Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội
lượt xem 2
download
Mục đích nghiên cứu của Luận văn này nhằm đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu bảo đảm lợi ích kinh tế của nông ngoại thành Hà Nôi hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ¶ PHẠM QUANG HƯNG LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2013
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ PHẠM QUANG HƯNG LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ NỘI Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 60 31 01 02 Người hướng dẫn khoa học: TS ĐỖ VĂN NHIỆM HÀ NỘI - 2013
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 11 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1 Lý luâ ̣n chung về lợi ích kinh tế của nông dân ở Hà Nội trong quá trình công nghiê ̣p hóa 11 1.2 Thực trạng lợi ích kinh tế của người nông dân Hà nô ̣i 30 trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiê ̣n nay Chương 2 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ NHỮNG GIẢI 53 PHÁP CHỦ YẾU BẢO ĐẢM LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY 2.1 Những quan điểm cơ bản 53 2.2 Mô ̣t số giải pháp chủ yếu 63 KẾT LUẬN 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 PHỤ LỤC 93
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nông dân nước ta là giai cấp đông đảo nhất trong số các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong suốt tiến trình cách mạng của dân tộc, giai cấp nông dân luôn tâm nguyện một lòng đi theo Đảng, nêu cao tinh thần yêu nước và truyền thống cần cù, không ngại khó khăn và gian khổ, góp phần to lớn cùng toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước sang thời kỳ mới. Hiện nay, nông dân nước ta chiếm gần 70% lực lượng lao động xã hội, họ vừa là đối tượng chịu sự tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời cũng là chủ thể tích cực tham gia thực hiện quá trình ấy. Có thể nói lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là cuộc sống của người nông dân, do vậy đảm bảo lợi ích kinh tế của người nông dân là yếu tố quyết định nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của họ trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một điều không thể phủ nhận là, trong khoảng 1/4 thế kỷ thực hiện đường lối đổi mới đất nước vừa qua, đặc biệt là với những tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã đạt được những thành tựu khá toàn diện và to lớn. Đời sống của người nông dân đã có những đổi thay tích cực. Thu nhập của người nông dân đã từng bước được cải thiện và nâng cao hơn nhiều so với trước. Nông dân nước ta, từ chỗ thiếu đói thường xuyên, nay đã có dư thừa lương thực để xuất khẩu; từ đa số sống trong cảnh nhà tranh, nay đã là nhà ngói và bê tông hóa; trước đây, chủ yếu sản xuất để phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, nay đã vươn lên sản xuất hàng hóa và cung cấp ra thị trường nước ngoài. Là mô ̣t trung tâm kinh tế chính trị của đất nước, so với các địa phương khác trong nước, những năm vừa qua lợi ích của nông dân sống trên địa bàn Hà Nô ̣i được bảo đảm khá tốt. Quá trình công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa nông nghiê ̣p nông thôn đã ra sự chuyển biến tích cực, đời sống của nông dân được cải thiê ̣n rõ nét. Tuy nhiên, nếu xét trong điều kiê ̣n là nông dân của Thủ đô thì
- viê ̣c bảo đảm lợi ích của nông dân thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Đă ̣c biê ̣t là với nông dân ngoại thành từ khi Hà nô ̣i mở rô ̣ng đến nay. Vì vâ ̣y, vấn đề lợi ích của nông dân Hà Nô ̣i cần phải được quan tâm hơn nữa cả về lý luâ ̣n và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “ Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa ở Hà Nội” làm đề tài luâ ̣n văn Thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Vấn đề lợi ích kinh tế nói chung, lợi ích kinh tế của nông dân nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu dước các góc đô ̣ tiếp câ ̣n khác nhau. Dưới góc đô ̣ lợi ích kinh tế nói chung Trong cuốn “Bàn về lợi ích kinh tế”, Nhà xuất bản Sự thâ ̣t, Hà nô ̣i, 1982 của các tác giả Lê Xuân Tùng, Đào Duy Tùng, Xuân Kiều, Vũ Hữu Ngoạn. Thông qua tác phẩm các tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về lợi ích kinh tế. Trong đó, tác giả Lê Xuân Tùng cho rằng: Lợi ích kinh tế là cái biểu hiê ̣n của các quan hê ̣ kinh tế dưới hình thức những đô ̣ng cơ, mục đích, những nhân tố khách quan thúc đẩy hoạt đô ̣ng lao đô ̣ng của con người. Lợi ích kinh tế gắn chă ̣t với nhu cầu kinh tế, vì có nhu cầu mới có lợi ích. Lợi ích kinh tế là mô ̣t phạm trù kinh tế khách quan, nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở mô ̣t quan hê ̣ sản xuất nhất định, không phụ thuộc vào ý muốn con người. Lợi ích kinh tế tồn tại khách quan song lợi ích kinh tế muốn thực hiê ̣n được phải thông qua con người, thông qua hoạt đô ̣ng có ý thức của con người. Người ta không thể thực hiê ̣n được lợi ích kinh tế của cá nhân nếu tách khỏi quan hê ̣ sản xuất. Lợi ích kinh tế được thể hiê ̣n trong cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất và bao giờ cũng mang tính vâ ̣t chất. Nó được biểu hiê ̣n cuối cùng trong các giá trị sử dụng, dưới hình thức những tư liê ̣u sản xuất và tư liê ̣u tiêu dùng. Luâ ̣n án tiến sĩ triết học “Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Đặng Quang Định, 2010. Thông qua luâ ̣n án, tác giả phân tích quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về lợi ích kinh tế, quan điểm của Đảng ta về vấn đề kết hợp hài hoà ba lợi ích kinh tế (toàn xã hội, cá nhân,
- người lao động) và sự vận dụng chúng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra tầm quan trọng của sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức đối với việc xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề xuất giải pháp hữu ích trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Luâ ̣n án Phó tiến sĩ triết học “Quan hệ giữa lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và cá nhân người lao động trong chặng đường đầu tiên thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Bách, Học viện Nguyễn Ái Quốc 1988. Thông qua luâ ̣n án, tác giả phân tích bản chất và đặc trưng chủ yếu của lợi ích kinh tế, vai trò trong sự vận động của các qui luật kinh tế, các quan hệ sản xuất và sự phát triển xã hội. Phân tích các đặc điểm chủ yếu của quan hệ giữa các lợi ích kinh tế ở nước ta, những mâu thuẫn và đưa ra một số ý kiến về phương pháp luận giải quyết các mâu thuẫn đó. Kết hợp tốt ba lợi ích kinh tế và giáo dục chính trị, tư tưởng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá đô ̣ lên chủ nghĩa xã hô ̣i ở nước ta Luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế “Hệ thống lợi ích kinh tế và các quan hệ phân phối trong việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam” của Ung Thị Minh Lệ, thành phố Hồ Chí Minh, 1996. Thông qua luâ ̣n án, tác giả. Phân tích một số lợi ích cơ bản, mối liên hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, đồng thời đưa ra một số biện pháp trong lĩnh vực tài chính nhằm thực hiện các lợi ích kinh tế trong quá trình phân phối, phân phối lại tổng sản phẩm quốc gia và các nguồn tài chính khác Luâ ̣n án Tiến sĩ quân sự “Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Chử Văn Tuyên, Học viê ̣n chính trị quân sự, 1998. Trong luâ ̣n án tác giả đã phân tích dưới góc độ kinh tế chính trị về nội dung vấn đề lợi ích kinh tế của người lao động trong thời kỳ quá độ. Đặc điểm sự vận dụng lợi ích kinh tế vào quân đội. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của quân dân.
- Luâ ̣n án Phó tiến sĩ khoa học Triết học “Vai trò động lực của lợi ích kinh tế đối với sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” của Đỗ Nhật Tân, 1991. Trong luâ ̣n án, tác giả phân tích bản chất lợi ích kinh tế, tính đa dạng phức tạp của các quan hệ lợi ích kinh tế trong xã hội. Làm sáng tỏ vai trò động lực của lợi ích kinh tế trong hệ thống các động lực phát triển xã hội, trong các thành phần kinh tế. Tìm ra được đặc thù của động lực lợi ích kinh tế nhiều thành phần và giải pháp khuyến khích tối đa động lực ở Việt Nam. Luâ ̣n án “Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp tập thể” của Nguyễn Duy Hùng, 1988. Trong luâ ̣n án tác giả đề xuất những hình thức cơ bản kết hợp các lợi ích kinh tế, góp phần giải quyết mâu thuẫn đang cản trở bước tiến của nông nghiệp tập thể, đảm bảo sự phát triển hài hòa của các lợi ích kinh tế ấy, nhờ đó tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy nông nghiệp tập thể phát triển. Luâ ̣n án Phó tiến sĩ khoa học kinh tế “Lợi ích kinh tế nông dân ở nước ta hiện nay” của Vương Đình Cường, 1992. Trong luâ ̣n án, tác giả đề câ ̣p đến lợi ích kinh tế nông dân trong cơ chế khoán 10 qua việc phân tích vai trò, nội dung các mối quan hệ với lợi ích kinh tế của nhà nước và tập thể. Đề xuất những biện pháp kinh tế cơ bản để nâng cao lợi ích kinh tế nông dân, tạo động lực phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp. Luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế “Giải pháp để kết hợp các lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay qua khảo sát các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh” của Phạm Thắng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1997. Thông qua luâ ̣n án, tác giả đã khái quát các vấn đề lý luận căn bản có liên quan đến lợi ích và lợi ích kinh tế. Phân tích tổng quát thực trạng của việc kết hợp các lợi ích kinh tế trong các doanh nghiệp nhà nước trong cả nước nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng qua các giai đoạn khác nhau. Dưới góc đô ̣ lợi ích của nông dân nói riêng
- Cuốn sách “Bàn về chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp” của Nguyễn Văn Nhường, Nguyễn Thành Độ, Đại học Kinh tế Quốc dân, 2011. Trong tác phẩm, tác giả giới thiệu chính sách an sinh xã hội đối với người nông dân trong diện thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp. Tình hình và kết quả thực hiện chính sách cùng những khuyến nghị hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đối với người nông dân trong diện thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp từ thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh. Cuốn sách “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, hội nông dân ở Việt Nam” của Vũ Ngọc Kỳ, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2005. Thông qua tác phẩm, tác giả trình bày vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với nông dân và Hội nông dân trong thời kỳ mới, phát huy vai trò của giai cấp nông dân và Hội nông dân, giải quyết vấn đề đất đai đối với hộ nông dân không còn đất sản xuất. Cuốn sách “Nông dân và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa” của Nguyễn Viết Chung, Nhà xuất bản Sự thật, 1962. Trong tác phẩm, tác giả đi sâu phân tích tình hình thực tế của nông dân Việt Nam dưới chế độ cũ: Sự nghèo nàn, lạc hậu, hiểu biết nông cạn, văn hoá thấp kém. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là con đường mở ra sự ấm no, hạnh phúc cho người nông dân: Cung cấp những hiểu biết cơ bản về chế độ xã hội chủ nghĩa tươi đẹp ở Việt Nam Cuốn sách “Nông dân ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh trong tiến trình đô thị hoá” của Lê Văn Năm, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2007. Trong tác phẩm, tác giả phân tích tổng quan tình hình đô thị hoá ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh. Sự mất cân đối trong cuộc sống người nông dân do thay đổi môi trường, cảnh quan. Sự mất cân đối trong hoạt động kinh tế, trong đời sống xã hội của họ do tác động của đô thị hoá. Cuốn sách “Việc làm của nông dân vùng Đồng bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Bùi Thị Ngọc Lan (Chủ biên), Hoàng
- Chí Bảo, Nguyễn Đức Bách – Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, 2007. Trong tác phẩm, các tác giả phân tích những nhân tố cơ bản tác động đến việc làm của nông dân vùng đồng bằng sông Hồng. Thực trạng, triển vọng và một số giải pháp cho nông dân cùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2015. Luâ ̣n án Tiến sĩ Triết học “Quan hệ giữa nhà nước và nông dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Phạm Ngọc Anh, Học viê ̣n chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999. Trong luâ ̣n án, tác giả phân tích, bản chất, nội dung, hình thức thể hiện giữa nhà nước và nông dân. Đưa ra phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quan hệ này trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Như vâ ̣y, mă ̣c dù vấn đề lợi ích kinh tế nói chung, lợi ích kinh tế của nông dân nói chung đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa ở Hà Nội hiê ̣n nay vẫn chưa được nghiên cứu mô ̣t cách toàn diê ̣n và hê ̣ thống. 3. Mục đích, nhiêm ̣ vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích mô ̣t cách hê ̣ thống lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa, đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu bảo đảm lợi ích kinh tế của nông ngoại thành Hà Nô ̣i hiê ̣n nay. Nhiêm ̣ vụ nghiên cứu Luâ ̣n giải cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn vấn đề lợi ích kinh tế của nông dân Hà Nô ̣i trong quá trình công nghiê ̣p hóa, hiện đại hóa Đánh giá thực trạng bảo đảm vấn đề lợi ích kinh tế của nông dân Hà Nô ̣i trong quá trình công nghiê ̣p hóa hiê ̣n nay Đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu bảo đảm lợi ích kinh tế của nông dân ở Hà Nô ̣i trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu Luâ ̣n văn nghiên cứu lợi ích kinh tế của người nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phạm vi nghiên cứu Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiê ̣p hóa, hiện đại hóa ở Hà Nô ̣i, thông qua khảo sát từ năm 2005 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài Phương pháp luận Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các văn kiện của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Ngoài ra, quá trình nghiên cứu còn sử dụng các lý luận có liên quan khác để tiếp cận đối tượng, luận giải nhiệm vụ của đề tài. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu bao gồm: Hệ thống phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị cùng các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hóa; Phương pháp trừu tượng hoá khoa học; Phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu luâ ̣n văn góp phần luận giải tính khoa học về lợi ích kinh tế của nông dân ở Hà Nội làm cơ sở cho các địa phương trên địa bàn Hà Nô ̣i bảo đảm lợi ích kinh tế cho nông dân hiê ̣n nay. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy kinh tế chính trị liên quan đến lợi ích kinh tế của nông dân. 7. Kết cấu của đề tài Gồm có: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. Lý luâ ̣n chung về lợi ích kinh tế của nông dân ở Hà Nội trong quá trình công nghiêp̣ hóa 1.1.1. Lợi ích và lợi ích kinh tế Lợi ích Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng đúng đắn của nhân loại C.Mác và Ph.Ăngghen đi từ nhu cầu của con người hiê ̣n thực để nghiên cứu lịch sử, qua đó chỉ ra cơ sở hình thành lợi ích và vai trò của nó trong sự phát triển của lịch sử. Để hiểu đúng nội dung phạm trù lợi ích trước hết cần xuất phát và phân tích phạm trù nhu cầu. Nhu cầu là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người. Tuy nhiên, nhu cầu không phải là những cái chung chung trừu tượng, mà phải là nhu cầu về của cải vật chất và dịch vụ nhằm thỏa mãn đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người, mỗi cộng đồng người và mỗi tập đoàn xã hội nhất định. Nhu cầu về của cải vật chất là nhu cầu về các sản phẩm của nền sản xuất xã hội, tức là của cải vật chất và dịch vụ mang tính chất xã hội có nguồn gốc từ nền sản xuất của xã hội. Thông thường trong cuộc sống, nhu cầu về vật chất thường được đồng nhất với nhu cầu kinh tế. Nói cách khác, nhu cầu kinh tế trước hết cũng là nhu cầu về vật chất, song không phải mọi nhu cầu về vật chất đều là nhu cầu kinh tế. Trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người, chỉ khi nào xuất hiện các hình thức khác nhau về sở hữu tư liệu sản xuất, xuất hiện phân công lao động xã hội, lúc đó những nhu cầu về vật chất của con người mới mang tính chất xã hội và chuyển hóa thành nhu cầu kinh tế. Khi nhu cầu kinh tế của một chủ thể nào đó được đáp ứng, được thỏa mãn thì lúc đó mới xuất hiện lợi ích kinh tế. Như vâ ̣y, lợi ích nảy sinh từ nhu cầu, là cái phản ánh quan hê ̣ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hô ̣i. Khi các nhu
- cầu được đáp ứng, được thỏa mãn, có nghĩa con người đã có lợi ích. Lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan tồn tại trong đời sống xã hội, gắn liền với chủ thể. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, lợi ích cũng mang tính giai cấp và tính lịch sử cụ thể. Nhu cầu của con người rất phong phú đa dạng nên lợi ích cũng rất phong phú và đa dạng. Nhu cầu có nhu cầu vật chất hay nhu cầu văn hoá tinh thần; nhu cầu trước mắt hay nhu cầu lâu dài; nhu cầu tiêu dùng hay nhu cầu sản xuất. Theo đó có lợi ích vật chất hay tinh thần; lợi ích trước mắt hay lợi ích lâu dài. Mặt khác, trong các hoạt động thực tiễn vì sự tồn tại và phát triển của mình, con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau, những nhu cầu chung là cơ sở hình thành lợi ích chung. Ngoài những lợi ích chung, con người còn có lợi ích riêng nảy sinh từ các nhu cầu trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Như vâ ̣y, bên cạnh những nhu cầu chung của tập thể, xã hội, còn có nhu cầu riêng của cá nhân, những nhu cầu này hình thành nên lợi ích chung và lợi ích của mỗi cá nhân. Từ đó, có thể quan niệm lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan gắn liền với những chủ thể xác định, được nảy sinh từ nhu cầu và nhằm thoả mãn nhu cầu con người trong những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định. Trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người có thể nảy sinh rất nhiều quan hệ lợi ích. Nếu phân chia theo lĩnh vực thì bao gồm: Lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Nếu phân chia theo phạm vi cấp độ có: Lợi ích các nhân, nhóm, tập thể, xã hội. Phân chia theo thời gian có: Lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài… Phân chia theo các khâu của quá trình tái sản xuất thì có: Lợi ích người sản xuất, người tiêu dùng, nhà phân phối. Lợi ích kinh tế Trong xã hô ̣i có nhiều lợi ích khác nhau, mỗi lợi ích có vai trò nhất định đối với mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, tầng lớp cụ thể, trong đó lợi ích kinh tế trực tiếp đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, về bản chất lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, được quy định bởi hệ thống các quan hệ kinh tế nhất định và biểu hiện mối quan hệ lẫn nhau giữa sản xuất vật chất và nhu cầu vật chất. Nói cách
- khác, lợi ích kinh tế là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể kinh tế. Nó là những khoản thu nhập được ấn định bởi các mối quan hệ kinh tế nhằm đảm bảo điều kiện cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển của các chủ thể. Khi không thực hiện được lợi ích kinh tế, nghĩa là không nhận được những khoản thu nhập nhất định, chủ thể kinh tế không thể tồn tại và phát triển như là đại biểu độc lập của các quan hệ kinh tế. Như vậy quan hệ kinh tế quyết định lợi ích kinh tế thông qua vai trò, vị trí các chủ thể lợi ích trong một hệ thống xã hội nhất định. Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định. Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại và phát triển thì nhu cầu của họ phải được đáp ứng. Lợi ích và nhu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lợi ích bắt nguồn từ nhu cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi ích. Cũng giống như lợi ích của con người nói chung, lợi ích kinh tế gắn liền với nhu cầu, song đây không phải là nhu cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh tế (nhu cầu vật chất). Chỉ có những nhu cầu kinh tế mới làm phát sinh lợi ích kinh tế. Vì vậy, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế, một mặt, nó phản ánh những điều kiện, những phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi con người, mỗi chủ thể. Suy cho cùng, lợi ích kinh tế được biểu hiện ở mức độ của cải vật chất mà mỗi con người có được, khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Mặt khác, nó phản ánh quan hệ giữa con người với con người trong quá trình tham gia vào các hoạt động đó để tạo ra của cải vật chất cho mình. Những quan hệ đó chính là quan hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy lợi ích kinh tế còn là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định. Quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí, vai trò của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất, mà nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất,
- là hình thức vốn có bên trong, hình thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo Ph.Ăngghen: Các quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích. Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ xã hội nhất định sẽ quy định hệ thống lợi ích kinh tế của xã hội đó. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta tồn tại nhiều quan hệ sản xuất, nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, do đó hệ thống lợi ích kinh tế cũng mang tính đa dạng. Tùy góc độ xem xét mà ta có thể phân chia thành các nhóm, các loại lợi ích kinh tế khác nhau. Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: Lợi ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội. Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành phần kinh tế đó. Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng. Dù cách phân chia có thể khác nhau, song các lợi ích kinh tế bao giờ cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một hệ thống, trong đó lợi ích kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế khác. Chẳng hạn, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh tế của người trao đổi, người tiêu dùng và ngược lại. Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn đến xu hướng lấn át của lợi ích kinh tế này đối với lợi ích kinh tế khác. Chính vì vậy, nó có thể gây nên những xung đột nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế - xã hội. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích kinh tế cũng mang tính đối kháng. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa các giai cấp. Trong thực tế, lợi ích kinh tế thường được biểu hiện ở các hình thức thu nhập như: tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ phí...
- Từ những phân tích trên có thể hiểu: Lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể kinh tế. Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã hội thì trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế. Trong hệ thống lợi ích kinh tế: cá nhân, tập thể và xã hội, thì lợi ích kinh tế cá nhân là động lực trực tiếp, mạnh mẽ nhất thúc đẩy các chủ thể tham gia một cách tích cực vào các hoạt động kinh tế - xã hội và nâng cao hiệu quả kinh tế của chúng. Bởi vì: Thứ nhất: lợi ích kinh tế cá nhân là lợi ích thiết thực nhất, gắn liền với từng cá nhân, từng chủ thể. Nó trực tiếp đáp ứng nhu cầu vật chất của từng cá nhân, của từng chủ thể đó khi tham gia vào các hoạt động sản xuất xã hội. Ở đâu và khi nào lợi ích kinh tế cá nhân được bảo đảm, thì ở đó sẽ tạo ra được động lực mạnh mẽ nhất kích thích họ phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Có thể nói, lợi ích kinh tế cá nhân là "huyệt" mà sự tác động vào đó sẽ gây nên phản ứng nhanh nhạy nhất của các chủ thể trên. Nó là chất kết dính người lao động với quá trình sản xuất kinh doanh, là một thứ "dầu nhờn" đặc biệt để bôi trơn guồng máy kinh tế. Điều đó lý giải vì sao cơ chế thị trường đã tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời nó cũng lý giải vì sao cơ chế thị trường còn có nhiều mặt trái. Thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta trong những năm qua cũng đã chứng minh điều đó. Chẳng hạn, trong lĩnh vực nông nghiệp, với cơ chế khoán hộ, Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho các hộ nông dân, cùng với những chính sách khác, nước ta đã từ một nước thiếu lương thực, phải nhập khẩu lương thực, trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai, thứ ba trên thế giới. Thứ hai: lợi ích kinh tế cá nhân tạo điều kiện để thực hiện và nâng cao lợi ích văn hóa, tinh thần của từng cá nhân. Khi lợi ích kinh tế cá nhân bảo đảm, các chủ thể tham gia một cách tích cực và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
- doanh, từ đó họ cũng có điều kiện để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của mình. Thứ ba: lợi ích kinh tế cá nhân là cơ sở thực hiện lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích xã hội vì dân có giàu thì nước mới mạnh. Khi lợi ích kinh tế cá nhân được bảo đảm, người dân hăng say, tích cực sản xuất để thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước, tập thể thì lợi ích kinh tế của Nhà nước (xã hội), tập thể cũng mới được thực hiện. Vì vậy, để kích thích tính tích cực của người lao động, phát huy tối đa vai trò nhân tố con người, thì vấn đề mấu chốt, căn bản nhất là phải tác động vào lợi ích kinh tế mỗi cá nhân. Tạo điều kiện để mỗi người lao động, mỗi cá nhân, mỗi chủ thể thực hiện được lợi ích kinh tế của mình, bảo đảm sao cho mỗi người được đóng góp và được hưởng phần thu nhập phù hợp với sự đóng góp của họ. Những đặc trưng chủ yếu của lợi ích kinh tế Một là, lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế và quy luật kinh tế Lợi ích kinh tế là cái phản ánh những quan hê ̣ kinh tế, do các quan hê ̣ kinh tế sinh ra; là sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Nói đến lợi ích kinh tế trước hết là nói đến quan hệ phân phối kết quả sản xuất. Việc thực hiện phân phối kết quả sản xuất trong một phương thức sản xuất nhất định là câu trả lời chính xác nhất: lợi ích thuộc về ai? Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan hệ phân phối phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất của xã hội. Điều đó có nghĩa, mỗi quan hệ sản xuất có một phương thức phân phối sản phẩm, do đó có một hình thức thực hiện lợi ích kinh tế. Tính chất của lợi ích là do những quan hệ sản xuất quyết định, mà quan hệ này lại do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Nó cách khác, lợi ích kinh tế có tính khách quan. Trong các xã hội có giai cấp, lợi ích kinh tế tất yếu mang tính chất giai cấp. Ví dụ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp tư sản là thu được
- giá trị thặng dư và lợi nhuận tối đa bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê. Còn lợi ích kinh tế của những người lao động chỉ hạn chế trong phạm vi giá trị sức lao động của họ. Do lợi ích kinh tế có tính giai cấp nên trong điều kiện có nhiều thành phần kinh tế như hiện nay tất yếu tồn tại mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa các chủ thể kinh tế khác với nhau. Khi trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều quan hệ sở hữu khác nhau đối với tư liệu sản xuất, tất yếu tồn tại nhiều phương thức thực hiện lợi ích kinh tế. Các phương thức này có thể tồn tại độc lập, cũng có thể tồn tại trong mối quan hệ đan kết vào nhau, tạo nên cơ cấu thực hiện lợi ích trong một nền sản xuất xã hội. Sự tồn tại đó là khách quan do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và điều kiện lịch sử cụ thể quyết định. Lợi ích kinh tế một khi đã thể hiện những quan hệ kinh tế thì đồng thời cũng thể hiện mối liên hệ nội tại tất yếu, có tính ổn định trong quan hệ sản xuất, tức là những quy luật kinh tế. Như vậy, lợi ích kinh tế được thể hiện không những các quan hệ kinh tế mà cả những quy luật kinh tế. Trên cơ sở tư tưởng đó, có thể nói lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể của các quan hệ kinh tế và các quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó. Việc nhận thức đặc trưng này giúp chúng ta hiểu rõ và sâu hơn cơ chế hoạt động và vận dụng quy luật kinh tế, vì lợi ích kinh tế là một nhân tố cần thiết của cơ chế đó. Hai là, lợi ích kinh tế luôn gắn liền với nhu cầu kinh tế Lợi ích kinh tế là một hình thức biểu hiện của các quan hệ kinh tế, các quan hệ kinh tế này lại vận động theo những quy luật khách quan, nhưng những quy luật kinh tế chỉ có thể tác động thông qua hoạt động thực tiễn của con người, mà biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích. Bởi vì, lợi ích kinh tế luôn gắn liền với nhu cầu. Tất nhiên, không phải mọi nhu cầu đều là lợi ích kinh tế, mà chỉ những nhu cầu về vật chất, kinh tế mới được gọi là lợi ích kinh tế. Nói cách khác, lợi ích kinh tế chính là phương thức nhằm thực hiện nhu cầu của chủ thể tham gia vào hoạt động kinh tế; nó là mối quan hệ xã hội đặc biệt,
- là phương thức nhằm khẳng định địa vị của chủ thể xã hội trong bối cảnh có những mối quan hệ xã hội phức tạp. Ba là, lợi ích kinh tế bao giờ cũng mang tính chất lịch sử Mỗi xã hội đều có một hệ thống lợi ích kinh tế của mình do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Các hệ thống lợi ích kinh tế đó khác nhau về tính chất, quy mô, phương thức, kết cấu và mối quan hệ nội tại giữa các thành phần trong kết cấu đó. Theo C.Mác, quy mô của những nhu cầu được gọi là tất yếu và những phương thức để thỏa mãn nhu cầu ấy chính là sản phẩm của lịch sử và phụ thuộc phần lớn và trình độ văn hóa của đất nước. Nhận thức được tính chất lịch sử của lợi ích kinh tế là một yêu cầu có ý nghĩa quan trọng đối với việc tổ chức phương thức thực hiện lợi ích của các chủ thể và xác định một cơ chế kinh tế hợp lý, có hiệu quả. Cần phân biệt tính chất, quy mô của lợi ích kinh tế, làm rõ cơ cấu của hệ thống lợi ích đó, từng bộ phận cấu thành của nó, vị trí của từng bộ phận ấy, xác định bộ phận nào đóng vai trò chủ yếu và sự tác động qua lại với các lợi ích kinh tế khác. Như vậy, lợi ích kinh tế là sự thống nhất giữa nhân tố khách quan với nhân tố chủ quan và mang tính chất lịch sử cụ thể. Đây là đặc trưng nổi bật của lợi ích kinh tế. Vai trò của lợi ích kinh tế Thứ nhất, lợi ích kinh tế là một trong những động lực cơ bản của sự tiến bộ xã hội nói chung, phát triển sản xuất kinh doanh nói riêng. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, động lực trực tiếp thúc đẩy các nhà tư bản là lợi nhuận siêu ngạch. Đến chủ nghĩa tư bản độc quyền thì độc quyền làm giảm yếu tố kích thích phát triển kỹ thuật, làm suy giảm động lực kinh tế. Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, muốn tạo ra những chính sách kinh tế đúng đắn, hợp lý thì phải giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội. Đặc biệt trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp đáp ứng nhu cầu xây dựng các khu công nghiệp, việc đảm bảo được lợi ích của người nông dân sẽ tạo được sự đồng tình với chủ trương phát triển đô thị, xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại
- của Đảng và Nhà nước, người dân sẽ đồng thuận giao đất, giao mặt bằng cho phát triển các khu công nghiệp. Thứ hai, lợi ích kinh tế đóng vai trò là cơ chế tác động chung của tất cả các quy luật kinh tế. Quan hệ sản xuất là khách quan, vận động của nó chính là ở sự vận động của các quy luật kinh tế. Phương thức vận động của quy luật kinh tế phải thông qua con người, tức là thông qua lợi ích kinh tế của con người. Ở đây, tính khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi ích để chi phối con người phải hoạt động theo quy luật. Thực tế cho thấy không có động lực kinh tế nào đứng ngoài quan hệ sản xuất. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quan hệ sản xuất là quan hệ trực tiếp, còn quan hệ giữa các lợi ích khác (như lợi ích chính trị, tinh thần…) với quan hệ sản xuất chỉ là gián tiếp, thông qua những nấc thang trung gian khác nhau của kiến trúc thượng tầng. Theo Ph.Ăngghen: Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định, được biểu hiện dưới hình thức lợi ích. Nói cách khác, nhận thức trước tiên của con người về quan hệ sản xuất, là nhận thức về lợi ích kinh tế, vì nó biểu hiện trên bề mặt của đời sống xã hội ở quan hệ phân phối. Do là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt khách quan và chủ quan, nên lợi ích kinh tế không chỉ là cơ chế tác động chung của các quy luật kinh tế do quan hệ sản xuất sinh ra, mà còn là động cơ của hoạt động kinh tế của con người. Các mặt khách quan và chủ quan thống nhất biện chứng nên không có lợi ích kinh tế khách quan thuần túy tồn tại ngoài con người hoặc con người không có một tia ý thức gì về nó. Một mặt, thông qua lợi ích kinh tế con người mưu cầu đời sống. Mặt khác, thông qua lợi ích kinh tế mà xu hướng phát triển khách quan của sản xuất xã hội được thực hiện. Vì vậy lợi ích kinh tế trở thành một trong những động lực cơ bản, phổ biến của sự phát triển không ngừng của sản xuất và đời sống xã hội. Thứ ba, lợi ích kinh tế có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
123 p | 842 | 193
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 20 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 19 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn