Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển Nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu của Luận văn này nhằm đề xuất quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu phát triển Nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội đến năm 2020. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển Nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ PHẠM THÚY LAN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO NGÀNH IN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2014
- 2 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ PHẠM THÚY LAN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO NGÀNH IN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS, TS HOÀNG THỊ BÍCH LOAN HÀ NỘI - 2014
- 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO NGÀNH IN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 13 1.1 Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội 13 1.2 Nội dung, vai trò và các nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội 26 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO NGÀNH IN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 39 2.1 Những thành tựu, hạn chế phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội 39 2.2 Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội 46 Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO NGÀNH IN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI 60 3.1 Quan điểm cơ bản phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội 60 3.2 Giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội 66 KẾT LUẬN 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 PHỤ LỤC 91
- 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Chủ nghĩa xã hội CNXH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH Giáo dục và đào tạo GDĐT Khoa học công nghệ KH - CN Kinh tế - xã hội KT - XH Nguồn nhân lực NNL Nguồn nhân lực chất lượng cao NNLCLC Sản xuất, kinh doanh SX - KD Xã hội chủ nghĩa XHCN
- 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ngày càng phát triển sâu, rộng, ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của tất cả các quốc gia, dân tộc. Trong các ngành khoa học và công nghệ cao, liên tiếp có những phát minh, sáng chế mang tính đột phá, tạo ra những bước ngoặt mới, làm thay đổi diện mạo thế giới đương đại; đặc biệt là những phát minh trong lĩnh vực tin học, sinh học, vũ trụ, hải dương học, năng lượng, vật liệu mới, bảo vệ môi trường và quản lý… thúc đẩy làn sóng chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới mà khởi đầu là từ các nước có nền kinh tế phát triển. Dưới tác đô ̣ng của cuô ̣c cách mạng khoa học và công nghệ hiê ̣n đại, lực lượng sản xuất phát triển mang tính bùng nổ, trong đó tri thức khoa học, công nghê ̣ và thông tin ngày càng đóng vai trò quyết định đối với nền sản xuất vâ ̣t chất trên quy mô toàn cầu. Trước những đô ̣ng thái mới đó của nền kinh tế thế giới, giới nghiên cứu quốc tế trong những năm gần đây đã sử dụng thuâ ̣t ngữ “kinh tế tri thức” (Knowledge economy) để nói về mô ̣t giai đoạn phát triển cao hơn trong tiến bô ̣ kinh tế của loài người. Sự phát triển của kinh tế tri thức phụ thuô ̣c phần lớn vào viê ̣c nắm tài nguyên trí lực, mà “vâ ̣t” chứa đựng tài nguyên trí lực là nguồn nhân lực của mỗi quốc gia. Vì vâ ̣y, nguồn nhân lực chất lượng cao chính là vấn đề cốt lõi của kinh tế tri thức và được các quốc gia, các ngành kinh tế quan tâm đặc biệt. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, “Phát triển, nâng cao chất lượng NNL, nhất là NNLCLC là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [13; 41]. Ngành in phát sinh từ lâu đời, từ công việc in bán tự động, đơn giản, đến thế kỷ XIX quá trình in đã được cơ giới hóa hoàn toàn. Những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật kể cả những lý thuyết và công nghệ mới nhất, hiện đại nhất đều được áp dụng vào ngành in. Vì vậy, ngành in được cho là một ngành khoa học - kỹ thuật tổng hợp.
- 6 Những năm gần đây, hòa nhập cùng thế giới, ngành in của Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và khu vực ngày nay, sự gia nhập vào các tổ chức quốc tế của nền kinh tế Việt Nam như: AFTA, WTO v.v… thì ngành in của Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng hoạt động trong một môi trường kinh doanh mới, với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường cả trong và ngoài nước. Trong khi, những điểm yếu kém về NNL như trình độ đào tạo, kỹ năng lao động, kỷ luật lao động,... đang kìm hãm sự phát triển của ngành. Đặc biệt, những bất hợp lý về số lượng, chất lượng, cơ cấu NNLCLC cho ngành in ở thành phố Hà Nội đã và đang làm cho những dự án đầu tư lớn hay nhỏ gặp khó khăn trong phát huy hết công năng, tác dụng của thiết bị... Nhân lực chất lượng cao cho một chiến lược SX - KD thích hợp để tiếp tục phát triển trong tương lai là vấn đề cấp bách đặt ra đối với ngành in ở thành phố Hà Nội. Với mong muốn góp phần vào sự phát triển của ngành in trên địa bàn thành phố Hà Nội, tác giả lựa chọn “Phát triển NNLCLC cho ngành in ở thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học, chuyên ngành kinh tế chính trị của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài NNL chất lượng cao cho phát triển KT - XH nói chung, phát triển của từng ngành kinh tế nói riêng là vấn đề khá mới, nhưng cũng đã được nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu ở nhiều góc độ, mức độ và phạm vi tiếp cận khác nhau, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập. Kết quả nghiên cứu được thể hiện dưới các hình thức như: Đề tài khoa học các cấp, sách tham khảo và chuyên khảo, luận văn, luận án, bài báo được đăng tải trên các báo và tạp chí.v.v... Dưới góc độ tiếp cận của khoa học kinh tế - chính trị, tác giả nhận thấy, ngoài các văn kiện, nghị quyết của Đảng, có rất nhiều công trình nghiên cứu về phát triển NNL, NNLCLC đã được công bố, liên quan đến đề tài luận văn, cụ thể như sau:
- 7 * Các công trình tiêu biểu nghiên cứu về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển KT - XH nói chung Chủ nghĩa Mác khi bàn về lực lượng sản xuất đã chỉ ra vai trò của hai bộ phận cấu thành: Lực lượng sản xuất vật chất và lực lượng sản xuất tinh thần. Song, các tác phẩm của C. Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, đều tập trung nghiên cứu, tìm hiểu lực lượng sản xuất vật chất. Có lẽ, trong thời kỳ của Mác, lực lượng sản xuất tinh thần chưa phải là “hiện tượng phổ biến” và nó mới chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể trong toàn xã hội. Từ những năm 70 của thế kỷ XX cho đến nay, do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy nhanh tiến trình tri thức hóa trên thế giới làm xuất hiện những khái niệm như NNL, kinh tế tri thức đã trở thành tiêu điểm cho các cuộc thảo luận thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lãnh đạo, các giới khoa học trên thế giới. Đặc biệt, các nhà khoa học của các quốc gia, các tổ chức quốc tế, chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực kinh tế, từ đây họ đã đưa ra những quan niệm và làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến NNL và NNLCLC. Các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Liên hiệp quốc, UNDP… đều quan tâm đưa ra những quan niệm về NNL. Ngân hàng thế giới cho rằng, NNL là vốn nhân lực, còn UNDP cho đó là nguồn nội lực. Với tư cách là vốn nhân lực cần đầu tư để phát triển và tăng cường nguồn vốn đó. Hai nhà kinh tế - chuyên gia của Ngân hàng thế giới George Psacharo poulos và Maureen Woodhaill còn chỉ ra rằng, lợi tức trung bình của đầu tư cho vốn nhân lực (GDĐT) mang lại cao hơn so với lợi tức của vốn đầu tư cơ bản ở các nước đang phát triển. Đến nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có cơ quan nhà nước quản lý và nghiên cứu các vấn đề thuộc về NNL. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các học giả nước ngoài về vấn đề này như “Những nguồn lực” của E.F. Schumacher xuất bản 1996, “Kinh tế học của sự phát triển” của tập thể tác giả Malcolm Gillis, Dwight, H. Perkins, Michael Roemer và Donald R. Snodgrass đã phân tích về vốn nhân lực hoặc phân tích về vấn đề phát triển NNL ở các quốc gia đang phát triển trong “Kinh tế học của các nước đang phát triển” của E.Wayne Nafziger.
- 8 Stewart Jim, Mcgoldrick Jim (2007), “Human resource development”, (Phát triển NNL). Cuốn sách này dựa trên các ý tưởng, nghiên cứu mới nhất và nổi tiếng để đóng góp vào cuộc tranh luận về phát triển NNL. Cuốn sách nhằm mục đích bổ sung các khoảng trống tới này bằng các khái niệm được đề xuất. Cuốn sách này được chia thành ba phần. Phần đầu tiên tổng quan về những quan điểm khác nhau về triển NNL. Thứ hai đề cập vào chiến lược phát triển NNL và thứ ba là kinh nghiệm phát triển NNL thực tế. Greg G.Wang và Judy Y.Sun (2009), “Perspectives on theory clarifying the boundaries of human resource development” (Những quan điểm dựa trên lý thuyết làm rõ những ranh giới của phát triển NNL), cụ thể tác giả đã phân tích sự khác biệt giữa khái niệm phát triển NNL và phát triển vốn nhân lực và phát triển con người ở phương diện xã hội. Mấy năm gần đây, vấn đề NNL đã và đang thu hút sự quan tâm, chú ý của các nhà quản lý và các nhà khoa học ở nước ta vì nó gắn liền với việc hoạch định đường lối, chiến lược phát triển KT - XH của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và địa phương. Đã có một số công trình như: Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1998), “Phát triển NNL - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta” [76]. Cuốn sách đã khái quát những kinh nghiệm về phát triển NNL của các nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, cuốn sách chưa trình bày nội dung tổng quát của phát triển NNL như chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức sống, việc làm… mà tập trung vào lĩnh vực GDĐT, yếu tố quyết định đến phát triển NNL. Đoàn Văn Khái (2000), “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” [28]. Tác giả đã trình bày một số vấn đề chung về CNH, HĐH trên thế giới và Việt Nam; vai trò của nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH; thực trạng nguồn lực con người ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu CNH, HĐH; những giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển có hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay.
- 9 Trần Du Lịch và Nguyễn Thị Cành (2005), “Phát triển và đào tạo NNL” [39]. Trong đó, nhóm tác giả đã trình bày những vấn đề chung nhất về công tác đào tạo và phát triển NNL, hình thức và phương pháp đào tạo, cách xác định nhu cầu đào tạo và đề xuất những vấn đề tổ chức nhà nước cần làm để xây dựng một chương trình đào tạo đạt hiệu quả và chất lượng. Trung tâm khoa học xã hội nhân văn quốc gia (1995), “Con người và nguồn lực con người trong phát triển” [74]. Cuốn sách đã tập hợp các bài viết, công trình nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới bàn về vấn đề con người theo các góc độ khác nhau; về động cơ hoạt động của con người; mô hình mới về sử dụng nguồn lực con người; trí tuệ hoá lao động và đào tạo chuyên môn; tiếp cận mới đối với chính sách việc làm, con người và môi trường. Phạm Công Nhất (2008), “Nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế” [53]. Tác giả đã khái quát kết quả hơn hai mươi năm đổi mới đất nước và hơn một năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, đồng thời chỉ rõ thực trạng phát triển NNL ở nước ta và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tác giả Lê Thị Hồng Điệp (2005), “Phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam” [15], đã nghiên cứu, góp phần làm phong phú thêm những lý luận mới về phát triển NNLNCLC để hình thành nền kinh tế tri thức thông qua những phân tích nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động tới quá trình phát triển lực lượng này; Thực hiện việc đánh giá tương đối toàn diện thực trạng phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức giai đoạn 2001- 2007 gắn với những nội dung tiêu chí và những yếu tố tác động đã nêu trên; Đề xuất một số giải pháp phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong tương lai. Những đề xuất đó góp phần tìm ra con đường và cách thức hiệu quả để phát triển NNLCLC thực sự trở thành lực lượng tiên phong trên hành trình hiện thực hóa nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
- 10 Bài viết của GS.TS. Hoàng Văn Châu, Hiệu trưởng trường Đại Học Ngoại thương đăng trên Tạp chí kinh tế đối ngoại số 38/2009, “Phát triển NNLCLC cho hội nhập kinh tế - vấn đề cấp bách sau khủng hoảng” [4]. Nội dung chủ yếu đề cập đến những bất cập của thị trường lao động của nước ta. Tác giả nhận định thị trường lao động Việt Nam sẽ tiếp tục thiếu hụt và khan hiếm NNL cao cấp quản lý trở lên. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính qua đi, khi các doanh nghiệp tiến hành tái cấu trúc và nhu cầu nhân lực có chất lượng cao tăng lên thì chắc chắn sự mất cân đối cung - cầu trên thị trường lao động sẽ diễn ra ngày càng trầm trọng hơn nếu như Việt Nam không có những biện pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này. Nguyên nhân của việc này là do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường lao động và chưa tiếp cận một cách hiệu quả được với các dịch vụ đào tạo; nhiều doanh nghiệp chưa tích cực tham gia vào các chương trình đào tạo; các sinh viên đã không được định hướng tốt trong việc chọn trường, chọn ngành nghề theo học. Từ đó tác giả đã đề xuất 10 giải pháp phát triển NNLCLC trong thời gian tới. các giải pháp tập trung chủ yếu vào việc nâng cao chất lượng đào tạo. PGS.TS. Bùi Thị Ngọc Lan (2011), “Đại hội XI với vấn đề phát triển NNL” [31]. Tác giả tập trung phân tích những điểm mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng về phát triển NNL. Theo tinh thần Đại hội XI của Đảng, để phát triển nhanh NNL, nhất là NNLCLC, cần phải đi vào một số giải pháp căn bản như: xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới; đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1998), "Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng NNL tài năng - kinh nghiệm của thế giới" [76]. Tác giả khái quát những kinh nghiệm trong việc phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng, khoa học công nghệ, sản xuất kinh doanh, quản lí của Mỹ và một số quốc gia Châu Âu, Châu Á; qua đó bàn về thực trạng chất lượng đào tạo, bồi dưỡng NNL tài năng của đất nước, cũng như những bất cập quá trình sử dụng NNL tài năng; đề cập một số giải pháp thiết thực nhằm đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng NNL tài năng của đất nước có hiệu quả.
- 11 Ngoài ra còn có nhiều luận văn, đề án, bài báo, báo cáo khoa học nghiên cứu về NNL, NNLCLC cho phát triển KT - XH nói chung. Các công trình trên cho biết quan điểm của các nhà khoa học về NNL và vai trò của nó đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và khi kinh tế tri thức đang trở thành xu hướng phát triển khách quan trên thế giới và Việt Nam. Các nghiên cứu đó không chỉ đề cập đến NNL với tư cách là nguồn lực thúc đẩy sự phát triển của quốc gia mà còn đưa ra giải pháp để tạo NNL hướng tới phát triển kinh tế tri thức. Các nghiên cứu đều nhấn mạnh rằng, khi kinh tế tri thức đang trở thành xu hướng phát triển khách quan trên thế giới, thì GDĐT ngày càng có vai trò quan trọng, phải chú trọng giải pháp GDĐT. Đảng và Nhà nước ta cũng đang nỗ lực định hướng sự phát triển của nó. Nhìn chung, các công trình trên đều đã đề cập đến yêu cầu của kinh tế tri thức đối với nguồn lực, vai trò của giáo dục và đào tạo NNL cho phát triển kinh tế tri thức, những biện pháp nâng cao chất lượng NNL nhằm phát huy cao độ hiệu quả của nó trong công cuộc đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, các tác giả mới dừng lại ở những khía cạnh chung nhất định về NNL và bước đầu cố gắng tiếp cận, luận giải, chỉ ra mối quan hệ giữa đào tạo NNL có chất lượng cao và kinh tế tri thức. * Các công trình tiêu biểu nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao ở các khu, ngành, vùng kinh tế. Lê Quang Hùng (2006), NNL chất lượng cao cho phát triển KT - XH ở thành phố Đà Nẵng [24]. Tác giả khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng NNL ở thành phố Đà Nẵng, phân tích làm rõ vấn đề lý luận về NNL, chất lượng NNL và nâng cao chất lượng NNL. Luận giải một cách khoa học NNLCLC là động lực cho quá trình CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế trí thức ở Việt Nam. Tác giả Phan Thùy Chi (2008), Đào tạo và phát triển NNL trong các trường đại học khối kinh tế của Việt Nam thông qua các chương trình hợp tác quốc tế, LATS kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân [5]. Đây là nghiên cứu khá hệ
- 12 thống về công tác đào tạo và phát triển NNL tại các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam, nhưng chỉ giới hạn trong công tác đào tạo hợp tác quốc tế. Phạm Hoàng Lân (2010), “Đào tạo và phát triển NNL tại Viện hệ thống thông tin FPT” [33]. Tác giả đã hệ thống hóa các lý luận cơ bản về NNL và phát triển NNL. Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng đào tạo và phát triển NNL của Viện FPT và đề xuất những giải pháp phát triển NNL trong tương lai cho đơn vị. Tạ Quang Ngải (2006), Đào tạo, bồi dưỡng công chức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta (qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội) [50]. Tác giả đã đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức hiện nay (qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội), đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng công chức góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta nói chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng. Bài viết của tác giả Lương Công Lý, đăng trên tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông số 7- 2010, với tiêu đề “Vai trò và những quy chuẩn đào tạo NNL trong các trường đại học, cao đẳng của ngành giao thông vận tải” [42], đã trình bày vai trò đào tạo NNL và những quy chuẩn của đào tạo NNL trong các trường đại học, cao đẳng của ngành giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay. Cùng với việc tiếp tục luận giải, khẳng định NNLCLC là động lực cho quá trình CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế trí thức ở Việt Nam, các công trình trên đã nghiên cứu, làm rõ lý luận về NNL, NNLCLC ở một số khu kinh tế, ngành kinh tế, vùng kinh tế cụ thể; khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng NNL; và đề xuất những giải pháp, kiến nghị, khuyến nghị phát triển, nâng cao chất lượng NNL ở khu, ngành, vùng kinh tế cụ thể đó. Tuy có sự khác nhau về mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phạm vi nghiên cứu nhưng các công trình trên đều hướng tới giải quyết các vấn đề liên quan tới NNL, chất lượng NNL, phát triển NNLCLC ở một số ngành nghề cụ thể hoặc ở một số khu kinh tế, vùng kinh tế mà đề tài nghiên cứu của các tác giả trực tiếp đặt ra. Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh, với cách tiếp cận phong phú,
- 13 tạo điều kiện thuận lợi cho việc khu biệt, tiếp cận, xem xét đối tượng nghiên cứu và triển khai thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài của tác giả đã xác định. Tóm lại, mặc dù có thể chưa thống kê được hết các công trình nghiên cứu có liên quan, nhưng những hướng nghiên cứu mà tác giả được biết đến chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu NNLCLC cho ngành in nói chung và ngành in ở thành phố Hà Nội nói riêng. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích nghiên cứu Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển NNLCLC cho ngành in ở thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu phát triển NNLCLC cho ngành in ở thành phố Hà Nội đến năm 2020. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ khái niệm, nội dung, vai trò và nhân tố tác động đến phát triển NNLCLC cho ngành in ở thành phố Hà Nội. - Phân tích thực trạng nhằm chỉ ra thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với phát triển NNLCLC cho ngành in ở thành phố Hà Nội đến năm 2020. - Đề xuất quan điểm, giải pháp cơ bản phát triển NNLCLC cho ngành in ở thành phố Hà Nội thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội dưới góc độ kinh tế chính trị. * Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu phát triển NNLCLC cho các nhà xuất bản, nhà máy in, xí nghiệp in, công ty in, cơ sở in có giấy phép hoạt động in của cục xuất bản, trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Các số liệu khảo sát, thống kê, minh chứng từ năm 2009 đến 2013
- 14 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận Đề tài dựa trên các quan điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nghị quyết của Đảng bộ thành phố Hà Nội về NNL, NNLCLC, về phát triển các ngành kinh tế. Tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về NNL, NNLCLC của các tác giả trong và ngoài nước. Đồng thời, dựa vào các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê hiệp hội in Việt Nam và của ngành in Thành phố Hà Nội từ năm 2009 đến nay. * Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác – Lênin (trừu tượng hoá khoa học) làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Kết hợp với các phương pháp khác như: kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa của luận văn - Luận văn góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về NNLCLC cho ngành in ở thành phố Hà Nội nói riêng, NNLCLC cho ngành in ở nước ta nói chung. - Cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính quyền thành phố Hà Nội trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển KT - XH, trực tiếp là giải quyết vấn đề NNLCLC cho ngành in; góp phần nâng cao hiệu quả quán triệt và thực thi quan điểm của Đảng ta về phát triển nhanh và bền vững đất nước. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy và học tập môn kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 15 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO NGÀNH IN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành in ở thành phố Hà Nội 1.1.1. Quan niệm nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao * Quan niệm nguồn nhân lực Dưới góc độ từ và ngữ, nhân lực là một danh từ (từ Hán Việt). Nhân là người, lực là sức. Ngay trong phạm trù sức người lao động cũng chứa một nội hàm rất rộng. Nếu dừng lại ở các bộ phận cấu thành đó là sức óc, sức bắp thịt, sức xương… Sức thể hiện thông qua các giác quan mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, da cảm giác… Còn chất lượng của sức lao động đó là trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, lành nghề… Như vậy có thể hiểu, nhân lực là chỉ người lao động được đào tạo ở một trình độ nào đó để có năng lực tham gia vào lao động xã hội. Năng lực của người lao động được cấu thành bởi các yếu tố, kiến thức, kĩ năng, thái độ và thói quen làm việc. Có nhiều quan điểm khác nhau về NNL. Theo Từ điển thuật ngữ của Pháp, NNL xã hội bao gồm những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và mong muốn có việc làm. Như vậy theo quan điểm này thì những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không muốn có việc làm thì không thuộc nội hàm khái niệm NNL xã hội. Tổ chức Liên hợp quốc cũng đã đưa ra định nghĩa về nguồn nhân lực. Theo Liên Hợp Quốc, “NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. Nguồn nhân lực được coi là mô ̣t yếu tố quan trọng bâ ̣c nhất trong kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hô ̣i.
- 16 Nguồn nhân lực hay nguồn lực con người được xem xét với tư cách là mô ̣t nguồn lực cơ bản cho sự phát triển kinh tế – xã hô ̣i của mỗi quốc gia. Theo tổ chức Ngân hàng thế giới (WB), nguồn nhân lực là toàn bô ̣ vốn người, bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiê ̣p… mà mỗi cá nhân sở hữu . Ở đây, nguồn nhân lực được coi như là mô ̣t nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vâ ̣t chất khác như vốn tiền, công nghê ̣, tài nguyên thiên nhiên. Đầu tư cho con người giữ vị trí trọng tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì “NNL của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động”. NNL được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển” [81, tr.4]. Do đó, NNL bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, NNL là khả năng lao động của xã hội, là một nguồn lực cho sự phát triển KT - XH, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Đề cao vai trò của yếu tố con người cũng là nét nổi bật trong tư tưởng kinh tế của C. Mác với tư tưởng chủ đạo: chỉ có lao động mới tạo ta giá trị nguồn gốc duy nhất của mọi của cải trong xã hội. Tư tưởng này có ý nghĩa quan trọng; nó cho thấy tiến bộ kỹ thuật không hề làm giảm ý nghĩa của yếu tố con người mà ngược lại, cùng với quá trình áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất con người cùng với tiềm năng trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. V.I. Lênin đã khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [35; tr 430]. Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc thì: “NNL cần được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí
- 17 tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể NNL hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển KT - XH của một quốc gia hay một địa phương nào đó…”[18, tr.213]. Theo GS. Phan Thế Tường, “nguồn nhân lực Viê ̣t Nam bao gồm những người nằm trong đô ̣ tuổi lao đô ̣ng theo Bô ̣ luâ ̣t lao đô ̣ng quy định: Nam từ 15 – 60 tuổi, Nữ từ 15 – 55 tuổi. Tuy nhiên, không phải toàn bô ̣ những người thuô ̣c nguồn nhân lực đều tham gia vào sản xuất xã hô ̣i, mà cần trừ đi (theo quy ước) những người không có khả năng lao đô ̣ng (chẳng hạn do tàn tâ ̣t); những người nô ̣i trợ trong gia đình; học sinh, sinh viên đang đi học; quân đô ̣i (do tính chất đă ̣c thù của hoạt đô ̣ng quân sự). Sau khi trừ đi khỏi nguồn lực bốn bô ̣ phâ ̣n này, số còn lại trong kinh tế gọi là lực lượng lao đô ̣ng. Lực lượng lao đô ̣ng được thống kê theo hai bô ̣ phâ ̣n: 1) Những người có viê ̣c làm; 2) Những người thất nghiê ̣p, muốn làm viê ̣c, đang tìm viê ̣c làm trên thị trường lao đô ̣ng”. Như vậy, quan niệm về NNL của các nhà khoa học, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước tuy tiếp cận ở những góc độ khác nhau, nhưng đều có sự thống nhất ở nội dung căn bản: NNL là lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống KT - XH. Nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng lao đô ̣ng, mà là sự tổng hợp của số lượng và chất lượng lực lượng lao đô ̣ng. Với tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định. Đó là toàn bộ những người lao động đang có khả năng tham gia vào các quá trình phát triển KT - XH và các thế hệ những người lao động tiếp tục tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế xã hội. NNL còn bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, thái độ và phong cách làm việc - đó chính là các yếu tố thuộc về chất lượng NNL. Ngoài ra khi nói tới NNL phải nói tới cơ cấu của lao động, bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề. Khi nói
- 18 NNL cần nhấn mạnh sự phát triển trí tuệ, thể lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của con người, bởi vì trí lực là yếu tố ngày càng đóng vai trò quyết định sự phát triển NNL. Ngoài ra khi nói đến NNL cũng cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, đạo đức và nhân cách của con người. Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới giác độ phổ quát của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: NNL là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. - Mối quan hê ̣ giữa nguồn nhân lực và các nguồn lực khác Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong những thời kỳ mà nền kinh tế tự nhiên còn phổ biến, thì sự phát triển của các nền kinh tế quốc gia trên thế giới chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động thủ công, do đó nước nào giàu tài nguyên hoặc có nhiều lao động, thì nước đó có lợi thế trong phát triển KT - XH và ngược lại. Tuy nhiên, thời của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, nước giàu tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào chưa hẳn đã có lợi thế trong phát triển hơn các nước nghèo tài nguyên hoặc khan hiếm lao động giản đơn. Trong các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, NNL chính là nguồn lực chủ yếu tạo động lực cho sự phát triển. Vì vậy việc cung ứng đầy đủ và kịp thời NNL theo nhu cầu, mục tiêu của nền kinh tế là yếu tố đóng vai trò quyết định đảm bảo tốc độ tăng trưởng KT - XH. Theo thuyết về vốn con người (Human resource), yếu tố con người được coi là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là phương tiện để phát triển KT - XH. Nguồn lực con người được coi nguồn lực của mọi nguồn lực khác (vốn, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, đất đai…). Một nước cho dù có tài nguyên
- 19 thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển NNL trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. - Các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực Trình độ phát triển KT - XH; Trình độ phát triển của khoa học - công nghệ; GDĐT; Sự phát triển của y tế và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; Các chính sách vĩ mô của Nhà nước, đặc biệt là các chính sách kinh tế -xã hội như: Chính sách phát triển dân số, chính sách phát triển trí lực và kỹ năng của NNL, chính sách bảo vệ và tăng cường thể lực NNL, chính sách thu hút và sử dụng NNL, chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội, thất nghiệp... Các yếu tố trên ảnh hưởng đến cả số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL. Ví dụ, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và độ tuổi lao động; sự nghiệp GDĐT và thể chất người lao động, yếu tố di truyền, nhu cầu sử dụng lao động ở địa phương; cơ cấu dân số, cơ cấu ngành nghề đào tạo, cơ cấu ngành nghề trong xã hội... ảnh hưởng toàn diện đến NNL. * Quan niệm nguồn nhân lực chất lượng cao Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, NNL đặc biệt là NNLCLC ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng NNL. Trong đó động lực
- 20 quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là NNLCLC, tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có NNLCLC, có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị- xã hội ổn định. Nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề). Giữa chất lượng NNL và NNLCLC có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng NNL là muốn nói đến tổng thể NNL của một quốc gia, trong đó NNLCLC là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh túy nhất, có chất lượng nhất. Cho nên, khi nói về NNLCLC không thể không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng NNL nói chung của đất nước. Theo tác giả Trần Mai Ước thì: “NNL chất lượng cao được hiểu là bộ phận lao động xã hội có trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật cao; có kĩ năng lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kĩ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao” [80; tr.14] Tác giả Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, “NNL trình độ cao là bộ phận lao động phức tạp, phải trải qua một quá trình đào tạo, rèn luyện công phu”. Tác giả đã phân chia trình độ đào tạo nhân lực của một quốc gia thành 7 nhóm và khẳng định, NNLCLC phải ở 5 nhóm nhân lực đầu tiên theo thứ tự nêu trên, tức là “nhân lực tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên”.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 347 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 19 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 19 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn