BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

**************

NGUYỄN THỊ MAI

CÁC NHÂN TỐ CHÍNH ẢNH HƯỞNG ĐẾN

TÌNH TRẠNG NGHÈO CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH

Ở TÂY NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2010

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

**************

NGUYỄN THỊ MAI

CÁC NHÂN TỐ CHÍNH ẢNH HƯỞNG ĐẾN

TÌNH TRẠNG NGHÈO CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH

Ở TÂY NGUYÊN

Chuyên ngành: Kinh t

ế phát triển

Mã số: 60.31.05

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN HOÀNG BẢO

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2010

i

LỜI CAM ĐOAN

Với tư cách là tác giả của nghiên cứu, tôi xin cam đoan những nhận định và

luận cứ khoa học đưa ra trong nghiên cứu này hoàn toàn không sao chép từ các

công trình khác mà xuất phát từ chính kiến của bản thân tác giả, mọi sự trích dẫn

đều có nguồn gốc rõ ràng. Số liệu trích dẫn đều được sự cho phép của các cơ quan,

ban ngành. Nếu có sự đạo văn và sao chép tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước

Hội Đồng Khoa Học.

ii

LỜI CẢM ƠN

Xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến TS. Nguyễn Hoàng Bảo, người

hướng dẫn khoa học cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Xin cảm ơn

TS. Ngô Quang Thành (Học viện chính trị quốc gia) đã tư vấn và hỗ trợ tôi trong

quá trình xử lý số liệu và lựa chọn khung phân tích. Đồng thời, xin trân trọng cảm

ơn các Thầy, Cô của trường Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh với sự dìu dắt,

hướng dẫn, khích lệ trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, đã truyền đạt những

kiến thức quý báu, góp phần thực hiện thành công nghiên cứu này.

iii

TÓM TẮT

Đói nghèo là một trong những vấn đề mang tính toàn cầu. Hầu hết các quốc

gia đều quan tâm đến chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo. Đối với Việt Nam,

giảm nghèo là một trong những chính sách quan trọng, chính sách không mang tính

ban phát, ban ơn mà đó là trách nhiệm, đạo lý, truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Tuy nhiên, vấn đề giảm nghèo vẫn đang là một thách thức, nhất là những vùng sâu,

vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, công tác giảm nghèo phải được

thực thi liên tục, lâu dài và thực hiện phải có căn cơ. Với ý nghĩa trên, tác giả thực

hiện đề tài nghiên cứu: “Các nhân tố chính ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của hộ

gia đình ở Tây Nguyên”. Trên cơ sở bộ dữ liệu VHLSS2008, tác giả sử dụng mô

hình logistic để đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của hộ gia

đình ở Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm các nhân tố như: tuổi chủ,

tuổi chủ bình phương, dân tộc, số năm đi học của chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc, làm trong

ngành dịch vụ, khu vực, biến các tỉnh (Kon Tum, Đắk Lắk , Đắk Nông, Lâm Đồng)

và biến tương tác (tỷ lệ di dân x đất xã bình quân nhóm 3) có ý nghĩa ở mức 5%;

biến loại nhà tạm, mức vay bình quân của hộ, biến tương tác (tỷ lệ di dân x tệ nạn

mại dâm), và biến tương tác (tỷ lệ di dân x thất nghiệp) có ý nghĩa ở mức 10%. Tuy

nhiên chỉ có tỷ lệ phụ thuộc, tỷ lệ di dân tương tác với diện tích đất xã bình quân

theo hộ và tệ nạn mại dâm có tác động mạnh đến khả năng nghèo của hộ gia đình.

Vì vậy, thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, quản lý và kiểm soát tình trạng

di dân là giải pháp căn cơ để xóa đói, giảm nghèo ở Tây Nguyên.

iv

MỤC LỤC

Trang phụ bìa Trang

Lời cam đoan ........................................................................................................... i

Lời cảm ơn .............................................................................................................. ii

Tóm tắt .................................................................................................................... iii

Mục lục .................................................................................................................... iv

Danh mục các bảng biểu .......................................................................................... vii

Danh mục các từ viết tắt .......................................................................................... ix

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 2

3. Câu hỏi và giả thiết nghiên cứu ........................................................................... 2

3.1. Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................... 2

3.2. Giả thiết nghiên cứu ......................................................................................... 2

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3

4.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 3

4.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 3

5. Kết cấu của luận văn ........................................................................................... 3

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................... 4

1.1. Các quan điểm về nghèo .................................................................................. 4

1.2. Xác định ngưỡng nghèo ................................................................................... 7

1.3. Các chỉ số đánh giá nghèo................................................................................. 9

1.4. Các nguyên nhân dẫn đến nghèo .................................................................... 11

1.4.1. Nhóm các nhân tố thuộc hộ gia đình ........................................................... 15

1.4.1.1. Độ tuổi của chủ hộ ................................................................................... 15

1.4.1.2. Giới tính .................................................................................................. 15

1.4.1.3. Trình độ học vấn của chủ hộ .................................................................... 16

1.4.1.4. Tỷ lệ người sống phụ thuộc ..................................................................... 18

1.4.1.5. Dân tộc ................................................................................................. 19

v

1.4.1.6. Tình trạng việc làm và loại nghề của chủ hộ ........................................ 21

1.4.1.7. Tài sản lâu bền ..................................................................................... 22

1.4.2. Nhóm nhân tố liên quan đến vai trò của Chính phủ (trong phân bổ nguồn lực)

................................................................................................................................ 22

1.4.2.1. Tình trạng sở hữu đất đai ...................................................................... 22

1.4.2.2. Tiếp cận nguồn tín dụng chính thức và phi chính thức......................... 23

1.4.2.3. Tiếp cận hạ tầng cơ sở thiết yếu ........................................................... 24

1.4.2.4. Tình trạng di dân .................................................................................. 25

1.4.2.5. Khoảng cách thành thị - nông thôn ..................................................... 26

1.4.3. Mô hình đề xuất .......................................................................................... 26

Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 28

2.1. Sơ lược về đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................. 28

2.2. Phương pháp phân tích ................................................................................... 29

2.2.1. Phương pháp thống kê mô tả........................................................................ 29

2.2.2. Phương pháp nghiên cứu tương quan ......................................................... 29

2.3. Tiêu chí phân tích nghèo ................................................................................. 29

2.4. Cơ sở xác định nghèo...................................................................................... 30

2.5. Nguồn số liệu ................................................................................................. 30

2.6. Mô hình kinh tế lượng .................................................................................... 31

Chương 3: CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TÌNH TRẠNG NGHÈO CỦA

CÁC HỘ GIA ĐÌNH Ở TÂY NGUYÊN........................................................... 36

3.1. Tổng quan về tình trạng nghèo tại vùng nghiên cứu ...................................... 36

3.2. Nghèo theo vị trí địa lý ................................................................................... 37

3.3. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tuổi của chủ hộ ................................. 38

3.4. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với giới tính của chủ hộ ......................... 39

3.5. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với số năm đi học của chủ hộ ................. 39

3.6. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tỷ lệ phụ thuộc trong hộ .................. 40

3.7. Mối quan hệ giữa nghèo với tình trạng dân tộc của chủ hộ ........................... 41

vi

3.8. Mối quan hệ giữa nghèo với nghề nghiệp chính và tình trạng việc làm của chủ

hộ ........................................................................................................................... 43

3.9. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tài sản của của chủ hộ ...................... 46

3.10. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với diện tích đất sản xuất bình quân..... 47

3.11. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với khả năng tiếp cận tín dụng ............ 49

3.12. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với các đặc điểm hạ tầng cơ sở............. 51

3.13. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tỷ lệ di dân đến xã .......................... 53

3.14. Kết quả ước lượng mô hình logistic ............................................................. 54

Chương 4: KẾT LUẬN ....................................................................................... 60

Việc làm ................................................................................................................ 60

Số người phụ thuộc ............................................................................................... 61

Dân tộc .................................................................................................................. 61

Giáo dục ................................................................................................................ 63

Tín dụng ................................................................................................................ 63

Tình trạng di dân ................................................................................................... 64

Chính sách giảm nghèo cho các tỉnh và khu vực thành thị - nông thôn ............... 65

Giới hạn của đề tài và hướng nghiên cứu mở rộng ............................................... 66

Kết luận ................................................................................................................. 67

Tài liệu tham khảo

Phụ lục

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Những nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói ............................ 13

Bảng 2.1: Trích rút dữ liệu .................................................................................... 30

Bảng 2.2: Khai báo các biến trong mô hình .......................................................... 32

Bảng 3.1: Tỷ lệ nghèo và chi tiêu bình quân của một hộ .................................... 36

Bảng 3.2: Tỷ lệ nghèo theo vị trí địa lý ................................................................ 37

Bảng 3.3: Tuổi chủ hộ bình quân của Vùng và cả nước ....................................... 38

Bảng 3.4: Tỷ lệ nghèo, số năm đi học trung bình và chi tiêu bình quân của hộ theo

giới tính ................................................................................................................. 39

Bảng 3.5: Trình độ giáo dục phân theo nhóm hộ .................................................. 39

Bảng 3.6: Tỷ lệ phụ thuộc của hộ theo khu vực ................................................... 41

Bảng 3.7: Tỷ lệ hộ nghèo và chi tiêu bình quân theo dân tộc ............................... 41

Bảng 3.8: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo dân tộc và khu vực ..................................... 42

Bảng 3.9: Tỷ lệ bằng cấp cao nhất của chủ hộ theo dân tộc ................................ 42

Bảng 3.10: Tình trạng việc làm, nhóm ngành, loại công việc của chủ hộ phân theo

nhóm hộ và khu vực ............................................................................................. 44

Bảng 3.11: Kỹ năng lao động phân theo nhóm ngành ......................................... 45

Bảng 3.12: Các nguyên nhân khiến chủ hộ không đi làm ..................................... 45

Bảng 3.13: Diện tích nhà ở bình quân và tình trạng nhà ở của hộ ........................ 46

Bảng 3.14: Tỷ lệ có đất, diện tích đất sản xuất bình quân, loại đất và thu nhập từ đất

phân theo hộ .......................................................................................................... 47

Bảng 3.15: Diện tích đất sản xuất trung bình của hộ phân theo khu vực (100m2) .................................................................................................... 48

Bảng 3.16: Khả năng tiếp cận và trị giá khoản vay của hộ ................................... 49

Bảng 3.17: Nguồn vốn vay của hộ ........................................................................ 50

Bảng 3.18: Mục đích sử dụng khoản vay của hộ .................................................. 51

Bảng 3.19: Tỷ lệ nghèo tiếp cận được hạ tầng cơ sở, các dịch vụ và chi tiêu bình

quân của hộ theo cấp tỉnh ...................................................................................... 51

viii

Bảng 3.20: Nhóm thông tin liên quan đến di dân phân theo cấp tỉnh ................... 53

Bảng 3.21: Kết quả hồi quy logistic ...................................................................... 54

Bảng 3.22: Mô phỏng xác suất nghèo của hộ gia đình (%) .................................. 56

ix

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AusAID: Cơ quan phát triển Quốc tế Australia (Australian Agency for

International Development)

BCPTVN: Báo cáo phát triển Việt Nam

Bộ LĐTBXH: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

ESCAP: Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương

(United Nations Economic & Social Commission for Asia and

the Pacific)

ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long

ĐTMSDC: Điều tra Mức sống Dân cư của Việt Nam

Đánh giá đói nghèo khu vục sông Cửu Long MRPA:

Ngân hàng thế giới NHTG:

Đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân PPA:

(Participatory Poverty Assessment)

nhóm hành động chống đói nghèo PTF:

Báo cáo đói nghèo và quản trị nhà nước có sự tham gia của RPGA:

người dân

Tổng cục thống kê TCTK:

Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (United Nations UNDP:

Develoment Programme)

VHLSS2008: Bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư năm 2008

Ngân hàng thế giới (World Bank). WB:

Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) WTO:

Xóa đói giảm nghèo XĐGN:

Trang 1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vấn đề xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn, được sự quan tâm hàng

đầu của Đảng, nhà nước trong nhiều thập kỷ qua. Đây vấn đề luôn được coi là mục

tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công cuộc

phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu

đáng kể và được quốc tế đánh giá cao. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh từ 28,9% năm 2002

xuống còn 19,5% năm 2004, còn 16% năm 2006, và 14,5% năm 2008 (TCTK,2008)

và mục tiêu đến năm 2010 tỉ lệ nghèo đói chỉ còn 10% - 11% (quyết định của chính

phủ số 20/2007/QĐ-TTg, 2007)

Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp với Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia;

gồm 5 tỉnh với khoảng 5.036.700 người (TCTK,2008); tập trung nhiều cộng đồng

dân tộc thiểu số chiếm 31,9% (theo ADB, 2003), tỉ lệ nghèo đói và nguy cơ tái

nghèo của cộng đồng cư dân tại khu vực này vẫn chiếm khá cao khoảng 24,1% năm

2008, cao hơn 9,6% so với chuẩn nghèo của cả nước và là vùng có tỷ lệ nghèo

chung cao thứ 3 (sau Tây Bắc và Đông Bắc) so với 8 vùng của cả nước

(TCTK,2008). Do đó, việc tìm ra những giải pháp thiết thực, cơ bản và lâu dài để

những người dân Tây Nguyên nói chung và người dân sống ở nông thôn Tây

Nguyên nói riêng thật sự thoát nghèo, chống tái nghèo, được tiếp cận với những cơ

hội mới và được hưởng lợi từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là một thách

thức lớn đối với khu vực này.

Từ nhiều năm qua, vấn đề nghèo đói của người dân đã được đưa ra thảo luận,

bàn bạc và đã có một số công trình nghiên cứu liên quan nghèo đói và các yếu tố

ảnh hưởng từ các góc độ và phạm vi khác nhau. Các yếu tố ảnh hưởng tới nghèo đói

đã được đề cập trong các nghiên cứu trước đây như: Báo cáo đánh giá nghèo đói và

quản lý nhà nước có sự tham gia của người dân vùng ven biển Miền Trung (Nhóm

hành động chống đói nghèo, 2003); Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo

miền núi phía Bắc (Dự án diễn đàn miền núi Ford, 2004); Phân tích nghèo đói ở

vùng Đông Nam Bộ (Nguyễn Trọng Hoài & Cộng tác viên, 2005); Nghèo đói và

Trang 2

dân tộc (Hoàng Thanh Hương, Trần Hương Giang và Trần Bình Minh, 2006); Báo

cáo phát triển Việt Nam: hướng tới tầm cao mới (Ngân hàng thế giới, 2007); Kết

quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008 (Tổng cục thống kê, 2008) và nhiều

nghiên cứu khác.

Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây đã tìm ra mối liên hệ giữa các yếu tố

với vấn đề nghèo đói. Tuy nhiên, vẫn chưa có một nghiên cứu nào xác định những

nhân tố chính tác động đến xác suất rơi vào tình trạng nghèo của các hộ gia đình

khu vực Tây Nguyên. Vì vậy, đề tài được hình thành để nghiên cứu các yếu tố ảnh

hưởng đến tình trạng nghèo đói của các hộ gia đình khu vực Tây Nguyên, nhằm

giúp cho cơ quan quản lý nhà nước thấy được đâu là những vấn đề cần quan tâm,

tác động đến những nhân tố nào để mang lại hiệu quả và đảm bảo được mục tiêu

phát triển của Vùng trong tiến trình xóa đói giảm nghèo.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, mục tiêu nghiên cứu bao

trùm của đề tài là tìm ra những nhân tố chính ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của

các hộ gia đình Tây Nguyên, trên cơ sở đó gợi ý chính sách cơ bản và cần thiết

nhằm giảm nghèo cho khu vực này.

3. Câu hỏi và giả thiết nghiên cứu

3.1. Câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi trọng tâm của nghiên cứu là xác định các nhân tố chính nào tác động

đến tình trạng nghèo của hộ gia đình tại khu vực Tây Nguyên

3.2. Giả thiết nghiên cứu

Trình độ học vấn của chủ hộ, gia đình có nhiều người phụ thuộc, thiếu đất sản

xuất, thuộc nhóm dân tộc ít người, thiếu vốn là sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ

nghèo và không nghèo ở khu vực Tây Nguyên.

Trình độ học vấn chủ hộ, gia đình có nhiều người phụ thuộc, thiếu đất sản xuất,

thuộc nhóm dân tộc ít người, không tiếp cận được nguồn vốn vay chính thức, tình

trạng di dân cao và cơ sở hạ tầng nghèo nàn là các nhân tố chính ảnh hưởng đến

việc tăng thu nhập và sự đói nghèo của các hộ dân ở khu vực này.

Trang 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những hộ gia đình khu vực Tây Nguyên

trong bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư năm 2008.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu của đề tài được thực hiện trong phạm vi sau đây: Xét về lý thuyết,

có nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới nghèo đói của các hộ gia đình

ở Tây Nguyên như: yếu tố về các đặc điểm kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên và các

nhân tố khác. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào các yếu tố về đặc điểm

kinh tế xã hội của các hộ gia đình. Về địa lý, Tây Nguyên là một trong những khu

vực được đánh giá là có tỷ lệ nghèo cao so với cả nước. Do vậy, kết quả nghiên cứu

trong một góc độ nào đó có thể đại diện và làm tài liệu tham khảo cho các vùng

khác có vị trí địa lý tương đồng với Tây Nguyên. Nghiên cứu tiến hành dựa trên bộ

điều tra mức sống dân cư năm 2008 do Tổng cục thống kê thực hiện.

5. Kết cấu của luận văn

Trong chương một, tác giả trình bày các quan niệm về nghèo, xác định chỉ

tiêu đo lường nghèo, xác định ngưỡng nghèo, các thước đo nghèo thông dụng, các

nguyên nhân dẫn đến nghèo ở Việt Nam và các quốc gia khác, từ đó rút ra khung l ý

thuyết và mô hình nghiên cứu cho Vùng. Kế thừa những lý thuyết của chương một,

chương hai tác giả sơ lược địa bàn nghiên cứu, phương pháp phân tích và nguồn số

liệu cần thiết cho mô hình kinh tế lượng; từ đó tác giả thống kê mô tả, so sánh mối

tương quan giữa nghèo và các nhân tố kinh tế, xã hội, hạ tầng cơ sở và phân bổ

nguồn lực của Vùng và phân tích mô hình lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến

tình trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên trong chương ba. Cuối cùng, trong

chương bốn, tác giả đưa ra kết luận một số nhân tố chính làm cơ sở cho chính sách

giảm nghèo cho Vùng.

Trang 4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Để có cái nhìn tổng quan về những mô hình nghiên cứu trước và cơ sở lý

thuyết về nghèo đói, trong chương một tác giả khái quát những quan điểm khác

nhau về nghèo, ngưỡng nghèo, tìm ra các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo của

hộ, từ đó đưa ra khung lý thuyết mô hình xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tình

trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên.

1.1. Các quan điểm về nghèo

Nghèo là một khái niệm có nhiều mặt và không có một khái niệm duy nhất

về nghèo. Có thể hiểu nghèo là tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện, chẳng

hạn như thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để bảo đảm

tiêu dùng trong những lúc khó khăn, dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi,

ít có khả năng truyền đạt nhu cầu hay những khó khăn tới người có khả năng giải

quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, cảm giác bị sỉ nhục, không

được người khác tôn trọng và nhiều ý nghĩa khác. Do có quá nhiều khía cạnh như

vậy mà khái niệm nghèo chưa bao giờ thống nhất. Các tổ chức, cá nhân nghiên cứu

nghèo đói thường sử dụng khái niệm riêng của mình về nghèo tùy theo góc quan sát

cũng như quan điểm của họ.

Theo Rowntree (1901) cho rằng nghèo là tình trạng thiếu một số lượng tiền

cần để “có được những thứ tối thiểu cần thiết cho việc duy trì thể chất thuần tuý”

(trích trong Nguyễn Trọng Hoài, 2007). Đến năm 1993, tại hội hội nghị chống

nghèo đói khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Thái Lan

nhiều quốc gia thống nhất: “nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được

hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã

được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập

quán của địa phương”. Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu khác đã xác định "nghèo" là

phần dân số không thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cơ bản (Blackwood & Cộng tác

viên, 1994). Các tác giả xem nghèo đói là một hàm của các biến số như giáo dục,

sức khỏe, tuổi thọ, tỷ lệ tử vong ở trẻ em (Blackwood & Cộng tác viên, 1994).

Trang 5

Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, đói nghèo được được

hiểu trong phạm vi rất rộng như: không thể đáp ứng "nhu cầu cơ bản". Nhu cầu cơ

bản được đề cập bao gồm nhu cầu vật chất (thực phẩm, sự chăm sóc về y tế, giáo

dục, chỗ ở, và các nhu cầu vật chất khác); phi vật chất (sự tham gia, danh dự) và

đòi hỏi “có một cuộc sống đầy ý nghĩa" (Blackwood & Cộng tác viên, 1994). Bên

cạnh đó Sen (1999) cho rằng nghèo là không có khả năng và quyền tự do đáng kể

để vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn. Theo RPGA (2003), nhận thức về

đói nghèo của nhóm những người nghèo ở vùng ven biển Miền trung và Tây

nguyên có những nét đặc trưng riêng cụ thể: “ một hộ nghèo có nghĩa là có một

ngôi nhà xây tạm bợ (không mái ngói, không tường gỗ), thường xuyên có người

ốm, không có hoặc có ít gia súc, không có vốn để kinh doanh, thiếu kinh nghiệm

kinh doanh, không có tài sản có giá trị (không có xe đạp), có mảnh đất nhỏ và cằn

cỗi, có quá nhiều con nhỏ, là người già và cô đơn, bị mất mùa hoặc có thuyền đánh

cá không may mắn, không có đủ thức ăn cho quá ba tháng và phải kiếm củi hoặc

làm thuê để sống qua ngày.” Cũng như theo báo cáo phát triển Việt Nam (2004),

nghèo là tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện: thu nhập bị hạn chế, hoặc thiếu

cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn,

dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và

những khó khăn, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, cảm giác bị xỉ nhục,

không được người khác tôn trọng và nhiều phương diện khác.

Nhìn chung rất khó để đưa ra được định nghĩa nghèo thường vì nghèo đói có

nhiều cách tiếp cận. Có nhiều tiêu chí khác nhau được sử dụng để xác định nghèo

đói. Qua thời gian, ngân hàng thế giới cũng có những cách tiếp cận khác nhau về

nghèo trong các báo cáo của mình. Trong Báo cáo năm 1990, định nghĩa nghèo đói

của tổ chức này bao gồm tình trạng thiếu thốn các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu

như giáo dục, y tế, dinh dưỡng. Đến năm 2000/2001, báo cáo đã thêm vào khái

niệm những nét mới như tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội hay tình trạng dễ bị tổn

thương: “Xét về mặt phúc lợi, nghèo có nghĩa là khốn cùng. Nghèo có nghĩa là đói,

không có nhà cửa, quần áo, ốm đau và không có ai chăm sóc, mù chữ và không

Trang 6

được đến trường. Nhưng đối với người nghèo, sống trong cảnh bần hàn còn mang

nhiều ý nghĩa hơn thế. Người nghèo đặc biệt dễ bị tổn thương trước những sự kiện

bất thường nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ. Họ thường bị các thể chế của

nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra bên lề xã hội nên không có tiếng nói và

quyền lực trong các thể chế đó”, và nghèo chính là tình trạng mà cá nhân hoặc hộ

gia đình “không có khả năng có mức sống tối thiểu”.

Nói chung, có ba tiêu chuẩn chính về cách tiếp cận nghèo: tình trạng về kinh

tế, sức khỏe và tình trạng bị gạt ra ngoài lề của xã hội (Wagle, 2002) và có 3 bước

để xác định nghèo đói: (i) định nghĩa phúc lợi của hộ gia đình/ cá nhân, (ii) xác

định một giá trị chuẩn (tối thiểu) để tách biệt 2 nhóm nghèo và không nghèo (gọi là

ngưỡng nghèo) và (iii) tính toán các chỉ số thống kê tổng hợp dựa trên mối quan hệ

giữa phúc lợi kinh tế và ngưỡng nghèo (WB, 2005). Đo lường phúc lợi phức tạp

hơn, nó rộng hơn chỉ số phúc lợi kinh tế. Bởi phúc lợi còn bao gồm tuổi thọ, chế độ

dinh dưỡng, điều kiện nhà ở, tỷ lệ trẻ em đến trường, tỷ suất tử vong của trẻ em

(WB, 2005). Nghèo đói là một phạm trù rất rộng và định nghĩa về nghèo đói có thể

được hiểu không chỉ sự túng thiếu về mặt vật chất, mà còn liên quan đến rủi ro,

tính dễ bị tổn thương, vấn đề xã hội và các cơ hội (WB, 2006).

Quan niệm của chính người nghèo ở nước ta cũng như một số quốc gia khác

trên thế giới về nghèo đói đơn giản hơn, trực diện hơn. Kết quả các cuộc tham vấn

có sự tham gia của người dân nói rằng: “Nghèo đói là gì ư? Là hôm nay con tôi ăn

khoai, ngày mai không biết con tôi ăn gì? Bạn nhìn nhà của tôi thì biết, trong nhà

nhìn thấy mặt trời, khi mưa thì trong nhà cũng như ngoài sân” hoặc “nghèo đói

đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh tre, nứa lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột nát, không đủ đất

đai sản xuất, không có trâu bò, không có tivi, con cái thất học, ốm đau không có

tiền đi khám chữa bệnh”. Ở Việt Nam, một khái niệm về đói nghèo thường được sử

dụng là khái niệm được đưa ra tại hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế

xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương tổ chức ở Thái Lan năm 1993 và được

các quốc gia trong khu vực thống nhất. Khái niệm này cho rằng: “Nghèo đói là tình

trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của

Trang 7

con người, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,

phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận.”

Tóm lại, tất cả những quan niệm về nghèo đói nêu trên đều phản ánh ba khía

cạnh chủ yếu của người nghèo:Thứ nhất, có mức sống thấp hơn mức sống trung

bình của cộng đồng dân cư. Trong nghiên cứu tác giả sử dụng chuẩn nghèo của

Ngân hàng thế giới để tính toán và phân tích. Thứ hai, không được thụ hưởng

những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người và thứ ba là thiếu cơ hội

lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. Và mặc dù có sự đa dạng

trong khái niệm nghèo, các nhà nghiên cứu vẫn thường đo lường nghèo trong các

phân tích, nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công, hoặc để đánh giá

được mức độ thành công của các chính sách đó. Tiêu chí chung nhất để xác định

nghèo đói là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con

người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác

nhau chung nhất thường là ở chỗ thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này

phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của

từng vùng, từng quốc gia. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng khái niệm nghèo

của Rowtree (1901), nghèo là tình trạng thiếu một số lượng tiền cần thiết để có thể

duy trì cuộc sống.

1.2. Xác định ngưỡng nghèo

Theo World Bank (2005), ngưỡng nghèo (hay còn gọi chuẩn nghèo) là ranh

giới để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Có hai cách chính để xác

định ngưỡng nghèo:

Ngưỡng nghèo tuyệt đối: chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu

để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh. Phương pháp chung để xác

định ngưỡng nghèo này sử dụng một rổ các loại lương thực được coi là cần thiết, để

đảm bảo mức độ dinh dưỡng tốt cho con người. Rổ lương thực đó sẽ tính đến cả cơ

cấu tiêu dùng lương thực của các hộ gia đình đặc thù của một nước. Trên cơ sở đó

hai ngưỡng nghèo tuyệt đối sẽ được tính toán: Ngưỡng nghèo lương thực thực

phẩm: đo lường mức chi tiêu cần thiết để đảm bảo một gia đình có thể đủ mua một

Trang 8

lượng lương thực, thực phẩm để cung cấp cho mỗi thành viên trong hộ một lượng

calo là 2100 calo một ngày. Ngưỡng nghèo này thường thấp vì nó không tính đến

chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực khác. Ngưỡng nghèo chung: đo lường chi

phí để mua đủ một lượng hàng hóa lương thực, thực phẩm cung cấp lượng calo là

2100 calo và một số mặt hàng phi lương thực.

Trên bình diện quốc tế, NHTG đã tính toán ngưỡng nghèo tuyệt đối cho các

nước thu nhập thấp là 1 đô la Mỹ/ngày, từ 2 đô la cho châu Mỹ La tinh và Caribe,

đến 4 đô la cho những nước Đông Âu, cho đến 14,40 đô la cho những nước công

nghiệp. Để đảm bảo tính so sánh được giữa các nước, những ngưỡng nghèo này

được tính theo ngang giá sức mua. Từ năm 1981, chuẩn nghèo toàn cầu được áp

dụng ở mức thu nhập 1 USD/ngày. Chuẩn nghèo này đã được điều chỉnh thành 1,25

USD/ngày kể từ năm 2005, sau khi tính đến yếu tố lạm phát. Còn ở Việt Nam hiện

tại chưa có sự thống nhất về tiêu chí đánh giá nghèo theo thu nhập hay theo chi tiêu

dùng. Vì vậy, trên thực tế việc phân tích đánh giá nghèo vẫn sử dụng một trong hai

ngưỡng nghèo tuyệt đối: Ngưỡng nghèo của TCTK, xác định dựa theo cách tiếp cận

của NHTG là sử dụng chỉ tiêu chi tiêu để đo lường nghèo. Chuẩn nghèo chung của

TCTK và NHTG với mức chi tiêu bình quân/người/tháng qua các năm như sau:

năm 2002: 160 nghìn đồng, năm 2004: 173 nghìn đồng, năm 2006: 213 nghìn đồng

và năm 2008: 280 nghìn đồng. Bên cạnh đó, ngưỡng nghèo của Bộ LĐTBXH, xác

định ngưỡng nghèo mang tính chất tương đối hơn và tiếp cận từ khía cạnh thu nhập.

Chuẩn nghèo do Bộ LĐTBXH đưa ra đã được điều chỉnh năm lần vào các năm

1993, 1997, 1998, 2001 và 2005. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng

cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình

quân từ 200.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị

những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ

nghèo. Chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015, là 400.000 đồng/người/tháng đối với khu

vực nông thôn và 500.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị.

Trang 9

Ngưỡng nghèo tương đối: được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu

dùng chung trong cả nước, để phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư sống

dưới mức trung bình của cộng đồng.

1.3. Các chỉ số đánh giá nghèo

Cách tiếp cận phổ biến nhất trong đo lường phúc lợi (kinh tế) là dựa vào chi

tiêu tiêu dùng hay thu nhập của hộ gia đình. Nếu chi tiêu/ thu nhập được chia đều

cho tất cả các thành viên trong hộ thì được chi tiêu tiêu dùng hay thu nhập bình

quân đầu người (chỉ số phúc lợi kinh tế của cá nhân). Hầu hết các nước phát triển sử

dụng thu nhập (income) để xác định nghèo đói, trong khi các nước đang phát triển

sử dụng chi tiêu (expenditure). Đối với các nước phát triển, thu nhập phần lớn là từ

tiền lương nên dễ xác định, trong khi chi tiêu dùng thì phức tạp và khó xác định.

Ngược lại, ở các nước đang phát triển thu nhập khó tính toán hết bởi phần lớn thu

nhập đến từ công việc tự làm nhưng rất khó tách biệt, trong khi chi tiêu thì dễ thấy

hơn, rõ ràng hơn (WB, 2005).

• Chi tiêu hộ gia đình

Đo lường bằng giá trị tiền tệ dưới dạng thu nhập hay chi tiêu của hộ gia đình,

được sử dụng phổ biến để đo lường phúc lợi khi tính toán chỉ số về nghèo đói

(Coudouel, et al, 2002). Những thông tin về chi tiêu có thể thu thập một cách dễ

dàng từ quá trình điều tra các hộ gia đình, và phản ánh tốt hơn tiêu chí về thu nhập

trong việc đo lường nghèo đói (WB, 2005 và Coudouel & Cộng tác viên, 2002) bởi

các lý do sau:

Thứ nhất, chi tiêu là tiêu chí phản ánh tốt hơn thu nhập trong việc đo lường

phúc lợi kinh tế hộ gia đình. Chi tiêu phản ánh thực tế phúc lợi hơn vì nó liên quan

chặt chẽ tới mọi thành viên trong gia đình. Điều này có nghĩa là nó sẽ phản ánh

được các điều kiện sống cơ bản tốt hơn.

Thứ hai, trong một nền kinh tế nông nghiệp nghèo, thì thu nhập của các hộ

gia đình nông thôn có thể dao động trong năm do phụ thuộc vào mùa thu hoạch.

Điều này ngụ ý một khó khăn tiềm năng cho các hộ gia đình khi nhớ lại thu nhập

Trang 10

của họ, trong đó những thông tin về thu nhập của hộ gia đình từ quá trình khảo sát

này, có thể dẫn tới chất lượng thấp.

Thứ ba, chi tiêu có thể phản ánh tốt hơn tiêu chuẩn thực tế của một hộ gia

đình sinh sống và khả năng để đáp ứng nhu cầu cơ bản. Đối với các hộ gia đình ở

Việt Nam nói chung, hộ gia đình đình ở nông thôn nói riêng, thường có những đặc

điểm rất đặc thù như: Do tâm lý, người dân thường có xu hướng khai thấp thu nhập

của mình, thu nhập càng cao càng khai thấp; các hộ gia đình thường không nhớ tất

cả các khoản thu của mình; thu nhập từ các loại cây lâu năm là không thể tính được

dù có chi phí chăm sóc. Thu nhập từ các loại gia súc không thể tính được hàng năm

vì có thể nhiều năm hộ gia đình mới bán và những loại chi tiêu tăng cao bất thường

cũng có khi xảy ra, chẳng hạn như chi tiêu cho việc chữa bệnh, mua các vật dụng

đắt tiền, sửa chữa hay xây nhà nhưng những loại chi tiêu này chỉ thường có ở những

hộ không nghèo. Bên cạnh đó, thu nhập từ các hoạt động khai thác thủy sản có thể

thay đổi bất thường, hoặc hàng năm hoặc thậm chí hàng ngày trong khi mức tiêu thụ

vẫn tương đối ổn định. Nói cách khác, đặc điểm về chi tiêu ổn định nhiều hơn so

với thu nhập, và được sử dụng tốt hơn trong phân tích đói nghèo. Những biến động

của thu nhập và chi tiêu được minh họa trong hình vẽ dưới đây (Hình 1.1)(WB,

Đô la

2005).

Hình 1.1. Sự biến động giữa thu nhập và chi tiêu

(Nguồn: World Bank, 2005)

Trang 11

Phương pháp tiếp cận của TCTK thường được xem như chuẩn nghèo quốc tế

vì nó dựa trên phương pháp luận được quốc tế chấp nhận. Mặt khác, chi tiêu không

những ít bị khai thấp hơn thu nhập mà nó còn ổn định hơn từ năm này qua năm

khác. Do đó, chúng ta có đủ cơ sở và căn cứ lý thuyết để sử dụng các thước đo chi

tiêu nhằm phản ánh mức sống (Glewwe và Twum-Baah, 1991).

1.4. Các nguyên nhân dẫn đến nghèo:

Nghèo đói là một vấn đề nghiêm trọng trong chính sách phát triển bền vững

của mỗi quốc gia. Thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nghèo đói

cũng như liên quan đến nghèo từ cấp vùng đến cấp địa phương theo nhiều cách tiếp

cận khác nhau. Điều đó cho thấy tình trạng đói nghèo ở Việt Nam đang diễn ra phức

tạp và có sự khác biệt ở mỗi vùng. Mô hình nghèo đói dường như không có mẫu số

chung, nhưng nhìn chung thì nghèo đói do một số nguyên nhân cơ bản sau:

Kết quả nghiên cứu của Waheed (1996) chỉ ra rằng, thiếu vốn đầu tư dẫn đến

năng suất thấp, kéo theo thu nhập hộ gia đình thấp. Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm

thấp. Tiết kiệm thấp lại là nguyên nhân của sự thiếu hụt vốn đầu tư, và lại dẫn đến

thu nhập thấp. Không đủ vốn, người nghèo không thể làm gì được; từ việc cơ bản

nhất là mua giống cây trồng vật nuôi hay phân thuốc chứ đừng nói đến việc cải tiến

sản xuất hay áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Muốn thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn

này cần phải có nguồn vốn từ bên ngoài, trong trường hợp này là nguồn vốn vay

hay vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng chính thức và phi chính thức, hay từ các dự

án cấp tín dụng cho người nghèo của chính phủ. Còn theo BCPTVN (2000), một số

đặc điểm chung của hộ nghèo ở Việt Nam là: lao động nông nghiệp, trình độ học

vấn thấp, tỷ lệ phụ thuộc, giới tính, thiếu đất đai, tách biệt về địa lý và xã hội, dân

tộc, dân nhập cư thành thị (trích theo Võ Tất Thắng, 2004).

Ngoài ra, công trình nghiên cứu Sarah Bales (2001) lại đưa ra tiêu chí chung

nhất để xác định nghèo đói là mức chi tiêu (hay thu nhập) để thỏa mãn những nhu

cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp

xã hội. Sự khác nhau chung nhất thường là ở chỗ thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà

thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục

Trang 12

Theo nghiên cứu của dự án diễn đàn miền núi Ford (2004), dựa vào bộ dữ liệu

Trang 13

Bảng 1.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới tình trạng nghèo đói.

Các nhân tố ảnh hưởng Phân theo

đặc điểm

- Sự cách biệt về địa lý/xã hội do thiếu hạ tầng cơ sở; hạn chế trong

việc tiếp cận các loại thị trường và các dịch vụ xã hội Đặc điểm của - Nguồn lực cơ bản như đất đai và chất lượng đất đai cấp độ vùng - Điều kiện tự nhiên (thời tiết và các yếu tố khác)

- Quản lý Nhà nước (Regional-

- Bất bình đẳng. level

characteristics)

Những đặc - Hạ tầng cơ sở (điện, nước, đường giao thông và các yếu tố khác)

tính từ cấp độ - Phân bổ đất đai

cộng đồng - Khả năng tiếp cận các hàng hóa và dịch vụ công (y tế, giáo dục).

(Community

Trang 14

- Quy mô hộ gia đình

- Tỷ lệ phụ thuộc (phần trăm số người trưởng thành không có hoạt

động tạo thu nhập) Những đặc - Giới tính của chủ hộ điểm của - Tài sản của hộ gia đình: đất đai, phương tiện sản xuất, nhà cửa và hộ gia đình những loại tài sản khác.

- Tỷ lệ có việc làm của những thành viên trưởng thành trong hộ, loại (Household

việc làm chính, tự làm hay làm thuê và theo nguồn thu nhập nhập characteristics)

chính của hộ.

- Trình độ học vấn trung bình của hộ.

Đặc điểm cá - Tuổi

- Giáo dục (số năm đi học, bằng cấp cao nhất) nhân

- Việc làm (tình trạng việc làm, loại công việc) (Individual - Dân tộc (có hay không có thuộc nhóm dân tộc thiểu số). characteristics)

(Nguồn: World Bank, 2005)

Ngoài ra, nghiên cứu nghèo đói tại các nước trên thế giới cũng cho những kết

quả tương tự như nghiên cứu của Mok, Gan và Sanyal (2007) cho rằng tuổi chủ hộ,

giới tính, số trẻ em dưới 15 tuổi, số lượng nam, nữ trưởng thành trong gia đình,

lượng người trên 55 tuổi, tình trạng hôn nhân, nhập cư, làm việc trong ngành công

nghiệp, trình độ giáo dục của chủ hộ và khu vực sống là những nhân tố ảnh hưởng

chính đến tình trạng nghèo của các hộ gia đình nông thôn Malaysia; hay theo

Owuor, Ngigi, Ouma và Birachi (2007), không tiếp cận được tín dụng vi mô, tuổi,

số năm đi học của chủ hộ, không tham các buổi hội thảo về nông nghiệp, chủ hộ là

nữ, sự biến đổi hệ sinh thái nông nghiệp và không có vật nuôi là các yếu tố ảnh

hưởng đáng kể đến nghèo của các hộ gia đình nông thôn ở Kenya. Ở Bangladesh,

tình trạng nghèo đói do một số đặc điểm như: tình trạng nhân khẩu học, trình độ

giáo dục, sở hữu đất trong nông nghiệp, loại việc làm (theo Andy Kotikula, Ambar

Trang 15

Narayan và Hassan Zaman, 2007). Nghiên cứu của WB trong năm này cũng đưa ra

các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo bao gồm: “Sự cách biệt về địa lý, thiếu

nguồn lực về đất đai, điều kiện tự nhiên, quản lý nhà nước yếu kém, bất bình đẳng,

cơ sở hạ tầng khu vực, khả năng tiếp cận hàng hóa dịch vụ công, quy mô hộ, tuổi

tác, giới tính, trình độ giáo dục, tình trạng việc làm, tính dân tộc”. Cùng với quan

điểm trên, công trình nghiên cứu của Thiên (2008) cho thấy “những nguyên nhân

chính gây nên sự cách biệt bao gồm việc làm, đất đai, vốn, quy mô hộ và vấn đề

giới tính. Trong đó quan trọng nhất là tình trạng việc làm. Chính loại hình công việc

của một người quyết định mức sống của người đó, thậm chí cả gia đình người đó. Ở

nông thôn, đất đai trở nên vấn đề sống còn đối với các hộ gia đình

1.4.1. Nhóm các nhân tố thuộc hộ gia đình

1.4.1.1. Độ tuổi của chủ hộ

Tuổi của chủ hộ có mối tương quan chặt đến tình trạng nghèo đói của hộ.

Theo nhiều nghiên cứu cho thấy nhóm tuổi từ 20 đến 50 tuổi đóng góp 66% tổng

thu nhập của hộ (Osinubi ,2003); hay tuổi trung bình của chủ hộ các hộ nghèo thấp

hơn trung bình của chủ hộ những hộ giàu hơn trên cả nước và cả vùng đồng bằng

sông Cửu Long. Điều này cho thấy xu hướng nghèo truyền thống của các hộ gia

đình mới hình thành vì thời gian tích lũy tài sản của họ ngắn hơn (MRPA, 2004).

Không những thế, nghiên cứu của Martin Evan, cộng tác viên và Ngân hàng thế giới

(WB, 2005) cũng khẳng định tuổi càng cao xác suất rơi vào nghèo đói càng lớn. Khi

tuổi cao, đặc biệt những nông dân có độ tuổi trên 60 sẽ ít tham gia vào hoạt động

sản xuất hơn, do vậy hoạt động thu nhập sẽ giảm. Nghiên cứu này giả định rằng, khi

tuổi cao xác suất để hộ rơi vào ngưỡng nghèo cao. Khác với quan điểm trên,

Owuor, Ngigi, Ouma và Birachi (2007) cho rằng những người lớn tuổi hơn với

nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ giúp họ

đạt được năng suất cao hơn và giảm nguy cơ rơi vào ngưỡng nghèo.

1.4.1.2. Giới tính của chủ hộ

Nhiều công trình nghiên cứu trước đây đã khẳng định giới tính của chủ hộ

ảnh hưởng đến khả năng rơi vào ngưỡng nghèo của hộ, như công trình nghiên cứu

Trang 16

Vì những lý do trên, những hộ có chủ hộ là nữ sẽ có xác suất nghèo cao hơn

(WB, 2005). Cũng theo ĐTMSDC và các nghiên cứu khác cho rằng tại các nước

Châu Á phụ nữ nói chung, phụ nữ ở các khu vực nông thôn và nhất là phụ nữ trong

các hộ gia đình nông thôn ít có điều kiện tiếp cận với giáo dục do tư tưởng “trọng

nam truyền thống” nên hệ quả là phụ nữ có cơ hội ít hơn trong quá trình tìm kiếm

thu nhập, cho dù Việt Nam vấn đề giới chưa thể hiện sự nghiêm trọng nhưng hiện

tượng này rất phổ biến. Nghiên cứu này giả định là chủ hộ là nữ sẽ có khả năng rơi

vào ngưỡng nghèo nhiều hơn chủ hộ là nam.

1.4.1.3. Trình độ học vấn của chủ hộ :

Theo Michael P.Todaro (1997), có một mối quan hệ thuận giữa trình độ học

vấn và mức sống. Những người có trình độ học vấn cao thường kiếm được những

công việc có thu nhập cao. Trong khi đó, những người nghèo lại ít có cơ hội được

học nhiều và họ thường khó kiếm được những công việc có thu nhập cao, do vậy

càng dễ lâm vào nghèo đói và khó thoát nghèo. Vì vậy, có mối quan hệ tỷ lệ thuận

Trang 17

giữa trình độ học vấn và mức sống. Những người có trình độ học vấn thấp thường

khó xin được việc làm có thu nhập cao và ổn định. Chính thu nhập thấp của họ chỉ

đủ chi tiêu cho ăn, ở, cho nên họ không đủ điều kiện học tập nâng cao trình độ để tự

thoát nghèo (Todaro,1997). Trình độ học vấn không những là nhân tố quan trọng về

chất lượng cuộc sống mà còn là nhân tố quyết định đối với khả năng đạt đến cơ hội

có thể tạo nên thu nhập khá hơn (Vũ Thị Ngọc Phùng, 1999). Ngoài ra, theo

BCPTVN (2000), người nghèo thường có trình độ học vấn thấp và trẻ em của các

hộ nghèo ít có khả năng được đi học, thường rơi vào vòng nghèo đói do các thế hệ

trước để lại. Theo báo cáo, tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên, và

gần 90% số người nghèo là những người chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp

hơn. Những người thậm chí còn chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học có

tỷ lệ nghèo cao nhất (57%). Ngược lại, rất hiếm có trường hợp đã tốt nghiệp đại học

lại thuộc diện nghèo (chỉ chiếm có 4%).

Bên cạnh đó, báo cáo của PPA về vùng ĐBSCL (2003), trình độ học vấn

thấp và thiếu các kỹ năng cần thiết thường dẫn đến thất bại trong trồng trọt, chăn

nuôi gia súc, thủy sản và đẩy nông dân đến đói nghèo. Nghiên cứu của MRPA

(2004) cũng đưa ra kết quả tương tự: tỷ lệ nghèo có tương quan tỷ lệ nghịch với

trình độ học vấn. Trong khi tỷ lệ nghèo của những người ở vùng ĐBSCL chưa hoàn

thành chương trình tiểu học là 30% thì hầu như không có tình trạng đói nghèo trong

số những người có trình độ học vấn cao hơn hoặc được học nghề. Công nhân sẽ gặp

nhiều khó khăn hơn trong việc học hỏi những kỹ năng và kỹ thuật mới để tăng năng

suất, nếu không có một trình độ học vấn nhất định. Các bậc cha mẹ có trình độ học

vấn thấp thường không nhận thức được tầm quan trọng, lợi ích của giáo dục. Từ đó,

họ không cố gắng tạo điều kiện cho con em họ đến trường, không khuyến khích các

em học hành chăm chỉ và học lên cao nữa. Một lần nữa, nghiên cứu của dự án diễn

đàn miền núi Ford (2004) lại khẳng định chủ hộ có trình độ học vấn cao hơn có tỷ lệ

nghèo ít hơn. Điều này cho thấy học vấn có mối quan hệ rất chặt chẽ với tình trạng

đói nghèo.

Trang 18

Những nghiên cứu khác cũng đưa ra nhận định tương tự: như nghiên cứu của

Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) phát hiện thấy các hộ gia đình có chủ hộ đạt

trình độ giáo dục cấp phổ thông cơ sở có nhiều cơ hội thoát nghèo hơn so với hộ gia

đình có đặc điểm tương tự, song chủ hộ không có trình độ học vấn; hay giáo dục

ảnh hưởng quan trọng đến nghèo, tỷ lệ nghèo giảm nhiều hơn khi chủ hộ có trình độ

giáo dục cao hơn theo Al – Samarrai (2007) và sự gia tăng về giáo dục đến bất kỳ

thành viên nào của hộ gia đình cũng làm hộ gia đình có mức tiêu dùng cao hơn

(Kotikula, Narayan và Zaman, 2007). Do đó, trình độ học vấn của chủ hộ càng cao

càng có khả năng tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật nông nghiệp, tiếp cận với thị

trường lao động và nâng cao cơ hội cải thiện thu nhập. Nghiên cứu này giả định số

năm đi học của chủ hộ có mối quan hệ nghịch biến với xác suất rơi vào ngưỡng

nghèo.

1.4.1.4. Tỷ lệ người sống phụ thuộc

Nghiên cứu của D.Naughton (1995) dựa trên bộ dữ liệu VHLSS93 cho thấy

những hộ nghèo thường là những hộ có tỷ lệ người phụ thuộc cao, và nó tỷ lệ

nghịch với thu nhập của hộ. Bên cạnh đó, BCPTVN (2000) cũng cho rằng các hộ có

nhiều trẻ em thường thuộc vào nhóm các hộ nghèo. Số trẻ em trong hộ cao đồng

nghĩa với việc tăng số miệng ăn trong gia đình, làm giảm thu nhập bình quân của

hộ; đồng thời còn gia tăng chi phí chăm sóc y tế và giáo dục (23% trong tổng chi

tiêu lương thực). Những chi phí này đối với các hộ nông dân là một gánh nặng và

cũng là nguyên nhân làm cho sự nghèo đói gia tăng. Cùng với quan điểm trên,

Lilongwe và Zomba (2001) khẳng định tỷ lệ người phụ thuộc đặc biệt là trẻ em ảnh

hưởng rất lớn đến mức sống của hộ gia đình. Đối với các hộ ở khu vực thành thị,

khi tăng một trẻ dưới 9 tuổi thì mức chi tiêu của hộ đã giảm đến 30%, và giảm xấp

xỉ 20% đối với khu vực nông thôn.

Theo WB (2005), số người phụ thuộc là những người đã trưởng thành nhưng

không có các hoạt động tạo thu nhập cho hộ gia đình. Điều này cũng phù hợp về

mặt lý thuyết và bằng chứng từ các nhà nghiên cứu nghèo đói. Khi số thành viên

trong hộ không có việc làm càng tăng lên thì càng làm giảm khả năng tích luỹ của

Trang 19

gia đình, dẫn đến khả năng vay tín dụng phi chính thức càng tăng, và hệ quả là dễ

rơi vào hoàn cảnh nghèo. Nghiên cứu này giả định tỉ lệ phụ thuộc của hộ sẽ có mối

quan hệ đồng biến với xác suất rơi vào ngưỡng nghèo.

Nghiên cứu của Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004) cho thấy những hộ gia

đình nghèo thường có tỷ lệ phụ thuộc ((trẻ em+người già)/người trong độ tuổi lao

động) cao hơn so với những hộ gia đình khá giả hơn. Tình trạng lập gia đình sớm và

sinh con đông là phổ biến ở các dân tộc thiểu số. Do vậy, với lực lượng lao động ít

(chủ yếu bố mẹ), lại phải lo cuộc sống cho số người chưa đến và ngoài độ tuổi lao

động nhiều hơn sẽ là trở thành một khó khăn đáng kể cho một số hộ, nhất là những

hộ nghèo với thu nhập thấp và chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp.

1.4.1.5. Dân tộc

Những khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, cùng với những khó khăn về địa lý

làm cho người dân tộc thiểu số hạn chế trong mối quan hệ giao lưu với thế giới bên

ngoài và hầu như không có điều kiện tiếp xúc với những sáng kiến cải tiến về kỹ

thuật, thông tin (BCPTVN,2000). Ngoài ra, theo BCPTVN (2004) cũng cho thấy

chi tiêu của một người thuộc hộ dân tộc thiểu số thấp hơn chi tiêu của một người

thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa là 13%. Các hộ dân tộc thường có quy mô hộ

lớn hơn và có nhiều con hơn các hộ người Kinh; các tỷ lệ về trình độ học vấn của

chủ hộ và của vợ cũng thấp hơn.Tài sản dưới dạng nhà ở hoặc những tài sản khác

cũng thấp hơn mức trung bình. Tác động hỗn hợp của các tất cả các đặc điểm này là

các hộ dân tộc nghèo hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo ở các dân tộc thiểu số

cũng không giống nhau. Trong số sáu nhóm dân tộc thiểu số nghèo nhất, bốn nhóm (Ba – na, Gia – rai, Ê – đê và Co – ho) sống ở Tây Nguyên, còn hai nhóm (H’mông,

Mường) sống ở miền núi phía Bắc.

Kết quả phân tích của Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004) cho thấy mối

tương quan chặt giữa đặc điểm dân tộc của chủ hộ và tỷ lệ nghèo. Cụ thể, tỷ lệ hộ

nghèo trong nhóm các dân tộc thiểu số cao hơn trong nhóm dân tộc Kinh – Hoa ở cả

thành thị và nông thôn. Các dân tộc thiểu số với tập quán sản xuất và lối sống lạc

hậu, lại sống ở những vùng sâu, vùng xa cách biệt với thế giới bên ngoài (trong

Trang 20

trường hợp ở nông thôn) có xu hướng dễ bị rơi vào vòng đói nghèo. Bên cạnh đó,

báo cáo cập nhật nghèo (2006) cho rằng hiện có khoảng trên 10 triệu người dân tộc

thiểu số không thuộc nhóm Kinh – Hoa đang làm ăn sinh sống tại Việt Nam, chiếm

12,6% tổng dân số, nhưng lại chiếm 39,3% tổng số dân nghèo. Nhóm đồng bào các

dân tộc thiểu số bị tụt hậu khá nhiều so với nhóm đồng bào Kinh – Hoa về các chỉ

số xã hội. Cụ thể là vào năm 2004, chỉ có 4% đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp

cận điều kiện vệ sinh so với 36% người Kinh – Hoa và 19% đồng bào dân tộc thiểu

số được tiếp cận nước sạch so với 63% người Kinh – Hoa.

Hơn thế nữa, Hoàng Thanh Hương, Nguyễn Thị Minh Hoà và các tác giả

(2006) khẳng định có sự khác biệt đáng kể về các đặc tính ở cấp hộ giữa đồng bào

dân tộc và đồng bào Kinh – Hoa và sự khác biệt dường như có chiều hướng gia

tăng. Năm 2004, sự khác biệt về đặc tính cấp hộ giải thích 18% chênh lệch chi tiêu

dùng giữa hai nhóm ở nông thôn Việt Nam, song tạo ra 51% chênh lệch chi tiêu tiêu

dùng ở những xã có cả đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào Kinh – Hoa sinh

sống. Ngoài ra nghiên cứu còn phát hiện thấy ngay cả khi các dân tộc thiểu số sống

cùng với người Kinh – Hoa trong cùng một địa bàn nhỏ tức là ở cùng xã, họ vẫn

khó theo kịp với nhóm người Kinh – Hoa; còn Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006)

lại cho rằng hộ gia đình thuộc nhóm Kinh – Hoa dễ có khả năng thoát nghèo hơn

hộ gia đình có một số đặc điểm tương tự thuộc nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số.

Theo BCPTVN (2007) cho thấy tỷ lệ nghèo càng ngày càng tập trung vào các

nhóm dân tộc thiểu số. Khoảng cách phúc lợi giữa các nhóm đa số (người Kinh và

người Hoa) và số còn lại càng ngày càng rộng ra theo thời gian, dẫn đến tình trạng

là người dân tộc thiểu số chiếm đến 39% tổng số người nghèo, mặc dù chỉ chiếm có

14% tổng dân số. Cộng đồng người dân tộc thiểu số, ngoài những khác biệt về tập

quán văn hóa thì hầu hết các chỉ số kinh tế, xã hội của họ đều thua kém hơn so với

người Kinh-Hoa. Trong các ĐTMSDC của Tổng Cục thống kê phối hợp với UNDP

có một sự chênh lệch về thu nhập giữa dân tộc Kinh-Hoa và dân tộc thiểu số và dẫn

đến các hộ dân tộc thiểu số nằm trong diện XĐGN nhiều hơn là dân tộc Kinh- Hoa,

điều này xuất phát từ sự khác biệt các điều kiện tự nhiên, xã hội dẫn đến sự khác

Trang 21

biệt về kinh tế của các hộ gia đình dân tộc. Do vậy, nghiên cứu giả định là hộ dân

tộc thiểu số có nguy cơ nghèo nhiều hơn các hộ khác.

1.4.1.6. Tình trạng việc làm và loại nghề của chủ hộ

Hộ có việc làm sẽ có nguồn thu nhập lớn hơn so với hộ không có việc làm.

Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc lớn vào thời tiết và điều kiện tự nhiên

cũng như môi trường. Do vậy, công việc và thu nhập thường không ổn định nên xác

suất rơi vào nghèo đói của những hộ không có việc làm là cao hơn.Theo như nhiều

nghiên cứu cho thấy tình trạng nghề nghiệp có mối tương quan chặt chẽ đến nghèo,

những người lao động nhận lương từ nông nghiệp là điển hình cho nhóm người có

việc làm nghèo nhất (Hossain,1995); hay những người sống dưới ngưỡng nghèo

thường thuộc những hộ có chủ hộ là nông dân tự do. Năm 1998, gần 80% người

nghèo làm việc trong nông nghiệp là những người lao động tự do (BCPTVN,2000).

Ngoài ra, theo AusAID (2003) tỷ lệ nghèo cấp tỉnh ở vùng ĐBSCL có tương

quan tỷ lệ thuận với số dân hoạt động trong nông nghiệp của tỉnh đó và nền kinh tế

phi nông nghiệp mới phát triển ở Việt Nam có thể là một định hướng quan trọng để

thoát nghèo (Van de Walle và Cratty, 2003). Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004)

cũng khẳng định các hộ có thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp càng có tỷ lệ đói

nghèo cao. Các cơ hội đa dạng hóa sang các hoạt động phi nông nghiệp lại bị hạn

chế do bản thân năng lực tự thân của người nghèo thấp (mù chữ, kém hiểu biết),

ngoài ra chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng sang các ngành nghề phi nông nghiệp

còn chậm. Nghiên cứu của MRPA trong năm này cũng cho rằng phần lớn hộ nghèo

làm việc trong ngành cơ bản, hơn 77% số người nghèo vùng ĐBSCL làm việc trong

ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong khi chỉ có khoảng 9% người nghèo làm việc

trong ngành công nghiệp và gần 13% trong ngành dịch vụ. Chính vì lĩnh vực nông

nghiệp với sự thay đổi mang tính thời vụ và chu kỳ kinh doanh dài nên việc đa dạng

hóa sang lĩnh vực hoạt động phi nông nghiệp và sản xuất kinh doanh mang lại một

phần thu nhập chính cho hộ và góp phần cải thiện tình trạng nghèo của hộ (theo

Owuor, Ngigi, Ouma và Birachi, 2007).

Trang 22

1.4.1.7. Tài sản lâu bền (gồm nhà ở, ti vi, tủ lạnh…):

Trong các loại tài sản của hộ, nhà ở là một trong những loại tài sản có giá trị

lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm nghèo. Theo Nicholas Minot & Bob

Baulch (2002), những hộ sống ở những căn nhà kiên cố sẽ có mức chi tiêu bình

quân cao hơn 19% (ở nông thôn) và 24% (thành thị) so với những hộ sống ở nhà

tạm. Ngoài ra, theo nhóm tác giả, diện tích nhà ở bình quân tại Việt Nam khoảng 45 m2 song lại tùy thuộc vào khu vực (nông thôn hay thành thị) và loại nhà (kiên cố

hay bán kiên cố). Bên cạnh đó, những hộ gia đình được coi là dễ bị tổn thương nếu

nhà ở của họ trị giá dưới mười lăm triệu đồng và tổng giá trị tài sản lâu bền không

quá năm triệu (BCPTVN, 2004). Nghiên cứu của MRPA trong năm 2004 cũng cho

thấy người nghèo không được một mái nhà chắc chắn. Khoảng 99% người nghèo ở

vùng ĐBSCL sống trong các nhà tạm và nửa kiên cố, làm bằng lá và tre nứa rất ọp

ẹp. Thậm chí một số người nghèo còn không có nhà, phải ở cùng họ hàng hoặc chủ

lao động.

1.4.2. Nhóm nhân tố liên quan đến vai trò của Chính phủ (trong phân bổ nguồn

lực):

1.4.2.1. Tình trạng sở hữu đất đai

Đất đai là nguồn sống, tài sản có giá trị tạo thu nhập đối với nhiều hộ nông

dân. Mất tài sản này đồng nghĩa với nguy cơ giảm thu nhập và bị ảnh hưởng khi có

các biến động. Những nông dân không có đất đai thường có thu nhập thấp. Điều này

dẫn tới xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của những hộ không có đất cao hơn. Theo

BCPTVN (2000), các hộ nông dân nghèo là những hộ có đất đai ít hoặc chất lượng

kém nên không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của những hộ này. Các hộ nghèo

coi diện tích đất và chất lượng đất là yếu tố quan trọng quyết định đến mức sống.

Diện tích đất canh tác cây hàng năm và cây lâu năm của các hộ tăng lên theo nhóm

chi tiêu theo đầu người, với số lượng đất trồng cây hàng năm của các hộ thuộc

nhóm giàu có nhất lớn hơn diện tích của các hộ ở nhóm thấp nhất tới 1,4 lần. Sự

khác biệt về diện tích đất trồng cây lâu năm tính trên đầu người thậm chí còn lớn

hơn rất nhiều: mức này của nhóm hộ khá giả nhất cao hơn gấp 6 lần so với mức của

Trang 23

nhóm hộ nghèo nhất.

Ngoài ra, nghiên cứu của AusAID (2003) cho thấy không có đất trở thành trở

thành vấn đề cấp bách nhất ở vùng nông thôn. Người ta thấy rằng mức độ trầm

trọng của việc không có đất phụ thuộc vào điều kiện khí hậu và địa lý. Vòng luẩn

quẩn là: không có đất – không được vay vốn – không phát triển được – không thể

thoát nghèo. Nguyên nhân của việc không có đất rất phức tạp. Hệ thống phân phối

và tái phân phối đất hiện tại không tính đến nhu cầu của người nghèo. Kết quả

nghiên cứu của MRPA (2004) khẳng định những nông dân không có hoặc ít đất có

tỷ lệ nghèo cao hơn hẳn so với các nông dân khác.

Nhìn chung trong cả nước có thể thấy tương quan chặt chẽ giữa diện tích

canh tác và tình trạng nghèo, người nghèo thường có ít đất canh tác hơn, đặc biệt là

các hộ nghèo ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL. Đất đai đối với các hộ

nông thôn là tài sản rất quan trọng nhất là trong điều kiện mở rộng diện tích rất khó

khăn và sẽ không thể thực hiện liên tục do quỹ đất có hạn. Tỷ lệ hộ mất đất, không

có đất ngày càng cao và điều này gây khó khăn không nhỏ tới việc giúp các hộ

nghèo nâng cao thu nhập và ảnh hưởng không nhỏ tới ổn định xã hội (theo dự án

diễn đàn miền núi Ford, 2004).

Bên cạnh đó nghiên cứu của PPA (2004), cho rằng vòng luẩn quẩn của

nghèo đói bao gồm túng thiếu phải bán đất, hoặc cầm cố đất do có những tai họa

trong gia đình (ốm yếu hoặc kinh doanh thất bại) và nợ nần; và Andy Kotikula,

Ambar Narayan và Hassan Zaman (2007) còn khẳng định sở hữu đất đai có mối

quan hệ chặt chẽ với tình trạng đói nghèo, chi tiêu và khả năng tài chính của hộ, đặt

biệt ở vùng nông thôn, tỷ lệ nghèo thay đổi có liên quan đến kích thước đất đai.

1.4.2.2. Tiếp cận nguồn tín dụng chính thức và phi chính thức

Các định chế tài chính chính thức hay không chính thức đều góp phần làm

tăng thu nhập cho người dân (Hoff và Stiglitz, 1993); cụ thể thiếu vốn đầu tư dẫn

đến năng suất lao động thấp, kéo theo thu nhập của hộ gia đình giảm. Thu nhập thấp

dẫn đến giảm tiết kiệm. Tiết kiệm thấp lại dẫn đến thiếu hụt vốn đầu tư và làm giảm

thu nhập hộ gia đình. Không đủ vốn, người nghèo không thể làm gì được, từ việc cơ

Trang 24

bản nhất là mua giống cây trồng vật nuôi hay phân thuốc chứ đừng nói đến việc cải

tiến sản xuất hay áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Muốn thoát khỏi cái vòng luẩn

quẩn này cần phải có nguồn vốn từ bên ngoài, trong trường hợp này là nguồn vốn

vay hay vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng chính thức và phi chính thức, hay từ

các dự án cấp tín dụng cho người nghèo của chính phủ. (Waheed, 1996 trích theo

Võ Tất Thắng, 2004).

Bên cạnh đó, Khandker (1998) chỉ ra rằng có khoảng dưới 5% người đi vay

có thể thoát nghèo. Ngoài ra, vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thoát

nghèo, đối với các hộ gia đình nông nghiệp lẫn các hộ gia đình phi nông nghiệp ở

nông thôn và thành thị (Ravallion và Dominique van de Walle, 2008). Không những

thế, vốn còn góp phần đáng kể làm tăng chi tiêu của hộ gia đình. Một hộ được vay

từ 5 triệu trở lên sẽ có cơ hội tăng chi tiêu của mình lên khoảng 0,0942 lần (Đào

Công Thiên, 2007).

1.4.2.3. Tiếp cận hạ tầng cơ sở thiết yếu bao gồm đường giao thông, điện, trạm y tế,

trường học, nước sạch và các yếu tố khác.

Theo nhiều nghiên cứu cho thấy những vùng có cơ sở hạ tầng tốt thường có

nhiều cơ hội giảm nghèo hơn các vùng khác chẳng hạn: Christophe Bosch và các

cộng sự (2001) cho rằng người nghèo không tiếp cận được nước sạch sẽ làm tăng

chi phí sinh hoạt, giảm tiềm năng thu nhập của họ, làm tổn hại đến chất lượng cuộc

sống và làm cho cuộc sống của họ nhiều rủi ro hơn; hay theo Nicholas Minot & Bob

Baulch (2002), việc sở hữu các nguồn nước cũng góp phần hữu ích trong việc phân

biệt hộ nghèo. Những hộ có sử dụng nước giếng sẽ có mức chi tiêu cao hơn những

hộ sử dụng nước sông, hồ.

Ngoài ra, nghiên cứu của MRPA (2004) khẳng định có sự khác nhau đáng kể

trong việc tiếp cận nước sạch giữa các nhóm giàu nghèo khác nhau. Hơn 70% số

người trong nhóm 20% người giàu nhất được tiếp cận với nước sạch thì chỉ khoảng

40% số người trong hai nhóm 20% nghèo nhất được tiếp cận. Hơn nữa, việc tăng

thêm một điểm phần trăm GDP chi vào cơ sở hạ tầng sẽ dẫn tới việc giảm tương

ứng tỷ lệ nghèo khoảng 0.5% (Larsen, Phạm Lan Hương và Rama, 2004).

Trang 25

1.4.2.4. Tình trạng di dân

Trong nghiên cứu của RPGA, 2003 cho thấy sự di dân ồ ạt đã tăng thêm áp lực

lên nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng, làm đảo lộn kế hoạch phát triển kinh

tế xã hội của địa phương. Đối với nhiều cán bộ và người dân địa phương, di dân là

thủ phạm phá rừng để sản xuất nông nghiệp và làm đất ở, mặc dù hầu hết những

người di cư không trực tiếp phá rừng. Người di cư mua đất từ những người dân địa

phương hoặc trồng trọt trên những cánh đồng bị bỏ hoang, dẫn tới tình trạng thiếu

đất và làm cho người bản địa phải đi sâu hơn vào rừng để khai phá đất mới. Hơn

nữa, dân di cư là người nghèo và khoảng 30% số họ là người dân tộc thiểu số như

người Tày, Nùng, Dao và Sán Chỉ đến từ các tỉnh miền núi phía Bắc. Nhiều người

di cư mù chữ, do vậy khó có thể tiếp thu các thông tin từ các chính sách của chính

phủ Việt Nam. Các nguồn trợ cấp xã hội dường như chỉ tập trung vào người bản địa

mà quên mất những người dân di cư cũng ở trong hoàn cảnh nghèo khó. Do lượng

lớn mức độ di cư vào Tây Nguyên cao, nên Vùng phải đối mặt với nhiều khó khăn

như thiếu đất, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của vùng, phá rừng, tội

phạm, kiểm soát nhân khẩu. Kết quả của di cư tự do là đói nghèo cho cả khu vực

nông thôn lẫn thành thị. Vì vậy, cái vòng lẩn quẩn của đói nghèo sẽ không thể bị

phá vỡ nếu tình trạng di dân không được kiểm soát.

Theo PTF (2003), với cộng đồng người dân tại Nghệ An, di dân ảnh hưởng

tiêu cực đến tình hình an ninh của địa phương. Khi được hỏi về các ảnh hưởng có

thể có của người di cư đến tình hình địa phương, có 13% người trả lời cho là nhóm

người này đến địa phương làm mất trật tự an ninh, 5% chiếm dụng đất đai bừa bãi,

9,9% làm gia tăng tệ nạn xã hội. Không những thế, tình trạng di dân đã gây áp lực

về đất giữa người nhập cư và người dân tộc địa phương, giữa người nhập cư và các

lâm trường. Một số tranh cấp vẫn tồn tại và dẫn đến căng thẳng dân tộc gia tăng

(BCPTVN, 2004). Đặc biệt hơn, Đặng Nguyên Anh (2005) còn cho rằng các

chương trình di dân từ vùng thấp lên vùng cao với quy mô lớn đã gây ra những ảnh

hưởng tiêu cực cho người dân và môi trường do năng lực quản lý yếu kém.

Trang 26

1.4.2.5. Khoảng cách thành thị - nông thôn

Nghèo đói có sự khác biệt đáng kể giữa thành thị và nông thôn. Nghiên cứu

của Bird (2002) cho rằng: khu vực nông thôn có xu hướng nghèo cao hơn khu vực

thành thị. Việt Nam có trên 70% dân số sống ở nông thôn và khoảng 19% dân nông

thôn sống dưới ngưỡng nghèo trong khi đó ở khu vực thành thị tỷ lệ này là 3,3%

(TCTK, 2008). Bên cạnh đó, Anonymous (2003) còn khẳng định tỷ lệ nghèo khu

vực nông thôn cao hơn so với thành thị. Mặt khác, thành thị giảm nghèo nhanh hơn

nông thôn. Tỉ lệ nghèo ở thành thị vùng đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 15%

xuống còn 8% trong năm 2002, trong khi ở nông thôn là từ 42% năm 1998 xuống

còn 27% năm 2002 (theo MRPA, 2004).

1.4.3. Mô hình đề xuất nghiên cứu

Kế thừa những nghiên cứu trước, tác giả nhận thấy một số yếu tố chung ảnh

hưởng đến tình trạng nghèo của những hộ gia đình tại một số quốc gia và ở Việt

Nam như: tuổi chủ, đất đai, loại nghề, tín dụng, tỷ lệ phụ thuộc. Tuy nhiên, tại Việt

Nam mỗi vùng cũng có một số đặc điểm riêng tác động đến nghèo, cụ thể như:

thiếu thông tin, kỹ thuật canh tác lạc hậu là những yếu tố góp phần gây ra nghèo ở

vùng ven biển miền Trung, hay vùng miền núi phía Bắc là không tiếp cận dịch vụ

khuyến nông, không có tuyến đường giao thông chở khách vào xã, dân tộc thiểu số,

thiên tai. Trên cơ sở các nghiên cứu trước và đặc trưng riêng của Vùng, tác giả đề

nghị mô hình nghiên cứu nghèo cho vùng Tây Nguyên như sau:

(Xem Khung phân tích – trang bên)

Trong chương một, tác giả đã phân tích những quan điểm khác nhau về

nghèo đói, xác định ngưỡng nghèo, cũng như xác định những nguyên nhân gây nên

tình trạng nghèo; từ đó đưa ra khung phân tích phù hợp nhất cho nghiên cứu; gồm

có các nhân tố thuộc về chính phủ (phân bổ nguồn lực đất đai, tín dụng, hạ tầng cơ

sở, tình trạng di dân) và các nhân tố thuộc về hộ gia đình (tuổi chủ hộ, dân tộc, tỷ lệ

phụ thuộc, loại công việc của chủ hộ, tài sản của hộ, trình độ giáo dục của chủ hộ).

Trang 27

Phân Đất đai Sơ đồ 1.1: Mô hình nghiên cứu

bổ

nguồn

Tín dụng lực

Đường ô tô thôn/xã

Hạ

tầng chợ hàng ngày/ chợ Chính cơ sở phiên phủ

điện, nước

Di dân Tỷ lệ phụ thuộc

Nghèo Nhân Tuổi chủ

khẩu

học Dân tộc

Hộ gia Loại nghề

đình Kinh

tế

Tài sản của hộ

Trình độ giáo dục Xã hội

Trang 28

Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Sơ lược về đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu là vùng Tây Nguyên. Đối tượng nghiên cứu là 579 hộ

gia đình sống ở 64 xã, thuộc 53 huyện của 05 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk,

Đắk Nông và Lâm Đồng. Trong số 64 xã tham gia điều tra của Vùng có 20 xã

nghèo thuộc Chương trình 135 của Chính phủ và 21 xã vùng xa.

Sơ đồ 2.1: Kết cấu vùng nghiên cứu Tỉnh Kon Tum

(8 huyện, 14 xã, 72 hộ)

Tỉnh Gia Lai

Vùng Tây ( 15 huyện, 17 xã, 129 hộ)

Nguyên

Tỉnh Đắk Lắk (5 tỉnh, 53

huyện, 64 ( 13 huyện, 18 xã, 147 hộ)

xã, 579 hộ)

Tỉnh Đắk Nông

(6 huyện, 10 xã, 99 hộ)

Tỉnh Lâm Đồng

(11 huyện, 15 xã, 132 hộ)

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS2008 (n =579)

Trang 29

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp thống kê mô tả

Bằng phương pháp thống kê mô tả, tác giả khái quát bức tranh nghèo của

người dân Tây Nguyên và những nhân tố tác động đến nghèo. Tuy nhiên, những số

liệu mô tả chỉ là những con số trung bình và tương đối vì: Tính chất văn hóa của các

dân tộc, những khoản chi tiêu và thu nhập trong năm là khá thất thường và hộ

không thể trả lời một cách chính xác trong khi phỏng vấn. Tiếp đó, những khoản thu

nhập từ cây lâu năm và những con, cây mang tính tự cấp làm cho việc tính toán thu

nhập của hộ gia đình không thể chính xác tuyệt đối. Bên cạnh đó, những biến động

trong cuộc sống, mùa màn thất bát, buôn bán lời, lỗ là việc không thể dự toán được.

Vì vậy, có những trường hợp thu nhập của hộ âm, nhưng nếu cho rằng đây là hộ

nghèo là không chính xác.

2.2.2. Phương pháp nghiên cứu tương quan

Phương pháp nghiên cứu tương quan là phương pháp nghiên cứu nhằm mô tả

mối quan hệ về lượng giữa các yếu tố quan sát nhằm nhận dạng được mối quan hệ

giữa chúng. Vận dụng mối quan hệ tương quan vào đề tài nhằm mục đích xác định

những nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói. Thông qua phương pháp tương

quan sẽ cho phép tác giả lượng hóa một cách cụ thể các nhân tố tác động đến đói

nghèo trên địa bàn nghiên cứu.

2.3. Tiêu chí phân tích nghèo

Có hai tiêu chí để xác định chính xác ai nghèo đó là chi tiêu dùng hay thu

nhập của hộ gia đình. Tuy nhiên, với những nguyên do đã phân tích ở phần trên, tác

giả chọn chi tiêu thực bình quân một người trong hộ gia đình làm cơ sở để phân tích

nghèo trong nghiên cứu này. Chi tiêu dùng gồm chi tiêu bằng tiền cho hàng hoá

lương thực thực phẩm và phi lương thực thực phẩm. Trong bộ dữ liệu VHLSS2008

(TCTK, 2008), biến pcexp1rl ở tập tin có tên hhexpe08 là biến chi tiêu dùng thực

bình quân đầu người/ năm

Trang 30

2.4. Cơ sở xác định nghèo

Chuẩn nghèo chung của Tổng Cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới với mức

chi tiêu bình quân/người/tháng năm 2008 là 280.000 đồng (TCTK, 2008). Như vậy,

một hộ gia đình nghèo nếu mức chi tiêu bình quân đầu người của hộ thấp hơn

3.360.000 đồng/năm và ngược lại, hộ không nghèo là hộ có mức chi tiêu bình quân

đầu người của hộ trên 3.360.000 đồng/năm.

2.5. Nguồn số liệu

Số liệu tác giả sử dụng để phân tích nghèo đói ở vùng Tây Nguyên được

trích ra từ bộ số liệu của cuộc điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008 do Tổng Cục

Thống kê thực hiện. Mẫu điều tra thu nhập và chi tiêu gồm 9.189 hộ gia đình được

chọn thêm từ 3.063 địa bàn, mỗi địa bàn chọn 3 hộ gia đình; đại diện cho 8 vùng,

thành thị, nông thôn, phản ánh đầy đủ các chỉ tiêu về tình hình kinh tế, xã hội một

cách sâu ở cấp quốc gia và vùng. Nội dung điều tra của VHLSS bao gồm: đặc điểm

nhân khẩu học, giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, thu nhập, chi tiêu, tài sản, đồ

dùng của hộ, nhà ở, phương tiện vệ sinh, tham gia chương trình xóa đói giảm nghèo

và tín dụng. Ngoài ra còn có bảng câu hỏi về xã, phường, trạm y tế. Tính ưu việt của

bộ số liệu này là với số lượng lớn các câu hỏi ở các mục khác nhau tạo điều kiện

thuận lợi để kiểm tra tính nhất quán của nó. Vì vậy, với bộ số liệu khá đồ sộ đáng

tin cậy và mang tính đại diện cao này rất phù hợp với nghiên cứu về nghèo ở cấp

vùng nói chung và vùng Tây Nguyên nói riêng.

Để có dữ liệu nghiên cứu vùng Tây Nguyên với 579 quan sát, tác giả thực

hiện việc trích rút dữ liệu từ bộ dữ liệu VHLSS2008 như sau:

Bảng 2.1: Trích rút dữ liệu

Biến cần rút trích Nơi trích Tên biến trong bộ dữ liệu VHLSS dữ liệu dữ liệu

Mã vùng reg8 hhexpe08

Khu vực thành thị hay urban08 hhexpe08 nông thôn

05 tỉnh tinh hhexpe08

Trang 31

Giới tính của chủ hộ muc123a m1ac2

Tuổi của chủ hộ muc123a m1ac5

Số người phụ thuộc muc123a m1ac5 của hộ

Dân tộc của chủ hộ ho Dantoc

Trình độ học vấn của m2ac1, m2ac2 và m2ac3a muc123a chủ hộ

Nghề nghiệp và việc m4ac1a, m4ac1b, m4ac1c, m4ac3, m4ac4 muc4a làm của chủ hộ và m4ac5

Nhà ở muc7 m7c2, m7c3

m4b0c3b, m4b0c4, m4b0c12 muc4b0

muc4b11 m4b11c15

Đất đai m4b15c2, m4b15c3, m4b15c4 và muc4b15 m4b15c5

muc4b1234 m4b12c8

Tín dụng m8c8, m8c10a và m8c13 muc82

m5c1, m5c4, m5c16, m5c19, m5c21, Xa Cơ sở hạ tầng m5c23a, m5c22

muc5b m5c31

Xã nghèo 135 Xa m1c14

Xã vùng xa Xa m1c15

m4c16, m4c20 muc4c

Tình trạng di dân m1c6, m1c7, m1c8, m1c9, m1c10, m8c9, Xa m8c1a

2.6. Mô hình kinh tế lượng

Để đánh giá tác động của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc, ta sử dụng

mô hình logistic tổng quát như sau:

Trang 32

X

X

.. ++

ββ + 0 1

1

β k

k

=

P i

X

X

.. ++

ββ + 0 1

1

β k

k

1

e

e +

Bằng phương pháp tuyến tính hoá, mô hình trên trở thành dạng hàm tuyến

X

X

X

ln

...

+

+

+

+ ββ 1

0

11

β 2

2

β k

k

1

P i −

P i

⎛ ⎜⎜ ⎝

⎞ =⎟⎟ ⎠

tính của log tỷ số xác suất odd như sau:

Trong đó:

Pi: biểu thị xác suất mà hộ gia đình thứ i có mức sống dưới ngưỡng nghèo.

Xk: là các biến độc lập (các nhân tố có ảnh hưởng đến xác suất nghèo của hộ

gia đình).

β 0, β k: là các hệ số hồi quy của mô hình.

Ý nghĩa của mô hình trên: trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi yếu

tố Xk tăng thêm một đơn vị thì xác suất nghèo của một hộ gia đình sẽ thay đổi so

với ban đầu. Nhân tố Xk có tác động đồng (nghịch) biến đến xác suất nghèo của hộ

gia đình khi dấu của hệ số hồi quy βk dương (âm); từ đó, sẽ có những tác động làm

thay đổi nhân tố Xk một cách thích hợp để làm thay đổi xác suất kỳ vọng. Cụ thể,

mô hình áp dụng để nghiên cứu tình trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên bao

gồm các biến như sau:

Bảng 2.2: Khai báo các biến trong mô hình

Kỳ

Ký hiệu Mô tả vọng

dấu

Biến phụ thuộc

=1 chủ hộ sống dưới ngưỡng nghèo Nghèo

Trang 33

Kỳ

Ký hiệu Mô tả vọng

dấu

=0 không nghèo

Tuổi chủ Là biến tính từ năm sinh của chủ hộ +/-

+ =1 chủ hộ là nam

Giới tính chủ hộ

=0 chủ hộ là nữ

- =0 hộ thuộc dân tộc thiểu số

Dân tộc

=1 hộ thuộc dân tộc Kinh

Số năm học trung bình của chủ hộ. Bậc học -

Số năm đi học trung học phổ thông, học nghề được tính theo

số năm đi học của bậc học phổ thông.

Số người không có hoạt động tạo thu nhập + Tỷ lệ phụ thuộc trong hộ

- Tình trạng việc làm chính của chủ hộ

Có việc =0 không có việc

=1 có việc làm

- Loại ngành nghề chính của chủ hộ

Dịch vụ =0 không làm trong ngành dịch vụ

=1 làm việc trong ngành dịch vụ

+ Loại nhà ở của chủ hộ

Nhà tạm =0 nhà ở không thuộc nhà tạm

=1 nhà ở thuộc nhà tạm

Trang 34

Kỳ

Ký hiệu Mô tả vọng

dấu

- Diện tích đất bình quân Diện (1.000 m2) của hộ

Mức vay bình quân của Số tiền bình quân của một hộ vay được trong 1 -

hộ năm (ngàn đồng)

- =0 hộ ở nông thôn

Khu vực

=1 hộ ở thành thị

- =0 hộ không ở Kon Tum

Kon Tum

=1 hộ ở Kon Tum

- =0 hộ không ở Đắk Lắk

Đắk Lắk

=1 hộ ở Đắk Lắk

- =0 hộ không ở Đắk Nông

Đắk Nông

=1 hộ ở Đắk Nông

- =0 hộ không ở Lâm Đồng

Lâm Đồng

=1 hộ ở Lâm Đồng

Tỷ lệ di dân = Số người đến xã : (Tổng người

trong xã – số người đi khỏi xã)

Diện tích đất bình quân của xã chia thành 5 + Tỷ lệ di dân x đất bình nhóm từ lớn nhất đến nhỏ nhất quân xã nhóm 3 Biến tương tác thể hiện tỷ lệ di dân tác động

đến diện tích đất tính bình quân trên đầu người

của xã.

Tỷ lệ di dân x tệ nạn Biến tương tác thể hiện tỷ lệ di dân tác động +

Trang 35

Kỳ

Ký hiệu Mô tả vọng

dấu

mại dâm đến trật tự an ninh xã hội.

Tỷ lệ di dân x tệ nạn Biến tương tác thể hiện tỷ lệ di dân góp phần +

trộm cắp làm gia tăng tệ nạn trộm cắp

Tỷ lệ di dân x tệ nạn Biến tương tác thể hiện tỷ lệ di dân góp phần +

thất nghiệp làm gia tăng tệ nạn thất nghiệp

Trên cơ sở xác định khung phân tích và cơ sở lý thuyết liên quan đến vấn đề

nghiên cứu, trong chương 2 tác giả lựa chọn phương pháp phân tích làm cơ sở cho

việc phân tích cũng như lựa chọn mô hình nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả cũng mô tả

quá trình rút trích dữ liệu, xác định mô hình logistic nhằm đánh giá các tác động của

những nhân tố chính ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây

Nguyên.

Trang 36

Chương 3: CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TÌNH TRẠNG NGHÈO CỦA

CÁC HỘ GIA ĐÌNH Ở TÂY NGUYÊN

3.1. Tổng quan về tình trạng nghèo tại vùng nghiên cứu

Từ lý thuyết về nghèo đói của những nghiên cứu trước được tổng hợp từ

chương một, bằng phần mềm Stata tác giả sử dụng phương pháp phân tích mô tả

lượng hóa các nhân tố tác động đến tình trạng nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên

bao gồm: chi tiêu bình quân của hộ, vị trí địa lý, tuổi, giới tính, số năm đi học, tỷ lệ

phụ thuộc, tình trạng dân tộc, nghề nghiệp, tài sản của chủ hộ, diện tích đất sản xuất

nông nghiệp, khả năng tín dụng, đặc điểm cơ sở hạ tầng, tỷ lệ di dân; và từ đó xác

định mô hình định lượng trên cơ sở của những nhân tố đã phân tích thống kê ở trên.

Trong thời gian qua chính sách đổi mới kinh tế toàn diện đã góp phần giúp

Việt Nam đạt được những thành tích đáng kể trong công cuộc xóa đói giảm nghèo.

Tỷ lệ nghèo chung của cả nước đã giảm từ 28,9% năm 2002 xuống 16% năm 2006

và 14,5% năm 2008 (TCTK,2008). Tuy nhiên tỷ lệ nghèo của Việt Nam vẫn còn

khá cao và phân bổ không đều giữa các vùng. Miền núi Tây Nguyên là một trong ba

vùng có tỷ lệ nghèo cao nhất nước. Tỷ lệ nghèo ở Tây Nguyên nhìn chung có giảm

đi nhưng vẫn còn ở mức khá cao: năm 2002 là 51,8%, năm 2004 còn 33,1%, năm

2006 giảm xuống 28,6% và đến năm 2008 còn 24,1%. Như vậy, năm 2008 tỷ lệ

nghèo của Tây Nguyên cao hơn 10,4% so với vùng Duyên hải Miền Trung, hay so

với Đông Nam Bộ là 20,6% và 9,6% so với cả nước (TCTK,2008).

Bảng 3.1: Tỷ lệ nghèo và chi tiêu bình quân đầu người của hộ theo năm

Chi tiêu bình quân đầu người /năm T ỷ lệ nghèo (%) (ngàn đồng)

C ả nước Tây Nguyên Cả nước Tây Nguyên

Thành thị 3,3 6,09 12.233 9.768

Nông thôn 18,7 31,55 6.561 6.110

Chung 14,5 24,1 8.150 7.249

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Trang 37

Dưới góc độ thành thị - nông thôn, tỷ lệ hộ nghèo Tây Nguyên ở nông thôn

cao gấp hơn 5 lần tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị. Khoảng cách nghèo thành thị - nông

thôn tính bằng % số điểm của Tây Nguyên cao hơn nhiều lần so với cả nước. Bảng

3.1 cho thấy có một cách biệt rất lớn về nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn,

cụ thể như: tỷ lệ nghèo ở khu vực nông thôn của cả nước là 18,7% cao hơn tỷ lệ

nghèo chung của cả nước là 4,2% và cao hơn thành thị là 15,4%. Sự khác biệt này ở

Tây Nguyên còn rõ nét hơn; tỷ lệ nghèo của Vùng ở khu vực nông thôn là 31,55%

trong khi đó ở khu vực thành thị tỷ lệ này chỉ có 6,09% - cao hơn 25,46% và cao

hơn tỷ lệ nghèo của cả Vùng là 9,45%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nghèo ở vùng nông thôn

Tây Nguyên còn cao hơn so với vùng nông thôn cả nước là 14,85%.

Ngoài ra, mức chi tiêu bình quân hộ của Tây Nguyên (mức nghèo tuyệt đối)

thấp hơn so với cả nước và có sự chênh lệch đáng kể giữa thành thị và nông thôn.

Bảng 3.1 cho thấy mức chi tiêu bình quân của một hộ gia đình ở nông thôn Tây

Nguyên là 6.110 ngàn đồng/năm thấp hơn 63% so với thành thị và bằng 93% chi

tiêu bình quân của một hộ dân ở nông thôn trên cả nước. Như vậy, việc giảm nghèo

ở khu vực nông thôn vẫn là một thách thức lớn.

3.2. Nghèo theo vị trí địa lý

Bảng 3.2: Tỷ lệ nghèo theo vị trí địa lý (%)

ộ nghèo Hộ không nghèo H

Thành thị 6,09 93,91

Nông thôn 31,55 68,45

Kon Tum 37,22 62,78

Gia Lai 44,10 55,90

Đăk Lăk 16,94 83,06

Đăk Nông 6,58 93,42

Lâm Đồng 17,00 83,00

Chung 24,1 75,9

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Trang 38

Nhìn vào bảng 3.2 ta thấy chênh lệch tỷ lệ hộ nghèo giữa thành thị và nông

thôn có một khoảng cách khá xa, ở thành thị tỷ lệ hộ nghèo rất thấp chỉ khoảng

6,09% trong khi đó ở nông thôn tỷ lệ này đến 31,55% cao hơn 5 lần. Trong các tỉnh

thuộc khu vực Tây Nguyên, Gia Lai có tỷ lệ nghèo cao nhất (44,1%) và Đắk Nông

có tỷ lệ nghèo thấp nhất (6,58%). Điều này cũng dễ hiểu vì phần đông người dân

Gia Lai là dân tộc thiểu số, địa hình nhiều đồi núi, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, giao

thông không thuận lợi, đất đai xấu. Ngoài ra, kết quả kiểm định ở phụ lục 5 cũng

góp phần khẳng định sự khác biệt về vị trí địa lý giữa hộ nghèo và không nghèo là

có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.

3.3. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và tuổi của chủ hộ

Bảng 3.3: Tuổi chủ hộ bình quân của Vùng và cả nước

Cả nước Tây Nguyên

Hộ nghèo 47,33 44,11

Hộ không nghèo 50,07 45,80

Chung 49,67 45,39

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Theo các nghiên cứu trước, tuổi bình quân của chủ hộ thuộc hộ nghèo thấp

hơn so với chủ hộ của các hộ không nghèo. Bảng 3.3 cho thấy tuổi trung bình của

chủ hộ nghèo ở Tây Nguyên thấp hơn so với cả nước dù hộ là nghèo hay không

nghèo; cụ thể tuổi bình quân của chủ hộ nghèo ở Tây Nguyên là 44,11 tuổi, thấp

hơn 3,22 tuổi so với cả nước. Tuy nhiên, qua kiểm định ở phụ lục 6 tác giả nhận

thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi giữa hộ nghèo và không

nghèo.

Trang 39

3.4. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và giới tính của chủ hộ

Bảng 3.4: Tỷ lệ nghèo, số năm đi học trung bình và chi tiêu bình quân

đầu người theo giới tính

Chi tiêu bình quân Số năm đi học T ỷ lệ nghèo (%) đầu người/năm trung bình (năm) (ngàn đồng)

Nam 24,86 5,9 6.678

Nữ 20,40 6,2 6.760

Chung 24,23 5,9 6.689

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Bảng 3.4. cho thấy không có sự khác biệt đáng kể của tỷ lệ nghèo theo giới

tính (khoảng trên 4%), điều này cũng được chứng minh trong phần kiểm định ở phụ

lục 7; song khác với những nghiên cứu trước, số năm đi học trung bình của chủ hộ

là nữ ở Tây Nguyên cao hơn nam giới, vì vậy mức chi tiêu bình quân của chủ hộ là

nữ cũng sẽ cao hơn.

3.5. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và số năm đi học của chủ hộ

Giáo dục là một phương tiện quan trọng để nâng cao khả năng kiếm sống, từ

đó cải thiện mức sống, và là con đường ngắn nhất giúp người nghèo thoát nghèo

hiệu quả. Trong nhiều nghiên cứu cho thấy giáo dục có liên quan khá mật thiết với

đói nghèo, và luôn có ý nghĩa trong mọi phân tích.

Bảng 3.5: Trình độ giáo dục phân theo nhóm hộ

H ộ nghèo Hộ không nghèo Chung

Tỷ lệ biết đọc, biết viết (%) 82,42 71,78 75,08

Số năm đi học trung bình (năm) 2,91 6,89 5,92

Tỷ lệ Không bằng cấp (%) 97,19 69,81 76,44

Tiểu học (%) 74,53 74,84 74,77

Trung học cơ sở (%) 29,27 69,39 59,67

Trang 40

Trung học phổ thông (%) 42,67 33,46 4,66

Cao đẳng (%) 0,00 3,05 2,31

Đại học (%) 0,00 6,23 4,72

Thạc sỹ, tiến sỹ (%) 0,00 0,15 0,11

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Từ bảng 3.5 cho thấy trình độ giáo dục của hộ nghèo khá thấp hơn so với hộ

không nghèo, cụ thể: tỷ lệ biết đọc, biết viết của hộ nghèo cao hơn 10,64% so với

hộ không nghèo, số năm đi học trung bình của chủ hộ nghèo thấp hơn đến 2,37 lần,

tỷ lệ chủ hộ nghèo không bằng cấp chiếm khá cao 97,19% (hơn 27,38%) và đặc biệt

hơn là không có chủ hộ nghèo nào có trình độ cao đẳng, đại học hay thạc sỹ, tiến sỹ

trong khi con số ở hộ không nghèo lần lượt là 3,05%, 6,23% và 0,15%. Không

những thế, bằng kiểm định Chi – square, tác giả nhận thấy sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê về số năm đi học với tình trạng nghèo của hộ (xem thêm phụ lục 10). Vì

vậy, để thoát nghèo bền vững không còn con đường nào khác phải nâng cao trình độ

giáo dục cho chủ hộ và các thành viên trong hộ.

3.6. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ

Tỷ lệ người phụ thuộc lớn có tương quan chặt, trực tiếp với tỷ lệ nghèo và

ngược lại, điều này được kiểm định cụ thể trong phần phụ lục 9. Như vậy, hộ nghèo

là những hộ có tỷ lệ phụ thuộc cao hơn, bất kể hộ ở thành thị hay nông thôn, bất kể

ở Tây Nguyên hay trong cả nước; đặc biệt những hộ nghèo ở Tây Nguyên có tỷ lệ

người phụ thuộc cao nhất cả nước (phụ lục 4). Bảng 3.6 thể hiện tỷ lệ phụ thuộc ở

nông thôn và thành thị Tây Nguyên có khác biệt không đáng kể, nhưng chênh lệch

tỷ lệ người phụ thuộc giữa hộ nghèo và không nghèo rất lớn. Tỷ lệ người phụ thuộc

của hộ không nghèo chỉ bằng 64% so với hộ nghèo. Sự chênh lệch này còn thể hiện

rõ nét hơn ở thành thị và nông thôn. Ở nông thôn, một hộ nghèo có tỷ lệ phụ thuộc

bình quân là 0,5 trong khi đó hộ không nghèo chỉ có 0,35. Còn ở thành thị, tỷ lệ phụ

thuộc của hộ nghèo lớn hơn hộ không nghèo 0,16. Do đó, công tác kế hoạch hóa gia

đình ở Tây Nguyên cần được rà soát lại.

Trang 41

Bảng 3.6: Tỷ lệ phụ thuộc của hộ theo khu vực

H ộ nghèo Hộ không nghèo Chung

Thành thị 0,41 0,25 0,26

Nông thôn 0,50 0,35 0,4

Chung 0,50 0,32 0,36

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

3.7. Mối quan hệ giữa nghèo và tình trạng dân tộc của chủ hộ

Ở Việt Nam, người dân tộc thiểu số do những thói quen, phong tục lạc hậu

nên thường có những hạn chế trong quá trình tiếp cận các nguồn lực của xã hội để

phát triển kinh tế. Do đó, tỷ lệ nghèo trong cộng đồng các dân tộc thiểu số thường

cao hơn người Kinh. Bên cạnh đó, kiểm định Chi – square cũng góp phần khẳng

định thêm mối quan hệ giữa nghèo và tình trạng dân tộc của chủ hộ (xem phụ lục 8)

Bảng 3.7: Tỷ lệ hộ nghèo và chi tiêu bình quân đầu người theo dân tộc

Chi tiêu bình quân đầu

Tỷ lệ hộ nghèo người/năm

(%)

(ngàn đồng)

Kinh 4,6 8.652

Dân tộc thiểu số 65 3.565

Chung 24,1 7.245

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Qua nghiên cứu bộ dữ liệu VHLSS2008, tỷ lệ nghèo của hộ dân tộc thiểu số

là 65% gấp 14 lần so với hộ gia đình người Kinh. Bên cạnh đó, sự khác biệt giữa

chủ hộ là người Kinh và người dân tộc thiểu số còn thể hiện qua mức chi tiêu trung

bình. Một hộ người Kinh có mức chi tiêu trung bình một năm là 8.652 ngàn đồng

cao hơn gần 3 lần so với chi tiêu bình quân của hộ dân tộc thiểu số (bảng 3.7). Điều

này cho thấy mức sống của người dân tộc thiểu số còn quá thấp nên chính quyền địa

Trang 42

phương và chính sách của nhà nước cần quan tâm hơn nữa và hướng dẫn giúp họ

tìm cách thoát nghèo.

Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy mối tương quan chặt giữa nơi sống và tỷ

lệ đói nghèo của hộ gia đình. Cụ thể, tỷ lệ hộ nghèo trong nhóm các dân tộc thiểu số

cao hơn trong nhóm dân tộc Kinh ở cả thành thị và nông thôn, cụ thể: ở nông thôn

tỷ lệ nghèo của dân tộc thiểu số là 69,72%, cao hơn gần 3 lần so với thành thị, và

cao hơn gần 14 lần so với hộ gia đình là người Kinh sống ở nông thôn (bảng 3.8)

Bảng 3.8: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo dân tộc và khu vực (%)

Thành thị Nông thôn

Kinh 3,79 5,13

Dân tộc thiểu số 23,63 69,72

Chung 6,09 31,55

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Vấn đề nghèo đói của hộ dân tộc thiểu số trở nên nghiêm trọng do nhiều

nguyên nhân sau: cách biệt về địa lý, độc canh trong sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ

tầng yếu kém, trình độ học vấn thấp và nhiều yếu tố khác (xem thêm phụ lục 5).

Bảng 3.9: Tỷ lệ bằng cấp cao nhất của chủ hộ theo dân tộc (%)

Dân tộc Kinh Dân tộc thiểu số Tổng số

Không bằng cấp 65,42 95,02 73,58

Tiểu học 68,85 70,72 69,37

Trung học cơ sở 66,19 32,35 56,85

Trung học phổ thông 40,74 13,91 33,34

Cao đẳng 3,12 0,7 2,51

Đại học 6,91 0,6 5,17

Thạc sỹ, tiến sỹ 0,25 0 0,18

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Một minh chứng cho những nguyên nhân trên có thể thấy ở bảng 3.9. Tỷ lệ

hộ dân tộc thiểu số không có bằng cấp chiếm 95,02%, cao hơn 29,6% so với dân tộc

Trang 43

Kinh và 21,44% so với cả vùng. Ngoài ra, 6,91% chủ hộ người Kinh có bằng đại

học nhưng chỉ có 0,6% chủ hộ là dân tộc thiểu số có bằng đại học và không có chủ

hộ nào tốt nghiệp thạc sỹ hay tiến sỹ. Điều này cho thấy học vấn có mối quan hệ rất

chặt chẽ với tình trạng đói nghèo của các hộ dân tộc thiểu số và việc nâng cao trình

độ cho các hộ dân tộc thiểu số, nhất là các hộ nghèo là rất cần thiết. Nâng cao trình

độ sẽ giúp các hộ tiếp cận với trình độ kỹ thuật mới, kiến thức mới để từ đó họ có

thể áp dụng cho sản xuất, giúp họ tự thoát nghèo.

3.8. Mối quan hệ giữa nghèo với nghề nghiệp chính và tình trạng việc làm của

chủ hộ

Theo tập quán của người Việt Nam, chủ hộ thường là trụ cột của gia đình,

người tạo phần lớn thu nhập, đồng thời cũng là người đưa ra các ý kiến quyết định

trong các vấn đề quan trọng của gia đình.

Từ kết quả thống kê bảng 3.10 cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo có việc là 95,96%,

trong khi hộ không nghèo là 93,75%. Như vậy, không có mối liên hệ thống kê giữa

tình trạng việc làm và tình trạng nghèo của hộ (xem thêm phụ lục 11). Tuy nhiên,

việc làm của hộ nghèo tập trung hầu hết trong lĩnh vực nông nghiệp đến 89,96%

hơn 27,42% so với hộ không nghèo, chỉ có 6,13% hộ nghèo làm trong lĩnh vực công

nghiệp và 8,04% hộ nghèo tham gia vào hoạt động dịch vụ. Điều này cho thấy

người dân Tây Nguyên vẫn còn lệ thuộc khá nhiều vào nông nghiệp. Trong khi đó,

các ngành công nghiệp và dịch vụ đang thu hút nhiều lao động có tay nghề và thu

nhập cao, ổn định hơn thì nhóm hộ nghèo không đủ khả năng tiếp cận. Cụ thể, có

đến 44,03% hộ không nghèo làm giàu trong ngành dịch vụ thì trái lại chỉ có 8,04%

hộ nghèo làm việc trong ngành này, thấp hơn 27,27% so với toàn khu vực. Tham

gia vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ phi nông nghiệp sẽ giảm thiểu khả

năng nghèo. Có đến 36,36% hộ không nghèo làm trong lĩnh vực tự sản xuất kinh

doanh, dịch vụ trong khi chỉ có 19,93% hộ nghèo làm trong lĩnh vực này. Rõ ràng là

những hộ có chủ hộ tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp thì khả năng thoát

nghèo sẽ cao hơn, như ông cha ta đã nói: “Phi thương bất phú”. Các kết quả nghiên

cứu trước đều cho rằng thu nhập từ nông nghiệp mang tính thời vụ, khá bấp bênh,

Trang 44

phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác, nhiều rủi ro và tiền lương thấp. Chính vì vậy,

vấn đề nhiều người dân ở Tây Nguyên lao động trong nông nghiệp là một minh

chứng cho tình trạng nghèo đói nghiêm trọng của Vùng hiện nay. Không có việc

làm hoặc làm việc với mức thu nhập thấp của nhóm hộ nghèo đồng nghĩa với cơ hội

thoát nghèo của họ khá mong manh.

Bảng 3.10: Tình trạng việc làm, nhóm ngành, loại công việc của chủ hộ phân

theo nhóm hộ và khu vực (%)

Nhóm ngành Loại công việc

Lao Kinh Tự động doanh Có việc Nông Công Dịch làm nghiệp nghiệp vụ hưởng dịch nông lương vụ

Hộ nghèo 93,75 89,96 6,13 8,04 79,18 96,74 19,93

Hộ không 95,96 62,54 18,94 44,03 60,58 83,33 36,36 nghèo

Chung 94,29 69,19 15,84 35,31 65,09 86,58 32,38

Khu vực

Nông thôn 95,39 81,22 11,26 23,39 65,85 95,27 24,34

Thành thị 91,57 39,36 27,19 64,85 63,18 65,03 52,32

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Một trong những nguyên nhân chính góp phần làm cho tỷ lệ lao động trong

ngành nông nghiệp có tỷ lệ nghèo cao là phần lớn nông dân đều chưa qua đào tạo

về trình độ chuyên môn kỹ thuật đến 82,65% và chỉ có 17,19% tỷ lệ lao động đã

qua đào tạo, thấp hơn 2,32% so với tỷ lệ lao động được đào tạo chung của Vùng.

Bên cạnh đó, những hộ nghèo không có khả năng, điều kiện để nâng cao tay nghề,

nên có đến 85,43% lao động của hộ nghèo không được đào tạo, tỷ lệ này cũng khá

cao so với hộ không nghèo (bảng 3.11). Điều đó cho thấy, hầu hết lao động của Tây

Trang 45

Nguyên đều không qua quá trình đào tạo, không có những kỉ năng cần thiết cho quá

trình sản xuất nên xác suất để họ rơi vào nghèo đói khá cao.

Bảng 3.11: Kỹ năng lao động theo nhóm ngành

Tỷ lệ lao động có kỹ thuật Tỷ lệ lao động giản đơn (%) (%)

Nhóm ngành

Nông nghiệp 82,65 17,19

Công nghiệp 54,55 35,55

Dịch vụ 48,51 18,56

Nhóm hộ

Hộ nghèo 85,43 5,67

Hộ không nghèo 58,61 23,94

Chung 65,11 19,51

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n=579)

Một vấn đề không kém phần quan trọng là trong số 5,71% những người không

có việc làm ở Tây Nguyên phần lớn là do già yếu và nghỉ hưu. Kết quả bảng 3.12

cho thấy trong số 5,71% những người không có làm việc có tới 50,12% là vì già yếu

và nghỉ ngơi, 19,71% do bệnh tật. Một vấn đề đáng quan tâm là ở Tây Nguyên là

hầu hết các chủ hộ đều tìm được việc làm. Do đó, ngành nghề mà chủ hộ tham gia

có ảnh hưởng khá mạnh đến tình trạng nghèo đói của hộ.

Bảng 3.12: Các nguyên nhân khiến chủ hộ không đi làm

Tây Nguyên

Nội trợ cho gia đình 11,02

Già yếu, nghỉ hưu 50,12

Tàn tật 6,36

Ốm đau 19,71

Không tìm được việc 0

Trang 46

Khác 12,79

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

3.9. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với tài sản của hộ

Bảng 3.13: Diện tích nhà ở bình quân và tình trạng nhà ở của hộ

Hộ nghèo Hộ không nghèo Chung

45,42 75,90 68,51 Diện tích nhà ở bình quân của hộ (m2)

Tình trạng nhà ở (%)

Nhà biệt thự 1,42 1,07 0,0

Nhà kiên cố khép kín 8,73 6,67 0,23

Nhà kiên cố không khép kín 7,76 5,96 0,33

Nhà bán kiên cố 69,98 69,98 69,98

Nhà tạm và khác (…) 12,12 16,33 29,46

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Trong các loại tài sản của hộ thì nhà ở là một tài sản có giá trị lớn và ảnh hưởng

đáng kể đến tình trạng nghèo của hộ. Theo kết quả nghiên cứu từ bảng 3.13 cho

thấy có sự chênh lệch khá lớn về diện tích nhà ở bình quân của nhóm hộ nghèo và không nghèo; cụ thể hộ nghèo chỉ có 45.42 m2 trong khi hộ không nghèo bình quân 75,90 m2 nhiều hơn 30,48 m2. Thêm nữa, nhà ở của nhóm hộ nghèo tập trung chủ

yếu là nhà bán kiên cố (chiếm 69,98%) và nhà tạm (chiếm 29,46), (xem thêm phụ

lục 12). Việc sống trong những nhà bán kiên cố, nhà tạm chật chội, dột nát vào mùa

mưa bão gặp phải rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sức khỏe, sinh hoạt chung của

gia đình đặc biệt trẻ em, người già và giá trị những căn nhà quá thấp nên cũng khó

để thế chấp vay vốn, đầu tư nâng cao thu nhập. Trong khi đó, hộ không nghèo có

các loại nhà biệt thự và kiên cố khép kín, một số còn ở nhà bán kiên cố, nhưng có

thể vì một lý do nào chưa xây nhà chứ không phải do không có khả năng làm nhà.

Trang 47

3.10. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ với diện tích đất sản xuất bình

quân

Các nghiên cứu của PPA cho thấy các hộ nghèo coi diện tích đất và chất lượng

đất là yếu tố quyết định đến mức sống (WB, 2000). Các hộ khác thường xem các hộ

nông thôn nghèo là những hộ có đất đai ít hoặc chất lượng kém, nên không đáp ứng

nhu cầu tiêu dùng. Do đó, diện tích đất càng lớn người dân càng dễ dàng ứng dụng

nhanh những tiến bộ kỹ thuật, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng phù hợp với điều kiện

khí hậu, thổ nhưỡng. Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá nông

thôn càng làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm xuống. Tỷ lệ hộ mất đất, không

có đất ngày càng cao gây khó khăn không nhỏ tới thu nhập và ảnh hưởng lớn tới

mức sống của người dân.

Bảng 3.14: Tỷ lệ có đất, diện tích đất sản xuất bình quân, loại đất và thu nhập

từ đất phân theo hộ

H ộ nghèo Hộ không nghèo Chung

Tỷ lệ hộ có đất (%) 65,74 67,20 66,85

18.083 12.843 14.113 Diện tích đất sản xuất bình quân của hộ (1000 m2)

Loại đất (%)

Đất trồng cây hàng năm 87,91 54,87 63,68

Đất trồng cây lâu năm 43,52 64,81 59,13

Đất lâm nghiệp 8,94 1,22 3,28

Đất mặt nước 3,79 3,80 3,80

Đất đồng cỏ 0 0,48 0,36

Đất thổ cư 43,14 33,53 36,09

Đất du canh 0 0 0

Khác 1,36 0,38 0,64

Thu nhập từ đất (ngàn đồng/ năm)

Thu nhập từ trồng lúa 5.568 7.606 6.696

Trang 48

Thu nhập từ trồng cây hàng năm 694 618 645

Thu nhập từ cây ăn quả 3.920 22.873 17.807

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Bảng 3.14 cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ có đất

và không đất giữa hộ nghèo và không nghèo (xem thêm phụ lục 13). Bởi lẽ Tây

Nguyên là một vùng rộng lớn, mật độ dân số thưa nên hầu hết người dân đều có đất.

Tuy nhiên, việc có đất chưa thể kết luận là hộ giàu hay nghèo vì còn tùy thuộc vào

khả năng sử dụng nguồn lực này để tăng thu nhập cho hộ. Hơn nữa, diện tích đất sản xuất bình quân của một hộ nghèo cao hơn 5.240 m2 so với hộ không nghèo vì

nhiều lý do khác nhau; có thể cầm cố, cho hộ khác thuê hoặc cho thuê dài hạn, xảy

ra tình trạng là do một biến động nào đó từ gia đình. Cũng có thể do họ không thích

làm nông nghiệp, giao đất cho người khác để có thời gian đi làm những việc khác

phù hợp hơn như buôn bán nhỏ, kinh doanh thương mại, làm công trình trong ngành

xây dựng, làm công nhân, hoặc di chuyển đến vùng khác làm thuê.

Ngoài ra, diện tích đất hàng năm, đất lâm nghiệp và đất thổ cư của những hộ

nghèo cao hơn hộ không nghèo và đất trồng cây lâu năm của hộ không nghèo lại

cao hơn hộ nghèo khoảng 21,29%. Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt trong thu

nhập từ đất đai giữa hai nhóm nghèo và không nghèo. Nguồn thu nhập chính của hộ

gia đình ở Tây Nguyên dựa vào thu nhập trồng lúa, thu nhập từ cây ăn quả và cây

hàng năm. Tuy nhiên, hai nguồn thu nhập chính là thu nhập từ trồng lúa và cây ăn

quả của hộ gia đình nghèo lại quá thấp so với hộ không nghèo. Điều này cho thấy

khả năng sử dụng đất của hộ nghèo còn kém hiệu quả, kinh nghiệm, kiến thức và

việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất sẽ góp phần thay đổi

đáng kể thu nhập trong sản xuất nông nghiệp.

Bảng 3.15: Diện tích đất sản xuất trung bình của hộ phân theo khu vực (1000m2)

H ộ nghèo Hộ không nghèo Chung

Thành thị 4.112 6.259 6.128

Trang 49

Nông thôn 19.170 16.487 17.333

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Nếu phân tích theo khu vực thành thị và nông thôn sẽ thấy rõ hơn. Đối với khu vực nông thôn diện tích đất bình quân của một hộ là 17.333 ngàn m2/ hộ cao hơn

gần 3 lần một hộ ở khu vực thành thị. Đối với thành thị, nhóm hộ nghèo có diện tích

đất bình quân chỉ bằng 65,69% so với nhóm hộ không nghèo. Như vậy, đối với khu

vực thành thị, diện tích đất có tác động lớn đến tình trạng nghèo của hộ.

3.11. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ với khả năng tiếp cận tín dụng

Bảng 3.16: Khả năng tiếp cận và trị giá khoản vay của hộ

Hộ nghèo Hộ không nghèo Chung

Tiếp cận được vốn vay tín dụng (%) 46,45 44,92 45,29

Trị giá khoản vay (ngàn đồng) 5.814 18.710 15.584

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Cũng như những vùng khác ở Việt Nam, vốn vay là nhu cầu quan trọng của hộ

gia đình ở Tây Nguyên, nhất là các hộ nghèo. Có đủ vốn, các hộ gia đình nghèo có

thể tìm cơ hội sản xuất hay buôn bán mà vượt lên thoát nghèo. Trước đây, hầu như

chỉ có người giàu mới có cơ hội vay ngân hàng. Hiện nay, người nghèo cũng có cơ

hội được vay vốn. Số liệu từ bảng thống kê 3.16 cho thấy khả năng tiếp cận được

vốn vay giữa hộ nghèo và không nghèo không có sự chênh lệch đáng kể (xem thêm

phụ lục 14), tỷ lệ hộ không nghèo vay được vốn lại thấp hơn 1,53% so với hộ

nghèo. Tuy nhiên, khoản vay trung bình của một hộ nghèo chỉ có 5.814 ngàn đồng

thấp hơn 12.896 ngàn đồng so với hộ không nghèo. Điều đó cho thấy hộ nghèo có

phần khó khăn hơn trong việc vay những khoản vay lớn, vì trình độ xã hội thấp,

thiếu tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp giá trị thấp, khả năng tạo thu nhập ít; và

do đó họ khó có khả năng đầu tư vốn vào sản xuất nhằm tăng thu nhập để giảm

nghèo.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn vốn tín dụng chính thức rất quan trọng cho

cả người nghèo và người không nghèo. Bảng 3.17 cho thấy nguồn vốn vay của hộ

Trang 50

nghèo và không nghèo khá đa dạng. Có 27,83% hộ nghèo vay từ ngân hàng chính

sách, 15,67% vay từ ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, chỉ có 7,7%

nguồn vay từ người cho vay cá thể nhưng đây thường là những khoản vay với lãi

suất cao, đôi khi trở thành gánh nặng cho người nghèo; trong khi đó lãi suất ở

những ngân hàng thấp hơn nhiều. Điều này cho thấy hệ thống và cơ chế tín dụng

đến với người dân Tây Nguyên còn hạn chế, có nghĩa là một bộ phận lớn không vay

được nếu có nhu cầu, giá trị khoản vay không cao.

Bảng 3.17: Nguồn vốn vay của hộ (%)

Hộ nghèo Hộ không nghèo Chung

Ngân hàng chính sách 27,83 15,85 18,75

Ngân hàng NN & PTNT 15,67 22,59 20,91

Ngân hàng khác 0 4,69 3,55

Quỹ hỗ trợ việc làm 0 0,27 0,20

Tổ chức tín dụng 1,11 2,78 2,38

Tổ chức chính trị xã hội 3,53 3,95 3,85

Người cho vay cá thể 7,70 8,25 8,12

Bạn bè, họ hàng 15,10 15,33 15,27

Khác 2,34 4,67 4,10

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Mặt khác, nhiều người nghèo vay được số tiền vay quá ít, đôi khi làm cho hộ

thêm gánh nặng nợ nần và không thể có cách đầu tư hiệu quả. Do đó có tới 17,03%

hộ nghèo vay vốn để tiêu dùng, 9,89% hộ nghèo vay vốn để mua nhà và 8,31% vay

để mua sắm. Xét trên mục đích vay để đầu tư tài sản lưu động (34,34%), tài sản cố

định (24,09%) tập trung chủ yếu nguồn vốn vào sản xuất nông, lâm nghiệp (bảng

3.18). Vấn đề đặt ra là còn quá nhiều người nghèo khoảng 53,55% không tiếp cận

được nguồn tín dụng này sẽ gặp khó khăn trong sản xuất. Có thể đây là một nguyên

nhân khiến họ nghèo hơn những hộ khác.

Trang 51

Bảng 3.18: Mục đích sử dụng khoản vay của hộ (%)

Hộ nghèo Hộ không nghèo Chung

Đầu tư cho TSLĐ 34,34 40,23 38,75

Đầu tư cho TSCĐ 24,09 21,91 22,45

Trả nợ 2,43 10,94 8,80

Mua nhà 9,89 11,78 11,30

Cưới/ ma chay 1,02 1,05 1,05

Đi học 0 7,74 5,79

Chữa bệnh 3,74 10,34 8,68

Tiêu dùng 17,03 12,21 13,42

Ăn giáp hạt 3,55 0,89 1,56

Mua sắm 8,31 1,86 3,45

Nước sinh hoạt 0,50 0 0,13

Vệ sinh 1,22 1,93 1,75

Khác 1,05 5,58 4,44

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

3.12. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo với các đặc điểm hạ tầng cơ sở

Bảng 3.19: Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận được hạ tầng cơ sở, các dịch vụ và chi tiêu

bình quân của hộ theo cấp tỉnh (%)

Kon Gia Đắk Đắk Lâm Chung Tum Lai Lắk Nông Đồng

Tỷ lệ hộ nghèo (%) 37,22 44,09 16,94 6,58 16,99 24,1

Chi tiêu bình quân hộ/ 6.013 6.027 6.995 7.644 6.816 6.689 năm (ngàn đồng)

Tỷ lệ hộ tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ (%)

Đường ô tô đến thôn, 100 93,47 92,81 100 100 95,99 ấp

Trang 52

Đường ô tô đến xã 100 95,87 95,58 100 100 97,50

Nhà văn hóa xã 63,57 62,75 76,09 68,64 73,33 70,70

Công trình thủy lợi nhỏ 58,42 91,18 100 73,33 80,60 100

Điện 95,87 100 100 100 99,03 100

Nguồn nước mùa khô 81,17 74,75 68,12 100 65,84 72,64

Chợ xã/ liên xã 34,53 65,23 92,98 100 77,34 78,19

Trường học 92,30 79,36 96,31 100 83,82 89,19

Trạm y tế 38,73 68,62 76,56 66,75 57,86 65,93

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Theo các nghiên cứu trước về khả năng tiếp cận hạ tầng cơ sở cho thấy phần

lớn những hộ sống ở các xã, tỉnh không có hạ tầng cơ sở sẽ có tỷ lệ đói nghèo cao

hơn. Tuy nhiên, do vị trí địa lý lịch sử hình thành phát triển của Vùng có những đặc

thù nhất định nên nhìn chung cơ sở hạ tầng không có tương quan chặt đến tình trạng

nghèo của hộ gia đình ở các vùng. Bảng 3.19 cho thấy hầu như gần 100% các tỉnh

có đường ô tô đến xã, thôn, ấp, có điện, trường học; và tỷ lệ các tỉnh có các cơ sở hạ

tầng khác cũng khá cao. Song, cũng cần lưu ý thêm trong năm tỉnh của Tây Nguyên

thì nhìn chung hai tỉnh có tỷ lệ nghèo cao nhất là Kon Tum, Gia Lai; và cũng chính

hai tỉnh này có cơ sở hạ tầng kém hơn khác so với các tỉnh khác thông qua một số

chỉ tiêu ở bảng 3.19.

Trong các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng, nguồn nước đóng một vai trò quan trọng

trong việc giảm nghèo. Vì đặc trưng của Vùng là cao nguyên sản xuất nông nghiệp,

chủ yếu trồng cây hàng năm, cây ăn quả và cây lâu năm nên nguồn nước đóng góp

đáng kể vào việc giảm thiểu chi phí, nâng cao thu nhập và cải thiện tình trạng nghèo

của các hộ gia đình. Ngoài ra, kiểm định Chi – square khẳng định một lần nữa

không có sự liên hệ giữa tình trạng nghèo của hộ với khả năng tiếp cận cơ sở hạ

tầng (phụ lục 16)

Trang 53

3.13. Mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ với tỷ lệ di dân đến xã

Bảng 3.20: Nhóm thông tin liên quan đến di dân phân theo cấp tỉnh

Kon Gia Đăk Đăk Lâm Chung Tum Lai Lăk Nông Đồng

Tỷ lệ di dân (%) 0,73 0,82 0,89 3,53 0,95 1,08

Tỷ lệ hộ nghèo (%) 37,22 44,09 16,94 6,58 16,99 24,1

Chi tiêu bình quân trên

6.013 6.027 6.995 7.644 6.816 6.689 đầu người (ngàn

đồng/năm)

Diện tích xã bình quân 14.410 16.940 11.414 16.223 13.675 13.881 (ha)

Tỷ lệ tệ nạn xã hội ở xã (%)

Tệ nạn mại dâm 0 0 0 14,72 0 1,15

Tệ nạn trộm cắp 46,67 24,73 63,09 50,39 47,19 47,90

Thất nghiệp 10,55 25,12 17,89 35,39 22,32 21,40

Tỷ lệ xã ô nhiễm môi 61,29 15,42 63,09 49,36 64,58 51,45 trường (%)

Tỷ lệ đất của xã có giấy 58,92 52,46 61,84 54,83 74,44 62,16 chứng nhận (%)

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Từ kết quả kiểm định ban đầu ở phụ lục 17, tác giả nhận thấy không có sự khác

biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ di dân đến xã và tình trạng nghèo của hộ. Tuy

nhiên, theo WB (2004) cho rằng một phần ba số người di cư từ các tỉnh đến Tây

Nguyên là người dân tộc thiểu số; hơn một nửa trong số họ vẫn nghèo. Do đó, tình

trạng di dân không chỉ góp phần làm gia tăng nghèo đói mà còn làm tình trạng mất

an ninh, tệ nạn xã hội, xung đột giữa dân bản địa và dân di cư gia tăng. Từ bảng

3.20 cho thấy ở Đắk Nông có tỷ lệ di dân cao nhất trong Vùng vì nơi đây mật độ

dân số khá thưa và diện tích đất sản xuất khá lớn (thể hiện diện tích đất của xã tỉnh

Trang 54

này bình quân cao nhất 16.223 hecta) nên là mảnh đất tiềm năng cho những người

di cư. Chính vì vậy, Đắk Nông phải gánh chịu tỷ lệ các tệ nạn xã hội cao hơn hẳn

các tỉnh khác, điều này sẽ là một rào cản khá lớn cho việc giảm nghèo bền vững của

tỉnh và Vùng trong thời gian tới. Ngoài ra, tỷ lệ đất của xã có giấy chứng nhận tại

Gia Lai và Đắk Nông còn khá thấp so với các tỉnh khác. Do đó, chính quyền của hai

địa phương này cần có những chính sách thích hợp để cấp giấy chứng nhận đất cho

các hộ gia đình, nhằm giúp họ có nhiều cơ hội để thoát nghèo và cũng giảm thiểu

tình trạng căng thẳng, xung đột tranh giành đất đai giữa các hộ dân tại địa phương

với những người di cư từ nơi khác đến.

3.14. Kết quả ước lượng tham số mô hình logistic đ ánh giá tác động của các

nhân tố nghèo của Tây Nguyên

Bảng 3.21: Kết quả hồi quy logistic

Số quan sát = 578 Hồi quy logistic

Wald chi2(20) = 123,93

Prob > chi2 = 0,0000

Log pseudolikelihood = -1.096.981,7 Pseudo R2 = 0,6039

Biến phụ thuộc:

Giá Thống kê Hệ số hồi Độ lệch trị Hộ gia đình nghèo (có = 1) quy chuẩn Z P

Hằng số -3,2031 2,8669 -1,12 0,264

Biến độc lập

Tuổi chủ hộ (*) 0,2286 0,0928 2,46 0.014

Tuổi chủ hộ bình phương (*) -0,0022 0,0009 -2,45 0,014

Giới chủ 0,0562 0,6104 0,09 0,927

Dân tộc (*) -3,0013 0,4943 -6,07 0,000

Số năm đi học (*) -0,3877 0,0969 -4,00 0,000

Trang 55

Tỷ lệ phụ thuộc (*) 2,2079 1,0927 2,02 0,043

-0,4168 1,0815 -0,39 0,700 Có việc

-1,2696 0,6481 -1,96 0,050 Dịch vụ (*)

1,0948 0,6022 1,82 0,069 Nhà tạm (**)

Diện tích đất bình quân của hộ -0,1062 0,0781 -1,36 0,174

Mức vay bình quân hộ (**) -0,2958 0,1550 -1,91 0,056

-1,6478 0,6149 -2,68 0,007 Khu vực (*)

-1,2056 0,5840 -2,06 0,039 Kon Tum (*)

-1,2053 0,5199 -2,32 0,020 Đắk Lắk (*)

-2,7874 0,8700 -3,20 0,001 Đắk Nông (*)

-1,2346 0,6147 -2,01 0,045 Lâm Đồng (*)

Tỷ lệ di dân x đất bình quân xã 237,1453 69,9614 3,39 0,001 nhóm 3 (*)

Tỷ lệ di dân x tệ nạn mại dâm (**) 1,9429 1,0830 1,79 0,073

Tỷ lệ di dân x tệ nạn trộm cắp 0,5944 0,4723 1,26 0,208

Tỷ lệ di dân x tệ nạn thất nghiệp (**) 0,8851 0,4961 1,78 0,074

(*) mức ý nghĩa 5%, (**) mức ý nghĩa 10%

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Kết quả hồi quy từ mô hình logistic cho ta kết luận chính xác hơn những thảo

luận ban đầu dựa trên phân tích thống kê mô tả. Kết quả kiểm định Wald chi2 =

123,93 (Prob = 0,0000) cho thấy mức độ thích hợp của mô hình rất tốt.

Hệ số ước lượng của các biến độc lập mang dấu dương có nghĩa là khi tăng

thêm một đơn vị biến này (hay có thuộc tính này), thì sẽ làm tăng xác suất nghèo

của một hộ, trong điều kiện các biến khác không đổi. Ngược lại, các biến có hệ số

mang dấu âm là những yếu tố làm giảm xác suất nghèo của một hộ, nếu tăng thêm

một đơn vị (hay có thuộc tính) của biến này, trong điều kiện cố định tất cả các biến

còn lại.

Từ mô hình ước lượng cho thấy các biến như: tuổi chủ, tuổi chủ bình

phương, dân tộc, số năm đi học của chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc, làm trong ngành dịch

Trang 56

Để phân tích tác động của từng nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của

hộ, tác giả tiến hành mô phỏng xác suất nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên như

sau:

Bảng 3.22: Mô phỏng xác suất nghèo của hộ gia đình (%)

Xác suất nghèo được

Biến phụ thuộc: ước tính khi biến cố độc Hệ số EXP(B) hồi quy lập thay đổi một đơn vị Hộ gia đình nghèo (có=1)

và xác suất ban đầu là:

10% 20% 30% 40%

Các biến độc lập

Tuổi chủ hộ 0,2286 1,195 12 23 34 44

Tuổi chủ hộ bình phương -0,0022 0,998 10 20 30 40

Dân tộc -3,0013 0,097 1 2 4 6

Số năm đi học của chủ hộ -0,3877 0,740 8 16 24 33

Tỷ lệ phụ thuộc 2,2079 5,577 38 58 71 79

Ngành dịch vụ -1,2696 0,372 4 9 14 20

Nhà tạm 1,0948 2,345 21 37 50 61

8 17 25 35 Mức vay bình quân của hộ -0,2957 0,794

Tỷ lệ di dân x đất xã bq 3 237,1453 2,178237,15 100 100 100 100

Tỷ lệ di dân x tệ nạn mại dâm 1,9429 4,537 34 53 66 75

Tỷ lệ di dân x thất nghiệp 0,8851 1,992 18 53 46 57

Khu vực -1,6478 0,277 3 6 11 16

Kon Tum -1,2056 0,391 4 9 14 21

Trang 57

Đắk Lắk -1,2053 0,391 4 9 14 21

Đắk Nông -2,7874 0,114 1 3 5 7

Lâm Đồng -1,2346 0,383 4 9 14 20

Nguồn: Ước tính của tác giả bằng phần mềm STATA và Microsoft Excel dựa trên

VHLSS 2008

Kết hợp kết quả hồi quy và bảng 3.22 mô tả ảnh hưởng độc lập của từng

nhân tố đến xác suất nghèo của hộ gia đình cho kết quả cụ thể như sau: Giả sử xác

suất nghèo ban đầu của một hộ ở vùng nghiên cứu là 10%. Trong điều kiện các yếu

tố khác không đổi, chủ hộ có tuổi càng cao thì xác suất của hộ nằm dưới ngưỡng

nghèo sẽ càng lớn. Khi tuổi chủ tăng, ban đầu xác suất nghèo của hộ sẽ tăng lên,

đến một lúc nào đó xác suất nghèo sẽ giảm đi; nếu số năm đi học trung bình của chủ

hộ tăng thêm một năm thì xác suất nghèo của hộ giảm xuống 8%. Nếu tăng tăng

thêm một thành viên không tạo ra thu nhập trong hộ, sẽ làm tăng xác suất nghèo của

hộ lên 38%. Tương tự, nếu mức vay bình quân của hộ tăng thêm 1 triệu đồng thì

xác suất nghèo của hộ giảm xuống còn 8%.

Ngoài ra, với điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu chủ hộ là người Kinh

thì xác suất nghèo của hộ chỉ còn 1%. Như vậy, xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của

hộ gia đình dân tộc thiểu số cao gấp 10 lần so với hộ gia đình người Kinh. Bên cạnh

đó, loại nghề nghiệp chính của hộ cũng đóng góp đáng kể đến việc giảm nghèo của

hộ. Xác suất nghèo của hộ giảm xuống chỉ còn 4% nếu chủ hộ làm việc trong ngành

dịch vụ.

Trong các nguồn tài sản của hộ, nhà cửa là loại tài sản có giá trị tương đối

lớn, không chỉ ảnh hưởng tới thu nhập của hộ mà còn tác động không nhỏ đến sức

khỏe, tâm lý và nghề nghiệp của các thành viên trong hộ. Trong điều kiện các yếu tố

khác không đổi, nếu hộ sống trong nhà tạm thì xác suất nghèo của hộ sẽ tăng lên

21%.

Một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng nghèo đói ở

Tây Nguyên thêm trầm trọng là tình trạng di dân. Theo các nghiên cứu trước, di dân

ảnh hưởng không chỉ đến thu nhập, đất đai, môi trường, và còn ảnh hưởng tình

Trang 58

trạng an ninh xã hội. Xác suất nghèo của hộ gia đình sẽ tăng lên 100% nếu tình

trạng di dân tác động mạnh đến việc phân chia diện tích đất đai bình quân của xã và

có gây ra tình trạng xung đột, tranh chấp đất đai giữa người di dân và người dân bản

địa. Khi tỷ lệ di dân đi kèm với nó là tệ nạn mại dâm gia tăng sẽ gây ảnh hưởng đến

hạnh phúc của một số gia đình, bệnh tật gia tăng, người nam trong gia đình không

lo làm ăn nên xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của hộ sẽ tăng lên 34%. Tuy Tây

Nguyên là một vùng đất rộng, đầy tiềm năng và dân cư thưa thớt nhưng nếu tỷ lệ di

dân đến vùng này quá đông sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng việc làm của cả

người dân bản địa và người di dân. Bởi lẽ Tây Nguyên là một vùng chuyên trồng cà

phê, cao su, tiêu, điều, rau và cây ăn quả nên có tính mùa vụ rất cao. Do đó, vào

những mùa thu hoạch, Vùng sẽ cần rất nhiều lao động, song sau đó khi qua mùa thu

hoạch chính thì tình trạng lao động dôi dư tạm thời trong nông nghiệp sẽ góp phần

làm tăng tỷ lệ thất nghiệp và làm xác suất nghèo tăng lên 18% so với ban đầu.

Theo WB (2005) khoảng cách địa lý cũng góp phần làm tình trạng nghèo đói

gia tăng. Với những đặc điểm tương đồng nhau, xác suất nghèo của hộ sẽ giảm còn

3% nếu hộ sống ở thành thị, và so với Gia Lai, nếu một hộ sống ở Kon Tum, Đắk

Lắk hoặc Lâm Đồng thì xác suất nghèo của hộ sẽ giảm đi 4%, và nếu ở Đắk Nông

thì xác suất này sẽ chỉ còn 1%.

Như vậy, trong tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của hộ và

có ý nghĩa thống kê thì nhân tố tỷ lệ số người phụ thuộc trong hộ, tỷ lệ di dân tác

động lên diện tích đất đai bình quân tính trên đầu người của xã và tệ nạn mại dâm

có ảnh hưởng mạnh đến khả năng nghèo của hộ gia đình. So với các vùng khác, hộ

nghèo Tây Nguyên cũng có những đặc trưng giống nhau như: tuổi chủ hộ, dân tộc,

số năm đi học, tỷ lệ phụ thuộc, việc làm của hộ. Tuy nhiên, vẫn có những nhân tố

khác biệt làm nên nét đặc trưng của người nghèo Tây Nguyên đó là: tỷ lệ phụ thuộc

tác động mạnh đến khả năng nghèo của Tây Nguyên nhưng ở vùng ven biển

ĐBSCL (Trương Thanh Vũ, 2007), vùng biên giới Tây Nam (Lê Thanh Sơn, 2008)

đều không chịu tác động bởi nhân tố này.

Trang 59

Ngoài ra, giới chủ, có việc, diện tích đất sản xuất bình quân của hộ không

ảnh hưởng đến khả năng rơi vào tình trạng nghèo của hộ ở Tây Nguyên trong khi đó

nó lại là đặc điểm gây ra nghèo cho các hộ gia đình ở Việt Nam (BCPTVN, 2000),

miền Trung (RPGA, 2003), miền núi phía Bắc (Ford, 2004), vùng ven biển miền

ĐBSCL (Trương Thanh Vũ, 2007) và vùng biên giới Tây Nam (Lê Thanh Sơn,

2008). Như đã nói ở trên, Tây Nguyên là vùng đất rộng người thưa, nên hầu hết mọi

hộ gia đình ở Tây Nguyên đều có đất canh tác. Do đó, ở Tây Nguyên việc sử dụng

nguồn lực này sao cho có hiệu quả có ý nghĩa hơn nhiều so với việc sở hữu bao

nhiêu đất đai.

Không những thế, nghiên cứu cũng phát hiện ra nhiều nhân tố mới ảnh

hưởng đến tình trạng nghèo của hộ, chẳng hạn: tỷ lệ di dân tác động rất mạnh đến

tình trạng nghèo của hộ, thông qua việc ảnh hưởng đến diện tích đất bình quân trên

đầu người của xã và tệ nạn mại dâm, thất nghiệp mà trong các nghiên cứu trước của

RPGA, PTF (2003), BCPTVN (2004) hay Đặng Nguyên Anh (2005) chỉ mới đề cập

đến nguyên nhân, không đi vào phân tích cụ thể và vấn đề này cũng chưa được đề

cập trong các nghiên cứu trước. Hơn nữa, loại ngành dịch vụ, mức vay tính bình

quân cho một thành viên của hộ, khu vực, các tỉnh trong Vùng cũng góp phần đáng

kể đến tình trạng nghèo của hộ song lại chưa được đề cập hay phân tích chi tiết theo

mô hình định lượng trong các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam.

Thông qua phân tích mô tả và định lượng mô hình nghiên cứu, tác giả xác

định nhóm nhân tố ảnh hưởng đến nghèo của hộ gia đình ở Tây Nguyên bao gồm:

tuổi chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc, nhà tạm, tỷ lệ di dân tác động thuận chiều đến tình

trạng nghèo của hộ; dân tộc, số năm đi học, hoạt động trong ngành dịch vụ, mức

vay bình quân của hộ, khu vực, tỉnh tác động ngược chiều, tức là làm giảm xác suất

nghèo. Tuy nhiên, trong nhóm nhân tố trên thì tỷ lệ số người phụ thuộc trong hộ, tỷ

lệ di dân tương tác với diện tích đất xã bình quân theo hộ và tệ nạn mại dâm có ảnh

hưởng khá mạnh đến khả năng nghèo của hộ gia đình.

Trang 60

Chương 4: KẾT LUẬN

Bằng phương pháp thống kê mô tả và định lượng, kết quả nghiên cứu ở

chương ba cho thấy tình trạng nghèo đói của Tây Nguyên chịu ảnh hưởng bởi các

yếu tố sau: thành phần dân tộc, tỷ lệ người phụ thuộc, số năm đi học của chủ hộ,

loại công việc của chủ hộ, tình trạng nhà ở, mức vay bình quân của hộ, tình trạng di

dân, khu vực và các tỉnh khác nhau trong Vùng. Tuy nhiên, nguồn lực cho chính

sách giảm nghèo có hạn, do đó chính quyền nên ưu tiên tập trung nguồn lực cho

giáo dục đặc biệt là hỗ trợ giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số, đa dạng hóa

ngành nghề phi nông nghiệp, chính sách chăm lo đời sống cho người dân tộc nhằm

giúp người dân thoát nghèo và chống tái nghèo một cách bền vững.

Việc làm

Người nghèo Tây Nguyên, đặc biệt là người dân tộc thiểu số có trình độ văn

hóa cũng như trình độ chuyên môn hạn chế nên cơ hội việc làm rất xa vời với họ.

Để tạo việc làm cho người lao động nghèo, ngoài nỗ lực tìm kiếm việc làm của mỗi

bản thân hộ gia đình thì chính quyền địa phương cần tích cực thu thút đầu tư phát

triển các ngành giải quyết nhiều lao động mà không cần trình độ tay nghề cao, phát

triển các ngành nghề truyền thống tận dụng nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa

phương (chế biến cà phê, tiêu, điều, chè, hoa, rau quả và các nguyên liệu khác), phát

triển du lịch (tận dụng lợi thế đặc trưng của vùng Tây Nguyên với nhiều núi, thác và

cao nguyên Lâm Đồng) và các làng nghề truyền thống (tranh, thêu, thủ công mỹ

nghệ, đồ làm từ thổ cẩm và những làng nghề khác) nhằm giải quyết lao động nhàn

rỗi trong nông nghiệp góp phần gia tăng thu nhập; giúp người dân phát triển thị

trường tiêu thụ sản phẩm nông sản phẩm (cà phê, tiêu, điều, chè, cao su, hoa, rau củ

quả) và sản phẩm truyền thống sẵn có (đồ làm bằng thổ cẩm, cà phê, rượu cần và

các sản phẩm khác).

Chính quyền địa phương nên chú trọng phát triển các ngành dịch vụ hỗ trợ

cho nông nghiệp các các ngành dịch vụ phi nông nghiệp, làng nghề ở nông thôn

nhằm tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân nghèo. Ngoài ra, cũng cần phải phát

triển mạng lưới dịch vụ nông nghiệp từ dịch vụ tín dụng, bảo hiểm, cung cấp vật tư,

Trang 61

thiết bị, máy móc, cung cấp hàng tiêu dùng, chế biến nông lâm sản cung cấp trong

nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần tạo động lực kinh tế

để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như: có chính sách hợp lý về tiền lương, về

giáo dục đào tạo, bố trí và sử dụng thỏa đáng lực lượng lao động, hạ thấp tỷ lệ sinh

để giảm sức ép tăng dân số và lao động quá nhanh. Chính việc tổng hợp các yếu tố

đó giúp cho người lao động tự hoàn thiện mình, để nâng cao chất lượng lao động và

thu nhập.

Số người phụ thuộc

Số người phụ thuộc cao sẽ là gánh nặng cho hộ, và đẩy hộ vào con đường

nghèo khó, khốn cùng. Số người phụ thuộc cao do hai nguyên nhân chủ yếu: gia

đình đông con, hoặc do bệnh tật, tai nạn giao thông, tai nạn lao động. Để giảm số

người phụ thuộc, Nhà nước cần quan tâm đến công tác kế hoạch hóa gia đình như:

đẩy mạnh tuyên truyền, có biện pháp khuyến khích hữu hiệu trong công tác này

(như ưu tiên cho vay vốn những hộ nghèo ít con, có chính sách khen thưởng, tuyên

dương những hộ thực hiện đúng công tác kế hoạch hóa gia đình).

Công tác kế hoạch hóa gia đình là vấn đề lâu dài. Trước mắt, đối với những

hộ đông con, đang rơi vào hoàn cảnh khó khăn, chính quyền địa phương cần có

chính sách hỗ trợ họ, ưu tiên tạo việc làm cho người lao động thuộc diện xóa đói

giảm nghèo. Xa hơn nữa, khi kinh tế trong vùng phát triển nhanh, tạo điều kiện cho

người nữ có nhiều cơ hội trong công việc, vừa tạo thêm thu nhập cho gia đình, vừa

tăng thêm hiểu biết của người phụ nữ, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình.

Dân tộc

Người dân tộc khai phá nhiều đất nhưng hầu hết chưa được cấp quyền sử

dụng đất, kỹ năng canh tác kém nên năng suất thấp, thiếu việc làm và thu nhập thấp

là những hệ quả thường trực. Điều đáng lo ngại là một bộ phận lớn người dân tộc

chặt cây, phá rừng, lấy củi hoặc đốt than đang xảy ra một cách nghiêm trọng tại Tây

Nguyên. Người dân tộc ít học nên khó khăn hơn trong việc tiếp cận thông tin, tích

lũy kiến thức và kết quả cuối cùng là thiếu kỹ năng lao động và nhận thức kém của

nhóm người này. Ngày nay, đa số người dân tộc thiểu số có thể nói và hiểu tiếng

Trang 62

Kinh nhưng phát âm không chuẩn. Điều này khiến cho họ hạn chế giao tiếp với

người Kinh và tạo nên sự kỳ thị của người Kinh đối với họ.

Để tránh bị tụt hậu quá xa và xóa đi sự cách biệt, việc quan trọng đầu tiên

phải làm là nhóm dân tộc thiểu số cần được trang bị kiến thức và trình độ học vấn

nhiều hơn. Riêng việc đến trường, chín quyền địa phương phải có thêm những

khuyến khích để trẻ em người dân tộc thiểu số có thể đến trường nhiều hơn, khuyến

khích những giáo viên dân tộc về dạy học cho cộng đồng mình, vì nhờ lợi thế nắm

được hai ngôn ngữ nên họ sẽ dễ truyền đạt, giúp người học dễ nhớ và nhớ lâu hơn.

Chính quyền địa phương cũng cần xem xét dành kinh phí để cải thiện và mở thêm

những trường nội trú dân tộc, tổ chức đào tạo nghề tại địa phương cho con em các

gia đình nghèo, trẻ em gái và trẻ em tàn tật.

Nhằm giúp các hộ dân tộc thiểu số có thể được chăm sóc sức khỏe tốt hơn,

chính quyền địa phương cần tăng thêm số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán

bộ y bác sĩ, dịch vụ y tế. Ngoài ra, việc liên kết với các bệnh viện lớn trong cả nước,

mở thêm nhiều đợt khám, chữa bệnh miễn phí cho các hộ dân tộc nghèo, tuyên

truyền kiến thức, cải thiện nhận thức của người dân tộc, đặc biệt là người nghèo về

tầm quan trọng của kế hoạch hóa gia đình là điều hết sức cần thiết và cấp bách.

Bênh cạnh đó, việc làm là một trong những nhân tố quan trọng giúp giảm

nghèo bền vững, do đó chính quyền cũng nên quan tâm hỗ trợ kiến thức trồng trọt,

chăn nuôi, kỹ năng làm ăn phù hợp với vùng sinh sống và văn hóa của người dân

tộc Tây Nguyên. Hơn nữa, cần tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số có thể sống

hòa đồng, học tập với người Kinh thông qua việc tổ chức các lễ hội truyền thống,

hội thi thể thao, giao lưu văn nghệ. Áp dụng di dân đối với người dân tộc thiểu số

sống rải rác ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, đường giao thông rất khó khăn, đến khu

vực định canh mới gần vùng dân cư đang sống để từng bước hội nhập với cuộc sống

cộng đồng. Khôi phục các làng nghề truyền thống của người dân tộc như dệt thổ

cẩm, tạo công ăn việc làm ổn định.

Trang 63

Giáo dục

Theo kết quả thảo luận, khi số năm đi học của chủ hộ tăng lên thì tỷ lệ nghèo

giảm đi. Người dân Tây Nguyên (đặc biệt là người dân tộc) do những đặc điểm tự

nhiên và những phong tục tập quán nên chi tiêu cho giáo dục của người dân Tây

Nguyên rất thấp, trình độ học vấn thấp, dẫn đến thu nhập thấp, và tỷ lệ nghèo khá

cao. Bên cạnh đó tình trạng giáo dục kém, đã dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực

của Vùng bị hạn chế, trình độ học vấn thấp làm cho quá trình tiếp cận khoa học kỹ

thuật khó khăn, thậm chí không thể tiếp cận được. Vì vậy, Nhà nước nên miễn toàn

bộ học phí và đóng góp xây dựng trường cho con em các hộ nghèo. Một hộ được

xếp vào hạng nghèo thì thường “chạy ăn từng bữa” nên không thể có thêm một

khoản phí nào để lo cho con đi học. Trong điều kiện như vậy, việc cho con đi sự nỗ

lực lớn của họ. Thậm chí nếu nguồn lực cho phép thì cũng nên cấp sách giáo khoa

miễn phí cho con em các hộ nghèo, hay chí ít cũng nên cấp những đầu sách quan

trọng.

Tín dụng

Cần phải đa dạng nguồn vốn vay, mức cho vay cao hơn và kết hợp cho vay

với hỗ trợ phương thức sản xuất, chẳng hạn: khi các hộ gia đình nghèo vay tiền để

sản xuất nông lâm nghiệp, các ngân hàng chính sách có thể cung cấp cây giống,

phân bón, thuốc trừ sâu (phải đảm bảo chất lượng) và được quy ra tiền. Tránh

trường hợp ngân hàng đưa cho họ số tiền mặt lớn, vì khi họ có số tiền lớn, họ

thường sử dụng vào các mục đích khác, sẽ làm nguồn vốn vay không hiệu quả.

Ngoài ra, thời hạn vay phải được tính toán sao cho phù hợp với tình hình thực tế tại

địa phương, thông thường cây ngắn ngày, cây dài ngày trên năm năm, đồng thời

việc thu nợ phải tiến hành sau khi thu hoạch một thời gian, tạo điều kiện cho người

dân bán được sản phẩm với giá cao.

Thủ tục cho vay vốn cần đơn giản hóa, người nghèo cần phải có những thông

tin tối thiểu về thủ tục vay, trang bị những kiến thức thực hiện quy trình vay vốn, có

cơ chế phù hợp về mức vốn vay và vay vốn thêm mà không cần phải thế chấp, chỉ

cần xác nhận của chính quyền địa phương. Rút ngắn thời hạn cho vay, mở rộng vốn

Trang 64

ngắn hạn cho vay để người sản xuất kịp thời vụ. Quản lý và điều hành nguồn vốn,

từ đó khắc phục nguồn vốn tồn đọng và tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn, cải tiến

quy trình thẩm định để cho vay đến từng hộ có hiệu quả.

Để có khắc phục rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các hộ như: bão lụt,

dịch bệnh trong chăn nuôi, ngân hàng cần có một quỹ bảo hiểm (có thể trích từ lãi

suất). Nguồn vốn vay được xóa nếu gia súc bị dịch bệnh hay sản xuất thực sự bị rủi

ro cho việc bảo hiểm cây trồng, hoặc giúp người dân biết làm ăn sinh lãi, bao tiêu

sản phẩm.

Tình trạng di dân

Nguyên nhân chính của dòng nhập cư vào vùng Tây Nguyên là nguồn tài

nguyên đất bazan màu mỡ sẵn có để trồng cà phê, cao su, tiêu, điều và các câu công

nghiệp khác. Những năm cà phê được giá, nhiều nông dân trở nên giàu có. Giấc mơ

giàu có đã cuốn hàng ngàn người nghèo từ những vùng đất nghèo khác đến định cư

ở Tây Nguyên. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên quá tải bởi số lượng dân di cư

ngày tăng và trở nên thoái hóa nhanh chóng. Cơ sở hạ tầng nghèo nàn, hạn hán, lũ

lụt và nhiều vấn đề xã hội gây ra bởi những người dân di cư đã đặt kế hoạch phát

triển kinh tế xã hội của Tây Nguyên trước nguy cơ bị phá sản. Không những thế,

khoảng cách về thu nhập giữa người giàu và người di cư nghèo tăng lên nhanh

chóng. Phần lớn những hộ giàu là những hộ đã định cư ở Tây Nguyên một thời gian

dài. Vì vậy, họ đã sở hữu những trang trại lớn. Đất đai ngày càng tăng giá khiến cho

dân di cư mới đến khó có thể mua được. Họ phải làm thuê kiếm sống. Ngoài ra,

những người dân không có đất rất khó vay được tiền của ngân hàng, vì ngân hàng

đòi sổ đỏ để thế chấp. Vì vậy, chính quyền địa phương cần ban hành đầy đủ quy chế

quản lý cư trú đối với người nhập cư và tăng cường các dịch vụ nhà ở, văn hóa xã

hội, y tế nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân nhập cư; đảm bảo cho dân

nhập cư thực hiện đăng ký tạm trú, tạm vắng, chấp hành nghiêm các quy định của

pháp luật, giữ gìn an ninh trật tự, vệ sinh môi trường; tạo điều kiện thuận lợi về mặt

xã hội để người nhập cư sớm hòa nhập với cộng đồng, có nơi ở nhất định, khuyến

khích tham gia sinh hoạt đoàn thể, sinh hoạt ấp, tổ dân phố và tăng cường các hoạt

Trang 65

động vui chơi giải trí lành mạnh phù hợp với lứa tuổi thanh thiếu niên; chú trọng

công tác giáo dục sức khỏe giới tính, kế hoạch hóa gia đình nhằm hạn chế các tệ

nạn xã hội.

Chính sách giảm nghèo cho các tỉnh và khu vực thành thị - nông thôn

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo cũng có thể đánh giá ở

cấp độ tỉnh dưới cấp độ vùng. Chính quyền một số tỉnh đã có quyết tâm hơn so với

các tỉnh khác trong cải cách, thu hút đầu tư, thúc đẩy các ngành phi nông nghiệp

phát triển. Đồng thời cũng có sự khác nhau trong quá trình lập kế hoạch, dự toán

ngân sách, trong hiệu quả thực hiện các dịch vụ xã hội giữa các tỉnh. Trên thực tế,

những tiến bộ không đồng đều trong cải cách cơ cấu, xã hội và quản lý nhà nước

giữa các tỉnh là một trong những điểm nổi bật trong quá trình chuyển đổi nền kinh

tế của Việt Nam. Kết quả là kinh nghiệm giảm nghèo giữa các tỉnh cũng rất đa

dạng.

Các chỉ số phát triển kinh tế xã hội ở cấp tỉnh là một đầu vào quan trọng

trong quá trình triển khai chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo đến các tỉnh. Việc

phân cấp ngày càng mạnh hơn có hàm ý rằng nguồn lực của địa phương có vai trò

ngày càng tăng trong phần chi tiêu công ở cấp địa phương. Khả năng của các chính

quyền địa phương trong việc tăng trưởng và giảm nghèo phụ thuộc rất nhiều vào

việc sử hiệu quả các nguồn lực tại địa phương. Vì vậy, chính phủ cần xác định một

tầm nhìn, xác định mục tiêu tương ứng, hoạch định chính sách, sắp xếp nguồn lực,

giám sát và đánh giá kết quả, tham vấn một cách có hệ thống chương trình tăng

trưởng và xóa đói giảm nghèo cho Vùng và có chính sách ưu tiên phân bổ nguồn

lực cho ba tỉnh có tỷ lệ nghèo cao nhất của Vùng.

Như đã phân tích ở trên, mức sống và tỷ lệ nghèo của người dân thành thị và

nông thôn có một khoảng cách khá xa, điều kiện cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận

các điều kiện sống của người dân ở nông thôn cũng kém hơn rất nhiều so với thành

thị. Mặt khác, đa số các hộ sống ở nông thôn đều làm nông nghiệp, không thể trong

thời gian ngắn đưa họ ra khỏi nông nghiệp. Như vậy, để nâng cao đời sống các hộ

nông dân nhất là hộ nghèo, giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn cần phải:

Trang 66

đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp – nông thôn, chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ mới vào sản

xuất, chú trọng công tác khuyến nông, lâm nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động

theo hướng phi nông nghiệp.

Từ kết quả nghiên cứu ở chương ba, trong chương bốn tác giả gợi ý một số

giải pháp giảm nghèo, tập trung vào các nhóm nhân tố như: chú trọng phát triển các

ngành dịch vụ, đẩy mạnh tuyên truyền công tác kế hoạch hóa gia đình, hỗ trợ giáo

dục đặc biệt cho người nghèo và người dân tộc thiểu số, hoàn thiện phương thức tín

dụng, quản lý, giám sát tình trạng di dân, đầu tư phát triển nông thôn và có chính

sách phân bổ nguồn lực ưu tiên cho một số tỉnh nghèo nhất của Vùng.

Giới hạn của đề tài và hướng nghiên cứu mở rộng

Thứ nhất, đối tượng nghiên cứu của đề tài là hộ gia đình mà đại diện là chủ

hộ nên chưa bao quát hết những đặc điểm riêng biệt của các thành viên trong hộ.

Thứ hai, tình trạng nghèo chịu tác động bởi nhiều nhân tố, nhưng nghiên cứu

chỉ tập trung vào các nhân tố có thể định lượng được, còn những nhân tố khác như:

tập quán, văn hóa, tâm lý ỷ lại, nỗ lực thoát nghèo của người dân, sự biến động giá

nông sản phẩm, rủi ro (thiên tai, dịch bệnh) hay tác động của hội nhập quốc tế (như

việc gia nhập WTO) đến tình trạng nghèo của Vùng vẫn chưa đưa vào nghiên cứu.

Thứ ba, chuẩn nghèo của TCTK chứa đựng yếu tố không gian và thời gian,

nên cần có những nghiên cứu mới trong giai đoạn sắp tới khi TCTK đưa ra một

chuẩn nghèo mới trong tình hình kinh tế - xã hội Tây Nguyên có nhiều thay đổi.

Thứ tư, kết quả nghiên cứu của đề tài này chủ yếu xuất phát từ phương pháp

định lượng, mô tả những nhân tố tác động đến khả năng rơi vào ngưỡng nghèo và

không nghèo của hộ gia đình mà chưa phân tích sâu nguyên nhân của từng nhân tố

tác động đến nghèo. Vì vậy, đòi hỏi cần có nhiều phương pháp tiếp cận khác như:

có sự tham gia của cộng đồng dân cư, các cấp chính quyền địa phương và các tổ

chức phi chính phủ khi nghiên cứu về nghèo

Trang 67

Kết luận

Tình trạng nghèo ở Tây Nguyên vẫn còn khá nghiêm trọng, tỷ lệ hộ nghèo

cao. Từ những thông tin của bộ dữ liệu VHLSS2008, tác giả thực hiện nghiên cứu

các nhân tố chính ảnh hưởng đến đói nghèo của hộ gia đình bao gồm: tuổi chủ hộ,

tỷ lệ phụ thuộc , nhà tạm, tỷ lệ di dân tác động thuận chiều; nghĩa là làm tăng xác

suất nghèo; dân tộc, số năm đi học, ngành dịch vụ, mức vay bình quân của hộ, khu

vực, tỉnh tác động nghịch chiều, tức là làm giảm xác suất nghèo. Vì vậy, để thực

hiện công tác giảm nghèo một cách có hiệu quả, các cấp chính quuyền cần chú ý

một số vấn đề sau như: Tuyên truyền và thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa gia

đình, đặc biệt cho đồng bào dân tộc thiểu số; đầu tư và hỗ trợ giáo dục cho người

nghèo, đặc biệt dân tộc thiểu số; chú trọng phát triển các ngành phi nông nghiệp;

nâng cao hiệu quả vay vốn tín dụng (đa dạng nguồn vay, nâng cao mức vay, kéo dài

thời hạn cho vay, kết hợp cho vay với hỗ trợ sản xuất) và quản lý, kiểm soát tình

trạng di dân.

Phụ lục 1: Các chỉ số đo lường nghèo đói

Sau khi xác định được các nhóm chi tiêu của hộ gia đình, có thể tính toán

một số chỉ tiêu thống kê phản ánh quy mô, mức độ và tính nghiêm trọng của

nghèo đói. Những chỉ tiêu thống kê này bao gồm: (i) Chỉ số đếm đầu người

(headcount index) – xác định tỷ lệ nghèo đói theo số lượng trong dân số; (ii)

khoảng cách nghèo đói (poverty gap) - xác định độ sâu của nghèo đói và (iii)

bình phương khoảng cách nghèo đói, phản ánh phân phối trong thu nhập giữa

các nhóm nghèo - xác định tính nghiêm trọng của nghèo đói.

H =

q n

(i) Chỉ số đếm đầu người (Headcount index)

Trong đó: n là qui mô dân số (tổng số người trong dân số)

q là số người dưới chuẩn nghèo

Chỉ số đếm đầu người là một chỉ số rất đơn giản, và chỉ đếm được số

người nghèo và tính tỷ lệ phần trăm của số người nghèo trong tổng dân số. Các

chỉ số có thể rất hữu ích trong trường hợp đo lường hiệu quả của các chính sách

xóa đói giảm nghèo theo thời gian như giảm tỷ lệ phần trăm hoặc số người

nghèo (Blackwood, et al, 1994). Tuy nhiên, chỉ số đếm đầu người không thể

phản ánh được sự khác biệt trong phân phối thu nhập và mức độ nghèo của

người dân.

(ii) Khoảng cách nghèo đói (Poverty gap) Nếu gọi y là thu nhập trung bình của người nghèo, và z là chuẩn nghèo thì I = z – y là khoản thu nhập thiếu hụt trung bình. Chỉ tiêu này đo lường mức

tiền thiếu hụt cần gia tăng từ mức nghèo đến mức chuẩn nghèo. Hạn chế chủ

yếu của chỉ số khoảng cách nghèo đói là thất bại trong việc phản ánh số lượng

người nghèo trong tổng dân số (Blackwood, et al, 1994).

(iii) Mức độ nghiêm trọng của nghèo đói (Bình phương khoảng cách

nghèo đói)

Chỉ số này đo lường khoảng cách từ mức nghèo đến mức chuẩn nghèo

cùng với sự bất bình đẳng giữa các nhóm nghèo (Coudouel, et al, 2002). Để đo

lường sự nghèo đói bao gồm sự thay đổi trong tổng số người nghèo, thay đổi

trong tình trạng thiếu hụt thu nhập và sự nhạy cảm của nghèo đói có thể sử dụng

q

=

zyP ),( α

1 n

g t z

t

1 =

⎛ ⎜ ⎝

α ⎞ ⎟ ⎠

công thức sau:

q

y

t

=

),( zyP α

1 n

t

1 =

z ⎛ − ⎜ z ⎝

α ⎞ ⎟ ⎠

hay

0>α n:

Trong đó:

là tổng số hộ nghèo trong cộng đồng dân cư

q: là số hộ nghèo dưới mức chuẩn nghèo

là khoảng cách nghèo đói của hộ gia đình thứ i gi:

là thu nhập của hộ nghèo thứ i yi:

z: là chuẩn nghèo

0=α thì P0 chính là chỉ số đếm đầu người (Headcount

Khi

index). Chỉ số này phổ biến nhất và dễ tính nhưng không phản ảnh mức độ

0

q

=

P 0

H

=

1 ∑ n

g t z

t

1 =

⎛ ⎜ ⎝

⎞ ⎟ ⎠

q n

nghiêm trọng từ thu nhập (chi tiêu) của người nghèo so với ngưỡng nghèo.

=

1=α , P1 là chỉ số đo lường khoảng cách nghèo đói (Poverty gap)

1

q

q

y

t

=

P 1

1 ∑ n

g t z

t

1 =

1 ∑ n 1 t =

⎛ ⎜ ⎝

⎞ ⎟ ⎠

z ⎛ − ⎜ z ⎝

⎞ ⎟ ⎠

Khi

=

Chỉ số này cho biết sự thiếu hụt trung bình trong chi tiêu của các hộ

nghèo so với ngưỡng nghèo và nó biểu hiện như mức trung bình của tất cả mọi

người trong tổng thể. Có thể xem đây là chi phí tối thiểu để xóa bỏ nghèo đói

trong giả định mọi khoản chi chuyển nhượng đều đến đúng đối tượng. Tuy

nhiên trong thực tế việc chuyển giao thường có hao hụt và chi phí hành chính

cho nên chi phí thực tế để xóa bỏ nghèo đói thường là bội số của khoảng cách

nghèo đói trung bình.

2=α , P2 là chỉ số đo lường mức độ nghiêm trọng của nghèo đói. Đây là

Khi

chỉ số khoảng cách đói nghèo bình phương (Squared poverty gap index) hay chỉ

số nhạy cảm nghèo (Sensitive gap ratio of poverty). Chỉ số này thể hiện mức độ

nghiêm trọng (hay cường độ) của nghèo đói và làm tăng thêm trọng số cho

2

2

q

q

y

t

=

P 1

1 ∑ n

g t z

1 ∑ n

t

t

1 =

1 =

⎛ ⎜ ⎝

⎞ ⎟ ⎠

z ⎛ − ⎜ z ⎝

⎞ ⎟ ⎠

nhóm người nghèo nhất trong số những người nghèo.

α là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa những

=

người nghèo.

Phụ lục 2: Mô hình logistic phân tích những nhân tố tác động đến khả

X

X

.. ++

ββ + 0 1

1

β k

k

năng nghèo của hộ gia đình.

=

P i

X

X

.. ++

ββ + 0 1

1

β k

k

1

e

e +

Biến phụ thuộc có giá trị bằng 1 nếu hộ gia đình là hộ nghèo và bằng 0

nếu hộ gia đình không phải là hộ nghèo.

Để đánh giá tác động của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc, ta trở lại

X

... ++

β

0

1

1

k

k

X + ββ e

P

=

X

... ++

β

1

0

1

k

k

X + ββ 1 e +

mô hình logic tổng quát:

... ++

β

ββ 0

X 11

X kk

⎞ ⎟ +=⎟ ⎠

⎛ P i ⎜ ln ⎜ P 1 − ⎝ i

Bằng phương pháp tuyến tính và mô hình hoá, mô hình trên trở thành:

P

ngheo

O

=

=

0

1

P

P 0 P − 0

khongngheo

Gọi hệ số Odd là hệ số chênh lệch nghèo ban đầu,

X

... ++

β

ββ + 0 1

1

k X

k

e

=

=

trong đó P0 là xác suất nghèo ban đầu.

O 0

1

P 0 P − 0

Từ phương trình suy ra

Giả định rằng khi các yếu tố khác không thay đổi, khi tăng Xk lên một

X

X

X

X

X

X

... ++

1 +

... ++

+

... ++

(

)

ββ + 0 1

1

β k

k

ββ + 0 1

1

β k

k

β k

ββ + 0 1

1

β k

k

β k

e

e

e

e

=

=

=

×

=

O 1

1

P 1 P − 1

β ke

=

=

=

đơn vị, hệ số chênh lệch nghèo đói mới O1 là:

O 1

O 1

1

1

P 1 P − 1

P 0 P − 0

=

β× keO

Suy ra:

0

1

P 1 P − 1

β k

=

Hay:

P 1

β k

1

eO × 0 eO + × 0

β k

=

Suy ra:

P 1

β

e

1

Thế hệ Odd vào ta được:

)k

eP × 0 ( 1 P − 0

Công thức trên có nghĩa rằng với các yếu tố khác cố định, khi yếu tố Xk

tăng lên một đơn vị thì xác suất nghèo của một hộ gia đình sẽ chuyển dịch từ P0

sang P1. Với cách triển khai như vậy chúng ta có thể mô tả những kịch bản cho

các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng mà một hộ rơi vào nghèo và từ đó có thể

định lượng được các tác động đến sự thay đổi các yếu tố ảnh hưởng để làm

giảm xác suất hộ rơi vào nghèo.

Phụ lục 3: Tỷ lệ phụ thuộc của hộ theo 8 vùng

Hộ không Chung H ộ nghèo nghèo

Vùng đồng bằng sông Hồng 0,47 0,31 0,33

Vùng Đông Bắc 0,41 0,30 0,33

Vùng Tây Bắc 0,39 0,29 0,34

Vùng Bắc Trung Bộ 0,47 0,33 0,36

Vùng duyên hải Nam Trung Bộ 0,47 0,33 0,35

Vùng Tây Nguyên 0,49 0,32 0,36

Vùng Đông Nam Bộ 0,44 0,30 0,31

Vùng đồng bằng sông Cửu Long 0,35 0,31 0,32

Chung 0,43 0,31 0,33

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 579)

Phụ lục 4: Tỷ lệ hộ nghèo theo dân tộc và tỉnh

Kinh Dân tộc Chung

Kon Tum 0 65,10 37,22

Gia Lai 0,15 92,07 44,09

Đắk Lắk 5,77 50,21 16,93

Đắk Nông 2,22 20,68 6,58

Lâm Đồng 7,45 49,09 17,00

Chung 4,62 64,99 24,1

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên VHLSS 2008 (n = 582)

Phụ lục 5: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và các tỉnh

Từ kết quả kiểm định mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và nơi hộ sống

ở tỉnh Kon Tum cho thấy: Pearson Chi – square = 1,437, Asymp. Sig = 0,231,

nên chấp nhận giả thiết H0, với dữ liệu mẫu, có đủ bằng chứng để nói rằng tình

trạng nghèo đói của hộ không liên quan việc hộ sống ở Kon Tum hay không.

Bên cạnh đó, kiểm định giữa Pearson Chi – square = 45,311, Asymp. Sig

= 0,000, nên bác bỏ giả thiết H0, với dữ liệu mẫu, có đủ bằng chứng để nói rằng

tình trạng nghèo đói của hộ liên quan việc hộ sống ở Gia Lai hay không.

Ngoài ra, khi thực hiện kiểm định giữa tình trạng nghèo của hộ với nơi

hộ sống là Đăk Nông tác giả nhận thấy: Pearson Chi – square = 14,297, Asymp.

Sig = 0,000, nên bác bỏ giả thiết H0, với dữ liệu mẫu, có đủ bằng chứng để nói

rằng tình trạng nghèo đói của hộ liên quan việc hộ sống ở Đắk Nông hay không.

Tương tự khi thực hiện kiểm định ở Lâm Đồng cho kết quả như sau

Pearson Chi – square = 5,748, Asymp. Sig = 0,017, nên bác bỏ giả thiết H0, với

dữ liệu mẫu, có đủ bằng chứng để nói rằng tình trạng nghèo đói của hộ liên

quan việc hộ sống ở Lâm Đồng hay không.

Cuối cùng khi thực hiện kiểm định về mối quan hệ giữa tình trạng nghèo

và nơi hộ sinh sống trong trường hợp hộ ở Đắk Lắk, kết quả cho thấy: Pearson

Chi – square = 3,108, Asymp. Sig = 0,078, nên bác bỏ giả thiết H0, với dữ liệu

mẫu, có đủ bằng chứng để nói rằng tình trạng nghèo đói của hộ liên quan việc

hộ sống ở Đắk Lắk hay không.

Phụ lục 6: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và tuổi của chủ hộ

Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,162

> 0,05 nên phương sai về tuổi giữa hộ nghèo và không nghèo không khác nhau.

Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal variances assummed cho thấy

giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,095 > 0,05 nên chấp nhận giả thiết H0 và

khẳng định không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi giữa hộ nghèo và

hộ không nghèo.

Phụ lục 7: Kiểm định về mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ và giới

tính của chủ hộ

Từ bảng kiểm định cho thấy Pearson Chi – square = 3,009, Asymp. Sig =

0,083, chấp nhận giả thiết H0. Không có sự liên hệ giữa hộ nghèo và giới tính

của chủ hộ.

Phụ lục 8: Kiểm định về mối quan hệ giữa tình trạng nghèo và dân tộc

Thực hiện kiểm định cho thấy: Pearson Chi – square = 212,50, Asymp.

Sig = 0,000, nên bác bỏ giả thiết H0 và khẳng định có sự liên hệ giữa hộ nghèo

và tình trạng dân tộc của hộ.

Phụ lục 9: Kiểm định về mối quan hệ giữa tình trạng nghèo của hộ

và tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ

Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,000

< 0,05 nên phương sai về tỷ lệ người phụ thuộc giữa hộ nghèo và không nghèo

khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal variances not

assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,000 < 0,05 nên bác bỏ

giả thiết H0 và khẳng định có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số người phụ

thuộc giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.

Phụ lục 10: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và số năm đi học

của chủ hộ

Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,000

< 0,05 nên phương sai về số năm đi học của chủ hộ giữa hộ nghèo và không

nghèo khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal variances

not assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,000 < 0,05 nên bác

bỏ giả thiết H0 và khẳng định có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số năm đi

học của chủ hộ giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.

Phụ lục 11: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và tình trạng việc làm

của chủ hộ

Thực hiện kiểm định cho thấy Pearson Chi – square = 1,157, Asymp. Sig

= 0,282, nên chấp nhận giả thiết H0; không có sự liên hệ giữa hộ nghèo và tình

trạng có việc làm hay không của chủ hộ.

Phụ lục 12: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và loại nhà

của chủ hộ

Kết luận: Pearson Chi – square = 32,349, Asymp. Sig = 0,000, bác bỏ giả

thiết H0 và kết luận có sự liên hệ giữa hộ nghèo và loại nhà tạm của hộ.

Phụ lục 13: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và diện tích đất sản

xuất bình quân của chủ hộ

Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,051

> 0,05 nên phương sai về diện tích đất sản xuất bình quân giữa hộ nghèo và

không nghèo không khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần

Equal variances assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,276 >

0,05 nên chấp nhận giả thiết H0 và khẳng định không có sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê về diện tích đất sản xuất bình quân giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.

Phụ lục 14: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và mức vay

bình quân của chủ hộ

Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,000

< 0,05 nên phương sai về mức vay bình quân của chủ hộ giữa hộ nghèo và

không nghèo khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal

variances not assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,000 < 0,05

nên bác bỏ giả thiết H0 và khẳng định có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về

mức vay bình quân của chủ hộ giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.

Phụ lục 15: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và khu vực sống

Từ kết quả kiểm định ta thấy: Pearson Chi – square = 38,276, Asymp.

Sig = 0,000, nên bác bỏ giả thiết H0 và kết luận có sự liên hệ giữa hộ nghèo và

khu vực sống của hộ.

Phụ lục 16: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và khả năng

tiếp cận cơ sở hạ tầng

Từ các bảng trên cho thấy, kiểm định Pearson Chi-Square giữa tình trạng

nghèo của hộ và khả năng tiếp cận đường ô tô cho ra kết quả: 1,374 với mức ý

nghĩa là 0,241; với khả năng tiếp cận chợ là 0,083 và mức ý nghĩa 0,773; với

khả năng tiếp cận điện, nước lần lượt là: 2,619 (mức ý nghĩa 0,106) và 1,382

(mức ý nghĩa 0,240). Với kết quả như trên và mức ý nghĩa 5%, tác giả chấp

nhận giả thiết H0, không có sự liên hệ giữa tình trạng nghèo của hộ và khả năng

tiếp cận cơ sở hạ tầng.

Phụ lục 17: Kiểm định về mối quan hệ giữa hộ nghèo và tỷ lệ di dân đến xã

Từ bảng kiểm định cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định Levene = 0,065

> 0,05 nên phương sai về tỷ lệ di dân đến xã giữa hộ nghèo và không nghèo

không khác nhau. Do đó, tác giả sử dụng kiểm định t ở phần Equal variances

assummed cho thấy giá trị Sign. trong kiểm định t = 0,255 > 0,05 nên chấp nhận

giả thiết H0 và khẳng định không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ di

dân đến xã giữa hộ nghèo và hộ không nghèo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng việt

1. AusAID (2003), Phân tích đói nghèo vùng ĐBS Cửu Long : Báo cáo những

mốc quan trọng lần đầu – Giai đoạn 1, Phân tích đói nghèo vùng ĐBS Cửu

Long do AusAID tài trợ, Mimeo.

2. Desai, Jaiki (2000), Việt Nam qua lăng kính giới: Phân tích số liệu khảo sát

mức sống dân cư 1997-1998. UNDP & FAO.

3. Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004), Yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở miền

núi phía Bắc.

4. Lê Thúc Dục, Nguyễn Thắng và Vũ Hoàng Đạt (2006), Giảm nghèo ở Việt

Nam: các đối nghịch đằng sau những thành tựu ấn tượng. Bài viết cho Hội

thảo ABCDE của Ngân hàng Thế giới, Tokyo, Nhật Bản. 5-2006.

5. Nguyễn Trọng Hoài, (2007), Kinh tế phát triển, NXB Lao Động.

6. Hoàng Thanh Hương, Trần Hương Giang và Trần Bình Minh (2006), Nghèo

đói và dân tộc.

7. Ngân hàng thế giới (2000), Báo cáo phát triển Việt Nam, tấn công nghèo đói,

bản thảo, Hà Nội (11/1999).

8. Ngân hàng thế giới (2004), Báo cáo phát triển Việt Nam 2004, Nghèo, Hà Nội

(12/2005).

9. Ngân hàng thế giới (2007), Báo cáo phát triển Việt Nam 2007, hướng tới tầm

cao mới, Hà Nội (12/2006).

10. Nhóm hành động chống đói nghèo (2003), Nghệ An: Đánh giá nghèo đói có

sự tham gia, Hà Nội (9/2003)

11. Nhóm hành động chống đói nghèo (2003), Đánh giá nghèo có sự tham gia

của cộng đồng tại Quảng Trị, Hà Nội (9/2003)

12. Nhóm hành động chống đói nghèo (2003), Báo cáo đánh giá đói nghèo và

quản lý nhà nước có sự tham gia, Vùng ven biển Miền trung và Tây Nguyên,

Hà Nội (10/2003).

13. Nhóm hành động chống đói nghèo (2004), Đánh giá nghèo theo vùng, Vùng

Đồng bằng sông Cửu Long, , Hà Nội (4/2004)

14. Lương Hồng Quang (2002), Văn hoá của nhóm nghèo ở Việt Nam, NXB Văn

hoá thông tin, Hà Nội.

15. Lê Thanh Sơn (2008), Các nhân tố tác động đến đói nghèo ở các hộ gia đình

vùng biên giới Tây Nam, luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.

HCM, TP. Hồ Chí Minh.

16. Tổng Cục Thống kê (2008), Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm

2008, NXB Thống kê, Hà Nội.

17. Võ Tất Thắng (2004), Thực trạng và những yếu tố tác động đến nghèo ở tỉnh

Ninh Thuận, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ

Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Đào Công Thiên (2007), Phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới tình hình

nghèo đói của các hộ ngư dân ven đầm Nha Phu, huyện Ninh Hòa, tỉnh

Khánh Hòa, Sở Nông Nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Khánh Hòa.

19. Ravallion, M., Dominique van de Walle (2008), đất đai trong thời kỳ chuyển

đổi: cải cách và nghèo đói ở nông thôn Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, Hà

Nội.

20. Trương Thanh Vũ (2007), Các nhân tố tác động đến nghèo đói ở vùng ven

biển đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2003 – 2004, luận văn thạc sỹ kinh

tế, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

Tiếng Anh

1. Al-Samarrai, Samer (2007), “Changes in employment in Bangladesh, 2000-

2005: the impacts on poverty and gender equity”, Background paper for

Poverty Assessment of Bangladesh, WorldBank.

2. Andy Kotikula, Ambar Narayan and Hassan Zaman, “Trend and Patterns of

Poverty in Bangladesh in Recent Years”, WB, 2007.

3. Dang Nguyen Anh, 2005, “International mirgration; Opportunities and

Challenges for the renovations and development in Vietnam”, Vietnam – Asia

Pacific Economic Center, The Gioi Publishers, Hanoi.

4. Bird, K., D. Hulme, K. Moore and S. Shepherd (2002), Chronic poverty and

remote rural areas, International Development Department, School of Public

Policy, University of Birmingham.

5. Blackwood, D.L and Lynch, R.G, “The Measurement of Inequality and poverty: A Policy Maker’s Giude to the Literature”, World Development, Vol

22, No.4, p.567 – 578, 1994.

6. Buvinic, M. and G. R. Gupta (1997), “Female-headed households and female-

maintained amilies: are they worth targeting to reduce poverty in developing

countries?” Economic evelopment and Cultural Change; 45, pp. 259-80.

7. Coudoule, Aline, Hentschel, Jeko S. and Wodon, Quentin T.(2002), “Poverty

measurement and analysis in Jeni Klugman (ed)”, PRSP Source book,

Washington,

DC:

World

Bank

(downloadable

from

http://povlibrary.worldbank.org/files/5467-chap1.pdf)

8. Dominique Haughton and Nguyen Phong, “Living Standards during an

economic boom: Vietnam 1993 – 1998”, December 2001, United Nations

Development Program and Statistical Publishing House, Hanoi.

9. Glewwe, Paul, and Kwaku A.Tum – Baah, 1991, “The Distribution of

Welfare in Ghana in 1987 - 1988”, Living Standards Measurement Study

Working Paper 75, Washington, D.C; World Bank.

10. Government of Cameroon (2003), The Poverty Reduction Strategy Paper,

Ministry of Economic Affairs, Programming and Regional Development.

11. Government of Vietnam – UNDP (2004), Taking stock, Planing Ahead:

Evaluation of the National Targeted Programme on Hunger Eradication and

Poverty Reduction and Program 135, Hanoi: MOLISA.

12. Hoff, Karla and Stiglitz, Joseph E. (1993), “Imperfect Information and Rural

credit Markets: Puzzles and Policy Perspectives”, in K.Hoff, A.Braverman

and Joseph Stiglitz (ed), The Economic of Rural Organization, Theory,

Practice and Policy, The World Bank and Oxford. University Press,

Washingtion, DC.

13. Hossain, M. (1995), ‘Socio-economic characteristics of the poor’ in Rahman

and Hossain (eds) ethinking rural poverty UPL, Bangladesh.

14. Institue Nationale des Statistiques (2002b), Evolution de la Pauvreté au

Cameroun entre 1996 et 2001, DecembreDecembre 2002.

15. Institue Nationale des Statistiques (2008), Tendance, Profil et Déterminant de

la Pauvreté au Cameroun en 2007, Disponible sur www.statistic-

Cameroun.org.

16. Khandker, Shahidur R.

(1988), Fighting Poverty with Microcredit:

Experience in Bangladesh, New York, NY: Oxford University Press for the

World Bank.

17. Kotikula, A., A. Narayan and H. Zaman (2007), Explaining poverty eduction

in the 2000s: an analysis of the Bangladesh Household Income and

Expenditure Survey, Background paper

for Poverty Assessment of

Bangladesh. World Bank. Draft.

18. Lilongwe and Zomba, “National Economic Coucil”, Replies to questions on

the Profile of Poverty in Malawi, 2001.

19. Mok, T.Y., C. Gan and A. Sanyal (2007), The Determinants od Urban

household Poverty in Malaysia, Commerce Division, Lincoln University,

Canterbury, New Zealand.

20. Nicholas Minot and Bob Baulch, April 2002, “The Spatial Distribution of

Poverty

in Vietnam and

the Potential for Targetting”, Washington,

DC.2006.USA, page 17 – 18.

21. Osinubi, Tokunbo S. (2003), Urban poverty in Nigeria: A case study of Agege

area of Lagos state, Nigeria, Department of Economics, Faculty of the

Social sciences, University of Ibadan, Ibadan, Nigeria.

22. Owuor, G., M. Ngigi, A.S. Ouma and E.A. Birachi (2007), Determinants of

rural poverty in Africa: The case of small holder farmers in Kenya, J. Applied

Sci., 7: 2539-2543.

23. Rowntree, B S (1901),: "Poverty: A Study in Town Life", page 295-

296.Macmillian and CO.

24. Saral Bales, Phung Duc Tung and Ho Si Cuc (2001), “Sectoral Changes and

Poverty”, chapter 3 in Living Standards during an economic boom, the case in

Vietnam, edited by Dominique Haughton, Jonathan Haughton and Nguyen

Phong.

25. Sen , Amartya (1999), Development as freedom, New York: Knopf.

26. Todaro, M.P (1997), “Economic Development”, Reading, Mass: Addison –

Wesley.

27. Van de Walle, Dominique & Dorothyjean Cratty. (2003). Is the emerging non-

farm market economy the route out of poverty in Vietnam? (Policy Research

Working Paper 2950). Washington DC, World Bank.

28. Wagle Udaya, “Rethinking poverty definition and measurement”, UNESCO,

2002.

29. World Bank (2005), Poverty Manual.

30. World Bank (2008), New Data Show 1.4 Billion Live On Less Than US$1.25

A Day, But Progress Against Poverty Remains Strong.