BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
**************
NGUYỄN THỊ MAI
CÁC NHÂN TỐ CHÍNH ẢNH HƯỞNG ĐẾN
TÌNH TRẠNG NGHÈO CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH
Ở TÂY NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
**************
NGUYỄN THỊ MAI
CÁC NHÂN TỐ CHÍNH ẢNH HƯỞNG ĐẾN
TÌNH TRẠNG NGHÈO CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH
Ở TÂY NGUYÊN
Chuyên ngành: Kinh t
ế phát triển
Mã số: 60.31.05
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀNG BẢO
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2010
i
LỜI CAM ĐOAN
Với tư cách là tác giả của nghiên cứu, tôi xin cam đoan những nhận định và
luận cứ khoa học đưa ra trong nghiên cứu này hoàn toàn không sao chép từ các
công trình khác mà xuất phát từ chính kiến của bản thân tác giả, mọi sự trích dẫn
đều có nguồn gốc rõ ràng. Số liệu trích dẫn đều được sự cho phép của các cơ quan,
ban ngành. Nếu có sự đạo văn và sao chép tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
Hội Đồng Khoa Học.
ii
LỜI CẢM ƠN
Xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến TS. Nguyễn Hoàng Bảo, người
hướng dẫn khoa học cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Xin cảm ơn
TS. Ngô Quang Thành (Học viện chính trị quốc gia) đã tư vấn và hỗ trợ tôi trong
quá trình xử lý số liệu và lựa chọn khung phân tích. Đồng thời, xin trân trọng cảm
ơn các Thầy, Cô của trường Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh với sự dìu dắt,
hướng dẫn, khích lệ trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, đã truyền đạt những
kiến thức quý báu, góp phần thực hiện thành công nghiên cứu này.
iii
TÓM TẮT
Đói nghèo là một trong những vấn đề mang tính toàn cầu. Hầu hết các quốc
gia đều quan tâm đến chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo. Đối với Việt Nam,
giảm nghèo là một trong những chính sách quan trọng, chính sách không mang tính
ban phát, ban ơn mà đó là trách nhiệm, đạo lý, truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề giảm nghèo vẫn đang là một thách thức, nhất là những vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, công tác giảm nghèo phải được
thực thi liên tục, lâu dài và thực hiện phải có căn cơ. Với ý nghĩa trên, tác giả thực
hiện đề tài nghiên cứu: “Các nhân tố chính ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của hộ
gia đình ở Tây Nguyên”. Trên cơ sở bộ dữ liệu VHLSS2008, tác giả sử dụng mô
hình logistic để đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của hộ gia
đình ở Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm các nhân tố như: tuổi chủ,
tuổi chủ bình phương, dân tộc, số năm đi học của chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc, làm trong
ngành dịch vụ, khu vực, biến các tỉnh (Kon Tum, Đắk Lắk , Đắk Nông, Lâm Đồng)
và biến tương tác (tỷ lệ di dân x đất xã bình quân nhóm 3) có ý nghĩa ở mức 5%;
biến loại nhà tạm, mức vay bình quân của hộ, biến tương tác (tỷ lệ di dân x tệ nạn
mại dâm), và biến tương tác (tỷ lệ di dân x thất nghiệp) có ý nghĩa ở mức 10%. Tuy
nhiên chỉ có tỷ lệ phụ thuộc, tỷ lệ di dân tương tác với diện tích đất xã bình quân
theo hộ và tệ nạn mại dâm có tác động mạnh đến khả năng nghèo của hộ gia đình.
Vì vậy, thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, quản lý và kiểm soát tình trạng
di dân là giải pháp căn cơ để xóa đói, giảm nghèo ở Tây Nguyên.
iv
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Trang
Lời cam đoan ........................................................................................................... i
Lời cảm ơn .............................................................................................................. ii
Tóm tắt .................................................................................................................... iii
Mục lục .................................................................................................................... iv
Danh mục các bảng biểu .......................................................................................... vii
Danh mục các từ viết tắt .......................................................................................... ix
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 2
3. Câu hỏi và giả thiết nghiên cứu ........................................................................... 2
3.1. Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................... 2
3.2. Giả thiết nghiên cứu ......................................................................................... 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
4.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 3
4.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 3
5. Kết cấu của luận văn ........................................................................................... 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................... 4
1.1. Các quan điểm về nghèo .................................................................................. 4
1.2. Xác định ngưỡng nghèo ................................................................................... 7
1.3. Các chỉ số đánh giá nghèo................................................................................. 9
1.4. Các nguyên nhân dẫn đến nghèo .................................................................... 11
1.4.1. Nhóm các nhân tố thuộc hộ gia đình ........................................................... 15
1.4.1.1. Độ tuổi của chủ hộ ................................................................................... 15
1.4.1.2. Giới tính .................................................................................................. 15
1.4.1.3. Trình độ học vấn của chủ hộ .................................................................... 16
1.4.1.4. Tỷ lệ người sống phụ thuộc ..................................................................... 18
1.4.1.5. Dân tộc ................................................................................................. 19
v
1.4.1.6. Tình trạng việc làm và loại nghề của chủ hộ ........................................ 21
1.4.1.7. Tài sản lâu bền ..................................................................................... 22
1.4.2. Nhóm nhân tố liên quan đến vai trò của Chính phủ (trong phân bổ nguồn lực)
................................................................................................................................ 22
1.4.2.1. Tình trạng sở hữu đất đai ...................................................................... 22
1.4.2.2. Tiếp cận nguồn tín dụng chính thức và phi chính thức......................... 23
1.4.2.3. Tiếp cận hạ tầng cơ sở thiết yếu ........................................................... 24
1.4.2.4. Tình trạng di dân .................................................................................. 25
1.4.2.5. Khoảng cách thành thị - nông thôn ..................................................... 26
1.4.3. Mô hình đề xuất .......................................................................................... 26
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 28
2.1. Sơ lược về đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................. 28
2.2. Phương pháp phân tích ................................................................................... 29
2.2.1. Phương pháp thống kê mô tả........................................................................ 29
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu tương quan ......................................................... 29
2.3. Tiêu chí phân tích nghèo ................................................................................. 29
2.4. Cơ sở xác định nghèo...................................................................................... 30
2.5. Nguồn số liệu ................................................................................................. 30
2.6. Mô hình kinh tế lượng .................................................................................... 31
Chương 3: CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TÌNH TRẠNG NGHÈO CỦA
CÁC HỘ GIA ĐÌNH Ở TÂY NGUYÊN........................................................... 36
3.1. Tổng quan về tình trạng nghèo tại vùng nghiên cứu ...................................... 36
3.2. Nghèo theo vị trí địa lý ................................................................................... 37
3.3. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tuổi của chủ hộ ................................. 38
3.4. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với giới tính của chủ hộ ......................... 39
3.5. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với số năm đi học của chủ hộ ................. 39
3.6. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tỷ lệ phụ thuộc trong hộ .................. 40
3.7. Mối quan hệ giữa nghèo với tình trạng dân tộc của chủ hộ ........................... 41
vi
3.8. Mối quan hệ giữa nghèo với nghề nghiệp chính và tình trạng việc làm của chủ
hộ ........................................................................................................................... 43
3.9. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tài sản của của chủ hộ ...................... 46
3.10. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với diện tích đất sản xuất bình quân..... 47
3.11. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với khả năng tiếp cận tín dụng ............ 49
3.12. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với các đặc điểm hạ tầng cơ sở............. 51
3.13. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tỷ lệ di dân đến xã .......................... 53
3.14. Kết quả ước lượng mô hình logistic ............................................................. 54
Chương 4: KẾT LUẬN ....................................................................................... 60
Việc làm ................................................................................................................ 60
Số người phụ thuộc ............................................................................................... 61
Dân tộc .................................................................................................................. 61
Giáo dục ................................................................................................................ 63
Tín dụng ................................................................................................................ 63
Tình trạng di dân ................................................................................................... 64
Chính sách giảm nghèo cho các tỉnh và khu vực thành thị - nông thôn ............... 65
Giới hạn của đề tài và hướng nghiên cứu mở rộng ............................................... 66
Kết luận ................................................................................................................. 67
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Những nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói ............................ 13
Bảng 2.1: Trích rút dữ liệu .................................................................................... 30
Bảng 2.2: Khai báo các biến trong mô hình .......................................................... 32
Bảng 3.1: Tỷ lệ nghèo và chi tiêu bình quân của một hộ .................................... 36
Bảng 3.2: Tỷ lệ nghèo theo vị trí địa lý ................................................................ 37
Bảng 3.3: Tuổi chủ hộ bình quân của Vùng và cả nước ....................................... 38
Bảng 3.4: Tỷ lệ nghèo, số năm đi học trung bình và chi tiêu bình quân của hộ theo
giới tính ................................................................................................................. 39
Bảng 3.5: Trình độ giáo dục phân theo nhóm hộ .................................................. 39
Bảng 3.6: Tỷ lệ phụ thuộc của hộ theo khu vực ................................................... 41
Bảng 3.7: Tỷ lệ hộ nghèo và chi tiêu bình quân theo dân tộc ............................... 41
Bảng 3.8: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo dân tộc và khu vực ..................................... 42
Bảng 3.9: Tỷ lệ bằng cấp cao nhất của chủ hộ theo dân tộc ................................ 42
Bảng 3.10: Tình trạng việc làm, nhóm ngành, loại công việc của chủ hộ phân theo
nhóm hộ và khu vực ............................................................................................. 44
Bảng 3.11: Kỹ năng lao động phân theo nhóm ngành ......................................... 45
Bảng 3.12: Các nguyên nhân khiến chủ hộ không đi làm ..................................... 45
Bảng 3.13: Diện tích nhà ở bình quân và tình trạng nhà ở của hộ ........................ 46
Bảng 3.14: Tỷ lệ có đất, diện tích đất sản xuất bình quân, loại đất và thu nhập từ đất
phân theo hộ .......................................................................................................... 47
Bảng 3.15: Diện tích đất sản xuất trung bình của hộ phân theo khu vực (100m2) .................................................................................................... 48
Bảng 3.16: Khả năng tiếp cận và trị giá khoản vay của hộ ................................... 49
Bảng 3.17: Nguồn vốn vay của hộ ........................................................................ 50
Bảng 3.18: Mục đích sử dụng khoản vay của hộ .................................................. 51
Bảng 3.19: Tỷ lệ nghèo tiếp cận được hạ tầng cơ sở, các dịch vụ và chi tiêu bình
quân của hộ theo cấp tỉnh ...................................................................................... 51
viii
Bảng 3.20: Nhóm thông tin liên quan đến di dân phân theo cấp tỉnh ................... 53
Bảng 3.21: Kết quả hồi quy logistic ...................................................................... 54
Bảng 3.22: Mô phỏng xác suất nghèo của hộ gia đình (%) .................................. 56
ix
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AusAID: Cơ quan phát triển Quốc tế Australia (Australian Agency for
International Development)
BCPTVN: Báo cáo phát triển Việt Nam
Bộ LĐTBXH: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
ESCAP: Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương
(United Nations Economic & Social Commission for Asia and
the Pacific)
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐTMSDC: Điều tra Mức sống Dân cư của Việt Nam
Đánh giá đói nghèo khu vục sông Cửu Long MRPA:
Ngân hàng thế giới NHTG:
Đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân PPA:
(Participatory Poverty Assessment)
nhóm hành động chống đói nghèo PTF:
Báo cáo đói nghèo và quản trị nhà nước có sự tham gia của RPGA:
người dân
Tổng cục thống kê TCTK:
Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (United Nations UNDP:
Develoment Programme)
VHLSS2008: Bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư năm 2008
Ngân hàng thế giới (World Bank). WB:
Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) WTO:
Xóa đói giảm nghèo XĐGN:
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn, được sự quan tâm hàng
đầu của Đảng, nhà nước trong nhiều thập kỷ qua. Đây vấn đề luôn được coi là mục
tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công cuộc
phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng kể và được quốc tế đánh giá cao. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh từ 28,9% năm 2002
xuống còn 19,5% năm 2004, còn 16% năm 2006, và 14,5% năm 2008 (TCTK,2008)
và mục tiêu đến năm 2010 tỉ lệ nghèo đói chỉ còn 10% - 11% (quyết định của chính
phủ số 20/2007/QĐ-TTg, 2007)
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp với Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia;
gồm 5 tỉnh với khoảng 5.036.700 người (TCTK,2008); tập trung nhiều cộng đồng
dân tộc thiểu số chiếm 31,9% (theo ADB, 2003), tỉ lệ nghèo đói và nguy cơ tái
nghèo của cộng đồng cư dân tại khu vực này vẫn chiếm khá cao khoảng 24,1% năm
2008, cao hơn 9,6% so với chuẩn nghèo của cả nước và là vùng có tỷ lệ nghèo
chung cao thứ 3 (sau Tây Bắc và Đông Bắc) so với 8 vùng của cả nước
(TCTK,2008). Do đó, việc tìm ra những giải pháp thiết thực, cơ bản và lâu dài để
những người dân Tây Nguyên nói chung và người dân sống ở nông thôn Tây
Nguyên nói riêng thật sự thoát nghèo, chống tái nghèo, được tiếp cận với những cơ
hội mới và được hưởng lợi từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là một thách
thức lớn đối với khu vực này.
Từ nhiều năm qua, vấn đề nghèo đói của người dân đã được đưa ra thảo luận,
bàn bạc và đã có một số công trình nghiên cứu liên quan nghèo đói và các yếu tố
ảnh hưởng từ các góc độ và phạm vi khác nhau. Các yếu tố ảnh hưởng tới nghèo đói
đã được đề cập trong các nghiên cứu trước đây như: Báo cáo đánh giá nghèo đói và
quản lý nhà nước có sự tham gia của người dân vùng ven biển Miền Trung (Nhóm
hành động chống đói nghèo, 2003); Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo
miền núi phía Bắc (Dự án diễn đàn miền núi Ford, 2004); Phân tích nghèo đói ở
vùng Đông Nam Bộ (Nguyễn Trọng Hoài & Cộng tác viên, 2005); Nghèo đói và
Trang 2
dân tộc (Hoàng Thanh Hương, Trần Hương Giang và Trần Bình Minh, 2006); Báo
cáo phát triển Việt Nam: hướng tới tầm cao mới (Ngân hàng thế giới, 2007); Kết
quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008 (Tổng cục thống kê, 2008) và nhiều
nghiên cứu khác.
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây đã tìm ra mối liên hệ giữa các yếu tố
với vấn đề nghèo đói. Tuy nhiên, vẫn chưa có một nghiên cứu nào xác định những
nhân tố chính tác động đến xác suất rơi vào tình trạng nghèo của các hộ gia đình
khu vực Tây Nguyên. Vì vậy, đề tài được hình thành để nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến tình trạng nghèo đói của các hộ gia đình khu vực Tây Nguyên, nhằm
giúp cho cơ quan quản lý nhà nước thấy được đâu là những vấn đề cần quan tâm,
tác động đến những nhân tố nào để mang lại hiệu quả và đảm bảo được mục tiêu
phát triển của Vùng trong tiến trình xóa đói giảm nghèo.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, mục tiêu nghiên cứu bao
trùm của đề tài là tìm ra những nhân tố chính ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của
các hộ gia đình Tây Nguyên, trên cơ sở đó gợi ý chính sách cơ bản và cần thiết
nhằm giảm nghèo cho khu vực này.
3. Câu hỏi và giả thiết nghiên cứu
3.1. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi trọng tâm của nghiên cứu là xác định các nhân tố chính nào tác động
đến tình trạng nghèo của hộ gia đình tại khu vực Tây Nguyên
3.2. Giả thiết nghiên cứu
Trình độ học vấn của chủ hộ, gia đình có nhiều người phụ thuộc, thiếu đất sản
xuất, thuộc nhóm dân tộc ít người, thiếu vốn là sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ
nghèo và không nghèo ở khu vực Tây Nguyên.
Trình độ học vấn chủ hộ, gia đình có nhiều người phụ thuộc, thiếu đất sản xuất,
thuộc nhóm dân tộc ít người, không tiếp cận được nguồn vốn vay chính thức, tình
trạng di dân cao và cơ sở hạ tầng nghèo nàn là các nhân tố chính ảnh hưởng đến
việc tăng thu nhập và sự đói nghèo của các hộ dân ở khu vực này.
Trang 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những hộ gia đình khu vực Tây Nguyên
trong bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư năm 2008.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu của đề tài được thực hiện trong phạm vi sau đây: Xét về lý thuyết,
có nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới nghèo đói của các hộ gia đình
ở Tây Nguyên như: yếu tố về các đặc điểm kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên và các
nhân tố khác. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào các yếu tố về đặc điểm
kinh tế xã hội của các hộ gia đình. Về địa lý, Tây Nguyên là một trong những khu
vực được đánh giá là có tỷ lệ nghèo cao so với cả nước. Do vậy, kết quả nghiên cứu
trong một góc độ nào đó có thể đại diện và làm tài liệu tham khảo cho các vùng
khác có vị trí địa lý tương đồng với Tây Nguyên. Nghiên cứu tiến hành dựa trên bộ
điều tra mức sống dân cư năm 2008 do Tổng cục thống kê thực hiện.
5. Kết cấu của luận văn
Trong chương một, tác giả trình bày các quan niệm về nghèo, xác định chỉ
tiêu đo lường nghèo, xác định ngưỡng nghèo, các thước đo nghèo thông dụng, các
nguyên nhân dẫn đến nghèo ở Việt Nam và các quốc gia khác, từ đó rút ra khung l ý
thuyết và mô hình nghiên cứu cho Vùng. Kế thừa những lý thuyết của chương một,
chương hai tác giả sơ lược địa bàn nghiên cứu, phương pháp phân tích và nguồn số
liệu cần thiết cho mô hình kinh tế lượng; từ đó tác giả thống kê mô tả, so sánh mối
tương quan giữa nghèo và các nhân tố kinh tế, xã hội, hạ tầng cơ sở và phân bổ
nguồn lực của Vùng và phân tích mô hình lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến
tình trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên trong chương ba. Cuối cùng, trong
chương bốn, tác giả đưa ra kết luận một số nhân tố chính làm cơ sở cho chính sách
giảm nghèo cho Vùng.
Trang 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Để có cái nhìn tổng quan về những mô hình nghiên cứu trước và cơ sở lý
thuyết về nghèo đói, trong chương một tác giả khái quát những quan điểm khác
nhau về nghèo, ngưỡng nghèo, tìm ra các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo của
hộ, từ đó đưa ra khung lý thuyết mô hình xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tình
trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên.
1.1. Các quan điểm về nghèo
Nghèo là một khái niệm có nhiều mặt và không có một khái niệm duy nhất
về nghèo. Có thể hiểu nghèo là tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện, chẳng
hạn như thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để bảo đảm
tiêu dùng trong những lúc khó khăn, dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi,
ít có khả năng truyền đạt nhu cầu hay những khó khăn tới người có khả năng giải
quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, cảm giác bị sỉ nhục, không
được người khác tôn trọng và nhiều ý nghĩa khác. Do có quá nhiều khía cạnh như
vậy mà khái niệm nghèo chưa bao giờ thống nhất. Các tổ chức, cá nhân nghiên cứu
nghèo đói thường sử dụng khái niệm riêng của mình về nghèo tùy theo góc quan sát
cũng như quan điểm của họ.
Theo Rowntree (1901) cho rằng nghèo là tình trạng thiếu một số lượng tiền
cần để “có được những thứ tối thiểu cần thiết cho việc duy trì thể chất thuần tuý”
(trích trong Nguyễn Trọng Hoài, 2007). Đến năm 1993, tại hội hội nghị chống
nghèo đói khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Thái Lan
nhiều quốc gia thống nhất: “nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của địa phương”. Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu khác đã xác định "nghèo" là
phần dân số không thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cơ bản (Blackwood & Cộng tác
viên, 1994). Các tác giả xem nghèo đói là một hàm của các biến số như giáo dục,
sức khỏe, tuổi thọ, tỷ lệ tử vong ở trẻ em (Blackwood & Cộng tác viên, 1994).
Trang 5
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, đói nghèo được được
hiểu trong phạm vi rất rộng như: không thể đáp ứng "nhu cầu cơ bản". Nhu cầu cơ
bản được đề cập bao gồm nhu cầu vật chất (thực phẩm, sự chăm sóc về y tế, giáo
dục, chỗ ở, và các nhu cầu vật chất khác); phi vật chất (sự tham gia, danh dự) và
đòi hỏi “có một cuộc sống đầy ý nghĩa" (Blackwood & Cộng tác viên, 1994). Bên
cạnh đó Sen (1999) cho rằng nghèo là không có khả năng và quyền tự do đáng kể
để vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn. Theo RPGA (2003), nhận thức về
đói nghèo của nhóm những người nghèo ở vùng ven biển Miền trung và Tây
nguyên có những nét đặc trưng riêng cụ thể: “ một hộ nghèo có nghĩa là có một
ngôi nhà xây tạm bợ (không mái ngói, không tường gỗ), thường xuyên có người
ốm, không có hoặc có ít gia súc, không có vốn để kinh doanh, thiếu kinh nghiệm
kinh doanh, không có tài sản có giá trị (không có xe đạp), có mảnh đất nhỏ và cằn
cỗi, có quá nhiều con nhỏ, là người già và cô đơn, bị mất mùa hoặc có thuyền đánh
cá không may mắn, không có đủ thức ăn cho quá ba tháng và phải kiếm củi hoặc
làm thuê để sống qua ngày.” Cũng như theo báo cáo phát triển Việt Nam (2004),
nghèo là tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện: thu nhập bị hạn chế, hoặc thiếu
cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn,
dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và
những khó khăn, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, cảm giác bị xỉ nhục,
không được người khác tôn trọng và nhiều phương diện khác.
Nhìn chung rất khó để đưa ra được định nghĩa nghèo thường vì nghèo đói có
nhiều cách tiếp cận. Có nhiều tiêu chí khác nhau được sử dụng để xác định nghèo
đói. Qua thời gian, ngân hàng thế giới cũng có những cách tiếp cận khác nhau về
nghèo trong các báo cáo của mình. Trong Báo cáo năm 1990, định nghĩa nghèo đói
của tổ chức này bao gồm tình trạng thiếu thốn các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu
như giáo dục, y tế, dinh dưỡng. Đến năm 2000/2001, báo cáo đã thêm vào khái
niệm những nét mới như tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội hay tình trạng dễ bị tổn
thương: “Xét về mặt phúc lợi, nghèo có nghĩa là khốn cùng. Nghèo có nghĩa là đói,
không có nhà cửa, quần áo, ốm đau và không có ai chăm sóc, mù chữ và không
Trang 6
được đến trường. Nhưng đối với người nghèo, sống trong cảnh bần hàn còn mang
nhiều ý nghĩa hơn thế. Người nghèo đặc biệt dễ bị tổn thương trước những sự kiện
bất thường nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ. Họ thường bị các thể chế của
nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra bên lề xã hội nên không có tiếng nói và
quyền lực trong các thể chế đó”, và nghèo chính là tình trạng mà cá nhân hoặc hộ
gia đình “không có khả năng có mức sống tối thiểu”.
Nói chung, có ba tiêu chuẩn chính về cách tiếp cận nghèo: tình trạng về kinh
tế, sức khỏe và tình trạng bị gạt ra ngoài lề của xã hội (Wagle, 2002) và có 3 bước
để xác định nghèo đói: (i) định nghĩa phúc lợi của hộ gia đình/ cá nhân, (ii) xác
định một giá trị chuẩn (tối thiểu) để tách biệt 2 nhóm nghèo và không nghèo (gọi là
ngưỡng nghèo) và (iii) tính toán các chỉ số thống kê tổng hợp dựa trên mối quan hệ
giữa phúc lợi kinh tế và ngưỡng nghèo (WB, 2005). Đo lường phúc lợi phức tạp
hơn, nó rộng hơn chỉ số phúc lợi kinh tế. Bởi phúc lợi còn bao gồm tuổi thọ, chế độ
dinh dưỡng, điều kiện nhà ở, tỷ lệ trẻ em đến trường, tỷ suất tử vong của trẻ em
(WB, 2005). Nghèo đói là một phạm trù rất rộng và định nghĩa về nghèo đói có thể
được hiểu không chỉ sự túng thiếu về mặt vật chất, mà còn liên quan đến rủi ro,
tính dễ bị tổn thương, vấn đề xã hội và các cơ hội (WB, 2006).
Quan niệm của chính người nghèo ở nước ta cũng như một số quốc gia khác
trên thế giới về nghèo đói đơn giản hơn, trực diện hơn. Kết quả các cuộc tham vấn
có sự tham gia của người dân nói rằng: “Nghèo đói là gì ư? Là hôm nay con tôi ăn
khoai, ngày mai không biết con tôi ăn gì? Bạn nhìn nhà của tôi thì biết, trong nhà
nhìn thấy mặt trời, khi mưa thì trong nhà cũng như ngoài sân” hoặc “nghèo đói
đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh tre, nứa lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột nát, không đủ đất
đai sản xuất, không có trâu bò, không có tivi, con cái thất học, ốm đau không có
tiền đi khám chữa bệnh”. Ở Việt Nam, một khái niệm về đói nghèo thường được sử
dụng là khái niệm được đưa ra tại hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế
xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương tổ chức ở Thái Lan năm 1993 và được
các quốc gia trong khu vực thống nhất. Khái niệm này cho rằng: “Nghèo đói là tình
trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của
Trang 7
con người, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận.”
Tóm lại, tất cả những quan niệm về nghèo đói nêu trên đều phản ánh ba khía
cạnh chủ yếu của người nghèo:Thứ nhất, có mức sống thấp hơn mức sống trung
bình của cộng đồng dân cư. Trong nghiên cứu tác giả sử dụng chuẩn nghèo của
Ngân hàng thế giới để tính toán và phân tích. Thứ hai, không được thụ hưởng
những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người và thứ ba là thiếu cơ hội
lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. Và mặc dù có sự đa dạng
trong khái niệm nghèo, các nhà nghiên cứu vẫn thường đo lường nghèo trong các
phân tích, nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công, hoặc để đánh giá
được mức độ thành công của các chính sách đó. Tiêu chí chung nhất để xác định
nghèo đói là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con
người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác
nhau chung nhất thường là ở chỗ thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của
từng vùng, từng quốc gia. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng khái niệm nghèo
của Rowtree (1901), nghèo là tình trạng thiếu một số lượng tiền cần thiết để có thể
duy trì cuộc sống.
1.2. Xác định ngưỡng nghèo
Theo World Bank (2005), ngưỡng nghèo (hay còn gọi chuẩn nghèo) là ranh
giới để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Có hai cách chính để xác
định ngưỡng nghèo:
Ngưỡng nghèo tuyệt đối: chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu
để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh. Phương pháp chung để xác
định ngưỡng nghèo này sử dụng một rổ các loại lương thực được coi là cần thiết, để
đảm bảo mức độ dinh dưỡng tốt cho con người. Rổ lương thực đó sẽ tính đến cả cơ
cấu tiêu dùng lương thực của các hộ gia đình đặc thù của một nước. Trên cơ sở đó
hai ngưỡng nghèo tuyệt đối sẽ được tính toán: Ngưỡng nghèo lương thực thực
phẩm: đo lường mức chi tiêu cần thiết để đảm bảo một gia đình có thể đủ mua một
Trang 8
lượng lương thực, thực phẩm để cung cấp cho mỗi thành viên trong hộ một lượng
calo là 2100 calo một ngày. Ngưỡng nghèo này thường thấp vì nó không tính đến
chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực khác. Ngưỡng nghèo chung: đo lường chi
phí để mua đủ một lượng hàng hóa lương thực, thực phẩm cung cấp lượng calo là
2100 calo và một số mặt hàng phi lương thực.
Trên bình diện quốc tế, NHTG đã tính toán ngưỡng nghèo tuyệt đối cho các
nước thu nhập thấp là 1 đô la Mỹ/ngày, từ 2 đô la cho châu Mỹ La tinh và Caribe,
đến 4 đô la cho những nước Đông Âu, cho đến 14,40 đô la cho những nước công
nghiệp. Để đảm bảo tính so sánh được giữa các nước, những ngưỡng nghèo này
được tính theo ngang giá sức mua. Từ năm 1981, chuẩn nghèo toàn cầu được áp
dụng ở mức thu nhập 1 USD/ngày. Chuẩn nghèo này đã được điều chỉnh thành 1,25
USD/ngày kể từ năm 2005, sau khi tính đến yếu tố lạm phát. Còn ở Việt Nam hiện
tại chưa có sự thống nhất về tiêu chí đánh giá nghèo theo thu nhập hay theo chi tiêu
dùng. Vì vậy, trên thực tế việc phân tích đánh giá nghèo vẫn sử dụng một trong hai
ngưỡng nghèo tuyệt đối: Ngưỡng nghèo của TCTK, xác định dựa theo cách tiếp cận
của NHTG là sử dụng chỉ tiêu chi tiêu để đo lường nghèo. Chuẩn nghèo chung của
TCTK và NHTG với mức chi tiêu bình quân/người/tháng qua các năm như sau:
năm 2002: 160 nghìn đồng, năm 2004: 173 nghìn đồng, năm 2006: 213 nghìn đồng
và năm 2008: 280 nghìn đồng. Bên cạnh đó, ngưỡng nghèo của Bộ LĐTBXH, xác
định ngưỡng nghèo mang tính chất tương đối hơn và tiếp cận từ khía cạnh thu nhập.
Chuẩn nghèo do Bộ LĐTBXH đưa ra đã được điều chỉnh năm lần vào các năm
1993, 1997, 1998, 2001 và 2005. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng
cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình
quân từ 200.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị
những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ
nghèo. Chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015, là 400.000 đồng/người/tháng đối với khu
vực nông thôn và 500.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị.
Trang 9
Ngưỡng nghèo tương đối: được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu
dùng chung trong cả nước, để phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư sống
dưới mức trung bình của cộng đồng.
1.3. Các chỉ số đánh giá nghèo
Cách tiếp cận phổ biến nhất trong đo lường phúc lợi (kinh tế) là dựa vào chi
tiêu tiêu dùng hay thu nhập của hộ gia đình. Nếu chi tiêu/ thu nhập được chia đều
cho tất cả các thành viên trong hộ thì được chi tiêu tiêu dùng hay thu nhập bình
quân đầu người (chỉ số phúc lợi kinh tế của cá nhân). Hầu hết các nước phát triển sử
dụng thu nhập (income) để xác định nghèo đói, trong khi các nước đang phát triển
sử dụng chi tiêu (expenditure). Đối với các nước phát triển, thu nhập phần lớn là từ
tiền lương nên dễ xác định, trong khi chi tiêu dùng thì phức tạp và khó xác định.
Ngược lại, ở các nước đang phát triển thu nhập khó tính toán hết bởi phần lớn thu
nhập đến từ công việc tự làm nhưng rất khó tách biệt, trong khi chi tiêu thì dễ thấy
hơn, rõ ràng hơn (WB, 2005).
• Chi tiêu hộ gia đình
Đo lường bằng giá trị tiền tệ dưới dạng thu nhập hay chi tiêu của hộ gia đình,
được sử dụng phổ biến để đo lường phúc lợi khi tính toán chỉ số về nghèo đói
(Coudouel, et al, 2002). Những thông tin về chi tiêu có thể thu thập một cách dễ
dàng từ quá trình điều tra các hộ gia đình, và phản ánh tốt hơn tiêu chí về thu nhập
trong việc đo lường nghèo đói (WB, 2005 và Coudouel & Cộng tác viên, 2002) bởi
các lý do sau:
Thứ nhất, chi tiêu là tiêu chí phản ánh tốt hơn thu nhập trong việc đo lường
phúc lợi kinh tế hộ gia đình. Chi tiêu phản ánh thực tế phúc lợi hơn vì nó liên quan
chặt chẽ tới mọi thành viên trong gia đình. Điều này có nghĩa là nó sẽ phản ánh
được các điều kiện sống cơ bản tốt hơn.
Thứ hai, trong một nền kinh tế nông nghiệp nghèo, thì thu nhập của các hộ
gia đình nông thôn có thể dao động trong năm do phụ thuộc vào mùa thu hoạch.
Điều này ngụ ý một khó khăn tiềm năng cho các hộ gia đình khi nhớ lại thu nhập
Trang 10
của họ, trong đó những thông tin về thu nhập của hộ gia đình từ quá trình khảo sát
này, có thể dẫn tới chất lượng thấp.
Thứ ba, chi tiêu có thể phản ánh tốt hơn tiêu chuẩn thực tế của một hộ gia
đình sinh sống và khả năng để đáp ứng nhu cầu cơ bản. Đối với các hộ gia đình ở
Việt Nam nói chung, hộ gia đình đình ở nông thôn nói riêng, thường có những đặc
điểm rất đặc thù như: Do tâm lý, người dân thường có xu hướng khai thấp thu nhập
của mình, thu nhập càng cao càng khai thấp; các hộ gia đình thường không nhớ tất
cả các khoản thu của mình; thu nhập từ các loại cây lâu năm là không thể tính được
dù có chi phí chăm sóc. Thu nhập từ các loại gia súc không thể tính được hàng năm
vì có thể nhiều năm hộ gia đình mới bán và những loại chi tiêu tăng cao bất thường
cũng có khi xảy ra, chẳng hạn như chi tiêu cho việc chữa bệnh, mua các vật dụng
đắt tiền, sửa chữa hay xây nhà nhưng những loại chi tiêu này chỉ thường có ở những
hộ không nghèo. Bên cạnh đó, thu nhập từ các hoạt động khai thác thủy sản có thể
thay đổi bất thường, hoặc hàng năm hoặc thậm chí hàng ngày trong khi mức tiêu thụ
vẫn tương đối ổn định. Nói cách khác, đặc điểm về chi tiêu ổn định nhiều hơn so
với thu nhập, và được sử dụng tốt hơn trong phân tích đói nghèo. Những biến động
của thu nhập và chi tiêu được minh họa trong hình vẽ dưới đây (Hình 1.1)(WB,
Đô la
2005).
Hình 1.1. Sự biến động giữa thu nhập và chi tiêu
(Nguồn: World Bank, 2005)
Trang 11
Phương pháp tiếp cận của TCTK thường được xem như chuẩn nghèo quốc tế
vì nó dựa trên phương pháp luận được quốc tế chấp nhận. Mặt khác, chi tiêu không
những ít bị khai thấp hơn thu nhập mà nó còn ổn định hơn từ năm này qua năm
khác. Do đó, chúng ta có đủ cơ sở và căn cứ lý thuyết để sử dụng các thước đo chi
tiêu nhằm phản ánh mức sống (Glewwe và Twum-Baah, 1991).
1.4. Các nguyên nhân dẫn đến nghèo:
Nghèo đói là một vấn đề nghiêm trọng trong chính sách phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nghèo đói
cũng như liên quan đến nghèo từ cấp vùng đến cấp địa phương theo nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Điều đó cho thấy tình trạng đói nghèo ở Việt Nam đang diễn ra phức
tạp và có sự khác biệt ở mỗi vùng. Mô hình nghèo đói dường như không có mẫu số
chung, nhưng nhìn chung thì nghèo đói do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Kết quả nghiên cứu của Waheed (1996) chỉ ra rằng, thiếu vốn đầu tư dẫn đến
năng suất thấp, kéo theo thu nhập hộ gia đình thấp. Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm
thấp. Tiết kiệm thấp lại là nguyên nhân của sự thiếu hụt vốn đầu tư, và lại dẫn đến
thu nhập thấp. Không đủ vốn, người nghèo không thể làm gì được; từ việc cơ bản
nhất là mua giống cây trồng vật nuôi hay phân thuốc chứ đừng nói đến việc cải tiến
sản xuất hay áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Muốn thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn
này cần phải có nguồn vốn từ bên ngoài, trong trường hợp này là nguồn vốn vay
hay vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng chính thức và phi chính thức, hay từ các dự
án cấp tín dụng cho người nghèo của chính phủ. Còn theo BCPTVN (2000), một số
đặc điểm chung của hộ nghèo ở Việt Nam là: lao động nông nghiệp, trình độ học
vấn thấp, tỷ lệ phụ thuộc, giới tính, thiếu đất đai, tách biệt về địa lý và xã hội, dân
tộc, dân nhập cư thành thị (trích theo Võ Tất Thắng, 2004).
Ngoài ra, công trình nghiên cứu Sarah Bales (2001) lại đưa ra tiêu chí chung
nhất để xác định nghèo đói là mức chi tiêu (hay thu nhập) để thỏa mãn những nhu
cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp
xã hội. Sự khác nhau chung nhất thường là ở chỗ thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà
thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục
Trang 12
Theo nghiên cứu của dự án diễn đàn miền núi Ford (2004), dựa vào bộ dữ liệu
Trang 13
Bảng 1.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới tình trạng nghèo đói.
Các nhân tố ảnh hưởng Phân theo
đặc điểm
- Sự cách biệt về địa lý/xã hội do thiếu hạ tầng cơ sở; hạn chế trong
việc tiếp cận các loại thị trường và các dịch vụ xã hội Đặc điểm của - Nguồn lực cơ bản như đất đai và chất lượng đất đai cấp độ vùng - Điều kiện tự nhiên (thời tiết và các yếu tố khác)
- Quản lý Nhà nước (Regional-
- Bất bình đẳng. level
characteristics)
Những đặc - Hạ tầng cơ sở (điện, nước, đường giao thông và các yếu tố khác)
tính từ cấp độ - Phân bổ đất đai
cộng đồng - Khả năng tiếp cận các hàng hóa và dịch vụ công (y tế, giáo dục).
(Community
Trang 14
- Quy mô hộ gia đình
- Tỷ lệ phụ thuộc (phần trăm số người trưởng thành không có hoạt
động tạo thu nhập) Những đặc - Giới tính của chủ hộ điểm của - Tài sản của hộ gia đình: đất đai, phương tiện sản xuất, nhà cửa và hộ gia đình những loại tài sản khác.
- Tỷ lệ có việc làm của những thành viên trưởng thành trong hộ, loại (Household
việc làm chính, tự làm hay làm thuê và theo nguồn thu nhập nhập characteristics)
chính của hộ.
- Trình độ học vấn trung bình của hộ.
Đặc điểm cá - Tuổi
- Giáo dục (số năm đi học, bằng cấp cao nhất) nhân
- Việc làm (tình trạng việc làm, loại công việc) (Individual - Dân tộc (có hay không có thuộc nhóm dân tộc thiểu số). characteristics)
(Nguồn: World Bank, 2005)
Ngoài ra, nghiên cứu nghèo đói tại các nước trên thế giới cũng cho những kết
quả tương tự như nghiên cứu của Mok, Gan và Sanyal (2007) cho rằng tuổi chủ hộ,
giới tính, số trẻ em dưới 15 tuổi, số lượng nam, nữ trưởng thành trong gia đình,
lượng người trên 55 tuổi, tình trạng hôn nhân, nhập cư, làm việc trong ngành công
nghiệp, trình độ giáo dục của chủ hộ và khu vực sống là những nhân tố ảnh hưởng
chính đến tình trạng nghèo của các hộ gia đình nông thôn Malaysia; hay theo
Owuor, Ngigi, Ouma và Birachi (2007), không tiếp cận được tín dụng vi mô, tuổi,
số năm đi học của chủ hộ, không tham các buổi hội thảo về nông nghiệp, chủ hộ là
nữ, sự biến đổi hệ sinh thái nông nghiệp và không có vật nuôi là các yếu tố ảnh
hưởng đáng kể đến nghèo của các hộ gia đình nông thôn ở Kenya. Ở Bangladesh,
tình trạng nghèo đói do một số đặc điểm như: tình trạng nhân khẩu học, trình độ
giáo dục, sở hữu đất trong nông nghiệp, loại việc làm (theo Andy Kotikula, Ambar
Trang 15
Narayan và Hassan Zaman, 2007). Nghiên cứu của WB trong năm này cũng đưa ra
các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo bao gồm: “Sự cách biệt về địa lý, thiếu
nguồn lực về đất đai, điều kiện tự nhiên, quản lý nhà nước yếu kém, bất bình đẳng,
cơ sở hạ tầng khu vực, khả năng tiếp cận hàng hóa dịch vụ công, quy mô hộ, tuổi
tác, giới tính, trình độ giáo dục, tình trạng việc làm, tính dân tộc”. Cùng với quan
điểm trên, công trình nghiên cứu của Thiên (2008) cho thấy “những nguyên nhân
chính gây nên sự cách biệt bao gồm việc làm, đất đai, vốn, quy mô hộ và vấn đề
giới tính. Trong đó quan trọng nhất là tình trạng việc làm. Chính loại hình công việc
của một người quyết định mức sống của người đó, thậm chí cả gia đình người đó. Ở
nông thôn, đất đai trở nên vấn đề sống còn đối với các hộ gia đình
1.4.1. Nhóm các nhân tố thuộc hộ gia đình
1.4.1.1. Độ tuổi của chủ hộ
Tuổi của chủ hộ có mối tương quan chặt đến tình trạng nghèo đói của hộ.
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy nhóm tuổi từ 20 đến 50 tuổi đóng góp 66% tổng
thu nhập của hộ (Osinubi ,2003); hay tuổi trung bình của chủ hộ các hộ nghèo thấp
hơn trung bình của chủ hộ những hộ giàu hơn trên cả nước và cả vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Điều này cho thấy xu hướng nghèo truyền thống của các hộ gia
đình mới hình thành vì thời gian tích lũy tài sản của họ ngắn hơn (MRPA, 2004).
Không những thế, nghiên cứu của Martin Evan, cộng tác viên và Ngân hàng thế giới
(WB, 2005) cũng khẳng định tuổi càng cao xác suất rơi vào nghèo đói càng lớn. Khi
tuổi cao, đặc biệt những nông dân có độ tuổi trên 60 sẽ ít tham gia vào hoạt động
sản xuất hơn, do vậy hoạt động thu nhập sẽ giảm. Nghiên cứu này giả định rằng, khi
tuổi cao xác suất để hộ rơi vào ngưỡng nghèo cao. Khác với quan điểm trên,
Owuor, Ngigi, Ouma và Birachi (2007) cho rằng những người lớn tuổi hơn với
nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ giúp họ
đạt được năng suất cao hơn và giảm nguy cơ rơi vào ngưỡng nghèo.
1.4.1.2. Giới tính của chủ hộ
Nhiều công trình nghiên cứu trước đây đã khẳng định giới tính của chủ hộ
ảnh hưởng đến khả năng rơi vào ngưỡng nghèo của hộ, như công trình nghiên cứu
Trang 16
Vì những lý do trên, những hộ có chủ hộ là nữ sẽ có xác suất nghèo cao hơn
(WB, 2005). Cũng theo ĐTMSDC và các nghiên cứu khác cho rằng tại các nước
Châu Á phụ nữ nói chung, phụ nữ ở các khu vực nông thôn và nhất là phụ nữ trong
các hộ gia đình nông thôn ít có điều kiện tiếp cận với giáo dục do tư tưởng “trọng
nam truyền thống” nên hệ quả là phụ nữ có cơ hội ít hơn trong quá trình tìm kiếm
thu nhập, cho dù Việt Nam vấn đề giới chưa thể hiện sự nghiêm trọng nhưng hiện
tượng này rất phổ biến. Nghiên cứu này giả định là chủ hộ là nữ sẽ có khả năng rơi
vào ngưỡng nghèo nhiều hơn chủ hộ là nam.
1.4.1.3. Trình độ học vấn của chủ hộ :
Theo Michael P.Todaro (1997), có một mối quan hệ thuận giữa trình độ học
vấn và mức sống. Những người có trình độ học vấn cao thường kiếm được những
công việc có thu nhập cao. Trong khi đó, những người nghèo lại ít có cơ hội được
học nhiều và họ thường khó kiếm được những công việc có thu nhập cao, do vậy
càng dễ lâm vào nghèo đói và khó thoát nghèo. Vì vậy, có mối quan hệ tỷ lệ thuận
Trang 17
giữa trình độ học vấn và mức sống. Những người có trình độ học vấn thấp thường
khó xin được việc làm có thu nhập cao và ổn định. Chính thu nhập thấp của họ chỉ
đủ chi tiêu cho ăn, ở, cho nên họ không đủ điều kiện học tập nâng cao trình độ để tự
thoát nghèo (Todaro,1997). Trình độ học vấn không những là nhân tố quan trọng về
chất lượng cuộc sống mà còn là nhân tố quyết định đối với khả năng đạt đến cơ hội
có thể tạo nên thu nhập khá hơn (Vũ Thị Ngọc Phùng, 1999). Ngoài ra, theo
BCPTVN (2000), người nghèo thường có trình độ học vấn thấp và trẻ em của các
hộ nghèo ít có khả năng được đi học, thường rơi vào vòng nghèo đói do các thế hệ
trước để lại. Theo báo cáo, tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên, và
gần 90% số người nghèo là những người chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp
hơn. Những người thậm chí còn chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học có
tỷ lệ nghèo cao nhất (57%). Ngược lại, rất hiếm có trường hợp đã tốt nghiệp đại học
lại thuộc diện nghèo (chỉ chiếm có 4%).
Bên cạnh đó, báo cáo của PPA về vùng ĐBSCL (2003), trình độ học vấn
thấp và thiếu các kỹ năng cần thiết thường dẫn đến thất bại trong trồng trọt, chăn
nuôi gia súc, thủy sản và đẩy nông dân đến đói nghèo. Nghiên cứu của MRPA
(2004) cũng đưa ra kết quả tương tự: tỷ lệ nghèo có tương quan tỷ lệ nghịch với
trình độ học vấn. Trong khi tỷ lệ nghèo của những người ở vùng ĐBSCL chưa hoàn
thành chương trình tiểu học là 30% thì hầu như không có tình trạng đói nghèo trong
số những người có trình độ học vấn cao hơn hoặc được học nghề. Công nhân sẽ gặp
nhiều khó khăn hơn trong việc học hỏi những kỹ năng và kỹ thuật mới để tăng năng
suất, nếu không có một trình độ học vấn nhất định. Các bậc cha mẹ có trình độ học
vấn thấp thường không nhận thức được tầm quan trọng, lợi ích của giáo dục. Từ đó,
họ không cố gắng tạo điều kiện cho con em họ đến trường, không khuyến khích các
em học hành chăm chỉ và học lên cao nữa. Một lần nữa, nghiên cứu của dự án diễn
đàn miền núi Ford (2004) lại khẳng định chủ hộ có trình độ học vấn cao hơn có tỷ lệ
nghèo ít hơn. Điều này cho thấy học vấn có mối quan hệ rất chặt chẽ với tình trạng
đói nghèo.
Trang 18
Những nghiên cứu khác cũng đưa ra nhận định tương tự: như nghiên cứu của
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) phát hiện thấy các hộ gia đình có chủ hộ đạt
trình độ giáo dục cấp phổ thông cơ sở có nhiều cơ hội thoát nghèo hơn so với hộ gia
đình có đặc điểm tương tự, song chủ hộ không có trình độ học vấn; hay giáo dục
ảnh hưởng quan trọng đến nghèo, tỷ lệ nghèo giảm nhiều hơn khi chủ hộ có trình độ
giáo dục cao hơn theo Al – Samarrai (2007) và sự gia tăng về giáo dục đến bất kỳ
thành viên nào của hộ gia đình cũng làm hộ gia đình có mức tiêu dùng cao hơn
(Kotikula, Narayan và Zaman, 2007). Do đó, trình độ học vấn của chủ hộ càng cao
càng có khả năng tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật nông nghiệp, tiếp cận với thị
trường lao động và nâng cao cơ hội cải thiện thu nhập. Nghiên cứu này giả định số
năm đi học của chủ hộ có mối quan hệ nghịch biến với xác suất rơi vào ngưỡng
nghèo.
1.4.1.4. Tỷ lệ người sống phụ thuộc
Nghiên cứu của D.Naughton (1995) dựa trên bộ dữ liệu VHLSS93 cho thấy
những hộ nghèo thường là những hộ có tỷ lệ người phụ thuộc cao, và nó tỷ lệ
nghịch với thu nhập của hộ. Bên cạnh đó, BCPTVN (2000) cũng cho rằng các hộ có
nhiều trẻ em thường thuộc vào nhóm các hộ nghèo. Số trẻ em trong hộ cao đồng
nghĩa với việc tăng số miệng ăn trong gia đình, làm giảm thu nhập bình quân của
hộ; đồng thời còn gia tăng chi phí chăm sóc y tế và giáo dục (23% trong tổng chi
tiêu lương thực). Những chi phí này đối với các hộ nông dân là một gánh nặng và
cũng là nguyên nhân làm cho sự nghèo đói gia tăng. Cùng với quan điểm trên,
Lilongwe và Zomba (2001) khẳng định tỷ lệ người phụ thuộc đặc biệt là trẻ em ảnh
hưởng rất lớn đến mức sống của hộ gia đình. Đối với các hộ ở khu vực thành thị,
khi tăng một trẻ dưới 9 tuổi thì mức chi tiêu của hộ đã giảm đến 30%, và giảm xấp
xỉ 20% đối với khu vực nông thôn.
Theo WB (2005), số người phụ thuộc là những người đã trưởng thành nhưng
không có các hoạt động tạo thu nhập cho hộ gia đình. Điều này cũng phù hợp về
mặt lý thuyết và bằng chứng từ các nhà nghiên cứu nghèo đói. Khi số thành viên
trong hộ không có việc làm càng tăng lên thì càng làm giảm khả năng tích luỹ của
Trang 19
gia đình, dẫn đến khả năng vay tín dụng phi chính thức càng tăng, và hệ quả là dễ
rơi vào hoàn cảnh nghèo. Nghiên cứu này giả định tỉ lệ phụ thuộc của hộ sẽ có mối
quan hệ đồng biến với xác suất rơi vào ngưỡng nghèo.
Nghiên cứu của Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004) cho thấy những hộ gia
đình nghèo thường có tỷ lệ phụ thuộc ((trẻ em+người già)/người trong độ tuổi lao
động) cao hơn so với những hộ gia đình khá giả hơn. Tình trạng lập gia đình sớm và
sinh con đông là phổ biến ở các dân tộc thiểu số. Do vậy, với lực lượng lao động ít
(chủ yếu bố mẹ), lại phải lo cuộc sống cho số người chưa đến và ngoài độ tuổi lao
động nhiều hơn sẽ là trở thành một khó khăn đáng kể cho một số hộ, nhất là những
hộ nghèo với thu nhập thấp và chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp.
1.4.1.5. Dân tộc
Những khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, cùng với những khó khăn về địa lý
làm cho người dân tộc thiểu số hạn chế trong mối quan hệ giao lưu với thế giới bên
ngoài và hầu như không có điều kiện tiếp xúc với những sáng kiến cải tiến về kỹ
thuật, thông tin (BCPTVN,2000). Ngoài ra, theo BCPTVN (2004) cũng cho thấy
chi tiêu của một người thuộc hộ dân tộc thiểu số thấp hơn chi tiêu của một người
thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa là 13%. Các hộ dân tộc thường có quy mô hộ
lớn hơn và có nhiều con hơn các hộ người Kinh; các tỷ lệ về trình độ học vấn của
chủ hộ và của vợ cũng thấp hơn.Tài sản dưới dạng nhà ở hoặc những tài sản khác
cũng thấp hơn mức trung bình. Tác động hỗn hợp của các tất cả các đặc điểm này là
các hộ dân tộc nghèo hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo ở các dân tộc thiểu số
cũng không giống nhau. Trong số sáu nhóm dân tộc thiểu số nghèo nhất, bốn nhóm (Ba – na, Gia – rai, Ê – đê và Co – ho) sống ở Tây Nguyên, còn hai nhóm (H’mông,
Mường) sống ở miền núi phía Bắc.
Kết quả phân tích của Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004) cho thấy mối
tương quan chặt giữa đặc điểm dân tộc của chủ hộ và tỷ lệ nghèo. Cụ thể, tỷ lệ hộ
nghèo trong nhóm các dân tộc thiểu số cao hơn trong nhóm dân tộc Kinh – Hoa ở cả
thành thị và nông thôn. Các dân tộc thiểu số với tập quán sản xuất và lối sống lạc
hậu, lại sống ở những vùng sâu, vùng xa cách biệt với thế giới bên ngoài (trong
Trang 20
trường hợp ở nông thôn) có xu hướng dễ bị rơi vào vòng đói nghèo. Bên cạnh đó,
báo cáo cập nhật nghèo (2006) cho rằng hiện có khoảng trên 10 triệu người dân tộc
thiểu số không thuộc nhóm Kinh – Hoa đang làm ăn sinh sống tại Việt Nam, chiếm
12,6% tổng dân số, nhưng lại chiếm 39,3% tổng số dân nghèo. Nhóm đồng bào các
dân tộc thiểu số bị tụt hậu khá nhiều so với nhóm đồng bào Kinh – Hoa về các chỉ
số xã hội. Cụ thể là vào năm 2004, chỉ có 4% đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp
cận điều kiện vệ sinh so với 36% người Kinh – Hoa và 19% đồng bào dân tộc thiểu
số được tiếp cận nước sạch so với 63% người Kinh – Hoa.
Hơn thế nữa, Hoàng Thanh Hương, Nguyễn Thị Minh Hoà và các tác giả
(2006) khẳng định có sự khác biệt đáng kể về các đặc tính ở cấp hộ giữa đồng bào
dân tộc và đồng bào Kinh – Hoa và sự khác biệt dường như có chiều hướng gia
tăng. Năm 2004, sự khác biệt về đặc tính cấp hộ giải thích 18% chênh lệch chi tiêu
dùng giữa hai nhóm ở nông thôn Việt Nam, song tạo ra 51% chênh lệch chi tiêu tiêu
dùng ở những xã có cả đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào Kinh – Hoa sinh
sống. Ngoài ra nghiên cứu còn phát hiện thấy ngay cả khi các dân tộc thiểu số sống
cùng với người Kinh – Hoa trong cùng một địa bàn nhỏ tức là ở cùng xã, họ vẫn
khó theo kịp với nhóm người Kinh – Hoa; còn Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006)
lại cho rằng hộ gia đình thuộc nhóm Kinh – Hoa dễ có khả năng thoát nghèo hơn
hộ gia đình có một số đặc điểm tương tự thuộc nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số.
Theo BCPTVN (2007) cho thấy tỷ lệ nghèo càng ngày càng tập trung vào các
nhóm dân tộc thiểu số. Khoảng cách phúc lợi giữa các nhóm đa số (người Kinh và
người Hoa) và số còn lại càng ngày càng rộng ra theo thời gian, dẫn đến tình trạng
là người dân tộc thiểu số chiếm đến 39% tổng số người nghèo, mặc dù chỉ chiếm có
14% tổng dân số. Cộng đồng người dân tộc thiểu số, ngoài những khác biệt về tập
quán văn hóa thì hầu hết các chỉ số kinh tế, xã hội của họ đều thua kém hơn so với
người Kinh-Hoa. Trong các ĐTMSDC của Tổng Cục thống kê phối hợp với UNDP
có một sự chênh lệch về thu nhập giữa dân tộc Kinh-Hoa và dân tộc thiểu số và dẫn
đến các hộ dân tộc thiểu số nằm trong diện XĐGN nhiều hơn là dân tộc Kinh- Hoa,
điều này xuất phát từ sự khác biệt các điều kiện tự nhiên, xã hội dẫn đến sự khác
Trang 21
biệt về kinh tế của các hộ gia đình dân tộc. Do vậy, nghiên cứu giả định là hộ dân
tộc thiểu số có nguy cơ nghèo nhiều hơn các hộ khác.
1.4.1.6. Tình trạng việc làm và loại nghề của chủ hộ
Hộ có việc làm sẽ có nguồn thu nhập lớn hơn so với hộ không có việc làm.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc lớn vào thời tiết và điều kiện tự nhiên
cũng như môi trường. Do vậy, công việc và thu nhập thường không ổn định nên xác
suất rơi vào nghèo đói của những hộ không có việc làm là cao hơn.Theo như nhiều
nghiên cứu cho thấy tình trạng nghề nghiệp có mối tương quan chặt chẽ đến nghèo,
những người lao động nhận lương từ nông nghiệp là điển hình cho nhóm người có
việc làm nghèo nhất (Hossain,1995); hay những người sống dưới ngưỡng nghèo
thường thuộc những hộ có chủ hộ là nông dân tự do. Năm 1998, gần 80% người
nghèo làm việc trong nông nghiệp là những người lao động tự do (BCPTVN,2000).
Ngoài ra, theo AusAID (2003) tỷ lệ nghèo cấp tỉnh ở vùng ĐBSCL có tương
quan tỷ lệ thuận với số dân hoạt động trong nông nghiệp của tỉnh đó và nền kinh tế
phi nông nghiệp mới phát triển ở Việt Nam có thể là một định hướng quan trọng để
thoát nghèo (Van de Walle và Cratty, 2003). Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004)
cũng khẳng định các hộ có thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp càng có tỷ lệ đói
nghèo cao. Các cơ hội đa dạng hóa sang các hoạt động phi nông nghiệp lại bị hạn
chế do bản thân năng lực tự thân của người nghèo thấp (mù chữ, kém hiểu biết),
ngoài ra chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng sang các ngành nghề phi nông nghiệp
còn chậm. Nghiên cứu của MRPA trong năm này cũng cho rằng phần lớn hộ nghèo
làm việc trong ngành cơ bản, hơn 77% số người nghèo vùng ĐBSCL làm việc trong
ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong khi chỉ có khoảng 9% người nghèo làm việc
trong ngành công nghiệp và gần 13% trong ngành dịch vụ. Chính vì lĩnh vực nông
nghiệp với sự thay đổi mang tính thời vụ và chu kỳ kinh doanh dài nên việc đa dạng
hóa sang lĩnh vực hoạt động phi nông nghiệp và sản xuất kinh doanh mang lại một
phần thu nhập chính cho hộ và góp phần cải thiện tình trạng nghèo của hộ (theo
Owuor, Ngigi, Ouma và Birachi, 2007).
Trang 22
1.4.1.7. Tài sản lâu bền (gồm nhà ở, ti vi, tủ lạnh…):
Trong các loại tài sản của hộ, nhà ở là một trong những loại tài sản có giá trị
lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm nghèo. Theo Nicholas Minot & Bob
Baulch (2002), những hộ sống ở những căn nhà kiên cố sẽ có mức chi tiêu bình
quân cao hơn 19% (ở nông thôn) và 24% (thành thị) so với những hộ sống ở nhà
tạm. Ngoài ra, theo nhóm tác giả, diện tích nhà ở bình quân tại Việt Nam khoảng 45 m2 song lại tùy thuộc vào khu vực (nông thôn hay thành thị) và loại nhà (kiên cố
hay bán kiên cố). Bên cạnh đó, những hộ gia đình được coi là dễ bị tổn thương nếu
nhà ở của họ trị giá dưới mười lăm triệu đồng và tổng giá trị tài sản lâu bền không
quá năm triệu (BCPTVN, 2004). Nghiên cứu của MRPA trong năm 2004 cũng cho
thấy người nghèo không được một mái nhà chắc chắn. Khoảng 99% người nghèo ở
vùng ĐBSCL sống trong các nhà tạm và nửa kiên cố, làm bằng lá và tre nứa rất ọp
ẹp. Thậm chí một số người nghèo còn không có nhà, phải ở cùng họ hàng hoặc chủ
lao động.
1.4.2. Nhóm nhân tố liên quan đến vai trò của Chính phủ (trong phân bổ nguồn
lực):
1.4.2.1. Tình trạng sở hữu đất đai
Đất đai là nguồn sống, tài sản có giá trị tạo thu nhập đối với nhiều hộ nông
dân. Mất tài sản này đồng nghĩa với nguy cơ giảm thu nhập và bị ảnh hưởng khi có
các biến động. Những nông dân không có đất đai thường có thu nhập thấp. Điều này
dẫn tới xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của những hộ không có đất cao hơn. Theo
BCPTVN (2000), các hộ nông dân nghèo là những hộ có đất đai ít hoặc chất lượng
kém nên không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của những hộ này. Các hộ nghèo
coi diện tích đất và chất lượng đất là yếu tố quan trọng quyết định đến mức sống.
Diện tích đất canh tác cây hàng năm và cây lâu năm của các hộ tăng lên theo nhóm
chi tiêu theo đầu người, với số lượng đất trồng cây hàng năm của các hộ thuộc
nhóm giàu có nhất lớn hơn diện tích của các hộ ở nhóm thấp nhất tới 1,4 lần. Sự
khác biệt về diện tích đất trồng cây lâu năm tính trên đầu người thậm chí còn lớn
hơn rất nhiều: mức này của nhóm hộ khá giả nhất cao hơn gấp 6 lần so với mức của
Trang 23
nhóm hộ nghèo nhất.
Ngoài ra, nghiên cứu của AusAID (2003) cho thấy không có đất trở thành trở
thành vấn đề cấp bách nhất ở vùng nông thôn. Người ta thấy rằng mức độ trầm
trọng của việc không có đất phụ thuộc vào điều kiện khí hậu và địa lý. Vòng luẩn
quẩn là: không có đất – không được vay vốn – không phát triển được – không thể
thoát nghèo. Nguyên nhân của việc không có đất rất phức tạp. Hệ thống phân phối
và tái phân phối đất hiện tại không tính đến nhu cầu của người nghèo. Kết quả
nghiên cứu của MRPA (2004) khẳng định những nông dân không có hoặc ít đất có
tỷ lệ nghèo cao hơn hẳn so với các nông dân khác.
Nhìn chung trong cả nước có thể thấy tương quan chặt chẽ giữa diện tích
canh tác và tình trạng nghèo, người nghèo thường có ít đất canh tác hơn, đặc biệt là
các hộ nghèo ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL. Đất đai đối với các hộ
nông thôn là tài sản rất quan trọng nhất là trong điều kiện mở rộng diện tích rất khó
khăn và sẽ không thể thực hiện liên tục do quỹ đất có hạn. Tỷ lệ hộ mất đất, không
có đất ngày càng cao và điều này gây khó khăn không nhỏ tới việc giúp các hộ
nghèo nâng cao thu nhập và ảnh hưởng không nhỏ tới ổn định xã hội (theo dự án
diễn đàn miền núi Ford, 2004).
Bên cạnh đó nghiên cứu của PPA (2004), cho rằng vòng luẩn quẩn của
nghèo đói bao gồm túng thiếu phải bán đất, hoặc cầm cố đất do có những tai họa
trong gia đình (ốm yếu hoặc kinh doanh thất bại) và nợ nần; và Andy Kotikula,
Ambar Narayan và Hassan Zaman (2007) còn khẳng định sở hữu đất đai có mối
quan hệ chặt chẽ với tình trạng đói nghèo, chi tiêu và khả năng tài chính của hộ, đặt
biệt ở vùng nông thôn, tỷ lệ nghèo thay đổi có liên quan đến kích thước đất đai.
1.4.2.2. Tiếp cận nguồn tín dụng chính thức và phi chính thức
Các định chế tài chính chính thức hay không chính thức đều góp phần làm
tăng thu nhập cho người dân (Hoff và Stiglitz, 1993); cụ thể thiếu vốn đầu tư dẫn
đến năng suất lao động thấp, kéo theo thu nhập của hộ gia đình giảm. Thu nhập thấp
dẫn đến giảm tiết kiệm. Tiết kiệm thấp lại dẫn đến thiếu hụt vốn đầu tư và làm giảm
thu nhập hộ gia đình. Không đủ vốn, người nghèo không thể làm gì được, từ việc cơ
Trang 24
bản nhất là mua giống cây trồng vật nuôi hay phân thuốc chứ đừng nói đến việc cải
tiến sản xuất hay áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Muốn thoát khỏi cái vòng luẩn
quẩn này cần phải có nguồn vốn từ bên ngoài, trong trường hợp này là nguồn vốn
vay hay vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng chính thức và phi chính thức, hay từ
các dự án cấp tín dụng cho người nghèo của chính phủ. (Waheed, 1996 trích theo
Võ Tất Thắng, 2004).
Bên cạnh đó, Khandker (1998) chỉ ra rằng có khoảng dưới 5% người đi vay
có thể thoát nghèo. Ngoài ra, vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thoát
nghèo, đối với các hộ gia đình nông nghiệp lẫn các hộ gia đình phi nông nghiệp ở
nông thôn và thành thị (Ravallion và Dominique van de Walle, 2008). Không những
thế, vốn còn góp phần đáng kể làm tăng chi tiêu của hộ gia đình. Một hộ được vay
từ 5 triệu trở lên sẽ có cơ hội tăng chi tiêu của mình lên khoảng 0,0942 lần (Đào
Công Thiên, 2007).
1.4.2.3. Tiếp cận hạ tầng cơ sở thiết yếu bao gồm đường giao thông, điện, trạm y tế,
trường học, nước sạch và các yếu tố khác.
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy những vùng có cơ sở hạ tầng tốt thường có
nhiều cơ hội giảm nghèo hơn các vùng khác chẳng hạn: Christophe Bosch và các
cộng sự (2001) cho rằng người nghèo không tiếp cận được nước sạch sẽ làm tăng
chi phí sinh hoạt, giảm tiềm năng thu nhập của họ, làm tổn hại đến chất lượng cuộc
sống và làm cho cuộc sống của họ nhiều rủi ro hơn; hay theo Nicholas Minot & Bob
Baulch (2002), việc sở hữu các nguồn nước cũng góp phần hữu ích trong việc phân
biệt hộ nghèo. Những hộ có sử dụng nước giếng sẽ có mức chi tiêu cao hơn những
hộ sử dụng nước sông, hồ.
Ngoài ra, nghiên cứu của MRPA (2004) khẳng định có sự khác nhau đáng kể
trong việc tiếp cận nước sạch giữa các nhóm giàu nghèo khác nhau. Hơn 70% số
người trong nhóm 20% người giàu nhất được tiếp cận với nước sạch thì chỉ khoảng
40% số người trong hai nhóm 20% nghèo nhất được tiếp cận. Hơn nữa, việc tăng
thêm một điểm phần trăm GDP chi vào cơ sở hạ tầng sẽ dẫn tới việc giảm tương
ứng tỷ lệ nghèo khoảng 0.5% (Larsen, Phạm Lan Hương và Rama, 2004).
Trang 25
1.4.2.4. Tình trạng di dân
Trong nghiên cứu của RPGA, 2003 cho thấy sự di dân ồ ạt đã tăng thêm áp lực
lên nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng, làm đảo lộn kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội của địa phương. Đối với nhiều cán bộ và người dân địa phương, di dân là
thủ phạm phá rừng để sản xuất nông nghiệp và làm đất ở, mặc dù hầu hết những
người di cư không trực tiếp phá rừng. Người di cư mua đất từ những người dân địa
phương hoặc trồng trọt trên những cánh đồng bị bỏ hoang, dẫn tới tình trạng thiếu
đất và làm cho người bản địa phải đi sâu hơn vào rừng để khai phá đất mới. Hơn
nữa, dân di cư là người nghèo và khoảng 30% số họ là người dân tộc thiểu số như
người Tày, Nùng, Dao và Sán Chỉ đến từ các tỉnh miền núi phía Bắc. Nhiều người
di cư mù chữ, do vậy khó có thể tiếp thu các thông tin từ các chính sách của chính
phủ Việt Nam. Các nguồn trợ cấp xã hội dường như chỉ tập trung vào người bản địa
mà quên mất những người dân di cư cũng ở trong hoàn cảnh nghèo khó. Do lượng
lớn mức độ di cư vào Tây Nguyên cao, nên Vùng phải đối mặt với nhiều khó khăn
như thiếu đất, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của vùng, phá rừng, tội
phạm, kiểm soát nhân khẩu. Kết quả của di cư tự do là đói nghèo cho cả khu vực
nông thôn lẫn thành thị. Vì vậy, cái vòng lẩn quẩn của đói nghèo sẽ không thể bị
phá vỡ nếu tình trạng di dân không được kiểm soát.
Theo PTF (2003), với cộng đồng người dân tại Nghệ An, di dân ảnh hưởng
tiêu cực đến tình hình an ninh của địa phương. Khi được hỏi về các ảnh hưởng có
thể có của người di cư đến tình hình địa phương, có 13% người trả lời cho là nhóm
người này đến địa phương làm mất trật tự an ninh, 5% chiếm dụng đất đai bừa bãi,
9,9% làm gia tăng tệ nạn xã hội. Không những thế, tình trạng di dân đã gây áp lực
về đất giữa người nhập cư và người dân tộc địa phương, giữa người nhập cư và các
lâm trường. Một số tranh cấp vẫn tồn tại và dẫn đến căng thẳng dân tộc gia tăng
(BCPTVN, 2004). Đặc biệt hơn, Đặng Nguyên Anh (2005) còn cho rằng các
chương trình di dân từ vùng thấp lên vùng cao với quy mô lớn đã gây ra những ảnh
hưởng tiêu cực cho người dân và môi trường do năng lực quản lý yếu kém.
Trang 26
1.4.2.5. Khoảng cách thành thị - nông thôn
Nghèo đói có sự khác biệt đáng kể giữa thành thị và nông thôn. Nghiên cứu
của Bird (2002) cho rằng: khu vực nông thôn có xu hướng nghèo cao hơn khu vực
thành thị. Việt Nam có trên 70% dân số sống ở nông thôn và khoảng 19% dân nông
thôn sống dưới ngưỡng nghèo trong khi đó ở khu vực thành thị tỷ lệ này là 3,3%
(TCTK, 2008). Bên cạnh đó, Anonymous (2003) còn khẳng định tỷ lệ nghèo khu
vực nông thôn cao hơn so với thành thị. Mặt khác, thành thị giảm nghèo nhanh hơn
nông thôn. Tỉ lệ nghèo ở thành thị vùng đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 15%
xuống còn 8% trong năm 2002, trong khi ở nông thôn là từ 42% năm 1998 xuống
còn 27% năm 2002 (theo MRPA, 2004).
1.4.3. Mô hình đề xuất nghiên cứu
Kế thừa những nghiên cứu trước, tác giả nhận thấy một số yếu tố chung ảnh
hưởng đến tình trạng nghèo của những hộ gia đình tại một số quốc gia và ở Việt
Nam như: tuổi chủ, đất đai, loại nghề, tín dụng, tỷ lệ phụ thuộc. Tuy nhiên, tại Việt
Nam mỗi vùng cũng có một số đặc điểm riêng tác động đến nghèo, cụ thể như:
thiếu thông tin, kỹ thuật canh tác lạc hậu là những yếu tố góp phần gây ra nghèo ở
vùng ven biển miền Trung, hay vùng miền núi phía Bắc là không tiếp cận dịch vụ
khuyến nông, không có tuyến đường giao thông chở khách vào xã, dân tộc thiểu số,
thiên tai. Trên cơ sở các nghiên cứu trước và đặc trưng riêng của Vùng, tác giả đề
nghị mô hình nghiên cứu nghèo cho vùng Tây Nguyên như sau:
(Xem Khung phân tích – trang bên)
Trong chương một, tác giả đã phân tích những quan điểm khác nhau về
nghèo đói, xác định ngưỡng nghèo, cũng như xác định những nguyên nhân gây nên
tình trạng nghèo; từ đó đưa ra khung phân tích phù hợp nhất cho nghiên cứu; gồm
có các nhân tố thuộc về chính phủ (phân bổ nguồn lực đất đai, tín dụng, hạ tầng cơ
sở, tình trạng di dân) và các nhân tố thuộc về hộ gia đình (tuổi chủ hộ, dân tộc, tỷ lệ
phụ thuộc, loại công việc của chủ hộ, tài sản của hộ, trình độ giáo dục của chủ hộ).
Trang 27
Phân Đất đai Sơ đồ 1.1: Mô hình nghiên cứu
bổ
nguồn
Tín dụng lực
Đường ô tô thôn/xã
Hạ
tầng chợ hàng ngày/ chợ Chính cơ sở phiên phủ
điện, nước
Di dân Tỷ lệ phụ thuộc
Nghèo Nhân Tuổi chủ
khẩu
học Dân tộc
Hộ gia Loại nghề
đình Kinh
tế
Tài sản của hộ
Trình độ giáo dục Xã hội
Trang 28
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Sơ lược về đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là vùng Tây Nguyên. Đối tượng nghiên cứu là 579 hộ
gia đình sống ở 64 xã, thuộc 53 huyện của 05 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk,
Đắk Nông và Lâm Đồng. Trong số 64 xã tham gia điều tra của Vùng có 20 xã
nghèo thuộc Chương trình 135 của Chính phủ và 21 xã vùng xa.
Sơ đồ 2.1: Kết cấu vùng nghiên cứu Tỉnh Kon Tum
(8 huyện, 14 xã, 72 hộ)
Tỉnh Gia Lai
Vùng Tây ( 15 huyện, 17 xã, 129 hộ)
Nguyên
Tỉnh Đắk Lắk (5 tỉnh, 53
huyện, 64 ( 13 huyện, 18 xã, 147 hộ)
xã, 579 hộ)
Tỉnh Đắk Nông
(6 huyện, 10 xã, 99 hộ)
Tỉnh Lâm Đồng
(11 huyện, 15 xã, 132 hộ)
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS2008 (n =579)
Trang 29
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thống kê mô tả
Bằng phương pháp thống kê mô tả, tác giả khái quát bức tranh nghèo của
người dân Tây Nguyên và những nhân tố tác động đến nghèo. Tuy nhiên, những số
liệu mô tả chỉ là những con số trung bình và tương đối vì: Tính chất văn hóa của các
dân tộc, những khoản chi tiêu và thu nhập trong năm là khá thất thường và hộ
không thể trả lời một cách chính xác trong khi phỏng vấn. Tiếp đó, những khoản thu
nhập từ cây lâu năm và những con, cây mang tính tự cấp làm cho việc tính toán thu
nhập của hộ gia đình không thể chính xác tuyệt đối. Bên cạnh đó, những biến động
trong cuộc sống, mùa màn thất bát, buôn bán lời, lỗ là việc không thể dự toán được.
Vì vậy, có những trường hợp thu nhập của hộ âm, nhưng nếu cho rằng đây là hộ
nghèo là không chính xác.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu tương quan
Phương pháp nghiên cứu tương quan là phương pháp nghiên cứu nhằm mô tả
mối quan hệ về lượng giữa các yếu tố quan sát nhằm nhận dạng được mối quan hệ
giữa chúng. Vận dụng mối quan hệ tương quan vào đề tài nhằm mục đích xác định
những nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói. Thông qua phương pháp tương
quan sẽ cho phép tác giả lượng hóa một cách cụ thể các nhân tố tác động đến đói
nghèo trên địa bàn nghiên cứu.
2.3. Tiêu chí phân tích nghèo
Có hai tiêu chí để xác định chính xác ai nghèo đó là chi tiêu dùng hay thu
nhập của hộ gia đình. Tuy nhiên, với những nguyên do đã phân tích ở phần trên, tác
giả chọn chi tiêu thực bình quân một người trong hộ gia đình làm cơ sở để phân tích
nghèo trong nghiên cứu này. Chi tiêu dùng gồm chi tiêu bằng tiền cho hàng hoá
lương thực thực phẩm và phi lương thực thực phẩm. Trong bộ dữ liệu VHLSS2008
(TCTK, 2008), biến pcexp1rl ở tập tin có tên hhexpe08 là biến chi tiêu dùng thực
bình quân đầu người/ năm
Trang 30
2.4. Cơ sở xác định nghèo
Chuẩn nghèo chung của Tổng Cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới với mức
chi tiêu bình quân/người/tháng năm 2008 là 280.000 đồng (TCTK, 2008). Như vậy,
một hộ gia đình nghèo nếu mức chi tiêu bình quân đầu người của hộ thấp hơn
3.360.000 đồng/năm và ngược lại, hộ không nghèo là hộ có mức chi tiêu bình quân
đầu người của hộ trên 3.360.000 đồng/năm.
2.5. Nguồn số liệu
Số liệu tác giả sử dụng để phân tích nghèo đói ở vùng Tây Nguyên được
trích ra từ bộ số liệu của cuộc điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008 do Tổng Cục
Thống kê thực hiện. Mẫu điều tra thu nhập và chi tiêu gồm 9.189 hộ gia đình được
chọn thêm từ 3.063 địa bàn, mỗi địa bàn chọn 3 hộ gia đình; đại diện cho 8 vùng,
thành thị, nông thôn, phản ánh đầy đủ các chỉ tiêu về tình hình kinh tế, xã hội một
cách sâu ở cấp quốc gia và vùng. Nội dung điều tra của VHLSS bao gồm: đặc điểm
nhân khẩu học, giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, thu nhập, chi tiêu, tài sản, đồ
dùng của hộ, nhà ở, phương tiện vệ sinh, tham gia chương trình xóa đói giảm nghèo
và tín dụng. Ngoài ra còn có bảng câu hỏi về xã, phường, trạm y tế. Tính ưu việt của
bộ số liệu này là với số lượng lớn các câu hỏi ở các mục khác nhau tạo điều kiện
thuận lợi để kiểm tra tính nhất quán của nó. Vì vậy, với bộ số liệu khá đồ sộ đáng
tin cậy và mang tính đại diện cao này rất phù hợp với nghiên cứu về nghèo ở cấp
vùng nói chung và vùng Tây Nguyên nói riêng.
Để có dữ liệu nghiên cứu vùng Tây Nguyên với 579 quan sát, tác giả thực
hiện việc trích rút dữ liệu từ bộ dữ liệu VHLSS2008 như sau:
Bảng 2.1: Trích rút dữ liệu
Biến cần rút trích Nơi trích Tên biến trong bộ dữ liệu VHLSS dữ liệu dữ liệu
Mã vùng reg8 hhexpe08
Khu vực thành thị hay urban08 hhexpe08 nông thôn
05 tỉnh tinh hhexpe08
Trang 31
Giới tính của chủ hộ muc123a m1ac2
Tuổi của chủ hộ muc123a m1ac5
Số người phụ thuộc muc123a m1ac5 của hộ
Dân tộc của chủ hộ ho Dantoc
Trình độ học vấn của m2ac1, m2ac2 và m2ac3a muc123a chủ hộ
Nghề nghiệp và việc m4ac1a, m4ac1b, m4ac1c, m4ac3, m4ac4 muc4a làm của chủ hộ và m4ac5
Nhà ở muc7 m7c2, m7c3
m4b0c3b, m4b0c4, m4b0c12 muc4b0
muc4b11 m4b11c15
Đất đai m4b15c2, m4b15c3, m4b15c4 và muc4b15 m4b15c5
muc4b1234 m4b12c8
Tín dụng m8c8, m8c10a và m8c13 muc82
m5c1, m5c4, m5c16, m5c19, m5c21, Xa Cơ sở hạ tầng m5c23a, m5c22
muc5b m5c31
Xã nghèo 135 Xa m1c14
Xã vùng xa Xa m1c15
m4c16, m4c20 muc4c
Tình trạng di dân m1c6, m1c7, m1c8, m1c9, m1c10, m8c9, Xa m8c1a
2.6. Mô hình kinh tế lượng
Để đánh giá tác động của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc, ta sử dụng
mô hình logistic tổng quát như sau:
Trang 32
X
X
.. ++
ββ + 0 1
1
β k
k
=
P i
X
X
.. ++
ββ + 0 1
1
β k
k
1
e
e +
Bằng phương pháp tuyến tính hoá, mô hình trên trở thành dạng hàm tuyến
X
X
X
ln
...
+
+
+
+ ββ 1
0
11
β 2
2
β k
k
1
P i −
P i
⎛ ⎜⎜ ⎝
⎞ =⎟⎟ ⎠
tính của log tỷ số xác suất odd như sau:
Trong đó:
Pi: biểu thị xác suất mà hộ gia đình thứ i có mức sống dưới ngưỡng nghèo.
Xk: là các biến độc lập (các nhân tố có ảnh hưởng đến xác suất nghèo của hộ
gia đình).
β 0, β k: là các hệ số hồi quy của mô hình.
Ý nghĩa của mô hình trên: trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi yếu
tố Xk tăng thêm một đơn vị thì xác suất nghèo của một hộ gia đình sẽ thay đổi so
với ban đầu. Nhân tố Xk có tác động đồng (nghịch) biến đến xác suất nghèo của hộ
gia đình khi dấu của hệ số hồi quy βk dương (âm); từ đó, sẽ có những tác động làm
thay đổi nhân tố Xk một cách thích hợp để làm thay đổi xác suất kỳ vọng. Cụ thể,
mô hình áp dụng để nghiên cứu tình trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên bao
gồm các biến như sau:
Bảng 2.2: Khai báo các biến trong mô hình
Kỳ
Ký hiệu Mô tả vọng
dấu
Biến phụ thuộc
=1 chủ hộ sống dưới ngưỡng nghèo Nghèo
Trang 33
Kỳ
Ký hiệu Mô tả vọng
dấu
=0 không nghèo
Tuổi chủ Là biến tính từ năm sinh của chủ hộ +/-
+ =1 chủ hộ là nam
Giới tính chủ hộ
=0 chủ hộ là nữ
- =0 hộ thuộc dân tộc thiểu số
Dân tộc
=1 hộ thuộc dân tộc Kinh
Số năm học trung bình của chủ hộ. Bậc học -
Số năm đi học trung học phổ thông, học nghề được tính theo
số năm đi học của bậc học phổ thông.
Số người không có hoạt động tạo thu nhập + Tỷ lệ phụ thuộc trong hộ
- Tình trạng việc làm chính của chủ hộ
Có việc =0 không có việc
=1 có việc làm
- Loại ngành nghề chính của chủ hộ
Dịch vụ =0 không làm trong ngành dịch vụ
=1 làm việc trong ngành dịch vụ
+ Loại nhà ở của chủ hộ
Nhà tạm =0 nhà ở không thuộc nhà tạm
=1 nhà ở thuộc nhà tạm
Trang 34
Kỳ
Ký hiệu Mô tả vọng
dấu
- Diện tích đất bình quân Diện (1.000 m2) của hộ
Mức vay bình quân của Số tiền bình quân của một hộ vay được trong 1 -
hộ năm (ngàn đồng)
- =0 hộ ở nông thôn
Khu vực
=1 hộ ở thành thị
- =0 hộ không ở Kon Tum
Kon Tum
=1 hộ ở Kon Tum
- =0 hộ không ở Đắk Lắk
Đắk Lắk
=1 hộ ở Đắk Lắk
- =0 hộ không ở Đắk Nông
Đắk Nông
=1 hộ ở Đắk Nông
- =0 hộ không ở Lâm Đồng
Lâm Đồng
=1 hộ ở Lâm Đồng
Tỷ lệ di dân = Số người đến xã : (Tổng người
trong xã – số người đi khỏi xã)
Diện tích đất bình quân của xã chia thành 5 + Tỷ lệ di dân x đất bình nhóm từ lớn nhất đến nhỏ nhất quân xã nhóm 3 Biến tương tác thể hiện tỷ lệ di dân tác động
đến diện tích đất tính bình quân trên đầu người
của xã.
Tỷ lệ di dân x tệ nạn Biến tương tác thể hiện tỷ lệ di dân tác động +
Trang 35
Kỳ
Ký hiệu Mô tả vọng
dấu
mại dâm đến trật tự an ninh xã hội.
Tỷ lệ di dân x tệ nạn Biến tương tác thể hiện tỷ lệ di dân góp phần +
trộm cắp làm gia tăng tệ nạn trộm cắp
Tỷ lệ di dân x tệ nạn Biến tương tác thể hiện tỷ lệ di dân góp phần +
thất nghiệp làm gia tăng tệ nạn thất nghiệp
Trên cơ sở xác định khung phân tích và cơ sở lý thuyết liên quan đến vấn đề
nghiên cứu, trong chương 2 tác giả lựa chọn phương pháp phân tích làm cơ sở cho
việc phân tích cũng như lựa chọn mô hình nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả cũng mô tả
quá trình rút trích dữ liệu, xác định mô hình logistic nhằm đánh giá các tác động của
những nhân tố chính ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây
Nguyên.
Trang 36
Chương 3: CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TÌNH TRẠNG NGHÈO CỦA
CÁC HỘ GIA ĐÌNH Ở TÂY NGUYÊN
3.1. Tổng quan về tình trạng nghèo tại vùng nghiên cứu
Từ lý thuyết về nghèo đói của những nghiên cứu trước được tổng hợp từ
chương một, bằng phần mềm Stata tác giả sử dụng phương pháp phân tích mô tả
lượng hóa các nhân tố tác động đến tình trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên
bao gồm: chi tiêu bình quân của hộ, vị trí địa lý, tuổi, giới tính, số năm đi học, tỷ lệ
phụ thuộc, tình trạng dân tộc, nghề nghiệp, tài sản của chủ hộ, diện tích đất sản xuất
nông nghiệp, khả năng tín dụng, đặc điểm cơ sở hạ tầng, tỷ lệ di dân; và từ đó xác
định mô hình định lượng trên cơ sở của những nhân tố đã phân tích thống kê ở trên.
Trong thời gian qua chính sách đổi mới kinh tế toàn diện đã góp phần giúp
Việt Nam đạt được những thành tích đáng kể trong công cuộc xóa đói giảm nghèo.
Tỷ lệ nghèo chung của cả nước đã giảm từ 28,9% năm 2002 xuống 16% năm 2006
và 14,5% năm 2008 (TCTK,2008). Tuy nhiên tỷ lệ nghèo của Việt Nam vẫn còn
khá cao và phân bổ không đều giữa các vùng. Miền núi Tây Nguyên là một trong ba
vùng có tỷ lệ nghèo cao nhất nước. Tỷ lệ nghèo ở Tây Nguyên nhìn chung có giảm
đi nhưng vẫn còn ở mức khá cao: năm 2002 là 51,8%, năm 2004 còn 33,1%, năm
2006 giảm xuống 28,6% và đến năm 2008 còn 24,1%. Như vậy, năm 2008 tỷ lệ
nghèo của Tây Nguyên cao hơn 10,4% so với vùng Duyên hải Miền Trung, hay so
với Đông Nam Bộ là 20,6% và 9,6% so với cả nước (TCTK,2008).
Bảng 3.1: Tỷ lệ nghèo và chi tiêu bình quân đầu người của hộ theo năm
Chi tiêu bình quân đầu người /năm T ỷ lệ nghèo (%) (ngàn đồng)
C ả nước Tây Nguyên Cả nước Tây Nguyên
Thành thị 3,3 6,09 12.233 9.768
Nông thôn 18,7 31,55 6.561 6.110
Chung 14,5 24,1 8.150 7.249
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Trang 37
Dưới góc độ thành thị - nông thôn, tỷ lệ hộ nghèo Tây Nguyên ở nông thôn
cao gấp hơn 5 lần tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị. Khoảng cách nghèo thành thị - nông
thôn tính bằng % số điểm của Tây Nguyên cao hơn nhiều lần so với cả nước. Bảng
3.1 cho thấy có một cách biệt rất lớn về nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn,
cụ thể như: tỷ lệ nghèo ở khu vực nông thôn của cả nước là 18,7% cao hơn tỷ lệ
nghèo chung của cả nước là 4,2% và cao hơn thành thị là 15,4%. Sự khác biệt này ở
Tây Nguyên còn rõ nét hơn; tỷ lệ nghèo của Vùng ở khu vực nông thôn là 31,55%
trong khi đó ở khu vực thành thị tỷ lệ này chỉ có 6,09% - cao hơn 25,46% và cao
hơn tỷ lệ nghèo của cả Vùng là 9,45%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nghèo ở vùng nông thôn
Tây Nguyên còn cao hơn so với vùng nông thôn cả nước là 14,85%.
Ngoài ra, mức chi tiêu bình quân hộ của Tây Nguyên (mức nghèo tuyệt đối)
thấp hơn so với cả nước và có sự chênh lệch đáng kể giữa thành thị và nông thôn.
Bảng 3.1 cho thấy mức chi tiêu bình quân của một hộ gia đình ở nông thôn Tây
Nguyên là 6.110 ngàn đồng/năm thấp hơn 63% so với thành thị và bằng 93% chi
tiêu bình quân của một hộ dân ở nông thôn trên cả nước. Như vậy, việc giảm nghèo
ở khu vực nông thôn vẫn là một thách thức lớn.
3.2. Nghèo theo vị trí địa lý
Bảng 3.2: Tỷ lệ nghèo theo vị trí địa lý (%)
ộ nghèo Hộ không nghèo H
Thành thị 6,09 93,91
Nông thôn 31,55 68,45
Kon Tum 37,22 62,78
Gia Lai 44,10 55,90
Đăk Lăk 16,94 83,06
Đăk Nông 6,58 93,42
Lâm Đồng 17,00 83,00
Chung 24,1 75,9
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Trang 38
Nhìn vào bảng 3.2 ta thấy chênh lệch tỷ lệ hộ nghèo giữa thành thị và nông
thôn có một khoảng cách khá xa, ở thành thị tỷ lệ hộ nghèo rất thấp chỉ khoảng
6,09% trong khi đó ở nông thôn tỷ lệ này đến 31,55% cao hơn 5 lần. Trong các tỉnh
thuộc khu vực Tây Nguyên, Gia Lai có tỷ lệ nghèo cao nhất (44,1%) và Đắk Nông
có tỷ lệ nghèo thấp nhất (6,58%). Điều này cũng dễ hiểu vì phần đông người dân
Gia Lai là dân tộc thiểu số, địa hình nhiều đồi núi, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, giao
thông không thuận lợi, đất đai xấu. Ngoài ra, kết quả kiểm định ở phụ lục 5 cũng
góp phần khẳng định sự khác biệt về vị trí địa lý giữa hộ nghèo và không nghèo là
có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.
3.3. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và tuổi của chủ hộ
Bảng 3.3: Tuổi chủ hộ bình quân của Vùng và cả nước
Cả nước Tây Nguyên
Hộ nghèo 47,33 44,11
Hộ không nghèo 50,07 45,80
Chung 49,67 45,39
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Theo các nghiên cứu trước, tuổi bình quân của chủ hộ thuộc hộ nghèo thấp
hơn so với chủ hộ của các hộ không nghèo. Bảng 3.3 cho thấy tuổi trung bình của
chủ hộ nghèo ở Tây Nguyên thấp hơn so với cả nước dù hộ là nghèo hay không
nghèo; cụ thể tuổi bình quân của chủ hộ nghèo ở Tây Nguyên là 44,11 tuổi, thấp
hơn 3,22 tuổi so với cả nước. Tuy nhiên, qua kiểm định ở phụ lục 6 tác giả nhận
thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi giữa hộ nghèo và không
nghèo.
Trang 39
3.4. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và giới tính của chủ hộ
Bảng 3.4: Tỷ lệ nghèo, số năm đi học trung bình và chi tiêu bình quân
đầu người theo giới tính
Chi tiêu bình quân Số năm đi học T ỷ lệ nghèo (%) đầu người/năm trung bình (năm) (ngàn đồng)
Nam 24,86 5,9 6.678
Nữ 20,40 6,2 6.760
Chung 24,23 5,9 6.689
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Bảng 3.4. cho thấy không có sự khác biệt đáng kể của tỷ lệ nghèo theo giới
tính (khoảng trên 4%), điều này cũng được chứng minh trong phần kiểm định ở phụ
lục 7; song khác với những nghiên cứu trước, số năm đi học trung bình của chủ hộ
là nữ ở Tây Nguyên cao hơn nam giới, vì vậy mức chi tiêu bình quân của chủ hộ là
nữ cũng sẽ cao hơn.
3.5. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và số năm đi học của chủ hộ
Giáo dục là một phương tiện quan trọng để nâng cao khả năng kiếm sống, từ
đó cải thiện mức sống, và là con đường ngắn nhất giúp người nghèo thoát nghèo
hiệu quả. Trong nhiều nghiên cứu cho thấy giáo dục có liên quan khá mật thiết với
đói nghèo, và luôn có ý nghĩa trong mọi phân tích.
Bảng 3.5: Trình độ giáo dục phân theo nhóm hộ
H ộ nghèo Hộ không nghèo Chung
Tỷ lệ biết đọc, biết viết (%) 82,42 71,78 75,08
Số năm đi học trung bình (năm) 2,91 6,89 5,92
Tỷ lệ Không bằng cấp (%) 97,19 69,81 76,44
Tiểu học (%) 74,53 74,84 74,77
Trung học cơ sở (%) 29,27 69,39 59,67
Trang 40
Trung học phổ thông (%) 42,67 33,46 4,66
Cao đẳng (%) 0,00 3,05 2,31
Đại học (%) 0,00 6,23 4,72
Thạc sỹ, tiến sỹ (%) 0,00 0,15 0,11
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Từ bảng 3.5 cho thấy trình độ giáo dục của hộ nghèo khá thấp hơn so với hộ
không nghèo, cụ thể: tỷ lệ biết đọc, biết viết của hộ nghèo cao hơn 10,64% so với
hộ không nghèo, số năm đi học trung bình của chủ hộ nghèo thấp hơn đến 2,37 lần,
tỷ lệ chủ hộ nghèo không bằng cấp chiếm khá cao 97,19% (hơn 27,38%) và đặc biệt
hơn là không có chủ hộ nghèo nào có trình độ cao đẳng, đại học hay thạc sỹ, tiến sỹ
trong khi con số ở hộ không nghèo lần lượt là 3,05%, 6,23% và 0,15%. Không
những thế, bằng kiểm định Chi – square, tác giả nhận thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về số năm đi học với tình trạng nghèo của hộ (xem thêm phụ lục 10). Vì
vậy, để thoát nghèo bền vững không còn con đường nào khác phải nâng cao trình độ
giáo dục cho chủ hộ và các thành viên trong hộ.
3.6. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ
Tỷ lệ người phụ thuộc lớn có tương quan chặt, trực tiếp với tỷ lệ nghèo và
ngược lại, điều này được kiểm định cụ thể trong phần phụ lục 9. Như vậy, hộ nghèo
là những hộ có tỷ lệ phụ thuộc cao hơn, bất kể hộ ở thành thị hay nông thôn, bất kể
ở Tây Nguyên hay trong cả nước; đặc biệt những hộ nghèo ở Tây Nguyên có tỷ lệ
người phụ thuộc cao nhất cả nước (phụ lục 4). Bảng 3.6 thể hiện tỷ lệ phụ thuộc ở
nông thôn và thành thị Tây Nguyên có khác biệt không đáng kể, nhưng chênh lệch
tỷ lệ người phụ thuộc giữa hộ nghèo và không nghèo rất lớn. Tỷ lệ người phụ thuộc
của hộ không nghèo chỉ bằng 64% so với hộ nghèo. Sự chênh lệch này còn thể hiện
rõ nét hơn ở thành thị và nông thôn. Ở nông thôn, một hộ nghèo có tỷ lệ phụ thuộc
bình quân là 0,5 trong khi đó hộ không nghèo chỉ có 0,35. Còn ở thành thị, tỷ lệ phụ
thuộc của hộ nghèo lớn hơn hộ không nghèo 0,16. Do đó, công tác kế hoạch hóa gia
đình ở Tây Nguyên cần được rà soát lại.
Trang 41
Bảng 3.6: Tỷ lệ phụ thuộc của hộ theo khu vực
H ộ nghèo Hộ không nghèo Chung
Thành thị 0,41 0,25 0,26
Nông thôn 0,50 0,35 0,4
Chung 0,50 0,32 0,36
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
3.7. Mối quan hệ giữa nghèo và tình trạng dân tộc của chủ hộ
Ở Việt Nam, người dân tộc thiểu số do những thói quen, phong tục lạc hậu
nên thường có những hạn chế trong quá trình tiếp cận các nguồn lực của xã hội để
phát triển kinh tế. Do đó, tỷ lệ nghèo trong cộng đồng các dân tộc thiểu số thường
cao hơn người Kinh. Bên cạnh đó, kiểm định Chi – square cũng góp phần khẳng
định thêm mối quan hệ giữa nghèo và tình trạng dân tộc của chủ hộ (xem phụ lục 8)
Bảng 3.7: Tỷ lệ hộ nghèo và chi tiêu bình quân đầu người theo dân tộc
Chi tiêu bình quân đầu
Tỷ lệ hộ nghèo người/năm
(%)
(ngàn đồng)
Kinh 4,6 8.652
Dân tộc thiểu số 65 3.565
Chung 24,1 7.245
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Qua nghiên cứu bộ dữ liệu VHLSS2008, tỷ lệ nghèo của hộ dân tộc thiểu số
là 65% gấp 14 lần so với hộ gia đình người Kinh. Bên cạnh đó, sự khác biệt giữa
chủ hộ là người Kinh và người dân tộc thiểu số còn thể hiện qua mức chi tiêu trung
bình. Một hộ người Kinh có mức chi tiêu trung bình một năm là 8.652 ngàn đồng
cao hơn gần 3 lần so với chi tiêu bình quân của hộ dân tộc thiểu số (bảng 3.7). Điều
này cho thấy mức sống của người dân tộc thiểu số còn quá thấp nên chính quyền địa
Trang 42
phương và chính sách của nhà nước cần quan tâm hơn nữa và hướng dẫn giúp họ
tìm cách thoát nghèo.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy mối tương quan chặt giữa nơi sống và tỷ
lệ đói nghèo của hộ gia đình. Cụ thể, tỷ lệ hộ nghèo trong nhóm các dân tộc thiểu số
cao hơn trong nhóm dân tộc Kinh ở cả thành thị và nông thôn, cụ thể: ở nông thôn
tỷ lệ nghèo của dân tộc thiểu số là 69,72%, cao hơn gần 3 lần so với thành thị, và
cao hơn gần 14 lần so với hộ gia đình là người Kinh sống ở nông thôn (bảng 3.8)
Bảng 3.8: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo dân tộc và khu vực (%)
Thành thị Nông thôn
Kinh 3,79 5,13
Dân tộc thiểu số 23,63 69,72
Chung 6,09 31,55
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Vấn đề nghèo đói của hộ dân tộc thiểu số trở nên nghiêm trọng do nhiều
nguyên nhân sau: cách biệt về địa lý, độc canh trong sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ
tầng yếu kém, trình độ học vấn thấp và nhiều yếu tố khác (xem thêm phụ lục 5).
Bảng 3.9: Tỷ lệ bằng cấp cao nhất của chủ hộ theo dân tộc (%)
Dân tộc Kinh Dân tộc thiểu số Tổng số
Không bằng cấp 65,42 95,02 73,58
Tiểu học 68,85 70,72 69,37
Trung học cơ sở 66,19 32,35 56,85
Trung học phổ thông 40,74 13,91 33,34
Cao đẳng 3,12 0,7 2,51
Đại học 6,91 0,6 5,17
Thạc sỹ, tiến sỹ 0,25 0 0,18
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Một minh chứng cho những nguyên nhân trên có thể thấy ở bảng 3.9. Tỷ lệ
hộ dân tộc thiểu số không có bằng cấp chiếm 95,02%, cao hơn 29,6% so với dân tộc
Trang 43
Kinh và 21,44% so với cả vùng. Ngoài ra, 6,91% chủ hộ người Kinh có bằng đại
học nhưng chỉ có 0,6% chủ hộ là dân tộc thiểu số có bằng đại học và không có chủ
hộ nào tốt nghiệp thạc sỹ hay tiến sỹ. Điều này cho thấy học vấn có mối quan hệ rất
chặt chẽ với tình trạng đói nghèo của các hộ dân tộc thiểu số và việc nâng cao trình
độ cho các hộ dân tộc thiểu số, nhất là các hộ nghèo là rất cần thiết. Nâng cao trình
độ sẽ giúp các hộ tiếp cận với trình độ kỹ thuật mới, kiến thức mới để từ đó họ có
thể áp dụng cho sản xuất, giúp họ tự thoát nghèo.
3.8. Mối quan hệ giữa nghèo với nghề nghiệp chính và tình trạng việc làm của
chủ hộ
Theo tập quán của người Việt Nam, chủ hộ thường là trụ cột của gia đình,
người tạo phần lớn thu nhập, đồng thời cũng là người đưa ra các ý kiến quyết định
trong các vấn đề quan trọng của gia đình.
Từ kết quả thống kê bảng 3.10 cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo có việc là 95,96%,
trong khi hộ không nghèo là 93,75%. Như vậy, không có mối liên hệ thống kê giữa
tình trạng việc làm và tình trạng nghèo của hộ (xem thêm phụ lục 11). Tuy nhiên,
việc làm của hộ nghèo tập trung hầu hết trong lĩnh vực nông nghiệp đến 89,96%
hơn 27,42% so với hộ không nghèo, chỉ có 6,13% hộ nghèo làm trong lĩnh vực công
nghiệp và 8,04% hộ nghèo tham gia vào hoạt động dịch vụ. Điều này cho thấy
người dân Tây Nguyên vẫn còn lệ thuộc khá nhiều vào nông nghiệp. Trong khi đó,
các ngành công nghiệp và dịch vụ đang thu hút nhiều lao động có tay nghề và thu
nhập cao, ổn định hơn thì nhóm hộ nghèo không đủ khả năng tiếp cận. Cụ thể, có
đến 44,03% hộ không nghèo làm giàu trong ngành dịch vụ thì trái lại chỉ có 8,04%
hộ nghèo làm việc trong ngành này, thấp hơn 27,27% so với toàn khu vực. Tham
gia vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ phi nông nghiệp sẽ giảm thiểu khả
năng nghèo. Có đến 36,36% hộ không nghèo làm trong lĩnh vực tự sản xuất kinh
doanh, dịch vụ trong khi chỉ có 19,93% hộ nghèo làm trong lĩnh vực này. Rõ ràng là
những hộ có chủ hộ tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp thì khả năng thoát
nghèo sẽ cao hơn, như ông cha ta đã nói: “Phi thương bất phú”. Các kết quả nghiên
cứu trước đều cho rằng thu nhập từ nông nghiệp mang tính thời vụ, khá bấp bênh,
Trang 44
phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác, nhiều rủi ro và tiền lương thấp. Chính vì vậy,
vấn đề nhiều người dân ở Tây Nguyên lao động trong nông nghiệp là một minh
chứng cho tình trạng nghèo đói nghiêm trọng của Vùng hiện nay. Không có việc
làm hoặc làm việc với mức thu nhập thấp của nhóm hộ nghèo đồng nghĩa với cơ hội
thoát nghèo của họ khá mong manh.
Bảng 3.10: Tình trạng việc làm, nhóm ngành, loại công việc của chủ hộ phân
theo nhóm hộ và khu vực (%)
Nhóm ngành Loại công việc
Lao Kinh Tự động doanh Có việc Nông Công Dịch làm nghiệp nghiệp vụ hưởng dịch nông lương vụ
Hộ nghèo 93,75 89,96 6,13 8,04 79,18 96,74 19,93
Hộ không 95,96 62,54 18,94 44,03 60,58 83,33 36,36 nghèo
Chung 94,29 69,19 15,84 35,31 65,09 86,58 32,38
Khu vực
Nông thôn 95,39 81,22 11,26 23,39 65,85 95,27 24,34
Thành thị 91,57 39,36 27,19 64,85 63,18 65,03 52,32
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Một trong những nguyên nhân chính góp phần làm cho tỷ lệ lao động trong
ngành nông nghiệp có tỷ lệ nghèo cao là phần lớn nông dân đều chưa qua đào tạo
về trình độ chuyên môn kỹ thuật đến 82,65% và chỉ có 17,19% tỷ lệ lao động đã
qua đào tạo, thấp hơn 2,32% so với tỷ lệ lao động được đào tạo chung của Vùng.
Bên cạnh đó, những hộ nghèo không có khả năng, điều kiện để nâng cao tay nghề,
nên có đến 85,43% lao động của hộ nghèo không được đào tạo, tỷ lệ này cũng khá
cao so với hộ không nghèo (bảng 3.11). Điều đó cho thấy, hầu hết lao động của Tây
Trang 45
Nguyên đều không qua quá trình đào tạo, không có những kỉ năng cần thiết cho quá
trình sản xuất nên xác suất để họ rơi vào nghèo đói khá cao.
Bảng 3.11: Kỹ năng lao động theo nhóm ngành
Tỷ lệ lao động có kỹ thuật Tỷ lệ lao động giản đơn (%) (%)
Nhóm ngành
Nông nghiệp 82,65 17,19
Công nghiệp 54,55 35,55
Dịch vụ 48,51 18,56
Nhóm hộ
Hộ nghèo 85,43 5,67
Hộ không nghèo 58,61 23,94
Chung 65,11 19,51
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n=579)
Một vấn đề không kém phần quan trọng là trong số 5,71% những người không
có việc làm ở Tây Nguyên phần lớn là do già yếu và nghỉ hưu. Kết quả bảng 3.12
cho thấy trong số 5,71% những người không có làm việc có tới 50,12% là vì già yếu
và nghỉ ngơi, 19,71% do bệnh tật. Một vấn đề đáng quan tâm là ở Tây Nguyên là
hầu hết các chủ hộ đều tìm được việc làm. Do đó, ngành nghề mà chủ hộ tham gia
có ảnh hưởng khá mạnh đến tình trạng nghèo đói của hộ.
Bảng 3.12: Các nguyên nhân khiến chủ hộ không đi làm
Tây Nguyên
Nội trợ cho gia đình 11,02
Già yếu, nghỉ hưu 50,12
Tàn tật 6,36
Ốm đau 19,71
Không tìm được việc 0
Trang 46
Khác 12,79
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
3.9. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tài sản của hộ
Bảng 3.13: Diện tích nhà ở bình quân và tình trạng nhà ở của hộ
Hộ nghèo Hộ không nghèo Chung
45,42 75,90 68,51 Diện tích nhà ở bình quân của hộ (m2)
Tình trạng nhà ở (%)
Nhà biệt thự 1,42 1,07 0,0
Nhà kiên cố khép kín 8,73 6,67 0,23
Nhà kiên cố không khép kín 7,76 5,96 0,33
Nhà bán kiên cố 69,98 69,98 69,98
Nhà tạm và khác (…) 12,12 16,33 29,46
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Trong các loại tài sản của hộ thì nhà ở là một tài sản có giá trị lớn và ảnh hưởng
đáng kể đến tình trạng nghèo của hộ. Theo kết quả nghiên cứu từ bảng 3.13 cho
thấy có sự chênh lệch khá lớn về diện tích nhà ở bình quân của nhóm hộ nghèo và không nghèo; cụ thể hộ nghèo chỉ có 45.42 m2 trong khi hộ không nghèo bình quân 75,90 m2 nhiều hơn 30,48 m2. Thêm nữa, nhà ở của nhóm hộ nghèo tập trung chủ
yếu là nhà bán kiên cố (chiếm 69,98%) và nhà tạm (chiếm 29,46), (xem thêm phụ
lục 12). Việc sống trong những nhà bán kiên cố, nhà tạm chật chội, dột nát vào mùa
mưa bão gặp phải rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sức khỏe, sinh hoạt chung của
gia đình đặc biệt trẻ em, người già và giá trị những căn nhà quá thấp nên cũng khó
để thế chấp vay vốn, đầu tư nâng cao thu nhập. Trong khi đó, hộ không nghèo có
các loại nhà biệt thự và kiên cố khép kín, một số còn ở nhà bán kiên cố, nhưng có
thể vì một lý do nào chưa xây nhà chứ không phải do không có khả năng làm nhà.
Trang 47
3.10. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ với diện tích đất sản xuất bình
quân
Các nghiên cứu của PPA cho thấy các hộ nghèo coi diện tích đất và chất lượng
đất là yếu tố quyết định đến mức sống (WB, 2000). Các hộ khác thường xem các hộ
nông thôn nghèo là những hộ có đất đai ít hoặc chất lượng kém, nên không đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng. Do đó, diện tích đất càng lớn người dân càng dễ dàng ứng dụng
nhanh những tiến bộ kỹ thuật, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng phù hợp với điều kiện
khí hậu, thổ nhưỡng. Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá nông
thôn càng làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm xuống. Tỷ lệ hộ mất đất, không
có đất ngày càng cao gây khó khăn không nhỏ tới thu nhập và ảnh hưởng lớn tới
mức sống của người dân.
Bảng 3.14: Tỷ lệ có đất, diện tích đất sản xuất bình quân, loại đất và thu nhập
từ đất phân theo hộ
H ộ nghèo Hộ không nghèo Chung
Tỷ lệ hộ có đất (%) 65,74 67,20 66,85
18.083 12.843 14.113 Diện tích đất sản xuất bình quân của hộ (1000 m2)
Loại đất (%)
Đất trồng cây hàng năm 87,91 54,87 63,68
Đất trồng cây lâu năm 43,52 64,81 59,13
Đất lâm nghiệp 8,94 1,22 3,28
Đất mặt nước 3,79 3,80 3,80
Đất đồng cỏ 0 0,48 0,36
Đất thổ cư 43,14 33,53 36,09
Đất du canh 0 0 0
Khác 1,36 0,38 0,64
Thu nhập từ đất (ngàn đồng/ năm)
Thu nhập từ trồng lúa 5.568 7.606 6.696
Trang 48
Thu nhập từ trồng cây hàng năm 694 618 645
Thu nhập từ cây ăn quả 3.920 22.873 17.807
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Bảng 3.14 cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ có đất
và không đất giữa hộ nghèo và không nghèo (xem thêm phụ lục 13). Bởi lẽ Tây
Nguyên là một vùng rộng lớn, mật độ dân số thưa nên hầu hết người dân đều có đất.
Tuy nhiên, việc có đất chưa thể kết luận là hộ giàu hay nghèo vì còn tùy thuộc vào
khả năng sử dụng nguồn lực này để tăng thu nhập cho hộ. Hơn nữa, diện tích đất sản xuất bình quân của một hộ nghèo cao hơn 5.240 m2 so với hộ không nghèo vì
nhiều lý do khác nhau; có thể cầm cố, cho hộ khác thuê hoặc cho thuê dài hạn, xảy
ra tình trạng là do một biến động nào đó từ gia đình. Cũng có thể do họ không thích
làm nông nghiệp, giao đất cho người khác để có thời gian đi làm những việc khác
phù hợp hơn như buôn bán nhỏ, kinh doanh thương mại, làm công trình trong ngành
xây dựng, làm công nhân, hoặc di chuyển đến vùng khác làm thuê.
Ngoài ra, diện tích đất hàng năm, đất lâm nghiệp và đất thổ cư của những hộ
nghèo cao hơn hộ không nghèo và đất trồng cây lâu năm của hộ không nghèo lại
cao hơn hộ nghèo khoảng 21,29%. Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt trong thu
nhập từ đất đai giữa hai nhóm nghèo và không nghèo. Nguồn thu nhập chính của hộ
gia đình ở Tây Nguyên dựa vào thu nhập trồng lúa, thu nhập từ cây ăn quả và cây
hàng năm. Tuy nhiên, hai nguồn thu nhập chính là thu nhập từ trồng lúa và cây ăn
quả của hộ gia đình nghèo lại quá thấp so với hộ không nghèo. Điều này cho thấy
khả năng sử dụng đất của hộ nghèo còn kém hiệu quả, kinh nghiệm, kiến thức và
việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất sẽ góp phần thay đổi
đáng kể thu nhập trong sản xuất nông nghiệp.
Bảng 3.15: Diện tích đất sản xuất trung bình của hộ phân theo khu vực (1000m2)
H ộ nghèo Hộ không nghèo Chung
Thành thị 4.112 6.259 6.128
Trang 49
Nông thôn 19.170 16.487 17.333
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Nếu phân tích theo khu vực thành thị và nông thôn sẽ thấy rõ hơn. Đối với khu vực nông thôn diện tích đất bình quân của một hộ là 17.333 ngàn m2/ hộ cao hơn
gần 3 lần một hộ ở khu vực thành thị. Đối với thành thị, nhóm hộ nghèo có diện tích
đất bình quân chỉ bằng 65,69% so với nhóm hộ không nghèo. Như vậy, đối với khu
vực thành thị, diện tích đất có tác động lớn đến tình trạng nghèo của hộ.
3.11. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ với khả năng tiếp cận tín dụng
Bảng 3.16: Khả năng tiếp cận và trị giá khoản vay của hộ
Hộ nghèo Hộ không nghèo Chung
Tiếp cận được vốn vay tín dụng (%) 46,45 44,92 45,29
Trị giá khoản vay (ngàn đồng) 5.814 18.710 15.584
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Cũng như những vùng khác ở Việt Nam, vốn vay là nhu cầu quan trọng của hộ
gia đình ở Tây Nguyên, nhất là các hộ nghèo. Có đủ vốn, các hộ gia đình nghèo có
thể tìm cơ hội sản xuất hay buôn bán mà vượt lên thoát nghèo. Trước đây, hầu như
chỉ có người giàu mới có cơ hội vay ngân hàng. Hiện nay, người nghèo cũng có cơ
hội được vay vốn. Số liệu từ bảng thống kê 3.16 cho thấy khả năng tiếp cận được
vốn vay giữa hộ nghèo và không nghèo không có sự chênh lệch đáng kể (xem thêm
phụ lục 14), tỷ lệ hộ không nghèo vay được vốn lại thấp hơn 1,53% so với hộ
nghèo. Tuy nhiên, khoản vay trung bình của một hộ nghèo chỉ có 5.814 ngàn đồng
thấp hơn 12.896 ngàn đồng so với hộ không nghèo. Điều đó cho thấy hộ nghèo có
phần khó khăn hơn trong việc vay những khoản vay lớn, vì trình độ xã hội thấp,
thiếu tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp giá trị thấp, khả năng tạo thu nhập ít; và
do đó họ khó có khả năng đầu tư vốn vào sản xuất nhằm tăng thu nhập để giảm
nghèo.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn vốn tín dụng chính thức rất quan trọng cho
cả người nghèo và người không nghèo. Bảng 3.17 cho thấy nguồn vốn vay của hộ
Trang 50
nghèo và không nghèo khá đa dạng. Có 27,83% hộ nghèo vay từ ngân hàng chính
sách, 15,67% vay từ ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, chỉ có 7,7%
nguồn vay từ người cho vay cá thể nhưng đây thường là những khoản vay với lãi
suất cao, đôi khi trở thành gánh nặng cho người nghèo; trong khi đó lãi suất ở
những ngân hàng thấp hơn nhiều. Điều này cho thấy hệ thống và cơ chế tín dụng
đến với người dân Tây Nguyên còn hạn chế, có nghĩa là một bộ phận lớn không vay
được nếu có nhu cầu, giá trị khoản vay không cao.
Bảng 3.17: Nguồn vốn vay của hộ (%)
Hộ nghèo Hộ không nghèo Chung
Ngân hàng chính sách 27,83 15,85 18,75
Ngân hàng NN & PTNT 15,67 22,59 20,91
Ngân hàng khác 0 4,69 3,55
Quỹ hỗ trợ việc làm 0 0,27 0,20
Tổ chức tín dụng 1,11 2,78 2,38
Tổ chức chính trị xã hội 3,53 3,95 3,85
Người cho vay cá thể 7,70 8,25 8,12
Bạn bè, họ hàng 15,10 15,33 15,27
Khác 2,34 4,67 4,10
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Mặt khác, nhiều người nghèo vay được số tiền vay quá ít, đôi khi làm cho hộ
thêm gánh nặng nợ nần và không thể có cách đầu tư hiệu quả. Do đó có tới 17,03%
hộ nghèo vay vốn để tiêu dùng, 9,89% hộ nghèo vay vốn để mua nhà và 8,31% vay
để mua sắm. Xét trên mục đích vay để đầu tư tài sản lưu động (34,34%), tài sản cố
định (24,09%) tập trung chủ yếu nguồn vốn vào sản xuất nông, lâm nghiệp (bảng
3.18). Vấn đề đặt ra là còn quá nhiều người nghèo khoảng 53,55% không tiếp cận
được nguồn tín dụng này sẽ gặp khó khăn trong sản xuất. Có thể đây là một nguyên
nhân khiến họ nghèo hơn những hộ khác.
Trang 51
Bảng 3.18: Mục đích sử dụng khoản vay của hộ (%)
Hộ nghèo Hộ không nghèo Chung
Đầu tư cho TSLĐ 34,34 40,23 38,75
Đầu tư cho TSCĐ 24,09 21,91 22,45
Trả nợ 2,43 10,94 8,80
Mua nhà 9,89 11,78 11,30
Cưới/ ma chay 1,02 1,05 1,05
Đi học 0 7,74 5,79
Chữa bệnh 3,74 10,34 8,68
Tiêu dùng 17,03 12,21 13,42
Ăn giáp hạt 3,55 0,89 1,56
Mua sắm 8,31 1,86 3,45
Nước sinh hoạt 0,50 0 0,13
Vệ sinh 1,22 1,93 1,75
Khác 1,05 5,58 4,44
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
3.12. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với các đặc điểm hạ tầng cơ sở
Bảng 3.19: Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận được hạ tầng cơ sở, các dịch vụ và chi tiêu
bình quân của hộ theo cấp tỉnh (%)
Kon Gia Đắk Đắk Lâm Chung Tum Lai Lắk Nông Đồng
Tỷ lệ hộ nghèo (%) 37,22 44,09 16,94 6,58 16,99 24,1
Chi tiêu bình quân hộ/ 6.013 6.027 6.995 7.644 6.816 6.689 năm (ngàn đồng)
Tỷ lệ hộ tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ (%)
Đường ô tô đến thôn, 100 93,47 92,81 100 100 95,99 ấp
Trang 52
Đường ô tô đến xã 100 95,87 95,58 100 100 97,50
Nhà văn hóa xã 63,57 62,75 76,09 68,64 73,33 70,70
Công trình thủy lợi nhỏ 58,42 91,18 100 73,33 80,60 100
Điện 95,87 100 100 100 99,03 100
Nguồn nước mùa khô 81,17 74,75 68,12 100 65,84 72,64
Chợ xã/ liên xã 34,53 65,23 92,98 100 77,34 78,19
Trường học 92,30 79,36 96,31 100 83,82 89,19
Trạm y tế 38,73 68,62 76,56 66,75 57,86 65,93
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Theo các nghiên cứu trước về khả năng tiếp cận hạ tầng cơ sở cho thấy phần
lớn những hộ sống ở các xã, tỉnh không có hạ tầng cơ sở sẽ có tỷ lệ đói nghèo cao
hơn. Tuy nhiên, do vị trí địa lý lịch sử hình thành phát triển của Vùng có những đặc
thù nhất định nên nhìn chung cơ sở hạ tầng không có tương quan chặt đến tình trạng
nghèo của hộ gia đình ở các vùng. Bảng 3.19 cho thấy hầu như gần 100% các tỉnh
có đường ô tô đến xã, thôn, ấp, có điện, trường học; và tỷ lệ các tỉnh có các cơ sở hạ
tầng khác cũng khá cao. Song, cũng cần lưu ý thêm trong năm tỉnh của Tây Nguyên
thì nhìn chung hai tỉnh có tỷ lệ nghèo cao nhất là Kon Tum, Gia Lai; và cũng chính
hai tỉnh này có cơ sở hạ tầng kém hơn khác so với các tỉnh khác thông qua một số
chỉ tiêu ở bảng 3.19.
Trong các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng, nguồn nước đóng một vai trò quan trọng
trong việc giảm nghèo. Vì đặc trưng của Vùng là cao nguyên sản xuất nông nghiệp,
chủ yếu trồng cây hàng năm, cây ăn quả và cây lâu năm nên nguồn nước đóng góp
đáng kể vào việc giảm thiểu chi phí, nâng cao thu nhập và cải thiện tình trạng nghèo
của các hộ gia đình. Ngoài ra, kiểm định Chi – square khẳng định một lần nữa
không có sự liên hệ giữa tình trạng nghèo của hộ với khả năng tiếp cận cơ sở hạ
tầng (phụ lục 16)
Trang 53
3.13. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ với tỷ lệ di dân đến xã
Bảng 3.20: Nhóm thông tin liên quan đến di dân phân theo cấp tỉnh
Kon Gia Đăk Đăk Lâm Chung Tum Lai Lăk Nông Đồng
Tỷ lệ di dân (%) 0,73 0,82 0,89 3,53 0,95 1,08
Tỷ lệ hộ nghèo (%) 37,22 44,09 16,94 6,58 16,99 24,1
Chi tiêu bình quân trên
6.013 6.027 6.995 7.644 6.816 6.689 đầu người (ngàn
đồng/năm)
Diện tích xã bình quân 14.410 16.940 11.414 16.223 13.675 13.881 (ha)
Tỷ lệ tệ nạn xã hội ở xã (%)
Tệ nạn mại dâm 0 0 0 14,72 0 1,15
Tệ nạn trộm cắp 46,67 24,73 63,09 50,39 47,19 47,90
Thất nghiệp 10,55 25,12 17,89 35,39 22,32 21,40
Tỷ lệ xã ô nhiễm môi 61,29 15,42 63,09 49,36 64,58 51,45 trường (%)
Tỷ lệ đất của xã có giấy 58,92 52,46 61,84 54,83 74,44 62,16 chứng nhận (%)
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Từ kết quả kiểm định ban đầu ở phụ lục 17, tác giả nhận thấy không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ di dân đến xã và tình trạng nghèo của hộ. Tuy
nhiên, theo WB (2004) cho rằng một phần ba số người di cư từ các tỉnh đến Tây
Nguyên là người dân tộc thiểu số; hơn một nửa trong số họ vẫn nghèo. Do đó, tình
trạng di dân không chỉ góp phần làm gia tăng nghèo đói mà còn làm tình trạng mất
an ninh, tệ nạn xã hội, xung đột giữa dân bản địa và dân di cư gia tăng. Từ bảng
3.20 cho thấy ở Đắk Nông có tỷ lệ di dân cao nhất trong Vùng vì nơi đây mật độ
dân số khá thưa và diện tích đất sản xuất khá lớn (thể hiện diện tích đất của xã tỉnh
Trang 54
này bình quân cao nhất 16.223 hecta) nên là mảnh đất tiềm năng cho những người
di cư. Chính vì vậy, Đắk Nông phải gánh chịu tỷ lệ các tệ nạn xã hội cao hơn hẳn
các tỉnh khác, điều này sẽ là một rào cản khá lớn cho việc giảm nghèo bền vững của
tỉnh và Vùng trong thời gian tới. Ngoài ra, tỷ lệ đất của xã có giấy chứng nhận tại
Gia Lai và Đắk Nông còn khá thấp so với các tỉnh khác. Do đó, chính quyền của hai
địa phương này cần có những chính sách thích hợp để cấp giấy chứng nhận đất cho
các hộ gia đình, nhằm giúp họ có nhiều cơ hội để thoát nghèo và cũng giảm thiểu
tình trạng căng thẳng, xung đột tranh giành đất đai giữa các hộ dân tại địa phương
với những người di cư từ nơi khác đến.
3.14. Kết quả ước lượng tham số mô hình logistic đ ánh giá tác động của các
nhân tố nghèo của Tây Nguyên
Bảng 3.21: Kết quả hồi quy logistic
Số quan sát = 578 Hồi quy logistic
Wald chi2(20) = 123,93
Prob > chi2 = 0,0000
Log pseudolikelihood = -1.096.981,7 Pseudo R2 = 0,6039
Biến phụ thuộc:
Giá Thống kê Hệ số hồi Độ lệch trị Hộ gia đình nghèo (có = 1) quy chuẩn Z P
Hằng số -3,2031 2,8669 -1,12 0,264
Biến độc lập
Tuổi chủ hộ (*) 0,2286 0,0928 2,46 0.014
Tuổi chủ hộ bình phương (*) -0,0022 0,0009 -2,45 0,014
Giới chủ 0,0562 0,6104 0,09 0,927
Dân tộc (*) -3,0013 0,4943 -6,07 0,000
Số năm đi học (*) -0,3877 0,0969 -4,00 0,000
Trang 55
Tỷ lệ phụ thuộc (*) 2,2079 1,0927 2,02 0,043
-0,4168 1,0815 -0,39 0,700 Có việc
-1,2696 0,6481 -1,96 0,050 Dịch vụ (*)
1,0948 0,6022 1,82 0,069 Nhà tạm (**)
Diện tích đất bình quân của hộ -0,1062 0,0781 -1,36 0,174
Mức vay bình quân hộ (**) -0,2958 0,1550 -1,91 0,056
-1,6478 0,6149 -2,68 0,007 Khu vực (*)
-1,2056 0,5840 -2,06 0,039 Kon Tum (*)
-1,2053 0,5199 -2,32 0,020 Đắk Lắk (*)
-2,7874 0,8700 -3,20 0,001 Đắk Nông (*)
-1,2346 0,6147 -2,01 0,045 Lâm Đồng (*)
Tỷ lệ di dân x đất bình quân xã 237,1453 69,9614 3,39 0,001 nhóm 3 (*)
Tỷ lệ di dân x tệ nạn mại dâm (**) 1,9429 1,0830 1,79 0,073
Tỷ lệ di dân x tệ nạn trộm cắp 0,5944 0,4723 1,26 0,208
Tỷ lệ di dân x tệ nạn thất nghiệp (**) 0,8851 0,4961 1,78 0,074
(*) mức ý nghĩa 5%, (**) mức ý nghĩa 10%
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Kết quả hồi quy từ mô hình logistic cho ta kết luận chính xác hơn những thảo
luận ban đầu dựa trên phân tích thống kê mô tả. Kết quả kiểm định Wald chi2 =
123,93 (Prob = 0,0000) cho thấy mức độ thích hợp của mô hình rất tốt.
Hệ số ước lượng của các biến độc lập mang dấu dương có nghĩa là khi tăng
thêm một đơn vị biến này (hay có thuộc tính này), thì sẽ làm tăng xác suất nghèo
của một hộ, trong điều kiện các biến khác không đổi. Ngược lại, các biến có hệ số
mang dấu âm là những yếu tố làm giảm xác suất nghèo của một hộ, nếu tăng thêm
một đơn vị (hay có thuộc tính) của biến này, trong điều kiện cố định tất cả các biến
còn lại.
Từ mô hình ước lượng cho thấy các biến như: tuổi chủ, tuổi chủ bình
phương, dân tộc, số năm đi học của chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc, làm trong ngành dịch
Trang 56
Để phân tích tác động của từng nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của
hộ, tác giả tiến hành mô phỏng xác suất nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên như
sau:
Bảng 3.22: Mô phỏng xác suất nghèo của hộ gia đình (%)
Xác suất nghèo được
Biến phụ thuộc: ước tính khi biến cố độc Hệ số EXP(B) hồi quy lập thay đổi một đơn vị Hộ gia đình nghèo (có=1)
và xác suất ban đầu là:
10% 20% 30% 40%
Các biến độc lập
Tuổi chủ hộ 0,2286 1,195 12 23 34 44
Tuổi chủ hộ bình phương -0,0022 0,998 10 20 30 40
Dân tộc -3,0013 0,097 1 2 4 6
Số năm đi học của chủ hộ -0,3877 0,740 8 16 24 33
Tỷ lệ phụ thuộc 2,2079 5,577 38 58 71 79
Ngành dịch vụ -1,2696 0,372 4 9 14 20
Nhà tạm 1,0948 2,345 21 37 50 61
8 17 25 35 Mức vay bình quân của hộ -0,2957 0,794
Tỷ lệ di dân x đất xã bq 3 237,1453 2,178237,15 100 100 100 100
Tỷ lệ di dân x tệ nạn mại dâm 1,9429 4,537 34 53 66 75
Tỷ lệ di dân x thất nghiệp 0,8851 1,992 18 53 46 57
Khu vực -1,6478 0,277 3 6 11 16
Kon Tum -1,2056 0,391 4 9 14 21
Trang 57
Đắk Lắk -1,2053 0,391 4 9 14 21
Đắk Nông -2,7874 0,114 1 3 5 7
Lâm Đồng -1,2346 0,383 4 9 14 20
Nguồn: Ước tính của tác giả bằng phần mềm STATA và Microsoft Excel dựa trên
VHLSS 2008
Kết hợp kết quả hồi quy và bảng 3.22 mô tả ảnh hưởng độc lập của từng
nhân tố đến xác suất nghèo của hộ gia đình cho kết quả cụ thể như sau: Giả sử xác
suất nghèo ban đầu của một hộ ở vùng nghiên cứu là 10%. Trong điều kiện các yếu
tố khác không đổi, chủ hộ có tuổi càng cao thì xác suất của hộ nằm dưới ngưỡng
nghèo sẽ càng lớn. Khi tuổi chủ tăng, ban đầu xác suất nghèo của hộ sẽ tăng lên,
đến một lúc nào đó xác suất nghèo sẽ giảm đi; nếu số năm đi học trung bình của chủ
hộ tăng thêm một năm thì xác suất nghèo của hộ giảm xuống 8%. Nếu tăng tăng
thêm một thành viên không tạo ra thu nhập trong hộ, sẽ làm tăng xác suất nghèo của
hộ lên 38%. Tương tự, nếu mức vay bình quân của hộ tăng thêm 1 triệu đồng thì
xác suất nghèo của hộ giảm xuống còn 8%.
Ngoài ra, với điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu chủ hộ là người Kinh
thì xác suất nghèo của hộ chỉ còn 1%. Như vậy, xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của
hộ gia đình dân tộc thiểu số cao gấp 10 lần so với hộ gia đình người Kinh. Bên cạnh
đó, loại nghề nghiệp chính của hộ cũng đóng góp đáng kể đến việc giảm nghèo của
hộ. Xác suất nghèo của hộ giảm xuống chỉ còn 4% nếu chủ hộ làm việc trong ngành
dịch vụ.
Trong các nguồn tài sản của hộ, nhà cửa là loại tài sản có giá trị tương đối
lớn, không chỉ ảnh hưởng tới thu nhập của hộ mà còn tác động không nhỏ đến sức
khỏe, tâm lý và nghề nghiệp của các thành viên trong hộ. Trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi, nếu hộ sống trong nhà tạm thì xác suất nghèo của hộ sẽ tăng lên
21%.
Một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng nghèo đói ở
Tây Nguyên thêm trầm trọng là tình trạng di dân. Theo các nghiên cứu trước, di dân
ảnh hưởng không chỉ đến thu nhập, đất đai, môi trường, và còn ảnh hưởng tình
Trang 58
trạng an ninh xã hội. Xác suất nghèo của hộ gia đình sẽ tăng lên 100% nếu tình
trạng di dân tác động mạnh đến việc phân chia diện tích đất đai bình quân của xã và
có gây ra tình trạng xung đột, tranh chấp đất đai giữa người di dân và người dân bản
địa. Khi tỷ lệ di dân đi kèm với nó là tệ nạn mại dâm gia tăng sẽ gây ảnh hưởng đến
hạnh phúc của một số gia đình, bệnh tật gia tăng, người nam trong gia đình không
lo làm ăn nên xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của hộ sẽ tăng lên 34%. Tuy Tây
Nguyên là một vùng đất rộng, đầy tiềm năng và dân cư thưa thớt nhưng nếu tỷ lệ di
dân đến vùng này quá đông sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng việc làm của cả
người dân bản địa và người di dân. Bởi lẽ Tây Nguyên là một vùng chuyên trồng cà
phê, cao su, tiêu, điều, rau và cây ăn quả nên có tính mùa vụ rất cao. Do đó, vào
những mùa thu hoạch, Vùng sẽ cần rất nhiều lao động, song sau đó khi qua mùa thu
hoạch chính thì tình trạng lao động dôi dư tạm thời trong nông nghiệp sẽ góp phần
làm tăng tỷ lệ thất nghiệp và làm xác suất nghèo tăng lên 18% so với ban đầu.
Theo WB (2005) khoảng cách địa lý cũng góp phần làm tình trạng nghèo đói
gia tăng. Với những đặc điểm tương đồng nhau, xác suất nghèo của hộ sẽ giảm còn
3% nếu hộ sống ở thành thị, và so với Gia Lai, nếu một hộ sống ở Kon Tum, Đắk
Lắk hoặc Lâm Đồng thì xác suất nghèo của hộ sẽ giảm đi 4%, và nếu ở Đắk Nông
thì xác suất này sẽ chỉ còn 1%.
Như vậy, trong tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của hộ và
có ý nghĩa thống kê thì nhân tố tỷ lệ số người phụ thuộc trong hộ, tỷ lệ di dân tác
động lên diện tích đất đai bình quân tính trên đầu người của xã và tệ nạn mại dâm
có ảnh hưởng mạnh đến khả năng nghèo của hộ gia đình. So với các vùng khác, hộ
nghèo Tây Nguyên cũng có những đặc trưng giống nhau như: tuổi chủ hộ, dân tộc,
số năm đi học, tỷ lệ phụ thuộc, việc làm của hộ. Tuy nhiên, vẫn có những nhân tố
khác biệt làm nên nét đặc trưng của người nghèo Tây Nguyên đó là: tỷ lệ phụ thuộc
tác động mạnh đến khả năng nghèo của Tây Nguyên nhưng ở vùng ven biển
ĐBSCL (Trương Thanh Vũ, 2007), vùng biên giới Tây Nam (Lê Thanh Sơn, 2008)
đều không chịu tác động bởi nhân tố này.
Trang 59
Ngoài ra, giới chủ, có việc, diện tích đất sản xuất bình quân của hộ không
ảnh hưởng đến khả năng rơi vào tình trạng nghèo của hộ ở Tây Nguyên trong khi đó
nó lại là đặc điểm gây ra nghèo cho các hộ gia đình ở Việt Nam (BCPTVN, 2000),
miền Trung (RPGA, 2003), miền núi phía Bắc (Ford, 2004), vùng ven biển miền
ĐBSCL (Trương Thanh Vũ, 2007) và vùng biên giới Tây Nam (Lê Thanh Sơn,
2008). Như đã nói ở trên, Tây Nguyên là vùng đất rộng người thưa, nên hầu hết mọi
hộ gia đình ở Tây Nguyên đều có đất canh tác. Do đó, ở Tây Nguyên việc sử dụng
nguồn lực này sao cho có hiệu quả có ý nghĩa hơn nhiều so với việc sở hữu bao
nhiêu đất đai.
Không những thế, nghiên cứu cũng phát hiện ra nhiều nhân tố mới ảnh
hưởng đến tình trạng nghèo của hộ, chẳng hạn: tỷ lệ di dân tác động rất mạnh đến
tình trạng nghèo của hộ, thông qua việc ảnh hưởng đến diện tích đất bình quân trên
đầu người của xã và tệ nạn mại dâm, thất nghiệp mà trong các nghiên cứu trước của
RPGA, PTF (2003), BCPTVN (2004) hay Đặng Nguyên Anh (2005) chỉ mới đề cập
đến nguyên nhân, không đi vào phân tích cụ thể và vấn đề này cũng chưa được đề
cập trong các nghiên cứu trước. Hơn nữa, loại ngành dịch vụ, mức vay tính bình
quân cho một thành viên của hộ, khu vực, các tỉnh trong Vùng cũng góp phần đáng
kể đến tình trạng nghèo của hộ song lại chưa được đề cập hay phân tích chi tiết theo
mô hình định lượng trong các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam.
Thông qua phân tích mô tả và định lượng mô hình nghiên cứu, tác giả xác
định nhóm nhân tố ảnh hưởng đến nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên bao gồm:
tuổi chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc, nhà tạm, tỷ lệ di dân tác động thuận chiều đến tình
trạng nghèo của hộ; dân tộc, số năm đi học, hoạt động trong ngành dịch vụ, mức
vay bình quân của hộ, khu vực, tỉnh tác động ngược chiều, tức là làm giảm xác suất
nghèo. Tuy nhiên, trong nhóm nhân tố trên thì tỷ lệ số người phụ thuộc trong hộ, tỷ
lệ di dân tương tác với diện tích đất xã bình quân theo hộ và tệ nạn mại dâm có ảnh
hưởng khá mạnh đến khả năng nghèo của hộ gia đình.
Trang 60
Chương 4: KẾT LUẬN
Bằng phương pháp thống kê mô tả và định lượng, kết quả nghiên cứu ở
chương ba cho thấy tình trạng nghèo đói của Tây Nguyên chịu ảnh hưởng bởi các
yếu tố sau: thành phần dân tộc, tỷ lệ người phụ thuộc, số năm đi học của chủ hộ,
loại công việc của chủ hộ, tình trạng nhà ở, mức vay bình quân của hộ, tình trạng di
dân, khu vực và các tỉnh khác nhau trong Vùng. Tuy nhiên, nguồn lực cho chính
sách giảm nghèo có hạn, do đó chính quyền nên ưu tiên tập trung nguồn lực cho
giáo dục đặc biệt là hỗ trợ giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số, đa dạng hóa
ngành nghề phi nông nghiệp, chính sách chăm lo đời sống cho người dân tộc nhằm
giúp người dân thoát nghèo và chống tái nghèo một cách bền vững.
Việc làm
Người nghèo Tây Nguyên, đặc biệt là người dân tộc thiểu số có trình độ văn
hóa cũng như trình độ chuyên môn hạn chế nên cơ hội việc làm rất xa vời với họ.
Để tạo việc làm cho người lao động nghèo, ngoài nỗ lực tìm kiếm việc làm của mỗi
bản thân hộ gia đình thì chính quyền địa phương cần tích cực thu thút đầu tư phát
triển các ngành giải quyết nhiều lao động mà không cần trình độ tay nghề cao, phát
triển các ngành nghề truyền thống tận dụng nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa
phương (chế biến cà phê, tiêu, điều, chè, hoa, rau quả và các nguyên liệu khác), phát
triển du lịch (tận dụng lợi thế đặc trưng của vùng Tây Nguyên với nhiều núi, thác và
cao nguyên Lâm Đồng) và các làng nghề truyền thống (tranh, thêu, thủ công mỹ
nghệ, đồ làm từ thổ cẩm và những làng nghề khác) nhằm giải quyết lao động nhàn
rỗi trong nông nghiệp góp phần gia tăng thu nhập; giúp người dân phát triển thị
trường tiêu thụ sản phẩm nông sản phẩm (cà phê, tiêu, điều, chè, cao su, hoa, rau củ
quả) và sản phẩm truyền thống sẵn có (đồ làm bằng thổ cẩm, cà phê, rượu cần và
các sản phẩm khác).
Chính quyền địa phương nên chú trọng phát triển các ngành dịch vụ hỗ trợ
cho nông nghiệp các các ngành dịch vụ phi nông nghiệp, làng nghề ở nông thôn
nhằm tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân nghèo. Ngoài ra, cũng cần phải phát
triển mạng lưới dịch vụ nông nghiệp từ dịch vụ tín dụng, bảo hiểm, cung cấp vật tư,
Trang 61
thiết bị, máy móc, cung cấp hàng tiêu dùng, chế biến nông lâm sản cung cấp trong
nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần tạo động lực kinh tế
để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như: có chính sách hợp lý về tiền lương, về
giáo dục đào tạo, bố trí và sử dụng thỏa đáng lực lượng lao động, hạ thấp tỷ lệ sinh
để giảm sức ép tăng dân số và lao động quá nhanh. Chính việc tổng hợp các yếu tố
đó giúp cho người lao động tự hoàn thiện mình, để nâng cao chất lượng lao động và
thu nhập.
Số người phụ thuộc
Số người phụ thuộc cao sẽ là gánh nặng cho hộ, và đẩy hộ vào con đường
nghèo khó, khốn cùng. Số người phụ thuộc cao do hai nguyên nhân chủ yếu: gia
đình đông con, hoặc do bệnh tật, tai nạn giao thông, tai nạn lao động. Để giảm số
người phụ thuộc, Nhà nước cần quan tâm đến công tác kế hoạch hóa gia đình như:
đẩy mạnh tuyên truyền, có biện pháp khuyến khích hữu hiệu trong công tác này
(như ưu tiên cho vay vốn những hộ nghèo ít con, có chính sách khen thưởng, tuyên
dương những hộ thực hiện đúng công tác kế hoạch hóa gia đình).
Công tác kế hoạch hóa gia đình là vấn đề lâu dài. Trước mắt, đối với những
hộ đông con, đang rơi vào hoàn cảnh khó khăn, chính quyền địa phương cần có
chính sách hỗ trợ họ, ưu tiên tạo việc làm cho người lao động thuộc diện xóa đói
giảm nghèo. Xa hơn nữa, khi kinh tế trong vùng phát triển nhanh, tạo điều kiện cho
người nữ có nhiều cơ hội trong công việc, vừa tạo thêm thu nhập cho gia đình, vừa
tăng thêm hiểu biết của người phụ nữ, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình.
Dân tộc
Người dân tộc khai phá nhiều đất nhưng hầu hết chưa được cấp quyền sử
dụng đất, kỹ năng canh tác kém nên năng suất thấp, thiếu việc làm và thu nhập thấp
là những hệ quả thường trực. Điều đáng lo ngại là một bộ phận lớn người dân tộc
chặt cây, phá rừng, lấy củi hoặc đốt than đang xảy ra một cách nghiêm trọng tại Tây
Nguyên. Người dân tộc ít học nên khó khăn hơn trong việc tiếp cận thông tin, tích
lũy kiến thức và kết quả cuối cùng là thiếu kỹ năng lao động và nhận thức kém của
nhóm người này. Ngày nay, đa số người dân tộc thiểu số có thể nói và hiểu tiếng
Trang 62
Kinh nhưng phát âm không chuẩn. Điều này khiến cho họ hạn chế giao tiếp với
người Kinh và tạo nên sự kỳ thị của người Kinh đối với họ.
Để tránh bị tụt hậu quá xa và xóa đi sự cách biệt, việc quan trọng đầu tiên
phải làm là nhóm dân tộc thiểu số cần được trang bị kiến thức và trình độ học vấn
nhiều hơn. Riêng việc đến trường, chín quyền địa phương phải có thêm những
khuyến khích để trẻ em người dân tộc thiểu số có thể đến trường nhiều hơn, khuyến
khích những giáo viên dân tộc về dạy học cho cộng đồng mình, vì nhờ lợi thế nắm
được hai ngôn ngữ nên họ sẽ dễ truyền đạt, giúp người học dễ nhớ và nhớ lâu hơn.
Chính quyền địa phương cũng cần xem xét dành kinh phí để cải thiện và mở thêm
những trường nội trú dân tộc, tổ chức đào tạo nghề tại địa phương cho con em các
gia đình nghèo, trẻ em gái và trẻ em tàn tật.
Nhằm giúp các hộ dân tộc thiểu số có thể được chăm sóc sức khỏe tốt hơn,
chính quyền địa phương cần tăng thêm số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ y bác sĩ, dịch vụ y tế. Ngoài ra, việc liên kết với các bệnh viện lớn trong cả nước,
mở thêm nhiều đợt khám, chữa bệnh miễn phí cho các hộ dân tộc nghèo, tuyên
truyền kiến thức, cải thiện nhận thức của người dân tộc, đặc biệt là người nghèo về
tầm quan trọng của kế hoạch hóa gia đình là điều hết sức cần thiết và cấp bách.
Bênh cạnh đó, việc làm là một trong những nhân tố quan trọng giúp giảm
nghèo bền vững, do đó chính quyền cũng nên quan tâm hỗ trợ kiến thức trồng trọt,
chăn nuôi, kỹ năng làm ăn phù hợp với vùng sinh sống và văn hóa của người dân
tộc Tây Nguyên. Hơn nữa, cần tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số có thể sống
hòa đồng, học tập với người Kinh thông qua việc tổ chức các lễ hội truyền thống,
hội thi thể thao, giao lưu văn nghệ. Áp dụng di dân đối với người dân tộc thiểu số
sống rải rác ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, đường giao thông rất khó khăn, đến khu
vực định canh mới gần vùng dân cư đang sống để từng bước hội nhập với cuộc sống
cộng đồng. Khôi phục các làng nghề truyền thống của người dân tộc như dệt thổ
cẩm, tạo công ăn việc làm ổn định.
Trang 63
Giáo dục
Theo kết quả thảo luận, khi số năm đi học của chủ hộ tăng lên thì tỷ lệ nghèo
giảm đi. Người dân Tây Nguyên (đặc biệt là người dân tộc) do những đặc điểm tự
nhiên và những phong tục tập quán nên chi tiêu cho giáo dục của người dân Tây
Nguyên rất thấp, trình độ học vấn thấp, dẫn đến thu nhập thấp, và tỷ lệ nghèo khá
cao. Bên cạnh đó tình trạng giáo dục kém, đã dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực
của Vùng bị hạn chế, trình độ học vấn thấp làm cho quá trình tiếp cận khoa học kỹ
thuật khó khăn, thậm chí không thể tiếp cận được. Vì vậy, Nhà nước nên miễn toàn
bộ học phí và đóng góp xây dựng trường cho con em các hộ nghèo. Một hộ được
xếp vào hạng nghèo thì thường “chạy ăn từng bữa” nên không thể có thêm một
khoản phí nào để lo cho con đi học. Trong điều kiện như vậy, việc cho con đi sự nỗ
lực lớn của họ. Thậm chí nếu nguồn lực cho phép thì cũng nên cấp sách giáo khoa
miễn phí cho con em các hộ nghèo, hay chí ít cũng nên cấp những đầu sách quan
trọng.
Tín dụng
Cần phải đa dạng nguồn vốn vay, mức cho vay cao hơn và kết hợp cho vay
với hỗ trợ phương thức sản xuất, chẳng hạn: khi các hộ gia đình nghèo vay tiền để
sản xuất nông lâm nghiệp, các ngân hàng chính sách có thể cung cấp cây giống,
phân bón, thuốc trừ sâu (phải đảm bảo chất lượng) và được quy ra tiền. Tránh
trường hợp ngân hàng đưa cho họ số tiền mặt lớn, vì khi họ có số tiền lớn, họ
thường sử dụng vào các mục đích khác, sẽ làm nguồn vốn vay không hiệu quả.
Ngoài ra, thời hạn vay phải được tính toán sao cho phù hợp với tình hình thực tế tại
địa phương, thông thường cây ngắn ngày, cây dài ngày trên năm năm, đồng thời
việc thu nợ phải tiến hành sau khi thu hoạch một thời gian, tạo điều kiện cho người
dân bán được sản phẩm với giá cao.
Thủ tục cho vay vốn cần đơn giản hóa, người nghèo cần phải có những thông
tin tối thiểu về thủ tục vay, trang bị những kiến thức thực hiện quy trình vay vốn, có
cơ chế phù hợp về mức vốn vay và vay vốn thêm mà không cần phải thế chấp, chỉ
cần xác nhận của chính quyền địa phương. Rút ngắn thời hạn cho vay, mở rộng vốn
Trang 64
ngắn hạn cho vay để người sản xuất kịp thời vụ. Quản lý và điều hành nguồn vốn,
từ đó khắc phục nguồn vốn tồn đọng và tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn, cải tiến
quy trình thẩm định để cho vay đến từng hộ có hiệu quả.
Để có khắc phục rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các hộ như: bão lụt,
dịch bệnh trong chăn nuôi, ngân hàng cần có một quỹ bảo hiểm (có thể trích từ lãi
suất). Nguồn vốn vay được xóa nếu gia súc bị dịch bệnh hay sản xuất thực sự bị rủi
ro cho việc bảo hiểm cây trồng, hoặc giúp người dân biết làm ăn sinh lãi, bao tiêu
sản phẩm.
Tình trạng di dân
Nguyên nhân chính của dòng nhập cư vào vùng Tây Nguyên là nguồn tài
nguyên đất bazan màu mỡ sẵn có để trồng cà phê, cao su, tiêu, điều và các câu công
nghiệp khác. Những năm cà phê được giá, nhiều nông dân trở nên giàu có. Giấc mơ
giàu có đã cuốn hàng ngàn người nghèo từ những vùng đất nghèo khác đến định cư
ở Tây Nguyên. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên quá tải bởi số lượng dân di cư
ngày tăng và trở nên thoái hóa nhanh chóng. Cơ sở hạ tầng nghèo nàn, hạn hán, lũ
lụt và nhiều vấn đề xã hội gây ra bởi những người dân di cư đã đặt kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội của Tây Nguyên trước nguy cơ bị phá sản. Không những thế,
khoảng cách về thu nhập giữa người giàu và người di cư nghèo tăng lên nhanh
chóng. Phần lớn những hộ giàu là những hộ đã định cư ở Tây Nguyên một thời gian
dài. Vì vậy, họ đã sở hữu những trang trại lớn. Đất đai ngày càng tăng giá khiến cho
dân di cư mới đến khó có thể mua được. Họ phải làm thuê kiếm sống. Ngoài ra,
những người dân không có đất rất khó vay được tiền của ngân hàng, vì ngân hàng
đòi sổ đỏ để thế chấp. Vì vậy, chính quyền địa phương cần ban hành đầy đủ quy chế
quản lý cư trú đối với người nhập cư và tăng cường các dịch vụ nhà ở, văn hóa xã
hội, y tế nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân nhập cư; đảm bảo cho dân
nhập cư thực hiện đăng ký tạm trú, tạm vắng, chấp hành nghiêm các quy định của
pháp luật, giữ gìn an ninh trật tự, vệ sinh môi trường; tạo điều kiện thuận lợi về mặt
xã hội để người nhập cư sớm hòa nhập với cộng đồng, có nơi ở nhất định, khuyến
khích tham gia sinh hoạt đoàn thể, sinh hoạt ấp, tổ dân phố và tăng cường các hoạt
Trang 65
động vui chơi giải trí lành mạnh phù hợp với lứa tuổi thanh thiếu niên; chú trọng
công tác giáo dục sức khỏe giới tính, kế hoạch hóa gia đình nhằm hạn chế các tệ
nạn xã hội.
Chính sách giảm nghèo cho các tỉnh và khu vực thành thị - nông thôn
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo cũng có thể đánh giá ở
cấp độ tỉnh dưới cấp độ vùng. Chính quyền một số tỉnh đã có quyết tâm hơn so với
các tỉnh khác trong cải cách, thu hút đầu tư, thúc đẩy các ngành phi nông nghiệp
phát triển. Đồng thời cũng có sự khác nhau trong quá trình lập kế hoạch, dự toán
ngân sách, trong hiệu quả thực hiện các dịch vụ xã hội giữa các tỉnh. Trên thực tế,
những tiến bộ không đồng đều trong cải cách cơ cấu, xã hội và quản lý nhà nước
giữa các tỉnh là một trong những điểm nổi bật trong quá trình chuyển đổi nền kinh
tế của Việt Nam. Kết quả là kinh nghiệm giảm nghèo giữa các tỉnh cũng rất đa
dạng.
Các chỉ số phát triển kinh tế xã hội ở cấp tỉnh là một đầu vào quan trọng
trong quá trình triển khai chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo đến các tỉnh. Việc
phân cấp ngày càng mạnh hơn có hàm ý rằng nguồn lực của địa phương có vai trò
ngày càng tăng trong phần chi tiêu công ở cấp địa phương. Khả năng của các chính
quyền địa phương trong việc tăng trưởng và giảm nghèo phụ thuộc rất nhiều vào
việc sử hiệu quả các nguồn lực tại địa phương. Vì vậy, chính phủ cần xác định một
tầm nhìn, xác định mục tiêu tương ứng, hoạch định chính sách, sắp xếp nguồn lực,
giám sát và đánh giá kết quả, tham vấn một cách có hệ thống chương trình tăng
trưởng và xóa đói giảm nghèo cho Vùng và có chính sách ưu tiên phân bổ nguồn
lực cho ba tỉnh có tỷ lệ nghèo cao nhất của Vùng.
Như đã phân tích ở trên, mức sống và tỷ lệ nghèo của người dân thành thị và
nông thôn có một khoảng cách khá xa, điều kiện cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận
các điều kiện sống của người dân ở nông thôn cũng kém hơn rất nhiều so với thành
thị. Mặt khác, đa số các hộ sống ở nông thôn đều làm nông nghiệp, không thể trong
thời gian ngắn đưa họ ra khỏi nông nghiệp. Như vậy, để nâng cao đời sống các hộ
nông dân nhất là hộ nghèo, giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn cần phải:
Trang 66
đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp – nông thôn, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ mới vào sản
xuất, chú trọng công tác khuyến nông, lâm nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng phi nông nghiệp.
Từ kết quả nghiên cứu ở chương ba, trong chương bốn tác giả gợi ý một số
giải pháp giảm nghèo, tập trung vào các nhóm nhân tố như: chú trọng phát triển các
ngành dịch vụ, đẩy mạnh tuyên truyền công tác kế hoạch hóa gia đình, hỗ trợ giáo
dục đặc biệt cho người nghèo và người dân tộc thiểu số, hoàn thiện phương thức tín
dụng, quản lý, giám sát tình trạng di dân, đầu tư phát triển nông thôn và có chính
sách phân bổ nguồn lực ưu tiên cho một số tỉnh nghèo nhất của Vùng.
Giới hạn của đề tài và hướng nghiên cứu mở rộng
Thứ nhất, đối tượng nghiên cứu của đề tài là hộ gia đình mà đại diện là chủ
hộ nên chưa bao quát hết những đặc điểm riêng biệt của các thành viên trong hộ.
Thứ hai, tình trạng nghèo chịu tác động bởi nhiều nhân tố, nhưng nghiên cứu
chỉ tập trung vào các nhân tố có thể định lượng được, còn những nhân tố khác như:
tập quán, văn hóa, tâm lý ỷ lại, nỗ lực thoát nghèo của người dân, sự biến động giá
nông sản phẩm, rủi ro (thiên tai, dịch bệnh) hay tác động của hội nhập quốc tế (như
việc gia nhập WTO) đến tình trạng nghèo của Vùng vẫn chưa đưa vào nghiên cứu.
Thứ ba, chuẩn nghèo của TCTK chứa đựng yếu tố không gian và thời gian,
nên cần có những nghiên cứu mới trong giai đoạn sắp tới khi TCTK đưa ra một
chuẩn nghèo mới trong tình hình kinh tế - xã hội Tây Nguyên có nhiều thay đổi.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu của đề tài này chủ yếu xuất phát từ phương pháp
định lượng, mô tả những nhân tố tác động đến khả năng rơi vào ngưỡng nghèo và
không nghèo của hộ gia đình mà chưa phân tích sâu nguyên nhân của từng nhân tố
tác động đến nghèo. Vì vậy, đòi hỏi cần có nhiều phương pháp tiếp cận khác như:
có sự tham gia của cộng đồng dân cư, các cấp chính quyền địa phương và các tổ
chức phi chính phủ khi nghiên cứu về nghèo
Trang 67
Kết luận
Tình trạng nghèo ở Tây Nguyên vẫn còn khá nghiêm trọng, tỷ lệ hộ nghèo
cao. Từ những thông tin của bộ dữ liệu VHLSS2008, tác giả thực hiện nghiên cứu
các nhân tố chính ảnh hưởng đến đói nghèo của hộ gia đình bao gồm: tuổi chủ hộ,
tỷ lệ phụ thuộc , nhà tạm, tỷ lệ di dân tác động thuận chiều; nghĩa là làm tăng xác
suất nghèo; dân tộc, số năm đi học, ngành dịch vụ, mức vay bình quân của hộ, khu
vực, tỉnh tác động nghịch chiều, tức là làm giảm xác suất nghèo. Vì vậy, để thực
hiện công tác giảm nghèo một cách có hiệu quả, các cấp chính quuyền cần chú ý
một số vấn đề sau như: Tuyên truyền và thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa gia
đình, đặc biệt cho đồng bào dân tộc thiểu số; đầu tư và hỗ trợ giáo dục cho người
nghèo, đặc biệt dân tộc thiểu số; chú trọng phát triển các ngành phi nông nghiệp;
nâng cao hiệu quả vay vốn tín dụng (đa dạng nguồn vay, nâng cao mức vay, kéo dài
thời hạn cho vay, kết hợp cho vay với hỗ trợ sản xuất) và quản lý, kiểm soát tình
trạng di dân.
Phụ lục 1: Các chỉ số đo lường nghèo đói
Sau khi xác định được các nhóm chi tiêu của hộ gia đình, có thể tính toán
một số chỉ tiêu thống kê phản ánh quy mô, mức độ và tính nghiêm trọng của
nghèo đói. Những chỉ tiêu thống kê này bao gồm: (i) Chỉ số đếm đầu người
(headcount index) – xác định tỷ lệ nghèo đói theo số lượng trong dân số; (ii)
khoảng cách nghèo đói (poverty gap) - xác định độ sâu của nghèo đói và (iii)
bình phương khoảng cách nghèo đói, phản ánh phân phối trong thu nhập giữa
các nhóm nghèo - xác định tính nghiêm trọng của nghèo đói.
H =
q n
(i) Chỉ số đếm đầu người (Headcount index)
Trong đó: n là qui mô dân số (tổng số người trong dân số)
q là số người dưới chuẩn nghèo
Chỉ số đếm đầu người là một chỉ số rất đơn giản, và chỉ đếm được số
người nghèo và tính tỷ lệ phần trăm của số người nghèo trong tổng dân số. Các
chỉ số có thể rất hữu ích trong trường hợp đo lường hiệu quả của các chính sách
xóa đói giảm nghèo theo thời gian như giảm tỷ lệ phần trăm hoặc số người
nghèo (Blackwood, et al, 1994). Tuy nhiên, chỉ số đếm đầu người không thể
phản ánh được sự khác biệt trong phân phối thu nhập và mức độ nghèo của
người dân.
(ii) Khoảng cách nghèo đói (Poverty gap) Nếu gọi y là thu nhập trung bình của người nghèo, và z là chuẩn nghèo thì I = z – y là khoản thu nhập thiếu hụt trung bình. Chỉ tiêu này đo lường mức
tiền thiếu hụt cần gia tăng từ mức nghèo đến mức chuẩn nghèo. Hạn chế chủ
yếu của chỉ số khoảng cách nghèo đói là thất bại trong việc phản ánh số lượng
người nghèo trong tổng dân số (Blackwood, et al, 1994).
(iii) Mức độ nghiêm trọng của nghèo đói (Bình phương khoảng cách
nghèo đói)
Chỉ số này đo lường khoảng cách từ mức nghèo đến mức chuẩn nghèo
cùng với sự bất bình đẳng giữa các nhóm nghèo (Coudouel, et al, 2002). Để đo
lường sự nghèo đói bao gồm sự thay đổi trong tổng số người nghèo, thay đổi
trong tình trạng thiếu hụt thu nhập và sự nhạy cảm của nghèo đói có thể sử dụng
q
=
zyP ),( α
∑
1 n
g t z
t
1 =
⎛ ⎜ ⎝
α ⎞ ⎟ ⎠
công thức sau:
q
y
t
=
),( zyP α
∑
1 n
t
1 =
z ⎛ − ⎜ z ⎝
α ⎞ ⎟ ⎠
hay
0>α n:
Trong đó:
là tổng số hộ nghèo trong cộng đồng dân cư
q: là số hộ nghèo dưới mức chuẩn nghèo
là khoảng cách nghèo đói của hộ gia đình thứ i gi:
là thu nhập của hộ nghèo thứ i yi:
z: là chuẩn nghèo
0=α thì P0 chính là chỉ số đếm đầu người (Headcount
Khi
index). Chỉ số này phổ biến nhất và dễ tính nhưng không phản ảnh mức độ
0
q
=
P 0
H
=
1 ∑ n
g t z
t
1 =
⎛ ⎜ ⎝
⎞ ⎟ ⎠
q n
nghiêm trọng từ thu nhập (chi tiêu) của người nghèo so với ngưỡng nghèo.
=
1=α , P1 là chỉ số đo lường khoảng cách nghèo đói (Poverty gap)
1
q
q
y
t
=
P 1
1 ∑ n
g t z
t
1 =
1 ∑ n 1 t =
⎛ ⎜ ⎝
⎞ ⎟ ⎠
z ⎛ − ⎜ z ⎝
⎞ ⎟ ⎠
Khi
=
Chỉ số này cho biết sự thiếu hụt trung bình trong chi tiêu của các hộ
nghèo so với ngưỡng nghèo và nó biểu hiện như mức trung bình của tất cả mọi
người trong tổng thể. Có thể xem đây là chi phí tối thiểu để xóa bỏ nghèo đói
trong giả định mọi khoản chi chuyển nhượng đều đến đúng đối tượng. Tuy
nhiên trong thực tế việc chuyển giao thường có hao hụt và chi phí hành chính
cho nên chi phí thực tế để xóa bỏ nghèo đói thường là bội số của khoảng cách
nghèo đói trung bình.
2=α , P2 là chỉ số đo lường mức độ nghiêm trọng của nghèo đói. Đây là
Khi
chỉ số khoảng cách đói nghèo bình phương (Squared poverty gap index) hay chỉ
số nhạy cảm nghèo (Sensitive gap ratio of poverty). Chỉ số này thể hiện mức độ
nghiêm trọng (hay cường độ) của nghèo đói và làm tăng thêm trọng số cho
2
2
q
q
y
t
=
P 1
1 ∑ n
g t z
1 ∑ n
t
t
1 =
1 =
⎛ ⎜ ⎝
⎞ ⎟ ⎠
z ⎛ − ⎜ z ⎝
⎞ ⎟ ⎠
nhóm người nghèo nhất trong số những người nghèo.
α là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa những
=
người nghèo.
Phụ lục 2: Mô hình logistic phân tích những nhân tố tác động đến khả
X
X
.. ++
ββ + 0 1
1
β k
k
năng nghèo của hộ gia đình.
=
P i
X
X
.. ++
ββ + 0 1
1
β k
k
1
e
e +
Biến phụ thuộc có giá trị bằng 1 nếu hộ gia đình là hộ nghèo và bằng 0
nếu hộ gia đình không phải là hộ nghèo.
Để đánh giá tác động của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc, ta trở lại
X
... ++
β
0
1
1
k
k
X + ββ e
P
=
X
... ++
β
1
0
1
k
k
X + ββ 1 e +
mô hình logic tổng quát:
... ++
β
ββ 0
X 11
X kk
⎞ ⎟ +=⎟ ⎠
⎛ P i ⎜ ln ⎜ P 1 − ⎝ i
Bằng phương pháp tuyến tính và mô hình hoá, mô hình trên trở thành:
P
ngheo
O
=
=
0
1
P
P 0 P − 0
khongngheo
Gọi hệ số Odd là hệ số chênh lệch nghèo ban đầu,
X
... ++
β
ββ + 0 1
1
k X
k
e
=
=
trong đó P0 là xác suất nghèo ban đầu.
O 0
1
P 0 P − 0
Từ phương trình suy ra
Giả định rằng khi các yếu tố khác không thay đổi, khi tăng Xk lên một
X
X
X
X
X
X
... ++
1 +
... ++
+
... ++
(
)
ββ + 0 1
1
β k
k
ββ + 0 1
1
β k
k
β k
ββ + 0 1
1
β k
k
β k
e
e
e
e
=
=
=
×
=
O 1
1
P 1 P − 1
β ke
=
=
=
đơn vị, hệ số chênh lệch nghèo đói mới O1 là:
O 1
O 1
1
1
P 1 P − 1
P 0 P − 0
=
β× keO
Suy ra:
0
1
P 1 P − 1
β k
=
Hay:
P 1
β k
1
eO × 0 eO + × 0
β k
=
Suy ra:
P 1
β
e
1
−
Thế hệ Odd vào ta được:
)k
eP × 0 ( 1 P − 0
Công thức trên có nghĩa rằng với các yếu tố khác cố định, khi yếu tố Xk
tăng lên một đơn vị thì xác suất nghèo của một hộ gia đình sẽ chuyển dịch từ P0
sang P1. Với cách triển khai như vậy chúng ta có thể mô tả những kịch bản cho
các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng mà một hộ rơi vào nghèo và từ đó có thể
định lượng được các tác động đến sự thay đổi các yếu tố ảnh hưởng để làm
giảm xác suất hộ rơi vào nghèo.
Phụ lục 3: Tỷ lệ phụ thuộc của hộ theo 8 vùng
Hộ không Chung H ộ nghèo nghèo
Vùng đồng bằng sông Hồng 0,47 0,31 0,33
Vùng Đông Bắc 0,41 0,30 0,33
Vùng Tây Bắc 0,39 0,29 0,34
Vùng Bắc Trung Bộ 0,47 0,33 0,36
Vùng duyên hải Nam Trung Bộ 0,47 0,33 0,35
Vùng Tây Nguyên 0,49 0,32 0,36
Vùng Đông Nam Bộ 0,44 0,30 0,31
Vùng đồng bằng sông Cửu Long 0,35 0,31 0,32
Chung 0,43 0,31 0,33
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)
Phụ lục 4: Tỷ lệ hộ nghèo theo dân tộc và tỉnh
Kinh Dân tộc Chung
Kon Tum 0 65,10 37,22
Gia Lai 0,15 92,07 44,09
Đắk Lắk 5,77 50,21 16,93
Đắk Nông 2,22 20,68 6,58
Lâm Đồng 7,45 49,09 17,00
Chung 4,62 64,99 24,1
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 582)
Phụ lục 5: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và các tỉnh
Từ kết quả kiểm định mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và nơi hộ sống
ở tỉnh Kon Tum cho thấy: Pearson Chi – square = 1,437, Asymp. Sig = 0,231,
nên chấp nhận giả thiết H0, với dữ liệu mẫu, có đủ bằng chứng để nói rằng tình
trạng nghèo đói của hộ không liên quan việc hộ sống ở Kon Tum hay không.
Bên cạnh đó, kiểm định giữa Pearson Chi – square = 45,311, Asymp. Sig
= 0,000, nên bác bỏ giả thiết H0, với dữ liệu mẫu, có đủ bằng chứng để nói rằng
tình trạng nghèo đói của hộ liên quan việc hộ sống ở Gia Lai hay không.
Ngoài ra, khi thực hiện kiểm định giữa tình trạng nghèo của hộ với nơi
hộ sống là Đăk Nông tác giả nhận thấy: Pearson Chi – square = 14,297, Asymp.
Sig = 0,000, nên bác bỏ giả thiết H0, với dữ liệu mẫu, có đủ bằng chứng để nói
rằng tình trạng nghèo đói của hộ liên quan việc hộ sống ở Đắk Nông hay không.
Tương tự khi thực hiện kiểm định ở Lâm Đồng cho kết quả như sau
Pearson Chi – square = 5,748, Asymp. Sig = 0,017, nên bác bỏ giả thiết H0, với
dữ liệu mẫu, có đủ bằng chứng để nói rằng tình trạng nghèo đói của hộ liên
quan việc hộ sống ở Lâm Đồng hay không.
Cuối cùng khi thực hiện kiểm định về mối quan hệ giữa tình trạng nghèo
và nơi hộ sinh sống trong trường hợp hộ ở Đắk Lắk, kết quả cho thấy: Pearson
Chi – square = 3,108, Asymp. Sig = 0,078, nên bác bỏ giả thiết H0, với dữ liệu
mẫu, có đủ bằng chứng để nói rằng tình trạng nghèo đói của hộ liên quan việc
hộ sống ở Đắk Lắk hay không.
Phụ lục 6: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và tuổi của chủ hộ
Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,162
> 0,05 nên phương sai về tuổi giữa hộ nghèo và không nghèo không khác nhau.
Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal variances assummed cho thấy
giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,095 > 0,05 nên chấp nhận giả thiết H0 và
khẳng định không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi giữa hộ nghèo và
hộ không nghèo.
Phụ lục 7: Kiểm định về mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ và giới
tính của chủ hộ
Từ bảng kiểm định cho thấy Pearson Chi – square = 3,009, Asymp. Sig =
0,083, chấp nhận giả thiết H0. Không có sự liên hệ giữa hộ nghèo và giới tính
của chủ hộ.
Phụ lục 8: Kiểm định về mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và dân tộc
Thực hiện kiểm định cho thấy: Pearson Chi – square = 212,50, Asymp.
Sig = 0,000, nên bác bỏ giả thiết H0 và khẳng định có sự liên hệ giữa hộ nghèo
và tình trạng dân tộc của hộ.
Phụ lục 9: Kiểm định về mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ
và tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ
Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,000
< 0,05 nên phương sai về tỷ lệ người phụ thuộc giữa hộ nghèo và không nghèo
khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal variances not
assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,000 < 0,05 nên bác bỏ
giả thiết H0 và khẳng định có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số người phụ
thuộc giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.
Phụ lục 10: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và số năm đi học
của chủ hộ
Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,000
< 0,05 nên phương sai về số năm đi học của chủ hộ giữa hộ nghèo và không
nghèo khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal variances
not assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,000 < 0,05 nên bác
bỏ giả thiết H0 và khẳng định có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số năm đi
học của chủ hộ giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.
Phụ lục 11: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và tình trạng việc làm
của chủ hộ
Thực hiện kiểm định cho thấy Pearson Chi – square = 1,157, Asymp. Sig
= 0,282, nên chấp nhận giả thiết H0; không có sự liên hệ giữa hộ nghèo và tình
trạng có việc làm hay không của chủ hộ.
Phụ lục 12: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và loại nhà
của chủ hộ
Kết luận: Pearson Chi – square = 32,349, Asymp. Sig = 0,000, bác bỏ giả
thiết H0 và kết luận có sự liên hệ giữa hộ nghèo và loại nhà tạm của hộ.
Phụ lục 13: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và diện tích đất sản
xuất bình quân của chủ hộ
Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,051
> 0,05 nên phương sai về diện tích đất sản xuất bình quân giữa hộ nghèo và
không nghèo không khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần
Equal variances assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,276 >
0,05 nên chấp nhận giả thiết H0 và khẳng định không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về diện tích đất sản xuất bình quân giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.
Phụ lục 14: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và mức vay
bình quân của chủ hộ
Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,000
< 0,05 nên phương sai về mức vay bình quân của chủ hộ giữa hộ nghèo và
không nghèo khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal
variances not assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,000 < 0,05
nên bác bỏ giả thiết H0 và khẳng định có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
mức vay bình quân của chủ hộ giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.
Phụ lục 15: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và khu vực sống
Từ kết quả kiểm định ta thấy: Pearson Chi – square = 38,276, Asymp.
Sig = 0,000, nên bác bỏ giả thiết H0 và kết luận có sự liên hệ giữa hộ nghèo và
khu vực sống của hộ.
Phụ lục 16: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và khả năng
tiếp cận cơ sở hạ tầng
Từ các bảng trên cho thấy, kiểm định Pearson Chi-Square giữa tình trạng
nghèo của hộ và khả năng tiếp cận đường ô tô cho ra kết quả: 1,374 với mức ý
nghĩa là 0,241; với khả năng tiếp cận chợ là 0,083 và mức ý nghĩa 0,773; với
khả năng tiếp cận điện, nước lần lượt là: 2,619 (mức ý nghĩa 0,106) và 1,382
(mức ý nghĩa 0,240). Với kết quả như trên và mức ý nghĩa 5%, tác giả chấp
nhận giả thiết H0, không có sự liên hệ giữa tình trạng nghèo của hộ và khả năng
tiếp cận cơ sở hạ tầng.
Phụ lục 17: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và tỷ lệ di dân đến xã
Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,065
> 0,05 nên phương sai về tỷ lệ di dân đến xã giữa hộ nghèo và không nghèo
không khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal variances
assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,255 > 0,05 nên chấp nhận
giả thiết H0 và khẳng định không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ di
dân đến xã giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
1. AusAID (2003), Phân tích đói nghèo vùng ĐBS Cửu Long : Báo cáo những
mốc quan trọng lần đầu – Giai đoạn 1, Phân tích đói nghèo vùng ĐBS Cửu
Long do AusAID tài trợ, Mimeo.
2. Desai, Jaiki (2000), Việt Nam qua lăng kính giới: Phân tích số liệu khảo sát
mức sống dân cư 1997-1998. UNDP & FAO.
3. Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004), Yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở miền
núi phía Bắc.
4. Lê Thúc Dục, Nguyễn Thắng và Vũ Hoàng Đạt (2006), Giảm nghèo ở Việt
Nam: các đối nghịch đằng sau những thành tựu ấn tượng. Bài viết cho Hội
thảo ABCDE của Ngân hàng Thế giới, Tokyo, Nhật Bản. 5-2006.
5. Nguyễn Trọng Hoài, (2007), Kinh tế phát triển, NXB Lao Động.
6. Hoàng Thanh Hương, Trần Hương Giang và Trần Bình Minh (2006), Nghèo
đói và dân tộc.
7. Ngân hàng thế giới (2000), Báo cáo phát triển Việt Nam, tấn công nghèo đói,
bản thảo, Hà Nội (11/1999).
8. Ngân hàng thế giới (2004), Báo cáo phát triển Việt Nam 2004, Nghèo, Hà Nội
(12/2005).
9. Ngân hàng thế giới (2007), Báo cáo phát triển Việt Nam 2007, hướng tới tầm
cao mới, Hà Nội (12/2006).
10. Nhóm hành động chống đói nghèo (2003), Nghệ An: Đánh giá nghèo đói có
sự tham gia, Hà Nội (9/2003)
11. Nhóm hành động chống đói nghèo (2003), Đánh giá nghèo có sự tham gia
của cộng đồng tại Quảng Trị, Hà Nội (9/2003)
12. Nhóm hành động chống đói nghèo (2003), Báo cáo đánh giá đói nghèo và
quản lý nhà nước có sự tham gia, Vùng ven biển Miền trung và Tây Nguyên,
Hà Nội (10/2003).
13. Nhóm hành động chống đói nghèo (2004), Đánh giá nghèo theo vùng, Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, , Hà Nội (4/2004)
14. Lương Hồng Quang (2002), Văn hoá của nhóm nghèo ở Việt Nam, NXB Văn
hoá thông tin, Hà Nội.
15. Lê Thanh Sơn (2008), Các nhân tố tác động đến đói nghèo ở các hộ gia đình
vùng biên giới Tây Nam, luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.
HCM, TP. Hồ Chí Minh.
16. Tổng Cục Thống kê (2008), Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm
2008, NXB Thống kê, Hà Nội.
17. Võ Tất Thắng (2004), Thực trạng và những yếu tố tác động đến nghèo ở tỉnh
Ninh Thuận, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Đào Công Thiên (2007), Phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới tình hình
nghèo đói của các hộ ngư dân ven đầm Nha Phu, huyện Ninh Hòa, tỉnh
Khánh Hòa, Sở Nông Nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Khánh Hòa.
19. Ravallion, M., Dominique van de Walle (2008), đất đai trong thời kỳ chuyển
đổi: cải cách và nghèo đói ở nông thôn Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, Hà
Nội.
20. Trương Thanh Vũ (2007), Các nhân tố tác động đến nghèo đói ở vùng ven
biển đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2003 – 2004, luận văn thạc sỹ kinh
tế, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
Tiếng Anh
1. Al-Samarrai, Samer (2007), “Changes in employment in Bangladesh, 2000-
2005: the impacts on poverty and gender equity”, Background paper for
Poverty Assessment of Bangladesh, WorldBank.
2. Andy Kotikula, Ambar Narayan and Hassan Zaman, “Trend and Patterns of
Poverty in Bangladesh in Recent Years”, WB, 2007.
3. Dang Nguyen Anh, 2005, “International mirgration; Opportunities and
Challenges for the renovations and development in Vietnam”, Vietnam – Asia
Pacific Economic Center, The Gioi Publishers, Hanoi.
4. Bird, K., D. Hulme, K. Moore and S. Shepherd (2002), Chronic poverty and
remote rural areas, International Development Department, School of Public
Policy, University of Birmingham.
5. Blackwood, D.L and Lynch, R.G, “The Measurement of Inequality and poverty: A Policy Maker’s Giude to the Literature”, World Development, Vol
22, No.4, p.567 – 578, 1994.
6. Buvinic, M. and G. R. Gupta (1997), “Female-headed households and female-
maintained amilies: are they worth targeting to reduce poverty in developing
countries?” Economic evelopment and Cultural Change; 45, pp. 259-80.
7. Coudoule, Aline, Hentschel, Jeko S. and Wodon, Quentin T.(2002), “Poverty
measurement and analysis in Jeni Klugman (ed)”, PRSP Source book,
Washington,
DC:
World
Bank
(downloadable
from
http://povlibrary.worldbank.org/files/5467-chap1.pdf)
8. Dominique Haughton and Nguyen Phong, “Living Standards during an
economic boom: Vietnam 1993 – 1998”, December 2001, United Nations
Development Program and Statistical Publishing House, Hanoi.
9. Glewwe, Paul, and Kwaku A.Tum – Baah, 1991, “The Distribution of
Welfare in Ghana in 1987 - 1988”, Living Standards Measurement Study
Working Paper 75, Washington, D.C; World Bank.
10. Government of Cameroon (2003), The Poverty Reduction Strategy Paper,
Ministry of Economic Affairs, Programming and Regional Development.
11. Government of Vietnam – UNDP (2004), Taking stock, Planing Ahead:
Evaluation of the National Targeted Programme on Hunger Eradication and
Poverty Reduction and Program 135, Hanoi: MOLISA.
12. Hoff, Karla and Stiglitz, Joseph E. (1993), “Imperfect Information and Rural
credit Markets: Puzzles and Policy Perspectives”, in K.Hoff, A.Braverman
and Joseph Stiglitz (ed), The Economic of Rural Organization, Theory,
Practice and Policy, The World Bank and Oxford. University Press,
Washingtion, DC.
13. Hossain, M. (1995), ‘Socio-economic characteristics of the poor’ in Rahman
and Hossain (eds) ethinking rural poverty UPL, Bangladesh.
14. Institue Nationale des Statistiques (2002b), Evolution de la Pauvreté au
Cameroun entre 1996 et 2001, DecembreDecembre 2002.
15. Institue Nationale des Statistiques (2008), Tendance, Profil et Déterminant de
la Pauvreté au Cameroun en 2007, Disponible sur www.statistic-
Cameroun.org.
16. Khandker, Shahidur R.
(1988), Fighting Poverty with Microcredit:
Experience in Bangladesh, New York, NY: Oxford University Press for the
World Bank.
17. Kotikula, A., A. Narayan and H. Zaman (2007), Explaining poverty eduction
in the 2000s: an analysis of the Bangladesh Household Income and
Expenditure Survey, Background paper
for Poverty Assessment of
Bangladesh. World Bank. Draft.
18. Lilongwe and Zomba, “National Economic Coucil”, Replies to questions on
the Profile of Poverty in Malawi, 2001.
19. Mok, T.Y., C. Gan and A. Sanyal (2007), The Determinants od Urban
household Poverty in Malaysia, Commerce Division, Lincoln University,
Canterbury, New Zealand.
20. Nicholas Minot and Bob Baulch, April 2002, “The Spatial Distribution of
Poverty
in Vietnam and
the Potential for Targetting”, Washington,
DC.2006.USA, page 17 – 18.
21. Osinubi, Tokunbo S. (2003), Urban poverty in Nigeria: A case study of Agege
area of Lagos state, Nigeria, Department of Economics, Faculty of the
Social sciences, University of Ibadan, Ibadan, Nigeria.
22. Owuor, G., M. Ngigi, A.S. Ouma and E.A. Birachi (2007), Determinants of
rural poverty in Africa: The case of small holder farmers in Kenya, J. Applied
Sci., 7: 2539-2543.
23. Rowntree, B S (1901),: "Poverty: A Study in Town Life", page 295-
296.Macmillian and CO.
24. Saral Bales, Phung Duc Tung and Ho Si Cuc (2001), “Sectoral Changes and
Poverty”, chapter 3 in Living Standards during an economic boom, the case in
Vietnam, edited by Dominique Haughton, Jonathan Haughton and Nguyen
Phong.
25. Sen , Amartya (1999), Development as freedom, New York: Knopf.
26. Todaro, M.P (1997), “Economic Development”, Reading, Mass: Addison –
Wesley.
27. Van de Walle, Dominique & Dorothyjean Cratty. (2003). Is the emerging non-
farm market economy the route out of poverty in Vietnam? (Policy Research
Working Paper 2950). Washington DC, World Bank.
28. Wagle Udaya, “Rethinking poverty definition and measurement”, UNESCO,
2002.
29. World Bank (2005), Poverty Manual.
30. World Bank (2008), New Data Show 1.4 Billion Live On Less Than US$1.25
A Day, But Progress Against Poverty Remains Strong.