ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Nguyễn Thị Thanh Hải LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM Luận văn ThS. Kinh tế: 60.31.01 Nghd. : PGS.TS. Nguyễn Đình Kháng
1
MỤC LỤC
Mở đầu .................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. Trí thức nữ- Khái niệm, đặc điểm và vai trò của lao động trí
thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam .... 9
1.1. Lao động trí thức nữ khái niệm và đặc điểm của họ ...................................... .9
1.1.1. Khái niệm trí thức- Lao động trí thức nữ .................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm của lao động trí thức nữ ............................................................ 13
1.2. Vai trò của lao động trí thức nữ và những nhân tố tác động đến họ ........... 19
1.2.1. Vai trò của lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam ................................................................................... 19
1.2.2. Những nhân tố tác động đến đội ngũ trí thức nữ ...................................... 24
Chƣơng 2. Thực trạng lao động trí thức nữ Việt Nam và những vấn đề
đặt ra ........................................................................................................ 33
2.1. Thực trạng lao động trí thức nữ Việt Nam .................................................. 33
2.1.1. Vài nét về sự phát triển đội ngũ trí thức nữ nước ta trong lịch sử ............. 33
2.1.2. Thực trạng lao động trí thức nữ nước ta hiện nay .................................... 38
2.2. Những đóng góp và hạn chế của lao động trí thức nữ Việt Nam ................ 46
2.2.1. Những đóng góp ........................................................................................ 46
2.2.2. Những hạn chế của đội ngũ lao động trí thức nữ ....................................... 51
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển lao động trí thức nữ ................ 54
2.3.1. Nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế .... 55
2.3.2. Về nhận thức xã hội với vai trò của phụ nữ và lao động trí thức nữ ........ 56
2.3.3. Về hệ thống chính sách ............................................................................. 61
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp chính sách cơ bản phát triển lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc ................................................................................................... 67
3.1.Phương hướng phát triển lao động trí thức nữ ở nước ta .............................. 67
3.1.1. Bối cảnh phát triển của kinh tế- xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới ... 67
3.1.2. Quan điểm, phương hướng xây dựng đội ngũ trí thức nữ ........................ 69
3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển lao động trí thức nữ trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ................................................... 71
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình đẳng nam - nữ .. 71
3.2.2. Phát triển giáo dục- đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ ........................ 72
3.2.3. Chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ
trí thức nữ .................................................................................................. 74
3.2.4. Có chính sách phù hợp trong sử dụng nữ trí thức ..................................... 78
3.2.5. Cần cải tiến chính sách lương đối với trí thức .......................................... 80
3.2.6. Cần có chính sách tôn vinh phù hợp ......................................................... 82
3.2.7. Tuổi về hưu của trí thức nữ ....................................................................... 83
3.2.8. Tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình ................................. 84
3.2.9. Nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên của bản thân nữ trí thức .................... 88
Kết luận ............................................................................................................... 91
Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 94
2
BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: CNH, HĐH
CĐ Cao đẳng:
ĐH Đại học:
Khoa học và công nghệ: KH&CN
GD Giáo dục:
Giáo dục và đào tạo: GD&ĐT
GS Giáo sư:
PGS Phó giáo sư:
TS Tiến sĩ:
ThS Thạc sĩ:
Xã hội chủ nghĩa: XHCN
Nhà xuất bản: Nxb
3
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng là nguồn nhân
lực có đóng góp quan trọng vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất
nước. Kinh nghiệm và thực tiễn các nước có nền kinh tế phát triển cao cho
thấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước đòi hỏi
phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, sức sáng
tạo lớn, trong đó đội ngũ lao động trí thức nữ đóng vai trò không nhỏ.
Có thể nói, đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng có vai
trò quan trọng, là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH. ở
nước ta, để mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp và xã hội ta là một xã hội công bằng, văn minh, có sự phát triển bền
vững. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng và phát huy năng lực sáng tạo mọi lực
lượng lao động trong xã hội, trong đó có trí thức nữ là một nhiệm vụ có ý
nghĩa quyết định.
Trí thức nữ có vị trí quan trọng trong đội ngũ trí thức nói chung không
chỉ vì về mặt số lượng, mà còn do những đặc điểm về sinh lý, tâm lý. Chính
những đặc điểm tâm - sinh lý này là những lợi thế hoặc yếu thế của nữ giới
so với nam giới trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động.
Đảm bảo tính công bằng về giới là một quan điểm, một yêu cầu quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Vì vậy, bên cạnh những chính sách chung, cần thiết phải đi sâu nghiên
cứu đối tượng trí thức nữ để đề xuất những giải pháp, chính sách riêng hoặc
trong chính sách chung có chú ý đến đặc điểm và điều kiện của trí thức nữ.
Có vậy, đội ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng mới có thể phát triển
mạnh về số lượng, nâng cao về chất lượng và phát huy được tiềm năng của
mình trong sự nghiệp đổi mới.
Từ những lí do trên, đề tài “Lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” được chọn làm luận văn thạc sỹ này.
4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề phụ nữ và trí
thức nữ. Có thể kể ra một số công trình, bài báo tiêu biểu sau:
- Phụ nữ Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước, vấn đề lao động, việc làm và hạnh phúc gia đình, gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội, cách nhìn từ Việt Nam và Hoa Kỳ. Bùi Thị Kim Quỳ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
- Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đỗ Thị Thạch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Chính sách đối với nữ trí thức khoa học và công nghệ - đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách, giải pháp mới. Đề tài nhánh, do ThS. Nguyễn Đông Hanh chủ nhiêm, thuộc đề tài cấp nhà nước “Đổi mới chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Mã số ĐTĐL - 2003/27 (2006).
- Thực trạng tham gia của cán bộ giảng dạy nữ vào các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, quản lý trong nhà trường đại học và các giải pháp quản lý nhằm nâng cao vai trò của họ. Đề tài cấp bộ, do ThS. Trần Thị Bạch Mai làm chủ nhiệm, (2001).
- Nghiên cứu thực trạng và những giải pháp phát huy tiềm năng đội ngũ nữ trí thức khoa học - công nghệ TP Hồ Chí Minh, do TS. Bùi Thị Minh Hằng làm chủ nhiệm (11/2000);
- Cán bộ khoa học nữ với thời kì đổi mới. Thực trạng và một số kiến
nghị. Phạm Thị Ngọc Anh. Tạp chí Cộng sản, tháng 10/1995.
- Phụ nữ, giới và phát triển. Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội, 1996.
- Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội và tham gia quản lý đất nước và định hướng đến năm 2000, Trương Mỹ Hoa, Tạp chí Cộng sản, tháng 10/1995.
- Một vài điểm về bước tiến của các nhà khoa học nữ trong thời kỳ qua - Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt Nam 1985 - 1995, Hoàng Thị Lịch. Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1995.
5
- Từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghĩ về một số vấn đề của
phong trào giải phóng phụ nữ ngày nay. Phan Văn Các, Nxb. Phụ nữ, Hà
Nội, 1990.
- Phụ nữ và khoa học. Dương Thị Duyên. Tạp chí Khoa học và Phụ
nữ, tháng 2/1997...
Như vậy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về phụ nữ
nói chung và trí thức nữ nói riêng. Song rõ ràng trong thực tiễn, nhất là trong
điều kiện nước ta, bên cạnh những truyền thống tốt đẹp cần được phát huy,
vẫn còn có những cách nhìn, cách ứng xử phong kiến nặng nề đối với phụ
nữ. Đặc biệt là từ ngày đổi mới đến nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang
kinh tế thị trường, thực hiện CNH, HĐH, đã mang lại nhiều điều kiện mới,
thuận lợi hơn đối với trí thức nữ, nhưng cũng lại xuất hiện những bất cập
mới. Vì vậy, để các chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước đối với phụ
nữ và trí thức nữ đạt được hiệu quả, việc nghiên cứu thực trạng đội ngũ trí
thức nữ, phân tích các điều kiện hiện nay và đề xuất các giải pháp mới phù
hợp nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này, thực hiện tốt hơn công bằng
về giới, là công việc cần được tiếp tục.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng lao động trí thức
nữ ở Việt Nam.
- Đánh giá các chính sách cơ bản thời gian qua đối với lao động nữ
nói chung, trí thức nữ nói riêng, từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp
cơ bản về chính sách đối với trí thức nữ trong điều kiện mới.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích những vấn đề lý luận về trí thức nữ, làm rõ đặc điểm, vai
trò của trí thức nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về đội ngũ, về hoạt động
của trí thức nữ trong thời gian qua; những ưu điểm và nhược điểm của hệ
thống chính sách đối với sự phát triển trí thức nữ trong giai đoạn hiện nay.
6
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chính sách phát triển đội
ngũ trí thức nữ trong thời kì CNH, HĐH.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy hoạt động lao động của trí thức nữ và các chính sách của
Đảng, Nhà nước đã ban hành làm đối tượng nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu
Do tình hình số liệu bị hạn chế, nên luận văn chỉ đi sâu phân tích vào
hai lĩnh vực là Khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo. Tuy nhiên, theo
Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999, số lượng trí thức có trình
độ cao ở 2 ngành trên có tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các ngành kinh tế (Giáo
dục - Đào tạo: TSKH - 42,6%, tiến sĩ - 37,9%, thạc sĩ - 42,9%, cử nhân/kỹ sư
- 18,9%; Khoa học - công nghệ: TSKH - 21,1%, tiến sĩ - 17,7%,). Đồng thời,
do hai lĩnh vực trên, nhất là giáo dục - đào tạo, số lượng và tỷ lệ lao động nói
chung, trong đó trí thức nữ nói riêng khá đông, nên các kết luận rút ra có thể
khái quát chung cho trí thức nữ Việt Nam (Theo niên giám thống kê năm
2005, tỷ lệ lao động nữ trong ngành GD&ĐT là 69,5%). Các giải pháp chính
sách đưa ra đối với trí thức nữ nói chung là dưới góc độ kinh tế chính trị.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn lấy lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cơ sở nghiên cứu. Đồng thời, luận văn sử
dụng một cách có lựa chọn những lý luận về giới, về tâm lý, về tổ chức lao
động,… của thế giới làm luận cứ trong các phân tích, lý giải của mình.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các phương pháp chung như: Phương pháp biện chứng duy
vật, phương pháp trìu tượng hoá, phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống
hoá, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
thống kê; phương pháp phỏng vấn sâu một số trí thức nữ.
7
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
* Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm những cơ sở lý luận và thực tiễn
phát triển đội ngũ trí thức nữ ở Việt Nam.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp chính sách cơ bản thúc
đẩy việc phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức nữ, thực hiện tốt hơn công
bằng về giới trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam.
* Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả luận văn góp thêm cơ sở khoa học cho việc định hướng và
đưa ra những kế hoạch phát triển lao động trí thức nữ ở Việt Nam giai đoạn
hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
các vấn đề về phụ nữ, trí thức nữ, giảng dạy các môn khoa học về nguồn
nhân lực trong các trường Đại học và Cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Trí thức nữ: Khái niệm, đặc điểm và vai trò của họ trong
sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng đội ngũ trí thức nữ ở Việt Nam hiện nay và
những vấn đề về chính sách đối với đội ngũ này.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chính sách nhằm phát triển trí
thức nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
8
Chƣơng 1
TRÍ THỨC NỮ - KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ
CỦA LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
1.1. Lao động trí thức nữ: Khái niệm và đặc điểm của họ
1.1.1. Khái niệm trí thức, lao động trí thức nữ
1.1.1.1. Khái niệm trí thức
Có nhiều quan niệm, định nghĩa về trí thức ở nhiều cấp độ khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt: “Trí thức: người chuyên làm việc lao động trí
óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình”.
Trong từ điển tiếng Nga (1991), viết “Trí thức - đó là những người có
học vấn và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn
hoá và đang làm nghề lao động trí óc”.
Theo đại từ điển bách khoa Xô Viết: “Trí thức là tầng lớp xã hội của
những người làm nghề nghiệp, bằng trí óc, chủ yếu là lao động phức tạp,
sáng tạo, là phát hiện và phổ biến văn hoá”.
Qua các định nghĩa trên có thể thấy định nghĩa thứ ba cho ta cách hiểu
rõ hơn trên bình diện xã hội, đó là: Trí thức là một nhóm, một tầng lớp xã hội
với những đặc điểm chung như làm nghề nghiệp, bằng trí óc, chủ yếu là lao
động phức tạp, họ có chức năng xã hội là sáng tạo, phát hiện, truyền bá, phổ
biến văn hoá. Tuy nhiên, ở định nghĩa thứ nhất và thứ hai cũng cho ta cách
nhận biết người trí thức, đó là người có học vấn và tri thức chuyên môn cần
thiết thuộc lĩnh vực nghề nghiệp của mình.
Xét trong cơ cấu xã hội, V.I.Lênin cho rằng trí thức “không hợp thành
một giai cấp độc lập về kinh tế, mà là một tầng lớp bao hàm không chỉ các
nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả những người có học thức, các
đại biểu của các nghề tự do nói chung, câc đại biểu của lao động trí óc phức
tạp”; và theo ông, trí thức là một “tầng lớp này trong hệ thống phân công lao
động xã hội, từ tính chất và nội dung lao động của họ do trình độ học vấn và
9
trình độ chuyên môn quy định. Vị trí ấy và tính chất nội dung ấy làm nên nét
nổi bật của người trí thức - người lao động sáng tạo” [22, tr.372].
Ở nước ta, khái niệm trí thức cũng được nhiều người, nhất là các nhà
khoa học, các nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều cách tiếp cận và lý giải
khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở một số đặc trưng: Người trí thức là
khái niệm dùng để chỉ tất cả những người lao động trí óc, có trình độ học
vấn, có khả năng sáng tạo và phẩm chất đạo đức cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, người tốt nghiệp ĐH, nhưng nếu chỉ thuộc kiến
thức sách vở, không biết vận dụng vào thực tế, thì đó chỉ là “trí thức học
sách”, “trí thức một nửa”, “chưa phải là trí thức hoàn toàn” [24, tr.235].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, ở người trí thức không chỉ cần có kiến
thức chuyên môn, mà một dấu hiệu cơ bản khác phải có là biết vận dụng
sáng tạo những kiến thức đó vào thực tế cuộc sống..
Trên cơ sở quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê
nin cũng như quan niệm của một số nhà nghiên cứu ở nước ta về trí thức, có
thể đi tới một quan niệm chung về trí thức như sau:
Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao; trình
độ chuyên môn sâu, có phẩm chất; lương tri; lao động trí óc phức tạp; sáng
tạo, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động thực
tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Với khái niệm trí thức này chúng ta có thể nhận biết trí thức trên một
số đặc điểm cơ bản sau:
Một là, trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội.
Theo V.I.Lênin, khi xã hội phân chia thành giai cấp, cái quyết định cho tính
chất giai cấp của các lực lượng xã hội là quan hệ sở hữu. Trong xã hội đó, trí
thức không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu về tư liệu sản xuất, trí
thức “không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế” mà là tầng lớp xã hội
trung gian. Căn cứ vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có thể khẳng định
rằng, trí thức là một tầng lớp xã hội.
10
Hai là, trí thức là người có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn
sâu. Trình độ học vấn của người trí thức phải được hiểu ở trình độ khoa học
cơ bản và trình độ khoa học chuyên ngành. Trình độ học vấn và chuyên môn
cao ở mức độ nào để được gọi là trí thức thì tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế -
xã hội và văn hoá của mỗi quốc gia tại mỗi thời điểm lịch sử. Ngày nay, trình
độ chuẩn mực về học vấn ở nước ta là bậc CĐ, ĐH trở lên. Tuy nhiên, bằng
cấp mới chỉ là tiêu chí ban đầu; bởi vì trong thực tế, không ít người có bằng
cấp đó nhưng lại không tham dự vào lao động trí óc phức tạp, không thể hiện
được họ có trình độ đó. Cùng với trình độ học vấn cơ bản cao, người trí thức
còn phải được trang bị kiến thức sâu về chuyên ngành. Đó là cơ sở, điều kiện
cho lao động sáng tạo khoa học của trí thức. Để tham gia vào quá trình lao
động sáng tạo khoa học, người trí thức phải đi sâu nghiên cứu chuyên ngành
được đào tạo hoặc tham gia nghiên cứu khoa học. Có kiến thức sâu về
chuyên ngành thì họ mới có thể sáng tạo ra những sản phẩm đích thực, được
xã hội thừa nhận.
Ba là, người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, lương tâm.
Người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, phục vụ lợi ích cho toàn
dân tộc, luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân
của mình. Người trí thức trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước đương nhiên
phải là những người sáng tạo ra những thành tựu khoa học - công nghệ (KH -
CN), những sản phẩm văn hoá có giá trị đích thực, đóng góp cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bốn là, người trí thức là người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo. Đây
là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất phân biệt trí thức với bộ phận lao động
khác. Lao động trí óc có nhiều dạng khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Tiêu
chí để phân biệt hai dạng thức lao động này là sự hao phí trí lực, hàm lượng chất
xám ít hay nhiều trong quá trình lao động. Lao động trí óc giản đơn như những
người làm công việc hành chính, sự vụ, nhiệm vụ chủ yếu của họ là làm thông
suốt các qui trình hành chính qua công văn, giấy tờ thì sự hao phí năng lượng trí
lực không phải là cơ bản. Lao động của người trí thức là sự tìm tòi, khám phá,
11
sáng tạo cái mới, cái tiến bộ đòi hỏi phải tư duy ở mức độ cao, và ở đây, sự hao
phí năng lượng thần kinh trung ương là chủ yếu.
Lao đông trí óc phức tạp của trí thức là lao động sáng tạo. Sự sáng tạo
thường có mầm mống và tích luỹ dần qua giáo dục, đào tạo và nảy sinh trong
quá trình nghiên cứu, tìm tòi.
Với bốn đặc trưng cơ bản trên guíp chúng ta nhận thức rõ hơn về khái
niệm trí thức. Quan niệm đúng và đầy đủ về trí thức sẽ là cơ sở quan trọng
cho việc xây dựng, phát triển và phát huy tiềm năng đội ngũ trí thức, nhờ đó,
khai thác có hiệu quả tiềm năng này trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Xét theo quan điểm hệ thống, lao động trí thức nữ là một bộ phận hợp
thành của trí thức Việt Nam. Với vị thế to lớn của mình, cùng với các bộ
phận lao động khác, nếu được hiểu đúng, từ đó có chính sách đào tạo và phát
huy tiềm năng, họ sẽ là lực lượng quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.1.2. Khái niệm về lao động trí thức nữ
Trí thức nữ, trước hết họ là trí thức và là bộ phận nằm trong cơ cấu
hợp thành của tầng lớp trí thức nước ta. Họ có những đặc trưng cơ bản của
người trí thức đã nói ở trên, nhưng đồng thời lao động trí thức nữ có những
nét đặc thù riêng phân biệt với những người trí thức, bộ phận trí thức khác.
Những nét đặc thù mang tính tự nhiên mà ngày nay khoa học diễn đạt
bằng thuật ngữ giới tính (Sexual - Giới tính chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ
về mặt y - sinh học, liên quan đến chức năng tái sản xuất giống nòi) và những
đặc thù mang tính xã hội được diễn đạt bằng thuật ngữ giới (Gender - Giới
chỉ mối quan hệ và tương quan giữa địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới
trong một bối cảnh xã hội).
Trong mỗi lao động trí thức nữ có sự gắn bó hữu cơ giữa tư cách trí
thức và tư cách nữ. Do đó, để tiếp cận lao động trí thức nữ buộc chúng ta
phải tiếp cận đồng thời từ hai phía: Họ là người trí thức đồng thời họ là người
phụ nữ. Nếu hiều trí thức nữ chỉ với những đặc trưng người trí thức tuy là
đúng nhưng chưa đủ, mà còn phải hiểu họ ở cả tư cách nữ, tức là từ góc độ
giới tính. Họ có những đặc thù, những thiên chức giới tính khác với lao động
12
trí thức nam. Xét cả mặt tự nhiên và xã hội, họ có những ưu thế và cũng có
những yếu thế so với lao động trí thức nam trong quá trình hoạt động trí tuệ,
sáng tạo của mình.
Từ những cơ sở phân tích trên, chúng ta có thể hiểu lao động trí thức
nữ, trước hết là người lao động trí thức, họ có đằy đủ đăc trưng của người trí
thức, là một bộ phận của đội ngũ trí thức tham gia hoạt động lao động trên tất
cả các lĩnh vực; đồng thời họ là một bộ phận tiêu biểu của phụ nữ với những
phẩm chất của người phụ nữ như tinh thần cần cù, chịu khó, nhân hậu, đảm
đang… và thiên chức làm vợ, làm mẹ.
Như vậy, có thể quan niệm lao động trí thức nữ là những người phụ
nữ có học vấn, có trình độ chuyên môn từ CĐ, ĐH trở lên, làm việc trong các
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, thực hiện các chức năng của người trí
thức nhằm phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của lao động trí thức nữ
1.1.2.1. Đặc điểm của lao động trí thức
Như đã phân tích trong phần khái niệm trí thức nữ, là một bộ phận của
tầng lớp trí thức nên lao động trí thức nữ cũng có những đặc điểm cơ bản của
lao động của trí thức nói chung. Vì vậy để hiểu được lao động trí thức nữ, ta
cần hiểu đặc điểm của lao động của trí thức là như thế nào.
Từ định nghĩa về người trí thức và thông qua tổng kết thực tiễn lao
động của các nhà khoa học, người ta đưa ra những đặc điểm lao động khoa
học nỏi riêng hay lao động của người trí thức nói chung so với những người
lao động khác là ở các điểm: Tính sáng tạo, tính cá nhân, rủi ro cao, đòi hỏi
sự tích luỹ lớn về kiến thức và môi trường thực sự dân chủ, tự do sáng tạo
[36, tr.141-142].
Sau đây sẽ nói rõ hơn một số đặc điểm lao động của người trí thức.
a) Tính sáng tạo
Khác với người lao động trong lĩnh vực sản xuất, dựa vào thiết kế có
sẵn và nắm bắt quy trình để thực hiện, người làm công tác nghiên cứu cũng
13
như nhà văn, nhạc sĩ, tác phẩm là công trình của lao động, nhưng không chỉ
là lao động cần mẫn mà là lao động đầy trí tuệ.
Riêng với lao động sáng tạo khoa học không phải là một quá trình tùy
tiện, mà được tiến hành theo một hệ thống các nguyên tắc và phương pháp
nhất định. Các nguyên tắc và phương pháp đó đóng vai trò là phương tiện và
công cụ để xử lý và lý giải các hiện tượng, các quy luật vận động của đối
tượng nghiên cứu. Sáng tạo khoa học là một quá trình lao động gian khổ, đòi
hỏi phải có kiến thức hệ thống và thế giới quan biện chứng để sử lý dữ liệu, sự
kiện. Như vậy đối với người làm nghiên cứu khoa học phải có kiến thức hệ
thống về một lĩnh vực đang nghiên cứu, đồng thời phải nắm vững hệ thống các
phương pháp nghiên cứu với một thế giới quan biện chứng.
Sự sáng tạo không phải ai cũng có và không phải xuất hiện bất kỳ lúc
nào. Sự sáng tạo khoa học thường có mầm mống và tích luỹ dần qua giáo
dục, đào tạo và nảy sinh trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi. Mức độ trang bị
kiến thức, môi trường hoạt động, điều kiện sống cũng như các quan hệ xã
hội, tuổi tác,... là những yếu tố tác động mạnh đến lao động sáng tạo của
những người làm nghiên cứu khoa học.
b) Tính cá nhân
Cũng chính từ tính sáng tạo, vai trò cá nhân, phẩm chất cá nhân của
mỗi nhà khoa học, nhà văn,... nổi lên rõ rệt. Trong hoạt động nghiên cứu,
không thể lấy số lượng để bù đắp cho sự yếu kém về chất lượng cán bộ. Để
có hiệu suất cao trong hoạt động nghiên cứu, cần có sự chọn lọc kỹ để có
được những người thực sự có khả năng nghiên cứu khoa học. Một tổ chức
nghiên cứu, dù có đông đảo đến mấy nhưng thiếu những người có những suy
nghĩ độc đáo, thông minh và sáng tạo, những người thực sự có tài năng, sáng
tạo mạnh mẽ thì cũng không thể thành công trong hoạt động của mình. Do
đó, dù là một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể tiến hành thì vai
trò cá nhân trong hoạt động nghiên cứu cũng mang yếu tố quyết định. Tính
cá nhân là sự thể hiện trong tư duy cá nhân và chủ kiến riêng của cá nhân.Tư
duy và chủ kiến cá nhân thường gắn chặt với tính cách sáng tạo đơn nhất thể
hiện ở các mặt: (1). Suy nghĩ độc lập. Đây là cơ sở của những nghi vấn khoa
14
học và là nguồn gốc của những phát minh sáng chế; (2). Sự tìm tòi, ham hiểu
biết và đam mê nghề nghiệp; (3). Tính cách thực nghiệm và phê phán nhằm
để khẳng định những sáng tạo của cá nhân; (4). Dũng cảm, không sợ uy
quyền, dù là uy quyền chính trị hay khoa học để phát hiện và bảo vệ chân lý.
Tính cá nhân trong lao động sáng tạo không có nghĩa là vị kỷ cá nhân,
mà là khả năng độc lập và tự chủ trong khám phá, sáng tạo mang đậm nét cá
tính và năng lực của cá nhân nhà khoa học. Tuỳ theo trình độ học vấn, tư chất
di truyền, thể lực và môi trường xã hội mà cá tính và năng lực cá nhân hình
thành và phát huy khác nhau. Chính nhờ “Tính cá nhân” mà các trường phái
khoa học hình thành và phát triển.
c) Tính rủi ro
Sản phẩm của lao động nghiên cứu của những nhà khoa học là cái mới,
cái chưa biết, do đó mà cũng có thể thành công và cũng có thể thất bại. Sự thất
bại thường gặp nhiều trong nghiên cứu khoa học. Sự thất bại này do rất nhiều
nguyên nhân như do thiếu thông tin cần thiết và đủ tin cậy cho việc nghiên cứu;
do trình độ kỹ thuật của thiết bị phục vụ nghiên cứu chưa đạt tới trình độ để
kiếm chứng lý thuyết, giả thuyết đặt ra; do khả năng thực hịên của người nghiên
cứu chưa đủ tầm để xử lý vấn đề; do môi trường xã hội không thuận lợi (thiếu
dân chủ để khích lệ người nghiên cứu sáng tạo, do yếu tố văn hoá cản trở,...).
Tuy nhiên, trong lao động khoa học, thất bại ở một khía cạnh khác cũng được
xem là một kết quả. Nó là một bài học và kinh nghiệm cho người nghiên cứu
tiếp tục về sau.
Tính rủi ro cao đặt ra cho các nhà quản lý, nhất là các cơ quan nhà
nước phải có chính sách đầu tư và hỗ trợ đối với những nghiên cứu có tính
rủi ro cao nhưng cần thiết đối với sự phát triển, đặc biệt đối với các nghiên
cứu cơ bản. Vai trò của nhà nước, trước hết là Chính phủ có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong trường hợp này - nơi mà “thị trường bị thất bại”.
d) Tính kế thừa và tích luỹ
Nói chung, lao động sáng tạo thường xuất phát từ sự kế thừa những kết
quả của những người đi trước. Mặt khác, để lao động sáng tạo, người nghiên
cứu phải trải qua thời kỳ thu thập và tích luỹ một lượng thông tin liên quan
15
nhất định. Trên cơ sở đó, bằng hệ thống các phương pháp khoa học, những ý
tưởng, giả thuyết,... mới được khẳng định hoặc phủ định. Vì vậy, kế thừa và
tích luỹ là một giai đoạn mang tính tất yếu. Trong giai đoạn này, người
nghiên cứu phải lao động cần cù, gian khổ. Đồng thời, qua kinh nghiệm thực
tế, người ta thấy rằng hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học phụ thuộc vào
một cách đáng kể vào thông tin, vào các công cụ thí nghiệm và các công cụ
nghiên cứu khác.
Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện
nay, đồng thời do việc tăng nhanh các nhu cầu của kinh tế - xã hội, một phần
kiến thức của con người sẽ thường xuyên mất giá trị. Các chuyên gia cho
rằng nhịp độ tiến bộ trung bình hằng năm của kiến thức nhân loại là trong
khoảng từ 4% đến 6%. Do vậy, trên 50% kiến thức chuyên môn của con
người sẽ phải được bổ sung thông qua con đường học tập thường xuyên,
Thời gian dành cho việc này ở cán bộ trung cấp chuyên nghiệp là 24%; ở cán
bộ ĐH là 28% toàn bộ thời gian có khả năng lao động [42]. Như vậy, việc
tạo các điều kiện học tập, thu thập và trao đổi thông tin trong các tập thể khoa
học là vô cùng quan trọng đối với nhà nghiên cứu, không những chỉ ở những
thời gian nhất định mà phải liên tục, không ngừng.
1.1.2.2. Những đặc điểm giới tính và giới của lao động trí thức nữ
Các kết quả nghiên cứu y - sinh học [40, tr.15] cho thấy:
* Đặc điểm về cơ thể: Chân và tay của nữ tương đối ngắn hơn nam,
xương và khớp chi nhỏ hơn nam, tổ chức cơ bắp ở chân tay của nữ kém hơn
nam, phổi của nam lớn gấp rưỡi phổi nữ, mỗi phút tim của nữ đập trung bình
80 lần/phút, tim của nam đập 72 lần/phút; nữ trung bình có 3,6 lít máu, nam
4,5 lít máu; 40% cơ thể nam do cơ bắp tạo nên, trong khi nữ là 35%, sức
mạnh cơ bắp của nam gấp 3 lần nữ…
Qua một vài đặc điểm trên cho thấy, nữ không thể làm những công
việc đòi hỏi thể lực ngang bằng như nam giới. Cần tránh cho nữ những lao
động nặng nhọc, căng thẳng, kéo dài, nguy hiểm, trong môi trường độc hại…
* Đặc điểm não bộ và giác quan: Bộ não của nam giới nặng hơn nữ
14%. Những sự liên kết giữa 2 bán cầu não của nữ tốt hơn nam và tình trạng
16
cung cấp máu cho não của nữ tốt hơn nam. Thính giác, khứu giác của nữ tốt
hơn nam. Gần đây các nhà khoa học Mỹ còn phát hiện thêm: Chất xám trong
não của nam gấp 6 lần não của nữ, ngược lại chất trắng trong não nữ lại gấp
10 lần nam, mà chất xám là cơ sở chủ yếu cho các trung tâm phân tích, còn
chất trắng có chức năng trội về liên kết các hoạt động thần kinh… Những đặc
điểm nêu trên cùng với những trắc nghiệm, cho thấy: nam có khả năng làm
việc tập trung chú ý cao độ vào đối tượng lâu bền hơn nữ; nhưng nữ có khả
năng phân phối chú ý cùng lúc đến nhiều đối tượng tốt hơn; nam hoạt động
phân tích trội hơn nữ, nhưng nữ có khả năng phối hợp các hoạt động linh
hoạt hơn; nữ nhạy cảm hơn nam, nhất là về thính giác, khứu giác; còn thị
giác thì nam nhìn vật ở xa tốt hơn, trong khi nữ nhìn các vật ở gần và nhỏ tốt
hơn… Từ đó gợi ra rất nhiều điều có thể vận dụng vào bố trí công việc cho
lao động trí thức nữ phù hợp với đặc điểm giới tính, phát huy được thế mạnh
của mỗi giới trong các ngành nghề khác nhau.
* Đặc điểm về hoạt động tâm lý: Ở trên đã đề cập một vài khía cạnh
liên quan giữa đặc điểm thần kinh và tâm lý. Ở đây muốn nêu thêm vài điểm:
Tư duy logic ở nam có phần nổi trội hơn nữ, vì nữ tư duy gắn liền với
linh cảm và cảm xúc. Richard Hier, giáo sư Trường Đại học tổng hợp
California đã tiến hành chụp ảnh cộng hưởng từ và phân tích cho thấy: nam
suy nghĩ bằng tế bào xám nhiều hơn nữ, trong khi ở nữ các vùng não đảm
trách sự lo sợ và tức giận phát triển hơn nam. Có lẽ vì thế trong quá trình tư
duy, nữ thường “trộn lẫn” cảm xúc, tâm trạng và những linh cảm trực giác
vào những suy nghĩ, ý kiến của mình… chứ không quá lý lẽ sách vở, khô
khan, lạnh lùng như nam giới. Cũng vì thế nữ dễ cảm thông, xử lí các mối
quan hệ có lí, có tình, dễ tạo mối quan hệ tình cảm với những người chung
quanh…
Đặc điểm trội về phát triển ngôn ngữ và hormone giao tiếp ở nữ so với
nam cũng khiến cho nữ thường thích giao tiếp, linh hoạt trong giao tiếp, sử
dụng ngôn ngữ phong phú, đa dạng trong giao tiếp và hay nói nhanh, nói
nhiều, nói dài (Trong nghiên cứu đã dẫn của các nhà khoa học Mỹ cho thấy:
nữ thường mất trung bình 20 phút cho một cuộc điện thoại, trong khi đó nam
17
mất 6 phút). Cũng do đó việc học ngoại ngữ, phát triển kỹ năng giao tiếp ở
nữ có phần thuận lợi hơn nam…
Những đặc điểm giới tính nữ nói trên và nhiều đặc điểm khác nữa, nếu
được nghiên cứu khai thác đúng người, đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc, chắc
chắn sẽ phát huy được những tiềm năng, lợi thế nữ tính một cách hiệu quả.
* Những đặc điểm về giới do điều kiện xã hội - lịch sử chế ước cũng
cần được quan tâm. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách thúc đẩy sự bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng vẫn
còn nhiều sức ì, nhiều sự cản trở từ phía gia đình, xã hội và bản thân người
phụ nữ trong quá trình thực thi bình đẳng giới nói chung và trong việc tạo
điều kiện thuận lợi cho lao động trí thức nữ nói riêng. Dưới dây đề cập đến
một vài khía cạnh cụ thể:
Gia đình có thể là hậu phương thuận lợi, nhưng cũng có thể là những
khó khăn cản trở đối với lao động của trí thức nữ. Nữ trí thức cũng như mọi
phụ nữ khác, đều có hạnh phúc làm vợ, làm mẹ. Và cái hạnh phúc đó ràng
buộc, níu kéo, tiêu tốn của người phụ nữ rất nhiều thời gian và sức lực. Ở
Việt Nam càng đòi hỏi người phụ nữ phải hy sinh nhiều hơn cho cuộc sống
gia đình, do điều kiện sống còn nhiều khó khăn và do áp lực của các giá trị
văn hoá về người “con thảo”, người “mẹ hiền”, “vợ đảm”, “phụ nữ ba đảm
đang”… Dư luận xã hội là một áp lực lớn đối với người phụ nữ vốn nhạy
cảm. Trong khi đó một số lĩnh vực như lao động KH&CN là loại lao động trí
óc, phức tạp, có chuyên môn sâu, đòi hỏi phải tập trung cao độ vào đối
tượng, phải say mê theo đuổi công việc đến cùng… Người phụ nữ phải thực
hiện chức năng kép, phải giăng co đấu tranh, sắp xếp sao cho vẹn cả đôi
đường: gia đình và sự nghiệp. Theo nghiên cứu của Trần Thị Bạch Mai thì
nữ giảng viên ĐH, trung bình dành cho công việc gia đình 4,5 giờ, dành cho
công việc của trường 9,2 giờ và cho nghỉ ngơi, giải trí 6,4 giờ/ngày; 54% số
nữ giảng viên cảm thấy sức ép căng thẳng về thời gian, 55% cảm thấy sức ép
căng thẳng do phải cân bằng các vai trò và trách nhiệm… [ 25, tr.43]
Một nhận xét khác cho thấy: “Ở những giai đoạn bắt đầu vào sự
nghiệp khoa học người phụ nữ trẻ phải học tập và chịu nhiều thử thách, thì
18
cũng lại là lúc có con nhỏ và cuộc sống gia đình mới bắt đầu. Đây là giai
đoạn mà nhiều chị em nổi lên mâu thuẫn giữa sự nghiệp và gia đình, điều mà
ở nam giới ít gặp phải”.
Những định kiến xã hội về giới đã dẫn đến những hệ quả sau: Một là,
xã hội chưa thấy hết và dánh giá đúng những khó khăn của nữ trí thức; hai là,
đánh giá chưa đúng mức vai trò và khả năng của nữ trí thức; ba là, về tổ
chức, mạng lưới quan hệ xã hội cũng như những điều kiện hỗ trợ khác chưa
tạo thuận lợi cho nữ trí thức phát triển và cống hiến…
Những thành kiến xã hội nói trên một khi đã trở thành nếp nghĩ, thói
quen ứng xử của xã hội, nhất là khi các cấp quản lí, các nhà hoạch định chính
sách, những người đưa ra các quyết định, phần lớn là nam giới, thì sự cảm
thông, tạo điều kiện cho nữ trí thức phát triển, không tránh khỏi có những
khó khăn hữu hình và vô hình.
Về phía bản thân người nữ trí thức. Do quá trình xã hội hoá đã có
những hạn chế và do những ràng buộc về vai trò, trách nhiệm nghĩa vụ với
gia đình và do những định kiến xã hội bị chế ước bởi những điều kiện xã hội
- lịch sử cụ thể, người phụ nữ thường gặp phải những rào cản tâm lí nhất
định. Đó là mặc cảm tự ti, thiếu tự tin vào bản thân; là sự lo ngại bị thất bại,
thậm chí sợ hãi trước dư luận xã hội; đó còn là sự an phận, bằng lòng với vai
trò, vị trí “nhân vật phụ” trong các hoạt động phức tạp như KH&CN…
1.2.Vai trò của lao động trí thức nữ và những nhân tố tác động đến họ
1.2.1.Vai trò của lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Chiến lược phát triển của nước ta đã được xác định trong các văn bản
của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, để từ nay đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Với khoảng thời
gian 20 năm để thực hiện một công cuộc mà các nước tư bản phải mất hàng
trăm năm, các nước công nghiệp mới (NIC) cũng phải mất 40 - 50 năm, đòi
hỏi một sự nỗ lực phi thường của toàn dân tộc, trong đó đội ngũ trí thức có sứ
mạng đặc biệt quan trọng.
19
“Khi trí thức trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp thì quan hệ
giữa nó với giái cấp công nhân và nông dân cũng trở thành mối quan hệ trực
tiếp gần gũi như chính giai cấp công nhân và nông dân. Nó không còn là
ranh giới giữa người ở thượng tầng kiến trúc, kẻ ở hạ tầng cơ sở như cách
nghĩ trước đây. Do đó trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta, đọi ngũ trí
thức không chỉ có vị trí quan trọng trong lĩnh vực sáng tạo văn hoá hay hoạt
động trí tuệ mà còn có vị trí rất quan trọng trong lĩnh vực sản xuất trực tiếp
ra của cải vật chất” [8, tr.152]
Hiện nay, đất nước ta tiến hành CNH, HĐH trong một bối cảnh đặc
biệt. Chúng ta thực hiện CNH, HĐH trong bối cảnh xu hướng thế giới hiện
nay là cuộc cách mạng KH - CN hiện đại đang phát triển rất mạnh mẽ. Với
sự phát triển cực nhanh của KH - CN, nhân loại đang tiến tới xã hội thông
tin, tới nền kinh tế tri thức.
Mặt khác, trong điều kiện cách mạng KH - CN phát triển như vũ bão
trên phạm vi toàn cầu và với xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, ở các
nước đang phát triển, việc hiện đại hoá công nghệ chủ yếu thông qua con
đường chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Bởi lẽ, quá trình tự
nghiên cứu triển khai công nghệ tất yếu phải xây dựng trên nền tảng khoa
học kỹ thuật hiện đại, đòi hỏi vốn đầu tư lớn mà chưa đưa lại ngay hiệu quả.
Kinh nghiệm của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NIC), ở thời kỳ
CNH, HĐH đã chỉ ra rằng chuyển giao công nghệ là cách làm rẻ nhất, nhanh
nhất, có hiệu quả nhất để có được công nghệ hiện đại. Với những nước này,
sau khi tiếp nhận công nghệ mới, họ thường nghiên cứu, cải tiến để chế tạo ra
những sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng và tiện lợi hơn. Họ còn kết
hợp công nghệ tiên tiến của phương Tây với ưu thế giá nhân công rẻ, quy mô
sản xuất vừa và nhỏ có khả năng đổi mới công nghệ nhanh để tăng thêm khả
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, dù chỉ tự nghiên cứu,
triển khai hay chuyển giao công nghệ thì sự thành công của họ đều tất yếu
phải thông qua kinh nghiêm, năng lực sáng tạo, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ tổ
chức quản lý của người lao động nước mình.
20
Ở nước ta, vấn đề trung tâm của CNH, HĐH là chuyển giao công
nghệ. CNH, HĐH là quá trình trang bị công nghệ mới cho các ngành sản xuất
trong nước, đặc biệt là với các ngành then chốt. Yêu cầu làm chủ công nghệ
mới, nhất là công nghệ cao là hết sức bức thiết. Việc nhập công nghệ mới,
làm chủ nó, biến công nghệ mới thành của mình, đòi hỏi cần đến trình độ trí
tuệ cao của người lao động. Lực lượng đi đầu trong việc tiếp cận với công
nghệ mới, nắm chắc nó, làm chủ nó, không thể ai khác, mà phải là những nhà
KH&CN - những trí thức.
Để có thể tiếp thu công nghệ mới từ những nước công nghiệp phát
triển, thực hiện “đi tắt đón đầu”, chúng ta phải có những điều kiện cơ bản:
Một là phải có những điều kiện vật chất - kỹ thuật để nhập công nghệ mới;
hai là phải có đội ngũ cán bộ KH &CN đủ năng lực làm chủ công nghệ nhập;
ba là phải có điều kiện chuyển giao kiến thức về quản lý quá trình sử dụng
công nghệ. Trong các điều kiện cơ bản trên, đội ngũ cán bộ KH &CN là nhân
tố cơ bản nhất, quyết định nhất.
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta là theo hướng toàn
diện, bền vững. Lực lượng chủ yếu để thúc đẩy quá trình này là lực lượng trí
thức. Với mục tiêu xây dựng một xã hội phát triển bền vững, sự tăng trưởng
không chỉ về mặt kinh tế - kỹ thuật, mà còn đảm bảo sự phát triển hài hoà
giữa kinh tế với xã hội nói chung, giữa kinh tế - kỹ thuật với việc đảm bảo sự
cân bằng về sinh thái, môi trường. Trên quan điểm này, sự phát triển kinh tế -
xã hội ở đây chủ yếu là qúa trình đẩy mạnh các hoạt động nhằm nâng cao
chất lượng dân số và cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quy mô và chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài trên cơ sở không ngừng
nâng cao dân trí, mức hưởng thụ văn hoá cho mọi người. Lực lượng lao động
chủ yếu thực hiện việc thúc đẩy các quá trình này chính là đội ngũ trí thức,
trong đó có các giảng viên ở các trường đại học, cao đẳng, các thầy thuốc, kỹ
sư…
Lao động trí thức nữ nước ta ngày càng khẳng định vai trò trong nhiều
lĩnh vực khác nhau.
21
Hiện nay, đội ngũ trí thức nữ hoạt động trong rất nhiều các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, bao gồm chính trị, quản lý, GD&ĐT, KH &CN, y
tế… Họ tham gia hoạt động kể cả những lĩnh vực mà trước đây hầu như chỉ có
nam giới tham gia, như luật pháp, kiểm soát, thông tin, bưu chính, khoa học…
Mặc dù, tỷ lệ tham gia của lao động trí thức nữ ở các lĩnh vực còn thấp, chưa
tương xứng với tỷ lệ phụ nữ trong dân cư nói chung và khả năng to lớn của chị
em phụ nữ nói riêng, nhưng chúng ta có thể thấy họ đã và đang thể hiện vai trò,
khả năng trí tuệ của mình trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
- Trong lĩnh vực khoa học: Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công
nghệ, với gần 38% trong tổng số cán bộ có trình độ ĐH và CĐ trở lên của cả
nước, đội ngũ lao động trí thức nữ được đào tạo ở nhiều ngành khoa học khác
nhau và đang công tác ở hầu hết trong các ngành kinh tế quốc dân. Phụ nữ
đang tham gia ngày càng nhiều hơn trong các lĩnh vực khoa học đòi hỏi tư
duy cao như công nghệ, kỹ thuật, tự nhiên. Trong đội ngũ lao động trí thức
nữ đã hình thành một bộ phận chuyên gia có trình độ ngày càng cao. Tính
đến cuối năm 2000, lao động trí thức nữ có học hàm giáo sư (GS) chiếm
4,3%, học hàm phó GS chiếm 70%, có trình độ tiến sĩ (TS) chiếm 14,9%,
trình độ thạc sĩ (ThS) chiếm 29,1%, hơn 20 trí thức nữ là nhà giáo nhân dân
và hơn 300 trí thức nữ là nhà giáo ưu tú… trong tổng số những người có học
hàm, học vị và chức danh trong cả nước. Theo Bộ GD&ĐT, năm 2005, tỷ lệ
nữ GS là 3,3%, nữ PGS là 13,3%, nữ TS là 17,55%, nữ thạc sĩ 39,1%. Trong
số các lao động trí thức nữ này rất nhiều người đã có những cống hiến xuất
sắc trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên được nhận giải thưởng Côvalepxcaia,
nhiều người có những đống góp nhất định trong lĩnh vực khoa học và nhân
văn… Tất cả những lao động trí thức nữ đó đã góp phần to lớn vào phát triển
kinh tế và tiến bộ xã hội.
- Trong lĩnh vực quản lý, lãnh đạo: Ngoài lĩnh vực khoa học, vai trò
to lớn của lao động trí thức nữ còn tập trung thể hiện ở một bộ phận quan
trọng cán bộ nữ đang tham gia công tác lãnh đạo và quản lý đất nước, giữ các
cương vị cao trong cơ quan của Đảng và nhà nước. Bộ phận trí thức này đang
góp phần to lớn và trực tiếp vào việc hoạch định, hướng dẫn thực hiện đường
22
lối, chính sách của Đảng và nhà nước trong phất triển kinh tế - xã hội. Trong
những năm gần đây, thực tế cho thấy một hiện tượng là lực lượng lao động
trí thức nữ, các nhà khoa học nữ tham gia vào công tác quản lý và lãnh đạo
các xí nghiệp kinh doanh có hiệu quả tăng lên rõ rệt. Trong nền kinh tế thị
trường với sự cạnh tranh khốc liệt, nhiều doanh nghiệp, đơn vị kinh tế làm ăn
thua lỗ và phá sản, nhưng đã có không ít các doanh nghiệp do trí thức nữ
lãnh đạo chẳng những đứng vững mà có nơi, có mặt còn phát triển nhanh, ổn
định sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, nâng cao đời sống người lao động,
góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia (Ví dụ như Công ty Liên doanh
Đông Nam Á, Dệt 8 - 3, Bánh kẹo Hải Hà, Dệt 10 - 10…). Hiện tượng trên
đã khẳng định không chỉ các ngành như giáo dục, y tế... mới phù hợp với nữ
như chúng ta đã quan niệm, mà cả trong các lĩnh vực sản xuất mang tính chất
công nghiệp và hiện đại, trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, chị em vẫn
hoàn thành tốt chức năng điều hành quản lý. Điều đó chứng tỏ trong lĩnh vực
rất mới, phụ nữ đã tỏ rõ khả năng, sự thông minh, nhạy bén của mình góp
phần to lớn vào sự nghiệp phát triển đất nước.
- Trong lĩnh vực GD&ĐT: Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần
thứ hai (khoá VIII), Đảng ta đã khẳng định GD&ĐT và KH&CN là quốc
sách hàng đầu và lấy phát triển GD&ĐT và KH&CN làm yếu tố cơ bản, coi
đó là khâu đột phá trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Sở dĩ như vậy là bởi
vì GD& ĐT, KH&CN có vai trò hết sức quan trọng. Trong sự nghiệp GD -
ĐT, KHCN, đội ngũ trí thức Việt Nam có trách nhiệm lớn trong việc nâng
cao dân trí, tạo ra mặt bằng trí tuệ cho dân tộc ngang tầm với yêu cầu CNH,
HĐH. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm, có theo
kịp với thế giới hay không…, một phần rất quan trọng là trách nhiệm của đội
ngũ trí thức Việt Nam, trước hết trong lĩnh vực GD&ĐT.
Cùng với một số lĩnh vực quan trọng nói trên, đội ngũ trí thức nói
chung cũng như lao động trí thức nữ nói riêng còn có vai trò lớn trong các
lĩnh vực khác như sáng tạo văn học, nghệ thuật, làm phong phú thêm đời
sống vật chất, tinh thần, góp phần vào sự nghiệp giáo dục, định hướng cho
23
thế hệ trẻ và nhân cách con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam.
- Lao động trí thức nữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong tái sản
xuất sức lao động có chất lượng cao cho xã hội.
Phụ nữ chiếm 50% dân số, có tiềm năng trí tuệ to lớn, thực sự trở
thành động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hơn thế nữa,
trước khi trở thành một nhà khoa học, một nhà quản lý hay doanh nhân, họ là
một phụ nữ, một người vợ, người mẹ. Ở cương vị này, họ giữ vai trò đặc biệt
trên lĩnh vực tái sản xuất và giáo dục những con người hữu ích cho xã hội,
trong việc chăm sóc và bồi dưỡng từ ban đầu những đứa con - nguồn lực
tương lai quý báu nhất của dân tộc. Nếu những người mẹ có sự hiểu biết đầy
đủ về chăm sóc, giáo dục con cái, về văn hoá, xã hội,… sẽ là cái nôi của lớp
người tài năng trong tương lai.
1.2.2. Những nhân tố tác động đến đội ngũ trí thức nữ
1.2.2.1. Nhân tố xã hội lịch sử: Những định kiến xã hội đối với nữ giới
vẫn nặng nề
Tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” hay định kiến về “sự hơn hẳn của
nam giới” đã và đang tồn tại không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nơi trên thế
giới. Chính định kiến này kìm hãm sự tiến bộ của phụ nữ, hạn chế sự đóng
góp to lớn của một nửa nhân loại vào quá trình phát triển chung. Tư tưởng đề
cao vai trò của nam giới, coi phụ nữ là sản phẩm “hạng hai” trong xã hội đã
kéo dài nhiều thế kỷ nay, ăn sâu vào đầu óc của mọi người, cả nam giới và
nữ giới. Vì vậy, trên phương diện này, chúng ta có thể nhận thấy từ trước tới
nay, cuộc sống xã hội dường như chịu ảnh hưởng chủ yếu của các quan điểm,
tư tưởng, thói quen cũng như định kiến của nam giới. Trong xã hội, mọi
người luôn cho rằng người phụ nữ luôn có những phẩm chất kém hơn nam
giới. Cụ thể như: phụ nữ mềm yếu, tình cảm và dễ thụ động, sự yếu ớt và bất
ổn về tinh thần sẽ hạn chế các hiệu quả trong công việc…
Chính những định kiến xã hội trên làm cho người phụ nữ ít được tham
gia, hoặc ngại tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là các hoạt động
khoa học, kinh tế. Bản thân phụ nữ cũng thường thoả mãn với những sự lụa
24
chọn của riêng mình, muốn cống hiến cho gia đình nhiều hơn là tranh đua
ngoài xã hội.
Nhìn nhận một cách khách quan vấn đề này ta thấy, do đúng là người
phụ nữ phải thực hiện những chức năng thiên bẩm của mình nên họ ít có điều
kiện để phát triển trong nghề nghiệp. Song điều quan trọng là cách nhìn nhận
của xã hội nói chung. Một bộ phận nam giới nói riêng thường xuyên cố tình
hoặc vô ý biểu hiện thái độ hoài nghi vào khả năng của phụ nữ nên đã kìm
hãm sự phát triển của bộ phận này. Hành vi, thái độ đó đã làm trầm trọng
thêm ở người phụ nữ tâm lí tự ti đối với chính bản thân mình.
Về nguyên nhân của những định kiến xã hội trên, các nguyên nhân sâu
xa có thể là:
- Do điều kiện về lịch sử - kinh tế quy định. Khi xã hội ở trình độ phát
triển thấp, quá trình đấu tranh và lao động sản xuất dựa vào cơ bắp là chính,
nên nam giới được coi trọng hơn nữ giới. Vì vậy, khi xã hội phát triển lên,
CNH, HĐH được thực hiện, sản phẩm xã hội dựa chủ yếu vào tri thức và trí
tuệ, chắc lúc đó sự bất bình đẳng giữa nam và nữ cũng tự nhiên mất dần đi.
- Do tâm lý - văn hoá truyền thống. Với sức ỳ của truyền thống
“Trọng nam khinh nữ”, với mô hình truyền thống vai trò nam giới và phụ nữ
trong gia đình, nam giới mới được coi là lao động chính, do dó chỉ họ mới có
quyền quyết định các công việc trọng đại của gia đình, của cộng đồng và xã
hội. Vì vậy nam giới luôn được coi là có vai trò trụ cột, có vị trí và thứ bậc
cao nơn nữ giới trong gia đình và xã hội. Trong khi đó các công việc liên
quan đến phục vụ gia đình con cái, chăm nom nhà cửa được coi là thuộc về
phụ nữ. Những công việc này tuy nặng nề và quan trọng, song được coi là
việc riêng, là việc không có giá trị, do đó phụ nữ không có vị trí, không có
tiếng nói trong gia đình, cũng như trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Mô hình này cũng được sao chép trong cách thức sắp xếp và vận hành tổ
chức trong nhiều cơ quan, xí nghiệp, các đơn vị kinh tế. Nam giới thường
đóng vai trò trụ cột và ra các quyết định quan trọng, trong khi đó nữ giới, kể
cả khi có tham gia quản lý cũng chỉ mang tính hỗ trợ… Định kiến về vai trò
giới ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân thông qua quá trình xã hội hoá.
25
“Thông qua quá trình xã hội hoá, các định kiến giới được hình thành
và ngấm dần vào tiềm thức mỗi cá nhân thông qua sự giáo dục của gia đình
nhà trường và các thực tiễn xã hội. Xã hội hoá là một quá trình trong đó các
cá nhân thành viên tìm hiểu những kỳ vọng gì là phù hợp với các vị trí xã hội
nhất định… cũng như các thái độ, hành vi, quyền và nghĩa vụ gắn với một vị
trí xã hội nhất định. Song quá trình hiệu quả diễn ra khi mà các cá nhân thấm
nhuần và trau dồi, thay vì chỉ chấp nhận các quan niệm xã hội”.
Bản thân người phụ nữ nói chung, trí thức nữ nói riêng, do sự tác động
của những định kiến xã hội về giới thể hiện qua hành vi, thái độ đã làm trầm
trọng thêm ở họ tâm lý tự ti đối với chính bản thân mình. Do bị ám thị bởi tư
tưởng về sự hơn hẳn của nam giới, nên nhiều người tự coi người đàn ông như
thần tượng, là nơi che chở vững chắc cho bản thân. Trong gia đình sự phân
biệt đối xử giữa con trai và con gái (ở mặt này hay mặt khác) vẫn diễn ra.
Những ngôn ngữ giao tiếp thể hiện sự phân biệt vai trò của nữ giới trong
công việc như “làm như đàn bà”…thấm sâu vào người phụ nữ, dần dần trở
thành “nếp nghĩ”, sự “tự ý thức về mình” làm cho họ thêm sự tự tin, lo ngại
thất bại trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay, sự phát triển của xã hội đang đòi hỏi và mở ra các điều kiện
thuận lợi để người phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động sản xuất và
đóng góp có ý nghĩa cho sự tiến bộ xã hội. Trước đòi hỏi đó, người phụ nữ
phải nâng cao bản thân mình về mọi phương diện để phù hợp với yêu cầu của
lĩnh vực hoạt động mới, vì vậy tích cách của người phụ nữ đang có sự thay
đổi sâu sắc.
Phụ nữ ngày nay có nhiều đức tính nổi bật như năng động, tự tin cởi
mở, ham thích hoạt động xã hội, dám nghĩ, dám làm với tinh thần trách
nhiệm cao. Những tính cách mới mẻ này khác với phụ nữ ngày xưa và gần
với tính cách “vốn có” của nam giới. Hiện nay, sự tiến bộ xã hội đòi hỏi và
tạo ra những điều kiện để phụ nữ thay đổi những quan niệm cũ và thể hiện
những phẩm chất của mình trong sự bình đẳng với nam giới.
Ở Việt Nam, khi xem xét giá trị gia đình trong hệ thống giá trị cá nhân, chúng ta thấy với quan niệm truyền thống, phụ nữ nghiêng về gia đình, nam
26
giói nghiêng về nghề nghiệp, thì nay, quan niệm này đã có sự thay đổi căn bản, phù hợp hơn với nguyện vọng phụ nữ và xu thế thời đại. Người phụ nữ muốn có bình đẳng với nam giới cả trong gia đình cũng như trong hoạt động nghề nghiệp. Theo họ, việc tham gia vào các hoạt động xã hội của phụ nữ không chỉ có thêm thu nhập cho ngân sách gia đình (đôi khi còn đóng vai trò thu nhập chính), mà còn đồng thời trực tiếp nâng cao địa vị xã hội của chị em, từ đó tâm lý tự ti, rụt rè, an phận ngay ở trong gia đình dần dần giảm bớt. Không những thế, đòi hỏi khách quan của nghề nghiệp tạo ra cho chính chị em những nhu cầu cần bồi dưỡng kiến thức chung và trình độ chuyên môn…
Điều đặc biệt này có ý nghĩa quan trọng đối với trí thức nữ. Do có trình độ học vấn cao, họ hiểu biết sâu sắc giá trị của sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Đối với họ, người phụ nữ thực sự được giải phóng khi họ có điều kiện tham gia các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Trong hoạt động kinh tế - xã hội họ sẽ không bị kìm hãm về năng lực, không bị coi thường. Vi vậy không nên tách rời và đối lập chức năng thiên bẩm với chức năng kinh tế - xã hội trong bản thân người phụ nữ. Không nên nhấn mạnh ở một chức năng nào bởi như thế là làm triệt tiêu hay hạn chế vai trò của người phụ nữ nói chung cũng như lao động trí thức nữ nói riêng đối với sự phát triển gia đình và kinh tế –xã hội. Điều quan trọng là xã hội và gia đình tạo điều kiện để lao động trí thức nữ thực hiện một cách hài hoà các chức năng như thế nào, bởi đó không chỉ là lợi ích riêng của phụ nữ mà còn là lợi ích chung của toàn xã hội.
1.2.2.2. Quan hệ gia đình và thiên chức làm vợ, làm mẹ tác động đến
lao động trí thức nữ
Người lao động trí thức nữ không chỉ là một công dân, một nhà khoa học, một nhà lãnh đạo hay quản lý mà còn là một người vợ, người mẹ. Vì vậy, muốn hoàn thành công việc có hiệu quả tương đương như nam giới, chị em phải lao động gấp hai lần cả về sức lực, trí tuệ và thời gian. Trên vai họ là hai, ba trách nhiệm đặt lên. Nhiều nhà khoa học nữ cho rằng, sự thành đạt ở nữ thấp hơn nam, nguyên nhân chủ yếu là do gánh nặng gia đình, con cái và do đó với phụ nữ, khoa học (hay sự nghiệp) và gia đình là những công việc dung hoà với nhau được là điều không mấy dễ dàng. Hoạt động khoa học đòi
27
hỏi phải tập trung tư duy, phải làm việc khi cần thiết không kể ngày đêm trong khi việc nuôi dạy con cái, nhất là khi con còn nhỏ lại là việc làm cần nhiều thời gian và đòi hỏi nhiều công sức trí tuệ không thua kém gì làm khoa học. Do vậy, công việc gia đình luôn là công việc vất vả nhất của người phụ nữ. Đối với trí thức nữ ở một nước chưa phát triển như nước ta, chức năng này còn nặng nề hơn nhiều lần. Mâu thuẫn giữa sự nghiệp khoa học, phát triển kinh tế, đảm nhiệm các công việc xã hội với nhiệm vụ gia đình phải gánh vác vẫn là điều trăn trở của nhiều trí thức nữ. Bởi vì, theo quan niệm truyền thống, người phụ nữ Việt Nam, dù ở cương vị nào, trình độ học vấn ra sao vẫn phải thực hiện chức năng cao cả là sinh con, nuôi dạy con, sẵn sàng hy sinh cho chồng cho son, thậm chí, sẵn lòng từ bỏ công danh, sự nghiệp, niềm cảm hứng sáng tạo để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Với những lý do đó, nhiều người đã không vượt qua được những khó khăn để cùng một lúc hoàn thành chức năng “kép” này. Trong bối cảnh đó, họ thường quay về với chức năng muôn thuở của người phụ nữ là gia đình. Quay về với gia đình - với nhiều trí thức nữ, không có nghĩa là từ bỏ hẳn công việc, mà là làm việc cầm chừng, với phong độ kém hiệu quả, an phận với cái gì mình đã có, không đầu tư nỗ lực để phấn đấu lên cao. Qua quan sát thực tiễn cho thấy, vai trò “nội tướng” trong gia đình đang chiếm rất nhiều thời gian và tâm trí của phần lớn trí thức nữ. Ở nước ta, mặc dù sự phân công lao động trong gia đình đã có nhiều tiến bộ so với một số nước khác trên thế giới, nam giới đã chia sẻ và giúp đỡ phụ nữ, nhưng nhìn chung người phụ nữ bao giờ cũng phải gánh vác nhiều hơn, lao động nhiều hơn.
Nhìn chung xã hội, gia đình là hai chức năng muôn thuở, có tính truyền thống của người phụ nữ ở mọi thời đại, mọi xã hội. Còn việc thực hiện nó như thế nào, ảnh hưởng của nó ít hay nhiều đến sự phát triển của người phụ nữ nói chung và trí thức nữ nói riêng lại phụ thuộc vào các yếu tố văn hoá, xã hội, kinh tế của mỗi dân tộc; mỗi thời đại.
1.2.2.3. Những điều kiện mới về kinh tế - xã hội với sự phát triển của
đội ngũ trí thức nữ
Sự phát triển và trưởng thành của lao động trí thức nữ chịu sự tác động
rất lớn của các điều kiện về kinh tế - xã hội cụ thể. Đặc biệt thể hiện rõ nét
28
qua sự tác động của các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, các
điều kiện về phát triển kinh tế, giáo dục,…
* Về các quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trí
thức nói chung, lao động trí thức nữ nói riêng
Hiểu rõ vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nên.
trong từng thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm coi
trọng, quan tâm, tạo điều kiện để đào tạo và phát huy năng lực sáng tạo của
đội ngũ trí thức. Điều đó đã được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và
Nhà nước. Những năm gần đây, tuy Đảng chưa xây dựng một chính sách
riêng đối với đội ngũ trí thức, nhưng các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
công tác giáo dục, đào tạo cán bộ, phát triển khoa học, công nghệ, đặc biệt là
nghị quyết về CNH, HĐH đất nước đang tạo ra những điều kiện thuận lợi rất
lớn cho sự phát triển đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng. Các
chỉ thị, nghị quyết đó vừa thể hiện sự nhất quán của Đảng về vai trò, vị trí
của trí thức, vừa thể hiện sự đổi mới nhận thức của Đảng về đội ngũ này trên
cơ sở hiểu rõ vai trò của lao động trí tuệ trong thời đại cách mạng khoa học
và công nghệ; “trí tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất của quốc gia… Bồi
dưỡng và trọng dụng nhân tài là vấn đề có tầm chiến lược, là yếu tố quyết
định tương lai của đất nước” [27, tr.148-149]. Trong Nghị quyết của Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ hai (khoá VIII) Đảng ta đã coi trí
thức là lực lượng chủ yếu trong việc hiện thực hoá chiến lược GD&ĐT,
KH&CN, tạo nên những mũi đột phá vào công cuộc CNH, HĐH.
Đối với lao động nữ, các quan điểm của Đảng và Nhà nước không chỉ
được ghi nhận rõ trong hệ thống các văn bản, chỉ thị, nghị định và quan trọng
hơn ở một mức độ nhất định đã và đang được thực thi trong cuộc sống nhằm
phát huy vai trò, vị trí và tiềm năng của phụ nữ trong xã hội.
Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về “Đổi mới, tăng cường công tác vận
động phụ nữ trong tình hình mới (năm 1993); Chỉ thị 37 của Ban Bí thư về
“Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ” (năm 1994) được coi là
những văn bản gần đây nhất ghi nhận phụ nữ Việt Nam vừa có tiềm năng to
lớn, là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã
29
hội… Các văn kiện ở trên nêu rõ: Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là
nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao địa vị xã hội và quyền
bình đẳng của phụ nữ, nhấn mạnh sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách
nhiệm của các cấp chính quyền, các tổ chức nhân dân, toàn xã hội và gia
đình; khẳng định vai trò của phụ nữ trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế
- xã hội của đất nước.
Nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước nhấn mạnh đến việc thực hiện
bình đẳng giới, chú trọng công tác cán bộ nữ, coi việc tăng tỉ lệ cán bộ nữ
tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ học
vấn cho phụ nữ là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân
chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tiềm năng trí tuệ và nâng cao địa vị
xã hội của phụ nữ.
Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc hội khoá IX thông qua năm 1995 cũng đã có những qui định riêng các
chế độ, chính sách về lao động nữ. Trong đó có nhiều nội dung phù hợp với
yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, như việc
nhấn mạnh chức năng làm mẹ của phụ nữ, có những biện pháp để các chức
năng gia đình không còn là gánh nặng của phụ nữ, đồng thời nêu cao trách
nhiệm thực hiện của cả vợ và chồng. [30, tr.51-52].
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chính thức ghi nhận việc thực hiện “Chiến lược vì sự tiến bộ của phụ
nữ Việt Nam” mà Đảng và Chính phủ ta đã cam kết tại hội nghị Thế giới lần
thứ IV của phụ nữ tổ chức tại Bắc Kinh (9/1995), xem đó như là một bộ phận
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chiến
lược trên đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thành chương
trình hành động (năm 1997) là một văn bản quan trọng thể hiện quan điểm
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phụ nữ. Trong chiến lược đó
nhấn mạnh việc nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ và việc thực hiện
quyền bình đẳng giới trong các khâu xây dựng và triển khai chương trình
hành động của các cấp, ngành. Chiến lược khẳng định giải phóng phụ nữ là
một trong những mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam, có ảnh
30
hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất nước. Nhấn mạnh sự tiến
bộ của phụ nữ không chỉ xuất phát từ lợi ích riêng của phụ nữ, của gia đình
mà còn xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội. Điều này đúng như một
xét đã nêu: “Giải quyết những vướng mắc, khó khăn cho nữ trí thức, phát huy
tiềm năng sáng tạo, góp phần đắc lực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
chính là thể hiện việc phát huy năng lực nội sinh của đất nước, là một chủ
trương lớn trong công tác vận động quần chúng của Đảng và Nhà nước ta”.
Tóm lại, quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo ra
nhiều thuận lợi cho đội ngũ trí thức nói chung, lao động trí thức nữ nói riêng
để họ có thể phát huy tiềm năng trí tuệ của mình, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH đất nước.
* Sự tiến bộ về kinh tế - xã hội:
Sau ngày đổi mới, nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng nền kinh
tế hàng hoá, nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Thực tế kinh tế những năm gần đây, cơ cấu kinh tế thay đổi
với xu hướng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên, đặc biệt, mức độ
CNH, HĐH ở các ngành kinh tế cũng ngày một tiến bộ; Hệ thống thông tin,
viễn thông được phát triển rất nhanh,… Chính những yếu tố về kinh tế - kỹ
thuật này đã tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người nói chung, phụ nữ nói
riêng trong việc học tập, làm việc, tham gia hoạt động xã hội.
Việc chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, với
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đã tạo ra một cơ cấu nghề
nghiệp phong phú đa dạng hơn, tạo việc làm cho một số đông người lao
động, trong đó có trí thức nữ. Nhờ có việc làm, đời sống của họ được bảo
đảm và từng bước được cải thiện hơn, góp phần tạo điều kiện cho lao động
trí thức nữ phát triển.
Các thành phần kinh tế có địa vị bình đẳng đã tạo ra địa bàn rộng lớn
để hình thành nhu cầu áp dụng các công nghệ mới vào sản xuất và dịch vụ.
Điều này khuyến khích các nhà khoa học nói chung, trí thức nữ nói riêng
mạnh dạn đi vào nghiên cứu để phát triển sản xuất, hướng các đề tài nghiên
cứu vào thực tiễn, gắn nghiên cứu với thực tiễn.
31
Trong cơ chế kinh tế thị trường, nhìn chung những lợi ích vật chất và
tinh thần đã kích thích tính năng động sáng tạo của nhiều lao động trí thức
nữ, trong nhiều hoạt động sáng tạo. Những sở trường, tiềm năng của trí thức
nữ nói chung, của các nhà khoa học nữ nói riêng có điều kiện bộc lộ và ngày
càng được phát triển ở nhiều mặt, nhiều người (nhất là khả năng quản lý sản
xuất, kinh doanh, quản lý khoa học và năng lực chuyên môn, ngoại ngữ ở
một số ngành khoa học mới).
Mặt khác, do đời sống của nhân dân không ngừng được nâng lên,
trong điều kiện kinh tế mở cửa, hàng hoá là các phương tiện giảm nhẹ công
việc gia đình trên thị trường nước ta ngày càng nhiều, nên đã tạo ra nhiều
điều kiện thuận lợi đề giảm nhẹ công việc nội trợ và chăm sóc con cái của
phụ nữ. Máy giặt, máy hút bụi, bếp ga nấu ăn,… là các phương tiện tiết kiệm
được rất nhiều thời gian và sức lực cho phụ nữ. Phụ nữ có thời gian nhiều
hơn cho học tập, nâng cao trình độ, giao lưu, hoạt động nghề nghiệp…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, chúng ta cũng
cần xét tới cả những tác động tiêu cực của nó đối với sự phát triển của lao
động trí thức nữ. Trong bối cảnh của cơ chế kinh tế thị trường, những thách
thức, những tác động tiêu cực có thể là: Do quy luật lợi nhuận tối đa và cạnh
tranh ngày càng khắc nghiệt, lao động nữ nói chung và trí thức nữ nói riêng
là những người yếu thế hơn, nên khả năng cạnh tranh sẽ khó khăn hơn.
32
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ
VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Thực trạng đội ngũ lao động trí thức nữ Việt Nam
2.1.1. Vài nét về sự phát triển đội ngũ trí thức nữ nước ta trong lịch sử
Là một bộ phận của đội ngũ lao động trí thức cả nước, lịch sử phát
triển của đội ngũ lao động trí thức nữ nước ta gắn liền với lịch sử phát triển
của đội ngũ lao động trí thức nói chung, nhưng cũng có những nét riêng
trong quá trình hình thành, phát triển của mình.
2.1.1.1. Thời kỳ trước Cách mạng tháng 8/1945
Trước cách mạng tháng 8/1945, do nhiều nguyên nhân khác nhau
trong đó môi trường văn hoá - xã hội là nguyên nhân cơ bản, đã làm cho đội
ngũ lao động trí thức nữ hầu như chưa xuất hiện.
Những quan điểm, tư tưởng phong kiến như “trọng nam khinh nữ” và
các lễ giáo phong kiến ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển trí tuệ của người
phụ nữ nước ta trước đây. Người phụ nữ không được học hành để phát triển
tài năng, trí tuệ. Thời kỳ phong kiến, mặc dù dân tộc Việt Nam có ngàn năm
văn hiến, có truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài, đã từng coi giáo
dục, học vấn để phát triển tài năng, trí tuệ là yếu tố quan trọng hàng đầu đối
với sự hưng thịnh của đất nước, song suốt thời kỳ đó, phụ nữ Việt Nam hầu
như không biết chữ, không có chỗ đứng trong giáo dục học đường, hay trong
các kỳ thi cử. Trong các lĩnh vực khoa học, các kỳ thi cử trở thành độc quyền
của nam giới, là “thánh địa riêng của đấng tu mi nam tử”. Môi trường xã hội
chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hoá phong kiến - nho giáo đã tạo ra một hậu
quả là, trong số 2.898 tiến sĩ thời ấy chỉ có một người phụ nữ duy nhất, thông
minh quả cảm đặt chân tới lãnh địa này và trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên ở
nước ta đầu thế kỷ thứ XVI đó là bà Nguyễn Thị Duệ - quê Văn An, Chí
Linh, Hải Dương.
33
Việc phân biệt đối xử không có lợi cho phụ nữ theo tư tưởng phong
kiến nho giáo đã kìm hãm và làm thui chột tài năng trí tuệ của phụ nữ, và đã
dẫn đến kết quả là hạ thấp địa vị giá trị của người phụ nữ.
Tiếp theo thời kỳ phong kiến là thời kỳ nhân dân ta sống dưới chế độ
cai trị của thực dân Pháp. Thời kỳ này, địa vị của một bộ phận nhỏ phụ nữ
Việt Nam ít nhiều có được cải thiện và bắt đàu được tiếp xúc học đường,
nhưng đại bộ phận phụ nữ, địa vị của họ vẫn như trước đây. Công cuộc khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp làm cho yếu tố tư bản chủ nghĩa xuất hiện,
nhưng không phát triển mạnh được do chính sách bảo thủ, hẹp hòi, kìm hãm
sự phát triển kinh tế thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp. Cùng với chính
sách khai thác thuộc địa, chính sách chia để trị, thực dân Pháp còn thực hiện
chính sách ngu dân nhằm kìm hãm sự phát triển tinh thần, trí tuệ của dân tộc
ta để chúng dễ bề cai trị, áp bức. Hậu quả của chính sách này là đại bộ phận
nhân dân ở nước ta mù chữ. Theo các nhà nghiên cứu, năm 1939 - 1940 là
năm giáo dục phát triển nhất thì tổng số học sinh tiểu học có hơn 40 vạn,
tổng số học sinh phổ thông cơ sở là hơn 5000, số lượng sinh viên là 582 trên
tổng số dân là 23 triệu người. Nền giáo dục ấy chỉ thu hút 2,6% dân số Việt
Nam đi học, để lại hơn 95% dân số mù chữ, đặc biệt là phụ nữ và đồng bào
dân tộc ít người.
Thời kỳ này, 97% phụ nữ Việt Nam không biết đọc, biết viết. Có thể
thấy rằng, từ cách mạng tháng tám về trước, phụ nữ Việt Nam (về cơ bản)
không có cơ hội, điều kiện, môi trường xã hội để phát triển tài năng trí tuệ.
Hơn 10 thế kỷ, dân tộc nói chung và phụ nữ nói riêng, bị kìm hãm về trí tuệ
và tinh thần bởi những qui tắc xã hội lạc hậu, phản động. Chính vì vậy mà
truyền thống khoa học của phụ nữ bị thiếu hụt nghiêm trọng, gây khó khăn
cho hành trình vào khoa học của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
2.1.1.2. Thời kỳ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến 1986
Cách mạng tháng Tám đã mở ra một thời kỳ mới, có ý nghĩa bước
ngoặt lịch sử đối với dân tộc Việt Nam nói chung và đội ngũ lao động trí
thức nữ nói riêng, đánh dấu sự phát triển của đội ngũ lao động trí thức nữ
34
nước ta. Cuộc cách mạng tháng tám đã giải phóng toàn thể dân tộc, trong đó
có phụ nữ.
Ngay sau thắng lợi của cách mạng tháng tám, Đảng và nhà nước đã
chủ trương phát triển, mở rộng hệ thống giáo dục nhằm đón nhận, đồng thời
khuyến khích và động viên phụ nữ tham gia vào lĩnh vực học đường, tham
gia nghiên cứu khoa học, quản lý xã hội để từng bước đặt nền móng cho việc
hình thành đội ngũ trí thức nữ nước ta. Tuy nhiên, thời kỳ từ năm 1945 đến
năm 1954 là thời kỳ cả dân tộc phải tiến hành cuộc kháng chiến đầy khó
khăn, gian khổ chống thực dân Pháp, nên hệ thống giáo dục nói chung và đại
học nói riêng có nhiều hạn chế.
Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn đựoc giải phóng và bước vào thời kỳ
khôi phục kinh tế, và xây dựng xã hội mới. Nhiệm vụ cách mạng mới đòi hỏi
phải tăng nhanh lực lượng trí thức phục vụ cách mạng, do vậy công tác đào
tạo ĐH và trung học chuyên nghiệp ở miền Bắc bắt đầu phát triển với nhịp
độ cao, với quy mô rộng lớn. Cơ sở vật chất trường lớp, đội ngũ giáo viên và
số lượng học sinh phát triển vượt bậc, mở ra cơ hội mới cho việc đào tạo trí
thức nữ. Đặc biệt từ những năm 1960, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
được coi là then chốt để thực hiện kế hoạch 5 năm lần thư nhất (1961 -
1965), thì vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đã được nhận rõ, có tầm quan
trọng đặc biệt. Thời kỳ này, hệ thống các trường, viện nghiên cứu được phát
triển với quy mô và số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh. Nhờ sự nỗ lực
của công tác đào tạo, lực lượng trí thức ở nước ta thời kỳ này đã phát triển
nhanh. Nếu cuối năm 1954 khi miền Bắc mới được giải phóng, nước ta có
3475 người có trình độ ĐH và trung học chuyên nghiệp, thì đến năm 1964, sau
10 năm, số lượng này đã tăng lên tới 30.704 người, tăng gấp 10 lần, trong đó
nữ chiếm 14,3% [1, tr.2]. Kết quả này đánh dấu bước trưởng thành quan trọng
của trí thức nữ nước ta.
Tuy nhiên, ngay sau đó dân tộc ta phải tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Việc đào tạo để có trình độ cao của phụ nữ phần nào có
những hạn chế, do vậy thời kỳ này số lượng trí thức nữ hầu như không tăng.
35
Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thông nhất, cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,. Đảng ta đã chủ trương:
“Đẩy nhanh việc đào tạo trí thiức có tài năng trên tất cả các lĩnh vực hoạt
động xã hội, tuyệt đối trụng thành với tổ quốc, vơi nhân dân, với sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghiã, có quyết tâm và nghị lực lớn, dám chinh phục
những đỉnh cao của văn hoá, khoa học, kỹ thuật…để giải quyết những vấn đề
cụ thể của đất nước” [28, tr.3]; đồng thời Đảng ta tiếp tục thực hiện tư tưởng
giải phóng phụ nữ, vì vậy, đội ngũ trí thức nữ đã không ngừng được bổ sung
và phát triển.
Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác đào tạo trong nước, chúng ta đã mở
rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trong việc đào tạo đội ngũ trí thức nói chung
và trí thức nữ nói riêng. Sự phát triển của đội ngũ trí thức nữ lúc này có sự
giúp đỡ rất lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô trước đây.
Kết quả là chúng ta đã có một lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật tương đối
lớn. Đến năm 1990, theo báo cáo của Ban Khoa giáo Trung ương, có 28.482
người tốt nghiệp ĐH ở nước ngoài. Theo thống kê của Bộ Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, từ năm 1951 đến năm 1986 có 207.020 lưu học sinh tại
Liên Xô, trong đó có 3245 nghiên cứu sinh, 2986 thực tập sinh, 20.787 sinh
viên ĐH, sau ĐH và học sinh trung học chuyên nghiệp. Tính đến tháng 6
năm 1987 có 25.300 người đã tốt nghiệp ĐH và sau ĐH, trong đó có 120 tiến
sĩ, 2560 PGS, 17.950 sinh viên ĐH, 2900 thực tập sinh. Trong số được đào
tạo này phụ nữ chiếm một phần đáng kể. Bộ phận trí thức nữ được đào tạo từ
nước ngoài, do được tiếp xúc với một nền khoa học tiên tiến, lại có trình độ
ngoại ngữ tốt đã góp phần đáng kể cho sự trưởng thành phát triển của đội ngũ
trí thức nước ta nói chung.
Thời kỳ sau ngày miền Nam giải phóng đến năm 1985, là thời kỳ đội
ngũ lao động trí thức nữ Việt Năm phát triển mạnh cả về số lượng, chất
lượng và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng số trí thức cả nước: Ở trình độ
ĐH, nữ chiếm 37,5%, đặc biệt là ở trình độ sau ĐH nữ chiếm 14,1% [1, tr.2].
Do yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng và sự trưởng thành của đội ngũ
cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học, từ năm 1976 chúng ta bắt đầu đào
36
tạo đội ngũ cán bộ sau ĐH ở trong nước. Đây là bước phát triển đánh dấu sự
chuyển biến về chất của hệ thống giáo dục ĐH ở nước ta. Vì vậy thời kỳ này
đội ngũ lao động trí thức nữ phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.
2.1.1.3. Thời kỳ từ ngày đổi mới đến nay
Từ năm 1986 đến nay, đặc biệt trong 6 năm đằu của thời kỳ đổi mới (từ 1986 - 1992), tình hình thế giới có nhiều biến động sâu sắc và có sự thay đổi cơ bản trong cơ chế quản lý kinh tế - xã hội ở trong nước đã tác động đến sự phát triển của đội ngũ trí thức nữ. Nguồn đào tạo từ nước ngoài (chủ yếu từ các nước xã hội chủ nghĩa trước đây) đã bị cắt giảm mạnh. Hệ thống giáo dục trong nước, tuy đã có cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Quy mô giáo dục ở các cấp, kể cả ĐH và trung học chuyên nghiệp thời kỳ này phần nào bị thu hẹp, chất lượng các bậc học có phần bị giảm sút. Đời sống sinh viên trong các trường ĐH đều gặp khó khăn. Một bộ phận không nhỏ nữ sinh viên tốt nghiệp ĐH không tìm được việc làm…Tất cả những khó khăn đó đã ảnh hưởng mạnh đến đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng. Vì vậy, thời kỳ này trí thức rất ít được bổ sung, số lượng không tăng, thậm chí còn giảm. Theo điều tra dân số năm 1989, nữ chiếm 38% trong tổng số những người có trình độ ĐH và CĐ trong cả nước thì đến năm 1992 (sau 6 năm thực hiện công cuộc đổi mới) tỷ lệ này chỉ còn 32%.
Trước tình hình giảm sút nghiêm trọng của ngành giáo dục nói chung và đội ngũ trí thức nữ nói riêng, tháng 3 năm 1993, hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã ra Nghị quyết về vấn đề giáo dục và đào tạo, trong đó coi GD&ĐT (cùng với khoa học và công nghệ) là quốc sách hàng đầu và nêu những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn để phát triển nền giáo dục Việt Nam mà đặc biệt là giáo dục ĐH. Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, những năm gần đây, ngành giáo dục - đào tạo đã có bước phát triển mới, mở rộng giáo dục ĐH với nhiều loại hình đào tạo, hình thức đào tạo, tăng ngân sách nhà nước dành cho đào tạo, thành lập các quỹ hỗ trợ tài năng… tạo đà cho việc đào tạo trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng.
Đến nay, trí thức nữ nước ta đã có bước phát triển mới. Trải qua hành trình trên 5 thập kỷ, trí thức nữ đã trở thành một đội ngũ có tiềm năng to lớn, chiếm gần 38% trong tổng số những người có trình độ ĐH và CĐ trở lên
37
trong cả nước. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhất là có sự cố gắng nỗ lực của bản thân chị em, đội ngũ lao động trí thức nữ nước ta đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, giữ vat trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.1.2. Thực trạng lao động trí thức nữ nước ta hiện nay
2.1.2.1. Về số lượng chung
Công cuộc đổi mới ở nước ta đến nay đã thực hiện được hơn 20 năm, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước ta đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đảng chủ trương thực hiện một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Những hoạt động mạnh mẽ của các thành phần kinh tế có địa vị bình đẳng đã tạo ra địa bàn rộng lớn để đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng phát huy khả năng của mình. Trong cơ chế thị trường năng động, Đảng và nhà nước đã đề ra một số chính sách thể hiện sự quan tâm đáp ứng những lợi ích vật chất và tinh thần đã kích thích tính năng động, sáng tạo của nhiều trí thức trong đó có cả trí thức nữ. Những sở trừờng tiềm năng của trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng có điều kiện bộc lộ và ngày càng được phát triển ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đội ngũ lao động trí thức có trình độ CĐ, ĐH và sau ĐH nước ta hiện nay có hơn 1,8 triệu người (2005) chiếm khoảng 21,1% tổng số lao động được đào tạo (hơn 8 triệu) và chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong lực lượng lao động của toàn xã hội: 4,44%. Nhìn chung đội ngũ nhân lực có trình độ CĐ, ĐH chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH cả về số lượng và chất lượng. Theo kết quả cuộc Tổng Điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2005 do Tổng cục Thống kê Việt Nam tiến hành, vào thời điểm 1/7/2005, ta có bảng sau:
Bảng 1: Lao động trí thức nước ta vào 01/7/2005
Trong đó
Lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng
1.491.284 (người) 13178 30078 1032983 415045
100% 0,88% 2,01% 69,26% 27,83%
Nguồn: [17, tr33]
38
Như vậy, theo bảng trên có thể thấy trong đội ngũ trí thức, hầu hết có
trình độ ĐH, trình độ sau ĐH còn rất hạn chế.
Cũng từ cuộc tổng điều tra trên, lao động trí thức phân theo giới tính
được cho ở bảng sau:
Bảng 2: Lao động trí thức nước ta phân theo giới tính vào 01/7/2005
T/S lao LĐ có Trong đó
động đã trình độ Tiến sĩ Thạc sĩ ĐH CĐ
qua đào ĐH trở
10793376 1491284
13178
30078
1032983
415045
tạo lên
5068701
605857
2170
8903
360912
233872
Tổng số
=46,96%
=40,62%
=16,46%
=29,59%
=34,93%
=56,34%
Nữ
Nguồn: [ 17, tr.34]
Theo bảng 2 ở trên ta có thể thấy tỉ lệ lao động nữ qua đào tạo chiếm
phần ít hơn so với tổng số lao động đã qua đào tạo (46,96%); Đối với lao
động có trình độ CĐ, ĐH trở lên, trí thức nữ chiếm 40,62%. Trong số lao
động trí thức nử, trình độ CĐ chiếm phần lớn (56,34%), nhưng càng ở các
trình độ cao hơn, tỷ lệ nữ càng ít. Đặc biệt, ở trình độ tiến sĩ, tỷ lệ nữ chỉ là
16,46%.
Tuy nhiên, tỷ lệ trí thức nữ ở trình độ cao đã có sự tăng lên so với các
năm trước. Cụ thể là, so với năm 1999, ta có bảng sau:
Bảng 3: Dân số tại 1/4/1999 đã từng đi học ĐH và trên ĐH
Tổng số CĐ, ĐH Trên ĐH CĐ trở lên
31228797 1144013 33126 1177139 Nam
31022266 835955 10942 846897 Nữ
62251063 1979968 44068 2024036 Cộng
49.8 42.2 24.8 41.8 % nữ
Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999. Tổng cục Thống kê
39
Để so sánh, từ bảng 2 ta có bảng 4 sau:
Bảng 4: Số lượng lao động trình độ CĐ, ĐH trở lên vào 1/7/2005
2005 Trên ĐH CĐ, ĐH CĐ, ĐH trở lên
Tổng 43256 1448028 1491284
Tổng nữ 11073 594784 605857
% nữ 25.6 41.1 40.6
Khi so sánh bảng 3 và bảng 4 ta chú ý: Về số tuyệt đối, số lượng nữ có
trình độ trên ĐH và trình độ CĐ, ĐH trở lên ở năm 2005 ít hơn năm 1999 là
do tiêu chí ở 2 bảng không đồng nhất: Ở bảng 3 là Dân số tại 01/4/1999 đã
từng đi học ĐH và trên ĐH, còn ở bảng 4 là số lượng lao động có trình độ
CĐ, ĐH. Như vậy, ở bảng 3 bao gồm cả những người tuy có bằng CĐ, ĐH
trở lên nhưng hiện không tham gia lao động nữa. Tuy nhiên, ở đây ta quan
tâm đến tỷ lệ nữ trong tổng số. Ta thấy các tỷ lệ nữ trong tổng số có sự biến
đổi: Tỷ lệ nữ có trình độ CĐ, ĐH ở năm 1999 và ở năm 2005 có các giá trị
tương ứng là 42,2% và 41,1%; tỷ lệ nữ có trình độ trên ĐH ở năm 1999 và
2005 có các giá trị tương ứng là 24,8% và 25,6%.
Như vậy, ở năm 2005 so với năm 1999, tỷ lệ lao động trí thức nữ có
trình độ trên ĐH ở nước ta có nhiều hơn chút ít.
2.1.2.2. Về số lượng trí thức nữ theo các ngành kinh tế.
Ta quan sát bằng số liệu sau:
Bảng 5: Lao động trí thức nữ phân theo ngành kinh tế (01/7/2005)
Lao động có trình độ CĐ,ĐH trở lên
Ngành kinh tế Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
SĐH (người) 128 17 1733 312 13,28 18,00 CĐ, ĐH (người) 11290 2505 144944 50280 22,19 34,69
127 14759 1. Công nghiệp khai thác mỏ Nữ 2. Công nghiệp chế biến Nữ 3, SX, phân phối điện, khí đốt và nước
40
15 878 107 11,81 12,19 2966 65099 12291 20,10 18,88
1908 126672
21,96 33,78 52950 21496 10542 41,80 49,04 419 148 50
49646 691
32,67 51,59 33,88 19,39 28,05 24,13 46220 38628 19928 14667 4969 134 845 237 4190 1011
50939 1922
367 19,09 15631 30,69
lý nhà nước, ANQP, 276707 5655
18,50 62.20 40,20 37,77 27,52 39,21 19,23 15,15 31,30 26,83 29,23 17,27 43,94 11,54 51181 496768 308985 58914 23683 19460 7350 41180 11332 3650 1431 13209 2540 Nữ 4. Xây dựng Nữ 5. TN. SC xe có động cơ, mô tô… đò dùng CN và GĐ Nữ 6.Khách sạn, Nhà hàng Nữ 7. Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc Nữ 8.Tài chính và tín dụng Nữ 9.Khoa học và công nghệ Nữ 10. Dịch vụ liên quan đến Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn Nữ 11.Quản BHXH bắt buộc Nữ 12. Giáo dục và đào tạo Nữ 13. Y tế và hội đồng cứu trợ xã hội Nữ 14. Văn hoá và thể thao Nữ 15. Đảng, Đoàn thể và hiệp hội Nữ 16.Phục vụ cá nhân và công cộng Nữ 17. Ngành khác Nữ 857 20516 6421 3108 834 325 95 886 153 66 23 130 15
Nguồn:Tổng Điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp 2005. [17, tr.35]
41
Bảng 6: LĐ nữ trí thức ở một số ngành (01/7/2005)
Ngành kinh tế Tiến sỹ Thạc sỹ Cao đẳng Cử nhân/ Kỹ sƣ Tổng số LĐ
10793376 5068701 13178 2170 30078 1032983 360912 8903 415045 233872
226524 48 80 9119 2171 Tổng số Nữ 1. Công nghiệp khai thác mỏ
Nữ 71902 = 31,34% 5 = 10,41% 12 = 15,00% 2027 = 22,22% 478 = 22,01%
3517280 460 1273 119112 25832 2. Công nghiệp chế biến
Nữ 1784633 = 50,73% 46 = 10,00% 266 = 20,89% 39545 = 33,19% 10735 = 41,55%
83792 20 107 12971 1788
15416 547610 74231 2 368 59 13 510 48 2570 58772 10861 396 6327 1430
1965802 597 1311 105630 21042
1080946 115 304 42894 10056
709805 25 123 17118 3478
475275 6 44 8175 2367
536037 125 566 41649 7997
96956 80769 40133 21 74 10 113 771 227 13497 32416 16381 2723 6212 3547
29532 2315 1875 14088 579 3. Sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước Nữ 4. Xây dựng Nữ 5. TN, SC xe có động cơ, môtô… đồ dùng CN và GĐ Nữ 6. Khách sạn, nhà hàng Nữ 7. Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc Nữ 8. Tài chính, tín dụng Nữ 9. Khoa học và công nghệ
42
Nữ 10869 = 36,8% 398 = 17,2% 613 = 32,7% 4767 = 33,8% 202 = 22,9%
161296 573 1349 46257 4682
57446 63 304 13986 1645
845611 1670 3985 228545 48162
158251 153 704 46012 5169
1122594 5758 14758 226224 270544 10. DV liên quan đến KD tài sản và dịch vụ tư vấn Nữ 11. Quản lý nhà nước, ANQP, BHXH bắt buộc Nữ 12. Giáo dục và đào tạo
Nữ 779923 = 69,5% 1098 = 19,1% 5323 = 36,1% 120244 = 53,2% 188741 = 69,8%
249231 670 2438 54645 4269 13. Y tế và hội đồng cứu trợ xã hội
Nữ 149100 = 59,8% 145 = 21,6% 689 = 28,3% 21131 = 38,7% 2552 = 59,8%
90170 90 235 17001 2459
39219 15 80 6469 881
247704 339 547 34156 7024
70728 28 125 8955 2377
132211 15 51 3073 577
14. Văn hoá và thể thao Nữ 15. Đảng, đoàn thể và hiệp hội Nữ 16. Phục vụ các nhân và công cộng Nữ 17. Ngành khác Nữ 68570 247408 95103 4 31 2 25 99 13 1155 12207 2243 276 1002 297
Nguồn:Tổng Điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp 2005. [17,tr 37]
Từ số liệu ở các bảng trên, một số điểm cần chú ý rút ra là:
43
+ Trí thức nữ, kể cả ở trình độ cao nhất là tiến sĩ đã có ở tất cả các
ngành của nền kinh tế quốc dân nước ta.
+ Trí thức có trình độ cao (thạc sĩ trở lên ) tập trung chủ yếu ở
ngành giáo dục và đào tạo: Gần 1/3 tổng số, với 42,63% tiến sĩ khoa học;
37,9% tiến sĩ; 42,9% thạc sĩ.
+ Trí thức nữ ở trình độ sau ĐH, những ngành có tỷ lệ trí thức nữ cao
nhất là: Phục vụ cá nhân và công cộng (43,94%); khách sạn nhà hàng
(33,78%); Giáo dục và Đào tạo 31,3%; Văn hoá, thể thao (29,23%); Tài
chính, tín dụng (28,05%); ở trình độ tiến sĩ, những ngành có tỷ lệ nữ (trong
tổng só Tiến sĩ của ngành) cao nhất là: Y tế và cứu trợ xã hội (21,6%);
GD&ĐT (19,1%); Khoa học công nghệ (17,2%).
Ngoài ra, cũng từ nguồn số liệu thống kê 2005 đã nêu ở trên, cần chú ý
rằng:
+ Có tới 83,62% Trí thức làm việc trong thành phần kinh tế nhà nước;
sau đó là 8,04% trong thành phần kinh tế cá thể; Các thành phần kinh tế tập
thể, liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài, mỗi loại có khoảng 2 - 3% trí thức
làm việc.
+ Phân bố theo ngành nghề: Lãnh đạo trong các ngành, các cấp: Tiến
sĩ khoa học chiếm 19,82%; Tiến sĩ: 21,15%; Thạc sĩ: 11,88%; Cử nhân/kỹ
sư: 10,9%; cao đẳng: 4,75%.
- Phân bố theo vùng kinh tế: Với trình độ tiến sỹ, sự phân bố các tiến
sĩ xét theo vùng rất không đồng đều. Vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng
Đông Nam Bộ đã chiếm tới khoảng 90% số tiến sỹ trong cả nước. Trong 2
vùng này, số lượng các tiến sỹ lại tập trung chủ yếu ở 2 thành phố Hà Nội
(63,82%) và Thành phố Hồ Chí Minh (19,33%). ở 6 vùng còn lại, vùng cao
nhất cũng không có đến 4%. Đặc biệt, tổng số tiến sỹ ở cả 2 vùng Tây Bắc và
Tây Nguyên chưa đạt 1% tổng số tiến sỹ của cả nước. Ta xem bảng sau:
44
Bảng 7: Lao động trí thức phân theo vùng kinh tế - sinh thái
(01/7/2005)
LĐ có trình độ CĐ, ĐH trở lên Vùng kinh tế - sinh thái
Sau ĐH Tỷ lệ ĐH, CĐ Tỷ lệ
(%) (%) (người) ( người)
1. Đồng bằng sông Hồng 23610 - 480470 -
Nữ 5869 24,86 205778 42,83
2. Đông Bắc 1626 - 153100 -
Nữ 538 33,09 64248 41,96
3. Tây Bắc 284 - 30414 -
Nữ 111 39,08 13271 43,63
4. Bắc Trung Bộ 2912 - 144571 -
773 26,55 60636 41,94 Nữ
5. Duyên hải Nam Trung Bộ 2290 124696 - -
Nữ 508 22,18 46761 37,50
6. Tây Nguyên 906 - 57418 -
Nữ 165 18,21 21380 37,24
7. Đông Nam Bộ 9793 - 309674 -
Nữ 2637 26,93 125579 40,55
8. Đồng bằng sông Cửu Long 1835 - 147685 -
Nữ 472 25,72 57131 38,68
Nguồn: [17, tr.40]
Bảng 7 trên cho ta thấy tỷ lệ nữ trí thức trong tổng số trí thức theo các
trình độ đào tạo tương đối đồng đều giữa các vùng kinh tế - sinh thái. Riêng
với trình độ sau ĐH, vùng Tây Bắc có tỷ lệ nữ cao nhất: 33,08% và vùng Tây
Nguyên có tỷ lệ nữ thấp nhất: 18,21%.
45
2.2. Những đóng góp và hạn chế của lao động trí thức nữ Việt Nam
2.2.1. Những đóng góp
Các số liệu nêu trên cho thấy, hiện nay đội ngũ lao động trí thức nữ
hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, bao gồm: lãnh
đạo các cơ quan Đảng, nhà nước, lãnh đạo các công ty, xí nghiệp; cán bộ ở
các cơ quan kinh tế - xã hội như: Kế hoạch, tài chính, kỹ thuật nông lâm ngư
nghiệp, khoa học, giáo dục - đào tạo, văn hoá, nghệ thuật, y tế…
Điều đáng chú ý là lao động nữ trí thức nước ta hiện nay hoạt động ở
nhiều lĩnh vực mà trước đây hầu như chỉ có nam giới tham gia, như tham
chính, luật. kiểm sát, thông tin, bưu chính, khoa học…
. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, với phẩm chất cần cù,
sáng tạo, nhạy bén…, phụ nữ Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, đóng
góp xứng đáng vào sự nghiệp chung của đất nước trên nhiều mặt. Sau đây là
một số mặt nổi bật.
2.2.1.1. Tham gia quản lý, lãnh đạo
Đội ngũ lao động trí thức nữ hiện nay có sự đóng góp to lớn và trực
tiếp vào việc hoạch định, hướng dẫn thực hiện đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước, nhất là các chính sách có liên quan trực tiếp đến sự
nghiệp giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ [34, tr.104].
Trong những năm gần đây, có thể thấy một hiện tượng là lực lượng trí
thức nữ tham gia vào công tác quản lý và lãnh đạo các công ty, các doanh
nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh này đã làm ăn có hiệu qủa tăng lên
rõ rệt. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh khắc nghiệt, nhiều doanh nghiệp,
đơn vị kinh tế làm ăn thua lỗ và phá sản, nhưng đã có không ít doanh nghiệp
do phụ nữ lãnh đạo như ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và ở một số nơi
khác (Hải Phòng, Quảng Ninh, Cần Thơ…) chẳng những đứng vững mà có
nơi, có mặt còn phát triển nhanh. Nét nổi bật ở các cơ sở này là sản xuất và
kinh doanh đã có hiệu quả, từ đó đời sống người lao động được nâng cao,
góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia. Đồng thời, các cơ sở này còn tham
gia tích cực vào các hoạt động xã hội, từ thiện. Có thể kể ra các doanh nghiệp
do “phái yếu” lãnh đạo nhưng đã thành công, như công ty liên doanh Bia
46
Đông - Nam Á, Dệt 8 - 3, Bánh kẹo Hải Hà, Dệt 10 - 10, Du lịch Hà Nội,
đoàn xiếc Trung ương, công ty lương thực Sông Hồng, dệt Phong Phú, nông
trường Sông Hậu…
Hiện nay trí thức nữ tham gia vào công tác quản lý doanh nghiệp khá
nhiều. Chúng ta có bảng sau:
Bảng 8: Tỷ lệ nữ trí thức là lãnh đạo doanh nghiệp.
Tổng giám đốc các tổng công ty 91 5%
Phó tổng giám đốc 9,7%
Đối với các tổng công ty 90
Chủ tịch hội đồng quản trị 1,7%
Tổng giám đốc 2,9%
Phó tổng giám đốc 1,4%
Nguồn: Thực trạng công tác cán bộ nữ Bài phát biểu của Nguyễn Thị
Kim Liên, phó chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tại hội thảo “Bình
đẳng giới và tuổi nghỉ hưu của lao động nữ”, TP Vũng Tàu, 12 - 2003.
Hiện tượng trên đã khẳng định rằng không chỉ các ngành như giáo dục,
y tế… mới phù hợp với phụ nữ - như trước đây ta thường quan niệm, mà cả
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh mang tính chất công nghiệp và hiện đại,
nơi mà môi trường cạnh tranh diễn ra quyết liệt, chị em vấn hoàn thành tốt
chức năng điều hành quản lý. Điều đó chứng tỏ trong lĩnh vực mới này phụ
nữ hoàn toàn có khả năng và có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
2.2.1.2. Những đóng góp trong phát triển khoa học và công nghệ.
Hiện nay, theo thống kê của Tổng cục Thống kê (bảng 2 ở trên), với
hơn 40% trong tổng số cán bộ có trình độ ĐH và CĐ trở lên của cả nước, đội
ngũ trí thức nữ được đào tạo ở nhiều ngành khoa học khác nhau và đang
công tác ở hầu hết các lĩnh vực khoa học, nơi đòi hỏi khả năng tư duy cao
như công nghệ, kỹ thuật, tự nhiên…
Trong thời gian qua, các hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ trí
thức nữ nước ta có bước phát triển mới, mặc dù so với trí thức nam, tỷ lệ
47
tham gia có thấp hơn. Theo kết quả điều tra của đề tài “Đổi mới chính sách
đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước”. Mã số ĐTĐL - 2003/27, Hà Nội, 2006, về các hoạt động
nghiên cứu KH&CN ở các trường ĐH và cơ quan nghiên cứu khoa học vào
năm 2005 như sau:
Bảng 9: Hoạt động NCKH tại trường ĐH và cơ quan NCKH theo giới tính.
Hoạt động( đơn vị %) Nam Nữ Chung
1 - Chủ nhiệm đề tài, chương trình câp cơ sở 42.5 39.2 41.4
2 - Chủ nhiệm viết bài cho báo, tạp chí khoa học 46.7 35.1 42.9
3 - Tham gia đề tài, chương trình câp Bộ 30.3 33.1 31.3
4 - Chủ nhiệm viết sách giáo khoa, giáo trình, bài 40.2 28.4 36.3 giảng
5 - Tham gia đề tài, chương trình câp cơ sở 19.5 25.2 21.4
6 - Chủ nhiệm đề tài, chương trình câp Bộ 34.5 19.6 29.6
7 - Tham gia viết bài cho báo, tạp chí khoa học 18.3 19.1 18.6
8 - Tham gia đề tài, chương trình câp nhà nước 17.9 15.8 17.2
9 - Tham gia viết sách giáo khoa, giáo trình, bài 14.2 15.8 14.7 giảng
10 - Chủ nhiệm dịch sách báo, tài liệu khoa học 13.6 13.1 13.4
11 - Chủ nhiệm hướng dẫn Thạc sĩ, Tiến sĩ 23.7 12.8 20.1
12 - Tham gia nghiên cứu xây dựng đề án, dự án 15.6 11.9 14.4
13 - Tham gia triển khai đề án, dự án 12.9 11.9 12.6
14 - Tham gia dịch sách báo, tài liệu khoa học 8.7 11.7 9.7
15 - Chủ nhiệm phản biện các luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ 23.5 10.8 19.3
Nguồn: [17, tr.79]
Bảng trên cho thấy ở tất cả các hoạt động nghiên cứu, trí thức nữ đều có
tham gia. Tuy nhiên, ở hầu hết các hoạt động, tỷ lệ tham gia ở trí thức nữ ít
48
hơn ở nam. Có thể kể ra nhiều gương sáng về việc đi sâu tìm tòi, sáng tạo và
vận dụng các kiến thức, công nghệ hiện đại, tiên tiến vào việc chế tạo ra các
sản phẩm phục vụ thực tiễn của trí thức nữ nước ta. Sau đây là một ví dụ về
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Toàn, viện Khoa học Vật liệu (Hà Nội), với sản phẩm
máy đo nồng độ cồn trong hơi thở.
(VietNamNet): Từ cuối năm 2004 đến nay, trên cơ sở ứng dụng công
nghệ nano, PGS.TS Nguyễn Ngọc Toàn cùng cộng sự thuộc Viện Khoa học
Vật liệu (Hà Nội) đã chế tạo thành công máy đo nồng độ cồn trong hơi thở.
Máy nằm gọn trong lòng bàn tay, nặng chừng 500g nên rất thuận tiện để
Sắp tới, TS Toàn dự định cải tiến máy đo
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Toàn, Trưởng
phòng thí nghiệm công nghệ và vật lý màng
để có thể kết nối với máy tính, tải thông tin từ máy để lưu trữ.
mỏng, với máy đo nồng độ cồn NPO - 2005.
Con chip cảm biến: màng mỏng (màu da cam) được đặt trên đế gốm hình tròn.
kiểm tra người điều khiển ôtô, xe máy.
Máy NPO - 2005 có thể đo 999 lần, lưu trữ kết quả đo (thời gian đo,
nồng độ hơi cồn và số thứ tự) và cho phép đọc lại kết quả khi cần. Để đảm
bảo vệ sinh, máy sử dụng ống thổi dùng một lần cho mỗi người được kiểm
tra. Chỉ phải nạp điện cho máy sau khoảng 6 giờ làm việc liên tục. Theo TS
49
Toàn, lợi ích của máy chế tạo trong nước là dễ dàng sửa chữa và thay thế linh
kiện khi hỏng. Hiện vẫn chưa thể ước tính được giá thành vì NPO - 2005 mới
được sản xuất có vài chiếc để thử nghiệm. Tuy nhiên, nếu thương mại hoá
thành công sản phẩm này, giá thành sẽ chỉ bằng 70% thiết bị ngoại nhập.
Vẫn với mong mỏi như bao nhà khoa học khác, bà nói: ''Nếu máy đo
này đáp ứng được nhu cầu thị trường, tôi chỉ hy vọng tìm được đối tác để sản
xuất máy'' [33].
2.2.1.3. Những đóng góp trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
Do đặc điểm sinh lý cũng như do phân công xã hội, phụ nữ rất phù hợp
vơi ngành GD&ĐT ở mọi phương diện quản lý, giảng dạy và nghiên cứu
khoa học. Những yêu cầu và đặc trưng của lĩnh vực GD &ĐT không chỉ thức
đẩy phụ nữ trong việc tìm tòi về chuyên môn sư phạm, về khoa học giáo dục,
mà còn đòi hỏi ở họ sự rèn luyện phẩm chất người thầy, để giáo dục, đào tạo
ra những thế hệ trẻ tài năng, có bản lĩnh, góp phần tạo nên nguồn lực quan
trọng nhất cho nền kinh tế đang ở thời kỳ CNH, HĐH. Trong thời gian qua
đội ngũ trí thức nữ trong lĩnh vực GD&ĐT đã phát huy bản chất cần cù, chịu
khó, luôn tìm tòi đổi mới phương pháp giảng dạy, truyền thụ những tri thức
mới cho học sinh, sinh viên.
Để nâng cao chất lượng giảng dạy, công tác tự học, tự vươn lên về
chuyên môn được chị em chú ý. Nhiều giảng viên nữ đã tích cực tham gia
các lớp đào tạo cao học và nghiên cứu sinh. Qua quá trình học tập và nghiên
cứu, chị em được nâng cao trình độ nghề nghiệp và kiến thức chuyên sâu, kỹ
năng, phương pháp sư phạm phục vụ công tác giảng dạy đạt chất lượng cao.
Được đào tạo chuyên sâu có hệ thống, số chị em có trình độ sau ĐH ngày
càng tăng, ngày càng nhiều nữ giảng viên có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ. Qua
tìm hiểu gần 50 trường ĐH và CĐ ở Hà Nội, đã có 358/2.297 tiến sĩ;
938/2.096 thạc sĩ. Ở một số trường tỷ lệ nữ có trình độ sau ĐH khá cao: từ 40
- 50% như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học
Kinh tế quốc dân, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Đại học Giao thông vận
tải. Những trường có tỷ lệ sau ĐH từ 30 - 40% như: Đại học Thương mại,
50
Đại học Kiến trúc, Đại học Xây dựng, Học viện Tài chính kế toán, Đại học
Mỏ địa chất…
Gắn công tác giảng dạy với nghiên cứu khoa học phục vụ thực tiễn
là một nét mới ở nhiều nữ giảng viên ĐH. Với nữ giảng viên, bên cạnh
những trang giáo án còn có những đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, những
bài viết đăng báo và tạp chí, viết tham luận cho hội nghị, hội thảo trong và
ngoài nước, giúp sinh viên làm luận văn khoa học, đò án tốt nghiệp. Một số
chị em đã trở thành những nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi được
nhiều học trò, đồng nghiệp trong và ngoài nước biết đến. Điển hình như PGS.
TS. Nguyễn Thị Trâm - Trường Đại học Nông nghiệp I, suốt đời gắn bó với
công trình khoa học lai tạo ra các giống lúa mới phục vụ cho bà con nông
dân. PGS.TS Nguyễn Thị Chinh Trường Đại học Khoa học tự nhiên (ĐH
Quốc gia Hà Nội), đã áp dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất nấm Linh Chi,
đem lại hiệu quả kinh tế cao. PGS.TS Phạm Thị Thu Hồ - Trường Đại học Y
khoa Hà Nội, ngoài công việc giảng dạy chị còn chủ trì và tham gia đề tài
nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, tham gia viết giáo trình bài giảng, hưỡng
dẫn luận án nghiên cứu sinh, cao học, bác sĩ chuyên khoa và luận án sinh
viên. Có thể thấy rằng những đóng góp hết sức quan trọng của nữ trí thức
trong lĩnh vực GD&ĐT đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả GD&ĐT,
mặt khác nó còn nâng cao vị thế của chính phụ nữ trong nhà trường và xã
hội.
2.2.2. Những hạn chế của đội ngũ lao động trí thức nữ
Trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, đòi hỏi cần phải có
đội ngũ trí thức KH&CN với số lượng đông đảo và chất lượng cao. Trong đội
ngũ này, lực lượng trí thức nữ đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên đội ngũ
trí thức nữ nước ta còn có những hạn chế lớn sau đây.
2.2.2.1. Còn ít về số lượng và có nhiều bất cập về cơ cấu.
- Về số lượng: Trong những năm qua, lực lượng trí thức nữ nước ta
tuy có tăng lên về số lượng và hiện chiếm khoảng hơn 1/3 tổng số trí thức,
nhưng mức tăng như vậy là chậm so với yêu cầu to lớn của nhiệm vụ xây
dựng kinh tế - xã hội trong giai đoạn đổi mới đặt ra.
51
- Về cơ cấu: Lực lượng nữ trí thức có trình độ trên ĐH, là chuyên gia
giỏi có học hàm, học vị cao ở ngành khoa học xã hội và nhân văn, tỷ lệ còn
thấp và thường ở độ tuổi từ 50 trở lên, số dưới 50, 40 tuổi rất ít. Với chính
sách cán bộ nữ nghỉ hưu ở tuổi 55 thì ước tính khoảng 10 năm nữa, khỏng
hơn 70% số cán bộ khoa học nữ đến tuổi nghỉ hưu, trong khi đội ngũ kế cận
trẻ phát triển rất chậm và ít ỏi. Sự mất cân đối về cơ cấu giữa các thế hệ tri
thứ nói chung, trí thức nữ nói riêng đang gây ra những thiếu hụt nghiêm
trọng ảnh hưởng đến tương lai phát triển của lực lượng trí thức nữ nước ta và
là trở ngại lớn cho sự phát triển nguồn lực trí tuệ cần thiết đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Thực tế hiện nay ở một số ngành có nhiều tri thức nữ như ngành
GD&ĐT, ở cấp học càng cao, tỷ lệ nữ càng ít. Trong số hơn 500 tiến sĩ khoa
học, nữ chiếm 5% và lực lượng trí thức đó chủ yếu tập trụng trong các trường
ĐH, các trung tâm, viện nghiên cứu. Điều đó cho thấy mô hình đào tạo trước
đây (theo kiểu hình tháp) càng lên cao càng thu hẹp lại chỉ còn phù hợp với
kiểu tư duy đặc trưng cho nền kinh tế quá khứ. Sự hẫng hụt lớn về nguồn lực
phụ nữ đặc biệt là tri thức nữ không phải đã khắc phục ngay trong một sớm
một chiều.
Điều đáng lo ngại nữa là lực lượng nữ trí thức người dân tộc hiện nay đạt
tỷ lệ rất thấp (chỉ là 1%) và nhiều dân tộc thiểu số chưa có tri thức là phụ nữ.
Ở một số trung tâm khoa học lớn của cả nước, số tri thức nữ có trình
độ cao còn rất hạn chế, chẳng hạn như:
- Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (nay là Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam) tổng số cán bộ nữ chiếm 37,5%, nhưng trong đó
nữ cán bộ có trình độ cao chỉ chiếm 20,4% (GS - 1 người, PGS - 7 người, TS
- 46 người).
- Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia, tỷ lệ cán bộ
nữ chiếm 24,7%, (trong đó có GS - 2 người, PGS - 11 người, TS - 65 người).
- Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi có đội ngũ cán bộ khoa học chiếm
36,2%, trong đó, số có học hàm học vị cao cũng rất khiêm tốn GS chiếm
3,4%, PGS chiếm 7,7%, TS 17%.
52
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là cơ quan lý luận cấp cao
của Đảng và Nhà nước, trung tâm đào tạo cán bộ nghiên cứu lý luận Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với quá trình phát triển 50 năm, có tỷ lệ cán
bộ nữ khoa học là 30%, trong đó chưa ai đạt học hàm GS, chỉ có 1 PGS và
chỉ có trên 30% chị có học vị Tiến sĩ và Thạc sĩ.
2.2.2.2. Chất lượng đội ngũ còn nhiều hạn chế
Qua các con số trên đây cho thấy rõ sự hạn chế về trình độ của trí thức
nữ ở hầu hết các lĩnh vực, kể cả tự nhiên, xã hội, cả trong giảng dạy và
nghiên cứu. Điều đó giải thích rõ vì sao, chất lượng của tri thức nữ lại đang
phát triển với hình tháp xuôi. Với trên 30.000 nữ có trình độ Cao đẳng và Đại
học năm 1999 nhưng không phải ai cũng có cơ hội và điều kiện phát triển để
trở thành những nữ trí thức có học hàm, học vị cao.
Thực tế cũng cho thấy trí thức nữ được đào tạo ở các ngành khoa học
xã hội và nhân văn chiếm tỷ lệ cao hơn so với các ngành khoa học khác,
nhưng trí thức nữ có trình độ cao, các chuyên gia giỏi đầu đàn ở các lĩnh vực
này rất ít, chiếm tỉ lệ thấp, đặc biệt là ngành lý luận.
Mặt khác, có những thực tế chúng ta cần lưu ý, đó là những năm gần
đây, vào biên chế nhà nước không còn là điều hấp dẫn và không phải là mục
tiêu của nhiều sinh viên giỏi. Một số sinh viên có thành tích cao trong học tập
thường muốn đi làm việc cho các công ty nước ngoài, các doanh nghiệp liên
doanh, hay tìm cách tiếp tục được đi đào tạo ở nước ngoài. Ở các cơ quan
khoa học, các đơn vị thuộc nhà nước, không hoặc rất khó thu hút được những
sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, và do vậy thường phải sử dụng không ít sinh
viên có lực học trung bình và kém năng lực. Đây là điều lo lắng cho đội ngũ
trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng trong các cơ quan này.
Như mọi người đã biết, quá trình CNH. HĐH và nhất là khi Việt Nam
đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đòi hỏi nguồn lực con
người với chất lượng cao, có trình độ cao về chuyên môn và ngoại ngữ.
Trong khi đó trí thức nữ hàng năm chỉ được đi đào tạo lại không quá 1% và
chỉ chiếm khoảng 15% trong tổng số những người có trình độ trên ĐH của cả
nước. Ngoài trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ của trí thức nữ cũng
53
còn nhiều hạn chế, nhất là trình độ ngoại ngữ của cán bộ trẻ. Trong số trí
thức tuổi từ 30 trở xuống chỉ có 2,9% biết một ngoại ngữ, 0,7 % biết 2 ngoại
ngữ. Hơn nữa theo đánh giá chung, phần đông chị em biết tiếng Nga (55%);
số chị em biết tiếng Anh, Pháp thông thạo chỉ chiếm 28,5% (xem bảng 10
dưới đây). Như vậy, khả năng sử dụng những ngoại ngữ cần thiết nhất cho
giao tiếp, nghiên cứu giảng dạy ở trí thức nữ là rất hạn chế.
Bảng 10: Tỷ lệ trí thức nữ sử dụng được ngoại ngữ
Độ tuổi
Dưới 30 tuổi 31 - 40 41 - 50 51 - 60 Tỷ lệ sử dụng 1 ngoại ngữ (%) 2,9 15,2 4,6 4,3 Tỷ lệ sử dụng 2 ngoại ngữ (%) 0,7 1,4 1,9 21,9
Nguồn: [3, tr.184] Hạn chế về trình độ sử dụng ngoại ngữ là một trong những cản trở lớn đối với việc tiếp thu tri thức tiên tiến của nhân loại, điều đó cũng gây trở ngại cho việc nâng cao trình độ chuyên môn, giao tiếp… của chị em trong giai đoạn mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra. Như vậy, bên cạnh những đống góp to lớn của đội ngũ lao động trí thức nữ, chúng ta còn thấy ở đội ngũ này những hạn chế cả về mặt số lượng và chất lượng. Ngày nay sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta đang được thực hiện và cùng với thế giới đi vào nền kinh tế trí thức, điều này vừa tạo cho trí thức nữ có nhiều điều kiện để khẳng định mình, vừa đặt ra những yêu cầu, thách thưc mới đòi hỏi họ càng phải cố gắng nỗ lực nhiều hơn để tiến kịp và phát huy khả năng của mình
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển lao động trí thức nữ Mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng là một bộ phận của giới trí thức nên sự phát triển của nữ trí thức gắn liền với những điều kiện của giới trí thức nói chung. Vì vậy, để xem xét những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của trí thức nữ, trước hết , ta xem xét những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển giới trí thức nói chung.
54
2.3.1. Nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế
Nền kinh tế nước ta đã chuyển sang kinh tế thị trường, với những đặc trưng quan trọng là: Sản xuất theo yêu cầu của thị trường về số lượng và chất lượng; các quy luật của kinh tế thị trường đã phát huy tác dụng, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,…
Cùng với các hàng hoá thông thường, sức lao động, sản phẩm khoa
học và công nghệ, các tác phẩm văn hoá nghệ thuật,…đều trở thành hàng
hoá. Ngay cả GD&ĐT, y tế, thể dục thể thao, đều trở thành các ngành dịch
vụ xã hội, nghĩa là sản phẩm của chúng cũng là hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, như Đảng ta đã xác định, là
nền kinh tế thị trượng định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà
nước.
Đặc biệt mới đây (cuối năm 2006, đầu năm 2007), nước ta đã gia nhập
tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây là một sự kiện trọng đại về mặt
kinh tế, nó đánh dấu bước ngoặt lịch sử rằng, nền kinh tế nước ta đã tham gia
vào một “sân chơi” rộng lớn hơn, nhưng cũng vô cùng khắc nghiệt.
Nắm được bối cảnh nêu trên là rất quan trọng về mặt tư duy và phương
pháp luận. Bởi những tiêu chuẩn đánh giá, phương pháp thực hiện các mục
tiêu theo các tiêu chuẩn đó,… nói chung đều phải thay đổi cho phù hợp. Nếu
không như vậy, mục tiêu và hiệu quả công việc không đạt được, mà thậm chí,
kết quả sẽ ngược lại so với mong muốn. Ví dụ, trong lĩnh vực nghiên cứu
KH&CN: Trong đièu kiện hiện nay việc nghiên cứu phải xuất phát từ nhu
cầu của thực tiễn (chứ không phải khi có tiền nghiên cứu mới nghĩ đề tài
nghiên cứu); Việc tổ chức thực hiện nghiên cứu vừa có tính hợp tác, vừa có
tính cạnh tranh. Nếu không có cách thức tổ chức tạo ra sự cạnh tranh giữa
các cá nhân và tổ chức nghiên cứu thì nói chung, không thể có nhiều kết quả
nghiên cứu có chất lượng và hiệu quả. Dĩ nhiên, sự cạnh tranh này phải là
công bằng, lành mạnh.
Bối cảnh nêu trên đây, một mặt sẽ có tác động sâu sắc đến giới trí
thức, mặt khác gợi cho chúng ta nhiều vấn đề trong việc đổi mới tư duy, đổi
mới giải pháp quản lý.
55
2.3.2. Về nhận thức xã hội đối với vai trò của phụ nữ và lao động trí
thức nữ
Theo nhiều dự báo, thế kỷ XXI là thế kỷ của KH&CN, là thế kỷ mà
kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất. Vì vậy, con người phải có trình độ cao về chuyên môn và
ngoại ngữ. Bởi vậy trong sự phát triển kinh tế - xã hội cần có sự nhận thức
đúng đắn, tạo điều kiện thuận lợi cho con người phát triển. Song thực tế cho
thấy đối với lao động trí thức nữ không phải mọi lúc, mọi nơi đều có sự nhận
thức đúng vai trò của họ. Điều đó đã có ảnh hưởng không tốt cho sự phát
triẻn của họ. Có thể nêu ra các biểu hiện cụ thể như sau:
2.3.2.1. Trong xã hội
Những hạn chế về mặt sinh học và những định kiến xã hội về giới đã
có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của lao động nữ trí thức. Điều dễ
nhận thấy là do đặc điểm sinh lý tự nhiên, phụ nữ thường có sức khoẻ cơ bắp
kém hơn nam giới. Phụ nữ còn có thiên chức “ làm vợ, làm mẹ” cho nên tính
cơ động và khả năng di chuyển của họ cũng khó khăn hơn so với nam giới.
Vì vậy trong điều kiện hiện nay, trước những đòi hỏi của cơ chế thị trường,
việc tìm kiếm việc làm phù hợp với chuyên môn, sức khoẻ, với sở trường của
trí thức nữ còn gặp không ít khó khăn. Trong xã hội, các cơ quan, các doanh
nghiệp thích nhận lao động nam hơn lao động nữ. Theo điều tra của viện
Thanh niên, những năm gần đây, mỗi năm có khoảng 1 vạn nữ sinh tốt
nghiệp CĐ và ĐH nhưng số chưa tìm được việc làm đúng với chuyên môn,
phù hợp với sức khoẻ còn rất lớn.
Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội cho hay: Riêng địa bàn Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh cũng có hàng chục nghìn sinh viên chưa đi làm.
Đó là 1 sự lãng phí lớn cho gia đình và xã hội [46, tr.3]. Mặt khác, theo cách
nhìn truyền thống, và trên thực tế, phụ nữ nói chung có chức năng thiên bẩm
là sinh con, nuôi dạy con cái. hoặc coi phụ nữ là phái yếu, nên công việc gia
đình phụ nữ vẫn phải đảm nhiệm là chính. Tìm hiểu việc thực hiện các chức
năng gia đình, số liệu điều tra xã hội học cho thấy, ở ngay nhóm gia đình trí
thức (nhóm được coi là có trình độ cao nhất trong xã hội), công việc nội trợ
56
do người vợ thực hiện chiếm tới 42%, người chồng thực hiện là 5%, cả hai
cùng thực hiện là 53%; về việc nuôi dạy con cái, người vợ thực hiện chiếm
40%, cả hai cùng thực hiện là 39% [3, tr.231]. Qua đó cho thấy công việc gia
đình đã thu hút rất nhiều thời gian, sức lực và trí tuệ của phụ nữ nói chung và
phụ nữ trí thức nói riêng. Họ không còn thời gian đầu tư cho học tập, nghiên
cứu, tham gia công việc khác. Nhiều nhà nghiên cứu về phụ nữ cho rằng sự
thành đạt của nữ thấp hơn nam giới chủ yếu là do gánh nặng gia đình mà phụ
nữ phải đảm nhận. Sự đấu tranh giữa quan niệm cũ và cách nhìn mới, cái tiến
bộ và cái lạc hậu, để giải quyết hài hoà các chức năng gia đình và tham gia
phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề đặt ra đối với phụ nữ nói chung và trí
thức nữ nói riêng. Lao động trí thức nữ và gia đình họ đang đứng những mâu
thuẫn lớn. Đó là mâu thuẫn giữa đòi hỏi có tính cạnh tranh gay gắt của thị
trường lao động với những thực trạng hạn chế về kiến thức, kỹ năng, tay
nghề; giữa nhu cầu phải đảm bảo thực hiện tốt các chức năng trong gia đình,
với bao công việc bộn bề hàng ngày của cuộc sống với việc học tập, nghiên
cứu, nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng nhu cầu lâu dài của công việc. Tất
cả đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đén sự phát triển và phát huy tiềm năng của
chị em. Để khẳng định mình, họ phải có một quyết tâm cao, một sự vươn lên
không ngừng, nhưng rõ ràng họ cần sự hỗ trợ, chia sẻ to lớn và cụ thể của gia
đình, của xã hội.
Điều dễ nhận thấy trên thị trường lao động hiện nay là sức lao động,
trong đó có lao động trí tuệ đang hiện diện như một loại hàng hoá. Loại hàng
hoá đặc biệt này cũng chịu tác động gay gắt của các quy luật của thị trường
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Do vậy, lao
động trí óc, năng lực hoạt động sáng tạo… đang gặp phải sự sàng lọc khắc
nghiệt của cơ chế thị trường. Sự thật ấy buộc trí thức nữ phải gắn bó hơn với
thực tiễn đời sống và sản xuất, phải sớm thích nghi với sự cạnh tranh và sàng
lọc cao, nếu như không muốn tụt hậu, không bị cơ chế thị trường đào thải.
Môi trường cạnh tranh đó thúc đẩy trí thức phải làm việc và học tập thêm,
phải nắm bắt kịp thời những cái mới và nhạy bén trong việc tìm tòi nhu cầu
thị trường, phải năng động, sáng tạo… Để có được những phẩm chất mới đòi
57
hỏi trí thức nữ phải có kiến thức chiều sâu, chiều rộng, kiến thức chuyên
ngành, liên ngành, trình độ ngoại ngữ, sự nhạy cảm và hiểu biết sâu rộng
thực tế, họ phải đi nhiều, học nhiều. Trong khi đó, công việc gia đình vẫn là
trách nhiệm nặng nề của người phụ nữ.
2.3.2.2. Trong gia đình
Hiện nay, mặc dù xã hội đã phát triển cùng với những quan điểm, quan
niệm sống tiến bộ. Song quan điểm, tư tưởng “Trọng nam khinh nữ” của nho
giáo vẫn còn tồn tại, “ăn sâu, bám rễ” trong mỗi gia đình, trong tiềm thức của
nhiều người. Tư tưởng này không ngừng gây ra sự mất cân đối về giới tính
tác động xấu đến sự phát triển xã hội mà còn dẫn tới sự mất cân đối về mặt
cơ cấu xã hội của đội ngũ trí thức, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển cả về mặt số lượng và chất lượng của lao động trí thức nữ.
Tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, tư tưởng không muốn cho con gái có
học vấn cao vẫn đang tồn tại khá rõ và có chiều hướng phát triển ở một số
vùng nông thôn. Mặt khác, việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế (trực tiếp là
việc thực hiện cơ chế khoán sản phẩm, xoá bỏ cơ chế bao cấp trước) đã có
ảnh hưởng tiêu cực đến việc nâng cao học vấn cho con gái, và hậu quả là rất
nhiều học sinh các cấp bỏ học, trong đó các em gái là người chịu thiệt thòi
nhất. Chúng ta quan sát bảng thống kê sau:
Bảng 11: Tỷ lệ học sinh các cấp chia theo giới tính năm 2003 (%)
Cấp học Nữ Nam
Tiểu học 47,52 52,48
Trung học cơ sở 47,50 52,50
Trung học phổ thông 46,70 53,30
ĐH 44,27 55,73
Nguồn: Báo cáo của các tổ chức phi chính phủ về 10 năm thực hiện
Chương trình hành động Bắc Kinh tại Việt Nam, tháng 2 - 2005, tr.11
Như vậy, ngay ở tiểu học, tỷ lệ đi học của các em nữ đã thấp hơn ở các
em nam... Ở bậc học càng cao, tỷ lệ đi học ở các em nữ càng thấp. Ở bậc ĐH,
tỷ lệ này chỉ là 44,27%, thấp hơn tỷ lệ của nam 11,46%.
58
Bảng trên là số liệu tính chung của toàn quốc. Nếu xét riêng theo từng
vùng hoặc theo dân tộc, chắc chắn ở các vùng núi, vùng xa, ở các dân tộc còn
găp khó khăn về kinh tế, tỷ lệ nữ đi học sẽ còn thấp hơn nhiều.
Hiện tượng này đòi hỏi Nhà nước phải có một chính sách mạnh mẽ, rõ
ràng hơn nữa trong giáo dục đào tạo, trong phát triển kinh tế - xã hội đối với
các vùng nông thôn, miền núi và đối với phụ nữ nói chung nhằm khắc phục
dần sự bất bình đẳng về giới trong giáo dục và đào tạo.
Một vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến lao động trí thức nữ là: Trình
độ trên đại học, tỷ lệ nữ có trình độ thạc sĩ là 29,59% và trình độ tiến sĩ chỉ là
16,46% trong tổng số lao động có trình độ tương ứng năm 2002 (xem bảng
2). Đồng thời, cùng với vấn đề số lượng, chất lượng đào tạo từ bậc ĐH đến
trên ĐH đang đặt những yêu cầu cấp bách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng. Ở đây cần nói thêm rằng, chất lượng
đào tạo không chỉ là chất lượng tầm quốc gia, mà là chất lượng khu vực và
thế giới. Điều này đang là một vấn đề lớn đặt ra để phát triển đội ngũ trí thức
nữ nước ta, kịp đáp ứng yêu cầu sự nghiêp CNH, HĐH đất nước.
2.3.2.3. Trong các cơ quan quản lý nhà nước
Trong thực tế cho thấy phụ nữ nước ta tham gia đông đảo vào các lĩnh
vực hoạt động như khoa học, kỹ thuật, văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội.
Song, khi xét kỹ, vẫn có sự phân bố lao động không đồng đều trong nhiều
ngành nghề, lĩnh vực và hoạt động xã hội. Nam giới thường chiếm đa số
trong những ngành và lĩnh vực có thu nhập và địa vị xã hội cao, trong khi
phụ nữ thường làm việc ở những nghề có tiền công thấp, không đòi hỏi tay
nghề cao hay kỹ năng lao động phức tạp. Đặc biệt, trong lĩnh vực “quản lý
nhà nước và bảo đảm xã hội” phụ nữ chỉ chiếm 28% so với nam giới là 72%.
Tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan quyền lực và quản lý nhà nước các cấp được
coi là sự biểu thị năng lực của phụ nữ trên lĩnh vực chính trị. Trong Ban chấp
hành các cấp của Đảng cộng sản Việt Nam, phụ nữ chỉ chiếm trung bình
khoảng 8%, một tỷ lệ thấp so với yêu cầu cũng như mục tiêu phấn đấu (15%)
được nêu ra trong các chủ trương, chính sách của Đảng .
59
Số lượng nữ tham gia trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ngày
càng tăng. Nhưng so với các tỷ lệ đại biểu Quốc hội nữ các khoá trước có
phần thấp hơn (tỷ lệ Đại biểu Quốc hội nữ khoá IV: 29,8%, khoá V: 34,3%,
khoá X; 26,2%, khoá XI: 27,31%). Đặc biệt tỷ lệ nữ là đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp có chiều hướng giảm dần từ cấp tỉnh, thành phố tới các cấp
cơ sở. Số liệu nữ đại biểu Hôị đồng Nhân dân các cấp khoá 1994 - 1999 và
khoá 1999 - 2004 đã cho biết thực tế này. Nhìn chung, phụ nữ tham gia vào
các cơ quan dân cử ít hơn so với nam giới và số lượng phụ nữ giữ các chức
vụ cao trong các cơ quan này lại càng ít (nhiệm kỳ 1994 - 1999 và 1999 -
2004, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân là nữ
chỉ chiếm từ 1,1% đến 9%) [35, tr.8].
Sự tham gia của phụ nữ vào các cấp lãnh đạo chính quyền nhà nước
chưa tương xứng với sự phát triển của đội ngũ lao động nữ. Tỷ lệ phụ nữ
nắm giữ các cương vị lãnh đạo trong bộ máy nhà nước còn quá thấp và nếu
chúng ta so sánh tỷ lệ phụ nữ trong dân cư, trong các lĩnh vực lao động sản
xuất, trong từng địa bàn, doanh nghiệp, cơ quan - những nơi mà phụ nữ đang
hàng ngày hàng giờ sinh sống và lao động, thì tỷ lệ phụ nữ tham gia trong
các cơ quan quản lý còn ở mức thấp.
Nhìn chung, số phụ nữ nắm giữ các cương vị lãnh đạo và quản lý đã ít,
lại không đồng đều giữa các lĩnh vực và ngành nghề. Phụ nữ thường tập
trung vào những linh vực được coi là “nhẹ nhàng” và “có tính phụ nữ”, và
thường cũng chỉ làm cấp phó, giúp việc cho cấp trưởng là nam giới. Chẳng
hạn: ngành GD&ĐT, số cán bộ nữ chiếm trên 70% nhưng có tới 30 tỉnh
thành và cấp bộ chưa có cán bộ nữ ở cương vị lãnh đạo cao. Lãnh đạo cấp vụ
là nữ chỉ chiếm 14,8%, hiệu trưởng trường ĐH chỉ chiếm 5,5%, giám đốc sở
chỉ chiếm 9,8%... Ở cương vị chủ tịch tỉnh/thành phố, chủ tịch huyện/thị xã
và chủ tịch xã/phường là nữ chỉ ở các tỷ lệ tương ứng là 11,6%, 1,8% và
1,3%, trong khi cương vị cấp phó có các tỷ lệ là 11,2%, 8,5% và 2,6% [35,
tr.10]. Ở các ngành kế hoạch và đầu tư, KH&CN, các cơ quan toà án cấp cao
hầu như không có phụ nữ ở vị trí cao…
60
Tóm lại, so với tiềm năng to lớn của lực lượng lao động nữ trong nền
kinh tế quốc dân thì quy mô và mức độ tham gia của phụ nữ vào quá trình
chính trị, quản lý, và lãnh đạo còn rất hạn chế. Điều này thể hiện nhận thức
của xã hội về phụ nữ còn nhiều hạn chế và do vậy, năng lực của phụ nữ chưa
được phát huy đúng với thực tế của nó. Do đó, với những biến động về kinh
tế - xã hội, trước yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước, để tiếp tục sự
nghiệp giải phóng phụ nữ và phát triển lao động trí thức nữ, cần có giải pháp
làm thay đổi nhận thức xã hội đối với vai trò của phụ nữ và trí thức nữ trong
quá trình phát triển.
2.3.3. Về hệ thống chính sách
2.3.3.1. Đánh giá chung
Từ khi đổi mới đến nay, Đảng và Chính phủ đã có rất nhiều chủ
trương, chính sách không ngừng đẩy mạnh công cuộc bình đẳng giới tạo
nhiều cơ hội để phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực hoạt động và khẳng định
tiềm năng to lớn của họ. Chẳng hạn: Nghị quyết 04/NQTW về “đổi mới công
tác vận động phụ nữ trong tình hình mới” ra ngày 12/07/1993; Chỉ thị 37CT -
TW của Ban chấp hành TW Đảng “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ
trong tình hình mới” ra ngày 16/05/1994; Quyết định 82/TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 10/10/1997 đã “Đưa quan điểm bình đẳng giới vào các lĩnh
vực hoạch định chính sách phát triển kinh tế, các chương trình quốc gia của
các ngành, các cấp”; Quyết định 19/2002/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính
phủ ra ngày 28/01/2002 về Phê duyệt chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của
phụ nữ Việt Nam đến 2010… Tuy nhiên có thể thấy rằng, các chính sách
mới ở mức tuyên bố chung, thiếu cụ thể, chưa được thể chế hoá bằng văn
bản của Bộ, ngành. Ví dụ: Chủ trương khuyến khích cán bộ nữ làm khoa học
hay quản lý có năng lực làm việc đến 60 tuổi, hay chủ trương nơi nào có trên
30% nữ phải có một cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ, được tuyên bố từ lâu,
nhưng vẫn chưa hề có văn bản hướng dẫn cách vận dụng. Hoặc có những chủ
trương tuy đã được thể chế hoá bằng văn bản ở các cấp nhưng thiếu kế hoạch
để thực hiện. Chẳng hạn trong chương trình năm 1999 của Bộ GD&ĐT về
việc thực hiện “Kế hoạch hành động quốc gia triển khai thực hiện chiến lược
61
phát triển vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam đến năm 2010” (Số 8887/TCCB) có
đề ra các biện pháp như: Khảo sát, thống kê tình hình cán bộ nữ và xây dựng
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ; thực hiện chỉ tiêu về tỷ lệ cán bộ lãnh
đạo nữ các cấp…, song trên thực tế vẫn chưa được thực hiện. Nhìn chung các
văn bản tuyên bố tuy có tồn tại, song chưa đi vào thực tế được bao nhiêu.
Nhận thức về vấn đề bình đẳng giới vẫn chưa thực sự thấm nhuần trong đội
ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo, nên kết quả là nhiều chính sách vẫn mang tính
“cào bằng”, phụ nữ chưa được quan tâm như một đối tượng cụ thể mà chỉ
được nhìn nhận như một người lao động nói chung, không phân biệt nam nữ,
do đó việc thực hiện các chính sách đạt kết quả chưa cao.
2.3.3.2. Việc thực hiện chính sách đối với trí thức nữ
Để đi sâu đánh giá việc thực hiện các chính sách đối với lao động trí
thức nữ chúng ta có thể xem xét ở một số mặt và lĩnh vực quan trọng là trong
giáo dục - đào tạo và trong quá trình sử dụng trí thức.
* Trong giáo dục - đào tạo.
Là một trong những ngành có đông phụ nữ tham gia nhất (với tỷ lệ
71%), việc ban hành các chính sách về công tác cán bộ nữ trong ngành
GD&ĐT có ý nghĩa rất quan trọng. Theo tinh thần thực hiện Nghị quyết
04/NQ - TW và chỉ thị 37/CT - TW, Bộ GD&ĐT cũng đã ban hành chỉ thị
15/GD - ĐT về việc “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong
ngành GD - ĐT trong tình hình mới”… Các chính sách trong GD&ĐT cũng
còn một số hạn chế. Các chính sách này ngoài những hạn chế chung nêu ở
phần trên còn được biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Một là, chính sách còn thiếu nhạy cảm giới. Theo báo cáo khoa học
đề tài “Thực trạng tham gia của cán bộ giảng dạy nữ vào các hoạt động giảng
dạy, nghiên cứu quản lý trong nhà trường đại học và các giải pháp quản lý
nhằm nâng cao vai trò của họ”, mã số 1999 - 52 – 38, cho thấy: Có một tỷ lệ
đáng kế (38%) người trả lời cho rằng đó là do các chính sách đào tạo, bồi
dưỡng chưa tính đến các đặc điểm tâm sinh lý cũng như các điều kiện đặc thù
khác của nữ giảng viên.
62
Sự khác biệt về giới, về những tác động khác nhau mà một chính sách
có thể mang lại cho phụ nữ và nam giới không được xem xét. Trong thực tế
có thể thấy phụ nữ bị thiệt thòi mất một thời gian dành cho việc sinh và nuôi
con, đặc biệt là trong giai đoạn 25 - 35 tuổi, song điều khác biệt đó không
được tính đến trong chính sách đào tạo - bồi dường. Thật là có lý khi đưa ra
nhận xét: “Việc qui định độ tuổi đào tạo sau ĐH, trên đại học cho nam dưới
40 và nữ dưới 35 là bất hợp lý. Cả nam và nữ đều có mốc tuổi đi học bắt đầu
như nhau, và tuổi bắt đầu nhận công tác như nhau. Độ tuổi 25 - 35 là lúc phụ
nữ phải dành nhiều thời gian và công sức cho thiên chức làm mẹ, làm vợ của
mình. Nếu hạn chế giới hạn tuổi như vậy họ sẽ rất ít cơ hội để học tập tiếp
tục” [36, tr.15]
Như vậy, vấn đề độ tuổi làm mẹ của phụ nữ là một đặc điểm mang tính
khách quan rất đáng để các nhà quản lý, lãnh đạo lưu ý, xem xét đến khi sử
dụng đánh giá cán bộ nữ, cũng như khi hoạch định chính sách về bồi dưỡng,
đào tạo đối với trí thức nữ
Hai là, còn thiếu các chính sách phù hợp trong đào tạo, bồi dưỡng
tiếp tục. Cũng từ kết quả điều tra của một đề tài khoa hoc, có 16% số người
trả lời (trong đó nữ giáo viên chiếm 10% và nam 6%) cho rằng do nhà nước
thiếu các chính sách phù hợp khuyến khích nữ giảng viên tham gia đào tạo -
bồi dưỡng nâng cao trình độ; trong đó kể cả chính sách hỗ trợ kinh phí. Một
tỷ lệ đáng kể người trả lời (26%) cho rằng thiếu các chính sách hỗ trợ kinh
phí là nguyên nhân hạn chế nữ giảng viên học tập nâng cao trình độ [25,
tr.21].
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài khác, cho thấy đối với cán bộ công nhân
viên ở doanh nghiệp, cản trở lớn nhất cho việc học tập là thời gian biểu
không phù hợp, khó sắp xếp để đi học, thì với đối tượng ở các trung tâm
nghiên cứu, trường, viện, khó khăn số một là chi phí cho việc học. Có đến
76,6% những người được hỏi cho biết chi phí học tập có ảnh hưởng đến
quyết định học tiếp hay không của họ. Sở dĩ như vậy là vì đa số những người
đi học sau đại học là trẻ tuổi, chưa có mức lương cao. Trong khi đó, chi phí
cho việc học (gồm học phí, sách vở, tiền đóng góp cho trường…) bình quân
63
cho một người ở cấp sau ĐH là 3 - 4 triệu đồng/năm. Với mức thu nhập hiện
tại của giảng viên, cán bộ nghiên cứu tại các trường, viện sau khi trừ khoản
dành cho việc đảm bảo cuộc sống hàng ngày của gia đình, việc học hành các
con, thì việc bỏ ra khoản chi phí để đi học như trên là một bài toán khó, nếu
không có những thu nhập thêm khác.
Như vậy, có thể thấy rõ rằng nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về trình
độ của một bộ phận nữ trí thức là thiếu chính sách giúp cho trí thức nữ khắc
phục khó khăn trong đào tạo, bồi dưỡng lên trình độ cao hơn. Điều này đã
ảnh hưởng lớn đến chất lượng đội ngũ lao động trí thức nữ, và cũng từ
nguyên nhân này lí giải cho chúng ta thấy vì sao càng ở bậc cao, số nữ trí
thức càng ít.
* Trong sử dụng trí thức
Với quan điểm coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
phát triển, Đảng và Nhà nước ta chẳng những đã rất chú trọng việc bồi
dưỡng, đào tạo đội ngũ trí thức, mà còn chú trọng việc sử dụng có hiệu quả
các tài năng. Song qua tổng kết thực tế, việc xây dựng và thực hiện các chính
sách bồi dưỡng, sử dụng nhân tài cũng còn những hạn chế. Chẳng hạn trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ, Đảng ta đã đánh giá: Chúng ta “chưa phát
huy được khả năng sáng tạo của các tổ chức và các cán bộ khoa học và công
nghệ, chưa chú trọng đúng mức quản lý chuyển giao công nghệ, đổi mới
công nghệ trong sản xuất,… chưa tạo ra được một không khí hoạt động khoa
học và công nghệ sôi động. Cán bộ khoa học công nghệ có trình độ cao còn
ít, song chưa được sử dụng tốt…”, “thiếu chính sách lôi cuốn những nhà
khoa học trên thế giới làm việc cho Việt Nam; tạo điều kiện để trí thức nước
ta được làm việc ở các trung tâm khoa học lớn trên thế giới” [10, tr.84-85].
Việc khả năng sáng tạo của đội ngũ trí thức nước ta thời gian qua chưa
được phát huy, tiềm lực trí tuệ ở nhiều tổ chức và cá nhân chưa được khai
thác đầy đủ là do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân quan trọng
trong sử dụng trí thức là chưa có chính sách sàng lọc,tạo ra động lực (nhất
là chính sách tiền lương) phù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường. Khi
tìm hiểu nguyên nhân chính hạn chế khả năng sáng tạo của đội ngú trí thức,
64
kết quả cuộc điều tra ở các trường ĐH và viện nghiên cứu của Ban Khoa giáo
TW tiến hành năm 2003 (Đề tài độc lập cấp nhà nước) cho thấy: “Nhìn
chung ở các địa phương tham gia khảo sát, đa số ý kiến trả lời tập trung vào
nguyên nhân là chính sách chưa tạo được động lực (về tiền lương) cho trí
thức KH&CN lao vào nghiên cứu :77,3%”
Riêng đối với trí thức nữ, cũng chưa có chính sách ưu tiên cho trí thức
nữ được tham gia nhiều ở những ngành, những công việc phù hợp. Như đã
biết, mỗi ngành nghề, lĩnh vực có những đặc điểm riêng. Vì vậy chính sách
sử dụng lao động trí thức nữ phải tính đến cả những vấn đề như cường độ
làm việc, phân bố thời gian làm việc, đặc thù công việc, chế độ, tiền lương…
Song qua thực tế những vấn đề này chưa được chú ý tới.
Tuổi về hưu của nữ
Một trong những vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay là đội ngũ nữ trí
thức nói chung, trong đó những người có học hàm học vị chưa nhiều và đều
ở độ tuổi khá cao. Đây cũng là thực trạng chung của cả đội ngũ trí thức nước
ta là sự không cân đối về mặt cơ cấu giữa các thế hệ trí thức. Điều này đang
gây nên tình trạng thiếu hụt, không liên tục trong quá trình phát triển đội ngũ
trí thức nữ nước ta. Theo nghiên cứu của ban nữ công, công đoàn viên chức
Việt Nam do TS Bùi Thị An làm chủ nhiệm, trong năm 1996 (khảo sát chủ
yếu tiến hành ở hai trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia và
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia và một số ngành) trong
tổng số chị em có học hàm, học vị được điều tra, dưới 40 tuổi chỉ chiếm 4%,
từ 41 - 50 tuổi chiếm 31.8%, còn lại là trên 50 tuổi. Trong khi đó tuổi nghỉ
hưu nhà nước qui định đối với nữ là 55. Như vậy với những người có tài, còn
đủ sức khoẻ và có nguyện vọng tiếp tục làm việc sẽ không được đóng góp hết
khả năng, mặt khác còn gây ra sự thiếu hụt trí thức nữ nhất là những ngành
nghề phù hợp và cần có sự tham gia của lực lượng lao động này.
Tóm lại, từ sau ngày đổi mới, vai trò của lao động trí thức nữ trong sự
phát triển kinh tế - xã hội đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao, toàn xã
hội đã tạo những điều kiện, môi trường thuận lợi để nữ trí thức có thể phát
huy những phẩm chất quý báu của mình để lao động sáng tạo, vươn lên trên
65
nhiều mặt. Tuy nhiên, lao động trí thức nữ cũng còn gặp phải những khó
khăn mà điều kiện khách quan và chủ quan đã tạo ra, cần phải được khắc
phục. Chỉ có thể giải quyết các vấn đề nêu ra ở trên mới có thể xây dựng
được đội ngũ trí thức nữ phát triển cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước nói chung, sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng.
66
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH CƠ BẢN
NHẰM PHÁT TRIỂN LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC
3.1. Phƣơng hƣớng phát triển lao động trí thức nữ ở nƣớc ta
3.1.1. Bối cảnh phát triển của kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời
gian tới
Hiện nay trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
chủ đạo; toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế vẫn đang được đẩy nhanh;
đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng mở rộng.
Cuộc cách mạng KH&CN, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến cơ cấu và
sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế
tham gia phân công lao động toàn cầu. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
tiếp tục phát triển năng động, hợp tác trong khu vực ngày càng mở rộng tạo
thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố
phức tạp, khó lường; các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với hoạt động
khủng bố quốc tế có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế
giới. Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt
các rào cản trong thương mại với các nước nghèo và đang phát triển. Thị
trường tài chính, tiền tệ và giá cả thế giới còn diễn biến phức tạp. Các vấn đề
mang tính toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn
năng lượng và nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo… sẽ càng trở nên
gay gắt hơn.
CNH, HĐH vì thế đã trở thành một xu hướng tất yêu đối với tất cả các
nước để chuyển được từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp và
trở thành các nước phát triển. CNH, HĐH, theo quan điểm của Đảng ta, là quá
trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
67
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học và công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao.
Việt Nam đi vào CNH, HĐH với những thuận lợi rất cơ bản là đã có
những bài học kinh nghiệm và những thành tựu trên nhiều mặt sau hơn 20
năm đổi mới, nhưng cũng còn nhiều yếu kém, đặc biệt là nền kinh tế đang ở
trình độ phát triển thấp, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh còn yêu, còn tụt hậu khá
xa so với nhiều nước trong khu vực.
Mới đây, Việt Nam đã gia nhập WTO. Điều này tạo ra nhiều cơ hội
lớn, nhưng cũng nhiều thách thức rất nghiệt ngã.
Chính vì thế, quá trình CNH, HĐH đất nước đặt ra những đòi hỏi khách quan về số lượng, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực. Trước hết là yêu cầu về năng lực trí tuệ. Không có trí tuệ, không có tri thức thì không một dân tộc nào, quốc gia nào có thể phát triển và tự khẳng định được. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong thời đại của cuộc cách mạng KH&CN, yếu tố phẩm chất trí tuệ ở người lao động là đặc biệt quan trọng. Họ phải có năng lực sáng tạo, có khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng tạo ra những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; có năng lực thu thập và xử lý thông tin trong điều kiện bùng nổ thông tin; có sự nhạy bén, thích nghi nhanh và làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại; có kỹ năng lao động chuyên môn hoá sâu nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao… Tiếp đến là yêu cầu về trách nhiệm xã hội ở đội ngũ trí thức lao động, nghĩa là phải biết vun đắp những giá trị nhân văn, hướng sự sáng tạo, phát minh của mình phục vụ sự tiến bộ xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, những phẩm chất công bằng, trung thực nhiều khi khó dung hoà với những lợi ích trước mắt của mỗi cá nhân. Chủ nghĩa thực dụng, lối sống ích kỉ đã và đang chi phối không ít đến cuôc sống của trí thức. Trên thực tế, đã có không ít trí thức bất chấp giá trị nhân văn nghề nghiệp để tham gia vào những hoạt động tiêu cực ảnh hưởng đến lợi ích của đất nước. Vì vậy, yêu cầu về chính trị, đạo đức đối với đội ngũ trí thức trong điều kiện nều kinh tế thị trường cần có những điểm nổi bật là: Trung thành với lợi ích của Đảng, của nhân dân, tinh thần yêu nước nồng nàn, được thể hiện ở việc nêu cao tinh
68
thần tự cường dân tộc, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, để “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” khác. Đức tính công bằng và trung thực trong điều kiện hiện nay biểu hiện rõ nhất ở việc giữ vững tính khách quan, tôn trọng sự thật trong nghiên cứu khoa học, nhất là trong khoa học xã hội. Dũng cảm, không sợ uy quyền, không để những ham muốn vật chất lôi kéo, cám dỗ,…
Đối với người lao động trí tuệ trong giai đoạn hiện nay, không những phải có tinh thần hợp tác, mà còn phải có quyết tâm trong cạnh tranh, cạnh tranh lành mạnh, để sáng tạo nên những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, có thể thương mại hoá trong nước và quốc tế.
Để có thể sáng tạo, người trí thức không những cần táo bạo trong tư duy, dũng cảm trong hoạt động nghiên cứu, mà còn cần phải kiên trì hăng say học tập, học tập suốt đời để cập nhật được thông tin mới và xử lý chúng với bản lĩnh vững vàng về chính trị, với cách nhìn toàn diện, tầm nhìn xa, vì sự phát triển bền vững của thế hệ hôm nay và mai sau.
3.1.2. Quan điểm, phương hướng xây dựng đội ngũ trí thức nữ Để phát triển đội ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng, cần hiểu đúng và nắm vững những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã nêu ra đối với KH&CN cũng như đối với trí thức nói chung sau đây.
3.1.2.1. Những quan điểm phát triển đội ngũ trí thức nói chung Để thực hiện những mục tiêu trong chính sách đối với trí thức do Hội nghi lần thứ 6 BCH TƯ Đảng khoá IX nêu ra là “...Tạo động lực phát huy mạnh mẽ năng lực nội sinh, giải phóng sức sáng tạo, nâng chất lượng, hiệu quả của hoạt động KH&CN, làm KH&CN thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, cần nhắc lại những quan điểm mà Nghị quyết 02 - NQ/HNTW về khoa học và công nghệ đã nêu:
(1). KH&CN là quốc sách hàng đầu; là động lực phát triển kinh tế - xã
hội;
(2). KH&CN là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp; là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng;
(3). KH&CN là sự nghiệp cách mạng của toàn dân;
69
(4). Phát huy năng lực nội sinh kết hợp với tiếp thu thành tựu khoa học
và công nghệ thế giới;
(5). Gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, bảo đảm phát
triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững.
Cùng với những quan điểm cơ bản trên, từ những lý luận và thực tế trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi, vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN cần phải được coi là một quan điểm mang tính chiến lược trong phát triển KH&CN, cũng như trong chính sách đối với trí thức KH&CN.
Đây là một vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế nước ta, trong lĩnh vực KH&CN, lĩnh vực đào tạo đã có thị trường và các thị trường này đang hoạt động, tuy ở mức sơ khai. Vấn đề là tìm hiểu, chấp nhận nó, tìm ra cách thức quản lý hợp quy luật và giữ vững tính định hướng XHCN, thì hoạt động của các thị trường này chẳng những không làm tha hoá, mà ngược lại, sẽ là điều kiện và động lực phát triển đội ngũ trí thức, đáp ứng được yêu cầu mới của kinh tế xã hội.
3.1.2.2. Những quan điểm phát triển đội ngũ nữ trí thức Đối với phụ nữ nói chung, trí thức nữ nói riêng, ngay từ những năm 30 của thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đưa ra tư tưởng “nam nữ bình quyền” và coi việc thực hiện tư tưởng đó là một trong 10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và các hiến pháp tiếp theo đã khẳng định “Phụ nữ bình đẳng với nam giới về mọi phương diện”.
Hướng tới sự bình đẳng về giới không chỉ là việc quan tâm về số lượng phụ nữ nắm giữ các vị trí đưa ra quyết định - mặc dù đó là một chỉ báo quan trọng, mà còn phải đảm bảo sao cho các hoạt động và các định hướng phát triển phản ánh được cách nhìn và mối quan hệ của phụ nữ. Nghĩa là phụ nữ không chỉ cần được “chia đều bánh”, mà cần được tham gia “làm bánh”.
Sự tiến bộ về giới chỉ đạt được khi sự bình đẳng nam - nữ trong xã hội ngày càng được nâng lên về địa vị kinh tế, xã hội, về cơ hội tiếp cận các nguồn lực và dịch vụ công cộng, cũng như đảm bảo để phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội.
70
Sự bình đẳng về giới không phải là vấn đề của riêng phụ nữ, đó là vấn đề của toàn xã hội, và đây không chỉ nhằm để đạt được các chỉ số về mặt kỹ thuật, mà đó là một tiến trình chính trị.
Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thực hiện tăng cường vấn đề giới, thể hiện ở nhận thức, ở các giải pháp khác nhau, đặc biệt thể hiện ở hệ thống pháp luật, chính sách nhằm hình thành và phát triển các giá trị văn hoá, các tập quán xã hội tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển.
3.1.2.3. Phương hướng phát triển đội ngũ trí thức nữ Cùng với sự phát triển đội ngũ trí thức nói chung, đội ngũ trí thức nữ nước ta cần phải được phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu.
Cùng với việc giữ vững tỷ lệ nữ trí thức tốt nghiệp ĐH, cần chú ý nâng nhanh tỷ lệ nữ trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ. Vấn đề chất lượng của đội ngũ cần được đặc biệt chú ý để có thể thực hiện tốt hơn các chức năng xã hội của trí thức.
3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển lao động trí thức nữ trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình đẳng
nam nữ
Tuyên truyền, giáo dục trong xã hội những vấn đề về giới bằng các phương tiện khác nhau nhằm thay đổi quan niệm cũ, hình thành và phát triển quan niệm mới về bình đẳng nam nữ trong xã hội là công việc cần được làm liên tục, ở mọi cấp, mọi môi trường có thể.
Nội dung công tác tuyên truyền không những chỉ là nội dung của quan niệm về sự bình đẳng nam - nữ, mà còn là các văn bản, chính sách của Đảng, nhà nước có liên quan; các biểu hiện cụ thể về sự bình đẳng và bất bình đẳng đang diễn ra trên thực tế,… Đối tượng công tác tuyên truyền không chỉ là phụ nữ, mà là cả nam và nữ, từ lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước, đến người dân bình thường.
Cần thông qua các phương tiện truyền thông khác nhau, trước hết là các phương tiện thông tin đại chúng. Công tác tuyên truyền cũng cần được thực hiện ngay tại các diễn đàn của Đảng, nhà nước, các đoàn thể quần chúng.
71
Kết quả công tác tuyên truyền không chỉ được đánh giá bởi các cam
kết mang tính tuyên bố, mà cần được đánh giá bởi kết quả của việc lồng ghép
quan điểm giới vào các kế hoạch phát triển các lĩnh vực khác nhau như giáo
dục và đào tạo, lao động, xoá đói giảm nghèo, vay vốn,…
3.2.2. Phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới tập trung vào việc hoạch định và
hiện thực hoá chiến lược con người, xem đó như một chiến lược bao trùm,
chiến lược của mọi chiến lược. Nét đặc trưng nổi bật của chiến lược con
người trong giai đoạn văn minh trí tuệ là xác định vai trò quan trọng hàng
đầu của GD&ĐT, coi GD&ĐT là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng
nguồn lực con người. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới coi việc phát triển
GD&ĐT là quốc sách hàng đầu.
Ở nước ta, để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, Đảng ta
cũng đã khẳng định “Cùng với KH&CN, GD&ĐT phải là quốc sách hàng
đầu”.
Trong Chiến lược phát triển GD&ĐT đến năm 2010 của Nhà nước đã
đưa ra ba mục tiêu lớn là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, trong đó, mục tiêu nâng cao dân trí có vai trò cơ sở cho các mục tiêu
khác. Đội ngũ nhân lực với trình độ cao, nhiều tài năng trên các lĩnh vực chỉ
có thể hình thành, nảy nở và phát triển trên một nền tảng dân trí cao, trong đó
có phụ nữ với 50% dân số. Hơn nữa, việc nâng cao trình độ dân trí cho phụ
nữ còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra điều kiện để nâng cao chất
lượng giống nòi Vịêt Nam.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, trước mắt cần phấn đấu đạt các chỉ tiêu
được nêu trong “Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam” đã
được Chính phủ phê duyệt là: Cùng với việc phấn đấu xoá mù chữ cho phụ
nữ ở độ tuổi từ 15 - 35, việc nâng tỷ lệ học sinh nữ ở phổ thông trung học cơ
sở và trung học phổ thông tương đương như học sinh nam.
Muốn thực hiện được mục tiêu trên, cần thực hiện tốt các biện pháp
chủ yếu sau:
72
3.2.2.1. Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở một
cách bền vững
Mặc dù chúng ta đã tuyên bố hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học từ
lâu và đang tiến tới phổ cập trung học cơ sở, nhưng hiện tượng mù chữ và tái
mù chữ vẫn diễn ra trên thực tế. Vì vậy, cần đảm bảo tất cả trẻ em trong độ
tuổi từ 6 - 14 được đi học, kể cả nam và nữ, thực hiện Luật Giáo dục đã nêu:
Giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở là các cấp học phổ cập. Nhà
nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều kiện để thực
hiện phổ cập giáo dục trong cả nước; Mọi công dân trong độ tuổi quy định có
nghĩa vụ học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập (Điều 11, Luật Giáo dục
năm 2005).
Khắc phục tình trạng trẻ em gái bỏ học, đặc biệt là đối với trẻ em
nghèo, trẻ em là con đồng bào các dân tộc thiểu số.
3.2.2.2. Đưa quan điểm giới vào chương trình giáo dục ở các cấp học,
và tạo ra những cơ hội, điều kiện thuận lợi cho nữ sinh phát triển, thu hút và
khuyến khích nữ sinh đi học và học lên cao.
3.2.2.3. Đầu tư thoả đáng cho chương trình xoá mù chữ và các hoạt
động tiếp theo để hạn chế việc tái mù chữ. Có chương trình xoá mù chữ đặc
biệt, phù hợp với nhu cầu của các đối tượng phụ nữ trên cơ sở hiểu biết được
những điều kiện cụ thể của người phụ nữ.
3.2.2.4. Để hỗ trợ cho các biện pháp nêu trên có hiệu quả, điều quan
trọng mà chúng ta phải làm tốt hơn là công tác tuyên truyền, giáo dục nâng
cao nhận thức về vai trò của học vấn đối với phụ nữ, trước hết là cho phụ nữ
và sau đó cho toàn xã hội; nghĩa là làm cho mọi người hiểu rõ lợi ích của
việc nâng cao học vấn cho người phụ nữ.
Nâng cao nhận thức cho mọi người (cho cả nam giới và nữ giới) về lợi
ích của việc học hành của phụ nữ hiện nay là việc làm cấp bách và quan
trọng. Các phương tiện thông tin đại chúng cần tuyên truyền sâu rộng quan
điểm đúng đắn về phụ nữ của Đảng và Nhà nước, những chính sách hiện
hành liên quan đến phụ nữ, đặc biệt là chính sách đào tạo, đồng thời tạo ra
73
một dư luận xã hội rộng rãi ủng hộ việc đi học và nâng cao không ngừng kiến
thức ở phụ nữ.
3.2.3. Có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ đội ngũ trí thức nữ
3.2.3.1. Đổi mới chính sách đào tạo đội ngũ trí thức nữ
Như đã biết, đội ngũ kế cận của trí thức nữ là đội ngũ nữ sinh viên.
Theo Chiến lược phát triển giáo dục của nước ta giai đoạn 2001 -
2010, để tăng cường lực lượng trí thức nói chung, các chỉ tiêu số lượng đặt ra
là: Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000 - 2001 lên 200
vào năm 2010; tăng quy mô đào tạo thạc sỹ từ 11.727 học viên năm 2000 lên
38.000, nghiên cứu sinh từ 3870 năm 2000 lên 15.000 vào năm 2010. Nếu
với tỷ lệ nam nữ trong đào tạo được giữ vững như những năm gần đây, chúng
ta tin rằng đội ngũ trí thức nước ta vào năm 2010 khá đông đảo, trong đó có
trí thức nữ. Tuy nhiên ở đây có 2 vấn đề cần chú ý:
- Thứ nhất, cần có biện pháp nâng nhanh tỷ lệ nữ được đào tạo trình độ
thạc sỹ và tiến sỹ.
- Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ trí thức nói chung, trí
thức nữ nói riêng.
Vấn đề thứ nhất sẽ được nói rõ ở giải pháp tiếp theo. Ở đây đi sâu vấn
thứ hai về chất lượng đào tạo ĐH và sau ĐH.
Mấy năm gần đây (chủ yếu từ 1994 đến nay) số nữ sinh viên tăng
nhanh về số lượng, nhưng chất lượng cần phải được quan tâm rất nhiều.
Chất lượng đào tạo là một khái niệm rộng và được thể hiện ở nhiều
mặt, nhiều khía cạnh khác nhau trong quá trình đào tạo và nhất là trong quá
trình làm việc sau khi ra trường. Thực tế trong những năm gần đây cho thấy,
các cơ quan sử dụng nhân lực yêu cầu chất lượng của các sinh viên ra trường
là rất toàn diện. Chất lượng cán bộ phải bao gồm các mặt:
- Về tư tưởng, chính trị;
- Về chuyên môn, nghề nghiệp;
- Về đạo đức, phong cách;
- Về sức khoẻ;
74
- Về văn hoá, thẩm mĩ.
Không nên nghĩ rằng trong điều kiện nền kinh té thị trường, các cơ
quan, doanh nghiệp chỉ yêu cầu cán bộ của mình có chuyên môn giỏi là
được. Thực ra, để đạt được hiệu suất công tác, hiệu quả kinh tế cao, họ yêu
cầu cán bộ chẳng những chỉ về chuyên môn giỏi mà còn phải có cả văn hoá
thẩm mĩ, chẳng hạn như văn hoá ứng xử với khách hàng, văn hoá doanh
nghiệp.
Một khía cạnh khác của công tác đào tạo phải quan tâm là hiệu quả
đào tạo. Hiệu quả ở đây là hiệu quả ngoài của quá trình đào tạo, tức là mức
độ đáp ứng của kết quả đào tạo so với nhu cầu của kinh tế xã hội về số lượng,
chất lượng và cơ cấu ngành nghề. Một trong các tiêu chí phản ánh hiệu quả
đào tạo (hiệu quả ngoài) là mức độ tiếp nhận sinh viên tốt nghiệp sau khi ra
trường.
Để đảm bảo được hiệu quả đào tạo, cần phải tìm hiểu và nắm được nhu
cầu đào tạo thực tế của các doanh nghiệp, các ngành,… trong từng thời kỳ.
Điều đó có nghĩa là kế hoạch đào tạo phải căn cứ vào nhu cầu của kinh tế -
xã hội, chứ không phải đào tạo theo năng lực, theo cái đang có của nhà
trường. Để làm được yêu cầu trên, hoạt động “Maketting” của nhà trường, và
đặc biệt là công tác dự báo ở tầm vĩ mô của Chính phủ có vai trò đặc biệt
quan trọng.
Để đào tạo ra một lớp trí thức nữ trẻ có chất lượng cao, số lượng và cơ
cấu đảm bảo đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, chúng tôi thấy cần thực hiện các
biện pháp cụ thể sau:
- Thứ nhất: Khuyến khích các nữ sinh thi vào các trường ĐH, có
chính sách ưu tiên cho nữ sinh ở các vùng nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu
số trong việc tuyển sinh; cấp học bổng, hỗ trợ cho nữ sinh học giỏi nhằm đào
tạo ra một đội ngũ trí thức nữ có chất lượng; tăng cường hơn việc đào tạo trí
thức nữ cho các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc để khắc phục tình
trạng thiếu hụt trí thức nữ ở nhiều vùng quan trọng như hiện nay.
- Thứ hai: Khuyến khích nữ sinh thi vào các trường ĐH thuộc các lĩnh
vực hợp với sở trường của nữ như Sư phạm, Y, Dược… Mặt khác, khích lệ,
75
động viên nữ sinh thi vào các lĩnh vực khoa học mới, khoa học ứng dụng,
khoa học đòi hỏi tư duy trừu tượng nhằm phát huy khả năng của phụ nữ ở
các lĩnh vực đó. Từ đó tạo điều kiện mở rộng lĩnh vực việc làm cho nữ sinh
viên sau khi tốt nghiệp. Đồng thời phải trang bị cho sinh viên nói chung, nữ
sinh viên nói riêng những kiến thức về các mặt để có đủ phẩm chất, năng lực,
lòng tự tin bước vào cuộc sống, tham gia vào các lĩnh vực chính trị, quản lý,
kinh doanh,… Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng thực hiện
mục tiêu và chương trình hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đã được các
quốc gia cam kết tại Hội nghị thế giới lần thứ 4 của Liên Hợp Quốc về phụ
nữ tại Bắc Kinh, tháng 9/1995, trong đó, đảm bảo rằng trong tương lai các
quốc gia phải đạt được không ít hơn 30% phụ nữ ở cương vị hoạch định và
quyết định các chính sách, chủ trương (quản lý, lãnh đạo).
Trong điều kiện hiện nay, việc đánh giá công tác đào tạo không chỉ là
số lượng bao nhiêu người đã được đào tạo, mà cần phải thêm các chỉ số đánh
giá chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Các trường ĐH cần tiếp tục đổi mới nội dung chương trình cho sát với
yêu cầu của thị trường lao động xã hội. Quan tâm đặc biệt đến việc nhận xét,
đánh giá của dư luận trên thị trường lao động để có hướng điều chỉnh nội
dung, chương trình, phương pháp đào tạo và các biện pháp tổ chức quản lý
giáo dục cho thích hợp. Chỉ có làm như vậy thì ngành giáo dục, đào tạo mới
gắn việc đào tạo với sử dụng và mới đáp ứng được nhu cầu giải quyết việc
làm cho nữ sinh viên sau khi ra trường.
Cùng với những kiến thức cơ bản trang bị cho một trí thức tương lai,
nhà trường cần phải trang bị cho nữ sinh viên những kiến thức về tình yêu,
hôn nhân, gia đình, nuôi dạy con cái, nữ công gia chánh, đức hạnh, … để nữ
sinh viên thực hiện tốt chức năng gia đình và xã hội sau này.
- Thứ ba: Việc thành lập các quỹ hỗ trợ tài năng trẻ cho nữ sinh viên
là việc làm cần được khuyến khích mở rộng nhằm thu hút sự tài trợ, đóng góp
của các tổ chức, cá nhân vì hiền tài của đất nước và vì sự phát triển của phụ
nữ. Đồng thời, việc làm này tạo ra động lực thúc đẩy, giúp đỡ nữ sinh viên có
76
ý chí vươn lên trong hoc tập, nhất là nữ sinh viên thuộc diện con nhà nghèo
có tinh thần vượt khó.
- Thứ tư: Đa dạng hoá các hình thức học tập và các loại hình trường
đại học, cũng tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập liên tục, nâng cao
không ngừng trình độ của mình. Việc mở các nhánh về các tỉnh hay khu vực
để giảm bớt khó khăn đi lại và chi phí tốn kém trong thời gian học cho người
học cũng sẽ thu hút và tạo thêm điều kiện cho nữ sinh hay phụ nữ ở các vùng
nông thôn, vùng xa có cơ may đi học.
3.2.3.2. Cần có chính sách đặc biệt ưu tiên đào tạo trên ĐH cho phụ nữ
Như trong chương 2, phần thực trạng đã nêu, ở trình độ thạc sỹ, tiến
sỹ, tỷ lệ nữ so với nam rất thấp. Nguyên nhân của thực trạng này, như đã
phân tích, là do trong thời kỳ 30 - 45 tuổi, phụ nữ còn sinh con và chăm sóc
con cái. Vì vậy, để giúp cho phụ nữ có cơ hội nâng cao trình độ như nam giới
ở các trình độ sau ĐH, có thể áp dụng các giải pháp:
- Trước hết về độ tuổi đào tạo sau ĐH khi sử dụng ngân sách nhà
nước: Không nên có quy định quá khắt khe về độ tuổi đối với phụ nữ trong
đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ. Họ có thể nhiều hơn 5 tuổi so với nam giới khi
được cử đi đào tạo, vì khoảng thời gian tốt nhất cho việc học lên cao lại phải
bận bịu việc gia đình, sinh đẻ. Dĩ nhiên, những người được tuyển đi học
(bằng các nguồn kinh phí khác nhau) đều phải đảm bảo chất lượng.
- Riêng về kinh phí: Cần thành lập Quỹ hỗ trợ cho việc đào tạo tài năng
nữ. Hiện ở Việt Nam có giải thưởng Covalepscaia dành cho nữ trí thức
KH&CN, nhưng đó là giải thưởng dành cho những người có thành tích
nghiên cứu sáng tạo (người đã có công trình và kết quả nghiên cứu). Còn
những nữ trí thức trẻ, có năng lực nhưng chưa được đào tạo, rất cần có một
Quỹ riêng dành cho việc đạo tạo họ ở bậc học cao. Ví dụ như Quỹ Tưởng
nhớ Magaret McNamara, do Ngân hàng thế giới lập ra để hỗ trợ phụ nữ từ
các nước đang phát triển đến theo học bậc tiến sỹ tại Hoa Kỳ. Hàng năm,
Quỹ xét trao học bổng cho 5 - 6 phụ nữ, trị giá 11.000 USD/suất. Khánh Vân
của Việt Nam vừa được mời đến Washington để nhận học bổng này.
77
3.2.4. Có chính sách phù hợp trong sử dụng nữ trí thức
Từ thực tế có thể đưa ra các giải pháp cụ thể sau:
3.2.4.1. Cần bố trí những công việc phù hợp với nữ trí thức.
Điều này sẽ giúp cho nữ trí thức phát huy được tiềm năng của họ.Cũng
từ đề tài đã nêu [18] , những công việc phù hợp với nữ là:
- Đối với ngành kỹ thuật - tự nhiên, công việc phù hợp với nữ là giảng
dạy, thí nghiệm, nghiên cứu, phân tích, thiết kế, đồ hoạ, thống kê về kỹ thuật,
kiểm tra,... Các công việc này đòi hỏi tính tỷ mỷ, kiên nhẫn, khéo tay, chính
xác, thận trọng nhưng vẫn phải sáng tạo. Với công tác nghiên cứu, nữ thiên
về nghiên cứu tại bàn, ít đi xa, ít đến công trường,... Những công việc không
phù hợp với nữ là công việc mua bán trang thiết bị công nghiệp, tham gia các
dự án/ hợp đồng sản xuất, trực tiếp sản xuất chế tạo, thi công, lắp đặt, sửa
chữa bảo trì, khảo sát thực địa, chào hàng sản phẩm công nghiệp,...
- Đối với nhóm ngành kinh tế - xã hội - nhân văn, hầu hết các công
việc đều phù hợp với nữ, như giảng dạy, nghiên cứu, văn phòng, tài chính, kế
toán, dịch thụât, hướng dẫn du lịch, tiếp thị, bán hàng, thống kê,...
- Trong y - dược, các công việc phù hợp là xét nghiệm, siêu âm, nội
soi, nội nhi, sản, giảng dạy, thí nghiệm, pha chế, trình dược viên,... Một số
công việc được coi là không phù hợp với nữ như chụp X quang, ngoại khoa.
3.2.4.2. Trong trường hợp nữ trí thức đang nuôi con nhỏ, có thể làm
việc theo cách khoán công việc, không nên theo giờ hành chính
Hiện nay nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, trường ĐH đã áp dụng
phương thức quản lý cán bộ theo cách này. Với các cơ quan, doanh nghiệp
khác, nếu có thể, nhất là với các công việc nghiệp vụ, ít tiếp xúc với khách
hàng, nên bố trí công việc và thực hiện khoán theo số lượng và chất lượng
công việc. Trong điều kiện thông tin hiện đại như hiện nay (qua e - mail, điện
thoại,…) phương thức làm việc này là hoàn toàn khả thi. Với phương thức
này, người nữ trí thức có thể vừa làm việc, vừa chăm con của mình.
78
3.2.4.3. Cần tạo được môi trường làm việc thuận lợi cho trí thức nữ
Để các nhà khoa học, công nghệ, tich cực trong sáng tạo, cống hiến,
cần. tạo điều kiện làm việc cần thiết cho các nhà trí thức nữ như cung cấp
thông tin, trang bị phương tiện thí nghiệm, các cơ sở triển khai. Tạo cơ chế
thuận lợi cho việc ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn Mặt
khác, cần giải quyết thoả đáng lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích
kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội cho các nhà nghiên cứu, sáng chế, phát
minh, ứng dụng có hiệu quả khoa học, công nghệ. Phải coi lao động của trí
thức là lao động trí óc, sáng tạo. Do vậy, sản phẩm trí tuệ trước hết phải là sở
hữu của người tạo ra chúng, được coi như hàng hoá đặc biệt, cần tạo lập thị
trường để sản phẩm đó được lưu thông và được trả giá tương xứng với giá trị
của chúng. Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, quản lý, tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động sáng tạo của trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng và
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của họ, tạo ra bầu không khí dân chủ, tự do trong
hoạt động, sáng tạo… Chỉ có như vậy mới toàn dụng và khai thác có hiệu
quả lao động trí tuệ của đội ngũ trí thức nữ.
3.2.4.4. Chú ý bồi dưỡng nữ trí thức đưa vào vị trí quản lý, lãnh đạo
Xét dưới góc độ Giới, phụ nữ và nam giới đều có khả năng trở thành
người quản lý, lãnh đạo. Song trên thực tế, do nhiều nguyên nhân, ở công tác
này phụ nữ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Bởi vậy, để phụ nữ tham gia vào công tác
quản lý thì vấn đề quan trọng nhất là phải phát triển toàn diện người phụ nữ,
chú ý bồi dưỡng năng lực và phát triển nhân cách cá nhân người phụ nữ,
đồng thời công tác quản lý cần được tổ chức một cách khoa học để phụ nữ
vừa tham gia quản lý, vừa chăm lo được gia đình, nuôi dạy con cái.
Mục tiêu đến năm 2010 mà Chính phủ Việt Nam cam kết trong Chiến
lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ là tạo điều kiện bình đẳng cho phụ nữ
về mọi mặt trong phát triển, kể cả trong việc tham gia vào quản lý, đảm bảo
nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ trong quản lý ở các cấp từ 20 - 30%, trong
đó từ 10 - 15% là thuộc các cơ quan tư vấn và cơ quan Chính phủ. Để thực
hiện mục tiêu này, ngay từ những năm 2000, Nhà nước đã có chính sách,
chương trình hành động và giải pháp cụ thể, thể hiện quyết tâm cao trong tổ
79
chức và chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất vẫn là đặt nó
trong chính sách và chương trình phát triển nguồn nhân lực, trong đó có phụ
nữ. Vấn đề then chốt ở đây là phải có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí
sử dụng cán bộ nữ, để họ thực sự đảm đương được công việc, tránh chủ
nghĩa cơ cấu đơn thuần và hình thức.
3.2.5. Cần cải tiến chính sách lương đối với trí thức
Về chính sách đãi ngộ đối với trí thức nữ nói riêng và trí thức nói
chung của Đảng và Nhà nước hiện nay còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa thoả
đáng. Phân phối trong thu nhập của xã hội chưa phù hợp với yêu cầu của quy
luật phân phối theo lao động. Mức độ thu nhập của nhiều người trong xã hội
hiện nay, nhiều khi và không phải lúc nào cũng bắt nguồn từ nhân tố tài
năng, sự cống hiến, mà là do những nhân tố khác. Hiện tượng một trí thức nữ
được đào tạo rất tốn kém, ra trường làm công tác nghiên cứu, giảng dạy có
mức lương thu nhập thấp hơn một nữ công nhân hay một lao động giản đơn
không cần qua đào tạo hay đào tạo qua loa; lương của một giáo sư, tiến sĩ còn
thấp hơn rất nhiều lần so với một giám đốc doanh nghiệp hay công ty trách
nhiệm hữu hạn mới tốt nghiệp cử nhân (thậm chí chưa có bằng cấp gì)… còn
đang rất phổ biến trong xã hội ta. Điều đó làm giảm sút nhiệt tình, lòng quyết
tâm vươn lên của bản thân trí thức nữ, gây ra tâm trạng thiếu tin tưởng vào
chế độ ưu đãi hiền tài của Đảng và Nhà nước.
Vì vậy, theo chúng tôi, trong các cơ quan nhà nước, cần nâng bậc
lương của trí thức lên hàng thứ 3 sau Quốc phòng và An ninh (hiện nay
lương của trí thức đứng hàng thứ 6) trong thang lương của Nhà nước, đồng
thời phải có sự điều chỉnh về mức thu nhập, hạn chế sự quá bất bình đẳng
trong thu nhập giữa các thành phần kinh tế như hiện nay … là một trong
những biện pháp quan trọng thể hiện sự quý trọng tài năng, quý trọng chất
xám và việc đánh giá cao vai trò trí tuệ của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện
đúng tinh thân mà Nghị quyết các Đại hội VII, VIII của Đảng đề ra: giáo dục,
đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực
quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có như vậy đội
ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng mới có thể sống bằng nghề của
80
mình, yên tâm với công việc mà mình đã lựa chọn và tìm thấy được giá trị
phục vụ xã hội của bản thân.
Kinh nghiệm ở một số nước phát triển, trước hết là Mỹ đã thu hút dòng
chảy của chát xám từ các châu lục khác bởi chính sự đãi ngộ thoả đáng đối
với trí thức, trước hết bằng lương bổng và những điều kiện làm việc khác. Ví
dụ: Lương trung bình của một kỹ sư 3.300$/tháng, cao hơn lương viên chức
2,3 lần, cao hơn lương công nhân sản xuất 2,7 lần, cao hơn lương cán bộ
quản lý 1,7 lần. Vì vậy, họ đã có một đội ngũ trí thức, chuyên gia, các nhà
khoa học rất mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Việc đánh giá một cách khách quan năng lực của trí thức nữ và căn cứ
vào sự cống hiến của họ từ phía Đảng và Nhà nước, xã hội để có sự đãi ngộ
tương xứng là một nguồn động viên rất lớn, khuyến khích trí thức nữ say mê
công việc và có chí vươn lên.
Nhiều ý kiến nêu lên: Hiện nay các nhà khoa học nữ cần gì? Và nhiều
nhà khoa học nữ trả lời rằng, họ cần sự công bằng, dân chủ trong việc đánh
giá và đãi ngộ. Trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng không đòi hỏi sự đãi
ngộ hơn những người lao động khác. Cái họ cần là đánh giá lao động của họ
cho đúng, tin dùng họ, lắng nghe họ, tạo điều kiện cho họ lao động. Câu trả
lời đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần quan tâm, xem xét. Sự công bằng đó
không phải là sự “bình quân, chiếu cố” mà là sự hỗ trợ của các cấp lãnh đạo,
của xã hội, gia đình tạo cho trí thức nữ có cơ hội thể hiện trí tuệ của mình
một cách tốt nhất. Phụ nữ có khả năng trí tuệ như nam giới, nhưng họ luôn
đứng ở vị trí thứ hai sau nam giới ở hầu hết các hoạt động trí tuệ (cả khoa
học, chính trị, quản lý…). Nguyên nhân là do, một phần nữ giới chưa có chí
vươn lên, còn phải lo toan gia đình, con cái… nhưng còn có cả nguyên nhân
sự đánh giá thấp đối với phụ nữ của xã hội.
Cần có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với những tài năng và những trí
thức nữ đã có cống hiến xuất sắc cho đất nước và cho sự tiến bộ của phụ nữ.
Chúng tôi nghĩ rằng, đây không chỉ là nguyện vọng riêng của trí thức nữ mà
còn là của đội ngũ trí thức cả nước nói chung.
81
3.2.6. Cần có chính sách tôn vinh phù hợp
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng các hình thức động viên về chính
trị và tinh thần, các hình thức tôn vinh những trí thức có cống hiến xuất sắc.
Điều đó được thể hiện ở việc thực hiện có nền nếp việc xét các chức danh
khoa học và trao các giải thưởng quốc gia về văn hoá, khoa học; tặng thưởng
huân chương, tuyên dương công trạng đối với những trí thức có công...
Chính sách tôn vinh trí thức nêu trên cũng thể hiện tư tưởng coi trọng
hiền tài trong truyền thống dân tộc: “hiền tài là nguyên khí của quốc gia,
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước
yếu, rồi xuống thấp…”. Tuy nhiên, còn nhiều lĩnh vực và đối tượng vẫn chưa
được chú ý thoả đáng.
Nên chăng Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần có một
giải thưởng dành cho các nhà khoa học nữ xuất sắc trên các lĩnh vực, đặc
biệt là lĩnh vực khoa học Xã hội và nhân văn. Ở đây chúng tôi nói thêm, hiện
nay giải thưởng Kovalepxkaia - do nước ngoài tài trợ, là sự động viên
khuyến khích rất lớn dành cho các nữ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN Việt
Nam, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra sự cách biệt lớn giữa các nhà khoa học
nữ trên lĩnh vực này với các nhà khoa học nữ trên các lĩnh vực khác như xã
hội và nhân văn. Nhiều chị rất xuất sắc trên lĩnh vực xã hội và nhân văn, có
nhiều tài năng nhưng chưa nhận được sự động viên, khuyến khích kịp thời từ
phía nhà nước, xã hội và các tổ chức quốc tế. Vì vậy, rất cần có những giải
thưởng khác nhau dành cho các nhà khoa học xuất sắc trên các lĩnh vực khác
nhau từ phía Nhà nước sẽ là nguồn cổ vũ lớn lao, một sự động viên tinh thần
cũng như vật chất quan trọng đối với trí thức nữ. Đó cũng là sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước đối với phụ nữ nói chung và trí thức nữ nói riêng.
Ngoài ra, cũng rất cần có hình thức động viên, khen thưởng đối với đội
ngũ trí thức nữ trẻ, bao gồm các nữ thư ký, nữ trợ lý biết tin học, giỏi ngoại
ngữ, có trình độ chuyên môn nhất định. Nếu được chăm lo trở thành những
trợ lý, thư ký giỏi, xuất sắc, một mặt họ sẽ giúp những chuyên gia “Đàn chị”
tập trung vào việc lớn, mặt khác họ sẽ là các chuyên gia giỏi, tài năng trong
tương lai. Đây chính là nhằm tạo ra đội ngũ kế cận và là một trong những
82
bước đi trong quy trình đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước cần phải quan
tâm.
3.2.7. Tuổi về hưu của nữ trí thức
Một vấn đề cần quan tâm hiện nay của trí thức nữ và đã trở thành kiến
nghị chính thức của chị em với Đảng và Nhà nước, đó là việc xem xét lại tuổi
về hưu của trí thức nữ, nhất là các chuyên gia nữ có trình độ thực sự, các nhà
khoa học nữ tài năng hiện đang làm việc ở nhiều ngành phù hợp với sức khoẻ
của phụ nữ. Không nên đồng loạt đặt tuổi về hưu của phụ nữ là 55. Làm như
vậy sẽ hạn chế khả năng đóng góp của trí thức nữ. Bởi vì, phụ nữ sau khi tốt
nghiệp ĐH thường phải thực hiện chức năng gia đình, sinh con, nuôi con
(như phần trên đã đề cập). Như vậy, trên con đường phấn đấu gian khổ của
lao động trí tuệ, chị em vừa phải gánh nặng gia đình (làm vợ, làm mẹ), lại
phải chạy với tốc độ nhanh hơn nam giới có cùng trình độ và cùng độ tuổi từ
7 - 10 năm. Để đạt được kết quả hay vị trí như một nam giới có cùng bằng
cấp thì chị em phải chi phí rất lớn về công sức và thời gian. Trên thực tế, trí
thức nữ, nhất là trí thức nữ nghiên cứu khoa học, thường làm việc có hiệu
quả cao khi con cái đã lớn, gia đình ổn định. Lúc đó, họ có nhiều thời gian
chuyên tâm cho khoa học, đóng góp được nhiều hơn (hiện nay, một số nhà
khoa học nữ ở độ tuổi 65 - 70 vẫn tham gia nghiên cứu khoa học và làm quản
lý có hiệu quả, có uy tín cao). Do đó, tuổi về hưu của trí thức nữ nên chăng
kéo dài thêm 5 - 10 năm, tức là khoảng 60 - 65 tuổi. Nếu thực hiện được giải
pháp này sẽ tận dụng được sự đóng góp đáng kể của một bộ phận trí thức nữ
có thực tài và thể hiện được quan điểm bình đẳng về giới.
Cần nhấn mạnh thêm rằng chính sách này chỉ nên áp dụng riêng cho trí
thức nữ thôi. Với phụ nữ lao động chân tay nên vẫn là 55 tuổi thì được về
hưu.
Một số trường đại học và Viện nghiên cứu hiện nay đã có chủ trương
giữ lại những nhà khoa học có học hàm, học vị (cả nam và nữ) cho đến tuổi
65, thâm chí hơn tuổi 65. Chủ trương đó có cơ sở thực tế và xuất phát từ nhu
cầu sử dụng, vì càng lâu năm, trí thức càng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
trong nghiên cứu và giảng dạy chuyên môn, họ cũng sẽ là những người đỡ
83
đầu cho các nhà khoa học trẻ, hướng dẫn thế hệ trẻ đi vào con đường nghiên
cứu khoa học… Chủ trương này nên được hiện thực hoá và cần được Nhà
nước đưa vào văn bản hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, cần phải có cơ chế sàng
lọc, đánh giá khả năng của trí thức nữ trước khi xem xét tuổi về hưu của họ.
Tránh tình trạng người giỏi chưa muốn về hưu thì “phải” về hưu, còn những
người ít tài lại muốn và được ở lại vị trí công tác khi không đủ sức lực và tài
năng. Chỉ có như vậy mới thu hút được những nữ trí thức có tài năng phục vụ
lâu dài cho đất nước. Đó là trách nhiệm của những người quản lý, của những
nhà làm công tác tổ chức.
Nói tóm lại, cần quán triệt hơn nữa quan điểm giới trong đào tạo, sử
dụng và đãi ngộ trí thức nữ là một vấn đề lớn và bức thiết hiện nay. Giải
quyết vấn đề này đòi hỏi có quan điểm đúng đắn và sự hiểu biết đầy đủ khả
năng, nhu cầu thực tiễn của trí thức nữ nước ta, nhằm tạo ra và phát triển tài
nguyên trí tuệ của đất nước, phải có tầm nhìn chiến lược đối với sự nghiệp
“trồng người” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi..
Chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đối với trí thức nữ vừa phải
thống nhất với chính sách thuộc các lĩnh vực đó đối với trí thức nói chung,
vừa phải đáp ứng những đòi hỏi đặc thù của những trí thức là nữ. Chính sách
đó không đơn thuần là quyền lợi cho trí thức nữ, mà còn có quan hệ đến sự
hưng thịnh của cả dân tộc, có liên quan đến nhịp độ phát triển của đất nước.
Một xã hội tiến bộ, ưu việt phải là xẫ hội tạo được những điều kiện
khách quan và chủ quan thuận lợi để cho phụ nữ nói chung và trí thức nữ nói
riêng đều có cơ hội phát triển tài năng, góp phần phát triển đất nước. Vì vậy,
việc giáo dục tuyên truyền trong toàn xã hội về bình đẳng giới, đưa vấn đề
giới vào việc xây dựng luật, lập kế hoạch và chính sách, chế độ của Đảng và
Nhà nước là một việc làm cần thiết và cấp bách.
3.2.8. Tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình
Dù ở bất kỳ cương vị nào, phụ nữ đều phải dành thời gian và có trách
nhiệm đối với gia đình.
Như đã trình bày ở chương 1, một đặc điểm đáng lưu ý ở nước ta, phần
lớn phụ nữ thành đạt trong khoa học, quản lý thường là những phụ nữ có gia
84
đình ổn định, được chồng con giúp đỡ về cả vật chất, tinh thần. Hoàn cảnh
này không phải ở đâu cũng có. Điều đó cho thấy, yếu tố gia đình rất quan
trọng đối với phụ nữ Việt Nam nói chung và đối với trí thức nữ nói riêng, đòi
hỏi các nhà làm chính sách quan tâm đặc biệt đến yếu tố này.
Do bị chi phối bởi công việc gia đình, chị em chịu thiệt thòi hơn nam
giới trong việc học tập và nâng cao trình độ, nắm bắt thông tin và tham gia
các hoạt động xã hội. Vì vậy, chính sách xã hội phải tập trung giảm nhẹ công
việc gia đình cho phụ nữ. Ngoài các chính sách về tạo việc làm, tăng thu
nhập cho trí thức nữ…đã nêu ở trên, Nhà nước cần quan tâm tăng cường các
hệ thống dịch vụ gia đình nhằm giảm nhẹ công việc nội trợ cho phụ nữ, như:
“công nghệ hoá” việc sản xuất các phương tiện, dụng cụ bếp núc nội trợ gia
đình; Mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, cơ sở y tế,
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em; Cải tiến chế độ bảo hiểm xã hội, xây dựng
và ban hành chế độ cân bằng trách nhiệm của nam giới trong việc cùng chăm
sóc con cái và các thành viên trong gia đình.
Việc khuyến khích nam giới tham gia vào công việc chăm sóc gia đình
cần phải được tăng cường và mở rộng. Theo kinh nghiệm ở một số nước
công nghiệp phát triển, từ năm 1980, chế độ nghỉ đẻ đã thay đổi từ chỗ bảo
vệ sức khoẻ người mẹ sau khi sinh, sang quyền chăm sóc con cái của cả cha
và mẹ. Chế độ cho người cha nghỉ trông con được bổ sung thêm vào chế độ
nghỉ đẻ của người mẹ. Chế độ này đã được áp dụng ở Mỹ từ năm 1994. Đặc
biệt là các nước Bắc Âu đã đi rất xa trên phương diện này, nhất là Thuỵ Điển
- đất nước mà phụ nữ được gọi là “những bà hoàng”. Đây là mô hình mới của
Thuỵ Điển về sự bình đẳng giữa các giới. Ở nhà, trong các doanh nghiệp,
trong lĩnh vực chính trị hay trước pháp luật, phụ nữ Thuỵ Điển trên thực tế
đang trở nên bình đẳng với nam giới. Với khẩu hiệu “Không có bình đẳng
trong xã hội nếu không có bình đẳng trong gia đình”, Thuỵ Điển đã có quy
định “tháng của người cha” khi người vợ sinh nở. “Tháng của người cha”,
người bố được hưởng 85% lương. Lương này không thể chuyển sang cho
người mẹ nếu người bố không hưởng quyền ấy. Bình đẳng giới đã biểu hiện
thành luật và trên thực tế ở Thuỵ Điển, vì vậy các nhà ngôn ngữ học cho biết:
85
không thể dịch khái niệm “chủ gia đình” sang tiếng Thuỵ Điển. Đây là mô
hình mà nhiều nước đang hướng tới nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới
- cơ sở và động lực cho phát triển xã hội.
Ở nước ta, trong một số cuộc toạ đàm, trao đổi giữa các nhà khoa học
nữ và các nhà lập kế hoạch và làm công tác phụ nữ, chúng tôi thấy có một ý
kiến có thể nghiên cứu là, tiền lương chi cho thời gian nghỉ đẻ của phụ nữ
trong lĩnh vực làm công ăn lương, nên chăng phải do cả cơ quan bên chồng
và cơ quan bên vợ chịu trách nhiệm trả. Như vậy có thể san sẻ gánh nặng chi
phí cho những đơn vị có nhiều nữ tham gia và người nam giới cũng thấy
trách nhiệm của mình trong khi vợ sinh đẻ.
Gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định và bền vững của hôn nhân,
hạnh phúc và ấm no của gia đình có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của
xẫ hội và tương lai của dân tộc. Ở đây cần nhấn mạnh đến gia đình của trí
thức nữ. Những người mẹ có tri thức, có học vấn cao sẽ là điều kiện tốt để
tạo ra thế hệ tương lai có chất ượng cao (cả về trí lực, thể lực và nhân cách).
Vì vậy, chính sách xã hội đối với gia đình phải được coi là một chiến lược
quốc gia, lâu dài, toàn diện gắn bó với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Tăng trưởng kinh tế, đổi mới chính trị phải nhằm nâng cao
phúc lợi cho gia đình, tạo sự ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc cho các
thành viên trong gia đình, nhất là cho người phụ nữ. Do đặc thù của trí thức
nữ và vai trò của họ, bên cạnh các chính sách chung cho tất cả các gia đình,
cần có những chính sách cụ thể cho một số đối tượng đặc biệt, lưu ý đến các
gia đình mà ở đó người phụ nữ là những người hoạt động trí tuệ - một dạng
lao động đặc thù.
Thực hiện hài hoà hai chức năng gia đình và xã hội đối với phụ nữ là
một công việc thật khó, đối với trí thức nữ lại khó hơn. Bởi vì hoạt động trí
tuệ đòi hỏi phải có thời gian, phải có sự yên tĩnh và tập trung cao mà những
yếu tố ấy lại rất thiếu đối với trí thức nữ hiện nay. Chúng ta không mong
ngày càng có nhiều chị em không làm vợ, làm mẹ mà chỉ hoạt động xã hội,
chúng ta cũng không muốn ngày càng có nhiều chị em chỉ an phận, chí thú
công việc gia đình, chăm sóc chồng con, làm việc cầm chừng, ngại “ganh
86
đua”, “đụng độ” để tiến lên, chỉ lấy mục tiêu thành đạt của chồng, con làm
nguồn an ủi động viên mình. Vì vậy, muốn có được sự hài hoà khi thực hiện
hai chức năng này, đòi hỏi nhiều điều kiện.
Trước hết, bản thân người trí thức nữ phải luôn tự nâng cao trình độ,
năng lực lên ngang tầm sự phát triển của xã hội; biết tổ chức tốt cuộc sống
gia đình, biết phân công lao động gia đình và chi tiêu một cách hợp lý để
giảm nhẹ nỗi nhọc nhằn cho bản thân và chủ động được quỹ thời gian, điều
kiện vật chất.
Thứ hai, trong gia đình, nam giới với vai trò người chồng, người cha,
người con, biết san sẻ, gánh vác trách nhiệm trong gia đình, cùng chia sẻ
công việc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho người vợ, người mẹ hoàn thành công
việc, và, quan trọng hơn là đánh giá đúng, biết trân trọng thành quả lao động
chất xám của người vợ, người mẹ.
Thứ ba, việc thực hiện hài hoà hai chức năng gia đình và xã hội của
người trí thức nữ không chỉ vì lợi ích, hạnh phúc của gia đình mà còn vì lợi
ích, vì hạnh phúc của toàn xã hội. Do vậy, cần có sự tác động của toàn xã
hội, của cộng đồng; trong đó, việc tạo ra dự luận xã hội rộng rãi nhằm thúc
đẩy, khuyến khích phụ nữ nói chung và trí thức nữ nói riêng say mê học tập,
tích cực lao động và lao động có hiệu quả cao là điều cần thiết… Các hệ
thống thông tin đại chúng cần góp phần làm cho toàn xã hội nhận rõ được giá
trị, vai trò của trí tuệ và sự cần thiết trọng dụng nhân tài đối với sự phát triển
của đất nước; nhận thức sâu sắc được việc nâng cao học vấn, trình độ khoa
học, công nghệ cho phụ nữ là một việc làm hết sức cần thiết cho cuộc sống
gia đình, xã hội, là một việc làm thiết thực không chỉ cho một nửa xã hội, cho
hôm nay mà cho toàn xã hội và cho nhiều thế hệ mai sau. Đồng thời động
viên, khuyến khích nam giới chia sẻ công việc gia đình với phụ nữ. Nhà nước
cần đánh giá đúng giá trị công việc gia đình. Công việc sinh con và nuôi con
phải được coi có ý nghĩa xã hội to lớn để mọi người đều phải chia sẻ trách
nhiệm, giúp cho người phụ nữ có điều kiện để nâng cao trình độ và chuyên
môn. “Công nghệ hoá” và “dịch vụ hoá” các công việc nội trợ gia đình phải
hướng vào việc phục vụ toàn dân trên cơ sở đảm bảo chất lượng và giá cả dễ
87
chấp nhận, giúp cho nữ trí thức có điều kiện hưởng lợi từ những thành quả
phát triển của khoa học, công nghệ đó.
Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình cũng là tổ ấm của người phụ
nữ nói chung, nữ trí thức nói riêng. Nữ trí thức chỉ có thể có những cống hiến
trí tuệ lớn khi tổ ấm của họ được bảo vệ và giữ gìn.
3.2.9. Nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên của bản thân nữ trí thức
Từ thực tế cho thấy, đó là yếu tố quyết định sự thành công của chị em.
Tự lực phấn đấu vươn lên, tự giác ngộ về khả năng, năng lực của bản
thân mình, ý thức được trách nhiệm tham gia hoạt động xã hội và nâng cao
trí tuệ của phụ nữ sẽ góp phần quan trọng vào viẹc phát huy khả năng của trí
thức nữ. Ngay trong bản thân, chị em phải khắc phục tính tự ti, tự đánh giá
thấp mình để có lòng tự tin và luôn khiêm tốn học hỏi, khát vọng vươn lên
bình đẳng với nam giới.
Trí thức nữ là một bộ phận tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam, là những
người được học nhiều, hiểu biết rộng, các chị nhận thức rõ được tiềm năng và
vai trò to lớn của phụ nữ đối với gia đình, xã hội và sự tiến bộ của phụ nữ.
Do vậy, các chị phải là những người góp phần tích cực vào việc hạn chế sự
bất bình đẳng giới, nâng cao địa vị xã hội cho phụ nữ; phải là những tấm
gương của phụ nữ Việt Nam, là những người thật sự “đảm việc nước, giỏi
việc nhà”, thể hiện đầy đủ và tốt nhất những phẩm chất cao quý của phụ nữ
Việt Nam; khẳng định vị trí của phụ nữ Việt Nam trước xã hội và trước bạn
bè Quốc tế.
Trí thức nữ cần phải xây dựng phương pháp làm việc khoa học,sắp xếp
hợp lý công việc xã hội và công việc gia đình để có thời gian tự bồi dưỡng về
chuyên môn, nâng cao hiệu quả công việc để không bị tụt hậu trước thời
cuộc, đồng thời vẫn là những người phụ nữ duyên dáng, người mẹ hiền, vợ
đảm, là niềm tự hào của người chồng, người con… Qua thực tế, chúng ta có
thể nhận rõ một điều là, rất nhiều các nhà khoa học nữ thành đạt hay tham gia
hoạt động ở các lĩnh vực khác có hiệu quả đều là những phụ nữ rất có nề nếp
trong cuộc sống gia đình: từ việc thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình, nuôi
dạy con khoẻ mạnh, ngoan, hiếu thảo, đến việc sắp xếp công việc gia đình,
88
động viên chồng con cùng chia sẻ công việc gia đình mình… và chính những
sự sắp xếp khéo léo hợp lý này đã tạo điều kiện cho các chị thành công trong
hoạt động sáng tạo. Tất cả những điều ấy đòi hỏi người phụ nữ trí thức phải
có nghị lực, quyết tâm cao, ý thức cầu tiến và cả tấm lòng bao dung, nhân
hậu…
Ở đây vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối
vói sự phấn đấu và vươn lên chính bản thân mình của phụ nữ nói chung và trí
thức nữ nói riêng. Với tính chất là một tổ chức đại diện cho quyền lợi của
phụ nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phải tiếp tục tạo ra một số hoạt động
cụ thể góp phần nâng cao kiến thức và năng lực cho phụ nữ, giúp phụ nữ có
những hiểu biết cần thiết về giới để họ nhận thức rõ khả năng, năng lực và cả
những hạn chế của mình; hiểu biết về luật pháp, những chính sách có liên
quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em; biết giữ gìn phẩm chất tốt đẹp, đạo
đức truyền thống và văn hoá dân tộc, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, góp
phần nâng cao địa vị của phụ nữ trong xã hội. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam phải là cầu nối giữa phụ nữ cả nước với Đảng, Chính phủ và bạn bè
Quốc tế, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của phụ nữ với Đảng và Nhà nước,
đồng thời tham mưu, đề xuất những chính sách, những giải pháp nhằm góp
phần thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ và tiến bộ của phụ nữ.
Trong một xã hội Việt Nam văn minh, tiến bộ, phụ nữ phải có vai trò
xứng đáng không chỉ về tình cảm, tâm hồn mà cả về trí tuệ, trí thức như lời
tặng của đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam
nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
(20/10/1996): Phụ nữ Việt Nam trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng.
Nói tóm lại, cần thông qua việc xây dựng và thực hiện một số giải
pháp để kết hợp chặt chẽ việc tạo ra môi trường chung thuận lợi từ gia đình,
xã hội với việc xây dựng, phát huy ý chí, phẩm chất tốt đẹp, truyền thống tự
hào của trí thức nữ nước ta, để từ đó biến tiềm năng của trí thức nữ trở thành
những đóng góp thực tế cho sự nghiệp phát triển đất nước theo hướng CNH,
HĐH như tinh thần của các nghị quyết của Đảng đề ra.
89
Sự phân chia thành một số giải pháp được đề cập trên đây chỉ có ý
nghĩa tương đối, chúng có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Muốn
xây dựng, sử dụng và khai thác có hiệu quả nguồn lực trí thức nữ cần phải
thực hiện đồng bộ các giải pháp đã nêu.
90
KẾT LUẬN
Từ những nghiên cứu về lý luận và thực tế trình bày của đề tài có thể
rút ra những kết luận chủ yếu sau:
(1). Về khái niệm: Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có trình độ
học vấn cao; trình độ chuyên môn sâu, có phẩm chất; lương tri; lao động trí
óc phức tạp; sáng tạo, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức văn hoá,
khoa học trong hoạt động thực tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội.
Từ khái niệm trí thức nói chung ở trên, lao động trí thức nữ được hiểu
là những người phụ nữ có học vấn, có trình độ chuyên môn được đào tạo từ
cao đẳng, đại học trở lên làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh
tế, thực hiện các chức năng của người trí thức nhằm phát triển kinh tế - xã
hội.
Những đặc điểm trong lao động của người trí thức cần được chú ý là:
Tính sáng tạo, tính cá nhân, tính rủi ro cao; đồng thời trí thức nữ cũng có
những đăc điểm riêng do sự khác biệt về giới tính dẫn đến những khác biệt
về mặt xã hội: Trong lao động, họ là người trí thức, trong gia đình, họ là
người vợ, người mẹ. Những đặc điểm này có ảnh hưởng to lớn đến lao động
của trí thức nói chung , trí thức nữ nói riêng.
(2). Trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng có vai trò to lớn chẳng
những trong các thời kỳ trước đây mà cũng có vai trò cực kỳ quan trọng
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Trong điều kiện hiện nay, những yếu tố
làm hạn chế tiềm năng đóng góp của trí thức nữ là những định kiến về giới
trong xã hội, là công việc gia đình, sinh đẻ và chăm sóc con cái. Tuy nhiên,
phụ nữ và trí thức nữ cũng đang có những điều kiện thuận lợi để phát triển,
đó là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, là điều kiện kinh tế ngày càng
được cải thiện nên có nhiều phương tiện hỗ trợ giảm nhẹ công việc gia
đình,…
(3). Về thực trạng của đội ngũ trí thức nước ta: Đội ngũ trí thức nữ
nước ta đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là từ
91
ngày đổi mới đến nay. Tại thời điểm năm 2005, tổng lao động trí thức nữ có
trên 605 ngàn người, chiếm 40,62% trong tổng số trí thức. Tuy nhiên, ở trình
độ cao, tỷ lệ trí thức nữ còn thấp xa so với nam giới: Chỉ có 29,59 % trí thức
nữ có trình độ thạc sỹ và 16,46% có trình độ tiến sỹ.
Đội ngũ trí thức nữ đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất
nước. Nhiều trí thức nữ không chỉ thành công ở những lĩnh vực giáo dục, y
tế, nơi mà mọi người thường quan niêm là phù hợp với nữ giới, mà cả ở lĩnh
vực kinh doanh, KH&CN - là lĩnh vực mới với công nghệ cao. Nhiều phụ nữ
cũng đã tham gia vào công tác quản lý, lãnh đạo ở trung ương, địa phương và
cơ sở. Tuy nhiên, những hạn chế lớn của đội ngũ này là: Lực lượng nữ trí
thức còn mỏng, nhất là ở trình độ cao; những đóng góp của nữ trí thức còn
nhiều hạn chế; trình độ ngoại ngữ thấp, số sử dụng được ngoại ngữ trong
công việc chuyên môn chỉ chiếm vài phần trăm; cơ cấu đội ngũ có nhiều bất
cập, đặc biệt là cơ cấu độ tuổi, có nguy cơ hẫng hụt.
(4). Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách tạo điều kiện để trí
thức nữ phát triển. Tuy nhiên, vẫn có nhiều chính sách đối với trí thức nói
chung, trí thức nữ nói riêng, chậm được thực hiện và do đó hiệu quả của
chính sách còn thấp. Một số chính sách mới ở mức tuyên bố chung, thiếu cụ
thể, chưa được thể chế hoá bằng văn bản của Bộ, ngành; Nhiều chính sách
khi xây dựng và thực thi chưa chú ý đến giới (chính sách đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ sau ĐH),…
(5). Để phát triển đội ngũ trí thức nữ cần quán triệt hơn nữa hệ thống
các quan điểm của Đảng liên quan đến phát triển KH&CN, phát triển
GD&ĐT và xây dựng đội ngũ trí thức nói chung.. Đặc biệt cần chú ý bối
cảnh của nước ta hiện nay đã chuyển sang kinh tế thị trường định hướng
XHCN và đi vào hội nhập quốc tế. Bối cảnh trên vừa tạo ra những điều kiện
thuận lợi, vừa tạo ra những thách thức mới trong việc phát triển đội ngũ trí
thức nữ. Quan điểm “Nam nữ bình quyền” không những cần được hiểu đúng,
mà còn cần được thể hiện trong các kế hoạch, chính sách cụ thể của quá trình
phát triển.
92
Phương hướng phát triển đội ngũ trí thức nữ là tăng nhanh về số
lượng, đảm bảo cơ cấu hợp lý, và đặc biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ, kể
cả trình độ ĐH và sau ĐH.
(6). Các giải pháp cơ bản để thực hiện phương hướng trên là:
a). Tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình đẳng nam
nữ.
b). Phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ.
c). Có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
đội ngũ trí thức nữ.
d). Có chính sách sử dụng hợp lý hơn đối với trí thức nữ
e). Cải tiến chế độ tiền lương đối với trí thức
f). Cần có chính sách tôn vinh phù hợp với trí thức nữ.
h). Nâng cao tuổi về hưu cho nữ trí thức có đủ điều kiện về sức khoẻ
và tài năng.
i). Tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình
k). Nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên của bản thân nữ trí thức.
Các giải pháp nêu trên có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau.
Muốn xây dựng, sử dụng và khai thác có hiệu quả nguồn lực trí thức nữ cần
thực hiện các giải pháp trên một cách đồng bộ.
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quý An (1987) , “Xây dựng và sử dụng tốt hơn đội ngũ trí thức
XHCN”, Tạp chí Cộng sản, (4).
2. Phạm Thị Ngọc Anh (10/1995), “Cán bộ khoa học nữ với thời kì đổi
mới: Thực trạng và một số kiến nghị”, Tạp chí Cộng sản.
3. Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng (1996), Phụ nữ, giới và phát triển,
Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
4. Đặng Quốc Bảo (1995), “Giáo viên nữ Việt Nam trong cơ chế thị
trường”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (1), tr.25.
5. Huy Bá (28/10/1999), “Để các nhà khoa học cống hiến nhiều hơn”,
Báo Nhân dân.
6 Phan Văn Các (1990), Từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghĩ
về một số vấn đề của phong trào giải phóng phụ nữ ngày nay, Nxb.
Phụ nữ, Hà Nội.
7. Phạm Tất Dong chủ biên (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí
thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
8. Phạm Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam - thực tiễn và triển vọng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Dương Thị Duyên (2/1997), “Phụ nữ và khoa học”, Tạp chí Khoa học
và Phụ nữ.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện hội nghị lần thứ sáu BCH
TƯ khoá IX. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ hai BCH
TƯ khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện hội nghị lần thứ tư BCH
TƯ khoá VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
13. Nguyễn Minh Đường (4/2005), Thực trạng và giải pháp đào tạo lao
động kỹ thuật (từ sơ cấp đến trên ĐH) đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ
94
cấu lao động trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế, Đề tài KX - 05 - 10.
14. Trần Hàn Giang (chủ biên, 2001), Nữ công nhân khu vực công nghiệp
ngoài quốc doanh và dịch vụ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
15. Bùi Thanh Hà (1/1994), “Về chất lượng học tập của phụ nữ sinh viên”,
Tạp chí Khoa học và Phụ nữ.
16. Đoàn Thu Hà và Nguyễn Thị Ngọc Huyền (chủ biên, 2006), Giáo trình
chính sách kinh tế - xã hội (tái bản), Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội.
17. Nguyễn Đông Hanh (2006), Chính sách đối với nữ trí thức khoa học
và công nghệ - đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách, giải pháp
mới, thuộc đề tài cấp nhà nước “Đổi mới chính sách đối với trí thức
khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước”, mã số ĐTĐL - 2003/27, Hà Nội.
18. Bùi Thị Minh Hằng và tập thể tác giả (11/2000), Nghiên cứu thực
trạng và những giải pháp phát huy tiềm năng đội ngũ trí thức nữ khoa
học - công nghệ TP Hồ Chí Minh, đề tài khoa học.
19. Trương Mỹ Hoa (10/1994), Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế
xã hội và tham gia quản lý đất nước và định hướng đến năm 2000”,
Tạp chí Cộng sản.
20. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển
đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Võ Hưng (1991), Phụ nữ Việt Nam - giới tính, quyền bình đẳng và vấn
đề sinh đẻ có kế hoạch, mấy vấn đề y - sinh học về phụ nữ nông thôn
Việt Nam , Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
22. V.I.Lênin (1978), Một bước tiến, hai bước lùi, toàn tập, tập 8, Nxb.
Tiến bộ Matxcơva
23. Hoàng Thị Lịch (1995), Một vài điểm về bước tiến của các nhà khoa
học nữ trong thời kỳ qua - Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam 1985 - 1995, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
95
24. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Trần Thị Bạch Mai (chủ nhiệm đề tài), (2001), Thực trạng tham gia
của cán bộ giảng dạy nữ vào các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu,
quản lý trong nhà trường đại học và các giải pháp quản lý nhằm nâng
cao vai trò của họ, đề tài khoa học cấp bộ Hà Nội.
26. Trần Thị Bạch Mai (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn của các giải
pháp tăng cường vai trò cán bộ nữ trong hoạt động quản lý nhà trường
đại học, Đề tài khoa học, ĐH Quốc gia Hà Nội.
27. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Trần Hồng Quân (14/10/1987), “35 năm hợp tác đào tạo cán bộ chuyên
môn và công nhân kỹ thuật giữa Việt Nam và Liên Xô”, Báo Nhân
dân.
29. Bùi Thị Kim Quỳ (1995), Phụ nữ Việt Nam trong quá trình đổi mới đất
nước, vấn đề lao động, việc làm và hạnh phúc gia đình, gia đình và địa
vị người phụ nữ trong xã hội, cách nhìn từ Việt Nam và Hoa Kỳ, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
30. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Bộ Luật
Lao động của nước CHXHCN Việt Nam (Những quy định riêng với lao
động nữ), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật
Khoa học và công nghệ (đ îc Quèc héi n íc Céng hßa x· héi chñ
nghÜa ViÖt Nam khãa X, kú häp thø 7 th«ng qua ngµy 09 th¸ng 6 n¨m 2000).
32. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo
dục, (đ îc Quèc héi n íc Céng hßa x· héi chñ nghÜa ViÖt Nam khãa
XI, kú häp thø 10 th«ng qua ngµy 14 th¸ng 6 n¨m 2005).
33. Minh Sơn (04/3/2005), Nhà khoa học nữ nhạy bén với thị trường,
ViêtNamNet.
96
34. Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
35. Nguyễn Phương Thảo (1999), “Phụ nữ và hoạt động chính trị”, Tạp
chí Khoa học và phụ nữ, (3).
36. Nguyễn Thị Anh Thu (chủ biên, 2000), Đổi mới chính sách sử dụng
nhân lực khoa học và công nghệ trong cơ quan nghiên cứu - phát
triển, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Thủ tướng Chính Phủ, Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội
38. Thủ tướng Chính Phủ, Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
2001 - 2010.
39. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Mạc Văn Trang (1993), Nghiên cứu trắc nghiệm tâm lý phù hợp nghề,
đề tài cấp Bộ, mã số B91.38.06.
41. Văn phòng Quốc hội (1996), Kỷ yếu hội nghị giới với chính sách xã
hội, Hà Nội.
42. Viện Thông tin khoa học và kỹ thuật trung ương (tháng 3/1985), Bản
dịch tóm tắt “Những vấn đề phát triển khoa học và kỹ thuật”
43. Trần Quốc Vượng (1972), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nxb. Phụ
nữ, Hà Nội.
44. VietNamNet (01/11/2005), Nhiều tỉnh có chính sách chiêu hiền đãi sĩ
nhưng chưa thành công.
45. VietNamNet (09/8/2007), Nhật Bản: Nữ giới có gia đình khó có sự
nghiệp.
46. Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (12/2003), hội thảo "Bình đẳng
Giới và tuổi nghỉ hưu của lao động nữ”, Thành phố Vũng Tàu.
97