, bền vững; lựa chọn

36

sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp chủ lực để ưu tiên phát triển, cơ cấu lại;

phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, tăng mạnh năng suất nội bộ ngành, tăng

hàm lượng công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; Chú trọng phát triển

công nghiệp sản xuất linh kiện, cụm linh kiện, thúc đẩy một số mặt hàng tham gia

sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị, phân phối toàn cầu.”7

Ba là: Khai thác, phát huy tốt nhất mọi nguồn lực:

Các văn kiện Đại hội Đảng từ khi đổi mới đến nay đều thống nhất quan

niệm về các nguồn lực phát triển kinh tế theo nghĩa rộng, bao gồm: vốn, tài nguyên

thiên nhiên, lao động và khoa học công nghệ.

Trong các giai đoạn phát triển tiếp theo kể từ năm 2000, Đảng đều nhấn

mạnh vào việc chăm lo phát triển nguồn nhân lực, khẳng định mục tiêu và động lực

chính của sự phát triển là “vì con người, do con người”. Báo cáo chính trị tại Đại hội

XI nêu rõ “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực

chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển

và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng

trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu

quả và bền vững”8.

Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải tập trung phát triển nguồn nhân

lực, các nguồn lực khác của tăng trưởng như vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học

công nghệ… cũng luôn được quan tâm bởi vì vai trò quan trọng của việc tổng hợp

các nguồn lực trong quá trình phát triển đất nước. Gần đây nhất, trong Báo cáo chính

7 Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 Hội nghị Trung ương 4 khóa XII 8 Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 130

trị tại Đại hội XII của Đảng (2016), các nguồn lực cơ bản và quan trọng tiếp tục

37

được đề cập trọng tâm trong định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền

kinh tế: “Nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao

năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo,

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập

quốc tế, phát triển nhanh và bền vững”9. “Khai thác, sử dụng và quản lý hiệu quả tài

nguyên thiên nhiên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó

với biến đổi khí hậu”10.

Như vậy, Đảng đã có nhận thức rõ ràng, thống nhất về các nguồn lực, vai

trò của các nguồn lực và sự tương tác giữa các nguồn lực này trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội đất nước, đặc biệt là từ khi thực hiện đổi mới đến nay.

Bốn là: Nâng cao chất lượng môi trường sống và làm việc của người

dân:

Tập trung chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt

nhất những vấn đề bức thiết của người dân (tình hình giao thông, chất lượng môi

trường, ngập nước, y tế, giáo dục...)

Thông qua việc kết nối và cung cấp các thông tin dữ liệu theo thời gian

được cá nhân hóa cho người dân và doanh nghiệp (dữ liệu thống kê ngành nghề, thị

trường tiêu dùng, xuất nhập khẩu, hoạt động tài chính, chứng khoán...); Thông qua

các kênh kết nối phù hợp và thông qua việc cung cấp dữ liệu mở rộng rãi, chính

quyền tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp nêu ý kiến, phản

ánh các bức xúc, thực hiện vai trò giám sát của mình để cung cấp thông tin cho chính

9 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình bày tại Đại hội XII của Đảng, tr. 30 10 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình bày tại Đại hội XII của Đảng, tr. 22

quyền về các vấn đề như y tế, an toàn thực phẩm, môi trường... đối thoại với chính

38

quyền và tham gia trong suốt quá trình xây dựng và triển khai các chính sách, giải

pháp, dịch vụ.

1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây dựng

đô thị thông minh ở một số địa phương

1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hà Nội

Năm 1991, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XI đã xác định cơ cấu kinh

tế Hà Nội là công nghiệp - thương mại, du lịch, dịch vụ và nông nghiệp. Theo định

hướng đó, các ngành công nghiệp - thương mại ở Hà Nội được phát triển mạnh mẽ

và có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế thủ đô. Tốc độ tăng trưởng GDP bình

quân đầu người của Hà Nội trong giai đoạn 1991-1995 đạt 12,52%, giai đoạn 1996-

2000 đạt 10,38%. Từ năm 1991 đến năm 1999, GDP bình quân đầu người của Hà

Nội tăng từ 470 USD lên 915 USD, gấp 2,07 lần so với mức thu nhập bình quân đầu

người của cả nước. Theo số liệu năm 2000, GDP của Hà Nội chiếm 7,22% GDP của

cả nước và khoảng 41% GDP của toàn bộ vùng đồng bằng sông Hồng.

Tuy nhiên, nền kinh tế Hà Nội đã và đang bộc lộ nhiều nhược điểm, đặc

biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường và mất mỹ quan đô thị do phát triển công nghiệp

nằm ngay trong lòng thành phố. Hơn thế nữa, tốc độ tăng trưởng GDP những năm

cuối thập niên 1990 có xu hướng chậm lại. Chính vì thế, vào năm 2000, Đại hội

Đảng bộ thành phố lần thứ XIII vẫn xác định cơ cấu kinh tế như vậy nhưng nhấn

mạnh thêm là phát triển mạnh lực lượng sản xuất, để rồi từ đó sẽ chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp trong giai đoạn tiếp theo.

Hướng đi mới này thực sự đã “cởi trói” cho ngành dịch vụ phát triển.

Tại Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVI (tháng 11/2015)

đã đánh giá 5 năm 2011-2015, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích

39

cực: tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 54%, công nghiệp - xây dựng chiếm 41,5% và

nông nghiệp là 4,5%; các nhóm ngành đều có mức tăng trưởng khá.

Năm 2015, Hà Nội đã triển khai đề án xây dựng thành phố thông minh

hơn với trọng tâm là Chính quyền điện tử, hiệu quả trong quản lý điều hành, phát

triển giáo dục y tế, văn hóa, giao thông,... hướng đến hình thành và phát triển kinh tế

tri thức, đưa Thủ đô tham gia vào các diễn đàn thành phố thông minh trên thế giới.

Hiện nay, Thủ đô Hà Nội đang đẩy nhanh tiến trình xây dựng thành phố thông minh

mà trong đó, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, phấn đấu đến năm

2030 trở thành thành phố thông minh phát triển mạnh mẽ, hiện đại xứng tầm với các

đô thị lớn trong khu vực và thế giới.

Trong Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội đến năm

2030, UBND thành phố Hà Nội đã đặt ra mục tiêu: “Cơ cấu kinh tế của thủ đô năm

2020 sẽ là: Dịch vụ 61-62% GDP, công nghiệp và xây dựng là 35-36,5% GDP, nông

nghiệp 2,5-3% GDP. Đến năm 2030 Hà Nội sẽ là trung tâm sáng tạo hàng đầu của cả

nước với nhiều lĩnh vực đạt trình độ quốc tế. Không những thế, Hà Nội sẽ còn là

trung tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ và thương mại lớn nhất ở phía Bắc, thứ hai của

cả nước...” Với các mục tiêu đề ra như trên, có thể thấy phát triển kinh tế dịch vụ là

hướng đi chủ đạo của Hà Nội trong thời gian tới. Hướng đi này là đúng đắn, nó có

tác dụng kích thích kinh tế Hà Nội phát triển nhanh, bền vững hơn và nâng tầm vị

thế của Thủ đô so với các thành phố khác trong khu vực.

1.3.2. Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng

Một trong những hướng đi đột phá thời kỳ đầu để đẩy mạnh công nghiệp

hóa mà Đà Nẵng đã lựa chọn, là ưu tiên phát triển công nghiệp. Để đạt mục tiêu phát

triển kinh tế bền vững, ngay trong những năm tiếp theo, các nhà hoạch định chính

40

sách đã lựa chọn mô hình phát triển của một thành phố có môi trường thân thiện và

hiện đại, đưa Đà Nẵng phát triển theo một hướng đi mới, lấy ngành dịch vụ làm

chủ đạo. Giai đoạn 2005-2015 đánh dấu sự tăng trưởng mạnh của ngành Dịch vụ với

tốc độ tăng bình quân gần 20%/năm, cao hơn gấp hai lần so với giai đoạn 1997-

2005. Sự phát triển của ngành Dịch vụ không chỉ đóng góp cao trong cơ cấu GDP

mà còn tạo sự chuyển dịch lao động mạnh mẽ ra khỏi ngành nông nghiệp. Giai đoạn

này, lượng vốn đầu tư bắt đầu chảy vào ngành dịch vụ cao hơn so với các ngành còn

lại, với tỷ trọng 70% tổng lượng vốn đầu tư. Sự chuyển dịch trong nội bộ ngành

Thương mại, Vận tải, Thông tin liên lạc, Khách sạn, Tài chính... đang tạo ra giá trị

tăng thêm của ngành Dịch vụ, làm tăng tỷ trọng đóng góp của ngành trong cơ cấu

GDP thành phố.

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Đà Nẵng thời gian qua được các chuyên

gia kinh tế đánh giá như một quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng sức

cạnh tranh ở khu vực dịch vụ với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ước đạt

16%/năm. Kết quả này nhờ việc tập trung chuyển dịch sâu trong nội bộ ngành Dịch

vụ, trong đó lựa chọn du lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn. Trong năm 2017, tổng

lượt khách tham quan, du lịch đến Đà Nẵng đạt hơn 5 triệu lượt, tăng 22,7% so với

cùng kỳ năm 2016; Trong đó khách quốc tế đạt 1,7 triệu lượt, khách nội địa đạt 3,3

triệu lượt; Tổng thu du lịch đạt hơn 15 ngàn tỷ đồng, tăng 24,4% so với năm 2016.

Năm 2012, Đà Nẵng là đô thị đầu tiên của nước ta triển khai xây dựng

thành phố thông minh. Đà Nẵng khi đó được nhận tài trợ từ chương trình thành phố

thông minh hơn với tổng giá trị tài trợ trên 50 triệu USD, sử dụng giải pháp điều

hành trung tâm thông minh để đảm bảo chất lượng nguồn nước phục vụ người dân,

cung cấp giao thông công cộng tốt nhất và giảm thiểu ách tắc giao thông, song song

với đó là hoàn thiện mô hình Chính quyền điện tử.

41

Ngày 19/4/2018, UBND thành phố Đà Nẵng và Công ty Cổ phần FPT tổ

chức Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác về Xây dựng thành phố thông minh giai

đoạn 2018 – 2020. Theo đó, UBND thành phố và Công ty FPT sẽ hoàn thành xây

dựng Cổng thông tin Giao thông trực tuyến, Cổng thông tin về Nông nghiệp và nông

thôn nhằm giúp chính quyền và người dân kết nối thông tin minh bạch, nhanh chóng.

Giữ vững mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển đô thị hiện đại, Đà

Nẵng đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, để đến năm 2020 cơ bản hình thành

mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng tăng trưởng, nâng

cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế thành phố tiếp

tục chuyển dịch nhanh theo hướng “dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp”, để Đà

Nẵng sớm trở thành một trong những trung tâm dịch vụ lớn của cả nước, là cửa ngõ

giao thương với nước ngoài, có các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, tạo ra

giá trị gia tăng lớn để trở thành các ngành kinh tế chủ lực.

1.3.3. Một số bài học rút ra

Từ thực tiễn phát triển kinh tế xã hội và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

tế của các địa phương, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh

phải xuất phát từ đặc thù của mỗi địa phương.

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh

luôn được các địa phương coi là giải pháp hàng đầu và là con đường tất yếu để phát

triển kinh tế - xã hội. Do đó, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và xây dựng

đô thị thông minh phải được nhận thức đúng, tôn trọng và hành động theo quy luật

khách quan. Từ các chủ trương, định hướng của Đảng, chính quyền địa phương đã

quán triệt và vận dụng chỉ đạo vào thực tiễn phù hợp. Tăng cường huy động các

42

nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy

nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Nhìn chung, các địa phương đều giảm tỷ trọng ngành

nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng

công nghệ trong sản phẩm ở những giai đoạn tới; từng bước xây dựng lộ trình cụ thể

để xây dựng địa phương trở thành đô thị thông minh.

Hai là, lựa chọn một số ngành - sản phẩm mũi nhọn đóng vai trò “đầu

tàu” để phát triển

Thực hiện lựa chọn các ngành, các sản phẩm phù hợp với từng vùng, địa

phương và trong từng giai đoạn nhằm tạo ra các sản phẩm mũi nhọn, ngành mũi

nhọn, vùng mạnh đóng vai trò “đầu tàu” kéo theo sự phát triển của các sản phẩm,

ngành và địa phương khác trong vùng. Từ đó tạo được nguồn lực đủ lớn để xây dựng

và thực hiện Đề án xây dựng thành phố trở thành đô thị thông minh.

Ba là, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh:

Trước hết đó là việc xóa bỏ các rào cản, tạo điều kiện cho thị trường phát

triển. Đây có thể coi là vai trò quan trọng nhất của quản lý nhà nước đối với quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh. Tuy nhiên,

trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,

không phải chủ thể kinh tế nào cũng luôn có khả năng nắm bắt và hành động theo

các quy luật kinh tế thị trường. Trước hết, đó là khó khăn trong việc tiếp cận và khả

năng phân tích thông tin; sau đó là các điều kiện để thực hiện các quyết định kinh

doanh khi đã nắm chắc được cơ hội. Đây là lý do khách quan cần có vai trò của Nhà

nước trong việc định hướng, hỗ trợ, điều tiết các chủ thể kinh tế trong việc chuyển

43

dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh góp phần đảm bảo phát triển

kinh tế bền vững.”

“Vai trò thứ hai của Nhà nước là định hướng, hỗ trợ quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh: Định hướng bằng các chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Điều tiết, định hướng các hoạt động

của các chủ thể kinh tế thông qua chính sách thuế, chính sách khuyến khích, ưu đãi

đầu tư…”

“Hỗ trợ các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận thông tin, phân tích xu

hướng, nhu cầu của thị trường; trực tiếp hỗ trợ về vốn, dịch vụ khoa học, kỹ thuật,

xúc tiến thương mại, hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu…”

Trực tiếp hỗ trợ, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

thông qua đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế như hệ thống giao thông, thuỷ lợi,

cung cấp điện, nước sạch… là một điều kiện quan trọng hàng đầu để chuyển dịch cơ

cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh.

“Vai trò thứ ba của Nhà nước trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

gắn với xây dựng đô thị thông minh là kiểm soát, hạn chế những mặt trái của cơ chế

thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Như

Bốn là, chú trọng việc học hỏi kinh nghiệm của các thành phố lớn trên

thế giới và ở trong nước, áp dụng có hiệu quả vào tình hình thực tế từng địa

phương

Với đặc điểm riêng của từng vùng, mỗi thành phố sẽ lựa chọn những

thành tựu và học hỏi những kinh nghiệm của các thành phố lớn trên thế giới và trong

nước về xây dựng đô thị thông minh để áp dụng hiệu quả cho từng thành phố trên cơ

44

sở xây dựng được tiêu chí đánh giá cụ thể; triển khai theo lộ trình và giai đoạn phù

hợp; Cần tránh việc triển khai thực hiện ồ ạt, gây lãng phí lớn về đầu tư nhưng lại

không mang lại hiệu quả như mong đợi.

Kết luận chương 1

Từ việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành, về đô thị thông minh và các mô hình lý thuyết về chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là tất yếu khách quan,

là quá trình vận động theo những xu hướng mang tính quy luật chung và phụ thuộc

vào các điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng vùng và từng giai đoạn cụ thể nhất

định.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với xây dựng đô thị thông minh,

nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường không những là mục tiêu chiến

lược phát triển của không chỉ riêng Thành phố Hồ Chí Minh mà còn là hướng đi của

nhiều tỉnh, thành trên cả nước trong thời gian tới. Nhằm hạn chế rủi ro trong quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và xây dựng đô thị thông minh, cần vận dụng

lý luận và kinh nghiệm của các nước và địa phương đi trước để thực hiện có hiệu quả

đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với việc xây dựng đô thị thông minh

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm về quá trình thực hiện chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành và quá trình xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn một

số thành phố, luận văn đã nêu bật những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng để

Thành phố Hồ Chí Minh có thể vận dụng nhằm góp phần tạo ra một nền kinh tế tốt

hơn, nâng cao chất lượng sống cho người dân hơn nữa, quản lý và điều hành đô thị

45

tốt hơn, người dân được tham gia giám sát trong quá trình xây dựng và phát triển

Thành phố thông minh.

46

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH

TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH THEO ĐỊNH HƯỚNG

ĐÔ THỊ THÔNG MINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

-------

2.1 Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở TP. HCM

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Thành phố Hồ Chí Minh cách thủ đô Hà Nội gần 1.730km đường bộ, nằm

ở ngã tư quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Ðông sang Tây,

là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á. Đây là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh

trong vùng và là cửa ngõ quốc tế (Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh

Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -

Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang). Với tổng diện tích

hơn 2.095 km2, thành phố được phân chia thành 19 quận, 05 huyện với 322 phường -

xã. Theo kết quả tại thời điểm 1/4/2014, điều tra dân số của Việt Nam cho thấy dân

số Tp.HCM là 7,95 triệu người (chiếm khoảng hơn 8,5% dân số Việt Nam), mật độ

trung bình 3.795 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký

thì dân số thực tế của thành phố vào khoảng 10 triệu người.

Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, cũng như một số tỉnh Nam bộ khác

Thành phố Hồ Chí Minh không có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông rõ rệt, nhiệt độ cao

đều và mưa quanh năm (mùa khô ít mưa). Trong năm, thành phố Hồ Chí Minh có 2

mùa là biến thể của mùa hè: mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng

47

5 tới tháng 11 (khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao mưa nhiều), còn mùa khô từ tháng 12

tới tháng 4 năm sau (khí hậu khô mát, nhiệt độ cao vừa mưa ít).

Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, thành

phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng. Hệ thống sông,

kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu ảnh

hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông, thủy triều thâm nhập sâu đã gây nên

những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu

vực nội thành.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Trong hơn 40 năm qua, kinh tế TP. Hồ Chí Minh luôn duy trì tăng trưởng

ở mức cao. Nếu như giai đoạn trước đổi mới 1976 - 1985, tổng sản phẩm nội địa

(GDP) của Thành phố chỉ tăng bình quân 2,7%/năm thì giai đoạn 1991-2010, Thành

phố là một trong rất ít địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hai con số

trong suốt 20 năm (giai đoạn 1991 - 1995 tăng 12,6%; giai đoạn 1996 - 2000 tăng

10,1%; giai đoạn 2001 - 2005 tăng 11%; giai đoạn 2006 - 2010 tăng 11,4%). Từ năm

2011 đến nay, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu song Thành

phố cũng đạt mức tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 10%/năm, gấp 1,66 lần mức bình quân

chung của cả nước (5,8%). Kể từ Nghị quyết đầu tiên về phát triển Tp. Hồ Chí Minh

của Bộ Chính trị vào tháng 9/1982, đến nay GDP bình quân đầu người Thành phố đã

đạt mức hơn 5.500 USD và dự kiến đến năm 2020 sẽ đạt đến 9.800 USD.

Tỷ lệ thuận với đà tăng trưởng, quy mô nền kinh tế, tiềm lực và sự đóng

góp của Tp. Hồ Chí Minh cho cả nước ngày càng lớn. Ðến nay, Thành phố đã đóng

góp khoảng 1/3 giá trị sản xuất công nghiệp, 1/5 kim ngạch xuất khẩu, 30% trong

tổng thu ngân sách quốc gia.

48

Kinh tế tăng trưởng vượt bậc, tốc độ đô thị hóa cũng được đẩy mạnh,

không gian đô thị ngày càng rộng mở giúp Thành phố Hồ Chí Minh dần tạo được

vóc dáng riêng của mình trong một thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa. Sau

hơn 40 năm, Thành phố tự hào trở thành đô thị loại đặc biệt trực thuộc Trung ương

và là một trong những đô thị hấp dẫn, năng động nhất của Việt Nam. Nhiều công

trình trọng điểm vừa mang tính chất công trình hạ tầng giao thông vừa là điểm nhấn

trong kiến trúc cảnh quan của Thành phố đã và đang hoàn thành đưa vào sử dụng

như: cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, đường hầm sông Sài Gòn, các trục giao thông

quan trọng như đại lộ Nguyễn Văn Linh, đại lộ Võ Văn Kiệt, đại lộ Phạm Văn

Đồng… Ngoài ra còn phải kể đến những tuyến metro đầu tiên Bến Thành - Suối

Tiên, Bến Thành - Tham Lương đang được triển khai xây dựng, dự kiến đưa vào

khai thác năm 2020 và 2022. Cùng với hạ tầng giao thông đồng bộ, các khu đô thị

mới như: khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị Phú Mỹ Hưng, khu đô thị Tây Bắc, khu

đô thị cảng Hiệp Phước…cũng được đầu tư xây dựng, phát triển hiện đại, hài hòa với

tổ chức không gian của Thành phố. Ngoài ra, Thành phố còn có 11 dự án khu đô thị

mới quy mô từ 200 ha trở lên và 44 dự án khu dân cư, khu đô thị mới có quy mô nhỏ

hơn 200 ha, với tổng diện tích đất khoảng 23.370 ha. Các khu đô thị mới đã và đang

được quan tâm đầu tư phát triển, kỳ vọng sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng đời

sống nhân dân, tạo nên diện mạo mới cho không gian đô thị Thành phố và đóng góp

tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

Không chỉ dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế, Tp. Hồ Chí Minh còn

tiên phong đi đầu trong rất nhiều mô hình phát triển, thể hiện rõ nét sự năng động,

sáng tạo của con người nơi đây. Thành phố là địa phương tiên phong của cả nước

trong việc triển khai xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp; hình thành trung

tâm giao dịch chứng khoán, phát triển hệ thống ngân hàng cổ phần, quỹ đầu tư phát

triển đô thị; xây dựng các chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư của các thành phần

kinh tế để phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; xây dựng cơ chế thúc đẩy phát

49

triển mạnh các loại hình thị trường hàng hóa - dịch vụ, thị trường vốn, thị trường

chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học -

công nghệ… Những mô hình phát triển này không chỉ là bệ phóng cho những bước

đột phá mạnh mẽ của Thành phố trong hội nhập kinh tế quốc tế mà còn tạo động lực

cho quá trình đô thị hóa của các khu vực lân cận.

2.2. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa

bàn Tp.HCM theo đi ̣nh hướ ng đô thi ̣ thông minh

2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ba khu vực kinh tế

Để thuận tiện nghiên cứu, có thể chia ra các giai đoạn cụ thể như sau:”

Giai đoạn 2000 - 2010, tỷ trọng ngành Công nghiệp không có thay đổi

đáng kể (45.5% năm 2000 và đến năm 2010 là 45.3%); tỷ trọng ngành Dịch vụ trong

giai đoạn này có xu hướng tăng lên (52.6% năm 2000 và đến năm 2010 là 58.4%);

ngành Nông nghiệp giảm từ 2.0% năm 2000 xuống còn 1.1% năm 2010.

Các khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ phát triển là do các khu

chế xuất, khu công nghiệp và trung tâm thương mại mới được hình thành và phát

triển. Giai đoạn 2000-2005 khu vực công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh do đầu

tư phát triển nhiều khu chế xuất và khu công nghiệp trong giai đoạn này. Giai đoạn

2005-2010 khu vực dịch vụ giữ vai trò đầu tàu về tăng trưởng kinh tế của thành phố

do hình thành và phát triển các trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị (Xem Phụ

lục 1).

Giai đoạn 2010 - 2015, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tp.HCM giai đoạn

này theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ diễn ra nhanh hơn. Cơ cấu kinh tế

50

trên địa bàn thành phố giai đoạn 2010-2015 đã chuyển dịch tích cực theo hướng

giảm dần tỷ trọng GDP hai khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản và công

nghiệp - xây dựng, đồng thời tăng dần tỷ trọng GDP khu vực dịch vụ. Sự chuyển

dịch này đã đi đúng định hướng tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng bộ TP.HCM lần

thứ IX nhiệm kỳ 2011-2015. Trong đó, khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản

giảm từ 1,06% năm 2010 xuống còn 0,99% năm 2015; khu vực công nghiệp - xây

dựng giảm từ 42,96% năm 2010 xuống còn 39,57% năm 2015; khu vực dịch vụ tăng

từ 55,98% năm 2010 lên 59,44% năm 2015 (Xem phụ lục 2, 3, 4). Như vậy, tính đến

cuối năm 2015, cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố là dịch vụ; công nghiệp - xây

dựng; nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản.

Giai đoạn 2016 đến nay, Nghị quyết đại hội Đảng bộ TP.HCM lần thứ X

nhiệm kỳ 2015-2020 đã xác định chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa

trên địa bàn thành phố (GRDP) bình quân hàng năm từ 8% - 8,5% (tính theo GDP thì

tăng hơn 1,5 lần mức tăng trưởng GDP bình quân của cả nước), chuyển dịch cơ cấu

theo định hướng dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp; trong đó tỷ trọng

ngành dịch vụ trong GRDP đến năm 2020 chiếm từ 56% đến 58%.

Kết quả đạt được: Khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản giảm từ

0,84% năm 2016 xuống còn 0,81% năm 2017; khu vực công nghiệp - xây dựng giảm

từ 28,76% năm 2016 xuống còn 24,78% năm 2017; khu vực dịch vụ tăng từ 54,8%

năm 2016 lên 58,34% năm 2017 (tính theo giá thực tế - Xem Phụ lục 5). Như vậy,

tính đến cuối năm 2017, cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố đã dịch chuyển theo

đúng định hướng như tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X đề

ra.

Tăng trưởng kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trong hơn 40 năm qua đã

cho thấy tiềm năng và lợi thế lớn nhất của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là dịch vụ

51

và điều này được thể hiện ngày càng rõ nét trong những năm gần đây. Cụ thể, bình

quân giai đoạn 2011-2015 khu vực dịch vụ tăng 11,12%/năm; kế đến là khu vực

công nghiệp - xây dựng tăng 7,56%/năm và khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy

sản tăng 5,73%/năm (tính theo giá so sánh 2010).

Bảng 2.1: GDP trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chia theo khu vực kinh tế

giai đoạn 2011-2017 (tính theo giá so sánh 2010)

GDP (Tỷ đồng)

Tốc độ tăng trưởng (%/năm)

Trong đó

Trong đó

Tốc độ

Nông -

Năm

tăng

Công

Công

Tổng số

lâm -

Nông -lâm -

trưởng

nghiệp -

Dịch vụ

nghiệp -

Dịch vụ

thủy

thủy sản

chung

xây dựng

xây dựng

sản

510.785

5.175

214.336 291.273

10,25

5,61

7,70

12,30

2011

557.571

5.485

230.718 321.368

9,16

5,99

7,64

10,33

2012

609.350

5.792

247.679 355.879

9,29

5,60

7,35

10,74

2013

668.095

6.134

265.512 396.449

9,59

5,90

7,19

11,32

2014

733.922

6.489

286.939 440.494

9,85

5,79

8,07

12,30

2015

790.357

5.656

230.799 432.275

8,08

5,81

7,88

8,07

2016

842.376

5.696

203.411 494.867

8,25

6,35

7,84

8,23

2017

Nguồn: Xử lý số liệu từ Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh

Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng các ngành Dịch vụ, Công nghiệp, Nông nghiệp

qua các năm

52

Nguồn: Tổng hợp báo cáo tình hình KT-XH các năm của Cục Thống kê

2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế

Khu vực Thương mại - Dịch vụ

Sau 43 năm giải phóng (từ năm 1975-2018), nền kinh tế của thành phố Hồ

Chí Minh chủ yếu dựa vào hai khu vực công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, khu vực

dịch vụ đã được xác định là thế mạnh số một của thành phố Hồ Chí Minh.

Bảng 2.2. Cơ cấu GDP khu vực dịch vụ trên địa bàn TP.HCM

giai đoạn 2000 – 2017 (tính theo giá thực tế)

Ngành dịch vụ

2000

2005

2010

2015

2017

I. Giá trị

Tổng số (Tỷ đồng)

39.929

83.638

259.382

569.060

618.773

Chia theo ngành dịch vụ

53

1. Thương nghiệp bán buôn và

bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe

10.946

20.818

56.375

119.928

138.264

máy

2. Vận tải kho bãi

3.352

8.413

23.285

68.218

91.541

3. Dịch vụ lưu trú và ăn uống

4.703

8.301

14.654

31.020

30.362

4.Thông tin và truyền thông

3.340

8.301

23.105

48.218

43.495

5.Tài chính, ngân hàng và bảo

2.415

8.672

52.540

101.122

66.425

hiểm

6.Kinh doanh bất động sản

6.569

10.958

24.284

33.527

77.763

7. Hoạt động chuyên môn, khoa

236

497

19.686

57.917

47.424

học và công nghệ

8. Giáo dục – đào tạo

2.604

5.126

10.421

26.927

37.504

9. Y tế

2.007

5.436

13.673

33.845

26.825

II. Cơ cấu (%)

Chia theo ngành dịch vụ

1.Thương nghiệp bán buôn và

bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe

27,41

24,89

21,73

21,07

22,3

máy

2.Vận tải kho bãi

8,48

10,89

9,84

13,23

14,8

3.Dịch vụ lưu trú và ăn uống

11,78

9,92

5,65

5,45

4,9

4.Thông tin và truyền thông

8,28

9,09

8,04

7,23

7,0

5.Tài chính, ngân hàng và bảo

6,05

10,37

20,26

17,77

10,7

hiểm

6.Kinh doanh bất động sản

16,45

13,10

9,36

5,89

12,6

7. Hoạt động chuyên môn, khoa

0,59

0,59

7,59

10,18

7,7

học và công nghệ

54

8.Giáo dục – đào tạo

6,52

6,13

4,02

4,73

6,1

9.Y tế

5,03

6,50

5,27

5,95

4,3

Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM các năm 2000 – 2017

Về tỷ trọng các lĩnh vực trong ngành Dịch vụ, ba lĩnh vực chiếm tỷ trọng

lớn nhất đó là thương mại, tài chính ngân hàng và vận tải kho bãi. Trong đó, thương

mại là lĩnh vực có tỷ trọng cao nhất trong ngành Dịch vụ, các giai đoạn có tốc độ

tăng trưởng lần lượt là 12.6% giai đoạn 2000 – 2010; 8% giai đoạn 2010 – 2015;

năm 2017 là 13%. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đứng thứ hai, tốc độ tăng trưởng

23% năm 2011, -2.3% năm 2012, 8% trong năm 2015 và 6,3% năm 2017. Vận tải

kho bãi là ngành đứng thứ ba: năm 2011 có tốc độ tăng trưởng 13.2%, năm 2012 là

12% và năm 2015 - 2017 là 8.6% chiếm tỷ trọng 14.8%.

Năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 11,32%

(cùng kỳ tăng 9,1%). Thị trường bán lẻ thành phố đã phát triển mạnh mẽ với nhiều

kênh thương mại hiện đại ngày càng phổ biến (các hệ thống siêu thị, trung tâm

thương mại, cửa hàng tiện lợi cùng sự khởi sắc của thương mại điện tử…)

Hướng tăng trưởng trong nội ngành dịch vụ cho thấy, dịch vụ du lịch có

xu hướng tăng cao, tiếp đến là dịch vụ lưu trú, ăn uống và cuối cùng là thương mại

bán buôn, bán lẻ hàng hóa (xem Phụ lục 6)

Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng các lĩnh vực trong ngành Dịch vụ qua các năm

55

Nguồn: Tổng hợp báo cáo tình hình KT-XH các năm của Cục Thống kê

Về thành phần hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, xu hướng những năm

gần đây, doanh nghiệp nước ngoài (FDI) có tập trung đầu tư và mở rộng thị phần, cơ

sở vật chất kinh doanh thương mại, do vậy mức tăng cao; doanh nghiệp ngoài nhà

nước chiếm tỷ lệ cao trong thời gian 1996-2012, sau đó tăng chậm hơn so với khu

vực nước ngoài; doanh nghiệp nhà nước tăng chậm và giảm dần (xem Phụ lục 7).

Nhóm các ngành dịch vụ chủ yếu có mức tăng trưởng cao trong giai đoạn

2015-2017, cụ thể: GRDP ngành thương mại tăng bình quân 7,5%/năm, ngành vận

tải - kho bãi tăng 11,1%/năm, ngành thông tin truyền thông tăng 9,7%/năm, ngành

tài chính ngân hàng tăng 8,8%/năm, ngành chuyên, môn khoa học công nghệ tăng

6,8%/năm, ngành giáo dục đào tạo tăng 9,2%/năm, y tế tăng 7,4%/năm, ngành kinh

doanh bất động sản tăng 7,8%/năm, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống chỉ tăng

3,3%/năm. Xu hướng đóng góp trong GRDP cho thấy, nhóm dịch vụ về giáo dục, y

56

tế, văn hóa, xã hội có động thái tăng cao nhất; tiếp theo là dịch vụ ngân hàng, tài

chính, khoa học công nghệ; tiếp theo dịch vụ hạ tầng; còn dịch vụ thương mại, du

lịch có mức tăng chậm (xem Phụ lục 8)

Năm 2017, tỷ trọng GRDP các ngành dịch vụ chiếm 52,76% trong tổng

GRDP trên địa bàn thành phố (năm 2015 là 52,65%, năm 2016 là 52,58%). Chuyển

dịch nội bộ ngành trong khu vực dịch vụ có xu hướng tăng dần tỷ trọng các ngành

thông tin truyền thông từ 4,08% năm 2015 lên 4,1% năm 2017, giáo dục đào tạo từ

3,35% lên 3,54%, y tế từ 2,29% lên 2,53%, vận tải - kho bãi từ 8,48% năm 2015 lên

8,63% năm 2017... điều này cho thấy thông qua việc khuyến khích người dân, doanh

nghiệp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và xây dựng thành phố thông minh có sự

chuyển biến nhanh nhất ở các ngành thông tin truyền thông, giáo dục đào tạo, y tế và

vận tải – kho bãi, các ngành còn lại cần có lộ trình để phát huy hiệu quả đầu tư.

Kết quả của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành dịch

vụ như đánh giá phần trên có nguyên nhân là đầu tư cho ngành dịch vụ cũng theo

hướng mức đầu tư cho nhóm ngành dịch vụ về giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội tăng

cao; tiếp theo là đầu tư cho dịch vụ tài chính ngân hàng, khoa học công nghệ; dịch

vụ về hạ tầng, (xem Phụ lục biểu đồ 8)

Ngành thương mại

Thương mại là lĩnh vực có tỷ trọng cao nhất trong ngành dịch vụ, năm

2011 có tốc độ tăng trưởng 12,6% chiếm tỷ trọng 22%; năm 2012 có tốc độ tăng

trưởng 12,6% chiếm tỷ trọng 22,2%; năm 2013 tốc độ tăng trưởng 11,8% chiếm tỷ

trọng 22,1%.

Nhiều doanh nghiệp thương mại đã củng cố và phát triển hệ thống phân

phối, triển khai các loại hình bán buôn, bán lẻ mới theo hướng hiện đại và chuyên

57

nghiệp. Hệ thống phân phối hiện đại phát triển nhanh về số lượng, tính đến cuối năm

2017, thành phố có 207 siêu thị, 43 trung tâm thương mại, 1.100 cửa hàng tiện lợi.

Ngành du lịch

Thành phố thực hiện các giải pháp tích cực để xây dựng ngành du lịch là

một trong những ngành kinh tế mũi nhọn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả

nước. Chất lượng các sự kiện, lễ hội du lịch được nâng cao so với trước, có đổi mới

phương thức truyền thông quảng bá nên đã mang lại những kết quả tích cực, thu hút

được đông đảo sự quan tâm của truyền thông, du khách và người dân thành phố.

Năm 2017, khách quốc tế đến thành phố đạt 6.389.480 lượt khách, khách du lịch nội

địa đến thành phố đạt 24.982.800 lượt; Tổng doanh thu ngành du lịch (nhà hàng, lưu

trú, lữ hành) đạt 115.978 ngàn tỷ đồng.

Ngành vận tải – kho bãi

Giai đoạn 2010-2017, kết cấu hạ tầng trên địa bàn Thành phố đã phát triển

mạnh mẽ tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Thành phố nói chung và

thúc đẩy lĩnh vực vận tải kho bãi của Thành phố nói riêng phát triển.

Vận tải đường biển đạt tổng sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển năm

2017 là 105 triệu tấn; Hàng hóa thông qua các cảng, bến thủy nội địa đạt 28,085 triệu

tấn).

Về vận tải hành khách công cộng: Chỉ tiêu số lượt người tham gia vận tải

hành khách công cộng đạt 604,1 triệu lượt hành khách, tăng 6% so với năm 2016

và đạt 101% so với kế hoạch năm 2017 (600 triệu lượt hành khách).

Thông tin truyền thông

Là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất (2011 tăng trưởng 16,1%; năm

2012 tăng trưởng 26,8%; năm 2015 tăng trưởng 20%).

58

Lĩnh vực viễn thông – Internet: Người dân có xu hướng chuyển sang dùng

điện thoại di động với công nghệ 3G, 4G tốc độ cao, vừa tiện lợi vừa linh động trong

quá trình di chuyển.

Lĩnh vực bưu chính: Số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường tại thành

phố ngày càng gia tăng; các dịch vụ bưu chính được tăng cường chất lượng, mở rộng

các loại hình bưu chính, chuyển phát, trong đó phát triển mạnh dịch vụ bưu chính

gắn với các dịch vụ công phục vụ người dân.

Năm 2017, doanh thu lĩnh vực bưu chính - viễn thông đạt 35.305 tỷ đồng

(tăng 9% so với năm 2016), trong đó doanh thu bưu chính đạt 7.088 tỷ đồng (tăng

12% so với năm 2016) và doanh thu viễn thông đạt 28.217 tỷ đồng (tăng 8% so với

năm 2016).

Tài chính ngân hàng

Là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong ngành Dịch vụ nhưng tốc độ

tăng trưởng lại thấp thứ 2 trong ngành. Có nghịch lý như vậy là do những năm qua

hệ thống ngân hàng gặp nhiều khó khăn, hoạt động tín dụng tăng trưởng chậm và

thị trường bất động sản chưa phục hồi khả quan đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như hoạt động của lĩnh vực tài chính

ngân hàng.

Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng năm 2011 là 23% năm 2011, năm

2012 tăng trưởng -2.3% và năm 2015 là 8% đã cho thấy dấu hiệu phục hồi khả

quan của lĩnh vực này.”

Khoa học - công nghệ

Một số chỉ tiêu thể hiện sự đóng góp của yếu tố khoa học và công nghệ

vào tăng trưởng GDP như sau: Tỉ lệ ứng dụng các công trình nghiên cứu khoa học

vào thực tế bình quân năm: 34,18% (năm 2011) và 35% (năm 2015); Số đơn đăng ký

sáng chế: Năm 2011: 153, năm 2015: 200; Số bằng sáng chế được cấp trong năm

59

2011: 18, năm 2015: 50; Tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thực hiện đầu

tư đổi mới công nghệ thiết bị đạt 17,33% năm 2011, đến năm 2015 đạt bình quân

60%.

Giai đoạn 2015-2017, các loại hình dịch vụ khoa học công nghệ về hỗ trợ

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được phát triển mạnh với 24 tổ chức hỗ trợ khởi

nghiệp trên địa bàn thành phố, nổi bật là các Trung tâm ươm tạo tại các trường Đại

học Bách Khoa, Khu Công nghệ phần mềm - Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí

Minh, Khu Công nghệ cao, Khu Nông nghiệp Công nghệ cao, Trung tâm hỗ trợ

Thanh niên khởi nghiệp (BSSC), Công ty TNHH ươm tạo phần mềm Quang Trung,

Saigon Innovation Hub và Vietnam Silicon Valley.

Giáo dục đào tạo

Hiện nay, việc xã hội hóa dịch vụ công ở thành phố được tập trung thực

hiện trong lĩnh vực giáo dục với số lượng các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công

được thành lập ngày càng nhiều, từng bước khẳng định được chỗ đứng trong mạng

lưới dịch vụ ở thành phố như loại hình dịch vụ tư vấn du học, trung tâm ngoại ngữ,

thành lập các trường mầm non, phổ thông ngoài công lập ở các cấp học… Năm

2017, số trường ngoài công lập là 763 đơn vị.

Nhìn chung, qua phân tích sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành dịch

vụ như trên có thể thấy, trong cơ cấu giá trị sản xuất dịch vụ có sự chuyển biến theo

hướng tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, có lợi

thế cạnh tranh phục vụ nhiều hơn cho sản xuất kinh doanh. Đó là một sự chuyển dịch

đúng hướng.

Khu vực Công nghiệp

60

Thực trạng tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp của thành phố Hồ Chí

Minh từ năm 2000 đến nay đang có xu hướng chậm lại, thể hiện qua biểu đồ 2.3

dưới đây:

Biểu đồ 2.3: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp

Nguồn: Tổng hợp báo cáo tình hình Kinh tế - xã hội các năm của Cục thống kê

“Trong giai đoạn 2000 - 2005, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp

trên địa bàn tăng bình quân 15%/năm, chiếm tỉ trọng gần 30% so với công nghiệp cả

nước, đến giai đoạn 2006 - 2010 giá trị sản xuất là 12,6%/năm. Qua hai giai đoạn

này, công nghiệp thành phố mới đạt được sự thay đổi về số lượng và còn chậm thay

đổi về chất lượng. Những ngành có tỷ trọng lớn vẫn là những ngành thâm dụng lao

động; còn những ngành có hàm lượng chất xám cao (điện tử, công nghệ thông tin,

công nghệ sinh học, cơ khí chế tạo) tuy có tăng, nhưng tỷ trọng còn rất khiêm tốn

trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Trong giai đoạn 2011-2017,

tốc độ phát triển giá trị sản xuất khu vực công nghiệp bình quân tăng 7.7%/năm.”

61

“Nhìn chung, tốc độ phát triển của ngành Công nghiệp tăng nhanh từ năm

2000 đến 2007, nhưng từ năm 2008 đến những năm gần đây ngày càng có xu hướng

chậm lại. Về chuyển dịch nội bộ ngành Công nghiệp, chiếm tỷ trọng lớn trong ngành

Công nghiệp bao gồm các ngành công nghiệp trọng yếu 57.9% (năm 2015), trong

đó: dẫn đầu là Hóa dược, Cao su, Nhựa 19.1%, thứ hai là Cơ khí chế tạo 17.5%, Chế

biến lương thực thực phẩm 16.4% và Điện tử - Viễn thông - Tin học là 4.9%. Hai

ngành công nghiệp truyền thống là Dệt may và Giày da chiếm 18% tỷ trọng ngành

Công nghiệp. Sản xuất của bốn ngành công nghiệp trọng yếu: Điện - Điện tử, Cơ

khí, Hóa - Nhựa, Chế biến tinh lương thực - thực phẩm được tập trung đầu tư để phát

triển nhanh, ngày càng tăng trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành và có mức tăng

trưởng cao hơn mức bình quân chung của khu vực công nghiệp.”

“Theo báo cáo sơ kết Chương trình Hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

thành phố thì quy mô sản lượng sản xuất của ngành Điện tử - Công nghệ thông tin

chiếm khoảng trên 27%; chiếm tỷ trọng trên 39% đối với ngành Hóa chất và trên

45% đối với ngành Cao su, Nhựa so với cả nước. (Xem biểu đồ 2.4)

Từ Biểu đồ 2.4, có thể nhận thấy các ngành: Chế biến lương thực thực

phẩm, Dệt may và Giày da có tốc độ tăng trưởng ngày càng giảm đáng kể. Điều này

cho thấy những ngành sử dụng nhiều tài nguyên và thâm dụng lao động giảm dần và

chuyển dịch về các tỉnh lân cận. Tuy tốc độ tăng trưởng của ngành Chế biến lương

thực thực phẩm giảm mạnh từ 21.9% năm 2010 xuống 6.7% năm 2017 nhưng đây là

sự giảm dần đầu tư theo chiều rộng và tập trung đầu tư theo chiều sâu bằng cách đưa

công nghệ sản xuất mới, công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm tinh chế, chất

lượng cao và giá trị gia tăng lớn. Trong khi tỷ trọng các ngành thâm dụng lao động

và tài nguyên giảm dần thì tỷ trọng các ngành điện tử - công nghệ và hóa chất cũng

tăng trong những năm qua. Điều này chứng tỏ công nghiệp có hàm lượng tri thức,

62

công nghệ cao, lợi thế cạnh tranh có xu hướng tăng dần trong cơ cấu của ngành

Công nghiệp.”

Nguồn: Tổng hợp báo cáo tình hình Kinh tế - xã hội các năm của Cục thống kê

“Nhìn chung, tốc độ phát triển của ngành Công nghiệp có xu hướng ngày

càng giảm nhưng chuyển dịch nội bộ các ngành trong Công nghiệp lại cho thấy một

bước phát triển tốt để tập trung phát triển công nghiệp theo chiều sâu, tránh dàn trải

và ngày càng hiện đại, tạo giá trị gia tăng cao hơn.”

Đóng góp của ngành công nghiệp cho GRDP có xu hướng tăng, tuy nhiên

thời gian gần đây tốc độ có chậm lại (xem Phụ lục 10)

Giá trị của nội bộ ngành công nghiệp, đặc biệt bốn ngành trọng điểm của

thành phố có xu hướng tăng trưởng liên tục và cao, ngành hóa dược, cao su tăng cao

63

nhất, tiếp đến là ngành lương thực thực phẩm; hàng điện tử và cuối cùng là ngành cơ

khí (xem Phụ lục 11)

Năm 2017, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trên địa bàn thành phố tăng

7,9% nhờ các doanh nghiệp thành phố tiếp tục mở rộng thị trường, đầu tư đổi mới

thiết bị để nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong đó, 4

ngành công nghiệp trọng yếu (cơ khí chế tạo, điện tử, hóa chất - cao su - nhựa và chế

biến tinh lương thực thực phẩm) tăng 12,78% cao hơn mức tăng trưởng của toàn

ngành, chi tiết ngành cơ khí - chế tạo thành phố tăng 2,37%; điện tử - công nghệ

thông tin tăng 39,11%, công nghiệp hóa chất - nhựa - cao su tăng 3,35%; chế biến

tinh lương thực - thực phẩm tăng 3,89%, điều này chứng tỏ nhờ các chương trình

kích cầu đầu tư công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ của thành phố đã thúc đẩy các

doanh nghiệp đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ cao, tiên tiến ở các

ngành công nghiệp trọng yếu như điện tử - công nghệ thông tin và cơ khí chế tạo

máy.

Ngành điện tử - công nghệ thông tin

Năm 2017, chỉ số IIP tăng 39,11% (năm 2016 chỉ tăng 8,83%). Có hơn

260 doanh nghiệp tham gia sản xuất trên địa bàn, nhưng đây là ngành có mức tăng

trưởng cao trong năm 2017, tăng trên 30% nhờ việc tiếp thu, áp dụng công nghệ,

khoa học kỹ thuật ở trình độ tiên tiến trên thế giới.

Giai đoạn 2013-2016, Chương trình phát triển vi mạch của thành phố đã

thu hút các công ty lớn có vốn đầu tư nước ngoài vào thành phố như Intel, Samsung,

Nidec, Microchip… bước đầu tạo nên những nét chính của hệ sinh thái vi mạch, đặc

biệt trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực và thu hút đầu tư. Một số sản phẩm đầu

cuối đã được nghiên cứu và sản xuất thành công, đang triển khai đưa vào thị trường

tiêu thụ như: thiết bị đo điện tử, hộp đen gắn trên ôtô và xe máy, hệ thống giám sát

64

container… Năm 2017, thực hiện theo chủ trương của Thủ tướng Chính phủ, thành

phố tiếp tục triển khai xây dựng Chương trình phát triển công nghiệp vi mạch quốc

gia trên cơ sở Chương trình phát triển công nghiệp vi mạch thành phố.

Ngành chế biến lương thực, thực phẩm

Những năm gần đây, ngành chế biến lương thực, thực phẩm tăng trưởng

chậm dần. Năm 2017, chỉ số IIP tăng 3,89%, thấp hơn mức tăng năm 2016 (tăng

11,88%) do nhu cầu thị trường (đặc biệt là thị trường trong nước) không có nhiều

biến động lớn. Đây cũng là ngành hàng tiêu dùng thiết yếu đang phải cạnh tranh với

các mặt hàng nhập khẩu và chịu tác động của lộ trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối

với mặt hàng rượu bia (thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế VAT chiếm tới 35% giá bán, lộ

trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt từ mức 55% năm 2016, lên 60% năm 2017 và 65%

năm 2018).

Ngành hóa chất - nhựa - cao su

Năm 2017, chỉ số IIP tăng 3,35%, kể từ năm 2015 có xu hướng tăng chậm

và giảm dần (năm 2015 tăng 0,85%; năm 2016 giảm 0,58%) do di dời và hạn chế sản

phẩm gây ô nhiễm môi trường, nay sản xuất công nghiệp của nhóm ngành này đang

được bù đắp bởi nhu cầu nhập khẩu cao su của thị trường Trung Quốc (hiện chiếm

53,8% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cao su của các doanh nghiệp thành phố).

Ngành cơ khí chế tạo

Ngành cơ khí thành phố còn nhiều dư địa phát triển một số ngành sản xuất

như ngành ô tô còn nhiều tiềm năng phát triển với định hướng thị trường của

Mercedes (tập trung sản xuất tại Việt Nam để phân phối cho thị trường ASEAN),

cũng như việc gia nhập thị trường của Daehan Motors, Vĩnh Phát Motors,

SAMCO,… sẽ góp phần cho công nghiệp ô tô thành phố phát triển, từ đó kéo theo

65

các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ nói riêng và cơ khí nói chung cho ngành ô tô phát

triển. Năm 2017, chỉ số IIP tăng 2,37% (năm 2016 tăng 7,98%).

“Cùng với việc quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp trọng yếu, trợ

giúp các doanh nghiệp về năng lực quản lý, công nghệ, thành phố tiếp tục tập trung

đào tạo nguồn lao động có tay nghề cao và để giải quyết khó khăn về nguồn nhân

lực, thành phố đã xây dựng chương trình đào tạo nhân lực, nhất là đào tạo nguồn

nhân lực phục vụ phát triển bốn ngành công nghiệp trọng yếu.”

“Thực hiện chuyển đổi cơ cấu công nghiệp theo hướng bền vững, thành

phố Hồ Chí Minh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp sản xuất sản phẩm phụ

trợ, chủ động phát triển trung tâm và công nghệ phần mềm tập trung, xây các khu

công nghiệp kỹ thuật cao để hút các nhà đầu tư, nhất là các dự án đầu tư vào các

ngành công nghiệp trọng yếu. Một trong những điểm đáng chú ý là thời gian qua,

các dự án về cơ khí đã tập trung nhiều trang thiết bị, công nghệ mới, bảo vệ môi

trường, sử dụng công nghệ tiên tiến và ngày càng có nhiều các dự án lớn của các tập

đoàn lớn trên thế giới đầu tư.”

Có thể nói, việc tập trung phát triển các ngành công nghiệp trọng yếu của

Thành phố Hồ Chí Minh là hướng đi đúng, thành phố tiếp tục ưu tiên phát triển

những ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao, sử dụng những công nghệ

mới, hiện đại, hiệu quả kinh tế lớn, ít ô nhiễm môi trường để ngày càng nâng cao

năng lực cạnh tranh và đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của thành

phố trong thời gian tới.

Khu vực Nông nghiệp

Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015, tỷ trọng ngành Nông nghiệp

có xu hướng ngày càng giảm (từ 2.0% năm 2000 xuống 1.0% trong năm 2015; đạt

mục tiêu đề ra).”

66

Theo báo cáo của UBND Thành phố, giá trị sản xuất tăng bình quân

5,9%/năm trong 5 năm 2011-2015, cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch phát

triển ngành Nông nghiệp thành phố giai đoạn 2011 - 2015 (chỉ tiêu giá trị sản xuất

tăng bình quân 6%/năm). Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo

hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững.”

Tỷ trọng các ngành đến cuối năm 2015 so với năm 2011 như sau: Trồng

trọt từ 24.7% tăng lên 27.9%; Chăn nuôi giảm từ 46.9% còn 39.1%; Thủy sản từ

20.5% lên 25.8%; Lâm nghiệp từ 1.1 còn 0.9%.”

“Ngành Nông nghiệp của thành phố đang chuyển dần sang nông nghiệp

chất lượng cao, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh

học trong sản xuất các loại giống cây, giống con; chuyển dịch cơ cấu sang các loại

cây, con mới phù hợp với đặc thù của nông nghiệp đô thị, nông nghiệp sinh thái.

Ngành Trồng trọt đã chuyển dịch đúng hướng, giảm diện tích trồng lúa, tăng diện

tích các loại cây trồng đem lại giá trị gia tăng cao hơn trên một đơn vị diện tích như

trồng hoa, rau an toàn, cỏ chăn nuôi và cây công nghiệp hàng năm; ngành Chăn nuôi

cũng đang chuyển sang nuôi các loại vật nuôi có giá trị kinh tế cao.”

Thành phố tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp đô thị hiện

đại, hiệu quả, bền vững theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học,

trở thành trung tâm sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất, chất

lượng, giá trị gia tăng cao đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân, đã đẩy mạnh hoạt

động khuyến nông, chuyển giao các tiến bộ về giống và ứng dụng công nghệ cao,

công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng

và giá trị cao, đặc biệt đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất hoa lan; phát triển giống

cây, giống con chất lượng cao, cá cảnh, hoa - cây kiểng, bò thịt, nâng cao chất lượng

đàn bò sữa. Thông qua đó, tốc độ tăng trưởng GRDP khu vực nông nghiệp tăng bình

quân 5,9%/năm giai đoạn 2015- 2017 đạt so với kế hoạch đề ra là 5,8-6%/năm.

67

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng nông nghiệp

đô thị, giảm diện tích trồng lúa một vụ và diện tích trồng mía hiệu quả thấp sang các

loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện của thành phố

như hoa lan, mai, cây kiểng, bò thịt, cá cảnh, rau an toàn, chim yến…

2.2.3. Quá trình triển khai xây dựng đô thi ̣ thông minh ta ̣i Thành phố

Hồ Chí Minh

Ngày 26 tháng 11 năm 2017, Ủ y ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức công bố đề án “Xây dựng TP.HCM trở thành đô thị thông minh giai đoạn

2017-2020, tầm nhìn đến năm 2025”. Ngoài mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển

các lĩnh vực công nghệ cao, TP.HCM hướng đến hình thức quản trị đô thị hiệu quả

trên cơ sở các dự báo.

Bốn mục tiêu mà thành phố thông minh đặt ra là: Phát triển kinh tế cao và

bền vững, môi trường sống của người dân tốt, hạ tầng, chất lượng không khí tốt. Với

thành phố thông minh, bản thân người dân cũng phát huy tối đa quyền của mình

bằng cách tham gia giám sát chính quyền. Để thực hiện, 4 nhiệm vụ trọng tâm được

ưu tiên xây dựng gồm: kho dữ liệu dùng chung và phát triển hệ sinh thái dữ liệu mở.

Song song đó là xây dựng trung tâm nghiên cứu mô phỏng dự báo xây dựng chiến

lược phát triển kinh tế xã hội; trung tâm điều hành thông minh và trung tâm an toàn

thông tin.

Theo chính quyền thành phố, vận hành một đô thị lớn như TP. HCM đòi

hỏi việc phải có đầy đủ các thông tin đa chiều để điều phối xử lý, dự báo, hoạch định

chiến lược. Do đó, ưu tiên hàng đầu là phải xây dựng Kho dữ liệu dùng chung và

phát triển hệ sinh thái dữ liệu mở cho thành phố. Đây được cho là điều kiện tiên

quyết để triển khai thành công trung tâm điều hành thành phố thông minh - là nơi

khai thác tất cả các nguồn thông tin, dữ liệu hàng ngày của thành phố trên tất cả các

68

lĩnh vực giúp xử lý tình huống và giúp lãnh đạo các cấp điều hành một cách tổng thể.

Song song đó là xây dựng trung tâm nghiên cứu mô phỏng dự báo xây dựng chiến

lược phát triển kinh tế xã hội; trung tâm điều hành thông minh và trung tâm an toàn

thông tin.

Đề án đô thị thông minh hướng đến bốn chủ thể chính của đô thị gồm:

chính quyền, người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Đối với chính quyền,

thành phố thông minh sẽ đáp ứng nhu cầu dự báo phát triển chính xác hơn, và thông

qua xây dựng chính quyền điện tử, kết nối chia sẻ thông tin dữ liệu nhằm gia tăng

hiệu quả điều hành trên các lĩnh vực; Người dân sẽ được cung cấp các tiện ích hỗ trợ

để ra quyết định tối ưu. Việc tương tác giữa người dân với chính quyền sẽ dễ dàng;

đồng thời tham gia giám sát, quản lý và xây dựng thành phố; Doanh nghiệp sẽ có

môi trường minh bạch, đơn giản, thuận tiện hoạt động và được cung cấp nhiều thông

tin để có quyết định kinh doanh chính xác; Còn đối với các tổ chức xã hội, đô thị

thông minh tạo ra kết nối phản hồi thông tin để họ tham gia một cách hiệu quả vào

quá trình cung cấp các dịch vụ cho đô thị. người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã

hội.

Tiến trình thực hiện qua các giai đoa ̣n như sau:

Ngày 27 tháng 12 năm 2005, Ủ y ban nhân dân Thành phố ban hành

Quyết định số 6566/QĐ-UBND về duyệt Quy hoạch chi tiết Khu Trung tâm đô thị

mới Thủ Thiêm tỷ lệ 1/2000;

Ngày 21 tháng 7 tháng 2006, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành

Quyết định số 113/2006/QĐ-UBND về Kế hoạch triển khai Chương tình hành

động thực hiện Công trình xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm (giai đoạn 2006-

2010);

69

Ngày 19 tháng 6 năm 2012, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Quyết

định số 3165/QĐ-UBND về duyệt đồ án điều chỉnh cục bộ quy hoạch phân khu tỷ

lệ 1/2000 Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Quận 2;

Ngày 29 tháng 9 năm 2016, Ủy ban nhân dân Thành phố và Tập đoàn

Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) ký kết thỏa thuận hơ ̣p tác về "Tư vấn

Khung về công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong xây dựng và triển khai

Đề án Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành thành phố thông minh giai

đoạn 2017- 2025, tầm nhìn đến năm 2030";

Ngày 12 tháng 12 năm 2016, Văn phòng ủy ban nhân dân Thành phố ban

hành Thông báo số 863/TB-VP về nội dung chỉ đạo của Chủ tịch ủy ban nhân dân

thành phố Nguyễn Thành Phong về việc triển khai kết quả chuyến thăm và làm

việc tại Hoa Kỳ và Vương quốc Anh của Đoàn Đại biểu Thành phố, trong đó có

nêu “Giao Ban Quản lý đầu tư xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm phối hơ ̣p Sở

Quy hoạch - Kiên trúc, Sở Thông tin và Truyền thông, Tập đoàn Bưu chính Viễn

thông Việt Nam và các Sở ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất phương án triển

khai các hạng mục xây dựng thành phố thông minh tại Khu đô thị mới Thủ

Thiêm;

Ngày 19 tháng 6 năm 2017, Văn phòng ủy ban nhân dân Thành phố ban

hành Thông báo số 502/TB-VP về Nội dung kết luận của Chủ tịch ủy ban nhân

dân Thành phố Nguyễn Thành Phong tại cuộc họp Ban chỉ đạo Dự án đầu tư, xây

dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm”, trong đó “Giao Ban Quản lý Đầu tư Xây dựng

Khu đô thị mới Thủ Thiêm chủ trì, phối hơ ̣p với Sở Thông tin và Truyền thông và

Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) - Chi nhánh TP.HCM nghiên

cứu, đề xuất phương án bổ sung đồng bộ các hạng mục xây dựng, đảm bảo theo

định hướng Thành phố thông minh trong khu đô thị mới Thủ Thiêm”;

70

Ngày 23 tháng 11 năm 2017, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành

Quyết định số 6179/QĐ-UBND về phê duyệt Đề án "Xây dựng Thành phố Hồ Chí

Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến 2025" (viết

tắt là Đề án Thành phố Hồ Chí Minh).

Là khu đô thị mới đang trong quá trình hình thành và phát triển, Khu đô

thị mới Thủ Thiêm có lợi thế lớn để triển khai các giải pháp quản lý điều hành đô

thị một cách bài bản trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin ngay từ đầu. Lợi

thế này mang ý nghĩa hết sức quan trọng và là một trong những cơ sở cần thiết cho

việc xây dựng đô thị thông minh tại khu đô thị Thủ Thiêm. Thủ Thiêm sẽ có ưu thế

gần như lý tưởng so với một đô thị đã thành hình lâu đời như Thành phố Hồ Chí

Minh, nơi mà các ngành, lĩnh vực đã có một thời gian dài phát triển theo chiều dọc

và có sự độc lập rất cao - khiến việc gắn kết về dữ liệu và hoạt động phải mất nhiều

thời gian mới đạt đến độ chặt chẽ cần thiết để triển khai đô thị thông minh.

Tầm nhìn chủ yếu trong việc xây dựng đô thị thông minh tại Khu đô thị

mới Thủ Thiêm tập trung giải quyết 02 nhu cầu chính, đó là: Nâng cao chất lượng

sống cho nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng đô thị; Nâng

cao năng lực quản lý, dự báo và phục vụ nhân dân của chính quyền.

Để bám sát tầm nhìn và đồng bộ với các mục tiêu của Đề án triển khai xây

dựng đô thị thông minh tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đề án này đề xuất 02 mục tiêu

cho việc xây dựng đô thị thông minh tại Khu đô thị mới Thủ Thiêm như sau:

Mục tiêu 1: Công tác phục vụ nhân dân và công tác quản lý vận hành đô

thị mang tính liên thông kết nố i và chủ đô ̣ng cao dựa trên nền tảng công nghệ thông

tin và truyền thông (hạ tầng, dữ liệu và các giải pháp) được xây dựng bài bản.

71

Mục tiêu 2: Nhân dân hài lòng vớ i chất lượng sống tốt, tham gia tích cực

vào quá trình xây dựng và bảo vệ môi trường sống.

Đề án triển khai xây dựng đô thị thông minh tại Khu đô thị mới Thủ

Thiêm cũng sẽ được xây dựng theo từng bước, với quy mô thực hiện được xác định

theo kế hoạch ngân sách và được rà soát cập nhật thường xuyên để phù hợp với

định hướng phát triển của Đề án Thành phố Hồ Chí Minh cũng như nhu cầu của

người dân. Hiện nay, trong điều kiện Khu đô thị mới Thủ Thiêm vẫn còn đang hình

thành, thì các giải pháp triển khai thí điểm cũng mang tính nhỏ, gọn nhưng đảm

bảo khả năng mở rộng về sau.

2.3. Đánh giá chung

Từ năm 2000 đến nay, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức

tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu

giai đoạn 2007 - 2008 đã tác động bất lợi đến kinh tế cả nước nói chung và thành

phố nói riêng. Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về

những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo

đảm an sinh xã hội, tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội của thành phố đã đạt nhiều

thành tựu có ý nghĩa quan trọng, đúng hướng trên hầu hết các lĩnh vực, cụ thể như

sau: Kinh tế thành phố tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý; cơ cấu kinh tế

chuyển dịch đúng hướng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng đi vào chiều sâu, lạm phát

được kiểm soát, các nguồn lực xã hội được phát huy, các ngành, lĩnh vực, thị trường

phát triển ổn định. Đạt được kết quả như trên là do thành phố đã triển khai đồng bộ

các chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy các hoạt động đổi mới

sáng tạo, khuyến khích khởi nghiệp, nhờ đó chất lượng tăng trưởng kinh tế thành

72

phố đã từng bước chuyển biến theo hướng tích cực, môi trường kinh doanh ngày một

thuận lợi giúp doanh nghiệp yên tâm mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh, tạo thêm

nhiều việc làm mới, tăng quy mô và chất lượng nguồn lao động, kéo giảm tỉ lệ thất

nghiệp đô thị từ 4,4% cuối năm 2016 còn dưới 3,95% năm 2017 (đạt so với kế hoạch

là còn dưới 4%) góp phần đảm bảo an sinh xã hội thành phố. Ngoài ra chất lượng

nguồn nhân lực trong giáo dục nghề nghiệp được nâng cao thể hiện qua công tác

tuyển sinh nghề nghiệp, tỷ lệ lao động đang làm việc qua đào tạo và người thất

nghiệp được đào tạo nghề để quay trở lại thị trường lao động đều vượt kế hoạch đề

ra.

Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của

nền kinh tế đang được đẩy mạnh cùng với việc quyết liệt cải cách thủ tục hành chính,

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển,… đang tạo môi trường đầu tư thuận

lợi cho doanh nghiệp. Hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, làm tăng cơ hội tiếp cận

thị trường của hàng hóa Việt Nam.

Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp từng bước đạt được những kết quả nhất

định, góp phần cải thiện rõ rệt niềm tin của doanh nghiệp trong và ngoài nước vào

môi trường đầu tư kinh doanh của thành phố, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh

cấp tỉnh (PCI) của thành phố.

Thành phố đã phê duyệt và triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng Thành

phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến

năm 2025” cùng với việc thực hiện hoàn thiện xây dựng Chính phủ điện tử theo

Nghị quyết 36a của Chính phủ; thí điểm Chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung -

mô hình liên kết chuỗi công viên phần mềm đầu tiên được Thủ tướng Chính phủ

chấp thuận triển khai trong giai đoạn 2016-2020.

73

Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp được duy trì ổn định, liên kết và

củng cố thị trường tiêu thụ. Một số ngành công nghiệp phát huy được thế mạnh, đặc

biệt là các ngành công nghiệp trọng yếu. Cơ cấu các ngành công nghiệp và cơ cấu

xuất khẩu sản phẩm công nghiệp có sự dịch chuyển tích cực theo hướng công nghiệp

hóa. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, kim ngạch xuất khẩu

tăng cao, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế chung của thành phố.

2.3.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, Thành phố đã thể hiện được vai trò đầu tàu so với cả nước

trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiên tiến, hiện đại

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

trong thời gian qua đã có những tác động sâu sắc đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

cả nước. Vai trò đầu tàu của kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước trong

chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thể hiện thông qua yếu tố kinh tế Thành phố Hồ Chí

Minh chiếm tỷ trọng lớn đối với cả nước và có xu hướng gia tăng. Xét trong giai

đoạn 2000-2017, tỷ trọng GDP theo giá thực tế trên địa bàn thành phố tăng 4,15%

(từ 17,18% vào năm 2000 lên 21,33% vào năm 2017). Khu vực có tỷ trọng tăng cao

nhất là dịch vụ tăng 5,4% (từ 23,34% vào năm 2000 lên 28,74% vào năm 2017).

Thứ hai, kinh tế Thành phố đã chuyển dần từ phát triển theo chiều

rộng sang phát triển kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua có

những chuyển biến tích cực, kinh tế chuyển dần từ phát triển theo chiều rộng sang

phát triển kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu. Từ sau năm 1975 đến năm 2005

kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực

công nghiệp và xây dựng đồng thời giảm mạnh khu vực dịch vụ và nông nghiệp.

Đến năm 2005 khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng gần gấp đôi về mặt tỷ trọng so

74

với năm 1975 trong khi khu vực nông nghiệp giảm 6,34%. Sang giai đoạn 2010-

2017 đã chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng GDP hai khu vực nông

nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản và công nghiệp - xây dựng, đồng thời tăng dần tỷ

trọng GDP khu vực dịch vụ. Sự chuyển dịch này đã đi đúng định hướng tinh thần

Nghị quyết đại hội Đảng bộ TP.HCM các thời kỳ. Trong đó, khu vực nông nghiệp -

lâm nghiệp - thủy sản giảm từ 1,06% năm 2010 xuống còn 0,81% năm 2017; khu

vực công nghiệp - xây dựng giảm từ 42,96% năm 2010 xuống còn 24,78% năm

2017; khu vực dịch vụ tăng từ 55,98% năm 2010 lên 58,35% năm 2017 (tính theo

giá thực tế). Như vậy, tính đến cuối năm 2017, cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố

là Dịch vụ - Công nghiệp, xây dựng - Nông, lâm nghiệp, thủy sản. Giai đoạn 2018 -

2020, dự báo kinh tế thành phố và cả nước gặp nhiều thuận lợi; đồng thời các cơ chế,

chính sách đặc thù cho thành phố theo Nghị quyết 54 của Quốc hội được triển khai

hiệu quả; thành phố sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm tăng từ

8-8,5%, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Sự chuyển dịch cơ cấu GDP chia theo ngành kinh tế thời gian qua là đúng

hướng tập trung phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao và các ngành dịch

vụ cao cấp. Điều này thể hiện qua tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến và các ngành

dịch vụ như tài chính - ngân hàng, vận tải - kho bãi ngày càng tăng trong tổng GDP

trên địa bàn thành phố. Đây là nền tảng cơ bản để nền kinh tế thành phố nâng cao

chất lượng tăng trưởng và chuyển đổi nhanh chóng mô hình tăng trưởng từ chiều

rộng sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu.

Thứ ba, Thành phố đã xác định đúng các nhóm ngành công nghiệp và

dịch vụ trọng yếu cần tập trung đầu tư phát triển, hướng tới cuộc cách mạng 4.0

Thành phố chủ trương phát triển 4 nhóm ngành công nghiệp trọng

yếu gồm cơ khí chế tạo, điện tử - công nghệ thông tin, hóa dược - nhựa cao su, chế

75

biến tinh lương thực - thực phẩm và chú trọng 9 nhóm ngành dịch vụ cao cấp, bao

gồm: tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm; thương mại; vận tải, kho bãi, dịch

vụ cảng; bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông; kinh doanh

tài sản - bất động sản; dịch vụ tư vấn, khoa học - công nghệ; du lịch; y tế; giáo dục -

đào tạo chất lượng cao. Trong những năm qua các nhóm ngành dịch vụ này đã có

những bước phát triển quan trọng, đóng vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế của

thành phố, đặc biệt là các ngành tài chính - ngân hàng, thương mại, bưu chính viễn

thông và công nghệ thông tin truyền thông.

Thứ tư, Thành phố bước đầu đã triển khai thực hiện tốt Đề án “Xây

dựng đô thị thông minh tầm nhìn đến năm 2025”

Với mục tiêu là Thành phố Hồ Chí Minh sẽ phát triển kinh tế tương đối

cao, bền vững, trên nền tảng khai thác tốt nhất các nguồn lực, với người dân là trung

tâm của đô thị; và những tiêu chí cụ thể như: Xây dựng TP. HCM trở thành nơi có

chất lượng sống và môi trường làm việc tốt, đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế

hướng đến kinh tế tri thức; Xây dựng chính quyền điện tử, ứng dụng các mô hình dự

báo kinh tế; thí điểm Chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung - mô hình liên kết

chuỗi công viên phần mềm đầu tiên được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận triển khai

trong giai đoạn 2016-2020.

2.3.2. Một số hạn chế, tồn tại

(1) Chất lượng tăng trưởng dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của Thành phố

Mặc dù Tp.HCM đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hơn cùng kỳ các năm

trước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục

được cải thiện, công tác quy hoạch chỉnh trang và phát triển đô thị có sự chuyển biến

đáng kể, ứng dụng công nghệ trong thông tin quy hoạch mang lại nhiều tiện tích cho

76

người dân… Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của thành phố thì đến nay vẫn còn

nhiều khó khăn, thách thức mà thành phố phải đối mặt. Cụ thể là một số chỉ tiêu

thành phần về đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh chưa

đạt so với kế hoạch đề ra. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững,

năng lực cạnh tranh chưa cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu nội bộ các ngành

còn chậm. Chưa tạo sự đột phá trong việc thực hiện các chính sách, giải pháp hỗ trợ

chuyển dịch cơ cấu ngành.

Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ chỉ đạt 8,1%/năm (Kế hoạch tăng

bình quân hàng năm từ 9 - 9,6%). Công nghiệp phát triển chậm lại ở các ngành công

nghiệp trọng điểm, chưa có đột phá về phát triển hạ tầng đô thị, chưa có đột phá về

huy động vốn xã hội cho đầu tư; năng lực cạnh tranh chưa tương xứng vị trí, vai trò

và tiềm năng của thành phố; tỷ trọng các dịch vụ cao cấp, sản phẩm công nghiệp có

hàm lượng khoa học công nghệ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế.

Đóng góp nhiều nhất vào sự tăng trưởng kinh tế của thành phố trong

những năm qua vẫn là các ngành công nghiệp truyền thống, thâm dụng lao động và

tài nguyên thiên nhiên (như chế biến thực phẩm, dệt - may, giày- da, cao su – nhựa)

và các ngành dịch vụ giản đơn, có giá trị gia tăng thấp (như thương nghiệp, vận tải,

kho bãi, khách sạn, nhà hàng). Phần đóng góp của các ngành công nghiệp có hàm

lượng công nghệ cao (như cơ khí chế tạo, điện tử, phần mềm tin học, vật liệu mới,

công nghệ sinh học) và các ngành dịch vụ cao cấp có giá trị gia tăng cao như tài

chính, tín dụng là rất nhỏ bé.

(2) Cơ cấu các ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố chuyển

dịch chậm, kém hiệu quả và không rõ nét

77

Thực tế những năm qua cho thấy khu vực công nghiệp trên địa bàn

thành phố vẫn chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng, chưa thực sự phát triển theo

chiều sâu. Tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất trong ngành công nghiệp có

xu hướng giảm, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến. Điều này đã làm xói

mòn lợi thế cạnh tranh của các ngành công nghiệp thành phố.

Chiếm tỷ trọng cao nhất và liên tục trong nhiều năm qua vẫn là nhóm

ngành truyền thống, thâm dụng lao động và tài nguyên thiên nhiên, như: chế biến

lương thực thực phẩm, dệt may, da giày, hóa chất, cao su, nhựa, thuốc lá… Các

ngành công nghiệp được xác định là thế mạnh của thành phố có tỷ trọng còn quá

thấp và phát triển quá chậm. Các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao,

tuy được nhắc đến nhiều với những yêu cầu đòi hỏi phải phát triển đi trước một

bước, nhưng trên thực tế gần như vẫn giẫm chân tại chỗ, chưa thấy có sự chuyển

biến tích cực nào đáng kể.

Đóng góp nhiều nhất vào sự tăng trưởng của công nghiệp chế biến trên

địa bàn thành phố cũng là nhóm ngành truyền thống, có tỷ trọng cao. Một số

ngành như cơ khí, điện tử, thiết bị tin học, phương tiện truyền thông… tuy có tốc

độ tăng trưởng cao trong những năm gần đây nhưng vì chiếm tỷ trọng quá thấp

nên cũng không có tác động gì đáng kể đối với sự tăng trưởng chung.

Có thể dự báo trong tương lai, nhóm các ngành công nghiệp truyền

thống sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh và không duy trì được tốc độ tăng trưởng cao

như trước. Do đó, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp trên

địa bàn thành phố chắc chắn sẽ giảm sút.

Cơ cấu công nghiệp trên địa bàn thành phố cũng không có sự khác biệt

nhiều so với các địa phương khác. Giữa Tp.HCM và các địa phương khác cho đến

78

nay vẫn chưa có được một sự phối hợp và khoảng giao thoa nào. Thế mạnh của

từng địa phương, trong đó có TP.HCM vẫn chỉ ở dạng tiềm năng, chưa được khai

thác một cách triệt để. Các ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố vẫn chưa

thật sự phát huy được lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh của mình trong tổng

thể sự phát triển và hội nhập chung của cả nước.

(3) Tỷ trọng của khu vực thương mại – dịch vụ còn thấp, các ngành

dịch vụ thể hiện thế mạnh và vai trò trung tâm của thành phố chưa có sự

chuyển biến nào đáng kể.

Nhìn chung so với thời kỳ bao cấp, hoạt động dịch vụ trên địa bàn

thành phố đã có sự phát triển vượt bậc, tuy nhiên trình độ của các hoạt động này

còn ở mức thấp so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế, quy mô và chất lượng các

sản phẩm dịch vụ còn kém xa so với trình độ chung của khu vực và thế giới.

Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ, nhất là các loại dịch vụ cao cấp

hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, là mục tiêu chiến lược được thành phố đề ra

và thực hiện từ nhiều năm qua. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố nhiều lần

khẳng định “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố phải lấy việc phát triển thương

mại - dịch vụ làm trọng tâm”. Tuy nhiên kết quả thu được trên thực tế cho đến nay

dường như vẫn đi ngược lại sự mong đợi khi tỷ trọng của khu vực này trong giá trị

tổng sản phẩm nội địa (GDP) của thành phố liên tục giảm sút.

Các loại hình dịch vụ thể hiện thế mạnh và vai trò trung tâm của thành

phố chưa có sự thay đổi nào đáng kể. Các ngành dịch vụ hiện đại tuy có sự tăng

trưởng nhưng vẫn chưa phản ánh hết tiềm năng và thế mạnh của thành phố. Tỷ trọng

các nhóm ngành trên trong cơ cấu GDP của thành phố từ năm 1990 tới nay hầu như

ít có sự thay đổi.

79

Nhìn về tương lai, mục tiêu trở thành đô thị văn minh, hiện đại chỉ có

thể đạt được một cách vững chắc nếu thành phố có được một hệ thống các ngành

dịch vụ hiệu quả cao. Hơn thế nữa, chỉ với một hệ thống các ngành dịch vụ có chất

lượng và hiệu quả cao mới có thể nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế trong

thời đại kinh tế tri thức. Như vậy, hướng tới xây dựng khối các ngành dịch vụ có

chất lượng và hiệu quả cao phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến

lược phát triển của thành phố trong thời gian tới.

(4) Sự phát triển của kinh tế tri thức, kinh tế số còn nhiều hạn chế, bất

cập; môi trường sống, môi trường làm việc của người dân chưa thực sự được đảm

bảo

Phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay tập trung vào

việc phát triển những ngành có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao nhằm

nâng cao năng suất lao động, tăng trưởng GDP và bảo đảm quá trình phát triển bền

vững. Sự phát triển của kinh tế tri thức trên địa bàn Thành phố đã bước đầu định

hình trên một số lĩnh vực chủ yếu như: công nghệ thông tin và truyền thông; công

nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới; công nghệ năng lượng.Tuy nhiên, bên cạnh

những thuận lợi, vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức đối với phát triển kinh

tế tri thức, đó là:

Nền kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường tại TP.Hồ Chí Minh

nói riêng và ở nước ta nói chung còn nhiều yếu kém, bất cập: Hệ thống thể chế kinh

tế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo, không minh bạch,

và nhất là năng lực thực thi pháp luật còn yếu. Cải cách hành chính diễn ra chậm

chạp, khiến cho năng lực hỗ trợ của nền hành chính cho phát triển kinh tế bị hạn chế,

thậm chí trong nhiều trường hợp các thủ tục hành chính lạc hậu, rườm rà gây cản trở

cho phát triển kinh tế;

80

Các ngành công nghệ cao đang ở trình độ phát triển sơ khai. Số doanh

nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) nhằm tạo ra công nghệ mới là

không đáng kể. Đây chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thành

phố hiện chỉ có một số doanh nghiệp nhà nước có cơ sở hoạt động và nghiên cứu

phát triển công nghệ, nhưng lượng vốn đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp này

còn thấp so với nhu cầu đổi mới và phát triển;

Ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống kinh tế - xã hội còn rất hạn

chế. Mạng thông tin đa phương tiện tuy đã và đang được mở rộng khá nhanh, nhưng

chưa bao phủ rộng khắp, chưa kết nối được đến hầu hết các tổ chức và các hộ gia

đình… Các phương thức kinh doanh mới như thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ

chức ảo, doanh nghiệp ảo, làm việc từ xa… còn ở trình độ thấp.

Do vậy, Tp. Hồ Chí Minh cần sớm xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể cho

việc phát triển kinh tế tri thức dựa trên bốn trụ cột là: giáo dục, phát minh, sáng chế;

cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông; hệ thống thể chế chính sách kinh

tế. Các lĩnh vực công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao phải đủ mạnh, và bảo

đảm một thể chế, chính sách được thực thi có hiệu quả. Bên cạnh đó, thành phố cần

tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và kinh tế tri thức;

phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường,

tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững hơn.

2.3.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra

(1) Công tác quy hoạch – kế hoạch chưa thực sự khoa học, các

chương trình - mục tiêu phát triển ngành kinh tế chủ lực còn nhiều hạn chế

Trong một thời gian dài, thành phố hầu như không có được một quy

hoạch toàn diện, dài hạn về phát triển các ngành kinh tế nên đã xảy ra tình trạng

81

mạnh ngành nào ngành nấy phát triển. Các chương trình mục tiêu hỗ trợ chuyển

đổi cơ cấu kinh tế của thành phố còn rất mờ nhạt, triển khai chậm và tác dụng còn

rất hạn chế. Trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thiếu quy hoạch – kế hoạch nên có

sự hỗn tạp, trùng lắp, dẫm đạp lên nhau, trong khi đó thị trường lại bị bỏ ngỏ để

hàng ngoại nhập chiếm lĩnh…

Một số ít ngành - lĩnh vực bước đầu đã có qui hoạch phát triển thì lại

chưa có được những giải pháp cụ thể, sát thực nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh

đầu tư, đổi mới công nghệ, phát triển thị trường, nâng cao giá trị gia tăng các sản

phẩm… Trên thực tế có tình trạng: Chính quyền thành phố cứ hoạch định mục tiêu,

còn các ngành, các doanh nghiệp cứ làm ăn, phát triển tự phát. Nhiều sở ngành chỉ

quan tâm tới Doanh nghiệp Nhà nước thuộc ngành mình, còn vấn đề làm sao cho

các thành phần kinh tế khác phát triển được thì không mấy quan tâm… Sự bất cập

của bộ máy quản lý hành chính so với yêu cầu phát triển cũng là nhân tố làm hạn

chế sự phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

(2) Hệ thống cơ chế – chính sách thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu

kinh tế chưa cụ thể, đồng bộ, hiệu lực chưa cao

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí

Minh lần thứ VIII giai đoạn 2006 - 2010 xác định là 1 trong 5 chương trình trọng

tâm và được Đại hội Đảng bộ Thành phố khóa IX, khóa X tiếp tục xác định hỗ trợ

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế là một trong

những chương trình đột phá; Các mục tiêu nổi bật như: “Xây dựng thành phố Hồ Chí

Minh có chất lượng sống tốt” hay “Xây dựng Thành phố sớm trở thành một trong

những trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của khu

vực Đông - Nam Á”… đây là sự mạnh dạn đề ra mục tiêu phấn đấu đưa thành phố

Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ, xứng tầm với tiềm năng có được. Thành phố có đủ

82

điều kiện, cơ sở thực hiện các giải pháp hiệu quả trong thời gian tới để đạt được mục

tiêu này. Vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đã có có sự đổi mới về cơ chế, chính sách

và có chương trình hỗ trợ chuyển dịch đang được tích cực triển khai, góp phần thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố.

Tuy nhiên, các cơ chế, chính sách, biện pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu

kinh tế trong thời gian qua còn chưa theo kịp với chủ trương, định hướng, mục

tiêu đã đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Chẳng hạn, Thành phố

chưa có chính sách, giải pháp đột phá để hỗ trợ, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, chậm đầu tư công nghiệp hỗ trợ, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu

nhập khẩu; Một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp sau nhiều

năm không thoát khỏi tình trạng làm gia công cho nước ngoài... Bên cạnh đó, các

yếu tố tác động trực tiếp nhanh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, chuyển đổi

mô hình tăng trưởng kinh tế như sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, công

nghiệp công nghệ cao, phát triển hạ tầng... và sự đầu tư còn dàn trải gây lãng phí

và không tập trung. Các chính sách nhằm tạo động lực cho sự phát triển nhanh và

bền vững như chính sách tài chính - tín dụng, chính sách khuyến khích đầu tư

trong nước, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách quản lý và sử dụng

đất đai, chính sách đổi mới và nâng cao hiệu quả tác động của công nghệ,... tuy đã

nhiều lần được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đem lại tác dụng thiết thực.

Có thể nói cho đến nay thành phố vẫn chưa tạo dựng được một môi

trường đầu tư và kinh doanh thực sự thông thoáng. Các cơ chế thúc đẩy sự liên kết

- hợp tác giữa các ngành - doanh nghiệp, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trong cạnh

tranh, cơ chế phối hợp hoạt động giữa TP.HCM với các địa phương khác, cơ chế

liên kết – hội nhập trong và ngoài nước… hoặc chưa hình thành, hoặc chưa đem

lại hiệu quả như mong muốn.

83

Để kích thích sự tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, Thành phố

phải có được một hệ thống cơ chế – chính sách cụ thể, đồng bộ, có tính đột phá và

có hiệu lực cao. Chính sự thiếu đồng bộ và kém hiệu lực của hệ thống cơ chế -

chính sách này đã hạn chế rất nhiều khả năng huy động các nguồn lực trong và

ngoài nước, tạo ra những rào cản hữu hình và vô hình đối với sự phát triển và

chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn Tp.HCM.

(3) Chưa bảo đảm khai thác tốt và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực

Nguồn lực Vốn:

Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và chuyển đổi cơ cấu kinh tế hiệu quả,

thành phố cần huy động được một lượng vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu

tư trên địa bàn thành phố những năm qua còn nhiều hạn chế do tỷ lệ tích lũy / GDP

của thành phố còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước. Tổng vốn đầu tư dường

như có dấu hiệu chững lại về yếu tố tăng bình quân. Cụ thể, yếu tố tăng bình quân 5

năm 2011 - 2015 là 9% và 2 năm 2016 - 2017 là tăng 8%.

Để chuyển đổi cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và

dịch vụ có giá trị gia tăng cao thì vốn đầu tư cho các ngành này cũng phải tăng dần

cả về khối lượng và tỷ trọng. Hiện chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư trên địa bàn

thành phố vẫn là các ngành nghề - lĩnh vực truyền thống, trong khi vốn đầu tư cho

các lĩnh vực cần ưu tiên phát triển còn thấp.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là một trong những yếu tố

quan trọng hàng đầu thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, trong

những năm qua, FDI trên địa bàn thành phố còn manh mún, lại thường tập trung vào

những ngành nghề truyền thống, thâm dụng tài nguyên - lao động và hướng tới nhu

cầu tiêu dùng nội địa… nên hiệu quả chưa cao. Để thúc đẩy sự phát triển và hội

84

nhập, FDI phải được chuyển hướng, đầu tư mạnh vào các ngành áp dụng công nghệ

hiện đại, có giá trị gia tăng cao và hướng vào xuất khẩu.

Nguồn nhân lực:

Trong những năm qua Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng trong

việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đã đạt được những kết quả khả quan bước

đầu trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy vậy, nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất

lượng cao vẫn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của

thành phố; Việc lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành chính sách, tổ chức thực hiện các

chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chính sách thu hút, trọng dụng

nhân tài, đào tạo đội ngũ chuyên gia, lao động kỹ thuật cao còn ít; chính sách và

công tác tổ chức đào tạo nghề chưa theo kịp yêu cầu nâng cao năng suất lao động,

chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước, cải cách

hành chính có hiệu quả; đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề còn ít.

Thực trạng thị trường lao động những năm gần đây tại thành phố luôn

diễn biến tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ nghề chuyên

môn lành nghề; cho thấy tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động chất lượng cao

trong các ngành kỹ thuật, quản lý sản xuất – kinh doanh. Một trong những khó khăn

hiện nay là thành phố có khoảng hơn 300 cơ sở đào tạo, dạy nghề nhưng chất lượng

đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp, nhiều doanh nghiệp thiếu lao

động có trình độ kỹ thuật, gây khó khăn cho phát triển công nghiệp nhất là các ngành

công nghiệp có hàm lượng chất xám cao.

Nguồn lực Khoa học – công nghệ

85

Quá trình đẩy mạnh các hoạt động khoa học - công nghệ, đổi mới thiết bị

công nghệ, tập trung hiện đại hóa trang bị và công nghệ trong các ngành kinh tế nói

chung và lĩnh vực công nghiệp nói riêng còn có những hạn chế, làm giảm tốc độ

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chẳng hạn như trong lĩnh vực công nghiệp, trình độ

công nghệ của đa số các doanh nghiệp chỉ đạt mức trung bình; tốc độ đổi mới công

nghệ của các doanh nghiệp diễn ra chậm. Tỷ lệ doanh nghiệp có trình độ công nghệ

ở mức yếu chiếm tới 60-70%. Ngoài ra, chỉ có 29% dây chuyền sản xuất hoàn toàn

đồng bộ, số còn lại là tương đối và không đồng bộ, thậm chí chắp vá. Hơn nữa, phần

lớn công nghệ sản xuất của doanh nghiệp có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc, Hàn

Quốc, Ấn Độ… chiếm tới 79% nên chất lượng sản phẩm không cao. Thiết bị nhập từ

Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản chỉ chiếm khoảng 18%. Đối với doanh nghiệp ngoài Khu

Chế xuất, Khu Công nghiệp, có đến 60% doanh nghiệp đầu tư thiết bị đã qua sử

dụng;

Thành phố chưa có nhiều doanh nghiệp tích cực đổi mới công nghệ. Hơn

nữa, đổi mới công nghệ hiện nay chủ yếu mang tính cải tiến, rất ít doanh nghiệp phát

triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ hoàn toàn mới trên thị trường. Đa phần doanh

nghiệp chưa đầu tư nhiều vào bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D). Thay vào đó,

khi có ý tưởng mới về sản phẩm, doanh nghiệp sẽ đặt hàng thiết kế, sản xuất với đối

tác cung ứng.

(4) Công tác quản lý đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị chưa

đáp ứng nhu cầu

Quy hoạch và quản lý đô thị thời gian qua trên địa bàn thành phố chủ yếu

được thực hiện dựa vào các nguyên tắc thiết kế tĩnh, thiếu linh hoạt theo hướng thị

trường. Trong khi đó, đô thị ngày càng khẳng định vai trò động lực then chốt trong

nền kinh tế, do đó cần cải cách công nghệ và quy trình lập quy hoạch xây dựng đô

86

thị theo hướng chuyển từ quy hoạch tĩnh sang quy hoạch động, với cách tiếp cận đa

ngành mà Quy hoạch chiến lược là một ví dụ.

Trên thực tế, quy hoạch và quản lý đô thị, đặc biệt là phân vùng đô thị,

nhiều vấn đề đặt ra rất cần được nghiên cứu kỹ. Chẳng hạn như việc mở rộng quá

mức không gian đô thị, mâu thuẫn giữa quy mô và chất lượng đô thị, đảm bảo đô thị

phát triển bền vững... Vấn đề ô nhiễm môi trường do ảnh hưởng từ công tác quy

hoạch và việc điều chỉnh quy hoạch của Tp.HCM chưa phù hợp, đã tạo ra những khó

khăn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Có thể ví dụ điển hình như

việc quy hoạch các cụm công nghiệp (CCN) để đưa các cơ sở sản xuất về một mối,

nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường và xây dựng nền công nghiệp tập trung. Thế

nhưng, việc này thực chất là đưa ô nhiễm từ nơi này qua nơi khác. Tại địa bàn quận

12 có CCN Tân Thới Nhất và CCN Quang Trung. Theo quy hoạch, CCN Tân Thới

Nhất rộng 50ha, tập trung các nhà máy, cơ sở sản xuất thuộc ngành nghề dệt, cơ khí.

Đến nay CCN Tân Thới Nhất đã có 150 nhà máy, cơ sở sản xuất đi vào hoạt động

nhưng không tập trung, mà nằm đan xen trong khu dân cư; hàng ngày khói bụi, chất

thải tác động đến cuộc sống cả một vùng dân cư đông đúc; Còn CCN Quang Trung

có diện tích 50ha với hơn 30 nhà máy, cơ sở sản xuất đang hoạt động, gây ô nhiễm

nặng cho các khu dân cư nằm xen kẽ trong CCN. Tình trạng kẹt xe, giao thông quá

tải tại nhiều khu vực thường xuyên xảy ra, chưa khắc phục được: Khu vực phía

Đông Thành phố bao gồm các quận 2, 9, Thủ Đức đến thời điểm này hầu như chỉ

phát triển các dự án bất động sản và nhà ở, còn các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giải

trí được xây dựng mới rất ít. Xa lộ Hà Nội, cầu Sài Gòn - tuyến giao thông huyết

mạch nối các quận với trung tâm thành phố luôn trong tình trạng quá tải. Vấn đề quy

hoạch, quản lý đô thị tại Khu đô thị mới Thủ Thiêm thời gian vừa qua cũng đã gây ra

dư luận bức xúc, cản trở không nhỏ đến việc thực hiện Đề án xây dựng đô thị thông

minh thí điểm tại khu đô thị này (Quy hoạch khu Đô thị Thủ Thiêm là quy hoạch có

87

tầm nhìn lâu dài, mục tiêu của quy hoạch là xây dựng Thủ Thiêm trở thành trung tâm

tài chính, thương mại chứ không phải quy hoạch để xây dựng nhà ở thương mại như

bây giờ)

Kết luận chương 2

Qua phân tích các điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cũng như phân tích về thực trạng chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành của Tp.HCM giai đoạn từ năm 2000 đến nay, chúng ta đã có thể

nhận thấy Thành phố Hồ Chí Minh đã thể hiện được vai trò đầu tàu kinh tế so với cả

nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nền kinh tế đã chuyển dần từ phát triển theo

chiều rộng sang phát triển theo hình thức kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; Sự

chuyển dịch cơ cấu GDP chia theo ngành kinh tế thời gian qua đã đi đúng hướng tập

trung phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao và các ngành dịch vụ cao cấp;

thành phố đã xác định được 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu và 9 nhóm ngành

dịch vụ cần tập trung đầu tư phát triển; Đặc biệt, Thành phố đã phê duyệt và triển

khai thực hiện Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông

minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025” với việc đảm bảo tốc độ tăng

trưởng kinh tế hướng đến kinh tế tri thức sẽ góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo đúng định hướng, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững.

Trên cơ sở đánh giá những mặt đạt được, chúng ta cũng đã nhận thấy những

hạn chế còn tồn tại như: Chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, môi

trường sống chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đặt ra của thành phố; Chưa bảo đảm

khai thác tốt và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực; Quy hoạch, quản lý đô thị và

phát triển kết cấu hạ tầng đô thị còn nhiều bất cập cần khắc phục.

88

Từ những hạn chế còn tồn tại cũng như xác định đúng nguyên nhân của

những vấn đề đặt ra như vậy sẽ là cơ sở cho những khuyến nghị giải pháp góp phần

thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn Thành phố đi đúng

định hướng, góp phần thực hiện được những mục tiêu đặt ra, phấn đấu đưa thành phố

Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ, xứng tầm với tiềm năng có được.

89

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH GẮN VỚI VIỆC

XÂY DỰNG TP.HCM TRỞ THÀNH ĐÔ THỊ THÔNG MINH ĐẾN NĂM 2025

-------

3.1. Những quan điểm cơ bản

3.1.1. Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Trên cơ sở Đề án “Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị

thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025”, có thể xác định một số

quan điểm cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố như sau:

(1) Chuyển dịch cơ cấu ngành trên địa bàn Tp.HCM phải hướng tới

mục tiêu phát triển kinh tế cao và bền vững

Để thực hiện được quan điểm phát triển này, Thành phố Hồ Chí Minh cần

xây dựng các chỉ tiêu chủ yếu phải thực hiện, bao gồm:

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn thành phố

(GRDP) bình quân hằng năm từ 8% - 8,5% (tính theo GDP thì tăng hơn 1,5 lần mức

tăng trưởng GDP bình quân của cả nước), chuyển dịch cơ cấu theo định hướng dịch

vụ, công nghiệp - xây dựng, nông - lâm nghiệp và thủy sản; trong đó tỷ trọng của

dịch vụ trong GRDP đến năm 2020 chiếm từ 56% đến 58%.

Thứ hai, tỷ trọng đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp

(TFP) vào GRDP bình quân hằng năm từ 35% trở lên.

90

Thứ ba, các yếu tố như: Tổng vốn đầu tư xã hội chiếm bình quân khoảng

30% GRDP; Đến năm 2025, GRDP bình quân đầu người đạt 10.000 USD, tỷ lệ lao

động đang làm việc đã qua đào tạo nghề đạt 85% trong tổng lao động làm việc, tỷ lệ

thất nghiệp đô thị dưới 4,5%.

Thứ tư, về năng lực quản lý của bộ máy chính quyền, cần phấn đấu đưa

thành phố trở thành một trong nhóm 5 địa phương dẫn đầu cả nước về xếp hạng chỉ

số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), chỉ số năng lực cạnh tranh

cấp tỉnh (PCI), chỉ số cải cách hành chính (PAR-index).

(2) Chuyển dịch cơ cấu ngành trên địa bàn Tp.HCM phải hướng tới

việc xây dựng thành phố sớm trở thành một trong những trung tâm lớn về kinh tế,

tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ của khu vực Đông - Nam Á.

Với việc mạnh dạn đề ra mục tiêu phấn đấu “Sớm xây dựng Thành phố

Hồ Chí Minh trở thành một trong những trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương

mại, khoa học - công nghệ của khu vực Đông - Nam Á”, có thể nhận thấy thành phố

có đủ điều kiện, cơ sở thực hiện các giải pháp hiệu quả trong thời gian tới để đạt

được mục tiêu này góp phần xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ,

xứng tầm với tiềm năng có được.

(3) Chuyển dịch cơ cấu ngành trên địa bàn Tp.HCM phải hướng tới

việc xây dựng thành phố có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình

Với việc xác định quan điểm phát triển như vậy, hệ thống các chỉ tiêu và

các giải pháp chủ yếu của Thành phố cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng đời

sống cho Nhân dân, cụ thể như: Đến năm 2025, đảm bảo nước sạch cho 100% hộ

dân, diện tích nhà ở bình quân đầu người đạt 20 m2/người, đạt 300 phòng học/10.000

dân trong độ tuổi đi học (từ 3 tuổi đến 18 tuổi), đạt tỷ lệ 20 bác sĩ/10.000 dân, 42

91

giường bệnh đạt chuẩn quốc gia/10.000 dân và xử lý chất thải y tế cũng như nước

thải công nghiệp đạt 100%.

(4) Chuyển dịch cơ cấu ngành trên địa bàn Tp.HCM phải hướng tới

những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để hoàn thành các chương trình đột phá

Các chương trình đột phá gồm có: (1) Chương trình nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực; (2) Chương trình cải cách hành chính; (3) Chương trình nâng cao

chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố; (4) Chương trình

giảm ùn tắc giao thông, giảm tai nạn giao thông; (5) Chương trình giảm ngập nước,

ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; (6) Chương trình giảm ô nhiễm môi

trường; (7) Chương trình chỉnh trang và phát triển đô thị.

Với tình hình thực tiễn của sự phát triển thành phố Hồ Chí Minh, việc đề

ra chương trình đột phá này rất cần thiết và cũng có nhiều cơ sở, điều kiện để thực

hiện các giải pháp để đạt được thành công chương trình. Tập trung hoàn thành việc

di dời, tái bố trí toàn bộ nhà ở trên và ven kênh rạch, nâng cấp các khu phố có nhiều

nhà lụp xụp, xây dựng mới các chung cư xuống cấp gắn với chỉnh trang đô thị, tạo

thêm quỹ đất dành cho giao thông và công trình công cộng. Đồng thời quy hoạch,

xây dựng, phát triển các đô thị vệ tinh đồng bộ, văn minh, hiện đại; qua đó, tổ chức

lại cuộc sống của dân cư, cải thiện điều kiện sống, tăng mức độ tiếp cận của Nhân

dân với các dịch vụ công; tăng diện tích mảng xanh và cây xanh, tạo môi trường

sống tốt hơn, hợp lý, hài hòa với không gian kiến trúc, cảnh quan xung quanh; phù

hợp với sự phát triển chung của đô thị đặc biệt. Phối hợp với các bộ, ngành Trung

ương và các địa phương liên quan tập trung xây dựng hệ thống giao thông công cộng

có sức chở lớn, đường sắt đô thị, phát triển đường vành đai, đường trên cao, đường

cao tốc, luồng tàu đường biển, đường sông.”

92

Thành phố cần xác định rõ nhiệm vụ trong thời gian tới là:

Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển kinh tế tri

thức và tăng trưởng xanh, nâng cao chất lượng tăng trưởng và nâng cao năng lực

cạnh tranh;

Triển khai có hiệu quả các giải pháp bình ổn thị trường; khuyến khích, tạo

điều kiện để các thành phần kinh tế trong nước chiếm lĩnh thị trường bán lẻ;

Phát triển sản phẩm tài chính, định chế tài chính và thị trường tài chính.

Hiện đại hóa hệ thống thanh toán, hướng đến áp dụng hệ thống thanh toán không

dùng tiền mặt, nhanh chóng sử dụng phổ biến, an toàn các loại thẻ thanh toán điện tử

trong giao dịch. Phát triển mạnh, vững chắc hệ thống tài chính phi ngân hàng như thị

trường chứng khoán, các loại quỹ đầu tư, tổ chức bảo hiểm;

Tập trung đầu tư xuất khẩu sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và chiếm tỷ

trọng lớn trên thị trường, chủ động tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; đa dạng hóa sản

phẩm và chú trọng phát triển thị trường xuất khẩu;

Hoàn thiện chính sách để thu hút nguồn lực xã hội, đặc biệt là tài chính

doanh nghiệp; đầu tư phát triển khoa học - công nghệ, khuyến khích đầu tư xã hội,

tăng đầu tư công để nâng chất lượng, hiệu quả các chương trình khoa học - công

nghệ trọng điểm; Có chính sách thu hút đầu tư hiện đại hóa ngành xây dựng, sử dụng

vật liệu mới, tiết kiệm năng lượng, ứng dụng phổ biến công nghệ xây dựng hiện đại;

Liên kết xây dựng và phát triển dịch vụ du lịch đạt hiệu quả, ngang tầm

khu vực Đông Nam Á. Tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch vào các thị trường

trọng điểm, gắn với mở rộng hợp tác liên kết và kêu gọi đầu tư, đào tạo nguồn nhân

lực chất lượng cao;

93

Tiếp tục tập trung phát triển các ngành công nghiệp trọng yếu trên cơ sở

xác định chiến lược phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ gắn với doanh nghiệp sản

xuất vừa và nhỏ.”

3.1.2. Quan điểm xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị

thông minh

(1) Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh

trên cơ sở phát triển kinh tế cao, bền vững

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn

bình quân hàng năm cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước. Tăng

trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển,

gắn với bảo vệ môi trường, tiến tới phát triển bền vững và phát triển kinh tế tri thức,

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phấn đấu tổng sản phẩm nội

địa (GDP) bình quân đầu người vào năm 2025 đạt khoảng 10.000 USD.

Tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ môi trường, chủ động ứng

phó biến đổi khí hậu; gắn liền với trách nhiệm của cộng đồng dân cư và doanh

nghiệp trong công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường; sử dụng hợp lý, có hiệu quả

các nguồn tài nguyên thiên nhiên; khắc phục và ngăn chặn có hiệu quả tình trạng ô

nhiễm môi trường; xử lý tốt chất thải rắn, nước thải và khí thải.

(2) Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh trên

cơ sở khai thác tốt nhất mọi nguồn lực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Ðể có nền tảng xây dựng thành phố thông minh, trước mắt, TP Hồ Chí

Minh sẽ xây dựng một khu đô thị sáng tạo tại phía đông thành phố (gồm ba quận:

Quận 2, 9, Thủ Ðức). Ý tưởng này được đặt ra trên nền tảng về thể chế, lợi thế kinh

tế, cơ sở hạ tầng mà thành phố đã có với khu công nghệ cao (quận 9); làng Ðại học

Quốc gia hơn 80 nghìn sinh viên, giảng viên (quận Thủ Ðức); khu đô thị mới, trung

tâm tài chính Thủ Thiêm (quận 2). Quận 9 hiện có khu công nghệ cao lớn thứ nhì cả

94

nước với hơn 700 ha, 35 nghìn lao động, sáu tỷ USD vốn đầu tư; còn Thủ Ðức với

12 trường đại học, trung tâm Ðại học Quốc gia. Hai quận này tạo nên hai cực công

nghệ và trí tuệ cao, kết hợp với trung tâm hành chính ở quận 2 sẽ trở thành khu đô

thị sáng tạo tương tác cao và đây cũng sẽ là trung tâm để các doanh nghiệp khởi

nghiệp sáng tạo.

Một thuận lợi nữa để TP Hồ Chí Minh tự tin xây dựng thành công khu đô

thị sáng tạo là Nghị quyết 54 của Quốc hội đã cho phép Tp. Hồ Chí Minh được quyết

định chủ trương đầu tư đối với những dự án nhóm A có sử dụng vốn ngân sách thành

phố. Ðây là một tiền đề rất quan trọng để thành phố đẩy nhanh tiến độ thực hiện các

dự án, giảm thiểu chi phí đầu tư, thu hút sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp

trong và ngoài nước vào công cuộc xây dựng, kiến thiết thành phố…

(3) Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh trên

cơ sở phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng

4.0

Hiện nay và trong nhiều năm tới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt

Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng phải dựa vào tiềm năng tài

nguyên trí tuệ, đầu tư mạnh vào việc nuôi dưỡng và phát triển nguồn tài nguyên trí

tuệ nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch từ cơ cấu ngành kinh tế truyền thống lên

kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức. Cần nắm bắt kịp thời cơ hội, phát huy năng

lực trí tuệ, đổi mới cách nghĩ, cách làm, mở rộng một cách có hiệu quả việc áp dụng

công nghệ mới hiện đại vào phát triển các ngành truyền thống, đẩy mạnh phát triển

các ngành kỹ thuật cao, đẩy mạnh việc sáng tạo các thành tựu khoa học và công nghệ

mới. Theo đó, mục tiêu xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả đến

năm 2025 như sau:

Ngành công nghiệp, tập trung nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của

các sản phẩm; phát triển các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có khả

95

năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, ưu tiên phát triển những sản

phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, áp dụng công nghệ mới, công nghệ sạch, sử

dụng tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu

nội bộ ngành công nghiệp theo hướng tăng nhanh công nghiệp chế biến, chế tạo,

công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hiện

đại. Các ngành công nghiệp nền tảng được ưu tiên để đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản

xuất cơ bản của nền kinh tế; Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cơ khí, công

nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường;

Ngành nông nghiệp, hướng vào phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới có

năng lực cạnh tranh cao và thương hiệu tốt. Phát triển nông nghiệp toàn diện, nâng

cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm; phát huy lợi thế so sánh

về điều kiện tự nhiên và sinh thái của mỗi vùng, mỗi địa phương. Tập trung đầu tư

khâu nghiên cứu và phát triển giống cây trồng, vật nuôi, nghiên cứu ứng dụng công

nghệ sinh học. Đổi mới đào tạo nhân lực, đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thức

khoa học công nghệ đến với người nông dân; sử dụng công nghệ sinh học làm gia

tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản;

Ngành dịch vụ đẩy mạnh phát triển, nhất là các dịch vụ có giá trị, hàm

lượng tri thức cao, tiềm năng lớn, có lợi thế và có sức cạnh tranh, như du lịch, hàng

hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế; hình thành một số trung tâm

dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Phát triển các dịch vụ có giá trị gia

tăng cao, như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics, dịch vụ phát triển phần mềm

công nghệ thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác. Đẩy mạnh tham gia

mạng phân phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi

thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước; xây dựng thương hiệu hàng hóa và dịch vụ

Việt Nam.

(4) Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh trên

cơ sở nâng cao chất lượng môi trường sống, môi trường làm việc của người dân

96

Đề án Xây dựng Tp.HCM trở thành đô thị thông minh xác định có 4 mục

tiêu là đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế và hướng đến kinh tế tri thức, nâng cao

chất lượng môi trường sống và làm việc, quản trị đô thị hiệu quả, tăng cường sự

tham gia quản lý của người dân, phát huy trí tuệ nhân dân. Theo đó, việc tập trung

nâng cao chất lượng môi trường sống và làm việc của người dân trở thành mục tiêu

quan trọng và cấp thiết.

Với việc xác định quan điểm phát triển như vậy, hệ thống các chỉ tiêu và

các giải pháp chủ yếu của Thành phố cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng môi

trường sống và làm việc, cụ thể như: đảm bảo nước sạch cho người dân, diện tích

nhà ở bình quân đầu người đạt 20 m2/người, đạt 300 phòng học/10.000 dân trong độ

tuổi đi học, đạt tỷ lệ 20 bác sĩ/10.000 dân, 42 giường bệnh đạt chuẩn quốc gia/10.000

dân; xử lý chất thải y tế và nước thải công nghiệp đạt 100%; tỷ lệ lao động đang làm

việc đã qua đào tạo nghề đạt 85% trong tổng lao động làm việc; tỷ lệ thất nghiệp đô

thị dưới 4%; thu nhập bình quân đầu người tăng...

3.2 Phương hướng, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn

với việc xây dựng Tp.HCM trở thành đô thị thông minh

3.2.1. Những định hướng cơ bản

Thứ nhất, đẩy nhanh tiến độ xây dựng thành phố trở thành đô thị

thông minh, năng động, hiện đại với khả năng kết nối sâu rộng vào chuỗi giá trị

khu vực và quốc tế, cạnh tranh được với các thành phố lớn của Châu Á; là điểm nhấn

về thu hút đầu tư và khởi nghiệp; phát huy vai trò trung tâm nguồn nhân lực chất

lượng cao. Triển khai thực hiện Đề án với 4 trụ cột gồm: trung tâm dữ liệu dùng

chung, trung tâm dự báo và mô phỏng, trung tâm điều hành và trung tâm an ninh

mạng.

97

Thứ hai, tranh thủ tối đa các cơ chế, chính sách mới phù hợp với Nghị

quyết 54 của Quốc hội để thành phố có sự bứt phá trong phát triển: Thành phố cần

rà soát tất cả các lĩnh vực để đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, điều

chỉnh các Nghị định, Thông tư theo hướng phân cấp mạnh mẽ cho thành phố chủ

động thực hiện các quy trình, thủ tục phù hợp với khả năng và tình hình thực tiễn của

thành phố.

Thứ ba, tiếp tục thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng

kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, trọng tâm là phát triển kinh tế tri thức, tăng

trưởng xanh, nâng cao tỷ trọng yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong

tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn thành phố (GRDP), sử dụng toàn diện và hiệu quả

các nguồn lực, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, nâng cao phúc lợi xã

hội và chất lượng cuộc sống của nhân dân; Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án

phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành phố, trong đó tập trung xây dựng,

triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút và hỗ trợ đầu tư

cho phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm giảm nhập khẩu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa

các sản phẩm gia công, lắp ráp.

Thứ tư, tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để thúc

đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế

thành phố đáp ứng yêu cầu hội nhập sớm trở thành trung tâm kinh tế của khu vực;

cải cách thủ tục hành chính, đẩy nhanh tiến trình xây dựng đô thị thông minh, chính

quyền điện tử.

Xây dựng, tích hợp, chia sẻ và quản lý hệ thống thông tin địa lý (GIS)

dùng chung cho thành phố; xây dựng cơ sở dữ liệu thủ tục hành chính tập trung của

thành phố nhằm quản lý và kiểm soát các thủ tục hành chính trên địa bàn thành phố,

tạo điều kiện thuận lợi khi triển khai các dịch vụ công trực tuyến; triển khai Kế

98

hoạch xây dựng kho dữ liệu dùng chung và phát triển hệ sinh thái dữ liệu mở thành

phố.

Thúc đẩy thực hiện Đề án xây dựng Khu công viên phần mềm Quang

Trung 2; triển khai Chương trình phát triển công nghiệp vi mạch Thành phố Hồ Chí

Minh giai đoạn 2017-2020.

3.2.2. Mục tiêu đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025

Kinh tế thế giới năm 2018 được dự báo sẽ tiếp tục xu hướng cải thiện tích

cực nhờ sự gia tăng hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, chế tạo, xây dựng, thương

mại bán buôn và bán lẻ, ngân hàng và du lịch, tạo tiền đề thuận lợi hơn cho phát triển

kinh tế và xuất khẩu đặc biệt khi tận dụng tốt cơ hội của các hiệp định thương mại đã

ký kết. Môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng cải thiện, hội nhập kinh tế ngày

càng sâu rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư tư

nhân, giúp thúc đẩy sản xuất trong nước và thương mại. Những nỗ lực của Chính

phủ trong tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy tăng trưởng được thực

hiện triệt để và quyết liệt trong năm 2017 sẽ phát huy hiệu quả trong năm 2018 và

những năm tiếp theo là những căn cứ để dự báo mô hình tăng trưởng kinh tế

Tp.HCM như sau:

Về tốc độ tăng trưởng GRDP

Dự báo tăng trưởng GRDP thành phố Hồ Chí Minh sẽ đạt mức 8,48%

năm 2018; sẽ tăng cao trong 2 năm 2019 và 2020: đạt mức 8,8% năm 2019 và đạt

mức 8,9% vào năm 2020. Tăng trưởng bình quân mỗi năm từ 2018 đến 2020 đạt

8,5%/năm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân của đại hội đại biểu Đảng bộ

thành phố lần thứ X đã đề ra là 8- 8,5%/năm.

99

Năm

2018

2019

2020

Giai đoạn 2020-2025

Dịch vụ

8.55

8.93

9.05

9.25

Công nghiệp - XD Nông, Thủy sản

7.83 6.00

8,05 6.18

8.09 6.23

8.17 6.24

GRDP(%)

8.48

8.80

8.90

9.25

Về các thành phần cấu thành GRDP

 Khu vực thương mại - Dịch vụ

Tăng trưởng GRDP ngành dịch vụ thành phố Hồ Chí Minh đạt mức

8,55% năm 2018; năm 2019: 8,93% và 9,05% năm 2020. Tăng trưởng bình quân

GRDP ngành Dịch vụ thành phố mỗi năm từ 2020 đến 2025 đạt 9,25%/năm. Ứng

với kịch bản này 9 ngành dịch vụ trọng điểm của thành phố đều phải được quan

tâm đầu tư đúng mức để có mức tăng trưởng cao.

Trong giai đoạn đến năm 2025, ba nhóm ngành dịch vụ ưu tiên cần đầu

tư theo thứ tự hội tụ ngành như sau:

Năm 2020: Thực hiện đề án xây dựng Thành phố thành trung tâm mua

sắm - thương mại điện tử của khu vực và cả nước;

Năm 2022: Thực hiện đề án xây dựng Thành phố thành trung tâm tài

chính- ngân hàng- bảo hiểm ngang tầm khu vực Đông Nam Á;

Năm 2025: Thực hiện đề án xây dựng Thành phố thành trung tâm dịch vụ

bất động sản khu vực và cả nước.

Giai đoạn 2018-2025 tập trung nguồn lực cho 3 nhóm ngành dịch vụ trên,

tạo tiền đề để Tp.HCM phát triển mạnh dịch vụ khoa học - công nghệ để trở

thành trung tâm khoa học - công nghệ trong giai đoạn 2021-2025 thông qua thực

hiện đề án đô thị thông minh, cơ sở hạ tầng thương mại hiện đại, trung tâm tài

100

chính khu vực, ứng dụng công nghệ 4.0 (trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, big

data...), đảm bảo mục tiêu tăng trưởng xanh.

 Khu vực Công nghiệp - Xây dựng

Tăng trưởng GRDP ngành công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đạt mức

7,83% năm 2018; năm 2019: 8,05% và 8,09% năm 2020. Tăng trưởng bình quân

GRDP ngành Công nghiệp thành phố mỗi năm từ 2020 đến 2025 đạt 8,17%/năm.

Ứng với kịch bản này là Thành phố tập trung nhiều nguồn lực và cải thiện tốt môi

trường đầu tư, nhất là các chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao,

tận dụng thật tốt các thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào ngành

công nghiệp nói riêng và vào tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội nói

chung, nhất là vào quản lý đô thị theo mô hình “Thành phố thông minh”.

Trong giai đoạn đến năm 2025, ba nhóm ngành công nghiệp ưu tiên cần

đầu tư theo thứ tự hội tụ ngành như sau:

Năm 2020: Tập trung nguồn lực phát triển ngành điện tử - công nghệ

thông tin, ứng dụng công nghệ 4.0 vào thực hiện đề án đô thị thông minh, trọng

tâm là công nghệ vi mạch, trí tuệ nhân tạo, mạng internet vạn vật và big data;

Năm 2022: Tập trung nguồn lực phát triển ngành cơ khí chế tạo (phát

triển công nghiệp hỗ trợ nhằm xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm cơ khí chế tạo

thành phố);

Năm 2025: Tập trung nguồn lực phát triển nhóm ngành hóa chất, trọng

tâm là ngành hóa dược và nhóm ngành chế biến thực phẩm, trọng tâm là phát

triển các thương hiệu hàng đầu của Việt Nam.

 Khu vực Nông nghiệp

Tăng trưởng GRDP ngành nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đạt mức

6% năm 2018; năm 2019: 6,18% và tăng 6,23% năm 2020. Tăng trưởng bình

101

quân mỗi năm từ 2020 đến 2025 đạt 6,24%/năm. Mức tăng trưởng này dựa trên

nền tảng ngành Nông nghiệp thành phố phát huy các lợi thế của trung tâm giống,

nông nghiệp đô thị, nông nghiệp xanh và nông nghiệp sạch. Tập trung nguồn lực

ứng dụng thành tựu công nghệ sinh học, công nghệ 4.0 vào sản xuất và quản lý

nông nghiệp thành phố.

3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành gắn với xây dựng Tp.HCM trở thành đô thị thông minh đến năm 2025

3.3.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, thể chế

Thứ nhất, đổi mới tư duy về chức năng quản lý của các cấp chính

quyền phù hợp với sự vận hành của cơ chế thị trường.

Chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp cần kiên trì thực hiện theo nguyên

tắc: Nhà nước sử dụng các chính sách, biện pháp và công cụ để tác động vào thị

trường theo định hướng của nhà nước; Chính thị trường sẽ tác động vào sự định

hướng đầu tư của doanh nghiệp (trên cơ sở quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh),

chứ Nhà nước không ''cầm tay chỉ việc" cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, xác định

rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc sử dụng các

công cụ hỗ trợ thị trường.

Thứ hai, sử dụng hiệu quả công cụ chính sách kinh tế - tài chính để

thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tái cấu trúc nội bộ các ngành

kinh tế.

Sự đổi mới quyết liệt các chính sách về thuế, phí, đất đai, đầu tư công,

cung ứng dịch vụ công sẽ khuyến khích có điều kiện, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các

102

doanh nghiệp tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm và hình thành những ''cụm liên kết sản

xuất”, góp phần giúp chuyển nền công nghiệp từ gia công sang sản xuất. Kinh

nghiệm của quốc tế cũng đã cho thấy, việc chuyển nền kinh tế từ giai đoạn gia công

sang giai đoạn sản xuất là sử dụng linh hoạt và hiệu quả chính sách thuế để định

hướng đầu tư cho doanh nghiệp. Trong những năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh tuy

đã có một số kinh nghiệm về hỗ trợ doanh nghiệp chuyển dịch hướng đầu tư kinh

doanh thông qua các chính sách sử dụng đất, hỗ trợ tín dụng... có hiệu quả nhưng

vẫn còn hạn chế chính sách chung ở tầm vĩ mô.

Đồng thời, đẩy nhanh việc tái cơ cấu và cổ phần hóa các doanh nghiệp

nhà nước để tập trung nguồn vốn vào các ngành nghề có lợi thế, nhất là 9 nhóm

ngành dịch vụ thế mạnh và 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu. Ngoài ra, Thành

phố cần kịp thời điều chỉnh các quy định về một số cơ chế tài chính, ngân sách phù

hợp với Nghị quyết số 54/2017/QH14 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát

triển Thành phố Hồ Chí Minh đã được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2017.

Thứ ba, sử dụng các tổ chức kinh tế của Nhà nước như công cụ để

khắc phục và hạn chế những khuyết tật của thị trường.

Hiện có những lĩnh vực cần sự can thiệp mạnh của lực lượng kinh tế nhà

nước như cung cấp hàng hóa và dịch vụ công; Các ngành kinh tế có hiệu quả sinh lời

thấp, nhưng cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa như cơ khí chế tạo, công nghiệp

phụ trợ, đầu tư cho thị trường bất động sản sơ cấp, nghiên cứu, ứng dụng và phát

triển công nghiệp công nghiệp cao… Quan trọng hơn, Nhà nước cần phải thể hiện

quyết tâm chính trị trong đầu tư phát triển, không phải để mặc doanh nghiệp nhà

nước tự cân nhắc hiệu quả tài chính đơn thuần.

Thứ tư, chuyển từ cơ cấu kinh tế địa phương sang cơ cấu kinh tế vùng.

103

Thực tiễn cho thấy, Tp. Hồ Chí Minh đã và đang là ''hạt nhân” trong mối

quan hệ ''mang tính cơ cấu'' của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nếu có chính

sách thúc đẩy và cơ chế điều hành phù hợp sẽ nâng cao được chất lượng tăng trưởng

kinh tế và phát triển đô thị bền vững cho cả Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Đồng thời cũng tạo động lực cho sự phát triển của cả miền Đông Nam bộ, Tây

Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long.

Thời gian tới Thành phố cần chủ động phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các

bộ, ngành và các tỉnh trong khu vực và thực hiện thống nhất quy hoạch, tạo sự đồng

bộ trong phát triển kết cấu hạ tầng; Xây dựng những cơ chế, chính sách đầu tư chung

để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn vùng, trong đó phát triển những vùng

nguyên liệu, công nghiệp hỗ trợ kết nối, đưa TP. Hồ Chí Minh trở thành trung tâm

sản xuất công nghệ cao với các vệ tinh cung cấp là các tỉnh, thành lân cận.

Thứ năm, đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền đô thị trong

khuôn khổ tổ chức hệ thống chính quyển địa phương theo phương thức mở rộng

tính tự chủ và chịu trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao.

Để nâng cao hiệu năng quản lý nhà nước của chính quyền địa phương về

phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, đặc biệt là quản lý đô thị đối với các đô thị

trong hệ thống tổ chức chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan chuyên ngành

cần phải đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo

hướng: Nhiệm vụ của cấp nào thì cấp đó chịu trách nhiệm, có thẩm quyền đầy đủ tự

quyết, tự quản đối với công việc được giao; không trùng lắp nhiệm vụ do Trung

ương giao và công việc giữa các cấp chính quyền… nhằm tránh sự đùn đẩy trách

nhiệm, chồng chéo.

104

Khi đã tạo sự chủ động cho chính quyền cấp dưới, nhiệm vụ chính yếu

của chính quyền cấp trên là ban hành các quy định và kiểm tra giám sát việc tuân thủ

các quy định của cấp dưới. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa mô hình phân cấp

hiện hành với mô hình tăng tính tự chủ của chính quyền địa phương. Việc phân cấp

cần dựa trên nguyên tắc thống nhất của nền hành chính quốc gia, bảo đảm tính chất

của một Nhà nước đơn nhất, nhưng phải đề cao tính tự chủ của địa phương trên nền

tảng lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh của các địa phương, các vùng kinh tế và các

đô thị.

Để thích ứng với đặc điểm của cơ chế thị trường và mối quan hệ giữa Nhà

nước với thị trường, xu hướng chung của thế giới là mở rộng quyền tự quản về ngân

sách và cung cấp dịch vụ đô thị của chính quyền các đô thị. Do đó, cần nghiên cứu

hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan, tổ chức chính quyền địa phương

các cấp, trong đó có chính quyền đô thị theo hướng làm rõ mô hình tổ chức chính

quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo đã được đề ra.

Với sự quyết tâm cao, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sự chung tay của

cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, năm 2018 và các năm tiếp theo

chắc chắn Thành phố sẽ hoàn thành tốt nhất những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ Thành phố lần thứ X đề ra, xây dựng Thành phố văn minh, hiện đại, từng

bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ

của cả nước và trong khu vực.

Thứ sáu, Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới chính sách kinh tế tạo hành

lang cho sự phát triển các ngành kinh tế đã quy hoạch

Quá trình hoàn thiện chính sách ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian

tới cần nhận thức một cách đầy đủ vị trí quan trọng của chính sách hỗ trợ và khuyến

105

khích đầu tư trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoàn thiện chính sách có

vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thông qua chính sách

các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế thể hiện rõ được mục tiêu huy động vốn cho

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy, chính sách có thể tạo điều kiện cho quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng đề ra. Ngược lại, nếu không phù hợp,

chính sách sẽ làm chậm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Trong thực tế những năm vừa qua, việc thực hiện các giải pháp chuyển

dịch cơ cấu kinh tế của thành phố là kịp thời, đúng hướng. Tuy nhiên, các chính sách

đó cũng còn chưa đủ mạnh nhằm thay đổi, phát triển mạnh các ngành kinh tế như:

chưa có chính sách, giải pháp đột phá để hỗ trợ, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, chậm đầu tư công nghiệp hỗ trợ, chính sách kinh tế vĩ mô thời gian qua chưa có

tác động tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cạnh tranh, nhất là

các chính sách định hướng cho doanh nghiệp chuyển từ gia công sang sản xuất... Vì

vậy, cần hoàn thiện chính sách trên địa bàn. Cụ thể cần thực hiện tốt các nội dung

sau:

Thành phố cần đẩy mạnh rà soát, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong tất

cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh; Tăng cường hỗ trợ cho các doanh

nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa về đầu tư, xúc tiến thương mại và các chính

sách hỗ trợ doanh nghiệp. Đồng thời, đẩy nhanh việc tái cơ cấu và cổ phần hóa các

doanh nghiệp nhà nước để tập trung nguồn vốn vào các ngành nghề có lợi thế, nhất

là 9 nhóm ngành dịch vụ thế mạnh và 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu. Ngoài

ra, thành phố cần kiến nghị điều chỉnh các quy định về một số cơ chế tài chính, ngân

sách đặc thù đối với Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng tạo điều kiện cho thành

phố chủ động trong huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển.

106

Thành phố Hồ Chí Minh cũng thường xuyên làm việc với Ngân hàng Nhà

nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, phối hợp với các ngân hàng thương mại và

quận, huyện rà soát, nắm bắt danh sách các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, hỗ trợ

kí các văn bản cam kết, các hợp đồng tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp; tập trung rà

soát dư nợ các khoản vay cũ, điều chỉnh lãi suất…; Thực hiện có hiệu quả chương

trình hỗ trợ lãi suất vay thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đô thị của

thành phố. Theo đó, thành phố sẽ hỗ trợ lãi suất vay cho các gia đình, trang trại,

doanh nghiệp chuyển dịch cơ cấu để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách xây dựng môi trường đầu

tư thông thoáng, bình đẳng tạo hành lang pháp lý vững chắc cho sự phát triển các

ngành kinh tế đã quy hoạch; trong đó, tập trung rà soát, bãi bỏ những thủ tục không

cần thiết, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuế, hải quan và các

dịch vụ hành chính; công khai, minh bạch quy trình, thủ tục, chuẩn hóa mô hình áp

dụng cơ chế “một cửa liên thông”, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin tại cơ

quan hành chính các cấp để giảm phiền hà cho tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân.

Hoàn thiện và triển khai thực hiện Đề án Tái cấu trúc nền kinh tế thành

phố do Viện nghiên cứu phát triển chủ trì để định hướng cho thực hiện Chương trình

hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế thành

phố.

Nhanh chóng triển khai các biện pháp hoàn thiện môi trường đầu tư kinh

doanh trên địa bàn Thành phố trên cơ sở cải thiện các chỉ số PCI, PAPI, PAR Index,

nhất là tập trung cải thiện các chỉ tiêu thành phần đang có điểm thấp; Nhanh chóng

ban hành cơ chế chính sách để triển khai có hiệu quả đề án xây dựng thành phố

thông minh trên cơ sở ứng dụng các thành tựu công nghệ của cuộc cách mạng công

nghiệp 4.0 vào tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội, quản lý đô thị,

107

an ninh, quốc phòng của thành phố để tăng hiệu quả, hiệu lực quản lý công, quản trị

doanh nghiệp, tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, thời gian...

Tập trung giải quyết các vướng mắc của người dân về đền bù, giải tỏa, thu

hồi quyền sử dụng đất ở các dự án đô thị, tập trung giải quyết khu vực Đô thị mới

Thủ Thiêm. Cần thiết tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện thủ tục đền bù cho người

dân bị thu hồi quyền sử dụng đất để đề xuất hoàn thiện cơ chế chính sách về thu hồi

đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.

Đẩy mạnh triển khai các chính sách hỗ trợ, khuyến khích nghiên cứu và

ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất, đời sống, tăng cường chuyển

giao công nghệ tiến tiến từ nước ngoài, đổi mới công nghệ thiết bị, đẩy mạnh các

dịch vụ hỗ trợ phát triển thị trường.

Giải quyết bất cập trong cơ sở pháp lý, hướng dẫn thực hiện của các cơ

quan Trung ương, chủ yếu là trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường, xây dựng

và đầu tư đối với việc thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa

liên thông.

Nghiên cứu xây dựng và ban hành các cơ chế chính sách phù hợp nhằm

thu hút khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng giao

thông và tạo sự đột phá trong hình thức đầu tư hợp tác công tư (PPP).

3.3.2. Nhóm giải pháp về qui hoạch và cơ sở hạ tầng

Quy hoạch là một lĩnh vực chuyên môn, có tính mục đích nhằm nâng cao

hiệu quả của nền kinh tế. Do vậy, quy hoạch có vai trò rất quan trọng, là công cụ

quản lý của cơ quan Nhà nước nhằm đảm bảo cho các ngành phát triển theo định

108

hướng đã định, bảo đảm hiệu quả cao nhất cho bản thân của mỗi ngành, cũng như

nền kinh tế.

Trong những năm vừa qua, mặc dù công tác quy hoạch của thành phố có

những mặt tích cực, tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tuy nhiên cũng

còn có những mặt hạn chế nhất định. Vì vậy, thời gian tới khuyến nghị cần thực hiện

theo các nội dung sau:

Thứ nhất, Rà soát và điều chỉnh Quy hoạch chung Thành phố đến năm

2030 phù hợp với Quy hoạch vùng Thành phố Hồ Chí Minh; cụ thể hóa các nội

dung của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X; tái cấu trúc đô thị theo

định hướng giao thông công cộng, thích ứng biến đổi khí hậu; xác định rõ các khu

vực đô thị quan trọng ưu tiên phát triển và tái phân bổ dân cư phù hợp, đồng thời xác

định tầm nhìn dài hạn cho phát triển bền vững của Thành phố trong tương lai.

Thứ hai, Tập trung nâng cao chất lượng của đồ án quy hoạch: Nâng

cao chất lượng sản phẩm của các đơn vị tư vấn thiết kế (đặc biệt là công tác khảo sát

thu thập thông tin hiện trạng), chất lượng công tác thẩm định đồ án (nhân sự thẩm

định, quy trình, công tác phối hợp thẩm định,...); đồng thời đề xuất các giải pháp để

rút ngắn thời gian thẩm định, trình phê duyệt quy hoạch. Rà soát các quy hoạch phân

khu, lập các Quy chế quản lý kiến trúc đô thị và thiết kế đô thị cho các khu vực quan

trọng Thành phố: trên cơ sở các quy hoạch phân khu đã được phê duyệt, căn cứ tình

hình thực tế và định hướng phát triển của Quy hoạch chung Thành phố, rà soát

và điều chỉnh, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư, quản lý đô thị và nhu cầu của

nhân dân trong khu vực quy hoạch.

Thứ ba, Ban hành Bộ Quy chuẩn quy hoạch đô thị áp dụng cho Thành

phố Hồ Chí Minh: Căn cứ theo Quy chuẩn quốc gia về quy hoạch đô thị, nghiên cứu

109

các quy định cụ thể áp dụng cho đô thị đặc biệt Thành phố Hồ Chí Minh. Phối hợp

với các bộ, ngành có liên quan đẩy mạnh công tác quy hoạch xây dựng mở rộng khu

vực sân bay Tân Sơn Nhất, nhằm nâng công suất của sân bay Tân Sơn Nhất đảm bảo

nhu cầu vận chuyển hàng không ngày càng gia tăng nhanh, góp phần thúc đẩy kinh

tế thành phố tăng trưởng nhanh; Đẩy nhanh tiến độ thực hiện sắp xếp hệ thống cảng

biển khu vực Thành phố theo quy hoạch, đảm bảo an toàn giao thông và phát triển

kinh tế; Đặc biệt chú trọng đến kêu gọi vốn đầu tư các tuyến tàu điện ngầm còn lại

của thành phố để giải quyết bài toán về giao thông đang ngày càng phức tạp hiện

nay, cũng như tạo hình ảnh thành phố hiện đại, năng động trước du khách trong và

ngoài nước. Tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Đô thị mới Thủ

thiêm; Tập trung nguồn lực cho phát triển khu vực Quận Thủ đức, Quận 9, Quận 2

trở thành khu đô thị khoa học - công nghệ và sáng tạo.

Thứ tư, hoàn thiện việc qui hoạch phát triển, chủ động xây dựng

chương trình mục tiêu phát triển các ngành kinh tế chủ lực

Với khối ngành dịch vụ

Đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ hiện đại phải được xem là trọng

tâm của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm phát huy lợi thế và vai trò trung

tâm của thành phố. Với định hướng đó, thành phố cần tập trung vào các lĩnh vực sau:

Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu phát triển

ngành thương mại, tập trung vào các nhóm giải pháp chính như: Tăng cường đầu tư,

xây dựng cơ sở vật chất, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng và

nâng cấp các trung tâm thương mại nội địa theo quy hoạch chung, hợp tác với các

tỉnh để tổ chức tốt các kênh phân phối hàng hóa, hỗ trợ xuất khẩu và xúc tiến thương

mại…

Gắn việc phát triển dịch vụ sản xuất kinh doanh với phát triển dịch vụ hậu

cần phục vụ giao thương nội địa và quốc tế, khai thác ưu thế dịch vụ của hệ thống

110

cảng và kho vận trên địa bàn thành phố, trọng tâm là xây dựng khu đô thị cảng Hiệp

Phước.

Triển khai chương trình mục tiêu phát triển ngành tài chính, tín dụng,

ngân hàng đến năm 2025, chủ động đề xuất với chính phủ phê duyệt đề án xây dựng

thành phố thành trung tâm tài chính của cả nước.

Phát triển dịch vụ viễn thông và giá trị gia tăng gắn với sự phát triển của

công nghệ tin học và phần mềm, phát triển dịch vụ gia công xử lý, quản lý dữ liệu từ

xa cho các khách hàng trong nước và quốc tế, hội nhập giữa các dịch vụ viễn thông -

tin học - truyền thông, phát triển dịch vụ đa chức năng…

Phát triển dịch vụ bất động sản trong Chương trình mục tiêu phát triển thị

trường bất động sản, bao gồm các loại hình thị trường chuyển nhượng, cho thuê, thế

chấp và các dịch vụ tư vấn, định giá, môi giới, quản lý bất động sản…

Phát triển các chương trình du lịch trên địa bàn thành phố, phát huy thế

mạnh của trung tâm du lịch lớn nhất phía Nam để tăng cường hợp tác liên kết với các

địa phương khác trong khu vực. Tham gia các tổ chức du lịch quốc tế nhằm nâng cao

năng lực cạnh tranh và phát triển du lịch quốc tế, xây dựng thành phố thành điểm

đến hấp dẫn và an toàn cho du khách.

Phát triển dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực luật pháp, kinh doanh và khoa học

kỹ thuật, hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng vào

sản xuất, chú trọng phát triển lĩnh vực thiết kế, tạo mẫu và lĩnh vực quảng cáo; Phát

triển thị trường công nghệ.

Tập trung nâng cao chất lượng của dịch vụ y tế, xây dựng một số trung

tâm y tế có chất lượng ngang bằng so với các nước trong khu vực nhưng với chi phí

phục vụ rẻ hơn; Nghiên cứu xây dựng một số trung tâm y tế - sinh thái, kết hợp

khám chữa bệnh và nghỉ dưỡng. Tiếp tục xã hội hóa y tế, nghiên cứu áp dụng mô

hình bệnh viện cổ phần.

111

Xây dựng thành phố thành trung tâm giáo dục - đào tạo hàng đầu của các

tỉnh phía Nam, tập trung đào tạo các ngành nghề đáp ứng quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, chú trọng đào tạo về quản lý kinh tế để thúc đẩy việc chuyển dịch cơ

cấu sang các ngành dịch vụ, tiếp tục xã hội hóa giáo dục đào tạo, khuyến khích các

trường - cơ sở giáo dục quốc tế thành lập chi nhánh tại thành phố…

Với khối ngành công nghiệp

Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cần

dựa trên lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, vị trí địa lý, giao thông vận tải và phải

gắn kết chặt chẽ sản xuất với thị trường, gắn với các khu vực kinh tế khác trong tỉnh

và trong nước;

Thành phố cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực có hàm lượng khoa

học - công nghệ và giá trị gia tăng cao, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng như

cơ khí; điện tử - công nghệ thông tin; hóa dược - cao su; chế biến tinh lương thực

thực phẩm; công nghệ sinh học, công nghiệp thời trang, thiết kế…; chuyển dần từ

hoạt động gia công lắp ráp sang hoạt động sản xuất. Tiếp tục phát triển các khu công

nghiệp công nghệ cao; bố trí lại sản xuất trong các khu, cụm công nghiệp đã được

quy hoạch; đồng thời phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển

công nghiệp cơ khí, điện tử - tin học; hạn chế các dự án đầu tư mới thâm dụng lao

động phổ thông.

Với lĩnh vực nông nghiệp

Điều chỉnh phân bố các vùng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi

trồng thủy sản, hình thành các vùng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp đô

thị, nông nghiệp chuyên canh, vùng phát triển vườn cây ăn trái tập trung, các vùng

rừng trồng, rừng phòng hộ, rừng ngập nước, rừng ngập mặn, hình thành các vùng

đánh bắt nuôi trồng thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu. Bảo tồn các vùng cảnh

quan thiên nhiên, vùng sinh thái đặc trưng; điều chỉnh định hướng phân bố hệ

112

thống hạ tầng xã hội và dịch vụ, bao gồm các trung tâm chuyên ngành cấp vùng,

tiểu vùng, quốc gia và quốc tế; Xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp phải

nằm trong tổng thể và mặt bằng chung của thành phố, phải phù hợp trình độ, khả

năng người lao động; Cần tập trung vào việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo

hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nhất là các sản phẩm chủ lực của

thành phố.

3.3.3. Nhóm giải pháp về huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn

lực

Về nguồn nhân lực

Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Thành phố Hồ Chí

Minh phải có các điều kiện như: vốn, nhân lực, khoa học công nghệ… Trong các

điều kiện đó, nguồn nhân lực đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nghị quyết hội nghị

lần thứ bảy ban chấp hành trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán

bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm

nhiệm vụ đã chỉ rõ: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công

tác cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng

hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận

trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho

phát triển lâu dài, bền vững”. Điều đó cho thấy, đào tạo và sử dụng có hiệu quả

nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành một trong các yếu

tố then chốt thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển cũng như trong quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế.

Trong những năm qua Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng

trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đã đạt được những kết quả khả quan

bước đầu trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho quá trình

113

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy vậy, nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất

lượng cao vẫn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của

thành phố; cơ cấu nguồn nhân lực chưa phù hợp; đội ngũ công nhân kỹ thuật lành

nghề còn ít. Nguyên nhân cơ bản là do giữa các trung tâm đào tạo nhân lực và nơi sử

dụng nhân lực chưa có sự tương thích hoàn toàn. “Ðộ vênh” giữa nhà trường và

doanh nghiệp còn khá lớn. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng chưa có chiến lược, kế

hoạch dài hạn về nhu cầu nhân lực của mình, đồng thời chưa thật sự chủ động tham

gia, góp sức vào quá trình đào tạo nhân lực.Vì vậy, trong thời gian tới cần hướng

vào các giải pháp sau:

Thứ nhất, Cần quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên và phù hợp

với yêu cầu phát triển kinh tế xã – hội của thành phố, phù hợp với xu hướng

chuyển dịch của cơ cấu ngành kinh tế.

Quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực phù hợp về cơ cấu ngành và lĩnh vực.

Đặc biệt, cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Thành phố Hồ Chí Minh,

phục vụ công cuộc đổi mới. Trước những định hướng phát triển thành phố hiện đại

với các ngành kĩ thuật cao, nhưng nguồn nhân lực kĩ thuật cao lại đang thiếu. Vì thế,

thành phố cần tập trung đầu tư vào các nhóm đối tượng đặc biệt, có vai trò quyết

định và tạo sự đột phá trong phát triển nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội. Trong

giai đoạn từ nay đến năm 2025, ưu tiên phát triển nhân lực đủ để cung cấp cho

những ngành có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao. Phải tăng cường

sự kết hợp giữa các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để tạo nguồn lao động phù hợp

yêu cầu của doanh nghiệp; nâng cao chất lượng cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo

ở tất cả các cấp, đổi mới nội dung phương pháp đào tạo; gắn nội dung đào tạo trong

nhà trường với hoạt động thực tiễn của các doanh nghiệp.

114

Thứ hai, Đẩy mạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở đổi

mới cơ chế chính sách đào tạo, thu hút, sử dụng, đãi ngộ và phát triển nhân lực

trong tất cả các khu vực hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt trong khu vực công và

khu vực doanh nghiệp.

Xây dựng và triển khai đề án đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức trong toàn hệ thống chính trị Thành phố để sắp xếp, bố trí lại cho hiệu quả trên

tinh thần tinh gọn bộ máy quản lý dựa trên cơ sở ứng dụng thành tựu của cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0 vào quản lý hành chính công.

Nhanh chóng xây dựng và triển khai đề án nâng cao thu nhập cho lực

lượng công chức, viên chức thành phố không quá 1,8 lần lương cơ bản; xây dựng và

triển khai đề án thu hút và đãi ngộ chuyên gia tham gia cống hiến trí tuệ cho Thành

phố theo tinh thần Nghị Quyết 54 của Quốc hội; trong đó, cần tập trung thu hút

nguồn nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội chủ lực của thành

phố theo tinh thần Nghị quyết 54 của Quốc hội.

Thứ ba, Rà soát, điều chỉnh, đổi mới cơ chế, chính sách giáo dục nghề

nghiệp trên địa bàn Thành phố, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân

ngoài công lập thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đăng ký hoạt động giáo dục

nghề nghiệp, tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động.

Khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tăng cường liên kết với doanh nghiệp,

hợp tác với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có uy tín trong khu vực để xây dựng

chương trình và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực có tính thực tiễn cao. Đẩy mạnh hợp

tác đào tạo giữa các trường và doanh nghiệp thực hiện mô hình: “Đưa doanh nghiệp

vào cơ sở đào tạo”. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ công tác đào

tạo nghề theo xu hướng hội nhập quốc tế.

115

Về khoa học và công nghệ

Khoa học - công nghệ có vai trò quan trọng đối với quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, vai trò đó ngày càng tăng lên trong điều kiện cách mạng khoa học -

công nghệ hiện đại và đang trở thành động lực thúc đẩy thành công quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế của thành phố. Bởi vì, chỉ có thể dựa vào khoa học - công nghệ

hiện đại mới có thể đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất trong khu vực.

Tiến bộ khoa học - công nghệ còn trực tiếp nâng cao trình độ dân trí, kích thích học

hỏi, làm thay đổi tư duy kinh tế, tiếp cận các phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện

đại, tạo ra giá trị kinh tế cao.

Trong thời gian qua, thành phố đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động khoa

học - công nghệ, ưu tiên đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, tập trung hiện đại

hóa trang thiết bị và công nghệ trong các ngành kinh tế. Tuy nhiên, quá trình đẩy

mạnh các hoạt động khoa học - công nghệ, đổi mới thiết bị công nghệ, tập trung hiện

đại hóa trang bị và công nghệ trong các ngành kinh tế nói chung và lĩnh vực công

nghiệp nói riêng còn có những hạn chế, làm giảm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Chẳng hạn như trong lĩnh vực công nghiệp, trình độ công nghệ của đa số các doanh

nghiệp chỉ đạt mức trung bình; tốc độ đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp diễn

ra chậm. Vì vậy, trong thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp sau:

Thứ nhất, tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp góp phần phát

triển thị trường khoa học – công nghệ

Phát triển thị trường khoa học - công nghệ gắn với thực thi quyền sở hữu

trí tuệ, đưa vào khai thác sàn giao dịch công nghệ nhằm thúc đẩy chuyển giao công

nghệ trong và ngoài nước đến các doanh nghiệp; phát triển hạ tầng thông tin khoa

học - công nghệ.

116

Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo, ứng dụng công nghệ tiên tiến;

giảm thâm dụng lao động, áp dụng mô hình quản trị hiện đại và tự động hóa quy

trình sản xuất.

Đẩy mạnh thực hiện chuyển các đơn vị, tổ chức sự nghiệp khoa học và

công nghệ sang hoạt động theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hình thành lực

lượng doanh nghiệp khoa học - công nghệ theo đúng tinh thần Nghị Quyết Trung

ương 6 (khóa XII).

Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ qua các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu

tư trực tiếp và thương mại quốc tế, nhất là các khu công nghệ cao, nông nghiệp công

nghệ cao, khu công nghệ phần mềm trên địa bàn.

Đầu tư trang thiết bị có công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, tiết kiệm,

từng bước hiện đại hóa các ngành sản xuất công nghiệp để nâng cao năng suất, chất

lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.

Thứ hai, Tăng cường đầu tư cho các sản phẩm khoa học và công nghệ

ứng dụng trực tiếp vào sản xuất và đời sống xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế cao

nhằm ươm tạo ra các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam trọng điểm của Thành

phố.

Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ; Tập trung xây dựng

hệ sinh thái khởi nghiệp, hệ sinh thái phục vụ phát triển cuộc cách mạng công nghiệp

4.0, đặt yếu tố phát triển công nghệ là nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, Tập trung nguồn vốn phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sự phát

triển khoa học và công nghệ; Đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài

trong lĩnh vực công nghệ cao, từng bước phát triển và kết nối hai Khu công nghệ

117

cao Thành phố Hồ Chí Minh và Khu công nghệ phần mềm Quang Trung theo mô

hình thung lũng Silicon của Mỹ; tập trung nguồn lực triển khai xây dựng Thành phố

sáng tạo tại phía Đông bao gồm: Quận Thủ đức, Quận 9 và Quận 2.

Đẩy mạnh phát triển Khu Nông nghiệp Công nghệ cao của thành phố, xây

dựng mô hình mẫu nông nghiệp công nghệ cao và đẩy mạnh chuyển giao tiến bộ

khoa học - công nghệ trong nông nghiệp cho người nông dân thành phố. Tập trung

nguồn lực cho công tác khuyến nông, đào tạo, dạy nghề cho người nông dân và nhà

quản lý về nông nghiệp công nghệ cao nhằm phát triển nông nghiệp thành phố

hướng vào những ngành có lợi thế như: Cây, Con giống, nông nghiệp đô thị, nông

nghiệp xanh và sạch....

Về nguồn vốn - tín dụng

Huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là điều kiện quan trọng tác

động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nói riêng.

Để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nói riêng, thành phố cần huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước của mọi thành

phần kinh tế ước khoảng 1,8 triệu tỷ đồng nhưng khả năng ngân sách Thành phố

chỉ đáp ứng được khoảng 20%. Đó là thách thức lớn của Thành phố trong thời gian

tới.

Trong bối cảnh nguồn vốn ngân sách để đầu tư phát triển bị thắt chặt, các

nguồn vốn ODA có thời gian vay ngắn hơn và lãi suất cao hơn so với giai đoạn

trước, việc tăng cường thu hút đầu tư xã hội hóa theo hình thức hợp tác công tư PPP,

tận dụng các nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân được xem là giải pháp hữu hiệu.

Trong thời gian qua, Thành phố Hồ Chí Minh rất quan tâm đến huy động

và sử dụng vốn nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển theo định hướng

118

đề ra. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động và sử dụng còn có những bất cập, chưa đủ

mạnh đã làm giảm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy, trong những năm tới

để đảm bảo vốn cho phát triển cần hướng vào các giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, Để có thể huy động được lượng vốn đầu tư, thành phố cần có

nhiều giải pháp, tập trung vào cả hai nguồn vốn trong và ngoài nước.

Với nguồn vốn trong nước:

Vốn trong nước bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng, vốn

đầu tư trong dân và doanh nghiệp.

Đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, đây là nguồn vốn rất quan

trọng để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Để đảm bảo nguồn vốn từ

Nhà nước cần quan tâm nuôi dưỡng các nguồn thu, nguồn tín dụng ưu đãi hỗ trợ đầu

tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.

Đối với các dự án sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước của thành

phố: Căn cứ mục tiêu, định hướng, nguyên tắc và khả năng cân đối vốn đầu tư, các

sở - ban - ngành, Ủy ban nhân dân các quận - huyện và chủ đầu tư dự kiến danh mục

dự án và mức vốn cho từng dự án theo đú ng các nguyên tắc. Tăng cường công tác

quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Các dự án sử dụng

vốn ngân sách nhà nước của thành phố phân cấp cho Ủy ban nhân dân quận - huyện

quản lý và nguồn vốn ngân sách quận - huyện phù hợp với kế hoạch đầu tư trung hạn

của quận - huyện theo đúng các nguyên tắc quy định, bảo đảm bố trí vốn tập trung và

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Sắp xếp lại nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách

nhà nước, theo hướng mở rộng việc xã hội hóa đối với các lĩnh vực trước đây do

ngân sách đầu tư như chấm dứt việc đầu tư trực tiếp vốn ngân sách cho việc thành

lập doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, giảm dần đi đến chấm dứt khoản chi sự

119

nghiệp có thu,… tổ chức triển khai các biện pháp bổ sung nguồn vốn đầu tư phát

triển như: công trái, trái phiếu công trình, tiền thu về giá quyền sử dụng đất…

Đối với nguồn vốn tín dụng, áp dụng chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng

thông qua sự can thiệp của nhà nước vào thị trường bằng công cụ lãi suất tín dụng,

hướng luồng vốn vào các ngành, các lĩnh vực ưu tiên.

Đối với nguồn vốn đầu tư trong dân và doanh nghiệp, tăng cường thu hút

nguồn vốn trong dân, khuyến khích doanh nghiệp và các cá nhân đầu tư kinh doanh

sản xuất và đóng góp công ích dưới các hình thức bằng sức lao động hoặc bằng tiền

của, kết hợp cùng với nguồn vốn Nhà nước xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng và thực

hiện chính sách xã hội. Khuyến khích huy động các nguồn lực, tài sản, tiền của nhàn

rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh, làm giàu cho cá nhân và đóng góp

cho xã hội.

Trên tinh thần Nghị quyết 54 của Quốc hội về phần cấp ủy quyền cho

Thành phố trong quản lý ngân sách, quản lý đầu tư, về thẩm quyền quản lý tài chính

- ngân sách nhà nước: Thành phố được vay thông qua phát hành trái phiếu chính

quyền địa phương, vay từ các tổ chức tài chính trong nước, các tổ chức khác trong

nước và từ nguồn Chính phủ vay ngoài nước về cho Thành phố vay lại với tổng mức

dư nợ vay không vượt quá 90% số thu ngân sách thành phố. Do đó, để phát huy được

những lợi thế ưu đãi như vậy, ngay trong năm 2018, Thành phố cần tập trung xây

dựng và triển khai nhanh các đề án để thực hiện cơ chế đặc thù này trên các mặt: Xác

định danh mục các hàng hóa và dịch vụ cần nâng mức thuế tiêu thụ đặc biệt; Xây

dựng và ban hành kế hoạch đầu tư công trung hạn; Tập trung đổi mới phương thức

thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (BOT, BT...); Công khai,

minh bạch hóa các thông tin về đầu tư công tại thành phố; Thực hiện các biện pháp

để quản lý nguồn thu và bồi dưỡng nguồn thu; đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời

120

theo quy định của pháp luật; Điều hành dự toán chi ngân sách theo đúng dự toán

được duyệt, đúng chế độ; Tập trung đẩy nhanh công tác sắp xếp lại doanh nghiệp

nhà nước thuộc Thành phố để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào

sản xuất - kinh doanh tại doanh nghiệp.

Với nguồn vốn nước ngoài:

Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) căn cứ trên danh

mục các lĩnh vực trọng điểm cần khuyến khích đã xác định. Tăng cường xúc tiến đầu

tư trực tiếp, xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung qua mạng điện tử để cung cấp cho các

nhà đầu tư những thông tin rõ ràng về môi trường đầu tư của thành phố, về các cơ

chế chính sách ưu đãi, về thủ tục đầu tư nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu

tư và tập đoàn nước ngoài.

Đối với nguồn vốn ODA: Tập trung kêu gọi nguồn hỗ trợ phát triển chính

thức (ODA) vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cần vốn lớn như: các tuyến

Metro, các dự án thoát nước quan trọng, phát triển mạng lưới cấp nước sạch... Việc

kêu gọi đầu tư từ nguồn vốn ODA phải phù hợp với chiến lược phát triển của thành

phố và tận dụng được mọi đối tác, sử dụng thích hợp cho các lĩnh vực. Đồng thời

chú ý nâng cao chất lượng xây dựng các dự án và công tác chuẩn bị các dự án như

triển khai công tác điều tra khảo sát, bồi thường giải phóng mặt bằng, chuẩn bị

nguồn lực. Tập trung chỉ đạo thực hiện các dự án ODA đang triển khai nhằm bảo

đảm tiến độ giải ngân đã cam kết với nhà tài trợ. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt

động của các Ban quản lý dự án; tăng cường năng lực các Ban quản lý dự án theo

hướng chuyên nghiệp.

Thứ hai, Tiếp tục sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, quy định pháp

luật về tạo vốn, hỗ trợ vốn để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước từ nhiều

121

thành phần kinh tế, theo nhiều hình thức đa dạng và phù hợp: xây dựng - khai thác -

chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT), hợp tác công tư (PPP), chuyển

nhượng quyền kinh doanh khai thác, khai thác quỹ đất và các dịch vụ liên quan…

nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phục vụ quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ ba, Đổi mới các nguồn vốn trong nước, đa dạng hóa các phương

thức huy động vốn theo nguyên tắc: Nhà nước định hướng và tạo môi trường pháp

lý thông thoáng, thuận lợi để các thành phần kinh tế huy động vốn, tự chịu trách

nhiệm đầu tư vào các công trình, các ngành, các lĩnh vực và địa bàn phục vụ mục

tiêu chung của cả nước.

Thứ tư, Nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành tài chính –

ngân hàng trong việc hình thành và mở rộng thị trường vốn, bao gồm thị trường

tài chính, bảo hiểm… thành lập quỹ xúc tiến đầu tư huy động các nguồn vốn tài trợ,

đóng góp của các hiệp hội, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong, ngoài nước.

Cần chuyển hướng mạnh mẽ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo

chiều sâu trong tất cả các ngành kinh tế, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật mới và thiết bị

máy móc vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên

thị trường trong nước và ngoài nước, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

hiện nay.

3.3.4. Nhóm giải pháp về hợp tác, hội nhập

Thứ nhất, Thực hiện cơ chế liên kết - hợp tác giữa các ngành, các địa

phương, giữa trong nước và ngoài nước

Thúc đẩy sự liên kết - hợp tác giữa các ngành

122

Việc phát triển mạng lưới liên kết - hợp tác chiến lược và hệ thống chia

sẻ thông tin giữa các ngành trên địa bàn thành phố có tác dụng trợ giúp đắc lực cho

việc xây dựng năng lực phát triển trong từng ngành, đặc biệt là trong những ngành

có hàm lượng công nghệ cao nhưng tỷ trọng hiện còn thấp .

Mạng lưới liên kết và hợp tác là yếu tố vô cùng then chốt, nó tạo điều

kiện cho thông tin được trao đổi giữa các tổ chức kinh tế và từ đó thúc đẩy đổi mới

công nghệ và phát triển sản phẩm. Chính những mạng lưới liên kết - hợp tác về

thương mại, thông tin, công nghệ, trí thức… sẽ tạo ra các cụm ngành kinh tế có sức

mạnh và kỹ năng để cạnh tranh hiệu quả. Ngoài ra xây dựng mạng lưới liên kết –

hợp tác còn góp phần xây dựng sự tín nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh

giữa các đơn vị kinh tế thông qua các hoạt động cộng tác, phối hợp, liên doanh, liên

kết…

Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Tp.HCM với các địa phương trong cả

nước

Thành phố cần chủ động phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương

trong cả nước, trước hết là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhằm tạo thêm sức

mạnh và điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đồng thời, thành

phố cũng phải nhận được sự phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ của các bộ, ngành, địa

phương khác trong việc xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, cơ chế,

chính sách phát triển các ngành trên địa bàn, kiểm tra và tháo gỡ các khó khăn,

vướng mắc.

Trước mắt, cần xây dựng một cơ chế phối hợp và liên kết các cụm - khu

công nghiệp giữa Tp.HCM với các địa phương khác trong vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam, hướng tới phát triển thành các cụm ngành kinh tế trong đó có sự kết hợp

123

chặt chẽ của các dịch vụ hỗ trợ sản xuất như tài chính, tư vấn viễn thông, điện, nước

cho thuê văn phòng, kho bãi, giao thông… với các hoạt động sản xuất công nghiệp.

Biện pháp này sẽ được kết hợp với việc tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc trong di

dời, hỗ trợ về vốn vay, và đầu tư đổi mới công nghệ.

Thứ hai, Thiết lập và phát triển các quan hệ hợp tác – hội nhập với

khu vực và thế giới

Đối với các nền kinh tế trong khu vực, Việt Nam nói chung và Tp.HCM

nói riêng là nơi có nguồn lao động dồi dào, vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên đa

dạng, dung lượng thị trường tiêu thụ rộng lớn… Nền công nghiệp Việt Nam còn

chưa phát triển, và chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu của Việt Nam là

phù hợp với chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế của họ. Ngoài ra, sự gần gũi về

địa lý và sự tương đồng về văn hóa cũng là những nhân tố cơ bản tạo điều kiện

thuận lợi cho sự liên kết - hợp tác.

Với xuất phát điểm hiện tại và những tiềm năng - lợi thế đặc thù của

mình, Tp.HCM cần bắt nhịp với “làn sóng cơ cấu” đang diễn ra trong khu vực bằng

cách một mặt tiếp nhận sự chuyển giao, mặt khác mở rộng sự hợp tác - liên kết trong

những ngành – lĩnh vực phù hợp. Chẳng hạn, đối với các ngành công nghiệp có hàm

lượng lao động cao có thể tiếp nhận sự chuyển giao từ các nền kinh tế mới công

nghiệp hóa (Newly Industrialized Economies – NIEs) Đông Á và liên kết với các

nước ASEAN, Trung Quốc…, các ngành có hàm lượng vốn cao và công nghệ ở

mức trung bình có thể tiếp nhận sự chuyển giao từ Nhật Bản và liên kết với NIEs

Đông Á, các ngành có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao có thể liên kết –

hợp tác với Nhật Bản…

124

Phương châm cơ bản là tránh cạnh tranh, đối đầu trực tiếp mà nên tận

dụng mọi cơ hội, xây dựng các liên minh hợp tác chiến lược để “vừa làm vừa trưởng

thành” trước khi hội nhập thị trường toàn cầu. Nhìn rộng ra, hiện tại cũng như trong

tương lai, Thành phố cần xây dựng các mối quan hệ chiến lược lâu dài với các quốc

gia, các trung tâm kinh tế lớn, các tập đoàn hàng đầu trên thế giới, vì đây là những

đối tác có tiềm lực tài chính lớn, có kỹ năng quản trị hiện đại, có công nghệ “nguồn"

tiên tiến, có mức độ tin cậy cao, và có uy tín trên thương trường…

Kết luận chương 3

Trên cơ sở đề xuất những quan điểm cơ bản về tăng trưởng kinh tế,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Quan điểm về xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở

thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025; luận văn đã

tổng hợp thành hệ thống các chỉ tiêu và các giải pháp chủ yếu mà thành phố cần tập

trung thực hiện góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh

của kinh tế thành phố; Xây dựng thành phố sớm trở thành một trong những trung

tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ của khu vực Đông

Nam Á cũng như đạt được mục tiêu đặt ra là xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đạt

tốc độ phát triển kinh tế tương đối cao, bền vững, trên nền tảng khai thác tốt nhất các

nguồn lực, với người dân là trung tâm của đô thị.

Năm 2018 quy mô kinh tế của thành phố sẽ lớn hơn, trách nhiệm sẽ nhiều

hơn. Đặc biệt, từ ngày 15/01/2018, Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cơ chế,

chính sách đặc thù phát triển thành phố có hiệu lực cho nên cần tập trung thực hiện

đồng bộ những giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

theo hướng phát triển bền vững, bám sát nội dung Kết luận 21 của Bộ Chính trị;

125

Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù; Đề án xây dựng

Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh đến năm 2025 góp phần xây

dựng thành phố ngày càng phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.

Việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược (hoàn thiê ̣n thể chế kinh tế thi ̣ trườ ng đi ̣nh hướ ng xã hô ̣i chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồ n nhân lực nhất là nguồ n nhân lực chất lươ ̣ng cao; xây dựng hê ̣ thố ng kết cấu ha ̣ tầng đồ ng bô ̣)

gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã

hội và phúc lợi xã hội cùng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ nhanh chóng

thực hiện được mục tiêu Xây dựng Thành phố trở thành Đô thị thông minh.

126

KẾT LUẬN

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng tiên tiến, hiện đại là một

yêu cầu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển, nhằm khai thác tiềm năng thế

mạnh cho Thành phố, phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của

đất nước.

Những năm qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đã có

bước chuyển quan trọng theo đúng định hướng đã đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh những

thành tựu đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục như: Một số chỉ

tiêu thành phần về đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh

chưa đạt so với kế hoạch đề ra, công nghiệp phát triển chậm lại ở các ngành công

nghiệp trọng điểm, chưa có đột phá về phát triển hạ tầng đô thị, chưa có đột phá về

huy động vốn xã hội cho đầu tư; năng lực cạnh tranh chưa tương xứng vị trí, vai trò

và tiềm năng của Thành phố; tỷ trọng các dịch vụ cao cấp, sản phẩm công nghiệp có

hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng cao và yếu tố năng suất tổng hợp

(TFP) đóng góp vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế…

Để tiếp tục thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành góp phần

đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững và thực hiện được mục tiêu đặt ra của Đề án

Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh đến năm 2025, cần

giải quyết các hạn chế còn tồn tại như: chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa

tương xứng với tiềm năng của Thành phố; chưa đảm bảo khai thác tốt nhất mọi

nguồn lực; Sự phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số của Thành phố còn nhiều hạn

chế, bất cập; Môi trường sống, môi trường làm việc chưa đảm bảo, còn nhiều hạn

chế.

127

Để phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm còn hạn chế góp phần thực hiện

chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng đô thị thông minh trong thời gian tới có

hiệu quả, đòi hỏi phải thực hiện đúng phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành và

thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu mà luận văn đã đề cập. Phương hướng và

giải pháp mà luận văn xác định là một hệ thống toàn diện, đồng bộ trên tất cả các

lĩnh vực. Phương hướng mang tính chất chỉ đạo, các giải pháp là đồng bộ, toàn diện

trên các góc độ quản lý Nhà nước; cơ chế, chính sách đến tổ chức thực hiện… Vì

vậy, nếu chúng ta thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời gian tới đạt được hiệu quả như

mục tiêu đặt ra.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp thực

hiện, tác giả mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị như sau:

Đối với chính phủ: Việc phân cấp nguồn thu ngân sách (điển hình nhất là

tỷ lệ phân chia nguồn thu cho Ngân sách địa phương của Tp. Hà Nội và Tp.HCM

hiện nay còn nhiều bất cập – Tp.HCM thu ngân sách nhiều nhưng chỉ được giữ lại từ

23% đối với thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2015; giảm còn 18% thời kỳ 2017 –

2020; tỷ lệ hưởng ít hơn so với Hà Nội hiện nay được giữ lại 35% số thu được). Do

đó, trong thời gian tới Việt Nam có thể chuyển sang áp dụng tỷ lệ cứng đối với các

sắc thuế chia sẻ cho tất cả tỉnh, thành như đa số các nước trên thế giới áp dụng mà

không ảnh hưởng đáng kể đến thu ngân sách trung ương hiện nay. Ưu điểm của cách

phân chia này là tạo ra một tỷ lệ đóng góp công bằng cho tất cả các tỉnh, thành.

Những địa phương có thặng dư ngân sách sẽ tìm cách phát triển cơ số thuế để tăng

nguồn thu, qua đó được giữ lại cho địa phương mình nhiều hơn để chi cho đầu tư

phát triển; Các tỉnh này sẽ có động lực xây dựng kế hoạch chi tiêu dài hạn một cách

hiệu quả để không những đảm bảo cân đối ngân sách mà còn nuôi dưỡng được

nguồn thu trong tương lai. Trong khi đó, các tỉnh thâm hụt ngân sách sẽ bị đối diện

128

với một nguồn trợ cấp từ ngân sách trung ương. Để có thể mở rộng ngân sách chi

tiêu, các tỉnh này buộc phải sử dụng ngân sách có hiệu quả hơn để gia tăng nguồn

thu. Kết quả là, tỷ lệ trợ cấp từ ngân sách trung ương sẽ giảm dần, Nhà nước sẽ có

điều kiện tốt hơn để cân đối ngân sách cũng như có nhiều ngân sách hơn để sử dụng

cho các mục tiêu phát triển quốc gia.

Đối với chính quyền Tp.HCM: Để thực hiện Đề án xây dựng thành phố

trở thành đô thị thông minh thì việc đầu tiên phải giải quyết triệt để tình trạng ô

nhiễm, kẹt xe, ngập nước (những vấn đề làm giảm chất lượng môi trường sống và

làm việc, gây ảnh hưởng không nhỏ đối với tăng trưởng kinh tế thời gian qua của

Thành phố). Khi giải quyết được những vấn đề cấp bách như vậy thì việc xây dựng

đô thị thông minh mới thực sự trở thành hiện thực, không còn là những khẩu hiệu

hoặc xa rời thực tế.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành gắn với đề án xây dựng thành phố trở

thành đô thị thông minh là một vấn đề lớn, nhiều khó khăn, phức tạp; là thách thức

mới và cũng là yêu cầu cấp thiết đối với Tp.HCM trong thời điểm hiện nay. Những

nội dung được trình bày trong luận văn chỉ là những gợi mở ban đầu. Để làm sáng tỏ

vấn đề này, cần phải có những đầu tư nghiên cứu nhiều hơn nữa trên thực tiễn mới

có thể đáp ứng yêu cầu đề ra trong thời gian tới.

129

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Tất Thắng, 2006. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam, Nhà Xuất bản

khoa học xã hội.

2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2018. Nghị quyết về định

hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn

đến năm 2045.

3. Đoàn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền, 2007. Giáo trình Chính sách kinh tế - xã

hội. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.

4. Đảng cộng sản Việt Nam, 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Lần thứ XII.

NXB Chính trị quốc gia.

5. Đảng cộng sản Việt Nam, 2018. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khóa XII về xây

dựng đội ngũ cán bộ các cấp.

6. Hoàng An Quốc, 2016. Chuyên đề các môn học Lịch sử các học thuyết kinh tế . Nhà

xuất bản Kinh tế Tp.HCM.

7. Hoàng An Quốc, 2007. Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ

Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới - Phương hướng và

những giải pháp cơ bản. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

8. Học viện chính trị Khu vực II, 2017. Tập bài giảng môn học Quản lý kinh tế. Nhà xuất

bản Lý luận chính trị.

9. Lê Ngọc Uyển, Nguyễn Ngọc Danh, 2012. Kinh tế phát triển , tóm tắt lý thuyết, trắc

nghiệm, bài tập. Nhà xuất bản Kinh tế Tp.HCM.

10. Lương Minh Cừ, Đào Duy Huân, Phạm Đức Hải, 2012. Chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam theo

hướng cạnh tranh đến năm 2020. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

11. Mai Văn Tân, 2014. Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình

tăng trưởng tại TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Tài chính, Số 3/2014.

12. Nguyễn Hồng Sơn, 2010. Hà Nội trong làn sóng phát triển ngành dịch

vụ của các đô thị tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,

Số 26 (2010) trang 135-143.

13. Nguyễn Minh Tuấn , Nguyễn Hữu Thảo, 2009. Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh

tế. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Tp.HCM.

14. Nguyễn Trọng Hoài, 2013. Kinh tế phát triển. Nhà xuất bản Kinh tế Tp.HCM.

15. Phạm Quang Phan, Vũ Anh Tuấn, Tô Đức Hạnh (đồng chủ biên, 2005). Hướng dẫn

học môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin, 2005. Nhà xuất bản Thống kê.

16. Phạm Thị Khanh, 2010. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở

Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

17. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24 tháng 11

năm 2017 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Sở Công Thương TP.HCM, 2014. Thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển ngành

công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam và TPHCM. Tài liệu hội thảo khoa học Thực trang,

định hướng và giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, trang 65 – 78.

19. Sở Khoa học công nghệ TPHCM, 2010. Định hướng phát triển Khoa học và Công nghệ

TP.HCM đến năm 2020.

20. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 về phê duyệt quy

hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn

đến năm 2025.

21. Thủ tướng Chính Phủ, Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm 2012 về việc

Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020.

22. Thủ tướng Chính Phủ, Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2013 về

việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh

đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025

23. Trần Anh Tuấn, 2015. Chuyển dịch cơ cấu, đổi mới mô hình tăng

trưởng kinh tế Tp.HCM giai đoạn 2015 – 2020. Tạp chí Nghiên cứu Phát triển, Số 12

(02/2015).

24. Trần Du Lịch, 2014. Thành phố Hồ Chí Minh - Chuyển dịch đúng hướng, tăng sức

cạnh tranh. Tạp chí Đầu tư Tài chính ngày 28/4/2014.

25. Trần Quang Phú, 2014. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ban Kinh tế phát

triển – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương.

26. Trương Thị Hiền, 2011. Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng mô

hình tăng trưởng kinh tế tại TP. Hồ Chí Minh theo hướng cạnh tranh. Tạp chí Phát

triển và Hội nhập, số 1 (01/2011).

27. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê TP. Hồ Chí Minh từ năm 2000

– 2017.

28. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo số 215/BC ngày 04 tháng 12 năm

2013, Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế thành phố (2011 - 2013) và nhiệm vụ giai đoạn

2014 – 2015

29. Ủy ban Nhân dân TP.HCM, 2010. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành

phố Hồ Chí Minh lần thứ IX nhiệm kỳ 2010 – 2015.

30. Ủy ban Nhân dân TP.HCM, 2015. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành

phố Hồ Chí Minh lần thứ X nhiệm kỳ 2015 – 2020.

31. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 24/2011/QĐ-UBND ngày

14/5/2011 về Kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về

Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế

thành phố giai đoạn 2011-2015.

32. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 04/2016/QĐ-UBND ngày 23

tháng 02 năm 2016 ban hành quy định về khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông

nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2016 – 2020.

33. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 6179/QĐ-UBND ngày 23

tháng 11 năm 2017 về phê duyệt Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành

đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025”.

34. Vương Đức Hoàng Quân, 2016. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. Hồ Chí Minh tầm nhìn

đến năm 2025. Tạp chí Tài chính, Số tháng 6/2016.

35. Vương Đức Hoàng Quân, 2014. Nhìn lại quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa

bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí khoa học trường đại học Mở Tp.HCM , Số

6/2014.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: GDP trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chia theo khu vực kinh

tế thời kỳ 1976-2010 (tính theo giá so sánh 1994)

Tốc độ tăng trưởng (%/năm) GDP (Tỷ đồng)

Trong đó Trong đó Tốc độ Nông - Công Nông Công Năm Giai đoạn tăng Tổng số lâm - nghiệp Dịch -lâm - nghiệp Dịch trưởng thủy - xây vụ thủy -xây vụ chung sản dựng dựng sản

721 1975 9.432 2.330 6.381 1976-1980 0,91 -0,39 2,48 0,46

707 1980 9.871 2.634 6.530 1981-1985 4,58 6,45 4,10 1,56

764 1985 12.349 3.601 7.984 1986-1990 7,82 10,46 6,93 3,51

908 1990 17.993 5.921 11.164 1991-1995 12,62 16,21 11,16 3,78

1995 32.596 1.093 12.551 18.952 1996-2000 10,11 13,18 8,34 1,09

2000 52.754 1.154 23.313 28.287 2001-2005 10,99 12,37 10,03 4,97

2005 88.866 1.471 41.770 45.625 2006-2010 11,18 10,12 12,23 4,83

2010 150.943 1.862 67.629 81.452 1976-2010 8,24 10,10 7,54 2,75

Nguồn: Xử lý số liệu từ Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh

Phụ lục 2: GDP trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chia theo khu vực kinh

tế giai đoạn 2011-2015 (tính theo giá so sánh 2010)

GDP (Tỷ đồng) Tốc độ tăng trưởng (%/năm)

Trong đó Trong đó

Tốc độ Nông Nông Công Công Năm Tổng tăng - lâm -lâm nghiệp Dịch nghiệp Dịch số trưởng - -thủy -xây vụ - xây vụ chung thủy sản dựng dựng sản

5,61 7,70 12,30 2011 510.785 5.175 214.336 291.273 10,25

9,16 5,99 7,64 10,33 2012 557.571 5.485 230.718 321.368

9,29 5,60 7,35 10,74 2013 609.350 5.792 247.679 355.879

9,59 5,90 7,19 11,32 2014 668.095 6.134 265.512 396.449

9,85 5,79 8,07 12,30 2015 733.922 6.489 286.939 440.494

9,65 5,73 7,56 11,12 2011 - 2015

Nguồn: Xử lý số liệu từ Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh

Phụ lục 3: Tốc độ tăng GDP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chia

theo ngành kinh tế giai đoạn 2010-2015 (tính theo giá so sánh 2010)

BQ GĐ

2011-2015 Ngành kinh tế 2010 2011 2012 2013 2014 2015

(%/năm)

Tổng số (tỷ đồng) 463.295 510.785 557.571 609.280 667.712 733.472 9,62

Chia theo ngành

kinh tế

1. Nông nghiệp - lâm 4.900 5.175 5.485 5.792 6.134 6.494 5,79

nghiệp - thủy sản

2. Công nghiệp chế 164.004 176.421 190.119 204.568 219.092 236.181 7,57

biến

3. Công nghiệp khác 6.852 8.837 9.624 10.341 11.040 11.655 11,21

4. Xây dựng 28.158 29.079 30.975 32.770 35.359 39.072 6,77

5. Thương nghiệp 56.375 63.491 71.475 79.865 88.507 95.792 11,19

6. Vận tải - kho bãi 34.227 38.734 43.382 47.096 53.730 64.745 13,60

7. Khách sạn - nhà 14.654 15.814 16.604 18.941 20.917 22.172 8,63

hàng

8. Thông tin - truyền 12.163 14.127 17.910 21.487 23.701 26.843 17,15

thông

9. Tài chính - ngân 52.540 64.602 63.152 68.190 76.661 83.331 9,66

hàng

10. Kinh doanh bất 24.285 19.677 20.661 20.496 22.345 24.692 0,33

động sản

11. Khoa học - công 19.687 23.647 28.376 32.787 37.384 42.543 16,66

nghệ

12. Giáo dục - đào 10.421 11.665 13.264 15.101 16.494 17.615 11,07

tạo

13. Y tế 13.674 16.865 20.395 22.703 24.978 27.226 14,77

14. Văn hóa - thể 2.617 2.779 3.270 3.621 3.905 4.482 11,36

thao

15. Dịch vụ khác 18.738 19.872 22.879 25.522 27.465 30.630 10,33

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh

Phụ lục 4: Cơ cấu GDP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chia theo

ngành kinh tế giai đoạn 2010-2015 (tính theo giá thực tế)

Ngành kinh tế

2010

2011

2012

2013

2014

2015

Giá

trị

Cơ cấu

Giá

trị

Cơ cấu

Giá

trị

Cơ cấu

Giá

trị

Cơ cấu

Giá

trị

Cơ cấu

Giá

trị

Cơ cấu

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

Tổng số

463.295

100,00

576.225

100,00

658.898

100,00

763.965

100,00

852.523

100,00

957.358

100,00

Chia

theo

ngành kinh tế

1.Nông nghiệp

4.900

1,06

5.946

1,04

7.140

1,08

7.769

1,02

8.778

1,03

9.502

0,99

- lâm nghiệp -

thủy sản

2. Công nghiệp

164.004

35,40

194.935

33,83

218.468

33,16

256.732

33,61

274.982

32,26

306.524

32,02

chế biến

3. Công nghiệp

6.852

1,48

9.244

1,60

10.317

1,57

15.187

1,99

17.259

2,02

17.787

1,86

khác

4. Xây dựng

28.158

6,08

33.048

5,74

36.584

5,55

38.720

5,07

43.329

5,08

54.485

5,69

5.

Thương

56.375

12,17

73.142

12,69

85.734

13,01

98.452

12,89

110.554

12,97

119.928

12,53

nghiệp

6. Vận

tải - 34.227

7,39

44.312

7,69

54.150

8,22

63.703

8,34

74.186

8,70

82.985

8,67

kho bãi

7. Khách sạn -

14.654

3,16

19.423

3,37

22.341

3,39

26.162

3,42

29.224

3,43

31.020

3,24

nhà hàng

8. Thông tin -

12.163

2,63

15.225

2,64

22.221

3,37

26.629

3,49

29.407

3,45

33.451

3,49

truyền thông

9. Tài chính -

52.540

11,34

74.537

12,94

72.416

10,99

80.362

10,52

94.391

11,07

101.122

10,56

ngân hàng

10.

Kinh

24.285

5,24

22.668

3,93

25.641

3,89

26.142

3,42

29.304

3,44

33.527

3,50

doanh bất động

sản

11. Khoa học -

19.687

4,25

27.241

4,73

35.076

5,32

41.651

5,45

46.919

5,50

57.917

6,05

công nghệ

12. Giáo dục -

10.421

2,25

12.464

2,16

14.731

2,24

20.280

2,65

22.781

2,67

26.927

2,81

đào tạo

13. Y tế

13.674

2,95

17.955

3,12

22.730

3,45

25.877

3,34

28.920

3,39

33.845

3,54

14. Văn hóa -

2.617

0,56

3.060

0,53

3.697

0,56

4.393

0,58

4.950

0,58

5.720

0,60

thể thao

15. Dịch vụ

18.738

4,04

23.025

4,00

27.652

4,20

31.906

4,18

37.539

4,40

42.618

4,45

khác

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh

Phụ lục 5: Tốc độ tăng GRDP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

chia theo ngành kinh tế năm 2016, 2017 và 6 tháng đầu năm 2018

(tính theo giá thực tế và giá so sánh 2010)

2016

2016

2017

2017

6

tháng đầu

6 tháng đầu năm

năm 2018 (giá

2018 (giá so sánh

(giá thực tế)

(giá

so

sánh

(giá thực tế)

(giá

so

sánh

thực tế)

2010)

2010)

2010)

Giá trị

Chỉ số

Giá

Giá trị

Chỉ số

Giá trị

Giá trị

Chỉ

số

Giá

Ngành kinh

cấu

trị

(tỷ

phát

trị

cấu

(tỷ

phát

(tỷ

cấu

(tỷ

phát

tế

(tỷ

đồng)

triển

(tỷ

đồng)

triển

đồng)

đồng)

triển so

(%)

(%)

(%)

đồng)

so với

đồng)

so với

vơi

6

năm

tháng

năm

2016

2017

2015

Tổng số

1.023

100

790.35

108,08

1.060

100

842.37

108,25

585.63

100

459.56

107,27

.926

.618

7

5

0

6

Chia

theo

ngành kinh

tế

1.Nông

8.588

0,84

5.656

105,81

8.539

0,81

5.696

106,25

3.714

0,6

2.479

106,08

nghiệp - lâm

nghiệp

-

thủy sản

2.

Công

294.5

28,76

230.79

107,88

262.7

24,78

203.41

107,84

134.53

23,0

104.30

107,17

72

nghiệp

01

9

1

8

1

xây dựng

3. Dịch vụ

561.1

54,80

432.27

108,07

618.7

58,34

494.86

108,23

370.23

63,2

292.22

107,29

73

21

5

6

9

7

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh

Phụ lục 6: Biểu đồ tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ

Dịch vụ lưu trú, ăn uống

Bán lẻ

Du lịch

84052,0

66437,0

62472,0 81951,0 7676170,0436,0

57699,0

78413,0

534315,0

89026,0

49809,0 70228,0

45865,0

523428,0

64764,0

484803,0

32023,0 55156,0

460651,0

470123,0

49465,0 416599,0429288,0

28620,0 379464,0

40014,0

23210,0 304536,0

31399,0 19587,0 27177,0 236421,0

124252865,0 197871,0

114561620,0 156418,0

0,0 117356,0 10,04 103 826 718 5210,0 687495670597,00,0

464167951104,70,0 475270113469,,000,0 58508965246,50,0 86248467,50,0

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

Phụ lục 7: Biểu đồ Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ theo thành phần kinh tế

Nhà nước

Ngoài nhà nước

FDI

55561

54184034362

39104073037

25253442754

1527

384273399830

8343216951

629757538

12028980645

1095150639

7156230176

8181365984

17318549980

885427220568969

111051758116461241859470330

430405184962055

726724339303196931615130741451634154584929406186951315

49025442613733

020,061 02,61 01,62 02,37 040,93 2012 0625 03160 05221 70 04422 0129065 970069 901650730220487035041630049010715014380914501681540797409727675909180940010218989512391432818453170091770922572

6 7 9 1

0 8 9 1

5 8 9 1

0 9 9 1

5 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

Dịch vụ (thương mại, du lịch )

Dịch vụ hạ tầng cơ sở (vận tải, nhà đất, Viên thông)

Dịch vụ (tài chính , ngân hàng, khoa học công nghệ)

Dịch vụ (giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội )

64329

66492

113849

56651 159039

72425

50550 141310

212799

41158 122013

73077

33479 107492

149963

120637

101778

132897

26710

116474

102012

72226

21785

82205

168626

150948160201

139778

19339 40902 70674

32517

16690

124614

51376

108075

15296 21491 45805

13384 14179 36364

92565 71029

50136 58133

8672 9940 172351768 2971691 31059

29119 32093 38850

2303 278785

539 31897484656 19499930 16236125116 1371547910218 143610984 154575723 17385 641 141 14611 15649 16469 18333 20112 24328

512439407690493 713515521828601 146297006243148 215915132879045 1162061726585

1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

Phụ lục 8: Biểu đồ GRDP của nội bộ ngành dịch vụ

Phụ lục 10: Biểu đồ tăng trưởng GRDP và tăng trưởng công nghiệp

GRDP chung

Công nghiệp

324311,0 217382

242708

292241,0

1060000

271919,0

957358 970000

228785,0

852123

204179,0

763965

658898

170854,0

576225

110720 127864,4063294 ,0

71014,080067,093325,0287513 337040

34508,039941,049485,058966,0165297 190562 229256

8378,0 1207635940,01334945986,01470395413,0149658837,0252898178,02567743802,03705087559,084852 96403 113326 136487

167169654,0 21963

1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

Phụ lục 11: Giá trị của bốn ngành công nghiệp trọng điểm

Ngành hóa dược cao su

Ngành lương thực thực phẩm

Ngành sản xuất hàng điện tử

Nhóm ngành cơ khí

202797196

198080582

188756880

191386000

173108000

170095607

163884127

161628000

157183902

150156000

145785079

136907000

128749815

116570100,0

1021501660080303,600,0 113732865,0

105374054

99476284,0

98497421,0

96253525

94919194

87535158,0

81815550,0

76808581

82045731,0 84161000,0

74149034,0

74170260040906,703,0

70111222,0

69303086

68928305,0

59990679,0 54609538,0 59282318,0

54639403

47018422,0

45396749,0

42484592,0

39914700,0

528834377018,01598,0 38413021,0

20921774863163,300,0 26935198584591,902,0

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016