ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Nguyễn Thị Thanh Hải LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM Luận văn ThS. Kinh tế: 60.31.01 Nghd. : PGS.TS. Nguyễn Đình Kháng

1

MỤC LỤC

Mở đầu .................................................................................................................. 1

Chƣơng 1. Trí thức nữ- Khái niệm, đặc điểm và vai trò của lao động trí

thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam .... 9

1.1. Lao động trí thức nữ khái niệm và đặc điểm của họ ...................................... .9

1.1.1. Khái niệm trí thức- Lao động trí thức nữ .................................................... 9

1.1.2. Đặc điểm của lao động trí thức nữ ............................................................ 13

1.2. Vai trò của lao động trí thức nữ và những nhân tố tác động đến họ ........... 19

1.2.1. Vai trò của lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá ở Việt Nam ................................................................................... 19

1.2.2. Những nhân tố tác động đến đội ngũ trí thức nữ ...................................... 24

Chƣơng 2. Thực trạng lao động trí thức nữ Việt Nam và những vấn đề

đặt ra ........................................................................................................ 33

2.1. Thực trạng lao động trí thức nữ Việt Nam .................................................. 33

2.1.1. Vài nét về sự phát triển đội ngũ trí thức nữ nước ta trong lịch sử ............. 33

2.1.2. Thực trạng lao động trí thức nữ nước ta hiện nay .................................... 38

2.2. Những đóng góp và hạn chế của lao động trí thức nữ Việt Nam ................ 46

2.2.1. Những đóng góp ........................................................................................ 46

2.2.2. Những hạn chế của đội ngũ lao động trí thức nữ ....................................... 51

2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển lao động trí thức nữ ................ 54

2.3.1. Nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế .... 55

2.3.2. Về nhận thức xã hội với vai trò của phụ nữ và lao động trí thức nữ ........ 56

2.3.3. Về hệ thống chính sách ............................................................................. 61

Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp chính sách cơ bản phát triển lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc ................................................................................................... 67

3.1.Phương hướng phát triển lao động trí thức nữ ở nước ta .............................. 67

3.1.1. Bối cảnh phát triển của kinh tế- xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới ... 67

3.1.2. Quan điểm, phương hướng xây dựng đội ngũ trí thức nữ ........................ 69

3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển lao động trí thức nữ trong sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ................................................... 71

3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình đẳng nam - nữ .. 71

3.2.2. Phát triển giáo dục- đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ ........................ 72

3.2.3. Chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ

trí thức nữ .................................................................................................. 74

3.2.4. Có chính sách phù hợp trong sử dụng nữ trí thức ..................................... 78

3.2.5. Cần cải tiến chính sách lương đối với trí thức .......................................... 80

3.2.6. Cần có chính sách tôn vinh phù hợp ......................................................... 82

3.2.7. Tuổi về hưu của trí thức nữ ....................................................................... 83

3.2.8. Tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình ................................. 84

3.2.9. Nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên của bản thân nữ trí thức .................... 88

Kết luận ............................................................................................................... 91

Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 94

2

BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: CNH, HĐH

CĐ Cao đẳng:

ĐH Đại học:

Khoa học và công nghệ: KH&CN

GD Giáo dục:

Giáo dục và đào tạo: GD&ĐT

GS Giáo sư:

PGS Phó giáo sư:

TS Tiến sĩ:

ThS Thạc sĩ:

Xã hội chủ nghĩa: XHCN

Nhà xuất bản: Nxb

3

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài

Ở Việt Nam, trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng là nguồn nhân

lực có đóng góp quan trọng vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất

nước. Kinh nghiệm và thực tiễn các nước có nền kinh tế phát triển cao cho

thấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước đòi hỏi

phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, sức sáng

tạo lớn, trong đó đội ngũ lao động trí thức nữ đóng vai trò không nhỏ.

Có thể nói, đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng có vai

trò quan trọng, là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH. ở

nước ta, để mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công

nghiệp và xã hội ta là một xã hội công bằng, văn minh, có sự phát triển bền

vững. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng và phát huy năng lực sáng tạo mọi lực

lượng lao động trong xã hội, trong đó có trí thức nữ là một nhiệm vụ có ý

nghĩa quyết định.

Trí thức nữ có vị trí quan trọng trong đội ngũ trí thức nói chung không

chỉ vì về mặt số lượng, mà còn do những đặc điểm về sinh lý, tâm lý. Chính

những đặc điểm tâm - sinh lý này là những lợi thế hoặc yếu thế của nữ giới

so với nam giới trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động.

Đảm bảo tính công bằng về giới là một quan điểm, một yêu cầu quan

trọng của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.

Vì vậy, bên cạnh những chính sách chung, cần thiết phải đi sâu nghiên

cứu đối tượng trí thức nữ để đề xuất những giải pháp, chính sách riêng hoặc

trong chính sách chung có chú ý đến đặc điểm và điều kiện của trí thức nữ.

Có vậy, đội ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng mới có thể phát triển

mạnh về số lượng, nâng cao về chất lượng và phát huy được tiềm năng của

mình trong sự nghiệp đổi mới.

Từ những lí do trên, đề tài “Lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” được chọn làm luận văn thạc sỹ này.

4

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề phụ nữ và trí

thức nữ. Có thể kể ra một số công trình, bài báo tiêu biểu sau:

- Phụ nữ Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước, vấn đề lao động, việc làm và hạnh phúc gia đình, gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội, cách nhìn từ Việt Nam và Hoa Kỳ. Bùi Thị Kim Quỳ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.

- Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đỗ Thị Thạch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

- Chính sách đối với nữ trí thức khoa học và công nghệ - đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách, giải pháp mới. Đề tài nhánh, do ThS. Nguyễn Đông Hanh chủ nhiêm, thuộc đề tài cấp nhà nước “Đổi mới chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Mã số ĐTĐL - 2003/27 (2006).

- Thực trạng tham gia của cán bộ giảng dạy nữ vào các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, quản lý trong nhà trường đại học và các giải pháp quản lý nhằm nâng cao vai trò của họ. Đề tài cấp bộ, do ThS. Trần Thị Bạch Mai làm chủ nhiệm, (2001).

- Nghiên cứu thực trạng và những giải pháp phát huy tiềm năng đội ngũ nữ trí thức khoa học - công nghệ TP Hồ Chí Minh, do TS. Bùi Thị Minh Hằng làm chủ nhiệm (11/2000);

- Cán bộ khoa học nữ với thời kì đổi mới. Thực trạng và một số kiến

nghị. Phạm Thị Ngọc Anh. Tạp chí Cộng sản, tháng 10/1995.

- Phụ nữ, giới và phát triển. Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng, Nxb

Phụ nữ, Hà Nội, 1996.

- Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội và tham gia quản lý đất nước và định hướng đến năm 2000, Trương Mỹ Hoa, Tạp chí Cộng sản, tháng 10/1995.

- Một vài điểm về bước tiến của các nhà khoa học nữ trong thời kỳ qua - Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt Nam 1985 - 1995, Hoàng Thị Lịch. Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1995.

5

- Từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghĩ về một số vấn đề của

phong trào giải phóng phụ nữ ngày nay. Phan Văn Các, Nxb. Phụ nữ, Hà

Nội, 1990.

- Phụ nữ và khoa học. Dương Thị Duyên. Tạp chí Khoa học và Phụ

nữ, tháng 2/1997...

Như vậy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về phụ nữ

nói chung và trí thức nữ nói riêng. Song rõ ràng trong thực tiễn, nhất là trong

điều kiện nước ta, bên cạnh những truyền thống tốt đẹp cần được phát huy,

vẫn còn có những cách nhìn, cách ứng xử phong kiến nặng nề đối với phụ

nữ. Đặc biệt là từ ngày đổi mới đến nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang

kinh tế thị trường, thực hiện CNH, HĐH, đã mang lại nhiều điều kiện mới,

thuận lợi hơn đối với trí thức nữ, nhưng cũng lại xuất hiện những bất cập

mới. Vì vậy, để các chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước đối với phụ

nữ và trí thức nữ đạt được hiệu quả, việc nghiên cứu thực trạng đội ngũ trí

thức nữ, phân tích các điều kiện hiện nay và đề xuất các giải pháp mới phù

hợp nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này, thực hiện tốt hơn công bằng

về giới, là công việc cần được tiếp tục.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích của luận văn

- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng lao động trí thức

nữ ở Việt Nam.

- Đánh giá các chính sách cơ bản thời gian qua đối với lao động nữ

nói chung, trí thức nữ nói riêng, từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp

cơ bản về chính sách đối với trí thức nữ trong điều kiện mới.

* Nhiệm vụ của luận văn

- Phân tích những vấn đề lý luận về trí thức nữ, làm rõ đặc điểm, vai

trò của trí thức nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.

- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về đội ngũ, về hoạt động

của trí thức nữ trong thời gian qua; những ưu điểm và nhược điểm của hệ

thống chính sách đối với sự phát triển trí thức nữ trong giai đoạn hiện nay.

6

- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chính sách phát triển đội

ngũ trí thức nữ trong thời kì CNH, HĐH.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu

Luận văn lấy hoạt động lao động của trí thức nữ và các chính sách của

Đảng, Nhà nước đã ban hành làm đối tượng nghiên cứu.

* Phạm vi nghiên cứu

Do tình hình số liệu bị hạn chế, nên luận văn chỉ đi sâu phân tích vào

hai lĩnh vực là Khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo. Tuy nhiên, theo

Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999, số lượng trí thức có trình

độ cao ở 2 ngành trên có tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các ngành kinh tế (Giáo

dục - Đào tạo: TSKH - 42,6%, tiến sĩ - 37,9%, thạc sĩ - 42,9%, cử nhân/kỹ sư

- 18,9%; Khoa học - công nghệ: TSKH - 21,1%, tiến sĩ - 17,7%,). Đồng thời,

do hai lĩnh vực trên, nhất là giáo dục - đào tạo, số lượng và tỷ lệ lao động nói

chung, trong đó trí thức nữ nói riêng khá đông, nên các kết luận rút ra có thể

khái quát chung cho trí thức nữ Việt Nam (Theo niên giám thống kê năm

2005, tỷ lệ lao động nữ trong ngành GD&ĐT là 69,5%). Các giải pháp chính

sách đưa ra đối với trí thức nữ nói chung là dưới góc độ kinh tế chính trị.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận

Luận văn lấy lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm

của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cơ sở nghiên cứu. Đồng thời, luận văn sử

dụng một cách có lựa chọn những lý luận về giới, về tâm lý, về tổ chức lao

động,… của thế giới làm luận cứ trong các phân tích, lý giải của mình.

* Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở các phương pháp chung như: Phương pháp biện chứng duy

vật, phương pháp trìu tượng hoá, phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống

hoá, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp

thống kê; phương pháp phỏng vấn sâu một số trí thức nữ.

7

6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn

* Đóng góp của luận văn

- Luận văn góp phần làm rõ thêm những cơ sở lý luận và thực tiễn

phát triển đội ngũ trí thức nữ ở Việt Nam.

- Đề xuất những phương hướng và giải pháp chính sách cơ bản thúc

đẩy việc phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức nữ, thực hiện tốt hơn công

bằng về giới trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam.

* Ý nghĩa của luận văn

- Kết quả luận văn góp thêm cơ sở khoa học cho việc định hướng và

đưa ra những kế hoạch phát triển lao động trí thức nữ ở Việt Nam giai đoạn

hiện nay.

- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu

các vấn đề về phụ nữ, trí thức nữ, giảng dạy các môn khoa học về nguồn

nhân lực trong các trường Đại học và Cao đẳng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Trí thức nữ: Khái niệm, đặc điểm và vai trò của họ trong

sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam

Chương 2: Thực trạng đội ngũ trí thức nữ ở Việt Nam hiện nay và

những vấn đề về chính sách đối với đội ngũ này.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp chính sách nhằm phát triển trí

thức nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

8

Chƣơng 1

TRÍ THỨC NỮ - KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ

CỦA LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG

NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM

1.1. Lao động trí thức nữ: Khái niệm và đặc điểm của họ

1.1.1. Khái niệm trí thức, lao động trí thức nữ

1.1.1.1. Khái niệm trí thức

Có nhiều quan niệm, định nghĩa về trí thức ở nhiều cấp độ khác nhau.

Theo từ điển tiếng Việt: “Trí thức: người chuyên làm việc lao động trí

óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình”.

Trong từ điển tiếng Nga (1991), viết “Trí thức - đó là những người có

học vấn và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn

hoá và đang làm nghề lao động trí óc”.

Theo đại từ điển bách khoa Xô Viết: “Trí thức là tầng lớp xã hội của

những người làm nghề nghiệp, bằng trí óc, chủ yếu là lao động phức tạp,

sáng tạo, là phát hiện và phổ biến văn hoá”.

Qua các định nghĩa trên có thể thấy định nghĩa thứ ba cho ta cách hiểu

rõ hơn trên bình diện xã hội, đó là: Trí thức là một nhóm, một tầng lớp xã hội

với những đặc điểm chung như làm nghề nghiệp, bằng trí óc, chủ yếu là lao

động phức tạp, họ có chức năng xã hội là sáng tạo, phát hiện, truyền bá, phổ

biến văn hoá. Tuy nhiên, ở định nghĩa thứ nhất và thứ hai cũng cho ta cách

nhận biết người trí thức, đó là người có học vấn và tri thức chuyên môn cần

thiết thuộc lĩnh vực nghề nghiệp của mình.

Xét trong cơ cấu xã hội, V.I.Lênin cho rằng trí thức “không hợp thành

một giai cấp độc lập về kinh tế, mà là một tầng lớp bao hàm không chỉ các

nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả những người có học thức, các

đại biểu của các nghề tự do nói chung, câc đại biểu của lao động trí óc phức

tạp”; và theo ông, trí thức là một “tầng lớp này trong hệ thống phân công lao

động xã hội, từ tính chất và nội dung lao động của họ do trình độ học vấn và

9

trình độ chuyên môn quy định. Vị trí ấy và tính chất nội dung ấy làm nên nét

nổi bật của người trí thức - người lao động sáng tạo” [22, tr.372].

Ở nước ta, khái niệm trí thức cũng được nhiều người, nhất là các nhà

khoa học, các nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều cách tiếp cận và lý giải

khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở một số đặc trưng: Người trí thức là

khái niệm dùng để chỉ tất cả những người lao động trí óc, có trình độ học

vấn, có khả năng sáng tạo và phẩm chất đạo đức cá nhân.

Theo Hồ Chí Minh, người tốt nghiệp ĐH, nhưng nếu chỉ thuộc kiến

thức sách vở, không biết vận dụng vào thực tế, thì đó chỉ là “trí thức học

sách”, “trí thức một nửa”, “chưa phải là trí thức hoàn toàn” [24, tr.235].

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, ở người trí thức không chỉ cần có kiến

thức chuyên môn, mà một dấu hiệu cơ bản khác phải có là biết vận dụng

sáng tạo những kiến thức đó vào thực tế cuộc sống..

Trên cơ sở quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê

nin cũng như quan niệm của một số nhà nghiên cứu ở nước ta về trí thức, có

thể đi tới một quan niệm chung về trí thức như sau:

Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao; trình

độ chuyên môn sâu, có phẩm chất; lương tri; lao động trí óc phức tạp; sáng

tạo, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động thực

tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Với khái niệm trí thức này chúng ta có thể nhận biết trí thức trên một

số đặc điểm cơ bản sau:

Một là, trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội.

Theo V.I.Lênin, khi xã hội phân chia thành giai cấp, cái quyết định cho tính

chất giai cấp của các lực lượng xã hội là quan hệ sở hữu. Trong xã hội đó, trí

thức không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu về tư liệu sản xuất, trí

thức “không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế” mà là tầng lớp xã hội

trung gian. Căn cứ vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có thể khẳng định

rằng, trí thức là một tầng lớp xã hội.

10

Hai là, trí thức là người có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn

sâu. Trình độ học vấn của người trí thức phải được hiểu ở trình độ khoa học

cơ bản và trình độ khoa học chuyên ngành. Trình độ học vấn và chuyên môn

cao ở mức độ nào để được gọi là trí thức thì tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế -

xã hội và văn hoá của mỗi quốc gia tại mỗi thời điểm lịch sử. Ngày nay, trình

độ chuẩn mực về học vấn ở nước ta là bậc CĐ, ĐH trở lên. Tuy nhiên, bằng

cấp mới chỉ là tiêu chí ban đầu; bởi vì trong thực tế, không ít người có bằng

cấp đó nhưng lại không tham dự vào lao động trí óc phức tạp, không thể hiện

được họ có trình độ đó. Cùng với trình độ học vấn cơ bản cao, người trí thức

còn phải được trang bị kiến thức sâu về chuyên ngành. Đó là cơ sở, điều kiện

cho lao động sáng tạo khoa học của trí thức. Để tham gia vào quá trình lao

động sáng tạo khoa học, người trí thức phải đi sâu nghiên cứu chuyên ngành

được đào tạo hoặc tham gia nghiên cứu khoa học. Có kiến thức sâu về

chuyên ngành thì họ mới có thể sáng tạo ra những sản phẩm đích thực, được

xã hội thừa nhận.

Ba là, người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, lương tâm.

Người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, phục vụ lợi ích cho toàn

dân tộc, luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân

của mình. Người trí thức trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước đương nhiên

phải là những người sáng tạo ra những thành tựu khoa học - công nghệ (KH -

CN), những sản phẩm văn hoá có giá trị đích thực, đóng góp cho sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Bốn là, người trí thức là người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo. Đây

là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất phân biệt trí thức với bộ phận lao động

khác. Lao động trí óc có nhiều dạng khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Tiêu

chí để phân biệt hai dạng thức lao động này là sự hao phí trí lực, hàm lượng chất

xám ít hay nhiều trong quá trình lao động. Lao động trí óc giản đơn như những

người làm công việc hành chính, sự vụ, nhiệm vụ chủ yếu của họ là làm thông

suốt các qui trình hành chính qua công văn, giấy tờ thì sự hao phí năng lượng trí

lực không phải là cơ bản. Lao động của người trí thức là sự tìm tòi, khám phá,

11

sáng tạo cái mới, cái tiến bộ đòi hỏi phải tư duy ở mức độ cao, và ở đây, sự hao

phí năng lượng thần kinh trung ương là chủ yếu.

Lao đông trí óc phức tạp của trí thức là lao động sáng tạo. Sự sáng tạo

thường có mầm mống và tích luỹ dần qua giáo dục, đào tạo và nảy sinh trong

quá trình nghiên cứu, tìm tòi.

Với bốn đặc trưng cơ bản trên guíp chúng ta nhận thức rõ hơn về khái

niệm trí thức. Quan niệm đúng và đầy đủ về trí thức sẽ là cơ sở quan trọng

cho việc xây dựng, phát triển và phát huy tiềm năng đội ngũ trí thức, nhờ đó,

khai thác có hiệu quả tiềm năng này trong sự phát triển kinh tế - xã hội.

Xét theo quan điểm hệ thống, lao động trí thức nữ là một bộ phận hợp

thành của trí thức Việt Nam. Với vị thế to lớn của mình, cùng với các bộ

phận lao động khác, nếu được hiểu đúng, từ đó có chính sách đào tạo và phát

huy tiềm năng, họ sẽ là lực lượng quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

1.1.1.2. Khái niệm về lao động trí thức nữ

Trí thức nữ, trước hết họ là trí thức và là bộ phận nằm trong cơ cấu

hợp thành của tầng lớp trí thức nước ta. Họ có những đặc trưng cơ bản của

người trí thức đã nói ở trên, nhưng đồng thời lao động trí thức nữ có những

nét đặc thù riêng phân biệt với những người trí thức, bộ phận trí thức khác.

Những nét đặc thù mang tính tự nhiên mà ngày nay khoa học diễn đạt

bằng thuật ngữ giới tính (Sexual - Giới tính chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ

về mặt y - sinh học, liên quan đến chức năng tái sản xuất giống nòi) và những

đặc thù mang tính xã hội được diễn đạt bằng thuật ngữ giới (Gender - Giới

chỉ mối quan hệ và tương quan giữa địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới

trong một bối cảnh xã hội).

Trong mỗi lao động trí thức nữ có sự gắn bó hữu cơ giữa tư cách trí

thức và tư cách nữ. Do đó, để tiếp cận lao động trí thức nữ buộc chúng ta

phải tiếp cận đồng thời từ hai phía: Họ là người trí thức đồng thời họ là người

phụ nữ. Nếu hiều trí thức nữ chỉ với những đặc trưng người trí thức tuy là

đúng nhưng chưa đủ, mà còn phải hiểu họ ở cả tư cách nữ, tức là từ góc độ

giới tính. Họ có những đặc thù, những thiên chức giới tính khác với lao động

12

trí thức nam. Xét cả mặt tự nhiên và xã hội, họ có những ưu thế và cũng có

những yếu thế so với lao động trí thức nam trong quá trình hoạt động trí tuệ,

sáng tạo của mình.

Từ những cơ sở phân tích trên, chúng ta có thể hiểu lao động trí thức

nữ, trước hết là người lao động trí thức, họ có đằy đủ đăc trưng của người trí

thức, là một bộ phận của đội ngũ trí thức tham gia hoạt động lao động trên tất

cả các lĩnh vực; đồng thời họ là một bộ phận tiêu biểu của phụ nữ với những

phẩm chất của người phụ nữ như tinh thần cần cù, chịu khó, nhân hậu, đảm

đang… và thiên chức làm vợ, làm mẹ.

Như vậy, có thể quan niệm lao động trí thức nữ là những người phụ

nữ có học vấn, có trình độ chuyên môn từ CĐ, ĐH trở lên, làm việc trong các

lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, thực hiện các chức năng của người trí

thức nhằm phát triển kinh tế - xã hội.

1.1.2. Đặc điểm của lao động trí thức nữ

1.1.2.1. Đặc điểm của lao động trí thức

Như đã phân tích trong phần khái niệm trí thức nữ, là một bộ phận của

tầng lớp trí thức nên lao động trí thức nữ cũng có những đặc điểm cơ bản của

lao động của trí thức nói chung. Vì vậy để hiểu được lao động trí thức nữ, ta

cần hiểu đặc điểm của lao động của trí thức là như thế nào.

Từ định nghĩa về người trí thức và thông qua tổng kết thực tiễn lao

động của các nhà khoa học, người ta đưa ra những đặc điểm lao động khoa

học nỏi riêng hay lao động của người trí thức nói chung so với những người

lao động khác là ở các điểm: Tính sáng tạo, tính cá nhân, rủi ro cao, đòi hỏi

sự tích luỹ lớn về kiến thức và môi trường thực sự dân chủ, tự do sáng tạo

[36, tr.141-142].

Sau đây sẽ nói rõ hơn một số đặc điểm lao động của người trí thức.

a) Tính sáng tạo

Khác với người lao động trong lĩnh vực sản xuất, dựa vào thiết kế có

sẵn và nắm bắt quy trình để thực hiện, người làm công tác nghiên cứu cũng

13

như nhà văn, nhạc sĩ, tác phẩm là công trình của lao động, nhưng không chỉ

là lao động cần mẫn mà là lao động đầy trí tuệ.

Riêng với lao động sáng tạo khoa học không phải là một quá trình tùy

tiện, mà được tiến hành theo một hệ thống các nguyên tắc và phương pháp

nhất định. Các nguyên tắc và phương pháp đó đóng vai trò là phương tiện và

công cụ để xử lý và lý giải các hiện tượng, các quy luật vận động của đối

tượng nghiên cứu. Sáng tạo khoa học là một quá trình lao động gian khổ, đòi

hỏi phải có kiến thức hệ thống và thế giới quan biện chứng để sử lý dữ liệu, sự

kiện. Như vậy đối với người làm nghiên cứu khoa học phải có kiến thức hệ

thống về một lĩnh vực đang nghiên cứu, đồng thời phải nắm vững hệ thống các

phương pháp nghiên cứu với một thế giới quan biện chứng.

Sự sáng tạo không phải ai cũng có và không phải xuất hiện bất kỳ lúc

nào. Sự sáng tạo khoa học thường có mầm mống và tích luỹ dần qua giáo

dục, đào tạo và nảy sinh trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi. Mức độ trang bị

kiến thức, môi trường hoạt động, điều kiện sống cũng như các quan hệ xã

hội, tuổi tác,... là những yếu tố tác động mạnh đến lao động sáng tạo của

những người làm nghiên cứu khoa học.

b) Tính cá nhân

Cũng chính từ tính sáng tạo, vai trò cá nhân, phẩm chất cá nhân của

mỗi nhà khoa học, nhà văn,... nổi lên rõ rệt. Trong hoạt động nghiên cứu,

không thể lấy số lượng để bù đắp cho sự yếu kém về chất lượng cán bộ. Để

có hiệu suất cao trong hoạt động nghiên cứu, cần có sự chọn lọc kỹ để có

được những người thực sự có khả năng nghiên cứu khoa học. Một tổ chức

nghiên cứu, dù có đông đảo đến mấy nhưng thiếu những người có những suy

nghĩ độc đáo, thông minh và sáng tạo, những người thực sự có tài năng, sáng

tạo mạnh mẽ thì cũng không thể thành công trong hoạt động của mình. Do

đó, dù là một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể tiến hành thì vai

trò cá nhân trong hoạt động nghiên cứu cũng mang yếu tố quyết định. Tính

cá nhân là sự thể hiện trong tư duy cá nhân và chủ kiến riêng của cá nhân.Tư

duy và chủ kiến cá nhân thường gắn chặt với tính cách sáng tạo đơn nhất thể

hiện ở các mặt: (1). Suy nghĩ độc lập. Đây là cơ sở của những nghi vấn khoa

14

học và là nguồn gốc của những phát minh sáng chế; (2). Sự tìm tòi, ham hiểu

biết và đam mê nghề nghiệp; (3). Tính cách thực nghiệm và phê phán nhằm

để khẳng định những sáng tạo của cá nhân; (4). Dũng cảm, không sợ uy

quyền, dù là uy quyền chính trị hay khoa học để phát hiện và bảo vệ chân lý.

Tính cá nhân trong lao động sáng tạo không có nghĩa là vị kỷ cá nhân,

mà là khả năng độc lập và tự chủ trong khám phá, sáng tạo mang đậm nét cá

tính và năng lực của cá nhân nhà khoa học. Tuỳ theo trình độ học vấn, tư chất

di truyền, thể lực và môi trường xã hội mà cá tính và năng lực cá nhân hình

thành và phát huy khác nhau. Chính nhờ “Tính cá nhân” mà các trường phái

khoa học hình thành và phát triển.

c) Tính rủi ro

Sản phẩm của lao động nghiên cứu của những nhà khoa học là cái mới,

cái chưa biết, do đó mà cũng có thể thành công và cũng có thể thất bại. Sự thất

bại thường gặp nhiều trong nghiên cứu khoa học. Sự thất bại này do rất nhiều

nguyên nhân như do thiếu thông tin cần thiết và đủ tin cậy cho việc nghiên cứu;

do trình độ kỹ thuật của thiết bị phục vụ nghiên cứu chưa đạt tới trình độ để

kiếm chứng lý thuyết, giả thuyết đặt ra; do khả năng thực hịên của người nghiên

cứu chưa đủ tầm để xử lý vấn đề; do môi trường xã hội không thuận lợi (thiếu

dân chủ để khích lệ người nghiên cứu sáng tạo, do yếu tố văn hoá cản trở,...).

Tuy nhiên, trong lao động khoa học, thất bại ở một khía cạnh khác cũng được

xem là một kết quả. Nó là một bài học và kinh nghiệm cho người nghiên cứu

tiếp tục về sau.

Tính rủi ro cao đặt ra cho các nhà quản lý, nhất là các cơ quan nhà

nước phải có chính sách đầu tư và hỗ trợ đối với những nghiên cứu có tính

rủi ro cao nhưng cần thiết đối với sự phát triển, đặc biệt đối với các nghiên

cứu cơ bản. Vai trò của nhà nước, trước hết là Chính phủ có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng trong trường hợp này - nơi mà “thị trường bị thất bại”.

d) Tính kế thừa và tích luỹ

Nói chung, lao động sáng tạo thường xuất phát từ sự kế thừa những kết

quả của những người đi trước. Mặt khác, để lao động sáng tạo, người nghiên

cứu phải trải qua thời kỳ thu thập và tích luỹ một lượng thông tin liên quan

15

nhất định. Trên cơ sở đó, bằng hệ thống các phương pháp khoa học, những ý

tưởng, giả thuyết,... mới được khẳng định hoặc phủ định. Vì vậy, kế thừa và

tích luỹ là một giai đoạn mang tính tất yếu. Trong giai đoạn này, người

nghiên cứu phải lao động cần cù, gian khổ. Đồng thời, qua kinh nghiệm thực

tế, người ta thấy rằng hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học phụ thuộc vào

một cách đáng kể vào thông tin, vào các công cụ thí nghiệm và các công cụ

nghiên cứu khác.

Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện

nay, đồng thời do việc tăng nhanh các nhu cầu của kinh tế - xã hội, một phần

kiến thức của con người sẽ thường xuyên mất giá trị. Các chuyên gia cho

rằng nhịp độ tiến bộ trung bình hằng năm của kiến thức nhân loại là trong

khoảng từ 4% đến 6%. Do vậy, trên 50% kiến thức chuyên môn của con

người sẽ phải được bổ sung thông qua con đường học tập thường xuyên,

Thời gian dành cho việc này ở cán bộ trung cấp chuyên nghiệp là 24%; ở cán

bộ ĐH là 28% toàn bộ thời gian có khả năng lao động [42]. Như vậy, việc

tạo các điều kiện học tập, thu thập và trao đổi thông tin trong các tập thể khoa

học là vô cùng quan trọng đối với nhà nghiên cứu, không những chỉ ở những

thời gian nhất định mà phải liên tục, không ngừng.

1.1.2.2. Những đặc điểm giới tính và giới của lao động trí thức nữ

Các kết quả nghiên cứu y - sinh học [40, tr.15] cho thấy:

* Đặc điểm về cơ thể: Chân và tay của nữ tương đối ngắn hơn nam,

xương và khớp chi nhỏ hơn nam, tổ chức cơ bắp ở chân tay của nữ kém hơn

nam, phổi của nam lớn gấp rưỡi phổi nữ, mỗi phút tim của nữ đập trung bình

80 lần/phút, tim của nam đập 72 lần/phút; nữ trung bình có 3,6 lít máu, nam

4,5 lít máu; 40% cơ thể nam do cơ bắp tạo nên, trong khi nữ là 35%, sức

mạnh cơ bắp của nam gấp 3 lần nữ…

Qua một vài đặc điểm trên cho thấy, nữ không thể làm những công

việc đòi hỏi thể lực ngang bằng như nam giới. Cần tránh cho nữ những lao

động nặng nhọc, căng thẳng, kéo dài, nguy hiểm, trong môi trường độc hại…

* Đặc điểm não bộ và giác quan: Bộ não của nam giới nặng hơn nữ

14%. Những sự liên kết giữa 2 bán cầu não của nữ tốt hơn nam và tình trạng

16

cung cấp máu cho não của nữ tốt hơn nam. Thính giác, khứu giác của nữ tốt

hơn nam. Gần đây các nhà khoa học Mỹ còn phát hiện thêm: Chất xám trong

não của nam gấp 6 lần não của nữ, ngược lại chất trắng trong não nữ lại gấp

10 lần nam, mà chất xám là cơ sở chủ yếu cho các trung tâm phân tích, còn

chất trắng có chức năng trội về liên kết các hoạt động thần kinh… Những đặc

điểm nêu trên cùng với những trắc nghiệm, cho thấy: nam có khả năng làm

việc tập trung chú ý cao độ vào đối tượng lâu bền hơn nữ; nhưng nữ có khả

năng phân phối chú ý cùng lúc đến nhiều đối tượng tốt hơn; nam hoạt động

phân tích trội hơn nữ, nhưng nữ có khả năng phối hợp các hoạt động linh

hoạt hơn; nữ nhạy cảm hơn nam, nhất là về thính giác, khứu giác; còn thị

giác thì nam nhìn vật ở xa tốt hơn, trong khi nữ nhìn các vật ở gần và nhỏ tốt

hơn… Từ đó gợi ra rất nhiều điều có thể vận dụng vào bố trí công việc cho

lao động trí thức nữ phù hợp với đặc điểm giới tính, phát huy được thế mạnh

của mỗi giới trong các ngành nghề khác nhau.

* Đặc điểm về hoạt động tâm lý: Ở trên đã đề cập một vài khía cạnh

liên quan giữa đặc điểm thần kinh và tâm lý. Ở đây muốn nêu thêm vài điểm:

Tư duy logic ở nam có phần nổi trội hơn nữ, vì nữ tư duy gắn liền với

linh cảm và cảm xúc. Richard Hier, giáo sư Trường Đại học tổng hợp

California đã tiến hành chụp ảnh cộng hưởng từ và phân tích cho thấy: nam

suy nghĩ bằng tế bào xám nhiều hơn nữ, trong khi ở nữ các vùng não đảm

trách sự lo sợ và tức giận phát triển hơn nam. Có lẽ vì thế trong quá trình tư

duy, nữ thường “trộn lẫn” cảm xúc, tâm trạng và những linh cảm trực giác

vào những suy nghĩ, ý kiến của mình… chứ không quá lý lẽ sách vở, khô

khan, lạnh lùng như nam giới. Cũng vì thế nữ dễ cảm thông, xử lí các mối

quan hệ có lí, có tình, dễ tạo mối quan hệ tình cảm với những người chung

quanh…

Đặc điểm trội về phát triển ngôn ngữ và hormone giao tiếp ở nữ so với

nam cũng khiến cho nữ thường thích giao tiếp, linh hoạt trong giao tiếp, sử

dụng ngôn ngữ phong phú, đa dạng trong giao tiếp và hay nói nhanh, nói

nhiều, nói dài (Trong nghiên cứu đã dẫn của các nhà khoa học Mỹ cho thấy:

nữ thường mất trung bình 20 phút cho một cuộc điện thoại, trong khi đó nam

17

mất 6 phút). Cũng do đó việc học ngoại ngữ, phát triển kỹ năng giao tiếp ở

nữ có phần thuận lợi hơn nam…

Những đặc điểm giới tính nữ nói trên và nhiều đặc điểm khác nữa, nếu

được nghiên cứu khai thác đúng người, đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc, chắc

chắn sẽ phát huy được những tiềm năng, lợi thế nữ tính một cách hiệu quả.

* Những đặc điểm về giới do điều kiện xã hội - lịch sử chế ước cũng

cần được quan tâm. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,

chính sách thúc đẩy sự bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng vẫn

còn nhiều sức ì, nhiều sự cản trở từ phía gia đình, xã hội và bản thân người

phụ nữ trong quá trình thực thi bình đẳng giới nói chung và trong việc tạo

điều kiện thuận lợi cho lao động trí thức nữ nói riêng. Dưới dây đề cập đến

một vài khía cạnh cụ thể:

Gia đình có thể là hậu phương thuận lợi, nhưng cũng có thể là những

khó khăn cản trở đối với lao động của trí thức nữ. Nữ trí thức cũng như mọi

phụ nữ khác, đều có hạnh phúc làm vợ, làm mẹ. Và cái hạnh phúc đó ràng

buộc, níu kéo, tiêu tốn của người phụ nữ rất nhiều thời gian và sức lực. Ở

Việt Nam càng đòi hỏi người phụ nữ phải hy sinh nhiều hơn cho cuộc sống

gia đình, do điều kiện sống còn nhiều khó khăn và do áp lực của các giá trị

văn hoá về người “con thảo”, người “mẹ hiền”, “vợ đảm”, “phụ nữ ba đảm

đang”… Dư luận xã hội là một áp lực lớn đối với người phụ nữ vốn nhạy

cảm. Trong khi đó một số lĩnh vực như lao động KH&CN là loại lao động trí

óc, phức tạp, có chuyên môn sâu, đòi hỏi phải tập trung cao độ vào đối

tượng, phải say mê theo đuổi công việc đến cùng… Người phụ nữ phải thực

hiện chức năng kép, phải giăng co đấu tranh, sắp xếp sao cho vẹn cả đôi

đường: gia đình và sự nghiệp. Theo nghiên cứu của Trần Thị Bạch Mai thì

nữ giảng viên ĐH, trung bình dành cho công việc gia đình 4,5 giờ, dành cho

công việc của trường 9,2 giờ và cho nghỉ ngơi, giải trí 6,4 giờ/ngày; 54% số

nữ giảng viên cảm thấy sức ép căng thẳng về thời gian, 55% cảm thấy sức ép

căng thẳng do phải cân bằng các vai trò và trách nhiệm… [ 25, tr.43]

Một nhận xét khác cho thấy: “Ở những giai đoạn bắt đầu vào sự

nghiệp khoa học người phụ nữ trẻ phải học tập và chịu nhiều thử thách, thì

18

cũng lại là lúc có con nhỏ và cuộc sống gia đình mới bắt đầu. Đây là giai

đoạn mà nhiều chị em nổi lên mâu thuẫn giữa sự nghiệp và gia đình, điều mà

ở nam giới ít gặp phải”.

Những định kiến xã hội về giới đã dẫn đến những hệ quả sau: Một là,

xã hội chưa thấy hết và dánh giá đúng những khó khăn của nữ trí thức; hai là,

đánh giá chưa đúng mức vai trò và khả năng của nữ trí thức; ba là, về tổ

chức, mạng lưới quan hệ xã hội cũng như những điều kiện hỗ trợ khác chưa

tạo thuận lợi cho nữ trí thức phát triển và cống hiến…

Những thành kiến xã hội nói trên một khi đã trở thành nếp nghĩ, thói

quen ứng xử của xã hội, nhất là khi các cấp quản lí, các nhà hoạch định chính

sách, những người đưa ra các quyết định, phần lớn là nam giới, thì sự cảm

thông, tạo điều kiện cho nữ trí thức phát triển, không tránh khỏi có những

khó khăn hữu hình và vô hình.

Về phía bản thân người nữ trí thức. Do quá trình xã hội hoá đã có

những hạn chế và do những ràng buộc về vai trò, trách nhiệm nghĩa vụ với

gia đình và do những định kiến xã hội bị chế ước bởi những điều kiện xã hội

- lịch sử cụ thể, người phụ nữ thường gặp phải những rào cản tâm lí nhất

định. Đó là mặc cảm tự ti, thiếu tự tin vào bản thân; là sự lo ngại bị thất bại,

thậm chí sợ hãi trước dư luận xã hội; đó còn là sự an phận, bằng lòng với vai

trò, vị trí “nhân vật phụ” trong các hoạt động phức tạp như KH&CN…

1.2.Vai trò của lao động trí thức nữ và những nhân tố tác động đến họ

1.2.1.Vai trò của lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Chiến lược phát triển của nước ta đã được xác định trong các văn bản

của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, để từ nay đến năm

2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Với khoảng thời

gian 20 năm để thực hiện một công cuộc mà các nước tư bản phải mất hàng

trăm năm, các nước công nghiệp mới (NIC) cũng phải mất 40 - 50 năm, đòi

hỏi một sự nỗ lực phi thường của toàn dân tộc, trong đó đội ngũ trí thức có sứ

mạng đặc biệt quan trọng.

19

“Khi trí thức trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp thì quan hệ

giữa nó với giái cấp công nhân và nông dân cũng trở thành mối quan hệ trực

tiếp gần gũi như chính giai cấp công nhân và nông dân. Nó không còn là

ranh giới giữa người ở thượng tầng kiến trúc, kẻ ở hạ tầng cơ sở như cách

nghĩ trước đây. Do đó trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta, đọi ngũ trí

thức không chỉ có vị trí quan trọng trong lĩnh vực sáng tạo văn hoá hay hoạt

động trí tuệ mà còn có vị trí rất quan trọng trong lĩnh vực sản xuất trực tiếp

ra của cải vật chất” [8, tr.152]

Hiện nay, đất nước ta tiến hành CNH, HĐH trong một bối cảnh đặc

biệt. Chúng ta thực hiện CNH, HĐH trong bối cảnh xu hướng thế giới hiện

nay là cuộc cách mạng KH - CN hiện đại đang phát triển rất mạnh mẽ. Với

sự phát triển cực nhanh của KH - CN, nhân loại đang tiến tới xã hội thông

tin, tới nền kinh tế tri thức.

Mặt khác, trong điều kiện cách mạng KH - CN phát triển như vũ bão

trên phạm vi toàn cầu và với xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, ở các

nước đang phát triển, việc hiện đại hoá công nghệ chủ yếu thông qua con

đường chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Bởi lẽ, quá trình tự

nghiên cứu triển khai công nghệ tất yếu phải xây dựng trên nền tảng khoa

học kỹ thuật hiện đại, đòi hỏi vốn đầu tư lớn mà chưa đưa lại ngay hiệu quả.

Kinh nghiệm của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NIC), ở thời kỳ

CNH, HĐH đã chỉ ra rằng chuyển giao công nghệ là cách làm rẻ nhất, nhanh

nhất, có hiệu quả nhất để có được công nghệ hiện đại. Với những nước này,

sau khi tiếp nhận công nghệ mới, họ thường nghiên cứu, cải tiến để chế tạo ra

những sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng và tiện lợi hơn. Họ còn kết

hợp công nghệ tiên tiến của phương Tây với ưu thế giá nhân công rẻ, quy mô

sản xuất vừa và nhỏ có khả năng đổi mới công nghệ nhanh để tăng thêm khả

năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, dù chỉ tự nghiên cứu,

triển khai hay chuyển giao công nghệ thì sự thành công của họ đều tất yếu

phải thông qua kinh nghiêm, năng lực sáng tạo, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ tổ

chức quản lý của người lao động nước mình.

20

Ở nước ta, vấn đề trung tâm của CNH, HĐH là chuyển giao công

nghệ. CNH, HĐH là quá trình trang bị công nghệ mới cho các ngành sản xuất

trong nước, đặc biệt là với các ngành then chốt. Yêu cầu làm chủ công nghệ

mới, nhất là công nghệ cao là hết sức bức thiết. Việc nhập công nghệ mới,

làm chủ nó, biến công nghệ mới thành của mình, đòi hỏi cần đến trình độ trí

tuệ cao của người lao động. Lực lượng đi đầu trong việc tiếp cận với công

nghệ mới, nắm chắc nó, làm chủ nó, không thể ai khác, mà phải là những nhà

KH&CN - những trí thức.

Để có thể tiếp thu công nghệ mới từ những nước công nghiệp phát

triển, thực hiện “đi tắt đón đầu”, chúng ta phải có những điều kiện cơ bản:

Một là phải có những điều kiện vật chất - kỹ thuật để nhập công nghệ mới;

hai là phải có đội ngũ cán bộ KH &CN đủ năng lực làm chủ công nghệ nhập;

ba là phải có điều kiện chuyển giao kiến thức về quản lý quá trình sử dụng

công nghệ. Trong các điều kiện cơ bản trên, đội ngũ cán bộ KH &CN là nhân

tố cơ bản nhất, quyết định nhất.

Định hướng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta là theo hướng toàn

diện, bền vững. Lực lượng chủ yếu để thúc đẩy quá trình này là lực lượng trí

thức. Với mục tiêu xây dựng một xã hội phát triển bền vững, sự tăng trưởng

không chỉ về mặt kinh tế - kỹ thuật, mà còn đảm bảo sự phát triển hài hoà

giữa kinh tế với xã hội nói chung, giữa kinh tế - kỹ thuật với việc đảm bảo sự

cân bằng về sinh thái, môi trường. Trên quan điểm này, sự phát triển kinh tế -

xã hội ở đây chủ yếu là qúa trình đẩy mạnh các hoạt động nhằm nâng cao

chất lượng dân số và cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quy mô và chất

lượng đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài trên cơ sở không ngừng

nâng cao dân trí, mức hưởng thụ văn hoá cho mọi người. Lực lượng lao động

chủ yếu thực hiện việc thúc đẩy các quá trình này chính là đội ngũ trí thức,

trong đó có các giảng viên ở các trường đại học, cao đẳng, các thầy thuốc, kỹ

sư…

Lao động trí thức nữ nước ta ngày càng khẳng định vai trò trong nhiều

lĩnh vực khác nhau.

21

Hiện nay, đội ngũ trí thức nữ hoạt động trong rất nhiều các lĩnh vực khác

nhau của đời sống xã hội, bao gồm chính trị, quản lý, GD&ĐT, KH &CN, y

tế… Họ tham gia hoạt động kể cả những lĩnh vực mà trước đây hầu như chỉ có

nam giới tham gia, như luật pháp, kiểm soát, thông tin, bưu chính, khoa học…

Mặc dù, tỷ lệ tham gia của lao động trí thức nữ ở các lĩnh vực còn thấp, chưa

tương xứng với tỷ lệ phụ nữ trong dân cư nói chung và khả năng to lớn của chị

em phụ nữ nói riêng, nhưng chúng ta có thể thấy họ đã và đang thể hiện vai trò,

khả năng trí tuệ của mình trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.

- Trong lĩnh vực khoa học: Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công

nghệ, với gần 38% trong tổng số cán bộ có trình độ ĐH và CĐ trở lên của cả

nước, đội ngũ lao động trí thức nữ được đào tạo ở nhiều ngành khoa học khác

nhau và đang công tác ở hầu hết trong các ngành kinh tế quốc dân. Phụ nữ

đang tham gia ngày càng nhiều hơn trong các lĩnh vực khoa học đòi hỏi tư

duy cao như công nghệ, kỹ thuật, tự nhiên. Trong đội ngũ lao động trí thức

nữ đã hình thành một bộ phận chuyên gia có trình độ ngày càng cao. Tính

đến cuối năm 2000, lao động trí thức nữ có học hàm giáo sư (GS) chiếm

4,3%, học hàm phó GS chiếm 70%, có trình độ tiến sĩ (TS) chiếm 14,9%,

trình độ thạc sĩ (ThS) chiếm 29,1%, hơn 20 trí thức nữ là nhà giáo nhân dân

và hơn 300 trí thức nữ là nhà giáo ưu tú… trong tổng số những người có học

hàm, học vị và chức danh trong cả nước. Theo Bộ GD&ĐT, năm 2005, tỷ lệ

nữ GS là 3,3%, nữ PGS là 13,3%, nữ TS là 17,55%, nữ thạc sĩ 39,1%. Trong

số các lao động trí thức nữ này rất nhiều người đã có những cống hiến xuất

sắc trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên được nhận giải thưởng Côvalepxcaia,

nhiều người có những đống góp nhất định trong lĩnh vực khoa học và nhân

văn… Tất cả những lao động trí thức nữ đó đã góp phần to lớn vào phát triển

kinh tế và tiến bộ xã hội.

- Trong lĩnh vực quản lý, lãnh đạo: Ngoài lĩnh vực khoa học, vai trò

to lớn của lao động trí thức nữ còn tập trung thể hiện ở một bộ phận quan

trọng cán bộ nữ đang tham gia công tác lãnh đạo và quản lý đất nước, giữ các

cương vị cao trong cơ quan của Đảng và nhà nước. Bộ phận trí thức này đang

góp phần to lớn và trực tiếp vào việc hoạch định, hướng dẫn thực hiện đường

22

lối, chính sách của Đảng và nhà nước trong phất triển kinh tế - xã hội. Trong

những năm gần đây, thực tế cho thấy một hiện tượng là lực lượng lao động

trí thức nữ, các nhà khoa học nữ tham gia vào công tác quản lý và lãnh đạo

các xí nghiệp kinh doanh có hiệu quả tăng lên rõ rệt. Trong nền kinh tế thị

trường với sự cạnh tranh khốc liệt, nhiều doanh nghiệp, đơn vị kinh tế làm ăn

thua lỗ và phá sản, nhưng đã có không ít các doanh nghiệp do trí thức nữ

lãnh đạo chẳng những đứng vững mà có nơi, có mặt còn phát triển nhanh, ổn

định sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, nâng cao đời sống người lao động,

góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia (Ví dụ như Công ty Liên doanh

Đông Nam Á, Dệt 8 - 3, Bánh kẹo Hải Hà, Dệt 10 - 10…). Hiện tượng trên

đã khẳng định không chỉ các ngành như giáo dục, y tế... mới phù hợp với nữ

như chúng ta đã quan niệm, mà cả trong các lĩnh vực sản xuất mang tính chất

công nghiệp và hiện đại, trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, chị em vẫn

hoàn thành tốt chức năng điều hành quản lý. Điều đó chứng tỏ trong lĩnh vực

rất mới, phụ nữ đã tỏ rõ khả năng, sự thông minh, nhạy bén của mình góp

phần to lớn vào sự nghiệp phát triển đất nước.

- Trong lĩnh vực GD&ĐT: Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần

thứ hai (khoá VIII), Đảng ta đã khẳng định GD&ĐT và KH&CN là quốc

sách hàng đầu và lấy phát triển GD&ĐT và KH&CN làm yếu tố cơ bản, coi

đó là khâu đột phá trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Sở dĩ như vậy là bởi

vì GD& ĐT, KH&CN có vai trò hết sức quan trọng. Trong sự nghiệp GD -

ĐT, KHCN, đội ngũ trí thức Việt Nam có trách nhiệm lớn trong việc nâng

cao dân trí, tạo ra mặt bằng trí tuệ cho dân tộc ngang tầm với yêu cầu CNH,

HĐH. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm, có theo

kịp với thế giới hay không…, một phần rất quan trọng là trách nhiệm của đội

ngũ trí thức Việt Nam, trước hết trong lĩnh vực GD&ĐT.

Cùng với một số lĩnh vực quan trọng nói trên, đội ngũ trí thức nói

chung cũng như lao động trí thức nữ nói riêng còn có vai trò lớn trong các

lĩnh vực khác như sáng tạo văn học, nghệ thuật, làm phong phú thêm đời

sống vật chất, tinh thần, góp phần vào sự nghiệp giáo dục, định hướng cho

23

thế hệ trẻ và nhân cách con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực Việt Nam.

- Lao động trí thức nữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong tái sản

xuất sức lao động có chất lượng cao cho xã hội.

Phụ nữ chiếm 50% dân số, có tiềm năng trí tuệ to lớn, thực sự trở

thành động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hơn thế nữa,

trước khi trở thành một nhà khoa học, một nhà quản lý hay doanh nhân, họ là

một phụ nữ, một người vợ, người mẹ. Ở cương vị này, họ giữ vai trò đặc biệt

trên lĩnh vực tái sản xuất và giáo dục những con người hữu ích cho xã hội,

trong việc chăm sóc và bồi dưỡng từ ban đầu những đứa con - nguồn lực

tương lai quý báu nhất của dân tộc. Nếu những người mẹ có sự hiểu biết đầy

đủ về chăm sóc, giáo dục con cái, về văn hoá, xã hội,… sẽ là cái nôi của lớp

người tài năng trong tương lai.

1.2.2. Những nhân tố tác động đến đội ngũ trí thức nữ

1.2.2.1. Nhân tố xã hội lịch sử: Những định kiến xã hội đối với nữ giới

vẫn nặng nề

Tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” hay định kiến về “sự hơn hẳn của

nam giới” đã và đang tồn tại không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nơi trên thế

giới. Chính định kiến này kìm hãm sự tiến bộ của phụ nữ, hạn chế sự đóng

góp to lớn của một nửa nhân loại vào quá trình phát triển chung. Tư tưởng đề

cao vai trò của nam giới, coi phụ nữ là sản phẩm “hạng hai” trong xã hội đã

kéo dài nhiều thế kỷ nay, ăn sâu vào đầu óc của mọi người, cả nam giới và

nữ giới. Vì vậy, trên phương diện này, chúng ta có thể nhận thấy từ trước tới

nay, cuộc sống xã hội dường như chịu ảnh hưởng chủ yếu của các quan điểm,

tư tưởng, thói quen cũng như định kiến của nam giới. Trong xã hội, mọi

người luôn cho rằng người phụ nữ luôn có những phẩm chất kém hơn nam

giới. Cụ thể như: phụ nữ mềm yếu, tình cảm và dễ thụ động, sự yếu ớt và bất

ổn về tinh thần sẽ hạn chế các hiệu quả trong công việc…

Chính những định kiến xã hội trên làm cho người phụ nữ ít được tham

gia, hoặc ngại tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là các hoạt động

khoa học, kinh tế. Bản thân phụ nữ cũng thường thoả mãn với những sự lụa

24

chọn của riêng mình, muốn cống hiến cho gia đình nhiều hơn là tranh đua

ngoài xã hội.

Nhìn nhận một cách khách quan vấn đề này ta thấy, do đúng là người

phụ nữ phải thực hiện những chức năng thiên bẩm của mình nên họ ít có điều

kiện để phát triển trong nghề nghiệp. Song điều quan trọng là cách nhìn nhận

của xã hội nói chung. Một bộ phận nam giới nói riêng thường xuyên cố tình

hoặc vô ý biểu hiện thái độ hoài nghi vào khả năng của phụ nữ nên đã kìm

hãm sự phát triển của bộ phận này. Hành vi, thái độ đó đã làm trầm trọng

thêm ở người phụ nữ tâm lí tự ti đối với chính bản thân mình.

Về nguyên nhân của những định kiến xã hội trên, các nguyên nhân sâu

xa có thể là:

- Do điều kiện về lịch sử - kinh tế quy định. Khi xã hội ở trình độ phát

triển thấp, quá trình đấu tranh và lao động sản xuất dựa vào cơ bắp là chính,

nên nam giới được coi trọng hơn nữ giới. Vì vậy, khi xã hội phát triển lên,

CNH, HĐH được thực hiện, sản phẩm xã hội dựa chủ yếu vào tri thức và trí

tuệ, chắc lúc đó sự bất bình đẳng giữa nam và nữ cũng tự nhiên mất dần đi.

- Do tâm lý - văn hoá truyền thống. Với sức ỳ của truyền thống

“Trọng nam khinh nữ”, với mô hình truyền thống vai trò nam giới và phụ nữ

trong gia đình, nam giới mới được coi là lao động chính, do dó chỉ họ mới có

quyền quyết định các công việc trọng đại của gia đình, của cộng đồng và xã

hội. Vì vậy nam giới luôn được coi là có vai trò trụ cột, có vị trí và thứ bậc

cao nơn nữ giới trong gia đình và xã hội. Trong khi đó các công việc liên

quan đến phục vụ gia đình con cái, chăm nom nhà cửa được coi là thuộc về

phụ nữ. Những công việc này tuy nặng nề và quan trọng, song được coi là

việc riêng, là việc không có giá trị, do đó phụ nữ không có vị trí, không có

tiếng nói trong gia đình, cũng như trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Mô hình này cũng được sao chép trong cách thức sắp xếp và vận hành tổ

chức trong nhiều cơ quan, xí nghiệp, các đơn vị kinh tế. Nam giới thường

đóng vai trò trụ cột và ra các quyết định quan trọng, trong khi đó nữ giới, kể

cả khi có tham gia quản lý cũng chỉ mang tính hỗ trợ… Định kiến về vai trò

giới ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân thông qua quá trình xã hội hoá.

25

“Thông qua quá trình xã hội hoá, các định kiến giới được hình thành

và ngấm dần vào tiềm thức mỗi cá nhân thông qua sự giáo dục của gia đình

nhà trường và các thực tiễn xã hội. Xã hội hoá là một quá trình trong đó các

cá nhân thành viên tìm hiểu những kỳ vọng gì là phù hợp với các vị trí xã hội

nhất định… cũng như các thái độ, hành vi, quyền và nghĩa vụ gắn với một vị

trí xã hội nhất định. Song quá trình hiệu quả diễn ra khi mà các cá nhân thấm

nhuần và trau dồi, thay vì chỉ chấp nhận các quan niệm xã hội”.

Bản thân người phụ nữ nói chung, trí thức nữ nói riêng, do sự tác động

của những định kiến xã hội về giới thể hiện qua hành vi, thái độ đã làm trầm

trọng thêm ở họ tâm lý tự ti đối với chính bản thân mình. Do bị ám thị bởi tư

tưởng về sự hơn hẳn của nam giới, nên nhiều người tự coi người đàn ông như

thần tượng, là nơi che chở vững chắc cho bản thân. Trong gia đình sự phân

biệt đối xử giữa con trai và con gái (ở mặt này hay mặt khác) vẫn diễn ra.

Những ngôn ngữ giao tiếp thể hiện sự phân biệt vai trò của nữ giới trong

công việc như “làm như đàn bà”…thấm sâu vào người phụ nữ, dần dần trở

thành “nếp nghĩ”, sự “tự ý thức về mình” làm cho họ thêm sự tự tin, lo ngại

thất bại trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.

Ngày nay, sự phát triển của xã hội đang đòi hỏi và mở ra các điều kiện

thuận lợi để người phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động sản xuất và

đóng góp có ý nghĩa cho sự tiến bộ xã hội. Trước đòi hỏi đó, người phụ nữ

phải nâng cao bản thân mình về mọi phương diện để phù hợp với yêu cầu của

lĩnh vực hoạt động mới, vì vậy tích cách của người phụ nữ đang có sự thay

đổi sâu sắc.

Phụ nữ ngày nay có nhiều đức tính nổi bật như năng động, tự tin cởi

mở, ham thích hoạt động xã hội, dám nghĩ, dám làm với tinh thần trách

nhiệm cao. Những tính cách mới mẻ này khác với phụ nữ ngày xưa và gần

với tính cách “vốn có” của nam giới. Hiện nay, sự tiến bộ xã hội đòi hỏi và

tạo ra những điều kiện để phụ nữ thay đổi những quan niệm cũ và thể hiện

những phẩm chất của mình trong sự bình đẳng với nam giới.

Ở Việt Nam, khi xem xét giá trị gia đình trong hệ thống giá trị cá nhân, chúng ta thấy với quan niệm truyền thống, phụ nữ nghiêng về gia đình, nam

26

giói nghiêng về nghề nghiệp, thì nay, quan niệm này đã có sự thay đổi căn bản, phù hợp hơn với nguyện vọng phụ nữ và xu thế thời đại. Người phụ nữ muốn có bình đẳng với nam giới cả trong gia đình cũng như trong hoạt động nghề nghiệp. Theo họ, việc tham gia vào các hoạt động xã hội của phụ nữ không chỉ có thêm thu nhập cho ngân sách gia đình (đôi khi còn đóng vai trò thu nhập chính), mà còn đồng thời trực tiếp nâng cao địa vị xã hội của chị em, từ đó tâm lý tự ti, rụt rè, an phận ngay ở trong gia đình dần dần giảm bớt. Không những thế, đòi hỏi khách quan của nghề nghiệp tạo ra cho chính chị em những nhu cầu cần bồi dưỡng kiến thức chung và trình độ chuyên môn…

Điều đặc biệt này có ý nghĩa quan trọng đối với trí thức nữ. Do có trình độ học vấn cao, họ hiểu biết sâu sắc giá trị của sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Đối với họ, người phụ nữ thực sự được giải phóng khi họ có điều kiện tham gia các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Trong hoạt động kinh tế - xã hội họ sẽ không bị kìm hãm về năng lực, không bị coi thường. Vi vậy không nên tách rời và đối lập chức năng thiên bẩm với chức năng kinh tế - xã hội trong bản thân người phụ nữ. Không nên nhấn mạnh ở một chức năng nào bởi như thế là làm triệt tiêu hay hạn chế vai trò của người phụ nữ nói chung cũng như lao động trí thức nữ nói riêng đối với sự phát triển gia đình và kinh tế –xã hội. Điều quan trọng là xã hội và gia đình tạo điều kiện để lao động trí thức nữ thực hiện một cách hài hoà các chức năng như thế nào, bởi đó không chỉ là lợi ích riêng của phụ nữ mà còn là lợi ích chung của toàn xã hội.

1.2.2.2. Quan hệ gia đình và thiên chức làm vợ, làm mẹ tác động đến

lao động trí thức nữ

Người lao động trí thức nữ không chỉ là một công dân, một nhà khoa học, một nhà lãnh đạo hay quản lý mà còn là một người vợ, người mẹ. Vì vậy, muốn hoàn thành công việc có hiệu quả tương đương như nam giới, chị em phải lao động gấp hai lần cả về sức lực, trí tuệ và thời gian. Trên vai họ là hai, ba trách nhiệm đặt lên. Nhiều nhà khoa học nữ cho rằng, sự thành đạt ở nữ thấp hơn nam, nguyên nhân chủ yếu là do gánh nặng gia đình, con cái và do đó với phụ nữ, khoa học (hay sự nghiệp) và gia đình là những công việc dung hoà với nhau được là điều không mấy dễ dàng. Hoạt động khoa học đòi

27

hỏi phải tập trung tư duy, phải làm việc khi cần thiết không kể ngày đêm trong khi việc nuôi dạy con cái, nhất là khi con còn nhỏ lại là việc làm cần nhiều thời gian và đòi hỏi nhiều công sức trí tuệ không thua kém gì làm khoa học. Do vậy, công việc gia đình luôn là công việc vất vả nhất của người phụ nữ. Đối với trí thức nữ ở một nước chưa phát triển như nước ta, chức năng này còn nặng nề hơn nhiều lần. Mâu thuẫn giữa sự nghiệp khoa học, phát triển kinh tế, đảm nhiệm các công việc xã hội với nhiệm vụ gia đình phải gánh vác vẫn là điều trăn trở của nhiều trí thức nữ. Bởi vì, theo quan niệm truyền thống, người phụ nữ Việt Nam, dù ở cương vị nào, trình độ học vấn ra sao vẫn phải thực hiện chức năng cao cả là sinh con, nuôi dạy con, sẵn sàng hy sinh cho chồng cho son, thậm chí, sẵn lòng từ bỏ công danh, sự nghiệp, niềm cảm hứng sáng tạo để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Với những lý do đó, nhiều người đã không vượt qua được những khó khăn để cùng một lúc hoàn thành chức năng “kép” này. Trong bối cảnh đó, họ thường quay về với chức năng muôn thuở của người phụ nữ là gia đình. Quay về với gia đình - với nhiều trí thức nữ, không có nghĩa là từ bỏ hẳn công việc, mà là làm việc cầm chừng, với phong độ kém hiệu quả, an phận với cái gì mình đã có, không đầu tư nỗ lực để phấn đấu lên cao. Qua quan sát thực tiễn cho thấy, vai trò “nội tướng” trong gia đình đang chiếm rất nhiều thời gian và tâm trí của phần lớn trí thức nữ. Ở nước ta, mặc dù sự phân công lao động trong gia đình đã có nhiều tiến bộ so với một số nước khác trên thế giới, nam giới đã chia sẻ và giúp đỡ phụ nữ, nhưng nhìn chung người phụ nữ bao giờ cũng phải gánh vác nhiều hơn, lao động nhiều hơn.

Nhìn chung xã hội, gia đình là hai chức năng muôn thuở, có tính truyền thống của người phụ nữ ở mọi thời đại, mọi xã hội. Còn việc thực hiện nó như thế nào, ảnh hưởng của nó ít hay nhiều đến sự phát triển của người phụ nữ nói chung và trí thức nữ nói riêng lại phụ thuộc vào các yếu tố văn hoá, xã hội, kinh tế của mỗi dân tộc; mỗi thời đại.

1.2.2.3. Những điều kiện mới về kinh tế - xã hội với sự phát triển của

đội ngũ trí thức nữ

Sự phát triển và trưởng thành của lao động trí thức nữ chịu sự tác động

rất lớn của các điều kiện về kinh tế - xã hội cụ thể. Đặc biệt thể hiện rõ nét

28

qua sự tác động của các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, các

điều kiện về phát triển kinh tế, giáo dục,…

* Về các quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trí

thức nói chung, lao động trí thức nữ nói riêng

Hiểu rõ vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nên.

trong từng thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm coi

trọng, quan tâm, tạo điều kiện để đào tạo và phát huy năng lực sáng tạo của

đội ngũ trí thức. Điều đó đã được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và

Nhà nước. Những năm gần đây, tuy Đảng chưa xây dựng một chính sách

riêng đối với đội ngũ trí thức, nhưng các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về

công tác giáo dục, đào tạo cán bộ, phát triển khoa học, công nghệ, đặc biệt là

nghị quyết về CNH, HĐH đất nước đang tạo ra những điều kiện thuận lợi rất

lớn cho sự phát triển đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng. Các

chỉ thị, nghị quyết đó vừa thể hiện sự nhất quán của Đảng về vai trò, vị trí

của trí thức, vừa thể hiện sự đổi mới nhận thức của Đảng về đội ngũ này trên

cơ sở hiểu rõ vai trò của lao động trí tuệ trong thời đại cách mạng khoa học

và công nghệ; “trí tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất của quốc gia… Bồi

dưỡng và trọng dụng nhân tài là vấn đề có tầm chiến lược, là yếu tố quyết

định tương lai của đất nước” [27, tr.148-149]. Trong Nghị quyết của Hội

nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ hai (khoá VIII) Đảng ta đã coi trí

thức là lực lượng chủ yếu trong việc hiện thực hoá chiến lược GD&ĐT,

KH&CN, tạo nên những mũi đột phá vào công cuộc CNH, HĐH.

Đối với lao động nữ, các quan điểm của Đảng và Nhà nước không chỉ

được ghi nhận rõ trong hệ thống các văn bản, chỉ thị, nghị định và quan trọng

hơn ở một mức độ nhất định đã và đang được thực thi trong cuộc sống nhằm

phát huy vai trò, vị trí và tiềm năng của phụ nữ trong xã hội.

Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về “Đổi mới, tăng cường công tác vận

động phụ nữ trong tình hình mới (năm 1993); Chỉ thị 37 của Ban Bí thư về

“Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ” (năm 1994) được coi là

những văn bản gần đây nhất ghi nhận phụ nữ Việt Nam vừa có tiềm năng to

lớn, là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã

29

hội… Các văn kiện ở trên nêu rõ: Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là

nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao địa vị xã hội và quyền

bình đẳng của phụ nữ, nhấn mạnh sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách

nhiệm của các cấp chính quyền, các tổ chức nhân dân, toàn xã hội và gia

đình; khẳng định vai trò của phụ nữ trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế

- xã hội của đất nước.

Nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước nhấn mạnh đến việc thực hiện

bình đẳng giới, chú trọng công tác cán bộ nữ, coi việc tăng tỉ lệ cán bộ nữ

tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ học

vấn cho phụ nữ là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân

chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tiềm năng trí tuệ và nâng cao địa vị

xã hội của phụ nữ.

Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được

Quốc hội khoá IX thông qua năm 1995 cũng đã có những qui định riêng các

chế độ, chính sách về lao động nữ. Trong đó có nhiều nội dung phù hợp với

yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, như việc

nhấn mạnh chức năng làm mẹ của phụ nữ, có những biện pháp để các chức

năng gia đình không còn là gánh nặng của phụ nữ, đồng thời nêu cao trách

nhiệm thực hiện của cả vợ và chồng. [30, tr.51-52].

Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt

Nam đã chính thức ghi nhận việc thực hiện “Chiến lược vì sự tiến bộ của phụ

nữ Việt Nam” mà Đảng và Chính phủ ta đã cam kết tại hội nghị Thế giới lần

thứ IV của phụ nữ tổ chức tại Bắc Kinh (9/1995), xem đó như là một bộ phận

quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chiến

lược trên đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thành chương

trình hành động (năm 1997) là một văn bản quan trọng thể hiện quan điểm

đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phụ nữ. Trong chiến lược đó

nhấn mạnh việc nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ và việc thực hiện

quyền bình đẳng giới trong các khâu xây dựng và triển khai chương trình

hành động của các cấp, ngành. Chiến lược khẳng định giải phóng phụ nữ là

một trong những mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam, có ảnh

30

hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất nước. Nhấn mạnh sự tiến

bộ của phụ nữ không chỉ xuất phát từ lợi ích riêng của phụ nữ, của gia đình

mà còn xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội. Điều này đúng như một

xét đã nêu: “Giải quyết những vướng mắc, khó khăn cho nữ trí thức, phát huy

tiềm năng sáng tạo, góp phần đắc lực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước

chính là thể hiện việc phát huy năng lực nội sinh của đất nước, là một chủ

trương lớn trong công tác vận động quần chúng của Đảng và Nhà nước ta”.

Tóm lại, quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo ra

nhiều thuận lợi cho đội ngũ trí thức nói chung, lao động trí thức nữ nói riêng

để họ có thể phát huy tiềm năng trí tuệ của mình, góp phần xứng đáng vào sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH đất nước.

* Sự tiến bộ về kinh tế - xã hội:

Sau ngày đổi mới, nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng nền kinh

tế hàng hoá, nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý

của Nhà nước. Thực tế kinh tế những năm gần đây, cơ cấu kinh tế thay đổi

với xu hướng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên, đặc biệt, mức độ

CNH, HĐH ở các ngành kinh tế cũng ngày một tiến bộ; Hệ thống thông tin,

viễn thông được phát triển rất nhanh,… Chính những yếu tố về kinh tế - kỹ

thuật này đã tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người nói chung, phụ nữ nói

riêng trong việc học tập, làm việc, tham gia hoạt động xã hội.

Việc chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, với

cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đã tạo ra một cơ cấu nghề

nghiệp phong phú đa dạng hơn, tạo việc làm cho một số đông người lao

động, trong đó có trí thức nữ. Nhờ có việc làm, đời sống của họ được bảo

đảm và từng bước được cải thiện hơn, góp phần tạo điều kiện cho lao động

trí thức nữ phát triển.

Các thành phần kinh tế có địa vị bình đẳng đã tạo ra địa bàn rộng lớn

để hình thành nhu cầu áp dụng các công nghệ mới vào sản xuất và dịch vụ.

Điều này khuyến khích các nhà khoa học nói chung, trí thức nữ nói riêng

mạnh dạn đi vào nghiên cứu để phát triển sản xuất, hướng các đề tài nghiên

cứu vào thực tiễn, gắn nghiên cứu với thực tiễn.

31

Trong cơ chế kinh tế thị trường, nhìn chung những lợi ích vật chất và

tinh thần đã kích thích tính năng động sáng tạo của nhiều lao động trí thức

nữ, trong nhiều hoạt động sáng tạo. Những sở trường, tiềm năng của trí thức

nữ nói chung, của các nhà khoa học nữ nói riêng có điều kiện bộc lộ và ngày

càng được phát triển ở nhiều mặt, nhiều người (nhất là khả năng quản lý sản

xuất, kinh doanh, quản lý khoa học và năng lực chuyên môn, ngoại ngữ ở

một số ngành khoa học mới).

Mặt khác, do đời sống của nhân dân không ngừng được nâng lên,

trong điều kiện kinh tế mở cửa, hàng hoá là các phương tiện giảm nhẹ công

việc gia đình trên thị trường nước ta ngày càng nhiều, nên đã tạo ra nhiều

điều kiện thuận lợi đề giảm nhẹ công việc nội trợ và chăm sóc con cái của

phụ nữ. Máy giặt, máy hút bụi, bếp ga nấu ăn,… là các phương tiện tiết kiệm

được rất nhiều thời gian và sức lực cho phụ nữ. Phụ nữ có thời gian nhiều

hơn cho học tập, nâng cao trình độ, giao lưu, hoạt động nghề nghiệp…

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, chúng ta cũng

cần xét tới cả những tác động tiêu cực của nó đối với sự phát triển của lao

động trí thức nữ. Trong bối cảnh của cơ chế kinh tế thị trường, những thách

thức, những tác động tiêu cực có thể là: Do quy luật lợi nhuận tối đa và cạnh

tranh ngày càng khắc nghiệt, lao động nữ nói chung và trí thức nữ nói riêng

là những người yếu thế hơn, nên khả năng cạnh tranh sẽ khó khăn hơn.

32

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ

VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1. Thực trạng đội ngũ lao động trí thức nữ Việt Nam

2.1.1. Vài nét về sự phát triển đội ngũ trí thức nữ nước ta trong lịch sử

Là một bộ phận của đội ngũ lao động trí thức cả nước, lịch sử phát

triển của đội ngũ lao động trí thức nữ nước ta gắn liền với lịch sử phát triển

của đội ngũ lao động trí thức nói chung, nhưng cũng có những nét riêng

trong quá trình hình thành, phát triển của mình.

2.1.1.1. Thời kỳ trước Cách mạng tháng 8/1945

Trước cách mạng tháng 8/1945, do nhiều nguyên nhân khác nhau

trong đó môi trường văn hoá - xã hội là nguyên nhân cơ bản, đã làm cho đội

ngũ lao động trí thức nữ hầu như chưa xuất hiện.

Những quan điểm, tư tưởng phong kiến như “trọng nam khinh nữ” và

các lễ giáo phong kiến ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển trí tuệ của người

phụ nữ nước ta trước đây. Người phụ nữ không được học hành để phát triển

tài năng, trí tuệ. Thời kỳ phong kiến, mặc dù dân tộc Việt Nam có ngàn năm

văn hiến, có truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài, đã từng coi giáo

dục, học vấn để phát triển tài năng, trí tuệ là yếu tố quan trọng hàng đầu đối

với sự hưng thịnh của đất nước, song suốt thời kỳ đó, phụ nữ Việt Nam hầu

như không biết chữ, không có chỗ đứng trong giáo dục học đường, hay trong

các kỳ thi cử. Trong các lĩnh vực khoa học, các kỳ thi cử trở thành độc quyền

của nam giới, là “thánh địa riêng của đấng tu mi nam tử”. Môi trường xã hội

chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hoá phong kiến - nho giáo đã tạo ra một hậu

quả là, trong số 2.898 tiến sĩ thời ấy chỉ có một người phụ nữ duy nhất, thông

minh quả cảm đặt chân tới lãnh địa này và trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên ở

nước ta đầu thế kỷ thứ XVI đó là bà Nguyễn Thị Duệ - quê Văn An, Chí

Linh, Hải Dương.

33

Việc phân biệt đối xử không có lợi cho phụ nữ theo tư tưởng phong

kiến nho giáo đã kìm hãm và làm thui chột tài năng trí tuệ của phụ nữ, và đã

dẫn đến kết quả là hạ thấp địa vị giá trị của người phụ nữ.

Tiếp theo thời kỳ phong kiến là thời kỳ nhân dân ta sống dưới chế độ

cai trị của thực dân Pháp. Thời kỳ này, địa vị của một bộ phận nhỏ phụ nữ

Việt Nam ít nhiều có được cải thiện và bắt đàu được tiếp xúc học đường,

nhưng đại bộ phận phụ nữ, địa vị của họ vẫn như trước đây. Công cuộc khai

thác thuộc địa của thực dân Pháp làm cho yếu tố tư bản chủ nghĩa xuất hiện,

nhưng không phát triển mạnh được do chính sách bảo thủ, hẹp hòi, kìm hãm

sự phát triển kinh tế thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp. Cùng với chính

sách khai thác thuộc địa, chính sách chia để trị, thực dân Pháp còn thực hiện

chính sách ngu dân nhằm kìm hãm sự phát triển tinh thần, trí tuệ của dân tộc

ta để chúng dễ bề cai trị, áp bức. Hậu quả của chính sách này là đại bộ phận

nhân dân ở nước ta mù chữ. Theo các nhà nghiên cứu, năm 1939 - 1940 là

năm giáo dục phát triển nhất thì tổng số học sinh tiểu học có hơn 40 vạn,

tổng số học sinh phổ thông cơ sở là hơn 5000, số lượng sinh viên là 582 trên

tổng số dân là 23 triệu người. Nền giáo dục ấy chỉ thu hút 2,6% dân số Việt

Nam đi học, để lại hơn 95% dân số mù chữ, đặc biệt là phụ nữ và đồng bào

dân tộc ít người.

Thời kỳ này, 97% phụ nữ Việt Nam không biết đọc, biết viết. Có thể

thấy rằng, từ cách mạng tháng tám về trước, phụ nữ Việt Nam (về cơ bản)

không có cơ hội, điều kiện, môi trường xã hội để phát triển tài năng trí tuệ.

Hơn 10 thế kỷ, dân tộc nói chung và phụ nữ nói riêng, bị kìm hãm về trí tuệ

và tinh thần bởi những qui tắc xã hội lạc hậu, phản động. Chính vì vậy mà

truyền thống khoa học của phụ nữ bị thiếu hụt nghiêm trọng, gây khó khăn

cho hành trình vào khoa học của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.

2.1.1.2. Thời kỳ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến 1986

Cách mạng tháng Tám đã mở ra một thời kỳ mới, có ý nghĩa bước

ngoặt lịch sử đối với dân tộc Việt Nam nói chung và đội ngũ lao động trí

thức nữ nói riêng, đánh dấu sự phát triển của đội ngũ lao động trí thức nữ

34

nước ta. Cuộc cách mạng tháng tám đã giải phóng toàn thể dân tộc, trong đó

có phụ nữ.

Ngay sau thắng lợi của cách mạng tháng tám, Đảng và nhà nước đã

chủ trương phát triển, mở rộng hệ thống giáo dục nhằm đón nhận, đồng thời

khuyến khích và động viên phụ nữ tham gia vào lĩnh vực học đường, tham

gia nghiên cứu khoa học, quản lý xã hội để từng bước đặt nền móng cho việc

hình thành đội ngũ trí thức nữ nước ta. Tuy nhiên, thời kỳ từ năm 1945 đến

năm 1954 là thời kỳ cả dân tộc phải tiến hành cuộc kháng chiến đầy khó

khăn, gian khổ chống thực dân Pháp, nên hệ thống giáo dục nói chung và đại

học nói riêng có nhiều hạn chế.

Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn đựoc giải phóng và bước vào thời kỳ

khôi phục kinh tế, và xây dựng xã hội mới. Nhiệm vụ cách mạng mới đòi hỏi

phải tăng nhanh lực lượng trí thức phục vụ cách mạng, do vậy công tác đào

tạo ĐH và trung học chuyên nghiệp ở miền Bắc bắt đầu phát triển với nhịp

độ cao, với quy mô rộng lớn. Cơ sở vật chất trường lớp, đội ngũ giáo viên và

số lượng học sinh phát triển vượt bậc, mở ra cơ hội mới cho việc đào tạo trí

thức nữ. Đặc biệt từ những năm 1960, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật

được coi là then chốt để thực hiện kế hoạch 5 năm lần thư nhất (1961 -

1965), thì vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đã được nhận rõ, có tầm quan

trọng đặc biệt. Thời kỳ này, hệ thống các trường, viện nghiên cứu được phát

triển với quy mô và số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh. Nhờ sự nỗ lực

của công tác đào tạo, lực lượng trí thức ở nước ta thời kỳ này đã phát triển

nhanh. Nếu cuối năm 1954 khi miền Bắc mới được giải phóng, nước ta có

3475 người có trình độ ĐH và trung học chuyên nghiệp, thì đến năm 1964, sau

10 năm, số lượng này đã tăng lên tới 30.704 người, tăng gấp 10 lần, trong đó

nữ chiếm 14,3% [1, tr.2]. Kết quả này đánh dấu bước trưởng thành quan trọng

của trí thức nữ nước ta.

Tuy nhiên, ngay sau đó dân tộc ta phải tiến hành cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước. Việc đào tạo để có trình độ cao của phụ nữ phần nào có

những hạn chế, do vậy thời kỳ này số lượng trí thức nữ hầu như không tăng.

35

Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thông nhất, cả

nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,. Đảng ta đã chủ trương:

“Đẩy nhanh việc đào tạo trí thiức có tài năng trên tất cả các lĩnh vực hoạt

động xã hội, tuyệt đối trụng thành với tổ quốc, vơi nhân dân, với sự nghiệp

cách mạng xã hội chủ nghiã, có quyết tâm và nghị lực lớn, dám chinh phục

những đỉnh cao của văn hoá, khoa học, kỹ thuật…để giải quyết những vấn đề

cụ thể của đất nước” [28, tr.3]; đồng thời Đảng ta tiếp tục thực hiện tư tưởng

giải phóng phụ nữ, vì vậy, đội ngũ trí thức nữ đã không ngừng được bổ sung

và phát triển.

Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác đào tạo trong nước, chúng ta đã mở

rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trong việc đào tạo đội ngũ trí thức nói chung

và trí thức nữ nói riêng. Sự phát triển của đội ngũ trí thức nữ lúc này có sự

giúp đỡ rất lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô trước đây.

Kết quả là chúng ta đã có một lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật tương đối

lớn. Đến năm 1990, theo báo cáo của Ban Khoa giáo Trung ương, có 28.482

người tốt nghiệp ĐH ở nước ngoài. Theo thống kê của Bộ Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, từ năm 1951 đến năm 1986 có 207.020 lưu học sinh tại

Liên Xô, trong đó có 3245 nghiên cứu sinh, 2986 thực tập sinh, 20.787 sinh

viên ĐH, sau ĐH và học sinh trung học chuyên nghiệp. Tính đến tháng 6

năm 1987 có 25.300 người đã tốt nghiệp ĐH và sau ĐH, trong đó có 120 tiến

sĩ, 2560 PGS, 17.950 sinh viên ĐH, 2900 thực tập sinh. Trong số được đào

tạo này phụ nữ chiếm một phần đáng kể. Bộ phận trí thức nữ được đào tạo từ

nước ngoài, do được tiếp xúc với một nền khoa học tiên tiến, lại có trình độ

ngoại ngữ tốt đã góp phần đáng kể cho sự trưởng thành phát triển của đội ngũ

trí thức nước ta nói chung.

Thời kỳ sau ngày miền Nam giải phóng đến năm 1985, là thời kỳ đội

ngũ lao động trí thức nữ Việt Năm phát triển mạnh cả về số lượng, chất

lượng và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng số trí thức cả nước: Ở trình độ

ĐH, nữ chiếm 37,5%, đặc biệt là ở trình độ sau ĐH nữ chiếm 14,1% [1, tr.2].

Do yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng và sự trưởng thành của đội ngũ

cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học, từ năm 1976 chúng ta bắt đầu đào

36

tạo đội ngũ cán bộ sau ĐH ở trong nước. Đây là bước phát triển đánh dấu sự

chuyển biến về chất của hệ thống giáo dục ĐH ở nước ta. Vì vậy thời kỳ này

đội ngũ lao động trí thức nữ phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.

2.1.1.3. Thời kỳ từ ngày đổi mới đến nay

Từ năm 1986 đến nay, đặc biệt trong 6 năm đằu của thời kỳ đổi mới (từ 1986 - 1992), tình hình thế giới có nhiều biến động sâu sắc và có sự thay đổi cơ bản trong cơ chế quản lý kinh tế - xã hội ở trong nước đã tác động đến sự phát triển của đội ngũ trí thức nữ. Nguồn đào tạo từ nước ngoài (chủ yếu từ các nước xã hội chủ nghĩa trước đây) đã bị cắt giảm mạnh. Hệ thống giáo dục trong nước, tuy đã có cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Quy mô giáo dục ở các cấp, kể cả ĐH và trung học chuyên nghiệp thời kỳ này phần nào bị thu hẹp, chất lượng các bậc học có phần bị giảm sút. Đời sống sinh viên trong các trường ĐH đều gặp khó khăn. Một bộ phận không nhỏ nữ sinh viên tốt nghiệp ĐH không tìm được việc làm…Tất cả những khó khăn đó đã ảnh hưởng mạnh đến đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng. Vì vậy, thời kỳ này trí thức rất ít được bổ sung, số lượng không tăng, thậm chí còn giảm. Theo điều tra dân số năm 1989, nữ chiếm 38% trong tổng số những người có trình độ ĐH và CĐ trong cả nước thì đến năm 1992 (sau 6 năm thực hiện công cuộc đổi mới) tỷ lệ này chỉ còn 32%.

Trước tình hình giảm sút nghiêm trọng của ngành giáo dục nói chung và đội ngũ trí thức nữ nói riêng, tháng 3 năm 1993, hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã ra Nghị quyết về vấn đề giáo dục và đào tạo, trong đó coi GD&ĐT (cùng với khoa học và công nghệ) là quốc sách hàng đầu và nêu những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn để phát triển nền giáo dục Việt Nam mà đặc biệt là giáo dục ĐH. Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, những năm gần đây, ngành giáo dục - đào tạo đã có bước phát triển mới, mở rộng giáo dục ĐH với nhiều loại hình đào tạo, hình thức đào tạo, tăng ngân sách nhà nước dành cho đào tạo, thành lập các quỹ hỗ trợ tài năng… tạo đà cho việc đào tạo trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng.

Đến nay, trí thức nữ nước ta đã có bước phát triển mới. Trải qua hành trình trên 5 thập kỷ, trí thức nữ đã trở thành một đội ngũ có tiềm năng to lớn, chiếm gần 38% trong tổng số những người có trình độ ĐH và CĐ trở lên

37

trong cả nước. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhất là có sự cố gắng nỗ lực của bản thân chị em, đội ngũ lao động trí thức nữ nước ta đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, giữ vat trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2.1.2. Thực trạng lao động trí thức nữ nước ta hiện nay

2.1.2.1. Về số lượng chung

Công cuộc đổi mới ở nước ta đến nay đã thực hiện được hơn 20 năm, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước ta đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đảng chủ trương thực hiện một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Những hoạt động mạnh mẽ của các thành phần kinh tế có địa vị bình đẳng đã tạo ra địa bàn rộng lớn để đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng phát huy khả năng của mình. Trong cơ chế thị trường năng động, Đảng và nhà nước đã đề ra một số chính sách thể hiện sự quan tâm đáp ứng những lợi ích vật chất và tinh thần đã kích thích tính năng động, sáng tạo của nhiều trí thức trong đó có cả trí thức nữ. Những sở trừờng tiềm năng của trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng có điều kiện bộc lộ và ngày càng được phát triển ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Đội ngũ lao động trí thức có trình độ CĐ, ĐH và sau ĐH nước ta hiện nay có hơn 1,8 triệu người (2005) chiếm khoảng 21,1% tổng số lao động được đào tạo (hơn 8 triệu) và chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong lực lượng lao động của toàn xã hội: 4,44%. Nhìn chung đội ngũ nhân lực có trình độ CĐ, ĐH chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH cả về số lượng và chất lượng. Theo kết quả cuộc Tổng Điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2005 do Tổng cục Thống kê Việt Nam tiến hành, vào thời điểm 1/7/2005, ta có bảng sau:

Bảng 1: Lao động trí thức nước ta vào 01/7/2005

Trong đó

Lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng

1.491.284 (người) 13178 30078 1032983 415045

100% 0,88% 2,01% 69,26% 27,83%

Nguồn: [17, tr33]

38

Như vậy, theo bảng trên có thể thấy trong đội ngũ trí thức, hầu hết có

trình độ ĐH, trình độ sau ĐH còn rất hạn chế.

Cũng từ cuộc tổng điều tra trên, lao động trí thức phân theo giới tính

được cho ở bảng sau:

Bảng 2: Lao động trí thức nước ta phân theo giới tính vào 01/7/2005

T/S lao LĐ có Trong đó

động đã trình độ Tiến sĩ Thạc sĩ ĐH CĐ

qua đào ĐH trở

10793376 1491284

13178

30078

1032983

415045

tạo lên

5068701

605857

2170

8903

360912

233872

Tổng số

=46,96%

=40,62%

=16,46%

=29,59%

=34,93%

=56,34%

Nữ

Nguồn: [ 17, tr.34]

Theo bảng 2 ở trên ta có thể thấy tỉ lệ lao động nữ qua đào tạo chiếm

phần ít hơn so với tổng số lao động đã qua đào tạo (46,96%); Đối với lao

động có trình độ CĐ, ĐH trở lên, trí thức nữ chiếm 40,62%. Trong số lao

động trí thức nử, trình độ CĐ chiếm phần lớn (56,34%), nhưng càng ở các

trình độ cao hơn, tỷ lệ nữ càng ít. Đặc biệt, ở trình độ tiến sĩ, tỷ lệ nữ chỉ là

16,46%.

Tuy nhiên, tỷ lệ trí thức nữ ở trình độ cao đã có sự tăng lên so với các

năm trước. Cụ thể là, so với năm 1999, ta có bảng sau:

Bảng 3: Dân số tại 1/4/1999 đã từng đi học ĐH và trên ĐH

Tổng số CĐ, ĐH Trên ĐH CĐ trở lên

31228797 1144013 33126 1177139 Nam

31022266 835955 10942 846897 Nữ

62251063 1979968 44068 2024036 Cộng

49.8 42.2 24.8 41.8 % nữ

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999. Tổng cục Thống kê

39

Để so sánh, từ bảng 2 ta có bảng 4 sau:

Bảng 4: Số lượng lao động trình độ CĐ, ĐH trở lên vào 1/7/2005

2005 Trên ĐH CĐ, ĐH CĐ, ĐH trở lên

Tổng 43256 1448028 1491284

Tổng nữ 11073 594784 605857

% nữ 25.6 41.1 40.6

Khi so sánh bảng 3 và bảng 4 ta chú ý: Về số tuyệt đối, số lượng nữ có

trình độ trên ĐH và trình độ CĐ, ĐH trở lên ở năm 2005 ít hơn năm 1999 là

do tiêu chí ở 2 bảng không đồng nhất: Ở bảng 3 là Dân số tại 01/4/1999 đã

từng đi học ĐH và trên ĐH, còn ở bảng 4 là số lượng lao động có trình độ

CĐ, ĐH. Như vậy, ở bảng 3 bao gồm cả những người tuy có bằng CĐ, ĐH

trở lên nhưng hiện không tham gia lao động nữa. Tuy nhiên, ở đây ta quan

tâm đến tỷ lệ nữ trong tổng số. Ta thấy các tỷ lệ nữ trong tổng số có sự biến

đổi: Tỷ lệ nữ có trình độ CĐ, ĐH ở năm 1999 và ở năm 2005 có các giá trị

tương ứng là 42,2% và 41,1%; tỷ lệ nữ có trình độ trên ĐH ở năm 1999 và

2005 có các giá trị tương ứng là 24,8% và 25,6%.

Như vậy, ở năm 2005 so với năm 1999, tỷ lệ lao động trí thức nữ có

trình độ trên ĐH ở nước ta có nhiều hơn chút ít.

2.1.2.2. Về số lượng trí thức nữ theo các ngành kinh tế.

Ta quan sát bằng số liệu sau:

Bảng 5: Lao động trí thức nữ phân theo ngành kinh tế (01/7/2005)

Lao động có trình độ CĐ,ĐH trở lên

Ngành kinh tế Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)

SĐH (người) 128 17 1733 312 13,28 18,00 CĐ, ĐH (người) 11290 2505 144944 50280 22,19 34,69

127 14759 1. Công nghiệp khai thác mỏ Nữ 2. Công nghiệp chế biến Nữ 3, SX, phân phối điện, khí đốt và nước

40

15 878 107 11,81 12,19 2966 65099 12291 20,10 18,88

1908 126672

21,96 33,78 52950 21496 10542 41,80 49,04 419 148 50

49646 691

32,67 51,59 33,88 19,39 28,05 24,13 46220 38628 19928 14667 4969 134 845 237 4190 1011

50939 1922

367 19,09 15631 30,69

lý nhà nước, ANQP, 276707 5655

18,50 62.20 40,20 37,77 27,52 39,21 19,23 15,15 31,30 26,83 29,23 17,27 43,94 11,54 51181 496768 308985 58914 23683 19460 7350 41180 11332 3650 1431 13209 2540 Nữ 4. Xây dựng Nữ 5. TN. SC xe có động cơ, mô tô… đò dùng CN và GĐ Nữ 6.Khách sạn, Nhà hàng Nữ 7. Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc Nữ 8.Tài chính và tín dụng Nữ 9.Khoa học và công nghệ Nữ 10. Dịch vụ liên quan đến Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn Nữ 11.Quản BHXH bắt buộc Nữ 12. Giáo dục và đào tạo Nữ 13. Y tế và hội đồng cứu trợ xã hội Nữ 14. Văn hoá và thể thao Nữ 15. Đảng, Đoàn thể và hiệp hội Nữ 16.Phục vụ cá nhân và công cộng Nữ 17. Ngành khác Nữ 857 20516 6421 3108 834 325 95 886 153 66 23 130 15

Nguồn:Tổng Điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp 2005. [17, tr.35]

41

Bảng 6: LĐ nữ trí thức ở một số ngành (01/7/2005)

Ngành kinh tế Tiến sỹ Thạc sỹ Cao đẳng Cử nhân/ Kỹ sƣ Tổng số LĐ

10793376 5068701 13178 2170 30078 1032983 360912 8903 415045 233872

226524 48 80 9119 2171 Tổng số Nữ 1. Công nghiệp khai thác mỏ

Nữ 71902 = 31,34% 5 = 10,41% 12 = 15,00% 2027 = 22,22% 478 = 22,01%

3517280 460 1273 119112 25832 2. Công nghiệp chế biến

Nữ 1784633 = 50,73% 46 = 10,00% 266 = 20,89% 39545 = 33,19% 10735 = 41,55%

83792 20 107 12971 1788

15416 547610 74231 2 368 59 13 510 48 2570 58772 10861 396 6327 1430

1965802 597 1311 105630 21042

1080946 115 304 42894 10056

709805 25 123 17118 3478

475275 6 44 8175 2367

536037 125 566 41649 7997

96956 80769 40133 21 74 10 113 771 227 13497 32416 16381 2723 6212 3547

29532 2315 1875 14088 579 3. Sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước Nữ 4. Xây dựng Nữ 5. TN, SC xe có động cơ, môtô… đồ dùng CN và GĐ Nữ 6. Khách sạn, nhà hàng Nữ 7. Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc Nữ 8. Tài chính, tín dụng Nữ 9. Khoa học và công nghệ

42

Nữ 10869 = 36,8% 398 = 17,2% 613 = 32,7% 4767 = 33,8% 202 = 22,9%

161296 573 1349 46257 4682

57446 63 304 13986 1645

845611 1670 3985 228545 48162

158251 153 704 46012 5169

1122594 5758 14758 226224 270544 10. DV liên quan đến KD tài sản và dịch vụ tư vấn Nữ 11. Quản lý nhà nước, ANQP, BHXH bắt buộc Nữ 12. Giáo dục và đào tạo

Nữ 779923 = 69,5% 1098 = 19,1% 5323 = 36,1% 120244 = 53,2% 188741 = 69,8%

249231 670 2438 54645 4269 13. Y tế và hội đồng cứu trợ xã hội

Nữ 149100 = 59,8% 145 = 21,6% 689 = 28,3% 21131 = 38,7% 2552 = 59,8%

90170 90 235 17001 2459

39219 15 80 6469 881

247704 339 547 34156 7024

70728 28 125 8955 2377

132211 15 51 3073 577

14. Văn hoá và thể thao Nữ 15. Đảng, đoàn thể và hiệp hội Nữ 16. Phục vụ các nhân và công cộng Nữ 17. Ngành khác Nữ 68570 247408 95103 4 31 2 25 99 13 1155 12207 2243 276 1002 297

Nguồn:Tổng Điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp 2005. [17,tr 37]

Từ số liệu ở các bảng trên, một số điểm cần chú ý rút ra là:

43

+ Trí thức nữ, kể cả ở trình độ cao nhất là tiến sĩ đã có ở tất cả các

ngành của nền kinh tế quốc dân nước ta.

+ Trí thức có trình độ cao (thạc sĩ trở lên ) tập trung chủ yếu ở

ngành giáo dục và đào tạo: Gần 1/3 tổng số, với 42,63% tiến sĩ khoa học;

37,9% tiến sĩ; 42,9% thạc sĩ.

+ Trí thức nữ ở trình độ sau ĐH, những ngành có tỷ lệ trí thức nữ cao

nhất là: Phục vụ cá nhân và công cộng (43,94%); khách sạn nhà hàng

(33,78%); Giáo dục và Đào tạo 31,3%; Văn hoá, thể thao (29,23%); Tài

chính, tín dụng (28,05%); ở trình độ tiến sĩ, những ngành có tỷ lệ nữ (trong

tổng só Tiến sĩ của ngành) cao nhất là: Y tế và cứu trợ xã hội (21,6%);

GD&ĐT (19,1%); Khoa học công nghệ (17,2%).

Ngoài ra, cũng từ nguồn số liệu thống kê 2005 đã nêu ở trên, cần chú ý

rằng:

+ Có tới 83,62% Trí thức làm việc trong thành phần kinh tế nhà nước;

sau đó là 8,04% trong thành phần kinh tế cá thể; Các thành phần kinh tế tập

thể, liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài, mỗi loại có khoảng 2 - 3% trí thức

làm việc.

+ Phân bố theo ngành nghề: Lãnh đạo trong các ngành, các cấp: Tiến

sĩ khoa học chiếm 19,82%; Tiến sĩ: 21,15%; Thạc sĩ: 11,88%; Cử nhân/kỹ

sư: 10,9%; cao đẳng: 4,75%.

- Phân bố theo vùng kinh tế: Với trình độ tiến sỹ, sự phân bố các tiến

sĩ xét theo vùng rất không đồng đều. Vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng

Đông Nam Bộ đã chiếm tới khoảng 90% số tiến sỹ trong cả nước. Trong 2

vùng này, số lượng các tiến sỹ lại tập trung chủ yếu ở 2 thành phố Hà Nội

(63,82%) và Thành phố Hồ Chí Minh (19,33%). ở 6 vùng còn lại, vùng cao

nhất cũng không có đến 4%. Đặc biệt, tổng số tiến sỹ ở cả 2 vùng Tây Bắc và

Tây Nguyên chưa đạt 1% tổng số tiến sỹ của cả nước. Ta xem bảng sau:

44

Bảng 7: Lao động trí thức phân theo vùng kinh tế - sinh thái

(01/7/2005)

LĐ có trình độ CĐ, ĐH trở lên Vùng kinh tế - sinh thái

Sau ĐH Tỷ lệ ĐH, CĐ Tỷ lệ

(%) (%) (người) ( người)

1. Đồng bằng sông Hồng 23610 - 480470 -

Nữ 5869 24,86 205778 42,83

2. Đông Bắc 1626 - 153100 -

Nữ 538 33,09 64248 41,96

3. Tây Bắc 284 - 30414 -

Nữ 111 39,08 13271 43,63

4. Bắc Trung Bộ 2912 - 144571 -

773 26,55 60636 41,94 Nữ

5. Duyên hải Nam Trung Bộ 2290 124696 - -

Nữ 508 22,18 46761 37,50

6. Tây Nguyên 906 - 57418 -

Nữ 165 18,21 21380 37,24

7. Đông Nam Bộ 9793 - 309674 -

Nữ 2637 26,93 125579 40,55

8. Đồng bằng sông Cửu Long 1835 - 147685 -

Nữ 472 25,72 57131 38,68

Nguồn: [17, tr.40]

Bảng 7 trên cho ta thấy tỷ lệ nữ trí thức trong tổng số trí thức theo các

trình độ đào tạo tương đối đồng đều giữa các vùng kinh tế - sinh thái. Riêng

với trình độ sau ĐH, vùng Tây Bắc có tỷ lệ nữ cao nhất: 33,08% và vùng Tây

Nguyên có tỷ lệ nữ thấp nhất: 18,21%.

45

2.2. Những đóng góp và hạn chế của lao động trí thức nữ Việt Nam

2.2.1. Những đóng góp

Các số liệu nêu trên cho thấy, hiện nay đội ngũ lao động trí thức nữ

hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, bao gồm: lãnh

đạo các cơ quan Đảng, nhà nước, lãnh đạo các công ty, xí nghiệp; cán bộ ở

các cơ quan kinh tế - xã hội như: Kế hoạch, tài chính, kỹ thuật nông lâm ngư

nghiệp, khoa học, giáo dục - đào tạo, văn hoá, nghệ thuật, y tế…

Điều đáng chú ý là lao động nữ trí thức nước ta hiện nay hoạt động ở

nhiều lĩnh vực mà trước đây hầu như chỉ có nam giới tham gia, như tham

chính, luật. kiểm sát, thông tin, bưu chính, khoa học…

. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, với phẩm chất cần cù,

sáng tạo, nhạy bén…, phụ nữ Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, đóng

góp xứng đáng vào sự nghiệp chung của đất nước trên nhiều mặt. Sau đây là

một số mặt nổi bật.

2.2.1.1. Tham gia quản lý, lãnh đạo

Đội ngũ lao động trí thức nữ hiện nay có sự đóng góp to lớn và trực

tiếp vào việc hoạch định, hướng dẫn thực hiện đường lối chính sách của

Đảng và Nhà nước, nhất là các chính sách có liên quan trực tiếp đến sự

nghiệp giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ [34, tr.104].

Trong những năm gần đây, có thể thấy một hiện tượng là lực lượng trí

thức nữ tham gia vào công tác quản lý và lãnh đạo các công ty, các doanh

nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh này đã làm ăn có hiệu qủa tăng lên

rõ rệt. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh khắc nghiệt, nhiều doanh nghiệp,

đơn vị kinh tế làm ăn thua lỗ và phá sản, nhưng đã có không ít doanh nghiệp

do phụ nữ lãnh đạo như ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và ở một số nơi

khác (Hải Phòng, Quảng Ninh, Cần Thơ…) chẳng những đứng vững mà có

nơi, có mặt còn phát triển nhanh. Nét nổi bật ở các cơ sở này là sản xuất và

kinh doanh đã có hiệu quả, từ đó đời sống người lao động được nâng cao,

góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia. Đồng thời, các cơ sở này còn tham

gia tích cực vào các hoạt động xã hội, từ thiện. Có thể kể ra các doanh nghiệp

do “phái yếu” lãnh đạo nhưng đã thành công, như công ty liên doanh Bia

46

Đông - Nam Á, Dệt 8 - 3, Bánh kẹo Hải Hà, Dệt 10 - 10, Du lịch Hà Nội,

đoàn xiếc Trung ương, công ty lương thực Sông Hồng, dệt Phong Phú, nông

trường Sông Hậu…

Hiện nay trí thức nữ tham gia vào công tác quản lý doanh nghiệp khá

nhiều. Chúng ta có bảng sau:

Bảng 8: Tỷ lệ nữ trí thức là lãnh đạo doanh nghiệp.

Tổng giám đốc các tổng công ty 91 5%

Phó tổng giám đốc 9,7%

Đối với các tổng công ty 90

Chủ tịch hội đồng quản trị 1,7%

Tổng giám đốc 2,9%

Phó tổng giám đốc 1,4%

Nguồn: Thực trạng công tác cán bộ nữ Bài phát biểu của Nguyễn Thị

Kim Liên, phó chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tại hội thảo “Bình

đẳng giới và tuổi nghỉ hưu của lao động nữ”, TP Vũng Tàu, 12 - 2003.

Hiện tượng trên đã khẳng định rằng không chỉ các ngành như giáo dục,

y tế… mới phù hợp với phụ nữ - như trước đây ta thường quan niệm, mà cả

trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh mang tính chất công nghiệp và hiện đại,

nơi mà môi trường cạnh tranh diễn ra quyết liệt, chị em vấn hoàn thành tốt

chức năng điều hành quản lý. Điều đó chứng tỏ trong lĩnh vực mới này phụ

nữ hoàn toàn có khả năng và có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

2.2.1.2. Những đóng góp trong phát triển khoa học và công nghệ.

Hiện nay, theo thống kê của Tổng cục Thống kê (bảng 2 ở trên), với

hơn 40% trong tổng số cán bộ có trình độ ĐH và CĐ trở lên của cả nước, đội

ngũ trí thức nữ được đào tạo ở nhiều ngành khoa học khác nhau và đang

công tác ở hầu hết các lĩnh vực khoa học, nơi đòi hỏi khả năng tư duy cao

như công nghệ, kỹ thuật, tự nhiên…

Trong thời gian qua, các hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ trí

thức nữ nước ta có bước phát triển mới, mặc dù so với trí thức nam, tỷ lệ

47

tham gia có thấp hơn. Theo kết quả điều tra của đề tài “Đổi mới chính sách

đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước”. Mã số ĐTĐL - 2003/27, Hà Nội, 2006, về các hoạt động

nghiên cứu KH&CN ở các trường ĐH và cơ quan nghiên cứu khoa học vào

năm 2005 như sau:

Bảng 9: Hoạt động NCKH tại trường ĐH và cơ quan NCKH theo giới tính.

Hoạt động( đơn vị %) Nam Nữ Chung

1 - Chủ nhiệm đề tài, chương trình câp cơ sở 42.5 39.2 41.4

2 - Chủ nhiệm viết bài cho báo, tạp chí khoa học 46.7 35.1 42.9

3 - Tham gia đề tài, chương trình câp Bộ 30.3 33.1 31.3

4 - Chủ nhiệm viết sách giáo khoa, giáo trình, bài 40.2 28.4 36.3 giảng

5 - Tham gia đề tài, chương trình câp cơ sở 19.5 25.2 21.4

6 - Chủ nhiệm đề tài, chương trình câp Bộ 34.5 19.6 29.6

7 - Tham gia viết bài cho báo, tạp chí khoa học 18.3 19.1 18.6

8 - Tham gia đề tài, chương trình câp nhà nước 17.9 15.8 17.2

9 - Tham gia viết sách giáo khoa, giáo trình, bài 14.2 15.8 14.7 giảng

10 - Chủ nhiệm dịch sách báo, tài liệu khoa học 13.6 13.1 13.4

11 - Chủ nhiệm hướng dẫn Thạc sĩ, Tiến sĩ 23.7 12.8 20.1

12 - Tham gia nghiên cứu xây dựng đề án, dự án 15.6 11.9 14.4

13 - Tham gia triển khai đề án, dự án 12.9 11.9 12.6

14 - Tham gia dịch sách báo, tài liệu khoa học 8.7 11.7 9.7

15 - Chủ nhiệm phản biện các luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ 23.5 10.8 19.3

Nguồn: [17, tr.79]

Bảng trên cho thấy ở tất cả các hoạt động nghiên cứu, trí thức nữ đều có

tham gia. Tuy nhiên, ở hầu hết các hoạt động, tỷ lệ tham gia ở trí thức nữ ít

48

hơn ở nam. Có thể kể ra nhiều gương sáng về việc đi sâu tìm tòi, sáng tạo và

vận dụng các kiến thức, công nghệ hiện đại, tiên tiến vào việc chế tạo ra các

sản phẩm phục vụ thực tiễn của trí thức nữ nước ta. Sau đây là một ví dụ về

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Toàn, viện Khoa học Vật liệu (Hà Nội), với sản phẩm

máy đo nồng độ cồn trong hơi thở.

(VietNamNet): Từ cuối năm 2004 đến nay, trên cơ sở ứng dụng công

nghệ nano, PGS.TS Nguyễn Ngọc Toàn cùng cộng sự thuộc Viện Khoa học

Vật liệu (Hà Nội) đã chế tạo thành công máy đo nồng độ cồn trong hơi thở.

Máy nằm gọn trong lòng bàn tay, nặng chừng 500g nên rất thuận tiện để

Sắp tới, TS Toàn dự định cải tiến máy đo

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Toàn, Trưởng

phòng thí nghiệm công nghệ và vật lý màng

để có thể kết nối với máy tính, tải thông tin từ máy để lưu trữ.

mỏng, với máy đo nồng độ cồn NPO - 2005.

Con chip cảm biến: màng mỏng (màu da cam) được đặt trên đế gốm hình tròn.

kiểm tra người điều khiển ôtô, xe máy.

Máy NPO - 2005 có thể đo 999 lần, lưu trữ kết quả đo (thời gian đo,

nồng độ hơi cồn và số thứ tự) và cho phép đọc lại kết quả khi cần. Để đảm

bảo vệ sinh, máy sử dụng ống thổi dùng một lần cho mỗi người được kiểm

tra. Chỉ phải nạp điện cho máy sau khoảng 6 giờ làm việc liên tục. Theo TS

49

Toàn, lợi ích của máy chế tạo trong nước là dễ dàng sửa chữa và thay thế linh

kiện khi hỏng. Hiện vẫn chưa thể ước tính được giá thành vì NPO - 2005 mới

được sản xuất có vài chiếc để thử nghiệm. Tuy nhiên, nếu thương mại hoá

thành công sản phẩm này, giá thành sẽ chỉ bằng 70% thiết bị ngoại nhập.

Vẫn với mong mỏi như bao nhà khoa học khác, bà nói: ''Nếu máy đo

này đáp ứng được nhu cầu thị trường, tôi chỉ hy vọng tìm được đối tác để sản

xuất máy'' [33].

2.2.1.3. Những đóng góp trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo

Do đặc điểm sinh lý cũng như do phân công xã hội, phụ nữ rất phù hợp

vơi ngành GD&ĐT ở mọi phương diện quản lý, giảng dạy và nghiên cứu

khoa học. Những yêu cầu và đặc trưng của lĩnh vực GD &ĐT không chỉ thức

đẩy phụ nữ trong việc tìm tòi về chuyên môn sư phạm, về khoa học giáo dục,

mà còn đòi hỏi ở họ sự rèn luyện phẩm chất người thầy, để giáo dục, đào tạo

ra những thế hệ trẻ tài năng, có bản lĩnh, góp phần tạo nên nguồn lực quan

trọng nhất cho nền kinh tế đang ở thời kỳ CNH, HĐH. Trong thời gian qua

đội ngũ trí thức nữ trong lĩnh vực GD&ĐT đã phát huy bản chất cần cù, chịu

khó, luôn tìm tòi đổi mới phương pháp giảng dạy, truyền thụ những tri thức

mới cho học sinh, sinh viên.

Để nâng cao chất lượng giảng dạy, công tác tự học, tự vươn lên về

chuyên môn được chị em chú ý. Nhiều giảng viên nữ đã tích cực tham gia

các lớp đào tạo cao học và nghiên cứu sinh. Qua quá trình học tập và nghiên

cứu, chị em được nâng cao trình độ nghề nghiệp và kiến thức chuyên sâu, kỹ

năng, phương pháp sư phạm phục vụ công tác giảng dạy đạt chất lượng cao.

Được đào tạo chuyên sâu có hệ thống, số chị em có trình độ sau ĐH ngày

càng tăng, ngày càng nhiều nữ giảng viên có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ. Qua

tìm hiểu gần 50 trường ĐH và CĐ ở Hà Nội, đã có 358/2.297 tiến sĩ;

938/2.096 thạc sĩ. Ở một số trường tỷ lệ nữ có trình độ sau ĐH khá cao: từ 40

- 50% như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học

Kinh tế quốc dân, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Đại học Giao thông vận

tải. Những trường có tỷ lệ sau ĐH từ 30 - 40% như: Đại học Thương mại,

50

Đại học Kiến trúc, Đại học Xây dựng, Học viện Tài chính kế toán, Đại học

Mỏ địa chất…

Gắn công tác giảng dạy với nghiên cứu khoa học phục vụ thực tiễn

là một nét mới ở nhiều nữ giảng viên ĐH. Với nữ giảng viên, bên cạnh

những trang giáo án còn có những đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, những

bài viết đăng báo và tạp chí, viết tham luận cho hội nghị, hội thảo trong và

ngoài nước, giúp sinh viên làm luận văn khoa học, đò án tốt nghiệp. Một số

chị em đã trở thành những nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi được

nhiều học trò, đồng nghiệp trong và ngoài nước biết đến. Điển hình như PGS.

TS. Nguyễn Thị Trâm - Trường Đại học Nông nghiệp I, suốt đời gắn bó với

công trình khoa học lai tạo ra các giống lúa mới phục vụ cho bà con nông

dân. PGS.TS Nguyễn Thị Chinh Trường Đại học Khoa học tự nhiên (ĐH

Quốc gia Hà Nội), đã áp dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất nấm Linh Chi,

đem lại hiệu quả kinh tế cao. PGS.TS Phạm Thị Thu Hồ - Trường Đại học Y

khoa Hà Nội, ngoài công việc giảng dạy chị còn chủ trì và tham gia đề tài

nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, tham gia viết giáo trình bài giảng, hưỡng

dẫn luận án nghiên cứu sinh, cao học, bác sĩ chuyên khoa và luận án sinh

viên. Có thể thấy rằng những đóng góp hết sức quan trọng của nữ trí thức

trong lĩnh vực GD&ĐT đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả GD&ĐT,

mặt khác nó còn nâng cao vị thế của chính phụ nữ trong nhà trường và xã

hội.

2.2.2. Những hạn chế của đội ngũ lao động trí thức nữ

Trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, đòi hỏi cần phải có

đội ngũ trí thức KH&CN với số lượng đông đảo và chất lượng cao. Trong đội

ngũ này, lực lượng trí thức nữ đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên đội ngũ

trí thức nữ nước ta còn có những hạn chế lớn sau đây.

2.2.2.1. Còn ít về số lượng và có nhiều bất cập về cơ cấu.

- Về số lượng: Trong những năm qua, lực lượng trí thức nữ nước ta

tuy có tăng lên về số lượng và hiện chiếm khoảng hơn 1/3 tổng số trí thức,

nhưng mức tăng như vậy là chậm so với yêu cầu to lớn của nhiệm vụ xây

dựng kinh tế - xã hội trong giai đoạn đổi mới đặt ra.

51

- Về cơ cấu: Lực lượng nữ trí thức có trình độ trên ĐH, là chuyên gia

giỏi có học hàm, học vị cao ở ngành khoa học xã hội và nhân văn, tỷ lệ còn

thấp và thường ở độ tuổi từ 50 trở lên, số dưới 50, 40 tuổi rất ít. Với chính

sách cán bộ nữ nghỉ hưu ở tuổi 55 thì ước tính khoảng 10 năm nữa, khỏng

hơn 70% số cán bộ khoa học nữ đến tuổi nghỉ hưu, trong khi đội ngũ kế cận

trẻ phát triển rất chậm và ít ỏi. Sự mất cân đối về cơ cấu giữa các thế hệ tri

thứ nói chung, trí thức nữ nói riêng đang gây ra những thiếu hụt nghiêm

trọng ảnh hưởng đến tương lai phát triển của lực lượng trí thức nữ nước ta và

là trở ngại lớn cho sự phát triển nguồn lực trí tuệ cần thiết đáp ứng yêu cầu

của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Thực tế hiện nay ở một số ngành có nhiều tri thức nữ như ngành

GD&ĐT, ở cấp học càng cao, tỷ lệ nữ càng ít. Trong số hơn 500 tiến sĩ khoa

học, nữ chiếm 5% và lực lượng trí thức đó chủ yếu tập trụng trong các trường

ĐH, các trung tâm, viện nghiên cứu. Điều đó cho thấy mô hình đào tạo trước

đây (theo kiểu hình tháp) càng lên cao càng thu hẹp lại chỉ còn phù hợp với

kiểu tư duy đặc trưng cho nền kinh tế quá khứ. Sự hẫng hụt lớn về nguồn lực

phụ nữ đặc biệt là tri thức nữ không phải đã khắc phục ngay trong một sớm

một chiều.

Điều đáng lo ngại nữa là lực lượng nữ trí thức người dân tộc hiện nay đạt

tỷ lệ rất thấp (chỉ là 1%) và nhiều dân tộc thiểu số chưa có tri thức là phụ nữ.

Ở một số trung tâm khoa học lớn của cả nước, số tri thức nữ có trình

độ cao còn rất hạn chế, chẳng hạn như:

- Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (nay là Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam) tổng số cán bộ nữ chiếm 37,5%, nhưng trong đó

nữ cán bộ có trình độ cao chỉ chiếm 20,4% (GS - 1 người, PGS - 7 người, TS

- 46 người).

- Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia, tỷ lệ cán bộ

nữ chiếm 24,7%, (trong đó có GS - 2 người, PGS - 11 người, TS - 65 người).

- Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi có đội ngũ cán bộ khoa học chiếm

36,2%, trong đó, số có học hàm học vị cao cũng rất khiêm tốn GS chiếm

3,4%, PGS chiếm 7,7%, TS 17%.

52

- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là cơ quan lý luận cấp cao

của Đảng và Nhà nước, trung tâm đào tạo cán bộ nghiên cứu lý luận Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với quá trình phát triển 50 năm, có tỷ lệ cán

bộ nữ khoa học là 30%, trong đó chưa ai đạt học hàm GS, chỉ có 1 PGS và

chỉ có trên 30% chị có học vị Tiến sĩ và Thạc sĩ.

2.2.2.2. Chất lượng đội ngũ còn nhiều hạn chế

Qua các con số trên đây cho thấy rõ sự hạn chế về trình độ của trí thức

nữ ở hầu hết các lĩnh vực, kể cả tự nhiên, xã hội, cả trong giảng dạy và

nghiên cứu. Điều đó giải thích rõ vì sao, chất lượng của tri thức nữ lại đang

phát triển với hình tháp xuôi. Với trên 30.000 nữ có trình độ Cao đẳng và Đại

học năm 1999 nhưng không phải ai cũng có cơ hội và điều kiện phát triển để

trở thành những nữ trí thức có học hàm, học vị cao.

Thực tế cũng cho thấy trí thức nữ được đào tạo ở các ngành khoa học

xã hội và nhân văn chiếm tỷ lệ cao hơn so với các ngành khoa học khác,

nhưng trí thức nữ có trình độ cao, các chuyên gia giỏi đầu đàn ở các lĩnh vực

này rất ít, chiếm tỉ lệ thấp, đặc biệt là ngành lý luận.

Mặt khác, có những thực tế chúng ta cần lưu ý, đó là những năm gần

đây, vào biên chế nhà nước không còn là điều hấp dẫn và không phải là mục

tiêu của nhiều sinh viên giỏi. Một số sinh viên có thành tích cao trong học tập

thường muốn đi làm việc cho các công ty nước ngoài, các doanh nghiệp liên

doanh, hay tìm cách tiếp tục được đi đào tạo ở nước ngoài. Ở các cơ quan

khoa học, các đơn vị thuộc nhà nước, không hoặc rất khó thu hút được những

sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, và do vậy thường phải sử dụng không ít sinh

viên có lực học trung bình và kém năng lực. Đây là điều lo lắng cho đội ngũ

trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng trong các cơ quan này.

Như mọi người đã biết, quá trình CNH. HĐH và nhất là khi Việt Nam

đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đòi hỏi nguồn lực con

người với chất lượng cao, có trình độ cao về chuyên môn và ngoại ngữ.

Trong khi đó trí thức nữ hàng năm chỉ được đi đào tạo lại không quá 1% và

chỉ chiếm khoảng 15% trong tổng số những người có trình độ trên ĐH của cả

nước. Ngoài trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ của trí thức nữ cũng

53

còn nhiều hạn chế, nhất là trình độ ngoại ngữ của cán bộ trẻ. Trong số trí

thức tuổi từ 30 trở xuống chỉ có 2,9% biết một ngoại ngữ, 0,7 % biết 2 ngoại

ngữ. Hơn nữa theo đánh giá chung, phần đông chị em biết tiếng Nga (55%);

số chị em biết tiếng Anh, Pháp thông thạo chỉ chiếm 28,5% (xem bảng 10

dưới đây). Như vậy, khả năng sử dụng những ngoại ngữ cần thiết nhất cho

giao tiếp, nghiên cứu giảng dạy ở trí thức nữ là rất hạn chế.

Bảng 10: Tỷ lệ trí thức nữ sử dụng được ngoại ngữ

Độ tuổi

Dưới 30 tuổi 31 - 40 41 - 50 51 - 60 Tỷ lệ sử dụng 1 ngoại ngữ (%) 2,9 15,2 4,6 4,3 Tỷ lệ sử dụng 2 ngoại ngữ (%) 0,7 1,4 1,9 21,9

Nguồn: [3, tr.184] Hạn chế về trình độ sử dụng ngoại ngữ là một trong những cản trở lớn đối với việc tiếp thu tri thức tiên tiến của nhân loại, điều đó cũng gây trở ngại cho việc nâng cao trình độ chuyên môn, giao tiếp… của chị em trong giai đoạn mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra. Như vậy, bên cạnh những đống góp to lớn của đội ngũ lao động trí thức nữ, chúng ta còn thấy ở đội ngũ này những hạn chế cả về mặt số lượng và chất lượng. Ngày nay sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta đang được thực hiện và cùng với thế giới đi vào nền kinh tế trí thức, điều này vừa tạo cho trí thức nữ có nhiều điều kiện để khẳng định mình, vừa đặt ra những yêu cầu, thách thưc mới đòi hỏi họ càng phải cố gắng nỗ lực nhiều hơn để tiến kịp và phát huy khả năng của mình

2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển lao động trí thức nữ Mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng là một bộ phận của giới trí thức nên sự phát triển của nữ trí thức gắn liền với những điều kiện của giới trí thức nói chung. Vì vậy, để xem xét những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của trí thức nữ, trước hết , ta xem xét những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển giới trí thức nói chung.

54

2.3.1. Nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế

Nền kinh tế nước ta đã chuyển sang kinh tế thị trường, với những đặc trưng quan trọng là: Sản xuất theo yêu cầu của thị trường về số lượng và chất lượng; các quy luật của kinh tế thị trường đã phát huy tác dụng, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,…

Cùng với các hàng hoá thông thường, sức lao động, sản phẩm khoa

học và công nghệ, các tác phẩm văn hoá nghệ thuật,…đều trở thành hàng

hoá. Ngay cả GD&ĐT, y tế, thể dục thể thao, đều trở thành các ngành dịch

vụ xã hội, nghĩa là sản phẩm của chúng cũng là hàng hoá.

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, như Đảng ta đã xác định, là

nền kinh tế thị trượng định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà

nước.

Đặc biệt mới đây (cuối năm 2006, đầu năm 2007), nước ta đã gia nhập

tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây là một sự kiện trọng đại về mặt

kinh tế, nó đánh dấu bước ngoặt lịch sử rằng, nền kinh tế nước ta đã tham gia

vào một “sân chơi” rộng lớn hơn, nhưng cũng vô cùng khắc nghiệt.

Nắm được bối cảnh nêu trên là rất quan trọng về mặt tư duy và phương

pháp luận. Bởi những tiêu chuẩn đánh giá, phương pháp thực hiện các mục

tiêu theo các tiêu chuẩn đó,… nói chung đều phải thay đổi cho phù hợp. Nếu

không như vậy, mục tiêu và hiệu quả công việc không đạt được, mà thậm chí,

kết quả sẽ ngược lại so với mong muốn. Ví dụ, trong lĩnh vực nghiên cứu

KH&CN: Trong đièu kiện hiện nay việc nghiên cứu phải xuất phát từ nhu

cầu của thực tiễn (chứ không phải khi có tiền nghiên cứu mới nghĩ đề tài

nghiên cứu); Việc tổ chức thực hiện nghiên cứu vừa có tính hợp tác, vừa có

tính cạnh tranh. Nếu không có cách thức tổ chức tạo ra sự cạnh tranh giữa

các cá nhân và tổ chức nghiên cứu thì nói chung, không thể có nhiều kết quả

nghiên cứu có chất lượng và hiệu quả. Dĩ nhiên, sự cạnh tranh này phải là

công bằng, lành mạnh.

Bối cảnh nêu trên đây, một mặt sẽ có tác động sâu sắc đến giới trí

thức, mặt khác gợi cho chúng ta nhiều vấn đề trong việc đổi mới tư duy, đổi

mới giải pháp quản lý.

55

2.3.2. Về nhận thức xã hội đối với vai trò của phụ nữ và lao động trí

thức nữ

Theo nhiều dự báo, thế kỷ XXI là thế kỷ của KH&CN, là thế kỷ mà

kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực

lượng sản xuất. Vì vậy, con người phải có trình độ cao về chuyên môn và

ngoại ngữ. Bởi vậy trong sự phát triển kinh tế - xã hội cần có sự nhận thức

đúng đắn, tạo điều kiện thuận lợi cho con người phát triển. Song thực tế cho

thấy đối với lao động trí thức nữ không phải mọi lúc, mọi nơi đều có sự nhận

thức đúng vai trò của họ. Điều đó đã có ảnh hưởng không tốt cho sự phát

triẻn của họ. Có thể nêu ra các biểu hiện cụ thể như sau:

2.3.2.1. Trong xã hội

Những hạn chế về mặt sinh học và những định kiến xã hội về giới đã

có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của lao động nữ trí thức. Điều dễ

nhận thấy là do đặc điểm sinh lý tự nhiên, phụ nữ thường có sức khoẻ cơ bắp

kém hơn nam giới. Phụ nữ còn có thiên chức “ làm vợ, làm mẹ” cho nên tính

cơ động và khả năng di chuyển của họ cũng khó khăn hơn so với nam giới.

Vì vậy trong điều kiện hiện nay, trước những đòi hỏi của cơ chế thị trường,

việc tìm kiếm việc làm phù hợp với chuyên môn, sức khoẻ, với sở trường của

trí thức nữ còn gặp không ít khó khăn. Trong xã hội, các cơ quan, các doanh

nghiệp thích nhận lao động nam hơn lao động nữ. Theo điều tra của viện

Thanh niên, những năm gần đây, mỗi năm có khoảng 1 vạn nữ sinh tốt

nghiệp CĐ và ĐH nhưng số chưa tìm được việc làm đúng với chuyên môn,

phù hợp với sức khoẻ còn rất lớn.

Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội cho hay: Riêng địa bàn Hà

Nội, thành phố Hồ Chí Minh cũng có hàng chục nghìn sinh viên chưa đi làm.

Đó là 1 sự lãng phí lớn cho gia đình và xã hội [46, tr.3]. Mặt khác, theo cách

nhìn truyền thống, và trên thực tế, phụ nữ nói chung có chức năng thiên bẩm

là sinh con, nuôi dạy con cái. hoặc coi phụ nữ là phái yếu, nên công việc gia

đình phụ nữ vẫn phải đảm nhiệm là chính. Tìm hiểu việc thực hiện các chức

năng gia đình, số liệu điều tra xã hội học cho thấy, ở ngay nhóm gia đình trí

thức (nhóm được coi là có trình độ cao nhất trong xã hội), công việc nội trợ

56

do người vợ thực hiện chiếm tới 42%, người chồng thực hiện là 5%, cả hai

cùng thực hiện là 53%; về việc nuôi dạy con cái, người vợ thực hiện chiếm

40%, cả hai cùng thực hiện là 39% [3, tr.231]. Qua đó cho thấy công việc gia

đình đã thu hút rất nhiều thời gian, sức lực và trí tuệ của phụ nữ nói chung và

phụ nữ trí thức nói riêng. Họ không còn thời gian đầu tư cho học tập, nghiên

cứu, tham gia công việc khác. Nhiều nhà nghiên cứu về phụ nữ cho rằng sự

thành đạt của nữ thấp hơn nam giới chủ yếu là do gánh nặng gia đình mà phụ

nữ phải đảm nhận. Sự đấu tranh giữa quan niệm cũ và cách nhìn mới, cái tiến

bộ và cái lạc hậu, để giải quyết hài hoà các chức năng gia đình và tham gia

phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề đặt ra đối với phụ nữ nói chung và trí

thức nữ nói riêng. Lao động trí thức nữ và gia đình họ đang đứng những mâu

thuẫn lớn. Đó là mâu thuẫn giữa đòi hỏi có tính cạnh tranh gay gắt của thị

trường lao động với những thực trạng hạn chế về kiến thức, kỹ năng, tay

nghề; giữa nhu cầu phải đảm bảo thực hiện tốt các chức năng trong gia đình,

với bao công việc bộn bề hàng ngày của cuộc sống với việc học tập, nghiên

cứu, nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng nhu cầu lâu dài của công việc. Tất

cả đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đén sự phát triển và phát huy tiềm năng của

chị em. Để khẳng định mình, họ phải có một quyết tâm cao, một sự vươn lên

không ngừng, nhưng rõ ràng họ cần sự hỗ trợ, chia sẻ to lớn và cụ thể của gia

đình, của xã hội.

Điều dễ nhận thấy trên thị trường lao động hiện nay là sức lao động,

trong đó có lao động trí tuệ đang hiện diện như một loại hàng hoá. Loại hàng

hoá đặc biệt này cũng chịu tác động gay gắt của các quy luật của thị trường

như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Do vậy, lao

động trí óc, năng lực hoạt động sáng tạo… đang gặp phải sự sàng lọc khắc

nghiệt của cơ chế thị trường. Sự thật ấy buộc trí thức nữ phải gắn bó hơn với

thực tiễn đời sống và sản xuất, phải sớm thích nghi với sự cạnh tranh và sàng

lọc cao, nếu như không muốn tụt hậu, không bị cơ chế thị trường đào thải.

Môi trường cạnh tranh đó thúc đẩy trí thức phải làm việc và học tập thêm,

phải nắm bắt kịp thời những cái mới và nhạy bén trong việc tìm tòi nhu cầu

thị trường, phải năng động, sáng tạo… Để có được những phẩm chất mới đòi

57

hỏi trí thức nữ phải có kiến thức chiều sâu, chiều rộng, kiến thức chuyên

ngành, liên ngành, trình độ ngoại ngữ, sự nhạy cảm và hiểu biết sâu rộng

thực tế, họ phải đi nhiều, học nhiều. Trong khi đó, công việc gia đình vẫn là

trách nhiệm nặng nề của người phụ nữ.

2.3.2.2. Trong gia đình

Hiện nay, mặc dù xã hội đã phát triển cùng với những quan điểm, quan

niệm sống tiến bộ. Song quan điểm, tư tưởng “Trọng nam khinh nữ” của nho

giáo vẫn còn tồn tại, “ăn sâu, bám rễ” trong mỗi gia đình, trong tiềm thức của

nhiều người. Tư tưởng này không ngừng gây ra sự mất cân đối về giới tính

tác động xấu đến sự phát triển xã hội mà còn dẫn tới sự mất cân đối về mặt

cơ cấu xã hội của đội ngũ trí thức, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát

triển cả về mặt số lượng và chất lượng của lao động trí thức nữ.

Tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, tư tưởng không muốn cho con gái có

học vấn cao vẫn đang tồn tại khá rõ và có chiều hướng phát triển ở một số

vùng nông thôn. Mặt khác, việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế (trực tiếp là

việc thực hiện cơ chế khoán sản phẩm, xoá bỏ cơ chế bao cấp trước) đã có

ảnh hưởng tiêu cực đến việc nâng cao học vấn cho con gái, và hậu quả là rất

nhiều học sinh các cấp bỏ học, trong đó các em gái là người chịu thiệt thòi

nhất. Chúng ta quan sát bảng thống kê sau:

Bảng 11: Tỷ lệ học sinh các cấp chia theo giới tính năm 2003 (%)

Cấp học Nữ Nam

Tiểu học 47,52 52,48

Trung học cơ sở 47,50 52,50

Trung học phổ thông 46,70 53,30

ĐH 44,27 55,73

Nguồn: Báo cáo của các tổ chức phi chính phủ về 10 năm thực hiện

Chương trình hành động Bắc Kinh tại Việt Nam, tháng 2 - 2005, tr.11

Như vậy, ngay ở tiểu học, tỷ lệ đi học của các em nữ đã thấp hơn ở các

em nam... Ở bậc học càng cao, tỷ lệ đi học ở các em nữ càng thấp. Ở bậc ĐH,

tỷ lệ này chỉ là 44,27%, thấp hơn tỷ lệ của nam 11,46%.

58

Bảng trên là số liệu tính chung của toàn quốc. Nếu xét riêng theo từng

vùng hoặc theo dân tộc, chắc chắn ở các vùng núi, vùng xa, ở các dân tộc còn

găp khó khăn về kinh tế, tỷ lệ nữ đi học sẽ còn thấp hơn nhiều.

Hiện tượng này đòi hỏi Nhà nước phải có một chính sách mạnh mẽ, rõ

ràng hơn nữa trong giáo dục đào tạo, trong phát triển kinh tế - xã hội đối với

các vùng nông thôn, miền núi và đối với phụ nữ nói chung nhằm khắc phục

dần sự bất bình đẳng về giới trong giáo dục và đào tạo.

Một vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến lao động trí thức nữ là: Trình

độ trên đại học, tỷ lệ nữ có trình độ thạc sĩ là 29,59% và trình độ tiến sĩ chỉ là

16,46% trong tổng số lao động có trình độ tương ứng năm 2002 (xem bảng

2). Đồng thời, cùng với vấn đề số lượng, chất lượng đào tạo từ bậc ĐH đến

trên ĐH đang đặt những yêu cầu cấp bách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ

trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng. Ở đây cần nói thêm rằng, chất lượng

đào tạo không chỉ là chất lượng tầm quốc gia, mà là chất lượng khu vực và

thế giới. Điều này đang là một vấn đề lớn đặt ra để phát triển đội ngũ trí thức

nữ nước ta, kịp đáp ứng yêu cầu sự nghiêp CNH, HĐH đất nước.

2.3.2.3. Trong các cơ quan quản lý nhà nước

Trong thực tế cho thấy phụ nữ nước ta tham gia đông đảo vào các lĩnh

vực hoạt động như khoa học, kỹ thuật, văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội.

Song, khi xét kỹ, vẫn có sự phân bố lao động không đồng đều trong nhiều

ngành nghề, lĩnh vực và hoạt động xã hội. Nam giới thường chiếm đa số

trong những ngành và lĩnh vực có thu nhập và địa vị xã hội cao, trong khi

phụ nữ thường làm việc ở những nghề có tiền công thấp, không đòi hỏi tay

nghề cao hay kỹ năng lao động phức tạp. Đặc biệt, trong lĩnh vực “quản lý

nhà nước và bảo đảm xã hội” phụ nữ chỉ chiếm 28% so với nam giới là 72%.

Tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan quyền lực và quản lý nhà nước các cấp được

coi là sự biểu thị năng lực của phụ nữ trên lĩnh vực chính trị. Trong Ban chấp

hành các cấp của Đảng cộng sản Việt Nam, phụ nữ chỉ chiếm trung bình

khoảng 8%, một tỷ lệ thấp so với yêu cầu cũng như mục tiêu phấn đấu (15%)

được nêu ra trong các chủ trương, chính sách của Đảng .

59

Số lượng nữ tham gia trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ngày

càng tăng. Nhưng so với các tỷ lệ đại biểu Quốc hội nữ các khoá trước có

phần thấp hơn (tỷ lệ Đại biểu Quốc hội nữ khoá IV: 29,8%, khoá V: 34,3%,

khoá X; 26,2%, khoá XI: 27,31%). Đặc biệt tỷ lệ nữ là đại biểu Hội đồng

nhân dân các cấp có chiều hướng giảm dần từ cấp tỉnh, thành phố tới các cấp

cơ sở. Số liệu nữ đại biểu Hôị đồng Nhân dân các cấp khoá 1994 - 1999 và

khoá 1999 - 2004 đã cho biết thực tế này. Nhìn chung, phụ nữ tham gia vào

các cơ quan dân cử ít hơn so với nam giới và số lượng phụ nữ giữ các chức

vụ cao trong các cơ quan này lại càng ít (nhiệm kỳ 1994 - 1999 và 1999 -

2004, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân là nữ

chỉ chiếm từ 1,1% đến 9%) [35, tr.8].

Sự tham gia của phụ nữ vào các cấp lãnh đạo chính quyền nhà nước

chưa tương xứng với sự phát triển của đội ngũ lao động nữ. Tỷ lệ phụ nữ

nắm giữ các cương vị lãnh đạo trong bộ máy nhà nước còn quá thấp và nếu

chúng ta so sánh tỷ lệ phụ nữ trong dân cư, trong các lĩnh vực lao động sản

xuất, trong từng địa bàn, doanh nghiệp, cơ quan - những nơi mà phụ nữ đang

hàng ngày hàng giờ sinh sống và lao động, thì tỷ lệ phụ nữ tham gia trong

các cơ quan quản lý còn ở mức thấp.

Nhìn chung, số phụ nữ nắm giữ các cương vị lãnh đạo và quản lý đã ít,

lại không đồng đều giữa các lĩnh vực và ngành nghề. Phụ nữ thường tập

trung vào những linh vực được coi là “nhẹ nhàng” và “có tính phụ nữ”, và

thường cũng chỉ làm cấp phó, giúp việc cho cấp trưởng là nam giới. Chẳng

hạn: ngành GD&ĐT, số cán bộ nữ chiếm trên 70% nhưng có tới 30 tỉnh

thành và cấp bộ chưa có cán bộ nữ ở cương vị lãnh đạo cao. Lãnh đạo cấp vụ

là nữ chỉ chiếm 14,8%, hiệu trưởng trường ĐH chỉ chiếm 5,5%, giám đốc sở

chỉ chiếm 9,8%... Ở cương vị chủ tịch tỉnh/thành phố, chủ tịch huyện/thị xã

và chủ tịch xã/phường là nữ chỉ ở các tỷ lệ tương ứng là 11,6%, 1,8% và

1,3%, trong khi cương vị cấp phó có các tỷ lệ là 11,2%, 8,5% và 2,6% [35,

tr.10]. Ở các ngành kế hoạch và đầu tư, KH&CN, các cơ quan toà án cấp cao

hầu như không có phụ nữ ở vị trí cao…

60

Tóm lại, so với tiềm năng to lớn của lực lượng lao động nữ trong nền

kinh tế quốc dân thì quy mô và mức độ tham gia của phụ nữ vào quá trình

chính trị, quản lý, và lãnh đạo còn rất hạn chế. Điều này thể hiện nhận thức

của xã hội về phụ nữ còn nhiều hạn chế và do vậy, năng lực của phụ nữ chưa

được phát huy đúng với thực tế của nó. Do đó, với những biến động về kinh

tế - xã hội, trước yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước, để tiếp tục sự

nghiệp giải phóng phụ nữ và phát triển lao động trí thức nữ, cần có giải pháp

làm thay đổi nhận thức xã hội đối với vai trò của phụ nữ và trí thức nữ trong

quá trình phát triển.

2.3.3. Về hệ thống chính sách

2.3.3.1. Đánh giá chung

Từ khi đổi mới đến nay, Đảng và Chính phủ đã có rất nhiều chủ

trương, chính sách không ngừng đẩy mạnh công cuộc bình đẳng giới tạo

nhiều cơ hội để phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực hoạt động và khẳng định

tiềm năng to lớn của họ. Chẳng hạn: Nghị quyết 04/NQTW về “đổi mới công

tác vận động phụ nữ trong tình hình mới” ra ngày 12/07/1993; Chỉ thị 37CT -

TW của Ban chấp hành TW Đảng “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ

trong tình hình mới” ra ngày 16/05/1994; Quyết định 82/TTg của Thủ tướng

Chính phủ ngày 10/10/1997 đã “Đưa quan điểm bình đẳng giới vào các lĩnh

vực hoạch định chính sách phát triển kinh tế, các chương trình quốc gia của

các ngành, các cấp”; Quyết định 19/2002/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính

phủ ra ngày 28/01/2002 về Phê duyệt chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của

phụ nữ Việt Nam đến 2010… Tuy nhiên có thể thấy rằng, các chính sách

mới ở mức tuyên bố chung, thiếu cụ thể, chưa được thể chế hoá bằng văn

bản của Bộ, ngành. Ví dụ: Chủ trương khuyến khích cán bộ nữ làm khoa học

hay quản lý có năng lực làm việc đến 60 tuổi, hay chủ trương nơi nào có trên

30% nữ phải có một cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ, được tuyên bố từ lâu,

nhưng vẫn chưa hề có văn bản hướng dẫn cách vận dụng. Hoặc có những chủ

trương tuy đã được thể chế hoá bằng văn bản ở các cấp nhưng thiếu kế hoạch

để thực hiện. Chẳng hạn trong chương trình năm 1999 của Bộ GD&ĐT về

việc thực hiện “Kế hoạch hành động quốc gia triển khai thực hiện chiến lược

61

phát triển vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam đến năm 2010” (Số 8887/TCCB) có

đề ra các biện pháp như: Khảo sát, thống kê tình hình cán bộ nữ và xây dựng

kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ; thực hiện chỉ tiêu về tỷ lệ cán bộ lãnh

đạo nữ các cấp…, song trên thực tế vẫn chưa được thực hiện. Nhìn chung các

văn bản tuyên bố tuy có tồn tại, song chưa đi vào thực tế được bao nhiêu.

Nhận thức về vấn đề bình đẳng giới vẫn chưa thực sự thấm nhuần trong đội

ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo, nên kết quả là nhiều chính sách vẫn mang tính

“cào bằng”, phụ nữ chưa được quan tâm như một đối tượng cụ thể mà chỉ

được nhìn nhận như một người lao động nói chung, không phân biệt nam nữ,

do đó việc thực hiện các chính sách đạt kết quả chưa cao.

2.3.3.2. Việc thực hiện chính sách đối với trí thức nữ

Để đi sâu đánh giá việc thực hiện các chính sách đối với lao động trí

thức nữ chúng ta có thể xem xét ở một số mặt và lĩnh vực quan trọng là trong

giáo dục - đào tạo và trong quá trình sử dụng trí thức.

* Trong giáo dục - đào tạo.

Là một trong những ngành có đông phụ nữ tham gia nhất (với tỷ lệ

71%), việc ban hành các chính sách về công tác cán bộ nữ trong ngành

GD&ĐT có ý nghĩa rất quan trọng. Theo tinh thần thực hiện Nghị quyết

04/NQ - TW và chỉ thị 37/CT - TW, Bộ GD&ĐT cũng đã ban hành chỉ thị

15/GD - ĐT về việc “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong

ngành GD - ĐT trong tình hình mới”… Các chính sách trong GD&ĐT cũng

còn một số hạn chế. Các chính sách này ngoài những hạn chế chung nêu ở

phần trên còn được biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:

Một là, chính sách còn thiếu nhạy cảm giới. Theo báo cáo khoa học

đề tài “Thực trạng tham gia của cán bộ giảng dạy nữ vào các hoạt động giảng

dạy, nghiên cứu quản lý trong nhà trường đại học và các giải pháp quản lý

nhằm nâng cao vai trò của họ”, mã số 1999 - 52 – 38, cho thấy: Có một tỷ lệ

đáng kế (38%) người trả lời cho rằng đó là do các chính sách đào tạo, bồi

dưỡng chưa tính đến các đặc điểm tâm sinh lý cũng như các điều kiện đặc thù

khác của nữ giảng viên.

62

Sự khác biệt về giới, về những tác động khác nhau mà một chính sách

có thể mang lại cho phụ nữ và nam giới không được xem xét. Trong thực tế

có thể thấy phụ nữ bị thiệt thòi mất một thời gian dành cho việc sinh và nuôi

con, đặc biệt là trong giai đoạn 25 - 35 tuổi, song điều khác biệt đó không

được tính đến trong chính sách đào tạo - bồi dường. Thật là có lý khi đưa ra

nhận xét: “Việc qui định độ tuổi đào tạo sau ĐH, trên đại học cho nam dưới

40 và nữ dưới 35 là bất hợp lý. Cả nam và nữ đều có mốc tuổi đi học bắt đầu

như nhau, và tuổi bắt đầu nhận công tác như nhau. Độ tuổi 25 - 35 là lúc phụ

nữ phải dành nhiều thời gian và công sức cho thiên chức làm mẹ, làm vợ của

mình. Nếu hạn chế giới hạn tuổi như vậy họ sẽ rất ít cơ hội để học tập tiếp

tục” [36, tr.15]

Như vậy, vấn đề độ tuổi làm mẹ của phụ nữ là một đặc điểm mang tính

khách quan rất đáng để các nhà quản lý, lãnh đạo lưu ý, xem xét đến khi sử

dụng đánh giá cán bộ nữ, cũng như khi hoạch định chính sách về bồi dưỡng,

đào tạo đối với trí thức nữ

Hai là, còn thiếu các chính sách phù hợp trong đào tạo, bồi dưỡng

tiếp tục. Cũng từ kết quả điều tra của một đề tài khoa hoc, có 16% số người

trả lời (trong đó nữ giáo viên chiếm 10% và nam 6%) cho rằng do nhà nước

thiếu các chính sách phù hợp khuyến khích nữ giảng viên tham gia đào tạo -

bồi dưỡng nâng cao trình độ; trong đó kể cả chính sách hỗ trợ kinh phí. Một

tỷ lệ đáng kể người trả lời (26%) cho rằng thiếu các chính sách hỗ trợ kinh

phí là nguyên nhân hạn chế nữ giảng viên học tập nâng cao trình độ [25,

tr.21].

Từ kết quả nghiên cứu của đề tài khác, cho thấy đối với cán bộ công nhân

viên ở doanh nghiệp, cản trở lớn nhất cho việc học tập là thời gian biểu

không phù hợp, khó sắp xếp để đi học, thì với đối tượng ở các trung tâm

nghiên cứu, trường, viện, khó khăn số một là chi phí cho việc học. Có đến

76,6% những người được hỏi cho biết chi phí học tập có ảnh hưởng đến

quyết định học tiếp hay không của họ. Sở dĩ như vậy là vì đa số những người

đi học sau đại học là trẻ tuổi, chưa có mức lương cao. Trong khi đó, chi phí

cho việc học (gồm học phí, sách vở, tiền đóng góp cho trường…) bình quân

63

cho một người ở cấp sau ĐH là 3 - 4 triệu đồng/năm. Với mức thu nhập hiện

tại của giảng viên, cán bộ nghiên cứu tại các trường, viện sau khi trừ khoản

dành cho việc đảm bảo cuộc sống hàng ngày của gia đình, việc học hành các

con, thì việc bỏ ra khoản chi phí để đi học như trên là một bài toán khó, nếu

không có những thu nhập thêm khác.

Như vậy, có thể thấy rõ rằng nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về trình

độ của một bộ phận nữ trí thức là thiếu chính sách giúp cho trí thức nữ khắc

phục khó khăn trong đào tạo, bồi dưỡng lên trình độ cao hơn. Điều này đã

ảnh hưởng lớn đến chất lượng đội ngũ lao động trí thức nữ, và cũng từ

nguyên nhân này lí giải cho chúng ta thấy vì sao càng ở bậc cao, số nữ trí

thức càng ít.

* Trong sử dụng trí thức

Với quan điểm coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự

phát triển, Đảng và Nhà nước ta chẳng những đã rất chú trọng việc bồi

dưỡng, đào tạo đội ngũ trí thức, mà còn chú trọng việc sử dụng có hiệu quả

các tài năng. Song qua tổng kết thực tế, việc xây dựng và thực hiện các chính

sách bồi dưỡng, sử dụng nhân tài cũng còn những hạn chế. Chẳng hạn trong

lĩnh vực khoa học và công nghệ, Đảng ta đã đánh giá: Chúng ta “chưa phát

huy được khả năng sáng tạo của các tổ chức và các cán bộ khoa học và công

nghệ, chưa chú trọng đúng mức quản lý chuyển giao công nghệ, đổi mới

công nghệ trong sản xuất,… chưa tạo ra được một không khí hoạt động khoa

học và công nghệ sôi động. Cán bộ khoa học công nghệ có trình độ cao còn

ít, song chưa được sử dụng tốt…”, “thiếu chính sách lôi cuốn những nhà

khoa học trên thế giới làm việc cho Việt Nam; tạo điều kiện để trí thức nước

ta được làm việc ở các trung tâm khoa học lớn trên thế giới” [10, tr.84-85].

Việc khả năng sáng tạo của đội ngũ trí thức nước ta thời gian qua chưa

được phát huy, tiềm lực trí tuệ ở nhiều tổ chức và cá nhân chưa được khai

thác đầy đủ là do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân quan trọng

trong sử dụng trí thức là chưa có chính sách sàng lọc,tạo ra động lực (nhất

là chính sách tiền lương) phù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường. Khi

tìm hiểu nguyên nhân chính hạn chế khả năng sáng tạo của đội ngú trí thức,

64

kết quả cuộc điều tra ở các trường ĐH và viện nghiên cứu của Ban Khoa giáo

TW tiến hành năm 2003 (Đề tài độc lập cấp nhà nước) cho thấy: “Nhìn

chung ở các địa phương tham gia khảo sát, đa số ý kiến trả lời tập trung vào

nguyên nhân là chính sách chưa tạo được động lực (về tiền lương) cho trí

thức KH&CN lao vào nghiên cứu :77,3%”

Riêng đối với trí thức nữ, cũng chưa có chính sách ưu tiên cho trí thức

nữ được tham gia nhiều ở những ngành, những công việc phù hợp. Như đã

biết, mỗi ngành nghề, lĩnh vực có những đặc điểm riêng. Vì vậy chính sách

sử dụng lao động trí thức nữ phải tính đến cả những vấn đề như cường độ

làm việc, phân bố thời gian làm việc, đặc thù công việc, chế độ, tiền lương…

Song qua thực tế những vấn đề này chưa được chú ý tới.

Tuổi về hưu của nữ

Một trong những vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay là đội ngũ nữ trí

thức nói chung, trong đó những người có học hàm học vị chưa nhiều và đều

ở độ tuổi khá cao. Đây cũng là thực trạng chung của cả đội ngũ trí thức nước

ta là sự không cân đối về mặt cơ cấu giữa các thế hệ trí thức. Điều này đang

gây nên tình trạng thiếu hụt, không liên tục trong quá trình phát triển đội ngũ

trí thức nữ nước ta. Theo nghiên cứu của ban nữ công, công đoàn viên chức

Việt Nam do TS Bùi Thị An làm chủ nhiệm, trong năm 1996 (khảo sát chủ

yếu tiến hành ở hai trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia và

Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia và một số ngành) trong

tổng số chị em có học hàm, học vị được điều tra, dưới 40 tuổi chỉ chiếm 4%,

từ 41 - 50 tuổi chiếm 31.8%, còn lại là trên 50 tuổi. Trong khi đó tuổi nghỉ

hưu nhà nước qui định đối với nữ là 55. Như vậy với những người có tài, còn

đủ sức khoẻ và có nguyện vọng tiếp tục làm việc sẽ không được đóng góp hết

khả năng, mặt khác còn gây ra sự thiếu hụt trí thức nữ nhất là những ngành

nghề phù hợp và cần có sự tham gia của lực lượng lao động này.

Tóm lại, từ sau ngày đổi mới, vai trò của lao động trí thức nữ trong sự

phát triển kinh tế - xã hội đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao, toàn xã

hội đã tạo những điều kiện, môi trường thuận lợi để nữ trí thức có thể phát

huy những phẩm chất quý báu của mình để lao động sáng tạo, vươn lên trên

65

nhiều mặt. Tuy nhiên, lao động trí thức nữ cũng còn gặp phải những khó

khăn mà điều kiện khách quan và chủ quan đã tạo ra, cần phải được khắc

phục. Chỉ có thể giải quyết các vấn đề nêu ra ở trên mới có thể xây dựng

được đội ngũ trí thức nữ phát triển cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu

cầu phát triển của đất nước nói chung, sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng.

66

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH CƠ BẢN

NHẰM PHÁT TRIỂN LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP

CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC

3.1. Phƣơng hƣớng phát triển lao động trí thức nữ ở nƣớc ta

3.1.1. Bối cảnh phát triển của kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời

gian tới

Hiện nay trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế

chủ đạo; toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế vẫn đang được đẩy nhanh;

đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng mở rộng.

Cuộc cách mạng KH&CN, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh

học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến cơ cấu và

sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế

tham gia phân công lao động toàn cầu. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

tiếp tục phát triển năng động, hợp tác trong khu vực ngày càng mở rộng tạo

thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc gia.

Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố

phức tạp, khó lường; các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với hoạt động

khủng bố quốc tế có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế

giới. Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt

các rào cản trong thương mại với các nước nghèo và đang phát triển. Thị

trường tài chính, tiền tệ và giá cả thế giới còn diễn biến phức tạp. Các vấn đề

mang tính toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn

năng lượng và nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo… sẽ càng trở nên

gay gắt hơn.

CNH, HĐH vì thế đã trở thành một xu hướng tất yêu đối với tất cả các

nước để chuyển được từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp và

trở thành các nước phát triển. CNH, HĐH, theo quan điểm của Đảng ta, là quá

trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ

và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng

67

một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương

pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa

học và công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao.

Việt Nam đi vào CNH, HĐH với những thuận lợi rất cơ bản là đã có

những bài học kinh nghiệm và những thành tựu trên nhiều mặt sau hơn 20

năm đổi mới, nhưng cũng còn nhiều yếu kém, đặc biệt là nền kinh tế đang ở

trình độ phát triển thấp, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh còn yêu, còn tụt hậu khá

xa so với nhiều nước trong khu vực.

Mới đây, Việt Nam đã gia nhập WTO. Điều này tạo ra nhiều cơ hội

lớn, nhưng cũng nhiều thách thức rất nghiệt ngã.

Chính vì thế, quá trình CNH, HĐH đất nước đặt ra những đòi hỏi khách quan về số lượng, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực. Trước hết là yêu cầu về năng lực trí tuệ. Không có trí tuệ, không có tri thức thì không một dân tộc nào, quốc gia nào có thể phát triển và tự khẳng định được. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong thời đại của cuộc cách mạng KH&CN, yếu tố phẩm chất trí tuệ ở người lao động là đặc biệt quan trọng. Họ phải có năng lực sáng tạo, có khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng tạo ra những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; có năng lực thu thập và xử lý thông tin trong điều kiện bùng nổ thông tin; có sự nhạy bén, thích nghi nhanh và làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại; có kỹ năng lao động chuyên môn hoá sâu nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao… Tiếp đến là yêu cầu về trách nhiệm xã hội ở đội ngũ trí thức lao động, nghĩa là phải biết vun đắp những giá trị nhân văn, hướng sự sáng tạo, phát minh của mình phục vụ sự tiến bộ xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, những phẩm chất công bằng, trung thực nhiều khi khó dung hoà với những lợi ích trước mắt của mỗi cá nhân. Chủ nghĩa thực dụng, lối sống ích kỉ đã và đang chi phối không ít đến cuôc sống của trí thức. Trên thực tế, đã có không ít trí thức bất chấp giá trị nhân văn nghề nghiệp để tham gia vào những hoạt động tiêu cực ảnh hưởng đến lợi ích của đất nước. Vì vậy, yêu cầu về chính trị, đạo đức đối với đội ngũ trí thức trong điều kiện nều kinh tế thị trường cần có những điểm nổi bật là: Trung thành với lợi ích của Đảng, của nhân dân, tinh thần yêu nước nồng nàn, được thể hiện ở việc nêu cao tinh

68

thần tự cường dân tộc, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, để “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” khác. Đức tính công bằng và trung thực trong điều kiện hiện nay biểu hiện rõ nhất ở việc giữ vững tính khách quan, tôn trọng sự thật trong nghiên cứu khoa học, nhất là trong khoa học xã hội. Dũng cảm, không sợ uy quyền, không để những ham muốn vật chất lôi kéo, cám dỗ,…

Đối với người lao động trí tuệ trong giai đoạn hiện nay, không những phải có tinh thần hợp tác, mà còn phải có quyết tâm trong cạnh tranh, cạnh tranh lành mạnh, để sáng tạo nên những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, có thể thương mại hoá trong nước và quốc tế.

Để có thể sáng tạo, người trí thức không những cần táo bạo trong tư duy, dũng cảm trong hoạt động nghiên cứu, mà còn cần phải kiên trì hăng say học tập, học tập suốt đời để cập nhật được thông tin mới và xử lý chúng với bản lĩnh vững vàng về chính trị, với cách nhìn toàn diện, tầm nhìn xa, vì sự phát triển bền vững của thế hệ hôm nay và mai sau.

3.1.2. Quan điểm, phương hướng xây dựng đội ngũ trí thức nữ Để phát triển đội ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng, cần hiểu đúng và nắm vững những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã nêu ra đối với KH&CN cũng như đối với trí thức nói chung sau đây.

3.1.2.1. Những quan điểm phát triển đội ngũ trí thức nói chung Để thực hiện những mục tiêu trong chính sách đối với trí thức do Hội nghi lần thứ 6 BCH TƯ Đảng khoá IX nêu ra là “...Tạo động lực phát huy mạnh mẽ năng lực nội sinh, giải phóng sức sáng tạo, nâng chất lượng, hiệu quả của hoạt động KH&CN, làm KH&CN thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, cần nhắc lại những quan điểm mà Nghị quyết 02 - NQ/HNTW về khoa học và công nghệ đã nêu:

(1). KH&CN là quốc sách hàng đầu; là động lực phát triển kinh tế - xã

hội;

(2). KH&CN là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp; là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng;

(3). KH&CN là sự nghiệp cách mạng của toàn dân;

69

(4). Phát huy năng lực nội sinh kết hợp với tiếp thu thành tựu khoa học

và công nghệ thế giới;

(5). Gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, bảo đảm phát

triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững.

Cùng với những quan điểm cơ bản trên, từ những lý luận và thực tế trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi, vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN cần phải được coi là một quan điểm mang tính chiến lược trong phát triển KH&CN, cũng như trong chính sách đối với trí thức KH&CN.

Đây là một vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế nước ta, trong lĩnh vực KH&CN, lĩnh vực đào tạo đã có thị trường và các thị trường này đang hoạt động, tuy ở mức sơ khai. Vấn đề là tìm hiểu, chấp nhận nó, tìm ra cách thức quản lý hợp quy luật và giữ vững tính định hướng XHCN, thì hoạt động của các thị trường này chẳng những không làm tha hoá, mà ngược lại, sẽ là điều kiện và động lực phát triển đội ngũ trí thức, đáp ứng được yêu cầu mới của kinh tế xã hội.

3.1.2.2. Những quan điểm phát triển đội ngũ nữ trí thức Đối với phụ nữ nói chung, trí thức nữ nói riêng, ngay từ những năm 30 của thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đưa ra tư tưởng “nam nữ bình quyền” và coi việc thực hiện tư tưởng đó là một trong 10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và các hiến pháp tiếp theo đã khẳng định “Phụ nữ bình đẳng với nam giới về mọi phương diện”.

Hướng tới sự bình đẳng về giới không chỉ là việc quan tâm về số lượng phụ nữ nắm giữ các vị trí đưa ra quyết định - mặc dù đó là một chỉ báo quan trọng, mà còn phải đảm bảo sao cho các hoạt động và các định hướng phát triển phản ánh được cách nhìn và mối quan hệ của phụ nữ. Nghĩa là phụ nữ không chỉ cần được “chia đều bánh”, mà cần được tham gia “làm bánh”.

Sự tiến bộ về giới chỉ đạt được khi sự bình đẳng nam - nữ trong xã hội ngày càng được nâng lên về địa vị kinh tế, xã hội, về cơ hội tiếp cận các nguồn lực và dịch vụ công cộng, cũng như đảm bảo để phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội.

70

Sự bình đẳng về giới không phải là vấn đề của riêng phụ nữ, đó là vấn đề của toàn xã hội, và đây không chỉ nhằm để đạt được các chỉ số về mặt kỹ thuật, mà đó là một tiến trình chính trị.

Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thực hiện tăng cường vấn đề giới, thể hiện ở nhận thức, ở các giải pháp khác nhau, đặc biệt thể hiện ở hệ thống pháp luật, chính sách nhằm hình thành và phát triển các giá trị văn hoá, các tập quán xã hội tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển.

3.1.2.3. Phương hướng phát triển đội ngũ trí thức nữ Cùng với sự phát triển đội ngũ trí thức nói chung, đội ngũ trí thức nữ nước ta cần phải được phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu.

Cùng với việc giữ vững tỷ lệ nữ trí thức tốt nghiệp ĐH, cần chú ý nâng nhanh tỷ lệ nữ trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ. Vấn đề chất lượng của đội ngũ cần được đặc biệt chú ý để có thể thực hiện tốt hơn các chức năng xã hội của trí thức.

3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển lao động trí thức nữ trong

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc

3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình đẳng

nam nữ

Tuyên truyền, giáo dục trong xã hội những vấn đề về giới bằng các phương tiện khác nhau nhằm thay đổi quan niệm cũ, hình thành và phát triển quan niệm mới về bình đẳng nam nữ trong xã hội là công việc cần được làm liên tục, ở mọi cấp, mọi môi trường có thể.

Nội dung công tác tuyên truyền không những chỉ là nội dung của quan niệm về sự bình đẳng nam - nữ, mà còn là các văn bản, chính sách của Đảng, nhà nước có liên quan; các biểu hiện cụ thể về sự bình đẳng và bất bình đẳng đang diễn ra trên thực tế,… Đối tượng công tác tuyên truyền không chỉ là phụ nữ, mà là cả nam và nữ, từ lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước, đến người dân bình thường.

Cần thông qua các phương tiện truyền thông khác nhau, trước hết là các phương tiện thông tin đại chúng. Công tác tuyên truyền cũng cần được thực hiện ngay tại các diễn đàn của Đảng, nhà nước, các đoàn thể quần chúng.

71

Kết quả công tác tuyên truyền không chỉ được đánh giá bởi các cam

kết mang tính tuyên bố, mà cần được đánh giá bởi kết quả của việc lồng ghép

quan điểm giới vào các kế hoạch phát triển các lĩnh vực khác nhau như giáo

dục và đào tạo, lao động, xoá đói giảm nghèo, vay vốn,…

3.2.2. Phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ

Ngày nay, nhiều nước trên thế giới tập trung vào việc hoạch định và

hiện thực hoá chiến lược con người, xem đó như một chiến lược bao trùm,

chiến lược của mọi chiến lược. Nét đặc trưng nổi bật của chiến lược con

người trong giai đoạn văn minh trí tuệ là xác định vai trò quan trọng hàng

đầu của GD&ĐT, coi GD&ĐT là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng

nguồn lực con người. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới coi việc phát triển

GD&ĐT là quốc sách hàng đầu.

Ở nước ta, để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, Đảng ta

cũng đã khẳng định “Cùng với KH&CN, GD&ĐT phải là quốc sách hàng

đầu”.

Trong Chiến lược phát triển GD&ĐT đến năm 2010 của Nhà nước đã

đưa ra ba mục tiêu lớn là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân

tài, trong đó, mục tiêu nâng cao dân trí có vai trò cơ sở cho các mục tiêu

khác. Đội ngũ nhân lực với trình độ cao, nhiều tài năng trên các lĩnh vực chỉ

có thể hình thành, nảy nở và phát triển trên một nền tảng dân trí cao, trong đó

có phụ nữ với 50% dân số. Hơn nữa, việc nâng cao trình độ dân trí cho phụ

nữ còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra điều kiện để nâng cao chất

lượng giống nòi Vịêt Nam.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, trước mắt cần phấn đấu đạt các chỉ tiêu

được nêu trong “Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam” đã

được Chính phủ phê duyệt là: Cùng với việc phấn đấu xoá mù chữ cho phụ

nữ ở độ tuổi từ 15 - 35, việc nâng tỷ lệ học sinh nữ ở phổ thông trung học cơ

sở và trung học phổ thông tương đương như học sinh nam.

Muốn thực hiện được mục tiêu trên, cần thực hiện tốt các biện pháp

chủ yếu sau:

72

3.2.2.1. Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở một

cách bền vững

Mặc dù chúng ta đã tuyên bố hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học từ

lâu và đang tiến tới phổ cập trung học cơ sở, nhưng hiện tượng mù chữ và tái

mù chữ vẫn diễn ra trên thực tế. Vì vậy, cần đảm bảo tất cả trẻ em trong độ

tuổi từ 6 - 14 được đi học, kể cả nam và nữ, thực hiện Luật Giáo dục đã nêu:

Giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở là các cấp học phổ cập. Nhà

nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều kiện để thực

hiện phổ cập giáo dục trong cả nước; Mọi công dân trong độ tuổi quy định có

nghĩa vụ học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập (Điều 11, Luật Giáo dục

năm 2005).

Khắc phục tình trạng trẻ em gái bỏ học, đặc biệt là đối với trẻ em

nghèo, trẻ em là con đồng bào các dân tộc thiểu số.

3.2.2.2. Đưa quan điểm giới vào chương trình giáo dục ở các cấp học,

và tạo ra những cơ hội, điều kiện thuận lợi cho nữ sinh phát triển, thu hút và

khuyến khích nữ sinh đi học và học lên cao.

3.2.2.3. Đầu tư thoả đáng cho chương trình xoá mù chữ và các hoạt

động tiếp theo để hạn chế việc tái mù chữ. Có chương trình xoá mù chữ đặc

biệt, phù hợp với nhu cầu của các đối tượng phụ nữ trên cơ sở hiểu biết được

những điều kiện cụ thể của người phụ nữ.

3.2.2.4. Để hỗ trợ cho các biện pháp nêu trên có hiệu quả, điều quan

trọng mà chúng ta phải làm tốt hơn là công tác tuyên truyền, giáo dục nâng

cao nhận thức về vai trò của học vấn đối với phụ nữ, trước hết là cho phụ nữ

và sau đó cho toàn xã hội; nghĩa là làm cho mọi người hiểu rõ lợi ích của

việc nâng cao học vấn cho người phụ nữ.

Nâng cao nhận thức cho mọi người (cho cả nam giới và nữ giới) về lợi

ích của việc học hành của phụ nữ hiện nay là việc làm cấp bách và quan

trọng. Các phương tiện thông tin đại chúng cần tuyên truyền sâu rộng quan

điểm đúng đắn về phụ nữ của Đảng và Nhà nước, những chính sách hiện

hành liên quan đến phụ nữ, đặc biệt là chính sách đào tạo, đồng thời tạo ra

73

một dư luận xã hội rộng rãi ủng hộ việc đi học và nâng cao không ngừng kiến

thức ở phụ nữ.

3.2.3. Có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình

độ đội ngũ trí thức nữ

3.2.3.1. Đổi mới chính sách đào tạo đội ngũ trí thức nữ

Như đã biết, đội ngũ kế cận của trí thức nữ là đội ngũ nữ sinh viên.

Theo Chiến lược phát triển giáo dục của nước ta giai đoạn 2001 -

2010, để tăng cường lực lượng trí thức nói chung, các chỉ tiêu số lượng đặt ra

là: Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000 - 2001 lên 200

vào năm 2010; tăng quy mô đào tạo thạc sỹ từ 11.727 học viên năm 2000 lên

38.000, nghiên cứu sinh từ 3870 năm 2000 lên 15.000 vào năm 2010. Nếu

với tỷ lệ nam nữ trong đào tạo được giữ vững như những năm gần đây, chúng

ta tin rằng đội ngũ trí thức nước ta vào năm 2010 khá đông đảo, trong đó có

trí thức nữ. Tuy nhiên ở đây có 2 vấn đề cần chú ý:

- Thứ nhất, cần có biện pháp nâng nhanh tỷ lệ nữ được đào tạo trình độ

thạc sỹ và tiến sỹ.

- Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ trí thức nói chung, trí

thức nữ nói riêng.

Vấn đề thứ nhất sẽ được nói rõ ở giải pháp tiếp theo. Ở đây đi sâu vấn

thứ hai về chất lượng đào tạo ĐH và sau ĐH.

Mấy năm gần đây (chủ yếu từ 1994 đến nay) số nữ sinh viên tăng

nhanh về số lượng, nhưng chất lượng cần phải được quan tâm rất nhiều.

Chất lượng đào tạo là một khái niệm rộng và được thể hiện ở nhiều

mặt, nhiều khía cạnh khác nhau trong quá trình đào tạo và nhất là trong quá

trình làm việc sau khi ra trường. Thực tế trong những năm gần đây cho thấy,

các cơ quan sử dụng nhân lực yêu cầu chất lượng của các sinh viên ra trường

là rất toàn diện. Chất lượng cán bộ phải bao gồm các mặt:

- Về tư tưởng, chính trị;

- Về chuyên môn, nghề nghiệp;

- Về đạo đức, phong cách;

- Về sức khoẻ;

74

- Về văn hoá, thẩm mĩ.

Không nên nghĩ rằng trong điều kiện nền kinh té thị trường, các cơ

quan, doanh nghiệp chỉ yêu cầu cán bộ của mình có chuyên môn giỏi là

được. Thực ra, để đạt được hiệu suất công tác, hiệu quả kinh tế cao, họ yêu

cầu cán bộ chẳng những chỉ về chuyên môn giỏi mà còn phải có cả văn hoá

thẩm mĩ, chẳng hạn như văn hoá ứng xử với khách hàng, văn hoá doanh

nghiệp.

Một khía cạnh khác của công tác đào tạo phải quan tâm là hiệu quả

đào tạo. Hiệu quả ở đây là hiệu quả ngoài của quá trình đào tạo, tức là mức

độ đáp ứng của kết quả đào tạo so với nhu cầu của kinh tế xã hội về số lượng,

chất lượng và cơ cấu ngành nghề. Một trong các tiêu chí phản ánh hiệu quả

đào tạo (hiệu quả ngoài) là mức độ tiếp nhận sinh viên tốt nghiệp sau khi ra

trường.

Để đảm bảo được hiệu quả đào tạo, cần phải tìm hiểu và nắm được nhu

cầu đào tạo thực tế của các doanh nghiệp, các ngành,… trong từng thời kỳ.

Điều đó có nghĩa là kế hoạch đào tạo phải căn cứ vào nhu cầu của kinh tế -

xã hội, chứ không phải đào tạo theo năng lực, theo cái đang có của nhà

trường. Để làm được yêu cầu trên, hoạt động “Maketting” của nhà trường, và

đặc biệt là công tác dự báo ở tầm vĩ mô của Chính phủ có vai trò đặc biệt

quan trọng.

Để đào tạo ra một lớp trí thức nữ trẻ có chất lượng cao, số lượng và cơ

cấu đảm bảo đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, chúng tôi thấy cần thực hiện các

biện pháp cụ thể sau:

- Thứ nhất: Khuyến khích các nữ sinh thi vào các trường ĐH, có

chính sách ưu tiên cho nữ sinh ở các vùng nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu

số trong việc tuyển sinh; cấp học bổng, hỗ trợ cho nữ sinh học giỏi nhằm đào

tạo ra một đội ngũ trí thức nữ có chất lượng; tăng cường hơn việc đào tạo trí

thức nữ cho các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc để khắc phục tình

trạng thiếu hụt trí thức nữ ở nhiều vùng quan trọng như hiện nay.

- Thứ hai: Khuyến khích nữ sinh thi vào các trường ĐH thuộc các lĩnh

vực hợp với sở trường của nữ như Sư phạm, Y, Dược… Mặt khác, khích lệ,

75

động viên nữ sinh thi vào các lĩnh vực khoa học mới, khoa học ứng dụng,

khoa học đòi hỏi tư duy trừu tượng nhằm phát huy khả năng của phụ nữ ở

các lĩnh vực đó. Từ đó tạo điều kiện mở rộng lĩnh vực việc làm cho nữ sinh

viên sau khi tốt nghiệp. Đồng thời phải trang bị cho sinh viên nói chung, nữ

sinh viên nói riêng những kiến thức về các mặt để có đủ phẩm chất, năng lực,

lòng tự tin bước vào cuộc sống, tham gia vào các lĩnh vực chính trị, quản lý,

kinh doanh,… Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng thực hiện

mục tiêu và chương trình hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đã được các

quốc gia cam kết tại Hội nghị thế giới lần thứ 4 của Liên Hợp Quốc về phụ

nữ tại Bắc Kinh, tháng 9/1995, trong đó, đảm bảo rằng trong tương lai các

quốc gia phải đạt được không ít hơn 30% phụ nữ ở cương vị hoạch định và

quyết định các chính sách, chủ trương (quản lý, lãnh đạo).

Trong điều kiện hiện nay, việc đánh giá công tác đào tạo không chỉ là

số lượng bao nhiêu người đã được đào tạo, mà cần phải thêm các chỉ số đánh

giá chất lượng và hiệu quả đào tạo.

Các trường ĐH cần tiếp tục đổi mới nội dung chương trình cho sát với

yêu cầu của thị trường lao động xã hội. Quan tâm đặc biệt đến việc nhận xét,

đánh giá của dư luận trên thị trường lao động để có hướng điều chỉnh nội

dung, chương trình, phương pháp đào tạo và các biện pháp tổ chức quản lý

giáo dục cho thích hợp. Chỉ có làm như vậy thì ngành giáo dục, đào tạo mới

gắn việc đào tạo với sử dụng và mới đáp ứng được nhu cầu giải quyết việc

làm cho nữ sinh viên sau khi ra trường.

Cùng với những kiến thức cơ bản trang bị cho một trí thức tương lai,

nhà trường cần phải trang bị cho nữ sinh viên những kiến thức về tình yêu,

hôn nhân, gia đình, nuôi dạy con cái, nữ công gia chánh, đức hạnh, … để nữ

sinh viên thực hiện tốt chức năng gia đình và xã hội sau này.

- Thứ ba: Việc thành lập các quỹ hỗ trợ tài năng trẻ cho nữ sinh viên

là việc làm cần được khuyến khích mở rộng nhằm thu hút sự tài trợ, đóng góp

của các tổ chức, cá nhân vì hiền tài của đất nước và vì sự phát triển của phụ

nữ. Đồng thời, việc làm này tạo ra động lực thúc đẩy, giúp đỡ nữ sinh viên có

76

ý chí vươn lên trong hoc tập, nhất là nữ sinh viên thuộc diện con nhà nghèo

có tinh thần vượt khó.

- Thứ tư: Đa dạng hoá các hình thức học tập và các loại hình trường

đại học, cũng tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập liên tục, nâng cao

không ngừng trình độ của mình. Việc mở các nhánh về các tỉnh hay khu vực

để giảm bớt khó khăn đi lại và chi phí tốn kém trong thời gian học cho người

học cũng sẽ thu hút và tạo thêm điều kiện cho nữ sinh hay phụ nữ ở các vùng

nông thôn, vùng xa có cơ may đi học.

3.2.3.2. Cần có chính sách đặc biệt ưu tiên đào tạo trên ĐH cho phụ nữ

Như trong chương 2, phần thực trạng đã nêu, ở trình độ thạc sỹ, tiến

sỹ, tỷ lệ nữ so với nam rất thấp. Nguyên nhân của thực trạng này, như đã

phân tích, là do trong thời kỳ 30 - 45 tuổi, phụ nữ còn sinh con và chăm sóc

con cái. Vì vậy, để giúp cho phụ nữ có cơ hội nâng cao trình độ như nam giới

ở các trình độ sau ĐH, có thể áp dụng các giải pháp:

- Trước hết về độ tuổi đào tạo sau ĐH khi sử dụng ngân sách nhà

nước: Không nên có quy định quá khắt khe về độ tuổi đối với phụ nữ trong

đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ. Họ có thể nhiều hơn 5 tuổi so với nam giới khi

được cử đi đào tạo, vì khoảng thời gian tốt nhất cho việc học lên cao lại phải

bận bịu việc gia đình, sinh đẻ. Dĩ nhiên, những người được tuyển đi học

(bằng các nguồn kinh phí khác nhau) đều phải đảm bảo chất lượng.

- Riêng về kinh phí: Cần thành lập Quỹ hỗ trợ cho việc đào tạo tài năng

nữ. Hiện ở Việt Nam có giải thưởng Covalepscaia dành cho nữ trí thức

KH&CN, nhưng đó là giải thưởng dành cho những người có thành tích

nghiên cứu sáng tạo (người đã có công trình và kết quả nghiên cứu). Còn

những nữ trí thức trẻ, có năng lực nhưng chưa được đào tạo, rất cần có một

Quỹ riêng dành cho việc đạo tạo họ ở bậc học cao. Ví dụ như Quỹ Tưởng

nhớ Magaret McNamara, do Ngân hàng thế giới lập ra để hỗ trợ phụ nữ từ

các nước đang phát triển đến theo học bậc tiến sỹ tại Hoa Kỳ. Hàng năm,

Quỹ xét trao học bổng cho 5 - 6 phụ nữ, trị giá 11.000 USD/suất. Khánh Vân

của Việt Nam vừa được mời đến Washington để nhận học bổng này.

77

3.2.4. Có chính sách phù hợp trong sử dụng nữ trí thức

Từ thực tế có thể đưa ra các giải pháp cụ thể sau:

3.2.4.1. Cần bố trí những công việc phù hợp với nữ trí thức.

Điều này sẽ giúp cho nữ trí thức phát huy được tiềm năng của họ.Cũng

từ đề tài đã nêu [18] , những công việc phù hợp với nữ là:

- Đối với ngành kỹ thuật - tự nhiên, công việc phù hợp với nữ là giảng

dạy, thí nghiệm, nghiên cứu, phân tích, thiết kế, đồ hoạ, thống kê về kỹ thuật,

kiểm tra,... Các công việc này đòi hỏi tính tỷ mỷ, kiên nhẫn, khéo tay, chính

xác, thận trọng nhưng vẫn phải sáng tạo. Với công tác nghiên cứu, nữ thiên

về nghiên cứu tại bàn, ít đi xa, ít đến công trường,... Những công việc không

phù hợp với nữ là công việc mua bán trang thiết bị công nghiệp, tham gia các

dự án/ hợp đồng sản xuất, trực tiếp sản xuất chế tạo, thi công, lắp đặt, sửa

chữa bảo trì, khảo sát thực địa, chào hàng sản phẩm công nghiệp,...

- Đối với nhóm ngành kinh tế - xã hội - nhân văn, hầu hết các công

việc đều phù hợp với nữ, như giảng dạy, nghiên cứu, văn phòng, tài chính, kế

toán, dịch thụât, hướng dẫn du lịch, tiếp thị, bán hàng, thống kê,...

- Trong y - dược, các công việc phù hợp là xét nghiệm, siêu âm, nội

soi, nội nhi, sản, giảng dạy, thí nghiệm, pha chế, trình dược viên,... Một số

công việc được coi là không phù hợp với nữ như chụp X quang, ngoại khoa.

3.2.4.2. Trong trường hợp nữ trí thức đang nuôi con nhỏ, có thể làm

việc theo cách khoán công việc, không nên theo giờ hành chính

Hiện nay nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, trường ĐH đã áp dụng

phương thức quản lý cán bộ theo cách này. Với các cơ quan, doanh nghiệp

khác, nếu có thể, nhất là với các công việc nghiệp vụ, ít tiếp xúc với khách

hàng, nên bố trí công việc và thực hiện khoán theo số lượng và chất lượng

công việc. Trong điều kiện thông tin hiện đại như hiện nay (qua e - mail, điện

thoại,…) phương thức làm việc này là hoàn toàn khả thi. Với phương thức

này, người nữ trí thức có thể vừa làm việc, vừa chăm con của mình.

78

3.2.4.3. Cần tạo được môi trường làm việc thuận lợi cho trí thức nữ

Để các nhà khoa học, công nghệ, tich cực trong sáng tạo, cống hiến,

cần. tạo điều kiện làm việc cần thiết cho các nhà trí thức nữ như cung cấp

thông tin, trang bị phương tiện thí nghiệm, các cơ sở triển khai. Tạo cơ chế

thuận lợi cho việc ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn Mặt

khác, cần giải quyết thoả đáng lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích

kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội cho các nhà nghiên cứu, sáng chế, phát

minh, ứng dụng có hiệu quả khoa học, công nghệ. Phải coi lao động của trí

thức là lao động trí óc, sáng tạo. Do vậy, sản phẩm trí tuệ trước hết phải là sở

hữu của người tạo ra chúng, được coi như hàng hoá đặc biệt, cần tạo lập thị

trường để sản phẩm đó được lưu thông và được trả giá tương xứng với giá trị

của chúng. Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, quản lý, tạo điều kiện thuận lợi

cho các hoạt động sáng tạo của trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng và

bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của họ, tạo ra bầu không khí dân chủ, tự do trong

hoạt động, sáng tạo… Chỉ có như vậy mới toàn dụng và khai thác có hiệu

quả lao động trí tuệ của đội ngũ trí thức nữ.

3.2.4.4. Chú ý bồi dưỡng nữ trí thức đưa vào vị trí quản lý, lãnh đạo

Xét dưới góc độ Giới, phụ nữ và nam giới đều có khả năng trở thành

người quản lý, lãnh đạo. Song trên thực tế, do nhiều nguyên nhân, ở công tác

này phụ nữ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Bởi vậy, để phụ nữ tham gia vào công tác

quản lý thì vấn đề quan trọng nhất là phải phát triển toàn diện người phụ nữ,

chú ý bồi dưỡng năng lực và phát triển nhân cách cá nhân người phụ nữ,

đồng thời công tác quản lý cần được tổ chức một cách khoa học để phụ nữ

vừa tham gia quản lý, vừa chăm lo được gia đình, nuôi dạy con cái.

Mục tiêu đến năm 2010 mà Chính phủ Việt Nam cam kết trong Chiến

lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ là tạo điều kiện bình đẳng cho phụ nữ

về mọi mặt trong phát triển, kể cả trong việc tham gia vào quản lý, đảm bảo

nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ trong quản lý ở các cấp từ 20 - 30%, trong

đó từ 10 - 15% là thuộc các cơ quan tư vấn và cơ quan Chính phủ. Để thực

hiện mục tiêu này, ngay từ những năm 2000, Nhà nước đã có chính sách,

chương trình hành động và giải pháp cụ thể, thể hiện quyết tâm cao trong tổ

79

chức và chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất vẫn là đặt nó

trong chính sách và chương trình phát triển nguồn nhân lực, trong đó có phụ

nữ. Vấn đề then chốt ở đây là phải có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí

sử dụng cán bộ nữ, để họ thực sự đảm đương được công việc, tránh chủ

nghĩa cơ cấu đơn thuần và hình thức.

3.2.5. Cần cải tiến chính sách lương đối với trí thức

Về chính sách đãi ngộ đối với trí thức nữ nói riêng và trí thức nói

chung của Đảng và Nhà nước hiện nay còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa thoả

đáng. Phân phối trong thu nhập của xã hội chưa phù hợp với yêu cầu của quy

luật phân phối theo lao động. Mức độ thu nhập của nhiều người trong xã hội

hiện nay, nhiều khi và không phải lúc nào cũng bắt nguồn từ nhân tố tài

năng, sự cống hiến, mà là do những nhân tố khác. Hiện tượng một trí thức nữ

được đào tạo rất tốn kém, ra trường làm công tác nghiên cứu, giảng dạy có

mức lương thu nhập thấp hơn một nữ công nhân hay một lao động giản đơn

không cần qua đào tạo hay đào tạo qua loa; lương của một giáo sư, tiến sĩ còn

thấp hơn rất nhiều lần so với một giám đốc doanh nghiệp hay công ty trách

nhiệm hữu hạn mới tốt nghiệp cử nhân (thậm chí chưa có bằng cấp gì)… còn

đang rất phổ biến trong xã hội ta. Điều đó làm giảm sút nhiệt tình, lòng quyết

tâm vươn lên của bản thân trí thức nữ, gây ra tâm trạng thiếu tin tưởng vào

chế độ ưu đãi hiền tài của Đảng và Nhà nước.

Vì vậy, theo chúng tôi, trong các cơ quan nhà nước, cần nâng bậc

lương của trí thức lên hàng thứ 3 sau Quốc phòng và An ninh (hiện nay

lương của trí thức đứng hàng thứ 6) trong thang lương của Nhà nước, đồng

thời phải có sự điều chỉnh về mức thu nhập, hạn chế sự quá bất bình đẳng

trong thu nhập giữa các thành phần kinh tế như hiện nay … là một trong

những biện pháp quan trọng thể hiện sự quý trọng tài năng, quý trọng chất

xám và việc đánh giá cao vai trò trí tuệ của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện

đúng tinh thân mà Nghị quyết các Đại hội VII, VIII của Đảng đề ra: giáo dục,

đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực

quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có như vậy đội

ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng mới có thể sống bằng nghề của

80

mình, yên tâm với công việc mà mình đã lựa chọn và tìm thấy được giá trị

phục vụ xã hội của bản thân.

Kinh nghiệm ở một số nước phát triển, trước hết là Mỹ đã thu hút dòng

chảy của chát xám từ các châu lục khác bởi chính sự đãi ngộ thoả đáng đối

với trí thức, trước hết bằng lương bổng và những điều kiện làm việc khác. Ví

dụ: Lương trung bình của một kỹ sư 3.300$/tháng, cao hơn lương viên chức

2,3 lần, cao hơn lương công nhân sản xuất 2,7 lần, cao hơn lương cán bộ

quản lý 1,7 lần. Vì vậy, họ đã có một đội ngũ trí thức, chuyên gia, các nhà

khoa học rất mạnh cả về số lượng và chất lượng.

Việc đánh giá một cách khách quan năng lực của trí thức nữ và căn cứ

vào sự cống hiến của họ từ phía Đảng và Nhà nước, xã hội để có sự đãi ngộ

tương xứng là một nguồn động viên rất lớn, khuyến khích trí thức nữ say mê

công việc và có chí vươn lên.

Nhiều ý kiến nêu lên: Hiện nay các nhà khoa học nữ cần gì? Và nhiều

nhà khoa học nữ trả lời rằng, họ cần sự công bằng, dân chủ trong việc đánh

giá và đãi ngộ. Trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng không đòi hỏi sự đãi

ngộ hơn những người lao động khác. Cái họ cần là đánh giá lao động của họ

cho đúng, tin dùng họ, lắng nghe họ, tạo điều kiện cho họ lao động. Câu trả

lời đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần quan tâm, xem xét. Sự công bằng đó

không phải là sự “bình quân, chiếu cố” mà là sự hỗ trợ của các cấp lãnh đạo,

của xã hội, gia đình tạo cho trí thức nữ có cơ hội thể hiện trí tuệ của mình

một cách tốt nhất. Phụ nữ có khả năng trí tuệ như nam giới, nhưng họ luôn

đứng ở vị trí thứ hai sau nam giới ở hầu hết các hoạt động trí tuệ (cả khoa

học, chính trị, quản lý…). Nguyên nhân là do, một phần nữ giới chưa có chí

vươn lên, còn phải lo toan gia đình, con cái… nhưng còn có cả nguyên nhân

sự đánh giá thấp đối với phụ nữ của xã hội.

Cần có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với những tài năng và những trí

thức nữ đã có cống hiến xuất sắc cho đất nước và cho sự tiến bộ của phụ nữ.

Chúng tôi nghĩ rằng, đây không chỉ là nguyện vọng riêng của trí thức nữ mà

còn là của đội ngũ trí thức cả nước nói chung.

81

3.2.6. Cần có chính sách tôn vinh phù hợp

Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng các hình thức động viên về chính

trị và tinh thần, các hình thức tôn vinh những trí thức có cống hiến xuất sắc.

Điều đó được thể hiện ở việc thực hiện có nền nếp việc xét các chức danh

khoa học và trao các giải thưởng quốc gia về văn hoá, khoa học; tặng thưởng

huân chương, tuyên dương công trạng đối với những trí thức có công...

Chính sách tôn vinh trí thức nêu trên cũng thể hiện tư tưởng coi trọng

hiền tài trong truyền thống dân tộc: “hiền tài là nguyên khí của quốc gia,

nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước

yếu, rồi xuống thấp…”. Tuy nhiên, còn nhiều lĩnh vực và đối tượng vẫn chưa

được chú ý thoả đáng.

Nên chăng Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần có một

giải thưởng dành cho các nhà khoa học nữ xuất sắc trên các lĩnh vực, đặc

biệt là lĩnh vực khoa học Xã hội và nhân văn. Ở đây chúng tôi nói thêm, hiện

nay giải thưởng Kovalepxkaia - do nước ngoài tài trợ, là sự động viên

khuyến khích rất lớn dành cho các nữ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN Việt

Nam, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra sự cách biệt lớn giữa các nhà khoa học

nữ trên lĩnh vực này với các nhà khoa học nữ trên các lĩnh vực khác như xã

hội và nhân văn. Nhiều chị rất xuất sắc trên lĩnh vực xã hội và nhân văn, có

nhiều tài năng nhưng chưa nhận được sự động viên, khuyến khích kịp thời từ

phía nhà nước, xã hội và các tổ chức quốc tế. Vì vậy, rất cần có những giải

thưởng khác nhau dành cho các nhà khoa học xuất sắc trên các lĩnh vực khác

nhau từ phía Nhà nước sẽ là nguồn cổ vũ lớn lao, một sự động viên tinh thần

cũng như vật chất quan trọng đối với trí thức nữ. Đó cũng là sự quan tâm của

Đảng, Nhà nước đối với phụ nữ nói chung và trí thức nữ nói riêng.

Ngoài ra, cũng rất cần có hình thức động viên, khen thưởng đối với đội

ngũ trí thức nữ trẻ, bao gồm các nữ thư ký, nữ trợ lý biết tin học, giỏi ngoại

ngữ, có trình độ chuyên môn nhất định. Nếu được chăm lo trở thành những

trợ lý, thư ký giỏi, xuất sắc, một mặt họ sẽ giúp những chuyên gia “Đàn chị”

tập trung vào việc lớn, mặt khác họ sẽ là các chuyên gia giỏi, tài năng trong

tương lai. Đây chính là nhằm tạo ra đội ngũ kế cận và là một trong những

82

bước đi trong quy trình đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước cần phải quan

tâm.

3.2.7. Tuổi về hưu của nữ trí thức

Một vấn đề cần quan tâm hiện nay của trí thức nữ và đã trở thành kiến

nghị chính thức của chị em với Đảng và Nhà nước, đó là việc xem xét lại tuổi

về hưu của trí thức nữ, nhất là các chuyên gia nữ có trình độ thực sự, các nhà

khoa học nữ tài năng hiện đang làm việc ở nhiều ngành phù hợp với sức khoẻ

của phụ nữ. Không nên đồng loạt đặt tuổi về hưu của phụ nữ là 55. Làm như

vậy sẽ hạn chế khả năng đóng góp của trí thức nữ. Bởi vì, phụ nữ sau khi tốt

nghiệp ĐH thường phải thực hiện chức năng gia đình, sinh con, nuôi con

(như phần trên đã đề cập). Như vậy, trên con đường phấn đấu gian khổ của

lao động trí tuệ, chị em vừa phải gánh nặng gia đình (làm vợ, làm mẹ), lại

phải chạy với tốc độ nhanh hơn nam giới có cùng trình độ và cùng độ tuổi từ

7 - 10 năm. Để đạt được kết quả hay vị trí như một nam giới có cùng bằng

cấp thì chị em phải chi phí rất lớn về công sức và thời gian. Trên thực tế, trí

thức nữ, nhất là trí thức nữ nghiên cứu khoa học, thường làm việc có hiệu

quả cao khi con cái đã lớn, gia đình ổn định. Lúc đó, họ có nhiều thời gian

chuyên tâm cho khoa học, đóng góp được nhiều hơn (hiện nay, một số nhà

khoa học nữ ở độ tuổi 65 - 70 vẫn tham gia nghiên cứu khoa học và làm quản

lý có hiệu quả, có uy tín cao). Do đó, tuổi về hưu của trí thức nữ nên chăng

kéo dài thêm 5 - 10 năm, tức là khoảng 60 - 65 tuổi. Nếu thực hiện được giải

pháp này sẽ tận dụng được sự đóng góp đáng kể của một bộ phận trí thức nữ

có thực tài và thể hiện được quan điểm bình đẳng về giới.

Cần nhấn mạnh thêm rằng chính sách này chỉ nên áp dụng riêng cho trí

thức nữ thôi. Với phụ nữ lao động chân tay nên vẫn là 55 tuổi thì được về

hưu.

Một số trường đại học và Viện nghiên cứu hiện nay đã có chủ trương

giữ lại những nhà khoa học có học hàm, học vị (cả nam và nữ) cho đến tuổi

65, thâm chí hơn tuổi 65. Chủ trương đó có cơ sở thực tế và xuất phát từ nhu

cầu sử dụng, vì càng lâu năm, trí thức càng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm

trong nghiên cứu và giảng dạy chuyên môn, họ cũng sẽ là những người đỡ

83

đầu cho các nhà khoa học trẻ, hướng dẫn thế hệ trẻ đi vào con đường nghiên

cứu khoa học… Chủ trương này nên được hiện thực hoá và cần được Nhà

nước đưa vào văn bản hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, cần phải có cơ chế sàng

lọc, đánh giá khả năng của trí thức nữ trước khi xem xét tuổi về hưu của họ.

Tránh tình trạng người giỏi chưa muốn về hưu thì “phải” về hưu, còn những

người ít tài lại muốn và được ở lại vị trí công tác khi không đủ sức lực và tài

năng. Chỉ có như vậy mới thu hút được những nữ trí thức có tài năng phục vụ

lâu dài cho đất nước. Đó là trách nhiệm của những người quản lý, của những

nhà làm công tác tổ chức.

Nói tóm lại, cần quán triệt hơn nữa quan điểm giới trong đào tạo, sử

dụng và đãi ngộ trí thức nữ là một vấn đề lớn và bức thiết hiện nay. Giải

quyết vấn đề này đòi hỏi có quan điểm đúng đắn và sự hiểu biết đầy đủ khả

năng, nhu cầu thực tiễn của trí thức nữ nước ta, nhằm tạo ra và phát triển tài

nguyên trí tuệ của đất nước, phải có tầm nhìn chiến lược đối với sự nghiệp

“trồng người” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi..

Chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đối với trí thức nữ vừa phải

thống nhất với chính sách thuộc các lĩnh vực đó đối với trí thức nói chung,

vừa phải đáp ứng những đòi hỏi đặc thù của những trí thức là nữ. Chính sách

đó không đơn thuần là quyền lợi cho trí thức nữ, mà còn có quan hệ đến sự

hưng thịnh của cả dân tộc, có liên quan đến nhịp độ phát triển của đất nước.

Một xã hội tiến bộ, ưu việt phải là xẫ hội tạo được những điều kiện

khách quan và chủ quan thuận lợi để cho phụ nữ nói chung và trí thức nữ nói

riêng đều có cơ hội phát triển tài năng, góp phần phát triển đất nước. Vì vậy,

việc giáo dục tuyên truyền trong toàn xã hội về bình đẳng giới, đưa vấn đề

giới vào việc xây dựng luật, lập kế hoạch và chính sách, chế độ của Đảng và

Nhà nước là một việc làm cần thiết và cấp bách.

3.2.8. Tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình

Dù ở bất kỳ cương vị nào, phụ nữ đều phải dành thời gian và có trách

nhiệm đối với gia đình.

Như đã trình bày ở chương 1, một đặc điểm đáng lưu ý ở nước ta, phần

lớn phụ nữ thành đạt trong khoa học, quản lý thường là những phụ nữ có gia

84

đình ổn định, được chồng con giúp đỡ về cả vật chất, tinh thần. Hoàn cảnh

này không phải ở đâu cũng có. Điều đó cho thấy, yếu tố gia đình rất quan

trọng đối với phụ nữ Việt Nam nói chung và đối với trí thức nữ nói riêng, đòi

hỏi các nhà làm chính sách quan tâm đặc biệt đến yếu tố này.

Do bị chi phối bởi công việc gia đình, chị em chịu thiệt thòi hơn nam

giới trong việc học tập và nâng cao trình độ, nắm bắt thông tin và tham gia

các hoạt động xã hội. Vì vậy, chính sách xã hội phải tập trung giảm nhẹ công

việc gia đình cho phụ nữ. Ngoài các chính sách về tạo việc làm, tăng thu

nhập cho trí thức nữ…đã nêu ở trên, Nhà nước cần quan tâm tăng cường các

hệ thống dịch vụ gia đình nhằm giảm nhẹ công việc nội trợ cho phụ nữ, như:

“công nghệ hoá” việc sản xuất các phương tiện, dụng cụ bếp núc nội trợ gia

đình; Mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, cơ sở y tế,

chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em; Cải tiến chế độ bảo hiểm xã hội, xây dựng

và ban hành chế độ cân bằng trách nhiệm của nam giới trong việc cùng chăm

sóc con cái và các thành viên trong gia đình.

Việc khuyến khích nam giới tham gia vào công việc chăm sóc gia đình

cần phải được tăng cường và mở rộng. Theo kinh nghiệm ở một số nước

công nghiệp phát triển, từ năm 1980, chế độ nghỉ đẻ đã thay đổi từ chỗ bảo

vệ sức khoẻ người mẹ sau khi sinh, sang quyền chăm sóc con cái của cả cha

và mẹ. Chế độ cho người cha nghỉ trông con được bổ sung thêm vào chế độ

nghỉ đẻ của người mẹ. Chế độ này đã được áp dụng ở Mỹ từ năm 1994. Đặc

biệt là các nước Bắc Âu đã đi rất xa trên phương diện này, nhất là Thuỵ Điển

- đất nước mà phụ nữ được gọi là “những bà hoàng”. Đây là mô hình mới của

Thuỵ Điển về sự bình đẳng giữa các giới. Ở nhà, trong các doanh nghiệp,

trong lĩnh vực chính trị hay trước pháp luật, phụ nữ Thuỵ Điển trên thực tế

đang trở nên bình đẳng với nam giới. Với khẩu hiệu “Không có bình đẳng

trong xã hội nếu không có bình đẳng trong gia đình”, Thuỵ Điển đã có quy

định “tháng của người cha” khi người vợ sinh nở. “Tháng của người cha”,

người bố được hưởng 85% lương. Lương này không thể chuyển sang cho

người mẹ nếu người bố không hưởng quyền ấy. Bình đẳng giới đã biểu hiện

thành luật và trên thực tế ở Thuỵ Điển, vì vậy các nhà ngôn ngữ học cho biết:

85

không thể dịch khái niệm “chủ gia đình” sang tiếng Thuỵ Điển. Đây là mô

hình mà nhiều nước đang hướng tới nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới

- cơ sở và động lực cho phát triển xã hội.

Ở nước ta, trong một số cuộc toạ đàm, trao đổi giữa các nhà khoa học

nữ và các nhà lập kế hoạch và làm công tác phụ nữ, chúng tôi thấy có một ý

kiến có thể nghiên cứu là, tiền lương chi cho thời gian nghỉ đẻ của phụ nữ

trong lĩnh vực làm công ăn lương, nên chăng phải do cả cơ quan bên chồng

và cơ quan bên vợ chịu trách nhiệm trả. Như vậy có thể san sẻ gánh nặng chi

phí cho những đơn vị có nhiều nữ tham gia và người nam giới cũng thấy

trách nhiệm của mình trong khi vợ sinh đẻ.

Gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định và bền vững của hôn nhân,

hạnh phúc và ấm no của gia đình có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của

xẫ hội và tương lai của dân tộc. Ở đây cần nhấn mạnh đến gia đình của trí

thức nữ. Những người mẹ có tri thức, có học vấn cao sẽ là điều kiện tốt để

tạo ra thế hệ tương lai có chất ượng cao (cả về trí lực, thể lực và nhân cách).

Vì vậy, chính sách xã hội đối với gia đình phải được coi là một chiến lược

quốc gia, lâu dài, toàn diện gắn bó với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước. Tăng trưởng kinh tế, đổi mới chính trị phải nhằm nâng cao

phúc lợi cho gia đình, tạo sự ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc cho các

thành viên trong gia đình, nhất là cho người phụ nữ. Do đặc thù của trí thức

nữ và vai trò của họ, bên cạnh các chính sách chung cho tất cả các gia đình,

cần có những chính sách cụ thể cho một số đối tượng đặc biệt, lưu ý đến các

gia đình mà ở đó người phụ nữ là những người hoạt động trí tuệ - một dạng

lao động đặc thù.

Thực hiện hài hoà hai chức năng gia đình và xã hội đối với phụ nữ là

một công việc thật khó, đối với trí thức nữ lại khó hơn. Bởi vì hoạt động trí

tuệ đòi hỏi phải có thời gian, phải có sự yên tĩnh và tập trung cao mà những

yếu tố ấy lại rất thiếu đối với trí thức nữ hiện nay. Chúng ta không mong

ngày càng có nhiều chị em không làm vợ, làm mẹ mà chỉ hoạt động xã hội,

chúng ta cũng không muốn ngày càng có nhiều chị em chỉ an phận, chí thú

công việc gia đình, chăm sóc chồng con, làm việc cầm chừng, ngại “ganh

86

đua”, “đụng độ” để tiến lên, chỉ lấy mục tiêu thành đạt của chồng, con làm

nguồn an ủi động viên mình. Vì vậy, muốn có được sự hài hoà khi thực hiện

hai chức năng này, đòi hỏi nhiều điều kiện.

Trước hết, bản thân người trí thức nữ phải luôn tự nâng cao trình độ,

năng lực lên ngang tầm sự phát triển của xã hội; biết tổ chức tốt cuộc sống

gia đình, biết phân công lao động gia đình và chi tiêu một cách hợp lý để

giảm nhẹ nỗi nhọc nhằn cho bản thân và chủ động được quỹ thời gian, điều

kiện vật chất.

Thứ hai, trong gia đình, nam giới với vai trò người chồng, người cha,

người con, biết san sẻ, gánh vác trách nhiệm trong gia đình, cùng chia sẻ

công việc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho người vợ, người mẹ hoàn thành công

việc, và, quan trọng hơn là đánh giá đúng, biết trân trọng thành quả lao động

chất xám của người vợ, người mẹ.

Thứ ba, việc thực hiện hài hoà hai chức năng gia đình và xã hội của

người trí thức nữ không chỉ vì lợi ích, hạnh phúc của gia đình mà còn vì lợi

ích, vì hạnh phúc của toàn xã hội. Do vậy, cần có sự tác động của toàn xã

hội, của cộng đồng; trong đó, việc tạo ra dự luận xã hội rộng rãi nhằm thúc

đẩy, khuyến khích phụ nữ nói chung và trí thức nữ nói riêng say mê học tập,

tích cực lao động và lao động có hiệu quả cao là điều cần thiết… Các hệ

thống thông tin đại chúng cần góp phần làm cho toàn xã hội nhận rõ được giá

trị, vai trò của trí tuệ và sự cần thiết trọng dụng nhân tài đối với sự phát triển

của đất nước; nhận thức sâu sắc được việc nâng cao học vấn, trình độ khoa

học, công nghệ cho phụ nữ là một việc làm hết sức cần thiết cho cuộc sống

gia đình, xã hội, là một việc làm thiết thực không chỉ cho một nửa xã hội, cho

hôm nay mà cho toàn xã hội và cho nhiều thế hệ mai sau. Đồng thời động

viên, khuyến khích nam giới chia sẻ công việc gia đình với phụ nữ. Nhà nước

cần đánh giá đúng giá trị công việc gia đình. Công việc sinh con và nuôi con

phải được coi có ý nghĩa xã hội to lớn để mọi người đều phải chia sẻ trách

nhiệm, giúp cho người phụ nữ có điều kiện để nâng cao trình độ và chuyên

môn. “Công nghệ hoá” và “dịch vụ hoá” các công việc nội trợ gia đình phải

hướng vào việc phục vụ toàn dân trên cơ sở đảm bảo chất lượng và giá cả dễ

87

chấp nhận, giúp cho nữ trí thức có điều kiện hưởng lợi từ những thành quả

phát triển của khoa học, công nghệ đó.

Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình cũng là tổ ấm của người phụ

nữ nói chung, nữ trí thức nói riêng. Nữ trí thức chỉ có thể có những cống hiến

trí tuệ lớn khi tổ ấm của họ được bảo vệ và giữ gìn.

3.2.9. Nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên của bản thân nữ trí thức

Từ thực tế cho thấy, đó là yếu tố quyết định sự thành công của chị em.

Tự lực phấn đấu vươn lên, tự giác ngộ về khả năng, năng lực của bản

thân mình, ý thức được trách nhiệm tham gia hoạt động xã hội và nâng cao

trí tuệ của phụ nữ sẽ góp phần quan trọng vào viẹc phát huy khả năng của trí

thức nữ. Ngay trong bản thân, chị em phải khắc phục tính tự ti, tự đánh giá

thấp mình để có lòng tự tin và luôn khiêm tốn học hỏi, khát vọng vươn lên

bình đẳng với nam giới.

Trí thức nữ là một bộ phận tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam, là những

người được học nhiều, hiểu biết rộng, các chị nhận thức rõ được tiềm năng và

vai trò to lớn của phụ nữ đối với gia đình, xã hội và sự tiến bộ của phụ nữ.

Do vậy, các chị phải là những người góp phần tích cực vào việc hạn chế sự

bất bình đẳng giới, nâng cao địa vị xã hội cho phụ nữ; phải là những tấm

gương của phụ nữ Việt Nam, là những người thật sự “đảm việc nước, giỏi

việc nhà”, thể hiện đầy đủ và tốt nhất những phẩm chất cao quý của phụ nữ

Việt Nam; khẳng định vị trí của phụ nữ Việt Nam trước xã hội và trước bạn

bè Quốc tế.

Trí thức nữ cần phải xây dựng phương pháp làm việc khoa học,sắp xếp

hợp lý công việc xã hội và công việc gia đình để có thời gian tự bồi dưỡng về

chuyên môn, nâng cao hiệu quả công việc để không bị tụt hậu trước thời

cuộc, đồng thời vẫn là những người phụ nữ duyên dáng, người mẹ hiền, vợ

đảm, là niềm tự hào của người chồng, người con… Qua thực tế, chúng ta có

thể nhận rõ một điều là, rất nhiều các nhà khoa học nữ thành đạt hay tham gia

hoạt động ở các lĩnh vực khác có hiệu quả đều là những phụ nữ rất có nề nếp

trong cuộc sống gia đình: từ việc thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình, nuôi

dạy con khoẻ mạnh, ngoan, hiếu thảo, đến việc sắp xếp công việc gia đình,

88

động viên chồng con cùng chia sẻ công việc gia đình mình… và chính những

sự sắp xếp khéo léo hợp lý này đã tạo điều kiện cho các chị thành công trong

hoạt động sáng tạo. Tất cả những điều ấy đòi hỏi người phụ nữ trí thức phải

có nghị lực, quyết tâm cao, ý thức cầu tiến và cả tấm lòng bao dung, nhân

hậu…

Ở đây vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối

vói sự phấn đấu và vươn lên chính bản thân mình của phụ nữ nói chung và trí

thức nữ nói riêng. Với tính chất là một tổ chức đại diện cho quyền lợi của

phụ nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phải tiếp tục tạo ra một số hoạt động

cụ thể góp phần nâng cao kiến thức và năng lực cho phụ nữ, giúp phụ nữ có

những hiểu biết cần thiết về giới để họ nhận thức rõ khả năng, năng lực và cả

những hạn chế của mình; hiểu biết về luật pháp, những chính sách có liên

quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em; biết giữ gìn phẩm chất tốt đẹp, đạo

đức truyền thống và văn hoá dân tộc, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, góp

phần nâng cao địa vị của phụ nữ trong xã hội. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt

Nam phải là cầu nối giữa phụ nữ cả nước với Đảng, Chính phủ và bạn bè

Quốc tế, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của phụ nữ với Đảng và Nhà nước,

đồng thời tham mưu, đề xuất những chính sách, những giải pháp nhằm góp

phần thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ và tiến bộ của phụ nữ.

Trong một xã hội Việt Nam văn minh, tiến bộ, phụ nữ phải có vai trò

xứng đáng không chỉ về tình cảm, tâm hồn mà cả về trí tuệ, trí thức như lời

tặng của đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam

nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

(20/10/1996): Phụ nữ Việt Nam trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng.

Nói tóm lại, cần thông qua việc xây dựng và thực hiện một số giải

pháp để kết hợp chặt chẽ việc tạo ra môi trường chung thuận lợi từ gia đình,

xã hội với việc xây dựng, phát huy ý chí, phẩm chất tốt đẹp, truyền thống tự

hào của trí thức nữ nước ta, để từ đó biến tiềm năng của trí thức nữ trở thành

những đóng góp thực tế cho sự nghiệp phát triển đất nước theo hướng CNH,

HĐH như tinh thần của các nghị quyết của Đảng đề ra.

89

Sự phân chia thành một số giải pháp được đề cập trên đây chỉ có ý

nghĩa tương đối, chúng có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Muốn

xây dựng, sử dụng và khai thác có hiệu quả nguồn lực trí thức nữ cần phải

thực hiện đồng bộ các giải pháp đã nêu.

90

KẾT LUẬN

Từ những nghiên cứu về lý luận và thực tế trình bày của đề tài có thể

rút ra những kết luận chủ yếu sau:

(1). Về khái niệm: Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có trình độ

học vấn cao; trình độ chuyên môn sâu, có phẩm chất; lương tri; lao động trí

óc phức tạp; sáng tạo, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức văn hoá,

khoa học trong hoạt động thực tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã

hội.

Từ khái niệm trí thức nói chung ở trên, lao động trí thức nữ được hiểu

là những người phụ nữ có học vấn, có trình độ chuyên môn được đào tạo từ

cao đẳng, đại học trở lên làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh

tế, thực hiện các chức năng của người trí thức nhằm phát triển kinh tế - xã

hội.

Những đặc điểm trong lao động của người trí thức cần được chú ý là:

Tính sáng tạo, tính cá nhân, tính rủi ro cao; đồng thời trí thức nữ cũng có

những đăc điểm riêng do sự khác biệt về giới tính dẫn đến những khác biệt

về mặt xã hội: Trong lao động, họ là người trí thức, trong gia đình, họ là

người vợ, người mẹ. Những đặc điểm này có ảnh hưởng to lớn đến lao động

của trí thức nói chung , trí thức nữ nói riêng.

(2). Trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng có vai trò to lớn chẳng

những trong các thời kỳ trước đây mà cũng có vai trò cực kỳ quan trọng

trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Trong điều kiện hiện nay, những yếu tố

làm hạn chế tiềm năng đóng góp của trí thức nữ là những định kiến về giới

trong xã hội, là công việc gia đình, sinh đẻ và chăm sóc con cái. Tuy nhiên,

phụ nữ và trí thức nữ cũng đang có những điều kiện thuận lợi để phát triển,

đó là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, là điều kiện kinh tế ngày càng

được cải thiện nên có nhiều phương tiện hỗ trợ giảm nhẹ công việc gia

đình,…

(3). Về thực trạng của đội ngũ trí thức nước ta: Đội ngũ trí thức nữ

nước ta đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là từ

91

ngày đổi mới đến nay. Tại thời điểm năm 2005, tổng lao động trí thức nữ có

trên 605 ngàn người, chiếm 40,62% trong tổng số trí thức. Tuy nhiên, ở trình

độ cao, tỷ lệ trí thức nữ còn thấp xa so với nam giới: Chỉ có 29,59 % trí thức

nữ có trình độ thạc sỹ và 16,46% có trình độ tiến sỹ.

Đội ngũ trí thức nữ đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất

nước. Nhiều trí thức nữ không chỉ thành công ở những lĩnh vực giáo dục, y

tế, nơi mà mọi người thường quan niêm là phù hợp với nữ giới, mà cả ở lĩnh

vực kinh doanh, KH&CN - là lĩnh vực mới với công nghệ cao. Nhiều phụ nữ

cũng đã tham gia vào công tác quản lý, lãnh đạo ở trung ương, địa phương và

cơ sở. Tuy nhiên, những hạn chế lớn của đội ngũ này là: Lực lượng nữ trí

thức còn mỏng, nhất là ở trình độ cao; những đóng góp của nữ trí thức còn

nhiều hạn chế; trình độ ngoại ngữ thấp, số sử dụng được ngoại ngữ trong

công việc chuyên môn chỉ chiếm vài phần trăm; cơ cấu đội ngũ có nhiều bất

cập, đặc biệt là cơ cấu độ tuổi, có nguy cơ hẫng hụt.

(4). Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách tạo điều kiện để trí

thức nữ phát triển. Tuy nhiên, vẫn có nhiều chính sách đối với trí thức nói

chung, trí thức nữ nói riêng, chậm được thực hiện và do đó hiệu quả của

chính sách còn thấp. Một số chính sách mới ở mức tuyên bố chung, thiếu cụ

thể, chưa được thể chế hoá bằng văn bản của Bộ, ngành; Nhiều chính sách

khi xây dựng và thực thi chưa chú ý đến giới (chính sách đào tạo, bồi dưỡng

nâng cao trình độ sau ĐH),…

(5). Để phát triển đội ngũ trí thức nữ cần quán triệt hơn nữa hệ thống

các quan điểm của Đảng liên quan đến phát triển KH&CN, phát triển

GD&ĐT và xây dựng đội ngũ trí thức nói chung.. Đặc biệt cần chú ý bối

cảnh của nước ta hiện nay đã chuyển sang kinh tế thị trường định hướng

XHCN và đi vào hội nhập quốc tế. Bối cảnh trên vừa tạo ra những điều kiện

thuận lợi, vừa tạo ra những thách thức mới trong việc phát triển đội ngũ trí

thức nữ. Quan điểm “Nam nữ bình quyền” không những cần được hiểu đúng,

mà còn cần được thể hiện trong các kế hoạch, chính sách cụ thể của quá trình

phát triển.

92

Phương hướng phát triển đội ngũ trí thức nữ là tăng nhanh về số

lượng, đảm bảo cơ cấu hợp lý, và đặc biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ, kể

cả trình độ ĐH và sau ĐH.

(6). Các giải pháp cơ bản để thực hiện phương hướng trên là:

a). Tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình đẳng nam

nữ.

b). Phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ.

c). Có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ

đội ngũ trí thức nữ.

d). Có chính sách sử dụng hợp lý hơn đối với trí thức nữ

e). Cải tiến chế độ tiền lương đối với trí thức

f). Cần có chính sách tôn vinh phù hợp với trí thức nữ.

h). Nâng cao tuổi về hưu cho nữ trí thức có đủ điều kiện về sức khoẻ

và tài năng.

i). Tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình

k). Nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên của bản thân nữ trí thức.

Các giải pháp nêu trên có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau.

Muốn xây dựng, sử dụng và khai thác có hiệu quả nguồn lực trí thức nữ cần

thực hiện các giải pháp trên một cách đồng bộ.

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quý An (1987) , “Xây dựng và sử dụng tốt hơn đội ngũ trí thức

XHCN”, Tạp chí Cộng sản, (4).

2. Phạm Thị Ngọc Anh (10/1995), “Cán bộ khoa học nữ với thời kì đổi

mới: Thực trạng và một số kiến nghị”, Tạp chí Cộng sản.

3. Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng (1996), Phụ nữ, giới và phát triển,

Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

4. Đặng Quốc Bảo (1995), “Giáo viên nữ Việt Nam trong cơ chế thị

trường”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (1), tr.25.

5. Huy Bá (28/10/1999), “Để các nhà khoa học cống hiến nhiều hơn”,

Báo Nhân dân.

6 Phan Văn Các (1990), Từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghĩ

về một số vấn đề của phong trào giải phóng phụ nữ ngày nay, Nxb.

Phụ nữ, Hà Nội.

7. Phạm Tất Dong chủ biên (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí

thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

8. Phạm Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam - thực tiễn và triển vọng,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Dương Thị Duyên (2/1997), “Phụ nữ và khoa học”, Tạp chí Khoa học

và Phụ nữ.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện hội nghị lần thứ sáu BCH

TƯ khoá IX. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ hai BCH

TƯ khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện hội nghị lần thứ tư BCH

TƯ khoá VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

13. Nguyễn Minh Đường (4/2005), Thực trạng và giải pháp đào tạo lao

động kỹ thuật (từ sơ cấp đến trên ĐH) đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ

94

cấu lao động trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và hội

nhập quốc tế, Đề tài KX - 05 - 10.

14. Trần Hàn Giang (chủ biên, 2001), Nữ công nhân khu vực công nghiệp

ngoài quốc doanh và dịch vụ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, Nxb. Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

15. Bùi Thanh Hà (1/1994), “Về chất lượng học tập của phụ nữ sinh viên”,

Tạp chí Khoa học và Phụ nữ.

16. Đoàn Thu Hà và Nguyễn Thị Ngọc Huyền (chủ biên, 2006), Giáo trình

chính sách kinh tế - xã hội (tái bản), Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà

Nội.

17. Nguyễn Đông Hanh (2006), Chính sách đối với nữ trí thức khoa học

và công nghệ - đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách, giải pháp

mới, thuộc đề tài cấp nhà nước “Đổi mới chính sách đối với trí thức

khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước”, mã số ĐTĐL - 2003/27, Hà Nội.

18. Bùi Thị Minh Hằng và tập thể tác giả (11/2000), Nghiên cứu thực

trạng và những giải pháp phát huy tiềm năng đội ngũ trí thức nữ khoa

học - công nghệ TP Hồ Chí Minh, đề tài khoa học.

19. Trương Mỹ Hoa (10/1994), Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế

xã hội và tham gia quản lý đất nước và định hướng đến năm 2000”,

Tạp chí Cộng sản.

20. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển

đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Võ Hưng (1991), Phụ nữ Việt Nam - giới tính, quyền bình đẳng và vấn

đề sinh đẻ có kế hoạch, mấy vấn đề y - sinh học về phụ nữ nông thôn

Việt Nam , Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

22. V.I.Lênin (1978), Một bước tiến, hai bước lùi, toàn tập, tập 8, Nxb.

Tiến bộ Matxcơva

23. Hoàng Thị Lịch (1995), Một vài điểm về bước tiến của các nhà khoa

học nữ trong thời kỳ qua - Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt

Nam 1985 - 1995, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

95

24. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Trần Thị Bạch Mai (chủ nhiệm đề tài), (2001), Thực trạng tham gia

của cán bộ giảng dạy nữ vào các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu,

quản lý trong nhà trường đại học và các giải pháp quản lý nhằm nâng

cao vai trò của họ, đề tài khoa học cấp bộ Hà Nội.

26. Trần Thị Bạch Mai (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn của các giải

pháp tăng cường vai trò cán bộ nữ trong hoạt động quản lý nhà trường

đại học, Đề tài khoa học, ĐH Quốc gia Hà Nội.

27. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Trần Hồng Quân (14/10/1987), “35 năm hợp tác đào tạo cán bộ chuyên

môn và công nhân kỹ thuật giữa Việt Nam và Liên Xô”, Báo Nhân

dân.

29. Bùi Thị Kim Quỳ (1995), Phụ nữ Việt Nam trong quá trình đổi mới đất

nước, vấn đề lao động, việc làm và hạnh phúc gia đình, gia đình và địa

vị người phụ nữ trong xã hội, cách nhìn từ Việt Nam và Hoa Kỳ, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

30. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Bộ Luật

Lao động của nước CHXHCN Việt Nam (Những quy định riêng với lao

động nữ), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật

Khoa học và công nghệ (đ îc Quèc héi n íc Céng hßa x· héi chñ

nghÜa ViÖt Nam khãa X, kú häp thø 7 th«ng qua ngµy 09 th¸ng 6 n¨m 2000).

32. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo

dục, (đ îc Quèc héi n íc Céng hßa x· héi chñ nghÜa ViÖt Nam khãa

XI, kú häp thø 10 th«ng qua ngµy 14 th¸ng 6 n¨m 2005).

33. Minh Sơn (04/3/2005), Nhà khoa học nữ nhạy bén với thị trường,

ViêtNamNet.

96

34. Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

35. Nguyễn Phương Thảo (1999), “Phụ nữ và hoạt động chính trị”, Tạp

chí Khoa học và phụ nữ, (3).

36. Nguyễn Thị Anh Thu (chủ biên, 2000), Đổi mới chính sách sử dụng

nhân lực khoa học và công nghệ trong cơ quan nghiên cứu - phát

triển, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

37. Thủ tướng Chính Phủ, Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội

38. Thủ tướng Chính Phủ, Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ

2001 - 2010.

39. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Mạc Văn Trang (1993), Nghiên cứu trắc nghiệm tâm lý phù hợp nghề,

đề tài cấp Bộ, mã số B91.38.06.

41. Văn phòng Quốc hội (1996), Kỷ yếu hội nghị giới với chính sách xã

hội, Hà Nội.

42. Viện Thông tin khoa học và kỹ thuật trung ương (tháng 3/1985), Bản

dịch tóm tắt “Những vấn đề phát triển khoa học và kỹ thuật”

43. Trần Quốc Vượng (1972), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nxb. Phụ

nữ, Hà Nội.

44. VietNamNet (01/11/2005), Nhiều tỉnh có chính sách chiêu hiền đãi sĩ

nhưng chưa thành công.

45. VietNamNet (09/8/2007), Nhật Bản: Nữ giới có gia đình khó có sự

nghiệp.

46. Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (12/2003), hội thảo "Bình đẳng

Giới và tuổi nghỉ hưu của lao động nữ”, Thành phố Vũng Tàu.

97