intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính quyền chúa Nguyễn trong quan hệ thương mại với Nhật Bản từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:163

105
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính quyền chúa Nguyễn trong quan hệ thương mại với Nhật Bản từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII nêu lên điều kiện lịch sử của quan hệ đàng trong với Nhật Bản; chính quyền chúa Nguyễn trong quan hệ thương mại với Nhật Bản; vị trí lịch sử và vai trò của quan hệ thương mại với Nhật Bản trong chính sách và hoạt động đối ngoại của chính quyền đàng trong từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính quyền chúa Nguyễn trong quan hệ thương mại với Nhật Bản từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Cao Thị Thanh Thanh CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI NHẬT BẢN TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN THẾ KỈ XVIII Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 03 13 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
  2. 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi do TS.Trần Thị Thanh Thanh hướng dẫn. Các tài liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào trùng với tên đề tài được công bố. Tác giả luận văn Cao Thị Thanh Thanh
  3. 2 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Ban Chủ Nhiệm khoa Lịch sử, Phòng Sau Đại học và quý Thầy, Cô trong khoa Lịch sử của trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ và dạy dỗ trong suốt quá trình học tập tại trường. Để hoàn thành luận văn này, tôi xin kính gửi sự tri ơn và lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Trần Thị Thanh Thanh, người đã không ngại khó khăn, tận tình hướng dẫn và động viên tôi mọi mặt về tinh thần cũng như những kiến thức quý báu, giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới thư viện trường Đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học xã hội, Thư viện Khoa học tổng hợp đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm tư liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài. Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, những anh chị thân quen trong lớp Cao học Lịch sử Việt Nam khóa 23 đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ tôi trong những ngày học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Với khả năng hiểu biết còn có hạn, chắc chắn nội dung của luận văn khó tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, kính mong nhận được sự hướng dẫn, góp ý từ quý Thầy Cô. Xin trân trọng cảm ơn! Tp Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 09 năm 2014 Người thực hiện Cao Thị Thanh Thanh
  4. 3 MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... 1 LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ 2 MỤC LỤC ................................................................................................................... 3 DANH MỤC CÁC BẢNG............................................................................................. 5 PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 6 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................6 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................7 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................12 3.1. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................12 3.2. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................13 3.3. Phạm vi nghiên cứu .........................................................................................13 4. Nguồn tài liệu .........................................................................................................13 5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................15 6. Đóng góp của đề tài................................................................................................15 7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................16 CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA QUAN HỆ ĐÀNG TRONG VỚI NHẬT BẢN TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XVIII ....................... 17 1.1. Vai trò của Đàng Trong trong quá trình xác lập và củng cố quyền lực của các chúa Nguyễn...............................................................................................................17 1.1.1. Vài nét về xứ Đàng Trong ............................................................................17 1.1.2. Vai trò của Đàng Trong trong quá trình xác lập và củng cố quyền lực của các chúa Nguyễn .....................................................................................................19 1.2. Nhận thức của các chúa Nguyễn về nhu cầu quốc phòng và phát triển thương mại ..............................................................................................................................28 1.2.1. Nhận thức của các chúa Nguyễn về nhu cầu quốc phòng ............................28 1.2.2. Nhận thức của các chúa Nguyễn về nhu cầu phát triển thương mại ............39
  5. 4 CHƯƠNG 2 . CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI NHẬT BẢN TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XVIII ..... 50 2.1. Hoạt động thương mại với Nhật Bản trong chính sách đối ngoại về kinh tế của các chúa Nguyễn ........................................................................................................50 2.2. Chính sách đối ngoại về kinh tế của chính quyền chúa Nguyễn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII ........................................................................................................68 2.2.1. Chú trọng phát triển giao thương ..................................................................69 2.2.2. Cơ quan quản lí và thể lệ ngoại thương ở Đàng Trong ................................80 2.2.3. Chính sách trưng thu thuế .............................................................................85 2.2.4. Chính sách tiền tệ và lưu thông tiền tệ .........................................................88 2.3. Chính quyền Tokugawa Ieyasu và chính sách đối ngoại về kinh tế của nước Nhật thời kì Edo .........................................................................................................93 2.3.1. Chế độ Châu ấn thuyền (1592 - 1635) ..........................................................93 2.3.2. Chính sách “tỏa quốc” – Sakoku (1636 - 1853) .........................................100 2.4. Vài nét về “Ngoại phiên thông thư”- một tài liệu quan trọng trong mối quan hệ bang giao giữa chính quyền chúa Nguyễn và Nhật Bản ..........................................104 CHƯƠNG 3. VỊ TRÍ LỊCH SỬ VÀ VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI NHẬT BẢN TRONG CHÍNH SÁCH VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÀNG TRONG ............................. 110 3.1. Đối với nền kinh tế Đàng Trong .......................................................................110 3.2. Đối với việc củng cố và phát triển quyền lực của các chúa Nguyễn ................123 3.3. Đối với tiến trình lịch sử Việt Nam ..................................................................135 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 152
  6. 5 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1. Số thuyền Châu ấn của Nhật tới các nước Đông Nam Á (1604-1635) ........ 53 Bảng 2.2. Số giấy phép chính quyền Nhật cấp thương thuyền Nhật (1604-1634)… ... 55 Bảng 2.3. Đường nhập vào Nhật Bản (năm 1663) ........................................................ 61 Bảng 2.4. Số lượng Bạc và thuyền Nhật Bản đến Đại Việt (1600-1640) .................... 64 Bảng 2.5. Số ghe thuyền Trung Hoa từ các nước Đông Nam Á tới Nhật Bản (1647- 1720) .............................................................................................................................. 66 Bảng 2.6. Bảng thống kê thuyền buôn của Hoa thương từ Đàng Trong đến Ngasaki (1647-1683) ................................................................................................................... 67
  7. 6 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, lịch sử dân tộc Việt Nam chứng kiến sự phân liệt sâu sắc giữa các tập đoàn phong kiến. Năm 1592, cuộc chiến tranh Nam triều - Bắc triều kết thúc cũng là lúc nội bộ Nam triều nảy sinh mâu thuẫn giữa hai dòng họ có công trung hưng triều Lê: họ Trịnh và họ Nguyễn. Điều này dẫn tới nước Đại Việt một lần nữa rơi vào tình trạng chia cắt bởi sự phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài, với cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài hơn 200 năm. Tuy nhiên, trong các thế kỷ này, lịch sử Việt Nam cũng đã bước sang một trang mới, cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc mở rộng lãnh thổ về phương Nam, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã thiết lập được một nền ngoại thương khá hưng thịnh, tạo nên một nền kinh tế phát triển ổn định trong một thời gian tương đối dài. Sau khi trở về từ Trung đô (1600), Nguyễn Hoàng quyết chí xây dựng một giang sơn riêng cho họ Nguyễn ở phương nam. Bằng sự tinh tường về chính trị, trong ứng xử với họ Trịnh và trong tầm nhìn chiến lược về quyền lực, Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đời sau nhanh chóng xác định cách thức xây dựng thế và lực trên vùng đất mới. Trên cơ sở các thương cảng của vương quốc Champa trước đó, cùng những chính sách thương mại của các chúa Nguyễn, Đàng Trong đã nhanh chóng hòa nhập vào luồng thương mại quốc tế đang có khuynh hướng mở rộng và phát triển. Bên cạnh đối tác truyền thống là Trung Hoa và các nước Đông Nam Á, chính quyền chúa Nguyễn đặc biệt chú trọng mở rộng mối quan hệ giao thương với nước Nhật Bản. Có thể nói Nhật Bản là một trong những đối tác thương mại được chúa Nguyễn coi trọng nhất bấy giờ. Mối quan hệ giao thương giữa Đàng Trong với Nhật Bản mặc dù chỉ phát triển rực rỡ trong khoảng bốn mươi năm đầu thế kỷ XVII, nhưng thông qua hoạt động trao đổi, buôn bán với thương gia Nhật, chính sách đối ngoại về kinh tế của các chúa Nguyễn được thực thi một cách triệt để. Tính tích cực trong chính sách phát triển ngoại thương là điều kiện thúc đẩy mối quan hệ giao thương giữa Đàng Trong với Nhật Bản diễn ra một cách tốt đẹp. Điều đó đã tạo sự gắn kết giữa thị trường Đàng
  8. 7 Trong với Nhật Bản, khiến nền kinh tế ngoại thương Đàng Trong được kích thích phát triển, tạo một thế đứng chân vững chắc về kinh tế cho chính quyền Phú Xuân. Vì vậy, thực hiện đề tài có thể giúp tác giả rút ra được những khái luận mang ý nghĩa lịch sử về mối quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nhật Bản trong chính sách đối ngoại về kinh tế của chính quyền chúa Nguyễn trong các thế kỷ XVI - XVIII cũng như một thời kỳ duy nhất trong lịch sử phong kiến của dân tộc, kinh tế ngoại thương có sự phát triển rực rỡ ở Đàng Trong. Kinh tế Đàng Trong là một hiện tượng đáng nghiên cứu trong lịch sử kinh tế Việt Nam, nhất là lịch sử kinh tế ngoại thương. Hơn nữa, việc tìm hiểu chính quyền chúa Nguyễn trong quan hệ thương mại với Nhật Bản còn góp phần cung cấp cơ sở khoa học, giúp chúng ta có cái nhìn lịch sử về vai trò của nhà nước, chính quyền trong việc đề ra chính sách, biện pháp trong vấn đề phát triển kinh tế ngoại thương của đất nước hiện nay. Xuất phát từ ý nghĩa đó, nhằm tìm hiểu sâu sắc hơn về mối bang giao giữa Đàng Trong với Nhật Bản cách đây 400 năm, qua đó góp phần giữ gìn và phát huy mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Việt Nam với Nhật Bản hiện nay, tác giả luận văn đã chọn vấn đề “CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI NHẬT BẢN TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XVIII” làm đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Mối quan hệ bang giao giữa chính quyền chúa Nguyễn và Nhật Bản từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, nhất là trên lĩnh vực thương mại vẫn đang là đề tài thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, nhiều bài viết, công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước ít nhiều đã đề cập đến các mảng khác nhau về mối quan hệ bang giao giữa Đàng Trong và Nhật Bản với mức độ chuyên sâu khác nhau được đăng tải trên các tạp chí khoa học. Cụ thể: Đầu thế kỷ XX, Sở Cuồng Lê Dư với “Cổ đại Nam Nhật giao thông khảo” và “Cổ đại ngã quốc dữ Nhật Bản chi giao thông” đăng trên tạp chí Nam Phong, phần Hán văn, số 54 và 56 của quyển IX và quyển X, đã lần lượt giới thiệu 35 bức thư trao đổi giữa chúa Trịnh, chúa Nguyễn và Mạc phủ Tokugawa in trong tập Ngoại phiên thông thư - An Nam quốc thư. Như vậy, có thể nói Sở Cuồng Lê Dư là người Việt
  9. 8 Nam đầu tiên nghiên cứu về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản, đồng thời cũng là người đầu tiên giới thiệu những văn thư trao đổi giữa hai nước trong thế kỷ XVII qua nguồn tư liệu Nhật Bản. Điều này đã khơi nguồn cho những nhà nghiên cứu lịch sử tìm hiểu hệ thống văn thư quan trọng này. Đến nửa sau thế kỷ XX, những tác phẩm, bài viết nghiên cứu về mối quan hệ Việt - Nhật nói chung, Đàng Trong - Nhật Bản nói riêng bắt đầu xuất hiện trên các tạp chí nghiên cứu khoa học. Trước hết kể đến Bửu Cầm đã giới thiệu một số di tích của người Nhật tại Hội An với bài viết “Bang giao lịch sử giữa Việt Nam và Nhật Bản”; Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa) đã phác thảo về mối quan hệ buôn bán của Đàng Trong với Nhật Bản qua bài “Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội An” đăng trên Việt Nam khảo cổ tập san. Trong bài viết, tác giả cho rằng năm 1593 là mốc mở đầu mối quan hệ giao thương giữa Đàng Trong và Nhật Bản và khẳng định vị trí hàng đầu của Hội An trong quan hệ thương mại giữa Nhật Bản với các nước Đông Nam Á từ bảng thống kê số tàu Nhật đến Đông Dương. Năm 1961, Nhà xuất bản (NXB) Sử học phát hành cuốn “Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX” của Thành Thế Vỹ. Đây là tác phẩm có giá trị khoa học để tìm hiểu về nền ngoại thương Việt Nam nói chung, Đàng Trong nói riêng với các nước, trong đó có Nhật Bản. Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến hoàn cảnh trong nước và thế giới tác động đến ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XVII, XVIII và XIX. Trong mối quan hệ buôn bán Việt - Nhật, tác phẩm khái quát các loại hàng hóa, thuế, thể lệ buôn bán giữa hai nước và giới thiệu bức tranh của dòng họ Chaya ở Nhật Bản thế kỷ XVII. Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm trong “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” cũng đề cập đến quan hệ ngoại thương Đàng Trong - Nhật Bản và giới thiệu một số di tích của người Nhật ở Hội An. Phan Khoang với “Việt sử Xứ Đàng Trong 1558-1777”, cũng khái quát những nét lớn về quan hệ của chúa Nguyễn với Nhật Bản trong thế kỷ XVII và trích dịch đại ý nội dung các bức thư được Sở Cuồng Lê Dư đăng lên trước đó. Đặng Chí Huyển trong “Phổ Đà Sơn linh trung Phật” giới thiệu một tư liệu văn bia có giá trị để tìm hiểu hoạt động của Nhật kiều ở Quảng Nam (1640) sau khi Mạc phủ thi hành chính sách “tỏa quốc”.
  10. 9 Từ cuối thập niên 1980, quan hệ Việt Nam và Nhật Bản bắt đầu nồng ấm trở lại, việc học tập, nghiên cứu và trao đổi chuyên môn về ngôn ngữ, văn hóa Việt Nam và Nhật Bản được tăng cường, mở rộng. Trên cơ sở đó, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học quốc tế liên quan đến mối quan hệ hai nước Việt Nam - Nhật Bản thế kỷ XVI - XVIII. Đó là: Tháng 3.1990, giới sử học hai nước đã mở hội thảo quốc tế về “Đô thị cổ Hội An”, nơi còn lưu lại nhiều dấu tích về giao thương Việt Nam và Nhật Bản thế kỷ XVII. Hội thảo quốc tế về phố cổ Hội An năm 1990 là cơ hội để các nhà khoa học trong và nước ngoài trao đổi những kết quả nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành. Trong 38 bài báo cáo khoa học của các tiểu ban khảo cổ học và văn hóa, lịch sử, kiến trúc và bảo tồn đã có một số báo cáo liên quan đến vấn đề quan hệ Đàng Trong - Nhật Bản từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII như Phan Huy Lê với “Hội An: Lịch sử và hiện trạng”; GS. Yoshiaki Ishizawa với “Hội An và cư dân Nhật trước đây”; GS. Kawamoto Kuniye, “Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam căn cứ theo Ngoại Phiên Thông Thư”; Ogura Sadao với “Về bức tranh Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ và Thác kiến Quan thế âm”; Vũ Minh Giang với “Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An”; Shigeru Ikuta với “Vai trò của các cảng thị vùng ven biển Đông Nam Á từ thế kỉ II trước công nguyên đến đầu thế kỉ XIX”; Phan Đại Doãn với “Hội An và Đàng Trong”…Những bài tham luận trên cung cấp nhiều nguồn tài liệu về mặt lịch sử, khảo cổ học và văn hóa để làm sáng tỏ mối quan hệ của Việt Nam - Nhật Bản nói chung, Đàng Trong - Nhật Bản nói riêng trong các thế kỉ XVI - XVIII. Tháng 12.1999, Hội thảo quốc tế “Quan hệ Việt - Nhật qua giao lưu gốm sứ” được tổ chức tại Hà Nội đã làm sáng tỏ thêm về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản qua con đường gốm sứ với các bài tham luận của Tsuzuki Shinichiro trong “Gốm Việt Nam khai quật từ di chỉ hào thành Sakai”, “Gốm sứ Việt Nam qua cuộc điều tra khảo cổ ở Nagasaki” của Mori Tsuyoshi. Các nhà nghiên cứu của Việt Nam như Nguyễn Thừa Hỷ và Phan Hải Linh cũng có bài tham luận “Quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam thế kỷ XVI, XVII” tại Hội thảo… Những bài nghiên cứu của các nhà khoa học hai nước Việt Nam và Nhật Bản đã góp phần cung cấp thêm tư liệu để làm rõ một số vấn đề: kỹ thuật chế tác, đặc điểm gốm sứ và giao lưu hai nước
  11. 10 trong bối cảnh quốc tế, khu vực đang có những chuyển biến lớn về lịch sử, kinh tế xã hội trong các thế kỉ XV - XVII, bổ sung nhận thức toàn diện hơn nữa về giao lưu Đàng Trong - Nhật Bản qua nguồn tư liệu thành văn và khảo cổ học. Gần đây nhất, tháng 11.2013, nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam và Nhật Bản (1973-2013) Hội thảo quốc tế với chủ đề “Lịch sử và triển vọng mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản nhìn từ miền Trung Việt Nam” được tổ chức tại Đà Nẵng. Trong số 13 tham luận được trình bày tại Hội thảo, các tham luận: “Lịch sử giao thương Việt Nam và Nhật Bản - Những phân tích từ đồ gốm sứ Việt Nam giao dịch với Nhật Bản” của Nishino Noriko; “Những tồn nghi quanh nổ lực bang giao giữa Nguyễn Hoàng với Nhật Bản cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII” của Nguyễn Quang Trung Tiến; “Giao thương đường biển giữa miền Trung Việt Nam và Nhật Bản vào thế kỷ XVII - XVIII” của Nguyễn Văn Kim và “Quan hệ giữa dòng họ Chaya và chúa Nguyễn thông qua chiếc chuông đồng và bức tranh Thác Kiến Quan Thế Âm” của Michizuki Shincho…đã tiếp tục góp phần giải mã thêm mối quan hệ giao thương giữa Đàng Trong với Nhật Bản trong các thế kỷ XVI - XVIII. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu được công bố trong thời gian gần đây của các tác giả: “Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỉ XVII và XVIII” do NXB trẻ ấn hành là công trình nghiên cứu của Li Tana - một nhà nghiên cứu Việt Nam học người Trung Hoa. Nội dung của cuốn sách nói về các chính sách cai trị của chúa Nguyễn, các hoạt động thương mại, hệ thống tiền tệ và ngoại thương của khu vực, giải thích tên gọi một số địa danh ở Đàng Trong. Đáng chú ý là tác phẩm đề cập đến hoạt động buôn bán với người nước ngoài ở Đàng Trong, trong đó có Nhật Bản. Trong phần quan hệ ngoại thương với Nhật Bản, tác giả trình bày những hoạt động thư từ qua lại giữa chúa Nguyễn với chính quyền Mạc Phủ; đưa ra số lượng Châu ấn thuyền đến Đàng Trong thông qua bảng số liệu của Iwao Seiichi; nêu các mặt hàng trao đổi chủ yếu giữa Đàng Trong với Nhật Bản, thời gian hoạt động của các Shuinsen. Tuy đây là một tác phẩm của một tác giả nước ngoài nhưng cũng đã thể hiện những hiểu biết khá sâu sắc về Đàng Trong.
  12. 11 “Quan hệ Nhật Bản - Việt Nam thế kỉ XVI - XVII”, luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử thế giới của Thầy Trịnh Tiến Thuận, Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh. Luận án đề cập đến toàn bộ mối quan hệ của hai quốc gia Nhật Bản và Việt Nam, trong đó có đề cập đến mối quan hệ Nhật - Việt tại Đàng Trong mà nổi bật là hoạt động thương mại của người Nhật tại cảng thị Hội An trong các thế kỉ XVI - XVII. Đây là một nguồn tài liệu tham khảo quý để tác giả tiếp thu và phát triển thêm đề tài của mình. Tuy nhiên, luận án của Thầy chỉ nghiên cứu trong khoảng thời gian thế kỉ XVI - XVII và trải rộng vấn đề ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài của Việt Nam. Về mối quan hệ giữa Việt Nam với Nhật Bản, GS.Nguyễn Văn Kim có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này như “Nhật Bản và Châu Á - những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế - xã hội”; hoặc tác phẩm “Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á thế kỷ XV - XVII”, tác giả tập trung thể hiện tổng thể các hoạt động buôn bán của người Nhật trong các thế kỉ XV- XVI tại khu vực Đông Nam Á. Tác phẩm gồm có 4 chương, trong đó chương ba “Quan hệ thương mại Nhật Bản với Đông Nam Á thế kỉ XVI - XVII” trình bày chi tiết về sự xâm nhập của người Nhật vào khu vực Đông Nam Á (trong đó có Đại Việt), hoạt động buôn bán của các thương nhân Nhật thông qua hệ thống Shuinsen (Châu ấn trạng) - giấy phép thương mại do Mạc Phủ cấp, cũng như việc hình thành các “phố Nhật” ở khu vực này (trong đó có Hội An). Tuy tác phẩm không nghiên cứu riêng về quan hệ Đàng Trong - Nhật Bản nhưng qua mối quan hệ tổng thể vẫn có được những nét nổi bật của ngoại thương Việt Nam thời kì này, đặc biệt là vai trò nổi lên của cảng thị Hội An, một cảng trung chuyển mang tầm quốc tế. Bên cạnh đó, còn rất nhiều bài nghiên cứu đề cập đến mối quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nhật Bản của các tác giả trong và ngoài nước được đăng trên các tạp chí như Tân Á học báo, Việt Nam khảo cổ tập san, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á...Có thể điểm qua một số bài như: Kikuchi Seiichi (2003), “Phố Nhật Bản ở Hội An qua nghiên cứu khảo cổ học”, Nghiên cứu lịch sử, số 2, tr. 36-47; Miki Sakuraba (Nguyễn Tiến Dũng dịch) (2008), “Đồ sứ Nhật Bản xuất khẩu đến Việt Nam và Đông Nam Á thế kỉ XVII”, Nghiên cứu lịch sử, số 9+10, tr. 87-96; Nguyễn Văn Kim (2002), “Thương mại Việt Nam - Nhật Bản thế kỉ XVI - XVII”, Nghiên cứu kinh tế, số 3 (286), tr. 56-76; Vũ Duy Mền (2002), “Ngoại
  13. 12 thương Việt Nam thế kỷ XVII- XVIII”, Nghiên cứu kinh tế, số 292, tr.60-68; Nguyễn Văn Kim (2006), “Về các mối quan hệ, giao lưu kinh tế, văn hóa Việt Nam - Nhật Bản trong lịch sử”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5, tr. 36-47; Phan Thanh Hải (2007), “Về những văn thư trao đổi giữa chúa Nguyễn và Nhật Bản (thế kỉ XVI - XVII)”, Nghiên cứu lịch sử, số 7, tr. 59-68; …Tất cả những bài viết này đều chủ yếu tìm hiểu về mối quan hệ của Đàng Trong với Nhật Bản, đặc biệt là hoạt động buôn bán của thương gia Nhật Bản tại Đàng Trong. Như vậy, việc nghiên cứu quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nhật Bản từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII khá phong phú và ngày càng sâu rộng song chưa có tác phẩm nào đi sâu nghiên cứu, đánh giá vai trò của chúa Nguyễn trong mối quan hệ thương mại với Nhật Bản, bao quát toàn bộ mối quan hệ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau của hoạt động đối ngoại về thương mại với Nhật Bản trong vấn đề xây dựng và củng cố quyền lực của các chúa Nguyễn trên vùng đất này. Vì vậy, kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, trên cơ sở hệ thống quá trình hình thành, phát triển của mối quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nhật Bản, luận văn đưa ra những nhận định thỏa đáng về các nội dung mà những công trình trên chưa đề cập đầy đủ. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm tìm hiểu chính quyền chúa Nguyễn trong quan hệ thương mại với Nhật Bản từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Các hoạt động buôn bán, trao đổi giữa thương gia Nhật Bản với Đàng Trong hình thành và phát triển như thế nào? Chính quyền chúa Nguyễn có vai trò gì trong hoạt động thương mại đó? Nó ảnh hưởng ra sao đối với nền kinh tế Đàng Trong ở thế kỷ XVI - XVIII và đặc biệt là mối quan hệ kinh tế đó đã có vai trò, vị trí lịch sử như thế nào trong việc xác lập, củng cố chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Từ đó có thể khẳng định sự lựa chọn mở rộng giao thương với Nhật Bản không phải một sự ngẫu nhiên trong chính sách “mở cửa” của chính quyền Phú Xuân mà là sự tính toán kỹ lưỡng trên cả hai phương diện kinh tế và chính trị.
  14. 13 3.2. Đối tượng nghiên cứu - Nhận thức của các chúa Nguyễn về nhu cầu phát triển thương mại và quốc phòng trong quá trình xây dựng, củng cố lực lượng ở Đàng Trong. Từ đó giải thích nguyên nhân các chúa Nguyễn lựa chọn mở rộng giao thương với các nước trên thế giới và khu vực, trong đó có Nhật Bản. - Khôi phục, phát họa bức tranh về mối quan hệ giao thương của thương nhân Nhật với Đàng Trong. Thông qua hoạt động thương mại đó để phản ánh chính sách đối ngoại về kinh tế của chúa Nguyễn cũng như chính quyền Mạc Phủ liên quan đến vấn đề thương mại. Ngược lại, chính sách đó cũng được thực thế hóa qua hoạt động trao đổi buôn bán. - Đề cập vài nét về “Ngoại phiên thông thư”, một tài liệu quan trọng để nghiên cứu mối bang giao giữa chính quyền chúa Nguyễn với Nhật Bản trong thế kỷ XVII. - Quan hệ thương mại với Nhật Bản có vai trò, ảnh hưởng lớn đến sự khởi sắc của nền kinh tế Đàng Trong và quá trình xác lập, củng cố chính quyền của họ Nguyễn ở Đàng Trong cũng như tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam. 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Xứ Đàng Trong - Về thời gian: Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII 4. Nguồn tài liệu Để hoàn thành bài luận văn của mình, tác giả đã đọc, tham khảo và sử dụng một số nguồn tài liệu sau: Nguồn tài liệu Địa chí có liên quan đến các vùng Thuận Quảng như: Ô châu cận lục của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn…Thế mạnh của nguồn tài liệu này mang đến những thông tin đáng tin cậy về địa danh, nhân vật lịch sử, các phố, chợ, đường, bến đò, thành lũy…Trong đó, tác giá chú ý khai thác cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn nhất là Quyển 4 nói về Lệ thuế đầu nguồn, tuần ty, ao đầm, sông bến, thuế chợ và thuế chuyên chở vàng, bạc, đồng, sắt ở hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam và quyển thứ 6 nói về Sản vật và phong tục. Nguồn tài liệu trong các bộ biên niên dưới thời phong kiến cũng được tác giả tham khảo như: Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt
  15. 14 truyện…Nguồn tài liệu này nói chung ít đề cập đến các hoạt động ở đô thị và tình hình thương nghiệp nước ta. Song, nguồn tài liệu này thỉnh thoảng có ghi chép vài sự kiện của triều đình có liên quan đến hoạt động thương mại ở một số cảng thị như Hội An, Đà Nẵng, Thanh Hà…nhất là chính sách của nhà nước quy định đối với thương nhân nước ngoài. Nguồn tài liệu lưu trữ ở nước ngoài, nhất là Nhật Bản liên quan về quan hệ Nhật - Việt được các dịch giả Việt Nam dịch sang tiếng việt. Đáng kể nhất có bộ “Gwaiban shusho” - Ngoại phiên thông thư, là tập văn kiện ngoại giao của Mạc phủ với các nước trên thế giới vào thế kỷ XVII. Trong đó, phần “An Nam quốc thư” tập hợp những văn thư trao đổi giữa vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn với chính quyền Mạc Phủ, cũng như các thương nhân Nhật Bản đến buôn bán ở Việt Nam và quan chức Nhật Bản vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Đây là một tài liệu quan trọng để nghiên cứu mối quan hệ bang giao giữa chính quyền chúa Nguyễn và Nhật Bản bấy giờ. Nguồn tài liệu du ký của người nước ngoài có mặt ở vùng đất Thuận Quảng trong các thế kỷ đó cũng được tác giả đặc biệt quan tâm. Tuy đó là những ghi chép riêng lẻ, phiến diện mang tính chủ quan của giới thương nhân, giáo sĩ, sư sãi, quan chức…nhưng tập hợp lại thì đó là bức tranh đa dạng, phong phú, phản ánh nhiều mặt về đời sống kinh tế - xã hội của ở Đàng Trong đương thời. Điển hình như tác phẩm Xứ Đàng Trong năm 1621 của Cristoforo Borri; Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688 của William Dampier… Bên cạnh đó, tác giả còn chú ý tới nguồn tư liệu đã được giới thiệu và công bố trong các công trình khoa học ở trong nước, các cuộc hội thảo quốc tế kể trên. Đặc biệt là các công trình khoa học như các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ có liên quan. Ngoài ra, còn có các tài liệu dân tộc học, khảo cổ học liên quan phản ánh một số hoạt động của người Nhật ở Đàng Trong thế kỷ XVI - XVII của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Những nguồn tài liệu trên, được thu thập ở những mức độ khác nhau, đã cung cấp những thông tin hết sức quý giá giúp cho luận văn được hoàn chỉnh. Tuy nhiên, một số vấn đề do tư liệu hiện có còn hạn chế nên chưa được giải quyết thấu đáo. Mong
  16. 15 rằng trong thời gian tới, với những nghiên cứu và phát hiện của các nhà sử học, những vấn đề này sẽ được sáng tỏ. 5. Phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mac - Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó đặc biệt chú trọng đến các quan điểm về khoa học lịch sử. Trong quá trình hoàn thành đề tài, tác giả vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp tiếp cận hệ thống: Đặt mối quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nhật Bản trong hệ thống mối quan hệ ngoại giao giữa Đàng Trong với các nước trên thế giới và khu vực để nghiên cứu. - Phương pháp lịch sử kết hợp phương pháp logic: Ngoài việc trình bày, phân tích và so sánh mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử liên quan mối quan hệ thương mại của Đàng Trong với Nhật Bản từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, đề tài cố gắng đưa ra những luận điểm nhận định về mối quan hệ này trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. - Phương pháp liên ngành: Là một đề tài thuộc lĩnh vực lịch sử quan hệ quốc tế và lịch sử văn hóa, việc kết hợp hai loại tài liệu khảo cổ học và sử học, trong đó tài liệu khảo cổ học đã cung cấp nhiều thông tin để có một cách nhìn khách quan và giải quyết vấn đề tốt hơn. 6. Đóng góp của đề tài Qua nội dung nghiên cứu của luận văn được thực hiện trên cơ sở tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước, tác giả cố gắng đóng góp một số điểm mới: - Bước đầu dựng lại bức tranh mối quan hệ đối ngoại về thương mại của chính quyền chúa Nguyễn với Nhật Bản để thấy được mối liên hệ giữa hoạt động thương mại ở Đàng Trong có sự liên hệ mật thiết qua lại hữu cơ với sự quản lý, khai thác của chính quyền chúa Nguyễn. Nó vừa phản ánh chủ trương chính sách của chính quyền, vừa tác động ảnh hưởng trở lại đến các ý đồ, mục đích của chính quyền Đàng Trong. - Trình bày một số đánh giá về vai trò, vị trí của quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nhật Bản trong chính sách đối ngoại về kinh tế của các chúa Nguyễn.
  17. 16 - Công trình được nghiên cứu theo chuyên đề, nên có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để phục vụ cho quá trình giảng dạy và nghiên cứu ở trường đại học về lĩnh vực quan hệ quốc tế nói chung, cũng như của Đàng Trong với Nhật Bản nói riêng. 7. Cấu trúc của luận văn Tên đề tài của luận văn: CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI NHẬT BẢN TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN THẾ KỈ XVIII Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Điều kiện lịch sử của quan hệ Đàng Trong với Nhật Bản từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII 1.1. Vai trò của Đàng Trong trong quá trình xác lập và củng cố quyền lực của các chúa Nguyễn 1.2. Nhận thức của các chúa Nguyễn về nhu cầu quốc phòng và phát triển thương mại Chương 2: Chính quyền chúa Nguyễn trong quan hệ thương mại với Nhật Bản từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII 2.1. Hoạt động thương mại giữa Đàng Trong với Nhật Bản trong chính sách đối ngoại về kinh tế của các chúa Nguyễn 2.2. Chính sách đối ngoại về kinh tế của chính quyền chúa Nguyễn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII 2.3. Chính quyền Tokugawa Ieyasu và chính sách đối ngoại về kinh tế của Nhật thời kỳ Edo 2.4. Vài nét về “Ngoại phiên thông thư” – một tài liệu quan trọng trong mối quan hệ bang giao giữa chính quyền chúa Nguyễn và Nhật Bản Chương 3: Vị trí lịch sử và vai trò của quan hệ thương mại với Nhật Bản trong chính sách và hoạt động đối ngoại của chính quyền Đàng Trong 3.1. Đối với nền kinh tế Đàng Trong 3.2. Đối với việc củng cố và phát triển quyền lực của các chúa Nguyễn 3.3. Đối với tiến trình lịch sử Việt Nam
  18. 17 CHƯƠNG 1 ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA QUAN HỆ ĐÀNG TRONG VỚI NHẬT BẢN TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XVIII 1.1. Vai trò của Đàng Trong trong quá trình xác lập và củng cố quyền lực của các chúa Nguyễn 1.1.1. Vài nét về xứ Đàng Trong Xứ Đàng Trong hay Nam Hà là tên gọi của vùng đất từ miền Nam sông Gianh trở vào nam thuộc sự cai quản của chính quyền chúa Nguyễn. Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, trải qua bảy lần đánh nhau bất phân thắng bại trong gần nửa thế kỷ (1627- 1672), họ Trịnh và họ Nguyễn phải ngừng chiến, quyết định lấy sông Gianh (tỉnh Quảng Bình) làm giới tuyến tạm thời chia cắt lãnh thổ thành hai miền Đàng Trong - Đàng Ngoài. Từ đó, danh xưng Đàng Trong xuất hiện trong lịch sử Việt Nam để phân biệt xứ Đàng Ngoài hay Bắc Hà của vua Lê - chúa Trịnh. Lãnh thổ Đàng Trong ban đầu chỉ gồm hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam nhỏ hẹp gồm 5 phủ: Tiên Bình, Triệu Phong, Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn 1. Đến 0F thế kỷ XVIII, trong quá trình xây dựng và củng cố quyền lực của mình, lãnh thổ Đàng Trong được các chúa Nguyễn không ngừng mở rộng về phía nam, phần lãnh thổ của vương quốc Champa và Chân Lạp. Trên lãnh thổ phía Nam sông Gianh đến mũi Cà Mau, chúa Nguyễn chia thành 12 đơn vị hành chính gọi là Dinh. Vùng Thuận Quảng cũ gồm 6 dinh: Bố Chính, Quảng Bình, Lưu Đồn, Cựu (hay Chính dinh cũ), Chính Dinh, Quảng Nam. Vùng đất mới khai thác chia làm 6 dinh: Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ. Ngoài ra có một trấn phụ thuộc là Hà Tiên. Vương quốc Champa là vương quốc của người Chăm, nằm ở phía nam của nước Đại Việt xưa, bao gồm địa phận từ tỉnh Quảng Bình đến tỉnh Bình Thuận ngày nay. Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ X, vương quốc Champa trải qua nhiều giai đoạn phát triển hưng thịnh, trở thành một quốc gia có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng mạnh. Trong các thế kỷ XI - XIV, các vương triều Champa liên tiếp có những mâu thuẫn nội bộ, 1 Đất của tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Bình Định hiện nay
  19. 18 Champa ngày càng suy yếu, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại xâm lược và quấy phá vùng giáp giới với các nước xung quanh, trong đó có Đại Việt, làm hao tổn tiềm lực quốc gia. Champa nhiều lần liên kết với Trung Hoa và Chân Lạp tiến đánh Đại Việt. Đến thất bại năm 1471, lãnh thổ Champa bị thu hẹp lại chỉ còn một vùng bằng khoảng 1/5 lãnh thổ trước kia, bao gồm địa phận tỉnh Phú Yên đến tỉnh Bình Thuận ngày nay và bị chia thành ba tiểu quốc nhỏ. Sau sự kiện này, Champa không còn khả năng khôi phục sự phát triển hùng mạnh như trước. Trong thời các chúa Nguyễn các thế kỷ XVI - XVIII, các phần đất còn lại của Champa dần dần được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1611, sau khi đánh bại lực lượng quân đội Champa xâm lấn biên giới, Nguyễn Hoàng mở rộng ảnh hưởng trên lãnh thổ vùng đất từ Cù Mông đến Thạch Bi, lập phủ mới là phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa thuộc dinh Quảng Nam. Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần tiến thêm một bước nữa trên đường tiến vào đất Chiêm Thành khi xác lập chủ quyền vùng đất từ địa đầu Phú Yên đến bờ tả ngạn sông Phan Rang, đặt hai phủ Thái Khang và Diên Khánh. Đến năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu sau khi đánh bại vua nước Champa là Bà Tranh làm phản đã sáp nhập lãnh thổ còn lại của vương quốc Champa vào lãnh thổ Đàng Trong, chỉ để lại cho họ phần đất Thuận Thành và một tước Phiên vương tồn tại thêm một thời gian để đến năm 1697 lập thành phủ Bình Thuận. Phan Rang, Phan Rí được đổi thành huyện Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Triều đình Champa diệt vong. Phần lớn cư dân Champa vẫn sống trên quê hương mình, trong sự hòa nhập văn hóa và hòa đồng dân tộc với người Việt. Người Chăm trở thành một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc của nước Đại Việt. Cũng vào đầu thế kỷ XVII, lưu dân người Việt trên đường chạy trốn cuộc nội chiến, bắt đầu di cư đến vùng đất Thủy Chân Lạp, tiến hành khai khẩn tạo nên hai vùng định cư, một tại Đồng Nai (Biên Hòa), một tại Mô Xoài (Bà Rịa). Vùng đất này ở phía đông nam của nước Chân Lạp (Campuchia ngày nay), tương đương với vùng đồng bằng Nam bộ nước ta ngày nay, trước đó là lãnh thổ của vương quốc cổ Phù Nam. Vương quốc cổ Phù Nam tồn tại đến thế kỷ VII thì bị người Khmer của nước Chân Lạp thôn tính. Sau khi chiếm được lãnh thổ vương quốc Phù Nam, người Khmer đã không tiếp tục xuống phía Nam mà chỉ dừng lại sinh sống trên vùng đất thuộc lãnh
  20. 19 thổ Campuchia ngày nay. Chính quyền Chân Lạp cũng không thể kiểm soát được vùng đất này. Vì vậy, vùng đất này bấy giờ gần như vô chủ và chỉ là những vùng đầm lầy, đất chua phèn, đầy rẫy muỗi, cá sấu, cọp beo. Đến khi những lưu dân người Việt dần dần tiến xuống phía Nam khai phá, vùng đất này dần trở thành vùng đồng bằng trù phú. Từ thời điểm đó, các chúa Nguyễn đã sử dụng nhiều đối sách khác nhau, có khi dùng sức mạnh quân sự để đánh đuổi kẻ thù và phòng thủ từ xa, có khi bằng biện pháp ngoại giao khôn khéo, có khi tiếp nhận đất đai do sự “trả ơn” một cách tự nguyện hay nhờ tạo điều kiện thuận lợi của một cuộc “hôn nhân chính trị” để sáp nhập vùng đất Thủy Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong, hoàn thành quá trình mở rộng xuống phía nam xuất phát từ vùng núi Hoành Sơn của nhà nước phong kiến Đại Việt. Như vậy, trong quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam của nhà nước phong kiến Đại Việt, hai quốc gia Champa và Chân Lạp ngày càng suy yếu và lãnh thổ dần dần sáp nhập vào lãnh thổ của nước Đại Việt. Theo Li Tana đây là một vùng đất mà mọi người thường gọi là “vùng đất mới”, bao gồm lãnh thổ thuộc các tỉnh miền Trung và Nam Trung Bộ ngày nay. Là một dải đất dài và hẹp, nằm giữa núi và biển, được chia thành ba vùng tự nhiên khác nhau: “Vùng thứ nhất, ngày nay là Quảng Nam, là một đồng bằng phì nhiêu, khoảng 1800 cây số vuông. Nước do sông Thu Bồn và nhiều nhánh của con sông này cung cấp. Vùng thứ hai tương ứng với vùng đồng bằng Bình Định trù phú ngày nay, có tổng diện tích là 1.550 cây số vuông, có hai dãy núi khác nhau bao quanh. Hai thung lũng của vùng đất này được sử dụng nguồn nước của hai con sông Đà Rằng và Lai Giang. Vùng thứ ba gồm ba thung lũng thông thương với nhau một cách dễ dàng, một vùng khác biệt, các sách của Trung Hoa được viết trong thời kỳ từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 10 coi đây như là một quốc gia riêng biệt” [80,tr.22]. 1.1.2. Vai trò của Đàng Trong trong quá trình xác lập và củng cố quyền lực của các chúa Nguyễn Vào đầu thế kỷ XVI, triều Lê lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, Mạc Đăng Dung đã nhân cơ hội đó nổi dậy cướp ngôi và lập ra nhà Mạc. Các cựu thần nhà Lê,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2