intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 – 2005)

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:133

96
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 – 2005) nêu lên quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1969 đến năm 1975, từ năm 1976 đến năm 2005; những thách thức, cơ hội và những giải pháp thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 – 2005)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --------------------------------- Lê Thị Yến Anh QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU (1969 – 2005) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --------------------------------- Lê Thị Yến Anh QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU (1969 – 2005) Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGÔ MINH OANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế kỷ XXI trong xu thế chung của thế giới là hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, hợp tác liên kết với nhau giữa các nước, các tổ chức quốc tế là những đòi hỏi cần thiết của các quốc gia và là những đòi hỏi tất yếu khách quan hiện nay. Ngày nay, mỗi một quốc gia muốn phát triển theo kịp xu thế chung của thế giới cần phải “mở cửa” trong quan hệ, thực tế đã chứng minh không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu có hay nghèo khổ cũng không thể “khép kín” tự sản xuất tất cả những sản phẩm phục vụ nhu cầu của mình, vì thế cần phải “mở cửa” trong quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và hợp tác văn hóa - giáo dục để trao đổi học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau. Ở Việt Nam tư tưởng “mở cửa” đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chính sách ngoại giao mở cửa thông thương tạo dựng môi trường chung sống thuận lợi giữa nhân dân Việt Nam với các nước bên ngoài. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ xâm lược nhân dân Việt Nam đã sử dụng ngoại giao làm vũ khí đấu tranh chiến lược phối hợp cùng với mặt trận quân sự tạo nên thế trận vừa đánh vừa đàm. Trong xu thế chung toàn cầu hóa trên thế giới, vào tháng 12 năm 1986 tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới về đối ngoại. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Tuy nhiên, trên thế giới vẫn còn tồn tại những xung đột, mâu thuẩn gay gắt giữa các nước như chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, xung đột vũ trang, các hoạt động can thiệp lật đổ hoặc những hoạt động khủng bố còn diễn ra với nhiều hình thức phức tạp khác nhau.
  4. Trên thế giới sau khi chiến tranh lạnh kết thúc với xu thế chung lấy kinh tế làm trung tâm và quá trình toàn cầu hóa làm cho mối quan hệ giữa các nước lớn với nhau cũng diễn ra nhiều mâu thuẩn khó có thể nói hết được, các nước lớn vừa hợp tác nhưng lại vừa mâu thuẩn cạnh tranh với nhau. Điểm nổi bật của xu thế toàn cầu hóa đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho nền kinh tế trên toàn thế giới giống như một chỉnh thể mà trong đó nền kinh tế của mỗi quốc gia lại là một bộ phận có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Tuy tham gia vào quá trình toàn cầu hóa nhưng mỗi một quốc gia đều hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, đồng thời quá trình toàn cầu hóa cũng đem lại những tính chất phức tạp ảnh hưởng nhiều đến tình hình an ninh chính trị, kinh tế của thế giới hiện nay. Về phía Việt Nam, chủ trương đổi mới của nước ta đã nhanh chóng được thực hiện trong đó có mở rộng chính sách đối ngoại với các nước trên thế giới. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ “nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học – kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại” [25, tr 81]. Đảng và nhà nước Việt Nam đổi mới nhiều chủ trương chính sách và các phương thức hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại để tăng cường mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước, Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa đã xác định quyết tâm muốn mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước trên thế giới, từng bước hội nhập vào xu thế chung của khu vực và quốc tế, là bạn của tất cả các nước nhằm mục đích học hỏi kinh nghiệm, trao đổi hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Đại hội Đảng lần IX đã xác định nhiệm vụ: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẳn sàng làm bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế ” [ 28, tr 42 ].
  5. Với chủ trương muốn “làm bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” Đảng và nhà nước Việt Nam không những đã mở rộng các quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á mà còn mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước phát triển thuộc nhiều khu vực khác nhau trong đó có Liên minh Châu Âu. Đối với các nước Bắc Âu đây là những nước có quan hệ hợp tác lâu dài với Việt Nam, là một trong các đối tác quan trọng của Việt Nam, các nước này đã và đang ủng hộ giúp đỡ hợp tác tích cực với nước ta trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á với những điều kiện tự nhiên, kinh tế thuận lợi đây là một khu vực có nhiều tiềm năng để hợp tác phát triển kinh tế trong nhiều lĩnh vực. Ngoài ra, Việt Nam còn là một thị trường có nhiều tiềm năng với dân số hơn 80 triệu người, lực lượng lao động dồi dào, đất nước đang trong giai đoạn phát triển từng bước hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa vì vậy Việt Nam được đánh giá là một địa chỉ đáng tin cậy để đầu tư và hợp tác. Trong các mối quan hệ hợp tác quốc tế Việt Nam được Liên minh Châu Âu đánh giá cao và tích cực đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác kinh tế song phương, buôn bán hai chiều, các nước Bắc Âu cũng không nằm ngoài quy luật đó các nhà tư bản Bắc Âu đang từng bước thâm nhập vào thị trường rộng lớn ở Việt Nam. Sau khi Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước Bắc Âu, trong giai đoạn đầu Việt Nam chủ yếu nhận viện trợ không hoàn lại từ các nước Bắc Âu. Từ khi Hiệp định khung được chính thức ký kết giữa Việt Nam với Liên minh Châu Âu, mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu được tiến hành trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, giáo dục đào tạo, y tế, khoa học kỹ thuật, du lịch… nhằm nhanh chóng thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật công nghệ, thị trường… từ các nước Bắc Âu để đưa Việt Nam vượt qua tình trạng lạc hậu kéo dài trong nhiều
  6. năm tiến tới việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Bắc Âu không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn đáp ứng những nhu cầu thực tiển của đất nước hiện nay, những kết quả nghiên cứu sẽ giúp chúng ta có được những bài học kinh nghiệm, tìm được những thuận lợi và khó khăn trong mối quan hệ giữa hai bên đồng thời trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp, những chính sách phù hợp để phát huy mối quan hệ hợp tác ngày càng có hiệu quả hơn. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ trước đến nay chưa được các nhà khoa học Lịch sử Việt Nam nghiên cứu. Quá trình phát triển của Việt Nam trong tương lai đòi hỏi cần phải tiếp cận đến những vấn đề hội nhập quốc tế và khu vực mang nhiều lợi ích cho đất nước một cách khách quan nhất. Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiển trên chúng tôi quyết định chọn đề tài “Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 -2005)” với mong muốn khái quát, tổng hợp lại mối quan hệ này. Từ đó đưa ra những nhận định về quá trình phát triển hợp tác giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trên cơ sở tác động của tình hình thế giới, khu vực và sự phát triển nội tại của Việt Nam trong những thời điểm khác nhau. 2. Lịch sử vấn đề Theo hiểu biết của chúng tôi đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể về mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu, chỉ có một số sách đã xuất bản đề cập đến vấn đề này chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế nhưng lại được lồng ghép trong mối quan hệ chung của khu vực EU và thế giới. Ở trong nước có một số sách và công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu Âu” của tiến sĩ Trần Thị Kim Dung, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Luận án “Quan hệ Việt Nam – Liên
  7. hiệp Châu Âu (1990 -2004)” của tác giả Hoàng Thị Như Ý, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2006; “Thúc đẩy quan hệ thương mại đầu tư giữa liên hiệp Châu Âu và Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI” tác giả Bùi Huy Khoát (chủ biên), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; “Việt Nam và các nước Tây Bắc Âu trong tình hình mới, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc” tác giả Nguyễn Dy Niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; “Các quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ quốc tế với Việt Nam” của Bộ Kế hoạch và đầu tư, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2006; “Quan hệ EU –ASEAN trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI. ASEAN những vấn đề và xu hướng” tác giả Bùi Huy Khoát, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; “Hợp tác Á –Âu và vai trò của Việt Nam” tác giả Nguyễn Duy Quý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Mặt khác còn có nhiều bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu được đăng tải trên các tạp chí, các báo như : “Khả năng hợp tác kinh tế Việt Nam - Thụy Điển” của Hoàng Xuân Hòa, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 6 năm 1998; “Hợp tác Việt Nam – Đan Mạch hướng tới thế kỷ 21” của Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 5 năm 1999; “Quan hệ Việt Nam – Na Uy những năm gần đây” của Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 6 năm 1999; “Bước phát triển mới trong quan hệ Việt Nam - Thụy Điển” của Nguyễn Thanh Lan, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 66 năm 2005; “Cộng hòa Phần Lan và quan hệ hữu nghị hợp tác với Việt Nam” của Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 1 năm 2000; “Đan Mạch - Một đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam” của Vũ Chiến Thắng, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 49 năm 2003; “Việt Nam – Đan Mạch: hỗ trợ trên cơ sở bình đẳng” của Hồng Phúc, Tuần báo quốc tế, số 12 năm 1996; “Việt Nam -Thụy Điển: Quan hệ hợp tác quốc tế không ngừng phát triển” của Đỗ Lan Phương, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 3 năm 2000. Ngoài ra còn có một số bài viết khác
  8. được lồng ghép chung với mối quan hệ của EU và thế giới như: “Toàn cầu hóa kinh tế - một số tác động tới quá trình liên kết kinh tế EU – ASEAN” của tiến sĩ Nguyễn An Hà, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 20 năm 2003; “Thúc đẩy quan hệ kinh tế EU –ASEAN: cơ hội phát triển cho các nước thành viên mới của ASEAN” của Hoàng Xuân Hòa, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 50 năm 2003; “Thực trạng và triển vọng hợp tác đầu tư Việt Nam – EU” của Nguyễn Duy Quang, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 1 năm 2000; “Vai trò của Liên minh Châu Âu đối với sự phát triển thương mại Việt Nam” của Hoàng Xuân Hòa, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm 2000; “Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu Âu từ 1995 tới nay”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 6 năm 2001; “Tổng quan về hợp tác Việt Nam – EU năm 2000”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm 2002; “Quan hệ hợp tác Việt Nam với EU về lĩnh vực dầu khí và du lịch” của Vũ Văn Phúc, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm 2002; “Quan hệ kinh tế Việt Nam với Liên minh Châu Âu” của Trần Văn Chu, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 6 năm 2002; “Đổi mới chính sách đối ngoại nhằm phát triển hợp tác Việt Nam – Châu Âu trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao” của Nguyễn Hoàng Giáp, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 54 năm 2003; “Tiến trình hợp tác Á –Âu và sự tham gia của Việt Nam” của Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 59 năm 2004; “Việt Nam trong tiến trình ASEM: cơ hội và thách thức” của Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 61 năm 2005; “Tình hình chính trị - xã hội của EU hiện nay (2001- 2005) và những tác động đến Việt Nam” của Đinh công Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 62 năm 2005; “Hợp tác phát triển Việt Nam – EU những kết quả bước đầu” của Nguyễn Hồng Vân, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 63 năm 2005… Ở ngoài nước: có những công trình nghiên cứu như: Brian B., Coping with Contagion: Europe and the Asian Financial Crisis, Asian Survey,May/June; Dent C.M., The European Union and East Asia: Geo – Economic Diplomacy
  9. and Crisis Management, Global Change: The Impact of Asia in the 21st Century, Macmillan, London… Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo các nguồn tài liệu từ các Văn kiện của Đảng, nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, các Hiệp định, các văn bản ký kết giữa hai nước, các tài liệu liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu được lưu trữ ở Trung tâm lưu trữ Quốc gia II – TPHCM, các số liệu của Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê…Các trang web của Đảng Cộng sản Việt Nam (www.cpv.org.vn),Quốc hội Việt Nam(www.na.gov.vn), Bộ Văn hóa - Thể thao du lịch (www.cinet.vnn.vn), Bộ Ngoại giao Việt Nam (www.mofa.gov.vn), Tổng Cục thống kê (www.gso.gov.vn), Bộ kế hoạch đầu tư (www.mpi.gov.vn), Bộ Công Thương (www.mot.gov.vn)..... Còn có một số trang website khác của Đại sứ quán các nước Bắc Âu như: Đại sứ quán Thụy Điển (www.hanoi.embassy.ud.se), Đại sứ quán Na Uy (www.norway.org.vn ), Đại sứ quán Phần Lan ( www.finland.org.vn/en/ ), Đại sứ quán Đan Mạch ( www.dk-vn.dk), Tổ chức hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) (www.Sida.moci.gov.vn), Chương trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam - Thụy Điển (www.sarec.gov.vn)... Nhìn chung tài liệu này tương đối nhiều nhưng không hệ thống và khái quát các vấn đề về quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu, các số liệu trích dẫn từ nhiều nguồn có sự chênh lệch nhau, không nhất quán đã gây không ít khó khăn trong quá trình tổng hợp và phân loại tài liệu của người thực hiện đề tài. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng hai phương pháp chuyên ngành là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Đồng thời chúng tôi cũng vận dụng cơ sở phương pháp luận, các phương pháp liên ngành khác như
  10. phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, phương pháp nghiên cứu kinh tế… và các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê. Dựa vào phương pháp lịch sử chúng tôi muốn dựng lại toàn bộ quá trình lịch sử trong mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu qua các sự kiện, dấu mốc và từng giai đoạn cụ thể của mối quan hệ dưới sự tác động của tình hình thế giới, khu vực và tình hình phát triển của Việt Nam. Trên cơ sở của bức tranh lịch sử toàn cảnh, phương pháp logic vạch ra những bản chất của mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu nhằm tìm ra được những thuận lợi, những khó khăn trong mối quan hệ hợp tác giữa các bên và tìm ra những giải pháp thúc đẩy mối quan hệ có hiệu quả hơn trong tương lai. Trong quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu chúng tôi vận dụng những quan điểm cơ bản tư tưởng của Hồ Chí Minh trong chính sách đối ngoại và những quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới .Bên cạnh đó chúng tôi luôn bám sát vận dụng những quan điểm đánh giá nhận định của Đảng về tình hình quốc tế và khu vực trong những văn kiện Đảng đặc biệt về những chính sách đối ngoại và xem đây là cơ sở mang tính lý luận và định hướng trong quan điểm và tiếp cận nguồn tài liệu . 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu  Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian, giới hạn đề tài trong khoảng thời gian từ năm 1969 đến năm 2005 trong đó lấy Việt Nam làm chủ thể nghiên cứu chính. Sở dĩ chúng tôi chọn mốc thời gian từ 1969 – 2005 vì từ năm 1969 Thụy Điển là nước Châu Âu đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa trong lúc cuộc chiến tranh chống Mĩ của nhân dân Việt Nam đang diễn ra quyết liệt. Chúng tôi chọn năm 2005 là mốc kết thúc vì trong năm này Việt Nam đã mở Đại sứ quán Việt Nam tại Helsinki, sự kiện này đã mở ra một bước tiến trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Phần Lan nhất là trong lĩnh vực thương mại và
  11. đầu tư. Tuy nhiên, để làm rõ hơn nữa mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu chúng tôi có đề cập đến mối quan hệ này trong giai đoạn trước năm 1969. Sở dĩ, chúng tôi không chọn mốc thời gian khởi đầu cho việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1945 trước khi hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ vì trong giai đoạn này quan hệ giữa hai bên bị chi phối bởi trật tự hai cực Ianta, quan hệ quốc tế trên thế giới lúc này được tuân theo chuẩn mực cùng nhau hay khác nhau về ý thức hệ. Ngoài ra, trong chính sách đối ngoại của các nước Bắc Âu đều thực hiện chính sách đối ngoại trung lập, không liên kết quân sự vì thế giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu chưa thiết lập được quan hệ chính thức nào. Năm 1954 được chúng tôi chọn làm mốc khởi đầu cho việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trước khi hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao vì trong thời gian này mặc dù thực hiện chính sách đối ngoại trung lập nhưng các nước Bắc Âu vẫn muốn giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn. Từ năm 1954 từng nước Bắc Âu đã thiết lập mối quan hệ song phương với chính quyền miền Nam Việt Nam. Sau khi nhận thấy nguy cơ sa lầy và thất bại của Mĩ, cùng với các phong trào đấu tranh của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới phát triển mạnh, nên năm 1969 Thụy Điển là nước Bắc Âu đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.  Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Bắc Âu (Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch) trong điều kiện tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động do đó những chính sách, biện pháp trong các chính sách đối ngoại của chính phủ Việt Nam phải phù hợp với tình hình chung của thế giới. Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lấy Việt Nam làm chủ thể nghiên cứu chính trong mối quan hệ giữa các bên.
  12. 5. Đóng góp của luận văn - Trên cơ sở phân tích, so sánh các tài liệu thu thập được, chúng tôi cố gắng hệ thống lại hoàn chỉnh mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trên nhiều lĩnh vực hợp tác từ năm 1969 đến năm 2005 với những thuận lợi lẫn khó khăn. - Trên cơ sở của mối quan hệ này, chúng tôi đưa ra những nhận xét, đánh giá để nhìn thấy được những khó khăn trong quá khứ để có những chính sách phù hợp. Từ đây rút ra những bài học kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và thách thức trong bối cảnh của tình hình mới, từ đó đề ra những giải pháp hợp lý nhằm thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị hợp tác có hiệu quả hơn nữa trong hiện tại và tương lai. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Lịch sử, Quan hệ quốc tế… 6. Bố cục của luận văn Luận văn bao gồm: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được triển khai qua 3 chương: Chương 1: Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1969 đến năm 1975. Chương 2: Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1976 đến năm 2005. Chương 3: Những thách thức, cơ hội và những giải pháp thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu.
  13. Chương 1: QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1975 1.1. Khái quát mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trước khi đặt quan hệ ngoại giao cấp đại sứ (1954 -1968) 1.1.1. Đôi nét về các nước Bắc Âu Khu vực Bắc Âu gồm ba nước nằm trên bán đảo Scandinavia (Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan) và hai nước Aixơlen, Đan Mạch. Khu vực Bắc Âu nằm ở các vĩ độ cao nhất của châu Âu, có địa hình băng hà cổ, khu vực Bắc Âu có diện tích khoảng 1.258.423 km2 trong đó Thụy Điển là quốc gia có diện tích lớn nhất (449.964 km2) phần lớn diện tích ở đây nằm trong vùng khí hậu ôn đới lục địa, lạnh. Mặc dù, Bắc Âu có những đặc điểm khí hậu chung giống nhau như giá rét vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hạ. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt về khí hậu giữa các nước trong khu vực nhất là hai bên dãy núi Scandinavia, Thụy Điển, Phần Lan nằm ở phía đông nên có mùa đông rất lạnh, tuyết rơi vào khoảng tháng 10 trong năm, còn Na Uy nằm ở phía tây nên có khí hậu ấm hơn, mùa đông không lạnh lắm, mùa hạ mát và mưa nhiều. Đa số cư dân ở Bắc Âu có mức sống cao, nền kinh tế ở đây phát triển nhanh chóng nhờ biết khai thác hợp lý những nguồn tài nguyên thiên nhiên sẳn có để phát triển. Nguồn tài nguyên quan trọng ở Bắc Âu là dầu mỏ, rừng, quặng sắt, đồng, uranium, nguồn thuỷ năng, cá biển…trong đó nguồn thuỷ điện được xem là lợi thế lớn ở Bắc Âu, do có nguồn thuỷ điện dồi dào và rẻ nên thuận lợi cho công nghiệp phát triển. Nói đến Bắc Âu là nói đến kinh tế biển, kinh tế biển giữ vai trò quan trọng và là nguồn thu ngoại tệ lớn của mỗi nước ở khu vực này, ngoài kinh tế biển các nước Bắc Âu còn phát triển các ngành công nghiệp khai thác dầu khí, công nghiệp khai thác rừng, sản xuất đồ gỗ, giấy… Các nước trong khu vực Bắc Âu có mối quan hệ lịch sử gắn kết lẫn nhau, năm 1370 các nước Bắc Âu liên minh với nhau thành lập ra Liên minh Kalmar
  14. gồm các nước Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy do Đan Mạch đứng đầu. Đan Mạch và Thụy Điển là hai quốc gia thường xuyên xảy ra chiến tranh để tranh giành ảnh hưởng ở bán đảo Scandinavia, thế kỷ XVII – XVIII là thời kỳ phát triển cực thịnh của nhà nước phong kiến Thụy Điển, Thụy Điển tiến hành chiến tranh thôn tính các nước láng giềng (Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan) nhưng đến thế kỷ XIX các nước Bắc Âu bị Nga gây chiến và áp đặt sức ảnh hưởng của mình ở khu vực này. Thế kỷ XX các quốc gia ở Bắc Âu lần lượt tuyên bố độc lập, thực hiện chính sách đối ngoại trung lập không đứng về bên nào trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Ngoài ra, để gìn giữ và phát triển mối quan hệ hợp tác giữa các nước Bắc Âu trên các các lĩnh vực như luật pháp, văn hoá xã hội, kinh tế, an ninh quốc phòng, giao thông vận tải… các nước Bắc Âu đã thống nhất thành lập Hội đồng Bắc Âu (16/3/1952) Hội đồng Bắc Âu có vai trò cố vấn cho chính phủ các nước Bắc Âu về những vấn đề có liên quan đến việc hợp tác giữa các nước trong khu vực.  Vương quốc Đan Mạch Đan Mạch nằm ở khu vực Bắc Âu, phía nam giáp Cộng hòa Liên bang Đức, ba mặt còn lại giáp với biển Bắc và biển Bantich, Đan Mạch bao gồm có một bán đảo (Jutland nối Đan Mạch với Châu Âu) và 500 đảo nhỏ khác nhau. Đan Mạch còn có hai vùng đất tự trị trực thuộc đảo Greenland (2.166.086 km2) và quần đảo Faroe (1.399 km2). Phần lớn lãnh thổ của Đan Mạch là đảo và các bán đảo, trong đó có 79 hòn đảo có cư dân sinh sống. Mặc dù, Đan Mạch là một quốc gia có diện tích vào loại nhỏ nhất ở Châu Âu nhưng Đan Mạch lại có mật độ dân cư khá lớn khoảng 121 người/km2, Đan Mạch có bờ biển dài khoảng 7.300 km, lãnh thổ Đan Mạch là một vùng đất thấp hơn mực nước biển nơi cao nhất cũng chỉ cao 178m. Nằm ở bán đảo Scandinavia Đan Mạch có một vị trí
  15. quan trọng trong việc thông thương buôn bán giữa các nước trên bán đảo Scandinavia và một phần còn lại của Châu Âu. Khí hậu của đất nước Đan Mạch tương đối ôn hòa do có dòng hải lưu nóng Gulf Stream chảy qua đất nước vì thế nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 7,90C, trong đó lạnh nhất là tháng 2 với nhiệt độ trung bình – 40C, tháng 7 là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình khoảng 16,60C. Đan Mạch theo thể chế quân chủ lập hiến, đứng đầu nhà nước hiện nay là Nữ hoàng Margrethe II (nữ hoàng Margrethe II sinh vào ngày 16/4/1940, năm 1967 bà kết hôn với bá tước người Pháp Henri de Laborde de Monpezat, ngày 14 tháng 1 năm 1972 bà lên ngôi nữ hoàng thay cho vua cha là Frederik IX cai trị vương quốc Đan Mạch). Thủ tướng Đan Mạch hiện nay là Anders Fogh Rasmussen thuộc Đảng Tự do. Chính phủ Đan Mạch là một cơ quan hành pháp, Nữ hoàng chỉ định Thủ tướng, Thủ tướng là người điều hành các thành viên trong chính phủ và các thành viên trong chính phủ nội các do Thủ tướng lập ra phải được Nữ hoàng chấp thuận. Đan Mạch là nước có rất ít tài nguyên khoáng sản, ở Đan Mạch nguồn tài nguyên chủ yếu là đồng ruộng, biển, đất sét và đá vôi tuy nhiên Đan Mạch đã biết sử dụng những thế mạnh của mình để xây dựng Đan Mạch thành một nước công nghiệp phát triển cao, công nghiệp chiếm hơn 40% nguồn thu nhập quốc dân. Do Đan Mạch là một nước công nghiệp phát triển nên người dân ở đây có mức sống khá cao, từ trước đến nay ở đất nước này khoảng cách giàu nghèo luôn ở tỷ lệ thấp hơn so với nhiều nước phát triển khác trên thế giới, nhờ tiếp giáp biên giới với một trong những quốc gia hùng mạnh trong liên minh Châu Âu là Cộng hòa liên bang Đức nên Đan Mạch đã hướng các hoạt động kinh tế và chính trị của mình về phía nam nhưng bên cạnh đó Đan Mạch cũng có những mối quan
  16. hệ chặt chẽ với Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan ở phía bắc (3 nước này chiếm tới 41% trao đổi thương mại của Đan Mạch). Do có vị trí địa lý thuận lợi nên Đan Mạch có mối quan hệ gắn bó với những nước Tây Bắc Âu và Mỹ, Đan Mạch luôn ủng hộ cho một Châu Âu thống nhất, luôn vững mạnh trong kinh tế, chính trị, an ninh và quốc phòng để làm chổ dựa vững chắc cho Đan Mạch. Đan Mạch là nước đã sớm tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực như khối EFTA, Hội đồng Bắc Âu, tham gia vào tổ chức NATO nhưng lại không cho phép tổ chức NATO được thiết lập căn cứ hạt nhân của NATO trên lãnh thổ của mình trong thời gian hòa bình Đan Mạch chỉ ủng hộ NATO một tổ chức để phòng thủ. Đan Mạch còn tham gia vào các tổ chức như EMS, UN, OECD, IMF, WTO, Đan Mạch tham gia vào liên minh Châu Âu năm 1973 để thúc đẩy mối quan hệ kinh tế, chính trị ở khu vực, mặc dù tham gia vào liên minh Châu Âu nhưng Đan Mạch vẫn chưa tham gia vào hệ thống đồng tiền chung Châu Âu (Euro).  Cộng hòa Phần Lan Phần Lan nằm trên bán đảo Scandinavia ở khu vực Bắc Âu, phía tây giáp với Thụy Điển, phía đông và đông nam giáp với Nga, phía bắc giáp với Na Uy và phía nam giáp Estonia qua vịnh Phần Lan. Gần 1/3 lãnh thổ của Phần Lan nằm ở phía vành đai Bắc cực, hồ chiếm 1/10 diện tích của Phần Lan với tổng số khoảng 50.000 hồ trong đó có hồ Saimaa là hồ lớn nhất với diện tích 4.400 km2. Vịnh Bothnia ở phía tây và vịnh Phần Lan ở phía nam vào mùa đông thường đóng băng các cảng phải sử dụng máy phá băng để tàu thuyền thuận lợi lưu thông, đất đai ở Phần Lan đa phần là đất băng giá từ khu vực phía tây bắc có núi cao với đỉnh lên đến 1.342 m còn phần lớn diện tích còn lại là vùng đất thấp hơn mực nước biển. Phần Lan có mùa hè ấm, mùa đông rất lạnh và kéo dài nhất là ở phía Bắc. Do nằm ở gần Bắc cực nhưng có dòng hải lưu nóng Gulf Stream chảy qua lãnh
  17. thổ nên nhiệt độ ở Phần Lan cao hơn hẳn so với các nước khác trên cùng vĩ tuyến, ở Phần Lan khí hậu có sự khác biệt rõ rệt giữa mùa đông và mùa hè, ở thủ đô Helsinki nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 5,3oC vào ban ngày nhiệt độ cao nhất ở miền nam Phần Lan đôi lúc lên đến 30oC nhưng vào mùa đông tháng 1, tháng 2 nhiệt độ thường xuộng dưới – 20oC. Ở phía cực bắc của Phần Lan ở dưới vùng Bắc cực khi vào mùa hè có lúc mặt trời không lặn trong thời gian rất lâu khoảng 73 ngày, người ta còn gọi là những ngày “hè đêm trắng” còn vào mùa đông ở vùng Bắc cực của Phần Lan một mùa đông lạnh và kéo dài mặt trời không mọc trong 51 ngày liền. Phần Lan theo chế độ cộng hòa, quyền lập pháp thuộc về quốc hội và tổng thống, quyền hành pháp thuộc về tổng thống và chính phủ. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước được nhân dân bầu cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu trong nhiệm kỳ 6 năm, từ năm 1991 ở Phần Lan không có một vị tổng thống nào được tại nhiệm quá hai nhiệm kỳ liên tiếp, hiện nay đứng đầu nhà nước ở Phần Lan là nữ tổng thống Tarja Halonen, bà nhậm chức tổng thống vào năm 2000 và được tái đắc cử vào năm 2006. Phần Lan phát triển đồng đều cả về nông nghiệp lẫn công nghiệp, Phần Lan nổi tiếng về khai thác gỗ, công nghiệp đánh cá cũng phát triển đáng kể bên cạnh đó việc sản xuất các mặt hàng sữa đủ đảm bảo cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Từng bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh và phải bồi thường một khoản tiền lớn vào giữa những năm 1940 nhưng Phần Lan đã vươn lên trở thành một nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới với những ngành công nghiệp mũi nhọn có trình độ kỹ thuật cao. Phần Lan luôn theo đuổi chính sách ngoại giao trung lập giữ cân bằng trong các mối quan hệ với các nước, không tham gia vào các khối quân sự lớn trên thế giới, Phần Lan luôn ủng hộ thúc đẩy các hoạt động vì hòa bình, làm giảm căng thẳng tình hình thế giới Phần Lan là thành viên tích cực của EU, ưu tiên
  18. quan hệ với những nước láng giềng Bắc Âu, Nga và các nước vùng Bantich, năm 1950 Phần Lan trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), gia nhập Liên hiệp quốc năm 1955, trở thành thành viên của Bắc Âu năm 1956, năm 1969 tham gia Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), liên kết với khối mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) năm 1961 và trở thành thành viên đầy đủ vào năm 1986, năm 1973 Phần Lan ký hiệp định tự do thương mại với cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC), Phần Lan gia nhập Liên minh Châu Âu năm 1995 và EMU từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Ngoài ra, Phần Lan còn là thành viên của Tổ chức quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và nhiều ngân hàng trên thế giới, Phần Lan là quốc gia duy nhất ở Bắc Âu tham gia đồng tiền chung Euro bắt đầu vào năm 1999. Trong chính sách đối ngoại của mình Phần Lan luôn coi trọng chính sách viện trợ và hợp tác phát triển và coi đây là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình, thông qua những viện trợ phát triển của mình Phần Lan mong muốn hỗ trợ các nước nghèo cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và thông qua đó Phần Lan muốn tăng cường khả năng thu hút đầu tư, thương mại của các nước này nhằm mục đích từng bước xóa bỏ tình trạng nghèo đói trên thế giới.  Vương quốc Na Uy Na Uy nằm ở phía tây của Scandinavia với bờ biển lởm chởm bị chia cắt bởi nhiều vịnh hẹp và khoảng 50.000 hòn đảo trải dài hơn 2500 km, Na Uy có biên giới đường bộ ở phía đông chung với Thụy Điển, Phần Lan, Nga. Diện tích lãnh thổ của Na Uy lớn hơn Đức nhưng phần lớn lãnh thổ của Na Uy là núi non ngoài ra còn có nhiều sông băng và thác nước. Na Uy có diện tích 385.156 km2 trong đó đất đai ở chính quốc có diện tích 323.759 km2, phần còn lại là quần đảo Svalbard giáp với đảo Greenland thuộc Đan Mạch có diện tích là 61.020 km2 và đảo Jan Mayen có diện tích 377 km2.
  19. Do có dòng hải lưu Gulf Stream chảy qua nên Na Uy có nhiệt độ ấm và lượng mưa lớn, lục địa có bốn mùa riêng biệt với mùa đông lạnh và ít mưa hơn trong đất liền trong khi đó vùng cực Bắc có khí hậu cận Bắc cực, quần đảo Svalbard có khí hậu tundra Bắc cực. Trong khi đó, ở bờ biển phía tây thường có mưa to với lượng mưa hàng năm lên đến 1958 mm, ở Na Uy có sự khác biệt theo mùa lớn trong ngày, ở các vùng phía bắc Bắc cực mặt trời mùa hè có thể không bao giờ xuống dưới đường chân trời do đó người ta miêu tả Na Uy như là “vùng đất của mặt trời lúc nửa đêm” nhưng trong mùa hè ở vùng phía nam Bắc cực người dân Na Uy lại được hưởng ánh sáng của mặt trời trong vòng 20 giờ. Vương quốc Na Uy theo chế độ quân chủ lập hiến với một chính phủ theo hệ thống nghị viện, hiến pháp năm 1814 của Na Uy quy định quân chủ lập hiến theo chế độ cha truyền con nối Vua có nhiều quyền hành nhưng hiện nay vua Harald V (lên ngôi vào 17/1/1991) chỉ mang tính nghi lễ, có ảnh hưởng như một biểu tượng thống nhất của quốc gia toàn bộ quyền lực chính trị đều thuộc về cơ quan hành pháp đứng đầu là Thủ tướng. Na Uy là một nước có nền kinh tế hỗn hợp có sự kết hợp giữa hoạt động thị trường tự do và sự sở hữu lớn của nhà nước, chính phủ kiểm soát các ngành kinh tế chủ chốt như dầu mỏ, sản xuất năng lượng thủy, ngân hàng, chế tạo nhôm, các dịch vụ viễn thông. Na Uy có nhiều tài nguyên phong phú bao gồm dầu mỏ, thủy năng, đánh cá, lâm nghiệp, khoáng chất…Na Uy là nước có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên so với quy mô của dân số vì thế Na Uy là một trong những nước có những tiêu chuẩn cao nhất trên thế giới, những nguồn tài nguyên quý như dầu khí hay những ngành công nghiệp liên quan đều là những ngành kinh tế quan trọng, tỷ lệ thất nghiệp ở Na Uy rất thấp. Sau năm 1945 Na Uy đã thay đổi chính sách đối ngoại của mình từ “trung lập hạn chế” sang liên minh quân sự, gia nhập vào Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) nhằm đảm bảo an ninh, quốc phòng cho Na Uy. Na Uy chủ
  20. trương gia nhập vào liên minh Châu Âu (EU) giống như các nước Bắc Âu khác nhưng chưa được đa số người dân Na Uy đồng ý mặc dù chưa gia nhập EU nhưng Na Uy vẫn quan hệ kinh tế thương mại hợp tác với các nước thành viên EU, quan hệ hợp tác với các nước Bắc Âu khác thông qua Hội đồng Bắc Âu, ngoài ra Na Uy còn đẩy mạnh hợp tác tiểu vùng với các nước xung quanh biển Baltic.  Vương quốc Thụy Điển Thụy Điển nằm ở phía đông bán đảo Scandinavia, giáp với Na Uy, Phần Lan, vịnh Bôtnhia và biển Bantich. Thụy Điển có điểm thấp nhất so với mực nước biển là 2,4m ở Schonen trãi dài từ phía bắc của Schonen là cao nguyên nam Thụy Điển, vùng đất này có nhiều đồi núi với nhiều hồ, còn ở miền trung của Thụy Điển là một vùng đất bằng phẳng nhưng bị chia cắt bởi các đồng bằng lớn, đồi núi, vịnh hẹp và các hồ. Khí hậu Thụy Điển tương đối ôn hòa do nằm ở gần Đại Tây Dương với dòng hải lưu Gulf Stream ấm áp, Thụy Điển có khí hậu ẩm mưa nhiều, nhiệt độ ít thay đổi giữa mùa đông và mùa hè, mùa đông lạnh và dài còn mùa hè ấm. Thụy Điển theo chế độ quân chủ lập hiến,Vua (Carl XVI Gusstaf sinh ngày 30/4/1946 lên ngôi năm 1973) không có quyền lực chính trị Vua chỉ tham gia vào các hoạt động mang tính lễ nghi như khai mạc quốc hội hàng năm, chủ trì hội đồng cố vấn đối ngoại hoặc nhận thư ủy nhiệm của các đại sứ từ các nước đến nhận nhiệm sở tại Thụy Điển. Quyền lực thuộc về quốc hội và chính phủ. Thụy Điển có nền công nghiệp phát triển cao, ở Thụy Điển có các ngành kinh tế chính gồm công nghiệp chế tạo (chế tạo ô tô hoặc động cơ máy bay) công nghiệp chế tạo là một ngành công nghiệp lớn nhất trong tất cả các ngành công nghiệp Thụy Điển có nhiều công ty lớn với các công ty chế tạo xe cơ giới như công ty Volvo, Scania, Saab, Saab AB; công nghiệp gỗ và giấy chiếm 16% giá trị sản xuất công nghiệp của Thụy Điển trong đó có 4 công ty lớn, công nghiệp chế
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2