VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐÀO HẢI DUNG
ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA
NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ SỞ
Y-DƯỢC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐÀO HẢI DUNG
ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA
NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ SỞ
Y-DƯỢC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ THÚY LÂM
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nghiên cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn trích
dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất
kỳ công trình nào đã được công bố.
Tác giả
Đào Hải Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM
DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO
ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ...................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao
động của Người sử dụng lao động. ........................................................... 7
1.2. Điều chỉnh pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ. .................................................................................................. 14
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐƠN
PHƯƠNG CHẤM DỨT HĐLĐ CỦA NSDLĐ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI CÁC CƠ SỞ Y - DƯỢC CỔ TRUYỀN ...................... 28
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đơn phương chấm dứt HĐLĐ
của NSDLĐ. ............................................................................................ 28
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động của người sử dụng lao động tại các cơ sở Y, Dược cổ truyền . 54
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT
HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TẠI
CÁC CƠ SỞ Y-DƯỢC CỔ TRUYỀN ........................................................ 66
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ ................................................................................. 66
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ tại các cơ sở Y-
Dược cổ truyền Việt Nam ....................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLLĐ Bộ luật lao động
HĐLĐ Hợp đồng lao động
NSDLĐ Người sử dụng lao động
NLĐ Người lao động
QHLĐ Quan hệ lao động
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hành vi pháp lí trong đó thể hiện ý
chí của một bên chủ thể nhằm chấm dứt quan hệ lao động với bên kia. Ý chí
này được biểu thị ra bên ngoài dưới hình thức nhất định và phải được truyền
đạt tới chủ thể đối tác mà không cần thiết phải được chủ thể đó chấp nhận. Về
nguyên tắc, hình thức để biểu thị ý chí có thể bằng văn bản hay bằng lời nói.
Cả hai bên là NSDLĐ và NLĐ đều phải có nghĩa vụ thực hiện HĐLĐ. Quyền
từ bỏ nghĩa vụ cam kết của hai bên chỉ có thể thực hiện trong giới hạn mà
pháp luật quy định. Tuy nhiên, trên thực tế do trình độ và ý thức pháp luật của
các bên tham gia quan hệ lao động còn hạn chế, do sự thiếu hiểu biết pháp
luật, thiếu tôn trọng lợi ích của nhau và nhiều nguyên nhân khác mà không ít
trường hợp NSDLĐ và NLĐ đã phá vỡ trật tự trên. Việc phá dỡ trật tự đó
được coi là đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ bên cạnh mặt tích cực là
giúp cho NSDLĐ sàng lọc NLĐ không đáp ứng được yêu cầu, giúp cho
NSDLĐ trong điều kiện gặp phải kinh doanh khó khăn, mặt khác đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ cũng có thể gây bất lợi, khó khăn cho NLĐ,
gây thiệt hại cho NLĐ và không chỉ ảnh hưởng xấu trực tiếp tới người lao
động mà ảnh hưởng xấu đến toàn xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần tạo khung
pháp lý để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ đối với NLĐ, đồng thời đảm bảo sự ổn định, cân bằng
trong quá trình sử dụng lao động của NSDLĐ. Bộ luật lao động năm 2012 đã
ra đời trong hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, sau nhiều năm áp dụng, thực thi trên
thực tế, trước áp lực của hội nhập thương mại và phát triển kinh tế xã hội dẫn
đến sự phát triển nóng về nhu cầu sử dụng lao động của Việt Nam trong
những năm gần gây, pháp luật lao động đã bộc lộ một số vấn đề chưa hợp lý,
chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, gây vướng mắc trong quá trình áp
dụng. NSDLĐ vẫn còn gặp khó khăn, bất cập gây tranh cãi, yêu cầu đặt ra cần
phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật lao động để phù hợp với sự phát triển chung
của xã hội.
1
Các cơ sở Y, Dược cổ truyền là đơn vị sử dụng khá nhiều lao động.
Thực tế trong những năm qua, đã phát sinh hiện tượng vi phạm luật lao động,
đặc biệt là việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ không đúng pháp luật, nên tiềm
ẩn nhiều nguy cơ bùng nổ các tranh chấp lao động trong thời gian tới. Để đảm
bảo cho quan hệ lao động tại các cơ sở Y, Dược cổ truyền phát triển hài hòa
và ổn định, góp phần thúc đẩy sản xuất, tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã
hội cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của NLĐ và
NSDLĐ, hạn chế các tranh chấp lao động phát sinh, việc nghiên cứu các quy
định của pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hết sức cần thiết .
Nhận thức được vấn đề trên tác giả đã chọn đề tài: “Đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động từ thực tiễn các cơ sở
Y-Dược cổ truyền ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình
nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về đơn phương chấm dứt
HĐLĐ đồng thời có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực này. những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về chấm dứt hợp đồng lao động là một nhu cầu bức thiết và có ý nghĩa cả về
lý luận cũng như trên thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ là vấn đề quan trọng nên
cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể đến các
công trình nghiên cứu sau:
Bài tạp chí:
Bài viết của Tiến sĩ Đào Thị Hằng, Tạp chí Luật học ( số 01/2001) về
“Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” [9]; Bài viết của PGS.TS
Nguyễn Hữu Chí, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật ( số 09/2002) về “ Chấm
dứt Hợp đồng lao động” [4]; Bài viết của Nguyễn Thị Hoa Tâm, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật ( số 08/2009) về “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động”[23]; Bài viết của Phạm Công Bảy, Tạp chí Toà án nhân dân ( số
03/2007) về “ Vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động- lý luận và
thực tiễn” [1]; bài viết của Thạc sĩ Vũ Thị Thu Hiền, Tạp chí Nghề luật
(2010) về “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử
2
dụng lao động – từ quy định của pháp luật đến thực tiễn áp dụng”[10]; bài
viết của Tiến sĩ Trần Hoàng Hải & Thạc sĩ Đỗ Hải Hà, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp (2011) về “Hoàn thiện quy định về trách nhiệm của người sử dụng
lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật” [8].
Đặc biệt gần đây khi BLLĐ năm 2019 ra đời cũng đã có một số Bài viết
về vấn đề này như bài :“ Những điểm mới của BLLĐ năm 2029 về thực hiện
và chấm dứt HĐLĐ” của TS. Nguyễn Xuân Thu, Tạp chí Nghề Luật số 3 năm
2020. Bài viết đã đề cập đến những điểm mới của BLLĐ năm 2019 về thực
hiện và chấm dứt HĐLĐ, trong đó có việc chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ.
Bài viết :” Chế định HĐLĐ theo BLLĐ năm 2019” của PGS.TS. Trần Thúy
Lâm và ThS. Trần Minh Tiến, Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 5/2020.
Bài viết phân tích những điêm mới của BLLĐ năm 2019 về giao kết, thực hiện
và chấm dứt HĐLĐ.
Về luận văn,luận án:
Có: Luận án tiến sĩ luật học (2002) của Nguyễn Hữu Chí với đề tài
“Hợp đồng lao động trong cơ chế thị trường ở Việt Nam”; Luận án tiến sĩ
Luật học (2007) của Trần Thị Thuý Lâm với đề tài “ Pháp luật về kỷ luật lao
động ở Việt Nam- Thực trạng và phương hướng hoàn thiện”; Luận án tiến sĩ
Luật học (2013) của Nguyễn Thị Hoa Tâm với đề tài “ Pháp luật về đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”;
Luận văn thạc sĩ luật học (2010) của Phạm Thị Lan Hương với đề tài
“Quyền chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp
luật lao động Việt Nam và thực tiễn thực hiện”Luận văn thạc sĩ luật học
(2013) của Phan Thị Thuỷ với đề tài “Quyền chấm dứt hợp đồng lao động của
người sử dụng lao động trong pháp luật Việt Nam”;; Luận văn thạc sĩ luật học
(2013) của Lê Thị Hồng Dự với đề tài “Quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người sử dụng lao động theo Bộ luật lao động 2012”.
Luận văn “ Quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ” của Nguyến
Thế Anh, Học viện khoa học xã hội năm 2018.
Có thể thấy các công trình nêu trên tuy đã có nghiên cứu về chấm dứt
HĐLĐ của người sử dụng lao động ở những góc độ nhất định, song chưa có
3
công trình nào nghiên cứu về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ từ
thực tiễn các cơ sở Y-Dược cổ truyền. Vì vậy, có thể thấy đây là công trình
nghiên cứu đầu tiên về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ qua thực
tiễn các cơ sở Y-Dược cổ truyền.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ cũng như sự điều chỉnh của pháp
luật về vấn đề này. Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật về đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ cũng như thực tiễn thực hiện tại các cơ
sở Y-Dược cổ truyền. Đồng thời luận văn cũng hướng đến việc hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ tại các cơ sở Y-Dược cổ truyền.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những mục đích nghiên cứu nêu trên đề tài có các nhiệm vụ chính
như sau:
Phân tích những vấn đề lý luận về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ cũng như pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật lao động
hiện hành ( có so sánh với BLLĐ năm 2019) về quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ.
- Phân tích và đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về quyền chấm
dứt HĐLĐ của NSDLĐ tại các cơ sở Y-Dược cổ truyền, nêu lên những kết
quả đạt được cũng như những điểm còn tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các định hướng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả các quy định của pháp luật về quyền chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ tại các cơ sở Y-Dược cổ truyền.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là BLLĐ
năm 2012 và các văn bản hướng dẫn về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ. Luận văn nghiên cứu về thực tiễn thi hành tại các cơ sở Y-Dược cổ
4
truyền. Ở mức độ nhất định, luận văn cũng nghiên cứu BLLĐ năm 2019 và
Pháp luật lao động về HĐLĐ của một số quốc gia.
Phạm vi nghiên cứu: Đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ là vấn
đề rộng. Trong phạm vi của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu một số nội
dung như: Về căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, Thủ tục NSDLĐ
phải tuân thủ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ và việc giải quyết quyền lợi cho
NLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ cũng như thực tiễn thi hành tại các cơ sở
Y-Dược cổ truyền. Luận văn không nghiên cứu về xử lý vi phạm hay giải quyết
tranh chấp khi NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau phù
hợp với nội dung của từng vấn đề. Cụ thể:
Chương 1: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và đánh
giá các vấn đề về lý luận đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ cũng như
sự điều chỉnh của pháp luật.
Chương 2: Tác giả sử dụng Phương pháp tổng hợp, so sánh luật học và
phân tích để tổng hợp và đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành
về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Bên cạnh đó trong chương này, tác
giả cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, điều tra thực tiễn để làm rõ
thực trạng thực hiện pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ tại
các cơ sở Y-Dược cổ truyền trong những năm gần đây.
Chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, logic và
phân tích khi xem xét, đánh giá đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, các biện pháp nhằm thực thi có
hiệu quả quy định pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ tại
các cơ sở Y-Dược cổ truyền.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học:
Luận văn đã hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề
lý luận về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, đánh giá một cách
tương đối toàn diện thực trạng pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
5
NSDLĐ, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và học tập của
sinh viên, học viên chuyên ngành luật. Ngoài ra, luận văn còn có thể cung cấp
kiến thức cho những người làm công tác quản trị nhân sự, NLĐ, những người
làm công tác giải quyết tranh chấp lao động và những ai có nhu cầu quan đến
lĩnh vực này.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đơn phương chấm dứt Hợp đồng
lao động của người sử dụng lao động và sự điều chỉnh của pháp luật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về đơn phương chấm dứt
Hợp đồng lao động của người sử dụng lao động và thực tiễn thực hiện tại các
cơ sở Y-Dược cổ truyền ở Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của Người sử dụng lao động
tại các cơ sở Y-Dược cổ truyền .
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT
HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Những vấn đề lý luận về đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao
động của Người sử dụng lao động.
1.1.1. Khái niệm về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì HĐLĐ được định nghĩa là
“Một thoả thuận ràng buộc pháp lý giữa người sử dụng lao động và một công
nhân, trong đó xác lập các điều kiện và chế độ việc làm.”
Theo Điều 15 Bộ luật lao động năm 2012 của nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam thì HĐLĐ được hiểu là: “sự thoả thuận giữa người lao
động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc,
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động”[17].
HĐLĐ về bản chất là một hợp đồng song vụ, trong đó các quyền và
nghĩa vụ của NLĐ và NSDLĐ luôn gắn liền với nhau. Giữa NLĐ và NSDLĐ
ràng buộc nhau trên cơ sở HĐLĐ được ký kết giữa hai bên. Tuy nhiên trong
quá trình thực hiện hợp đồng, không phải lúc nào các bên cũng tuân thủ các
thoả thuận đã được ký kết nên quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không
phải luôn được đảm bảo. Để người tham gia QHLĐ có cơ chế tự bảo vệ
quyền lợi của mình, pháp luật cho phép các bên tham gia QHLĐ có quyền
đơn phương chấm dứt HĐLĐ khi phát sinh các sự kiện pháp lý làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của mình.
Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ không chỉ là công cụ hữu hiệu mà
pháp luật dành cho NLĐ để họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong
QHLĐ mà còn là quyền của NSDLĐ để họ thực hiện quyền tự do trong tuyển
dụng, phân bố, sử dụng lao động một cách hợp lý, phù hợp với nhu cầu sản
xuất, kinh doanh của NSDLĐ; là công cụ để NSDLĐ bảo vệ lợi ích của mình
khi bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại.
7
Theo quan điểm của TS. Nguyễn Hữu Chí “Đơn phương chấm dứt
HĐLĐ là biện pháp mà các bên có thể sử dụng khi những cam kết trong
HĐLĐ không được thực hiện đúng, đầy đủ hoặc có hành vi vi phạm pháp luật
lao động” [4] . Còn theo TS. Nguyễn Thị Hoa Tâm cho rằng “Đơn phương
chấm dứt HĐLĐ là hành vi pháp lý của một bên chủ thể nhằm làm chấm dứt
hiệu lực pháp lý của hợp đồng trước thời hạn mà không phụ thuộc vào ý chí
của bên kia” [23].
Theo PGS.TS. Đào Thị Hằng thì, đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hành
vi pháp lý của một bên chủ thể nhằm làm chấm dứt quan hệ lao động với bên
kia. Ý chí này phải được biểu thị ra bên ngoài dưới hình thức nhất dịnh và
phải được truyền đạt tới chủ thể đối tác mà không cần thiết phải được chủ thể
đó chấp nhận. Về nguyên tắc, hình thức biểu thị ý chí đó có thể bằng văn bản
hay bằng lời nói (miệng) [9]. Nếu bằng văn bản thì văn bản đó phải được gửi
cho chủ thể bên kia và ý chí chấm dứt quan hệ lao động trong đó phải được
biểu đạt rõ ràng, cụ thể để người nhận nó có thể hiểu được. Nếu bằng hình
thức lời nói, bên bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ phải được truyền đạt, thông
báo cụ thể từ bên có quyền và có thể hiểu được chính xác nội dung đó.
Như vậy đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hành vi pháp lý của một chủ
thể trong quan hệ HĐLĐ có thể dẫn đến việc chấm dứt hiệu lực pháp lý của
HĐLĐ trước thời hạn theo quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào ý
chí của bên kia.
HĐLĐ được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận giữa NLĐ và NSDLĐ.
Vì vậy cả NLĐ và NSDLĐ đều có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ khi có
các điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc cho phép các bên , đặc biệt là
NSDLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ sẽ giúp cho NSDLĐ có
cơ hội điều chỉnh cơ cấu lao động phù hợp với kế hoạch, chiến lược phát triển
của đơn vị. Đặc biệt khi cần thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh theo hướng
sử dụng lao động có trình độ kỹ thuật cao hoặc cần thiết phải thu hẹp sản xuất
kinh doanh theo nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp, thì việc sử dụng
quyền chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ còn mang yếu tố tác động tích cực đến
8
sự phấn đấu của NLĐ. Xuất phát từ sức ép của nguy cơ bị đào thải, mất việc
làm sẽ buộc NLĐ phải không ngừng phấn đấu để nâng cao giá trị sức lao
động của mình nhằm cạnh tranh với NLĐ khác.
Từ các đặc trưng đã phân tích, có thể khái quát và đưa ra khái niệm về
đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ như sau: “Đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ là hành vi pháp lý đơn phương của NSDLĐ trong việc áp
dụng các quy định của pháp luật nhằm chấm dứt việc thực hiện các quyền,
nghĩa vụ trong HĐLĐ với NLĐ trước thời hạn”.
Pháp luật lao động cho phép các chủ thể tham gia QHLĐ được quyền
tự giải phóng khỏi các quyền và nghĩa vụ đã thoả thuận trong HĐLĐ. Quyền
tự giải phóng của các chủ thể trong QHLĐ cũng là phù hợp với các nguyên
tắc tự do kinh doanh, tự do tuyển dụng lao động. Nhưng để thực hiện quyền
này, NSDLĐ phải tuân thủ các quy định của pháp luật về căn cứ, trình tự, thủ
thục và đảm bảo trách nhiệm của các bên. Việc sử dụng quyền này bị giới hạn
trong phạm vi, khuôn khổ pháp luật cho phép nhằm giải quyết một cách hài
hoà, hợp lý vấn đề quyền và lợi ích chính đáng của NSDLĐ cũng như quyền
và lợi ích hợp pháp của NLĐ.
1.1.2. Đặc điểm về đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của
Người sử dụng lao động.
- Thứ nhất, Việc chấm dứt HĐLĐ đối với NLĐ là do NSDLĐ hoàn toàn
quyết định, không phụ thuộc vào việc NLĐ có đồng ý hay không.
HĐLĐ được hình thành trên cơ sở sự thương lượng, thỏa thuận giữa
NLĐ và NSDLĐ. Trên cơ sở đó, các bên tự xác lập quyền và nghĩa vụ của
mình cũng như phía bên kia. Về nguyên tắc, khi HĐLĐ được xác lập, các bên
có trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ cho đến hết thời hạn của hợp
đồng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện HĐLĐ, NSDLĐ có quyền đơn
phương chấm dứt việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ trước thời hạn với
NLĐ khi có căn cứ theo quy định của pháp luật. Việc chấm dứt này hoàn toàn
do NSDLĐ quyết định mà không cần phía bên kia có đồng ý hay không. Nói
cách khác việc chấm dứt này là do ý chí đơn phương của NSDLĐ mà không
9
cần phải phụ thuộc vào ý chí của NLĐ. Việc NLĐ có đồng ý hay không đồng
ý cũng không ảnh hưởng đến quyết định của NSDLĐ.
- Thứ hai, Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ là quyền của NSDLĐ
nhưng có giới hạn Trong quá trình thực hiện hợp đồng, NSDLĐ có quyền
đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với NLĐ trước thời hạn. Tuy nhiên, việc
chấm dứt này không thể tùy tiện mà thông thường NSDLĐ sẽ chỉ được chấm
dứt trên cơ sở những căn cứ mà pháp luật cho phép cũng như thủ tục mà pháp
luật quy định. Điều này cũng là hợp lý nhằm bảo vệ quyền lợi cho NLĐ và
tránh tình trạng lạm quyền của NSDLĐ. Bởi vậy nếu coi việc đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ đối với NLĐ là quyền của NSDLĐ thì quyền
này là quyền có giới hạn. Bởi vậy, việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ phải trên cơ sở quy định của pháp luật.
1.1.3. Ý nghĩa của việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ
Thứ nhất, đảm bảo cho NSDLĐ thực hiện được quyền tự do tuyển
dụng lao động.
Quyền về tự do kinh doanh và sở hữu tư liệu sản xuất là quyền hiến
định của NSDLĐ. Các quyền này được thể hiện trong QHLĐ thông qua việc
NSDLĐ tự quyết định sẽ sản xuất, kinh doanh cái gì, với quy mô ra sao và ở
đâu. NSDLĐ tiến hành sản xuất, kinh doanh thông qua đầu tư vốn, tư liệu sản
xuất để tạo ra lợi nhuận nên họ có quyền tuyển chọn, phân công và quản lý
lao động cho phù hợp với cơ cấu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để
thực hiện được các quyền này một cách hiệu quả, họ phải được trao quyền
đào thải đi những NLĐ không còn phù hợp với mục đích kinh doanh của
mình. Vì vậy, việc pháp luật quy định cho NSDLĐ được quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ khi có các căn cứ thể hiện quan hệ lao động giữa các bên
tham gia không còn phù hợp, là nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của NSDLĐ.
Thứ hai, quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ là động lực
để nâng cao chất lượng lao động và thúc đẩy sự phát triển của QHLĐ.
Khác với khi xác lập quan hệ lao động, được ràng buộc bởi HĐLĐ, đòi
hỏi phải có sự thương lượng, thỏa hiệp của cả hai chủ thể là NLĐ và NSDLĐ,
10
thì đơn phương chấm dứt HĐLĐ chỉ xảy ra bởi ý chí của một chủ thể nhưng
được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện bằng quyề lực Nhà nước.
Pháp luật quy định đây là quyền, nên một trong hai bên có thể không tiếp tục
thực hiện HDLĐ đã ký kết theo ý chí của mình, dừng hợp đồng khi đủ điều
kiện theo quy định của Pháp luật. Và vì đây là quyền nên NSDLĐ thường chỉ
quan tâm đến việc bảo vệ lợi ích của mình mà không dung hòa lợi ích giữa
các bên. Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp này có thể xảy
ra theo hai tình huống là: đơn phương chấm dứt HDLĐ một cách đúng luật
pháp hoặc trái pháp luật. Do không có sự dung hòa đồng thuận về quyền lợi
giữa các bên nên việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ có nguy cơ làm phát sinh
tranh chấp từ phía chủ thể còn lại, điều này gây thiệt hại không chỉ cho các
bên của quan hệ HĐLĐ mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến các mối QHLĐ và
thị trường lao động. Vì vậy, bên cạnh việc ghi nhận đơn phương chấm dứt
HĐLĐ là quyền của các chủ thể trong quan hệ lao động thì pháp luật cũng có
khống chế bởi những giới hạn pháp lý nhất định, đó là việc quy định giới hạn
một số trường hợp các bên được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Một số quan điểm cho rằng, NSDLĐ có nhiều lợi thế hơn trong quan
hệ lao động, NSDLĐ có thể tự chủ động trong tuyển dụng, sử dụng hay điều
hành lao động theo nhu cầu của mình nên NSDLĐ cần chịu sự điều chỉnh của
pháp luật nhiều hơn, NSDLĐ bị khống chế bởi những giới hạn pháp lý nhất
định đối với quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ hơn NLĐ. Tuy nhiên, việc
xác lập quan hệ lao động là sự tự do, tự nguyện, bình đẳng giữa các chủ thể
khi tham gia. Các bên phải đạt được sự cân bằng về lợi ích, đáp ứng được nhu
cầu "mua" và "bán" sức lao động thì NLĐ và NSDLĐ mới tiến hành giao kết
HĐLĐ. Nhiệm vụ của Nhà nước khi điều chỉnh bằng pháp luật giữa các chủ
thể khi tham gia quan hệ lao động. NSDLĐ cũng sẽ phải cân nhắc các chi phí
về lương, chi phí đào tạo, sự biến động nhân sự ảnh hưởng tới hiệu quả kinh
doanh...Do đó, việc ghi nhận đơn phương chấm dứt HĐLĐ là quyền của
NSDLĐ là hoàn toàn phù hợp. Mặt khác, khi ghi nhận quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, pháp luật cũng quy định rõ các trường hợp đơn
phương chấm dứt HĐLĐ, thủ tục đơn phương và hậu quả trong trường hợp
11
NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.Khi tham gia vào quan
hệ HĐLĐ, NSDLĐ và NLĐ đều có những mục đích riêng mà các bên muốn
hướng tới. Quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia QHLĐ cần
thiết phải được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, được đảm bảo, ràng buộc bởi
HĐLĐ.
Khi mục đích của một trong các bên tham gia QHLĐ không đạt được
thì pháp luật cần phải tạo cơ chế cho các bên có quyền chủ động chấm dứt
HĐLĐ đã ký kết. Sự thừa nhận của pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt
khỏi ràng buộc của một chủ thể khi mục đích của họ không đạt được là biện
pháp bảo vệ cụ thể nhất đối với quyền lợi của các bên. Trong QHLĐ, địa vị
của các bên là như nhau khi tham gia ký kết HĐLĐ. Nên mặc dù nguyên tắc
quan trọng nhất của pháp luật lao động là bảo vệ NLĐ, nhưng quyền và lợi
ích hợp pháp của NSDLĐ cũng luôn được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, khi NLĐ
giảm động lực làm việc; có các hành vi gây phương hại đến lợi ích hợp pháp
của NSDLĐ; không đảm bảo sức khoẻ, trình độ để thực hiện công việc thì
pháp luật cho phép NSDLĐ được quyền dơn phương chấm dứt HĐLĐ để bảo
vệ quyền lợi cho họ.
Thứ ba, quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ tạo điều kiện cho NSDLĐ
chủ động, linh hoạt hơn trong tuyển dụng và sử dụng lao động.
Việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thường chịu sự tác
động rất lớn từ thị trường, đặc biệt là trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Với
sự cạnh tranh khốc liệt trên thương thường, chỉ cần các doanh nghiệp chậm
thay đổi, chậm đổi mới sẽ phải trả giá rất lớn. Vì vậy để tồn tại và phát triển
các doanh nghiệp bắt buộc phải thường xuyên thay đổi, đổi mới trên tất cả các
mặt: cơ cấu, công nghệ, phương thức quản lý, phương thức kinh doanh…từ
đó kéo theo cả sự thay đổi về con người trong QHLĐ. Chính các tác động này
của nền kinh tế thị trường đòi hỏi NSDLĐ phải có quyền đào thải NLĐ không
còn phù hợp để tiếp nhận NLĐ phù hợp hơn. Việc pháp luật cho phép
NSDLĐ được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với NLĐ sẽ giúp
NSDLĐ linh hoạt hơn trong việc sử dụng lao động sẵn có. Phía NLĐ cũng có
động lực hơn trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao tay nghề để
12
sẵn sàng đáp ứng được những yêu cầu của công việc khi doanh nghiệp thay
đổi. Chính từ các hoạt động thay đổi của doanh nghiệp, của NLĐ sẽ kéo theo
sự phát triển của thị trường lao động, nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp về thị trường sức lao động.
Bên cạnh đó, việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ đúng pháp luật của
NSDLĐ sẽ giải phóng cho NSDLĐ khỏi các nghĩa vụ ràng buộc trong HĐLĐ
với NLĐ.
NSDLĐ thực hiện đơn phương chấm dứt HĐLĐ sẽ giúp cho NSDLĐ
chủ động trong việc giải phóng khỏi các quyền và nghĩa vụ đã bị ràng buộc
trong HĐLĐ trước đó với NLĐ. Giống như các quan hệ pháp luật khác, khi
các bên chủ thể tham gia ký kết lao động, sẽ bị ràng buộc bởi quyền và nghĩa
vụ để thực hiện một hoặc một số công việc theo nhu cầu của NSDLĐ. Nhưng
khi NLĐ có những vi phạm cam kết hoặc không hoàn thành công việc theo kỳ
vọng và thỏa thuận ban đầu của các bên, NLĐ lại không hợp tác để giải quyết
các vấn đề trên thì pháp luật có mở ra hướng giải quyết cho NSDLĐ, đó chính
là quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ
trong các trường hợp này là cần thiết để NSDLĐ sắp xếp ổn định công việc,
đào thải đối với những NLĐ không đạt yêu cầu. Và trên hết là giải phóng
nghĩa vụ của NSDLĐ đối với NLĐ đã thỏa thuận trong HĐLĐ. Quy định này
cần thiết thúc đẩy sự phát triển của cá nhân, tổ chức. Góp phần xây dựng ý
thức tự hoàn thiện của NLĐ trong môi trường toàn cầu hóa đang ngày càng
phát triển.
Thứ tư, Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ còn góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy thì trường lao động phát triển.
Pháp luật lao động cho phép NSDLĐ được thực hiện quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Bởi quyền này cho phép NSDLĐ loại bỏ những
NLĐ không còn phù hợp với yêu cầu sản xuất - kinh doanh trong doanh
nghiệp. Do đó nó đã tạo ra sức ép đối với NLĐ bởi nếu không muốn bị mất
việc làm thì họ phải có trách nhiệm cao hơn, thái độ làm việc tốt hơn với công
việc được giao. Đồng thời họ phải tự hoàn thiện để nâng cao hơn nữa chất
13
lượng hàng hoá sức lao động của mình thông qua việc nâng cao trình độ
chuyên môn, nâng cao tay nghề của mình. Như vậy họ mới tránh được việc bị
NSDLĐ đào thải. Bởi vậy, nó đã tạo ra động lực để NLĐ nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hóa sức lao động, đồng thời tạo ra thị trường lao động có chất
lượng ngày càng cao, đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động trong
nước và quốc tế cũng như thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động
1.2. Điều chỉnh pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ.
1.2.1. Khái niệm pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ.
Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ là một trong những
vấn đề rất quan trọng và phức tạp bởi nó không chỉ liên quan đến việc sử
dụng lao động tại các doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến tình trạng việc làm
của NLĐ. Khi NSDLĐ thực hiện quyền này thì quyền và lợi ích hợp pháp của
NLĐ sẽ bị ảnh hưởng nên dễ dẫn đến tranh chấp. Vì vậy pháp luật có vai trò
rất lớn trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên trong trường hợp đơn
phương chấm dứt HĐLĐ.
Pháp luật được hiểu là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung
do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển
phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Trong xã hội hiện đại, pháp luật được
hiểu là tập hợp các quy tắc điều chỉnh hành vi của con người được áp dụng
cho tất cả các thành viên trong cộng đồng xã hội và được thực thi bởi cơ quan
chính quyền thông qua việc áp dụng chế tài cho các chủ thể vi phạm
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ làm ảnh hưởng đến việc
làm của NLĐ. Bởi vậy để tránh tình trạng NSDLĐ chấm dứt HĐLĐ một cách
bừa bãi, pháp luật cần phải có những quy định về vấn đề này. Thông thường
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ được pháp luật quy định
chặt chẽ hơn cả về căn cứ, trình tự và thủ tục. Ngoài ra NSDLĐ còn bị hạn
chế không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong một số
trường hợp cụ thể. Do đó có thể hiểu pháp luật về đơn phương chấm dứt
14
HĐLĐ của NSDLĐ là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về những
căn cứ, thủ tục cũng như những trách nhiệm mà NSDLĐ phải tuân thủ khi
đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ.
Tùy thuộc và điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi Quốc gia có quy định
khác nhau về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ, song nhìn chung pháp luật
các Quốc gia đều quy định về chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ ở các nội dung sau:
1.2.2.1. Các căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ.
Trong lao động, trên cơ sở nhu cầu tuyển dụng của NSDLĐ và nhu
cầu lao động của NLĐ mà hình thành nên QHLĐ và hình thức pháp lý của nó
chính là HĐLĐ. Do đó HĐLĐ chính là căn cứ pháp lý ràng buộc các quyền
và nghĩa vụ giữa các bên trong QHLĐ. Đồng thời HĐLĐ cũng là cơ sở pháp
lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi phát sinh tranh chấp
trong QHLĐ. Mặc dù theo quy định của pháp luật thì các bên trong QHLĐ là
bình đẳng nhưng xuất phát từ vai trò của các bên trong QHLĐ thì NSDLĐ là
người nắm giữ các tư liệu sản xuất quan trọng, nắm giữ các công nghệ, kỹ
thuật và họ là người có vai trò quản lý. Nên NSDLĐ bao giờ cũng là người có
vị thế chủ động hơn, là người nắm giữ thế mạnh trong QHLĐ. Mặt khác,
trong xã hội, NSDLĐ bao giờ cũng chiếm số ít nhưng lại là người đã tích tụ
tư bản đủ để trở thành người có vai trò quyết định trong “cuộc chơi” sản xuất
kinh doanh, họ có quyền trong việc lựa chọn, thay thế cả mục tiêu sản xuất,
kinh doanh lẫn NLĐ. Việc NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NSDLĐ
thường không có ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích của họ. Do NSDLĐ
nắm giữ tư liệu sản xuất nên việc họ tìm kiếm và thay thế NLĐ rất dễ dàng.
Ngược lại, NLĐ chỉ có một tài sản duy nhất là sức lao động và tài sản này
cũng đã bị NSDLĐ bỏ tiền ra mua, nên NLĐ luôn ở vị thế bị động, yếu thế.
Việc NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ cũng đồng nghĩa với
việc NLĐ bị mất đi cơ hội làm việc và mất thu nhập. Đặc biệt trong trường
hợp NLĐ bị chấm dứt HĐLĐ vô cớ, tuỳ tiện thì hậu quả đối với NLĐ là rất
nặng nề. Vì vậy pháp luật cần phải có những quy định chặt chẽ để tránh việc
15
NSDLĐ lạm dụng quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Việc đơn phương
chấn dứt HĐLĐ của NSDLĐ chỉ được coi là hợp pháp khi có căn cứ theo quy
định của pháp luật.
Theo ILO thì không có tồn tại quy định đặc biệt nào về chấm dứt
HĐLĐ. Việc chấm dứt HĐLĐ (sa thải NLĐ) cần phải có lý do chính đáng.
Năm 1963 hội nghị lao động quốc tế lần thứ 47 về Khuyến nghị chấm dứt
việc làm (“Termination of Employment Recommendation”, (Công ước số
119)) chỉ có 2 tiêu chí để có thể chấm dứt HĐLĐ (sa thải NLĐ) đó là NLĐ
không đủ năng lực làm việc, hành động không đúng và do kinh tế của doanh
nghiệp. Khuyến nghị này trở thành động cơ hạn chế để sa thải NLĐ trong luật
ở các nước như Italy, Anh, Pháp…
Bên cạnh đó, ILO cũng thừa nhận quy chế sa thải NLĐ vì lý do kinh tế.
Năm 1963 Khuyến nghị số 119 (Điều 12) quy định xử lý tránh sa thải (mỗi
bên để tránh việc giảm nhân lực lao động thì phải nỗ lực điều hành doanh
nghiệp một cách hiệu quả).
Tại các quốc gia, các quy định của pháp luật làm căn cứ để NSDLĐ
đơn phương chấm dứt HĐLĐ thường được xây dựng trên cơ sở định lượng
hoặc định tính tùy theo quan điểm của từng nước.
Căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ mang tính định lượng là việc xác
định NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ dựa trên cơ sở là các
căn cứ pháp luật cụ thể. Khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ, NSDLĐ
phải đưa ra được các căn cứ và điều kiện cụ thể theo pháp luật quy định, nếu
không thì việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ sẽ là trái pháp luật. Các quốc gia
tiêu biểu theo quan điểm này có thể kể đến như Cộng hoà Liên bang Nga;
Trung Quốc; Lào; Việt Nam…Theo quy định của pháp luật lao động các quốc
gia này thì khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ, NSDLĐ phải viện dẫn
được căn cứ được pháp luật quy định.
Căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ mang tính định tính là việc pháp
luật quy định căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ chỉ mang tính
định tính chứ không quy định các trường hợp cụ thể. Trường hợp này khi
NSDLĐ muốn đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ họ chỉ cần chứng minh
16
được căn cứ mà họ áp dụng thuộc loại căn cứ do luật định. Các nước điển
hình cho trường phái này có thể kể đến như Thuỵ Điển; Hàn Quốc; Nhật
Bản…Việc quy định các căn cứ theo cách này tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như
phong tục tập quán; điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia.
Căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ tuy có khác biệt,
nhưng thông thường sẽ tập trung vào một số căn cứ sau:
Thứ nhất, các căn cứ liên quan đến năng lực làm việc của NLĐ, như:
NLĐ không hoàn thành công việc theo HĐLĐ; khả năng thích nghi với môi
trường làm việc, khả năng sang tạo; NLĐ không đủ sức khoẻ để lao động
trong thời gian nhất định…Căn cứ này được quy định phát sinh trên cơ sở
NSDLĐ mua sức lao động của NLĐ với mục đích thông qua việc sử dụng sức
lao động của NLĐ để tạo ra giá trị mong muốn của NSDLĐ. Nếu sức lao
động đó tạo ra những giá trị như mong muốn thì NSDLĐ vẫn duy trì QHLĐ
với NLĐ. Trường hợp NLĐ không hoàn thành công việc theo HĐLĐ, có
nghĩa là sức lao động của NLĐ đã không tạo ra được các giá trị như NSDLĐ
mong muốn. Hoặc trong trường hợp NLĐ không đủ sức khoẻ để lao động
trong thời gian nhất định thì NSDLĐ không có nghĩa vụ phải tiếp tục sử dụng
NLĐ vì mục đích của họ khi ký HĐLĐ đã không đạt được, nếu tiếp tục duy
trì QHLĐ thì quyền lợi của họ bị xâm phạm vì họ đã phải bỏ tiền ra để mua
sức lao động nhưng không nhận được giá trị sức lao động tương xứng từ
NLĐ. Trong các trường hợp này NSDLĐ được quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ để giảm thiểu gánh nặng tài chính, đảm bảo được yêu cầu của sản xuất
kinh doanh và tìm NLĐ khác để thay thế NLĐ không đáp ứng được yêu cầu
công việc theo HĐLĐ.
Thứ hai, các căn cứ liên quan đến ý thức, tinh thần làm việc, đạo đức
của NLĐ, như: Ý thức chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động, trách
nhiệm đối với công việc, tính trung thực, tự giác trong công việc. Đặc điểm
đặc trưng nhất trong QHLĐ là quyền quản lý của NSDLĐ đối với NLĐ.
Quyền quản lý được NSDLĐ thể hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó việc
NSDLĐ đề ra nội quy lao động và giám sát việc thực hiện nội quy để duy trì
trật tự lao động. Trường hợp NLĐ không chấp hành kỷ luật lao động, nội quy
17
lao động cũng đồng nghĩa với việc không chấp hành theo sự quản lý của
NSDLĐ. Vì thế, tuỳ theo mức độ vi phạm, cũng như lỗi của NLĐ mà họ sẽ
phải chịu những hình thức xử lý kỷ luật do NSDLĐ đưa ra. Trường hợp mức
độ vi phạm, lỗi của NLĐ đến một mức độ nào đó sẽ gây ra các thiệt hại, làm
ảnh hưởng đến tính kỷ luật, kỷ cương hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi
ích của đơn vị thì NSDLĐ sẽ được quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn
thiệt hại, trong đó đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ là một biện pháp.
Thứ ba, khi có những thay đổi về tổ chức, quản lý, điều hành doanh
nghiệp, như: Doanh nghiệp gặp khó khăn phải cắt giảm lao động, thu hẹp sản
xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức lại lao động; chấm dứt hoạt động; phá
sản…Trong các trường hợp này pháp luật cũng cho phép NSDLĐ được đơn
phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ. Việc pháp luật cho phép NSDLĐ cắt
giảm biên chế lao động khi gặp các vấn đề nói trên nhằm tạo điều kiện cho
NSDLĐ có điều kiện và khả năng tổ chức lại sản xuất, tập trung nguồn lực để
nâng cao sức cạnh tranh.
Thứ tư, khi gặp các trường hợp bất khả kháng như thiên tai, địch
hoạ…mà NSDLĐ không thể khắc phục được, buộc phải chấm dứt HĐLĐ với
NLĐ. Các trường hợp bất khả kháng là nằm ngoài ý chí, dự liệu của các bên
tham gia QHLĐ. Khi xảy ra các trường hợp bất khả kháng, mặc dù NSDLĐ
không muốn nhưng điều kiện để tổ chức sản xuất kinh doanh không còn. Bản
thân họ đã cố gắng nhưng không thể khắc phục được, thì pháp luật cho phép
NSDLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ để giảm chỗ làm, qua đó duy trì
sự hợp lý giữa việc làm với NLĐ trong đơn vị.
Tuy nhiên, bên cạnh việc công nhận quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ thì pháp luật của hầu hết các nước đều quy định các
trường hợp NSDLĐ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
Tại điều 5,6 Công ước số 158 của ILO có liệt kê các trường hợp
NSDLĐ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ, gồm: NLĐ gia
nhập tổ chức công đoàn; NLĐ đang ốm đau, tai nạn lao động hoặc trong thời
kỳ thai sản. NSDLĐ cũng không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ vì lý do
sắc tộc, màu da hay tôn giáo. Đối với một số quốc gia, các quy định hạn chế
18
có thể được mở rộng thêm các lý do như NLĐ đang mắc bệnh nghề nghiệp
đang điều trị theo yêu cầu của bác sỹ, dang nghỉ thai sản hay đang nuôi con
nhỏ dưới 12 tháng tuổi, hoặc như tại Điều 42 Luật Hợp đồng lao động Trung
Quốc quy định không được chấm dứt HĐLĐ đối với “…người làm việc trong
môi trường độc hại mà chưa tiến hành kiểm tra sức khỏe bị nghi ngờ có thể
mắc bệnh nghề nghiệp; đã có thời gian làm việc liên tục cho đơn vị không
dưới 15 năm và còn chưa đầy 05 năm nữa là đến tuổi nghỉ hưu…”. Hoặc tại
điều 30 Luật Lao động nước CHDCND Lào quy định: “ Người sử dụng lao
động không có quyền chấm dứt hợp đồng lao động hoặc buộc người lao động
thôi việc trong các trường hợp sau đây:Người lao động bị bệnh và đang điều
trị y tế hoặc đang trong thời kỳ dưỡng bệnh sau điều trị theo xác nhận của
bác sĩ, hoặc đang gặp tai hoạ như: nhà cửa bị phá hủy do hỏa hoạn hoặc lũ
lụt; Nữ lao động đang mang thai hoặc mới sinh con chưa được 1 năm; Người
lao động đang nghỉ phép năm hoặc đang được người sử dụng lao động cho
phép nghỉ; Người lao động đang thực hiện công việc tại một nơi làm việc
khác theo phân công của người sử dụng lao động;Người lao động đang trong
quá trình nộp đơn khiếu nại hoặc khởi kiện người sử dụng lao động hoặc
đang hợp tác với một cơ quan chính phủ có liên quan đến việc thực hiện Luật
Lao động, và liên quan đến tranh chấp lao động trong đơn vị lao động của
mình; Người lao động đang hoạt động cho tổ chức công đoàn hoặc đại diện
công nhân đã được người sử dụng lao động chấp thuận, trừ khi có hành động
sai trái nào đó như quy định tại Điều 32 của luật này.”
Những quy định trên nhằm bảo vệ cho NLĐ đang ở trong những hoàn
cảnh bất lợi, khó khăn và hạn chế sự lạm dụng quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ đối với những NLĐ. Khi NLĐ đang trong tình trạng sức
khỏe yếu, hoàn cảnh khó khăn, nếu bị mất việc làm họ sẽ rất khó có thể tìm
kiếm được một công việc mới và như vậy khó khăn đối với họ sẽ càng trầm
trọng hơn vì khi đó họ vừa bị mất việc làm, mất thu nhập đồng thời còn phải
gánh chịu các chi phí cho việc chữa bệnh, điều trị tai nạn hoặc nuôi con
nhỏ…Gánh nặng kinh tế sẽ làm cho cuộc sống của họ càng khó khăn hơn.
Nên việc pháp luật các nước ghi nhận các trường hợp NSDLĐ không được
19
đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ đang trong tình trạng khó khăn, bệnh
tật thể hiện tính nhân văn và góp phần đảm bảo trật tự xã hội.
1.2.2.2. Trình tự, thủ tục đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ.
Thủ tục đơn phương chấm dứt HĐLĐ là các trình tự, cách thức thực
hiện các bước cũng như các điều kiện mà NSDLĐ phải tuân thủ khi đơn
phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ. Mục đích của pháp luật khi quy định về
thủ tục đơn phương chấm dứt HĐLĐ là để buộc NSDLĐ phải hết sức cẩn
trọng, cân nhắc khi thực hiện việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Qua đó
NSDLĐ có thời gian, điều kiện để suy nghĩ, xem xét kỹ lưỡng hơn các quyết
định của mình, vì thế quyền lợi của NLĐ có cơ hội được đảm bảo hơn. Việc
pháp luật quy định chặt chẽ và buộc NSDLĐ phải tuân thủ theo đúng quy
trình khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ là rất quan trọng. Bởi chính thủ tục
đơn phương chấm dứt HĐLĐ sẽ quyết định đến tính hợp pháp của việc chấm
dứt HĐLĐ. Khi không tuân thủ các quy định về thủ tục thì việc đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ sẽ là trái pháp luật, kể cả trong trường hợp có
đủ căn cứ theo quy định của pháp luật.
Thủ tục đơn phương chấm dứt HĐLĐ tùy theo mỗi quốc gia sẽ được
quy định khác nhau, nhưng thông thường bao gồm các thủ tục về thời gian
báo trước; thủ tục tham khảo ý kiến công đoàn; thủ tục thông báo hoặc xin ý
kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các thủ tục có được áp dụng một
cách đầy đủ hay không tùy thuộc vào chính sách pháp luật và quan điểm đối
với NLĐ của quốc gia đó.
Xuất phát từ mục đích thông báo để cho NLĐ chuẩn bị tâm lý và thời
gian đi tìm công việc mới thay thế cho HĐLĐ bị chấm dứt, tránh tình trạng
mất việc làm và thu nhập đột ngột gây xáo trộn cuộc sống. Đồng thời còn
giúp NLĐ có điều kiện đưa ra các biện pháp để bảo vệ quyền lợi của mình
nếu việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ là trái pháp luật. Hầu hết các quốc gia
trên thế giới đều quy định thời gian báo trước là thủ tục bắt buộc khi đơn
phương chấm dứt HĐLĐ. Quy định về thời gian báo trước của pháp luật các
nước cũng phù hợp với quan điểm của tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
“người lao động sắp bị mất việc làm có quyền được báo trước trong một thời
20
hạn vừa phải hoặc được nhận một khoản bồi thường thay thế, trừ khi đã vi
phạm một lỗi nặng đến mức không thể đòi hỏi một cách hợp lý người sử dụng
lao động phải tiếp tục sử dụng người lao động trong thời hạn báo trước”(
Công ước 158 năm 1982).
Mặc dù hầu hết các quốc gia đều quy định thời gian báo trước là thủ tục
bắt buộc khi NSDLĐ muốn đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ nhưng
quy định này đối với mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Thủ tục báo trước
của pháp luật mỗi nước được quy định khác nhau tùy thuộc vào chính sách
pháp luật về lao động và việc làm của từng nước. Có quốc gia quy định chỉ
cần thực hiện thủ tục báo trước đối với một số loại HĐLĐ cụ thể có thời hạn
nhất định, nhưng đa số các quốc gia đều yêu cầu thủ tục báo trước được thực
hiện đối với tất cả các loại HĐLĐ. Ví dụ đối với Ấn Độ thì pháp luật chỉ yêu
cầu NSDLĐ phải thực hiện thủ tục báo trước đối với các loại HĐLĐ có thời
hạn từ một năm trở lên, nhưng đối với pháp luật Hàn Quốc; Việt Nam; Trung
Quốc và một số nước khác thì thời hạn báo trước được thực hiện đối với tất cả
NLĐ, không kể thời gian làm việc.
Về thời hạn báo trước, pháp luật mỗi nước cũng có những quy định
khác nhau. Pháp luật lao động của Hàn Quốc và Trung Quốc thì quy định thời
hạn báo trước là 30 ngày đối với tất cả người lao động, không kể thời gian
làm việc. Ở một số nước thời hạn báo trước phụ thuộc vào thời hạn của
HĐLĐ. Chẳng hạn như
Ở Anh, đối với thời gian làm việc từ trên 1 tháng đến dưới 2 năm thì
NSDLĐ tối thiểu phải thông báo trước 1 tuần, từ 2 năm trở lên đến dưới 12
năm thì cứ tương ứng một năm tương ứng với 1 tuần để tính thời gian thông
báo, thời gian làm việc trên 12 năm thì tối thiểu phải thông báo trước 12 tuần
cho NLĐ. Khi chấm dứt HĐLĐ vì lý do kinh tế phải thông báo với cơ quan
có thẩm quyền về quản lý lao động và HĐLĐ chấm dứt trong vòng 1 năm sẽ
ưu tiên tái tuyển dụng và trong nội dung thông báo chấm dứt HĐLĐ phải ghi
nội dung đó vào. Căn cứ vào số lượng cũng như thời gian làm việc tại công ty
của NLĐ mà sẽ có những khoản bồi thường khác nhau cho NLĐ khi bị chấm
dứt HĐLĐ vì lý do kinh tế. Ở Đức, Đối với QHLĐ với thời gian từ 2 năm trở
21
lên thì phải thông báo chấm dứt trước 1 tháng, trên 5 năm là 2 tháng, trên 8
năm là 3 tháng, trên 10 năm là 4 tháng, trên 12 năm là 5 tháng, trên 15 năm là
6 tháng, trên 20 năm là 7 tháng.
Về hình thức của thủ tục báo trước khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ,
đa số quốc gia đều quy định việc báo trước phải được thực hiện bằng văn bản.
Việc quy định này nhằm hạn chế các tranh chấp giữa các bên khi thực hiện
việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Văn bản báo trước việc chấm dứt HĐLĐ
sẽ là căn cứ pháp lý để Tòa án đưa ra phán quyết, xác định việc đơn phương
chấm dứt HĐLĐ có tuân thủ quy định về thời hạn báo trước hay không.
Thứ hai, về việc xin ý kiến hoặc thông báo với chính quyền khi NSDLĐ
muốn đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
Việc xin ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc đảm bảo sự ổn định của thị trường lao động. Việc các đơn vị
cắt giảm một lúc số lượng lớn lao động sẽ tạo ra áp lực lớn về việc làm đối
với các cơ quan quản lý nhà nước và Chính phủ, gây ra tình trạng thất nghiệp
và kéo theo đó là các vấn đề phát sinh trong xã hội. Do đó việc thông báo
hoặc xin ý kiến các cơ quan quản lý trước khi thực hiện việc đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với số lượng nhất định NLĐ là cần thiết để các cơ quan có
thẩm quyền có sự chuẩn bị trước nhằm xử lý các vấn đề phát sinh sau khi số
lượng lớn NLĐ mất việc làm.
Về vấn đề này, pháp luật của các quốc gia trên thế giới có những quy
định khác nhau. Quan điểm thứ nhất của một số quốc gia, việc chấm dứt
HĐLĐ với số lượng lớn NLĐ nhất thiết phải thông qua thủ tục xin ý kiến của
chính quyền địa phương (Cơ quan quản lý lao động có thẩm quyền). Quan
điểm này thể hiện sự quản lý chặt chẽ và sự quan tâm của chính quyền đối với
lực lượng lao động, hướng tới sự cân bằng giữa lao động - việc làm và ổn
định xã hội. Tiêu biểu cho quan điểm này có các quốc gia như Ấn Độ,
Srilanka, CHDCND Lào. Tại Điều 35 Luật Lao động của nước CHDCND
Lào quy định “… trước khi chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do nào đi
chăng nữa, người sử dụng lao động có trách nhiệm thông báo cho tổ chức
công đoàn hoặc đại diện công nhân trong đơn vị lao động đó biết và báo cáo
22
lý do với cơ quản lý lao động là cơ quan có thẩm quyền xem xét chấm dứt hợp
đồng lao động. Cơ quan quản lý lao động phải trả lời trong vòng 15 ngày kể
từ ngày nhận được báo cáo. Nếu không trả lời, người sử dụng lao động có thể
chấm dứt hợp đồng lao động.
Cấm đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc buộc người lao
động thôi việc mà không có sự phê duyệt trước đó của cơ quan quản lý lao
động hoặc không thông báo trước cho tổ chức công đoàn hoặc đại diện công
nhân trong doanh nghiệp lao động liên quan”. Với các quy định nêu trên thì
NSDLĐ muốn chấn dứt HĐLĐ với NLĐ vì bất kỳ lý do nào, cũng phải xin ý
kiến của cơ quan quản lý lao động. Chỉ khi có sự phê duyệt của cơ quan này,
hoặc quá thời hạn 15 ngày kể từ ngày cơ quan này nhận được báo cáo mà
không trả lời thì NSDLĐ mới được đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng: Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ
giữa NSDLĐ với NLĐ là ý chí chủ quan của NSDLĐ. Vì vậy việc NSDLĐ
thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bao nhiêu NLĐ tùy thuộc
vào tình hình thực tế của đơn vị đó, căn cứ trên quy mô và mục tiêu sản xuất
kinh doanh của đơn vị mình. Khi cắt giảm nguồn nhân lực, NSDLĐ chỉ cần
thông báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Quan điểm này thể hiện sự
linh hoạt trong quá trình sử dụng lao động và vấn đề giải quyết việc làm của
NSDLĐ, tạo ra tính linh hoạt của thị trường lao động và đề cao quyền tự do
kinh doanh của NSDLĐ.
Hiện nay, đa số các nước đều quy định về vấn đề này theo quan điểm
thứ hai, tức là NSDLĐ khi thực hiện việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ với
NLĐ thì không phải xin phép mà chỉ cần thông báo với cơ quan có thẩm
quyền quản lý lao động. Nhưng việc chấm dứt này đòi hỏi NSDLĐ phải tuân
thủ một số quy định của pháp luật. Cụ thể như theo quy định tại Điều 44 Bộ
luật Lao động của Việt Nam năm 2012 quy định “Trong trường hợp vì lý do
kinh tế mà nhiều NLĐ có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc, thì NSDLĐ
phải xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động theo quy định tại
Điều 46 của Bộ luật này”.
23
1.2.2.3. Giải quyết hậu quả khi NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Khi NSDLĐ thực hiện hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ sẽ dẫn
đến hệ quả là NLĐ mất việc làm. Điều đó dẫn đến đời sống của NLĐ sẽ bị
xáo trộn do mất đi thu nhập và việc làm. Đối với NSDLĐ, việc đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với NLĐ cũng tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của họ, bởi việc chấm dứt HĐLĐ với NLĐ đã làm xáo trộn sự bố
trí nguồn nhân lực trong hoạt động của doanh nghiệp, buộc NSDLĐ phải có
sự sắp xếp lại nhân lực. Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ dù hợp pháp hay
không cũng đều ảnh hưởng đến cả NSDLĐ và NLĐ. Vì vậy cần có sự quan
tâm của pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ trong đơn phương
chấm dứt HĐLĐ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Xuất
phát từ vị thế của các bên tham gia QHLĐ thì quyền lợi của NLĐ và trách
nhiệm của NSDLĐ được quan tâm đặc biệt. Nhìn chung pháp luật của các
quốc gia đều quy định trách nhiệm của NSDLĐ khi đơn phương chấm dứt
HĐLĐ trong hai trường hợp hợp pháp và không hợp pháp.
Trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ hợp pháp: Khi NSDLĐ thực
hiện việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ một cách hợp pháp thì tùy theo pháp
luật của mỗi quốc gia mà NSDLĐ sẽ phải trả cho NLĐ một khoản trợ cấp
nhất định. Việc trả khoản tiền trợ cấp này mang nhiều ý nghĩa và mục đích
khác nhau như giúp cho NLĐ có một khoản tiền nhất định sau khi mất đi thu
nhập do mất việc làm; thể hiện trách nhiệm của NSDLĐ với NLĐ bị mất việc
làm chỉ theo ý chí chủ quan của phía NSDLĐ…Nhưng quan trọng nhất là thể
hiện sự đền đáp đối với những đóng góp của NLĐ cho doanh nghiệp. Tùy
thuộc vào chính sách lao động và việc làm của mỗi nước mà quan điểm trợ
cấp cũng khác nhau, nên khoản tiền này đối với mỗi quốc gia cũng có những
quy định khác nhau. Có quốc gia quy định khoản tiền trợ cấp này ở mức cao,
như Trung Quốc, Hàn Quốc nhưng cũng có nước quy định ở mức thấp, thậm
chí như pháp luật Xingapo quy định không có trợ cấp thôi việc. Pháp luật về
lao động của Việt Nam quy định trong trường hợp đơn phương chấm dứt
HĐLĐ thì NSDLĐ phải có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ đã làm
việc cho đơn vị từ một năm trở lên. Khoản hỗ trợ này có ý nghĩa nhằm hỗ trợ
24
cho NLĐ ổn định cuộc sống trong thời gian tìm việc làm mới. Ngoài trách
nhiệm trợ cấp này thì NSDLĐ còn phải có trách nhiệm trả lại cho NLĐ các
giấy tờ như các loại văn bằng, chứng chỉ, sổ lương, sổ bảo hiểm xã hội đồng
thời thanh toán nốt các nghĩa vụ còn tồn đọng như trả nốt lương, tiền thưởng,
tiền nghỉ phép năm trong trường hợp chưa nghỉ phép…Bên cạnh đó NSDLĐ
cũng được quyền yêu cầu NLĐ thanh toán các khoản nợ còn tồn đọng, các
khoản tiền bồi thường cho doanh nghiệp, có quyền yêu cầu NLĐ bồi thường
các khoản phí như phí đào tạo mà NSDLĐ đã đài thọ cho NLĐ ( nhưng sau
đó NLĐ lại vi phạm thời gian làm việc bắt buộc theo cam kết). Có quyền yêu
cầu NLĐ bàn giao lại các phương tiện, công cụ làm việc, các tài liệu, hồ sơ đã
được giao khi thực hiện nhiệm vụ.
Trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ bất hợp pháp: Việc
NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ bất hợp pháp làm phương hại đến thu
nhập và việc làm của NLĐ. Nên trong trường hợp này, NSDLĐ phải nhận lại
NLĐ vào làm việc theo HĐLĐ đã ký kết trước đây đồng thời phải bồi thường
một khoản tiền cho NLĐ. Mức bồi thường trong trường hợp này có sự quy
định khác nhau giữa mỗi quốc gia về cách tính, nhưng cơ bản đều căn cứ trên
cơ sở mức lương NLĐ đang hiện hưởng để tính mức tiền bồi thường. Tại điều
33 Luật Lao động của nước CHDCND Lào quy định “…Người lao động bị
chấm dứt hợp đồng lao động mà không được giải thích lý do có quyền yêu
cầu phục hồi vị trí công việc cũ của mình hoặc yêu cầu được phân công công
việc khác thích hợp. Trường hợp người sử dụng lao động không phục hồi
công việc cho người lao động hoặc người lao động đã bị ngừng làm việc,
người sử dụng lao động phải trả trợ cấp cho người lao động đó. Số tiền trợ
cấp này được tính dựa trên thời gian làm việc của người lao động, bằng 15%
lương cơ bản hàng tháng đã nhận được trước khi chấm dứt hợp đồng cho mỗi
tháng làm việc, đối với những người lao động đã làm việc dưới 3 năm, và
20% đối với những người lao động đã làm việc được trên 3 năm”. Còn tại
điều 48 Luật Hợp đồng lao động Trung Quốc năm 2007 quy định: “Trường
hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ bất hợp pháp sẽ phải nhận lại
NLĐ vào doanh nghiệp và phải bồi thường cho NLĐ một khoản tiền tương
25
ứng. Mức bồi thường sẽ bằng 02 lần mức trợ cấp thất nghiệp quy định tại
điều 47 Luật này”.
Có thể thấy việc NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ trái
pháp luật làm ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của NLĐ. Việc bị chấm dứt
HĐLĐ một cách vô lý không những gây thiệt hại về kinh tế cho NLĐ do bị
mất thu nhập từ việc làm đem lại mà còn ảnh hưởng lớn tới tinh thần, tâm lý
của NLĐ. Do đó pháp luật quy định nghĩa vụ của NSDLĐ có hành vi đơn
phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật phải khắc phục hậu quả do hành vi trái
pháp luật của họ gây ra, bao gồm nghĩa vụ khôi phục lại QHLĐ giữa các bên
và bồi thường cho khoảng thời gian NLĐ không được làm việc là quy định
hợp lý. Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật của NSDLĐ gây
thiệt hại cho NLĐ thì phải bồi thường thiệt hại.
Tiểu kết chương 1
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là một hiện tượng khách quan tồn tại
trong nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam. Do đó, việc ghi nhận quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ
cũng được xem là một chế định pháp luật tất yếu khách quan trong hệ thống
các quy định pháp luật về lao động. Trong Chương 1 đã đề cập một cách khái
quát, khách quan nhất về những quan điểm và các vấn đề liên quan đến quyền
đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ và phân tích các quy định của
pháp luật điều chỉnh quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Đã
phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ. Qua đó cho thấy quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ
của NSDLĐ là quyền do pháp luật quy định, cho phép NSDLĐ được chủ
động chấm dứt HĐLĐ với NLĐ theo ý chí chủ quan của NSDLĐ mà không
phụ thuộc vào ý chí của NLĐ. Khi NSDLĐ thực hiện quyền này, họ chủ động
giải phóng các bên tham gia QHLĐ ra khỏi các quyền, nghĩa vụ ràng buộc
theo HĐLĐ đã ký kết.
Thông qua việc nghiên cứu, so sánh quy định của pháp luật một số
nước và những nội dung có liên quan được quy định tại các Công ước của Tổ
26
chức Lao động quốc tế (ILO) có thể thấy: Mặc dù có sự khác nhau giữa mỗi
quốc gia về các quy định cụ thể, nhưng về cơ bản các nước đều có những quy
định đầy đủ, chặt chẽ nhằm quản lý, điều chỉnh quan hệ pháp luật đối với việc
thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, qua đó bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia QHLĐ trong việc NSDLĐ
đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Nội dung trong chương 1 là nền tảng lý luận cơ bản, làm tiền đề cho
việc nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như thực trạng áp
dụng pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ trong
thực tiễn và vấn đề hoàn thiện pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSD
27
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM
DỨT HĐLĐ CỦA NSDLĐ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC CƠ
SỞ Y - DƯỢC CỔ TRUYỀN
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ.
2.1.1. Thực trạng pháp luật về căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ
của NSDLĐ.
Các căn cứ để NSDLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy
định của pháp luật Việt Nam có thể được khái quát thành các nhóm sau:
2.1.1.1. Những trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ liên
quan đến năng lực làm việc của NLĐ.
Năng lực làm việc của NLĐ được thể hiện thông qua mức độ hoàn
thành công việc của NLĐ. Trường hợp NLĐ không hoàn thành công việc dù
vì bất kỳ lý do gì cũng đều là vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng và đến một
mức độ nào đó việc không hoàn thành công việc sẽ là căn cứ để NSDLĐ thực
hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ. Căn cứ liên quan đến
năng lực làm việc của NLĐ để NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ bao
gồm các trường hợp sau:
Thứ nhất, NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc theo HĐLĐ;
Mục đích của NSDLĐ khi ký kết HĐLĐ là để NLĐ thực hiện những
công việc nhất định. Khi NLĐ không hoàn thành được công việc mà NSDLĐ
mong muốn, thì mục đích của NSDLĐ không đạt được. Trong trường hợp
này, pháp luật cho phép NSDLĐ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình thông qua việc quy định cho họ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ
với NLĐ. Tại điểm a khoản 1 Điều 38 BLLĐ 2012 quy định, NSDLĐ có
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp NLĐ thường xuyên
không hoàn thành công việc theo thỏa thuận đã được ký kết trong HĐLĐ. Cụ
thể hóa nội dung này của BLLĐ 2012, tại khoản 1 Điều 12 Nghị định số
05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng
28
dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động có hướng dẫn về
trường hợp NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc theo HĐLĐ,
cụ thể như sau: “ Người sử dụng lao động phải quy định cụ thể tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của doanh nghiệp,
làm cơ sở đánh giá người lao động thường xuyên không hoàn thành công
việc theo hợp đồng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm
vụ do người sử dụng lao động ban hành sau khi có ý kiến của tổ chức đại
diện tập thể lao động tại cơ sở.”
Việc NLĐ không hoàn thành công việc mà NSDLĐ giao đồng nghĩa
với việc NLĐ đã vi phạm các thỏa thuận trong HĐLĐ mà họ đã giao kết với
NSDLĐ. Vi phạm này làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và
ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của NSDLĐ. Nên NSDLĐ được pháp luật
cho phép thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ để bảo vệ
quyền lợi của mình. Nhưng để thực hiện được quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ, NSDLĐ phải chứng minh được việc NLĐ thường xuyên không hoàn
thành công việc theo HĐLĐ. Để chứng minh được nội dung này, NSDLĐ
phải có quy định cụ thể về các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc
làm căn cứ đánh giá năng suất lao động, chất lượng công việc của NLĐ. Chỉ
khi chứng minh được NLĐ không hoàn thành công việc trên cơ sở các tiêu
chí đánh giá cụ thể thì NSDLĐ mới có căn cứ để đơn phương chấm dứt
HĐLĐ với họ.
Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ là do NSDLĐ ban
hành, nhưng để quy chế này có hiệu lực thì quy chế này phải được tổ chức đại
diện cho tập thể NLĐ tại cơ sở xem xét và có ý kiến khi ban hành. Quy định
này nhằm tạo điều kiện cho tổ chức Công đoàn (tổ chức đại diện cho tập thể
NLĐ tại cơ sở) thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NLĐ thông
qua việc tham gia vào việc xây dựng các quy chế của NSDLĐ. Quy định nêu
trên không hạn chế quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ nhưng
nó buộc các bên tham gia QHLĐ phải có phương án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình từ trước. Đối với NSDLĐ là việc xây dựng và ban hành
quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ đối với NLĐ. Đối với NLĐ là
29
thông qua tổ chức đại diện của mình (Công đoàn, tổ chức đại diện cho tập thể
NLĐ tại cơ sở) có ý kiến đóng góp vào quy chế khi NSDLĐ ban hành nhằm
bảo vệ quyền lợi cho NLĐ.
Trên thực tế, có rất nhiều lý do dẫn đến việc NLĐ không còn động lực
để làm việc, nếu chỉ xem xét đến khía cạnh thời lượng làm việc thì họ vẫn
đảm bảo nhưng năng suất, chất lượng công việc do họ thực hiện giảm sút. Khi
đó NSDLĐ sẽ là người bị thiệt hại khi vẫn trả lương cho NLĐ nhưng hiệu quả
công việc nhận được không như thoả thuận trong HĐLĐ đã ký kết. Trong
trường hợp này, nếu pháp luật không cho phép NSDLĐ được đơn phương
chấm dứt HĐLĐ thì sẽ gây ảnh hưởng xấu đến việc sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp do năng suất, chất lượng lao động không đảm bảo. Vì vậy việc
quy định phải có định mức, căn cứ rõ ràng để tính thế nào là hoàn thành công
việc và thế nào thì bị coi là không hoàn thành công việc là quy định hợp lý và
cần thiết, để cả NLĐ và NSDLĐ đều biết chất lượng lao động của NLĐ có đạt
yêu cầu theo HĐLĐ hay không. Mặt khác việc quy định rõ các căn cứ đánh
giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ còn có ý nghĩa trong việc hạn chế NSDLĐ
lạm dụng quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ khi mượn cớ NLĐ không hoàn
thành nhiệm vụ để chấm dứt HĐLĐ với họ một cách tùy tiện. Luật lao động
để cho NSDLĐ và tổ chức đại diện cho NLĐ ở cơ sở được quyền tự thương
thảo và quyết định các căn cứ xác định mức độ hoàn thành công việc là hoàn
toàn phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước: Chỉ quản lý,
điều tiết kinh tế ở cấp vĩ mô, để nền kinh tế vận hành theo các quy luật của
kinh tế thị trường. Đồng thời việc để các bên tham gia QHLĐ tự thương thảo
các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên là phù hợp với
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tôn trọng sự thỏa thuận của các bên khi
tham gia giao kết hợp đồng.
Để NSDLĐ thực hiện được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với lý
do NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc thì NSDLĐ xây dựng quy
chế về các căn cứ để xét mức độ hoàn thành công việc một cách chi tiết, cụ
thể và quy chế này cần được tham khảo ý kiến của đại diện của BCH công
đoàn (đại diện cho tập thể NLĐ ở cơ sở). Vấn đề đặt ra là việc NSDLĐ tham
30
khảo ý kiến của BCH Công đoàn cơ sở ở mức độ nào? BCH Công đoàn cơ sở
có tham gia thương thảo với NSDLĐ khi xây dựng quy chế đánh giá mức độ
hoàn thành nhiệm vụ của NLĐ hay chỉ được tham gia ý kiến đánh giá nội
dung quy chế khi NSDLĐ ban hành? Vấn đề này có ý nghĩa quyết định trong
việc xác định quyền của BCH Công đoàn khi bảo vệ NLĐ. Nếu BCH Công
đoàn chỉ có ý kiến để NSDLĐ tham khảo khi xây dựng và ban hành quy chế thì
hiệu quả của chức năng bảo vệ NLĐ sẽ bị hạn chế rất lớn vì khi đó việc quy định
và ban hành quy chế chủ yếu thể hiện ý chí của NSDLĐ. Chỉ khi BCH Công
đoàn được tham gia thương thảo để xây dựng các nội dung quy định trong quy
chế thì việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ mới được đảm bảo vì khi đó ý chí,
nguyện vọng của NLĐ mới được đưa ra thảo luận, bàn bạc cụ thể.
Thứ hai, trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ vì lý do sức
khỏe của NLĐ.
Trường hợp NLĐ bị ốm đau, tai nạn phải điều trị trong thời gian dài thì
việc thực hiện các thỏa thuận trong HĐLĐ không được đảm bảo, khi đó
NSDLĐ sẽ là người bị thiệt hại do phải trả lương cho NLĐ nhưng không
được hưởng sản phẩm là sức lao động mà NLĐ lẽ ra phải đem lại. Vì vậy,
pháp luật cho phép NSDLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ
trong trường hợp này.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 38 BLLĐ 2012 thì NSDLĐ có
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp NLĐ bị ốm đau, tai nạn
đã điều trị một thời gian nhất định mà khả năng lao động chưa hồi phục. Tùy
thuộc vào loại HĐLĐ mà NLĐ đã ký kết pháp luật quy định thời gian điều trị
được quy định khác nhau, đối với NLĐ tham gia HĐLĐ không xác định thời
hạn thì thời gian điều trị là 12 tháng liên tục; trường hợp NLĐ tham gia
HĐLĐ xác định thời hại từ 12 đến 36 tháng thì thời gian điều trị là 06 tháng
còn đối với những người ký HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc
nhất định có thời hạn dưới 12 tháng, thì thời gian điều trị ốm đau, tai nạn
được xác định là quá nửa thời hạn HĐLĐ. Nội dung của điều luật này có quy
định rộng hơn so với BLLĐ 2002. Theo điểm c khoản 1 Điều 38 BLLĐ 2002
quy định thì NSDLĐ chỉ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ với những NLĐ
31
bị ốm đau phải nghỉ điều trị quá thời gian pháp luật cho phép, còn đối với
NLĐ bị tai nạn thì không được điều chỉnh trong nội dung điều luật.
Nếu xét trong QHLĐ, việc NLĐ ốm đau, tai nạn dẫn đến không thể
thực hiện các nghĩa vụ lao động đã thỏa thuận trong HĐLĐ. Khi đó mục đích
của NSDLĐ trong việc ký kết HĐLĐ không đạt được và về nguyên tắc, pháp
luật phải có sự can thiệp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NSDLĐ. Tuy
nhiên việc NLĐ không thực hiện được thỏa thuận theo HĐLĐ là trường hợp
bất khả kháng, nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ, đồng thời bản thân NLĐ
đang ở trong hoàn cảnh bất lợi, khó khăn do bệnh tật, tai nạn. Khi NLĐ đang
trong tình trạng sức khỏe yếu, hoàn cảnh khó khăn, nếu bị mất việc làm họ sẽ
rất khó có thể tìm kiếm được một công việc mới và như vậy khó khăn đối với
họ sẽ càng trầm trọng hơn. Vì vậy mặc dù trên thực tế NSDLĐ đang bị thiệt
hại do NLĐ không thực hiện công việc theo HĐLĐ đã ký kết, nhưng pháp
luật vẫn cấm NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với họ một cách tùy tiện.
Việc ấn định các mức thời gian để NLĐ điều trị bệnh tật, tai nạn nhằm tạo
điều kiện cho NLĐ ổn định cuộc sống khi gặp hoàn cảnh bất lợi về sức khỏe,
giúp họ yên tâm điều trị bệnh tật, tại nạn. Mặt khác nhằm mục đích bảo vệ việc
làm của NLĐ ở mức cao nhất, hạn chế việc NSDLĐ đơn phương chấm dứt
HĐLĐ một cách tùy tiện đối với NLĐ trong hoàn cảnh này. Chỉ khi NLĐ phải
nghỉ để điều trị bệnh tật, tai nạn với thời gian vượt quá quy định và tình trạng sức
khỏe chưa phục hồi để thực hiện các nghĩa vụ theo thỏa thuận trong HĐLĐ thì
NSDLĐ mới được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với họ.
2.1.1.2. Những trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ liên
quan đến ý thức tổ chức, kỷ luật, đạo đức của NLĐ.
Sức lao động là một loại hàng hóa có tính chất rất đặc biệt bởi nó gắn
liền với NLĐ chứ không thể tách rời. Việc sử dụng lao động gắn liền với việc
sử dụng con người. Vì vậy chất lượng hàng hóa sức lao động được thể hiện
không chỉ thông qua năng suất, chất lượng lao động mà còn thể hiện thông
qua thái độ của NLĐ với công việc được giao; sự tận tụy, trung thành với
doanh nghiệp; tư cách đạo đức và nhân thân của NLĐ…Pháp luật lao động
ghi nhận quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ khi NLĐ có các
32
hành vi vi phạm ý thức tổ chức, kỷ luật; tư cách đạo đức; thiếu trung thành
với doanh nghiệp… gây ra thiệt hại cho doanh nghiệp, cụ thể gồm:
NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ do hết thời hạn tạm hoãn thực
hiện HĐLĐ nhưng NLĐ không có mặt tại nơi làm việc.
Theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 38 BLLĐ 2012 thì NSDLĐ có
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ trong trường hợp “Người lao
động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ
luật này.”. Tại Điều 33 BLLĐ 2012 quy định “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày hết thời hạn tạm hoãn hợp đồng lao động đối với các trường hợp quy
định tại Điều 32 của Bộ luật này, người lao động phải có mặt tại nơi làm việc
và người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc, trừ
trường hợp hai bên có thỏa thuận khác”. Như vậy pháp luật Lao động quy
định trong trường hợp thời hạn tạm hoãn thực hiện HĐLĐ đã hết, nếu hai bên
không có thỏa thuận khác thì trong hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm
hoãn HĐLĐ, NLĐ phải có mặt để tiếp tục thực hiện HĐLĐ đã ký kết. Trường
hợp sau 15 ngày, nếu NLĐ không có mặt tại nơi làm việc thì NSDLĐ có
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Đây là quy định mới của BLLĐ 2012 so với trước đây. Quy định này
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của NSDLĐ trong việc bố trí, sắp xếp, sử
dụng nhân sự. Vì theo quy định của điều 33 BLLĐ 2012 thì NSDLĐ phải có
trách nhiệm nhận NLĐ trở lại làm việc theo HĐLĐ khi thời hạn tạm hoãn
thực hiện HĐLĐ đã hết, nếu NLĐ đến nơi làm việc muộn sẽ làm gián đoạn
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của đơn vị, ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của NSDLĐ. Vì vậy trong
trường hợp NLĐ đến muộn, NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ
để chủ động tuyển dụng, bố trí, phân công nhân sự khác vào vị trí làm việc
của NLĐ đến muộn để đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp. Theo quy định
của pháp luật thì thời hạn phải có mặt là 15 ngày kể từ ngày hết hạn tạm hoãn
thực hiện HĐLĐ, nhưng BLLĐ 2012 quy định thêm nội dung mở, rất linh
hoạt để các bên tự thỏa thuận về thời hạn này, chỉ khi các bên không có thỏa
thuận mới áp dụng thời hạn theo luật định.
33
Tuy pháp luật cho phép NSDLĐ được thực hiện quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với NLĐ khi có các căn cứ được quy định tại Điều 38
BLLĐ 2012, nhưng không phải trường hợp nào khi phát sinh căn cứ tại Điều
38 BLLĐ 2012 NSDLĐ cũng được đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
Trong một số trường hợp nhất định, pháp luật quy định giới hạn quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Tại Điều 39 BLLĐ 2012 quy định các
trường hợp NDSLĐ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ bao
gồm: “1. Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
đang điều trị, điều dưỡng theo quyết định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có
thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 của Bộ luật
này; 2. Người lao động đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và những trường
hợp nghỉ khác được người sử dụng lao động đồng ý;3. Lao động nữ quy định
tại khoản 3 Điều 155 của Bộ luật này;4. Người lao động nghỉ việc hưởng chế
độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”.
Trường hợp NLĐ ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
đang điều trị, điều dưỡng theo quyết định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có
thẩm quyền. trong trường hợp này, NLĐ đang ở trong tình trạng sức khỏe
yếu, nếu bị mất việc làm họ sẽ rất khó để có thể tìm được một công việc khác,
khi đó họ sẽ rơi vào tình trạng hết sức khó khăn do vừa không có việc làm lại
gánh thêm chi phí cho việc chạy chữa ốm đau, tại nạn. Việc khoản 1 Điều 39
BLLĐ 2012 quy định NSDLĐ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ với
NLĐ đang trong tình trạng này là một quy định mạng tính nhân văn sâu sắc.
Việc ốm đau, tai nạn là trường hợp bất khả kháng, không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của NLĐ, vì vậy pháp luật quy định cho phép NLĐ được nghỉ trong
một thời gian nhất định để phục hồi sức khỏe. Tuy nhiên nếu việc nghỉ này
quá lâu sẽ ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của đơn vị thì NSDLĐ có
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Với mục đích nhằm bảo vệ việc làm cho
NLĐ ở mức độ cao nhất và hạn chế việc NSDLĐ tùy tiện thực hiện quyền
đơn phương chấm dứt HĐLĐ khi NLĐ rơi vào tình trạng ốm đau nên tạm
thời không thể hoàn thành nghĩa vụ của mình, pháp luật đưa ra quy định cụ
thể về thời gian mà NLĐ được nghỉ ốm mà không bị chấm dứt HĐLĐ. Chỉ
34
khi vượt quá khoảng thời gian pháp luật cho phép mà NLĐ vẫn không thể tiếp
tục thực hiện công việc theo HĐLĐ thì NSDLĐ mới có quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với họ.
Trường hợp NLĐ đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và những
trường hợp nghỉ khác được NSDLĐ đồng ý. Khi NLĐ đang nghỉ việc một
cách hợp pháp và không có mặt ở nơi làm việc thì theo quy định của pháp luật
NSDLĐ không được phép chấm dứt HĐLĐ với họ bởi việc quyết định đơn
phương chấm dứt HĐLĐ vắng mặt NLĐ có thể gây nhiều bất lợi cho NLĐ trong
việc giải quyết các chế độ trợ cấp cũng như đảm bảo cho NLĐ có thực hiện các
quyền, bảo vệ các lợi ích hợp pháp của họ. Cũng do NLĐ không có mặt tại nơi
làm việc nên họ không biết bản thân đã bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ, do đó
họ không thể kịp thời đứng ra bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cũng như
trực tiếp gặp và trình bày với NSDLĐ về các nội dung liên quan để NSDLĐ có
thể xem xét, rút lại quyết định đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Trường hợp NSDLĐ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với
lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng
tuổi (theo quy định tại Khoản 3 Điều 155 BLLĐ 2012). Không giống như lao
động nam giới, lao động nữ có nhiều đặc thù (vừa là lao động vừa là mẹ,
chăm sóc gia đình..) đòi hỏi pháp luật phải có những quy định riêng cho đối
tượng nhằm mục đích đảm bảo quyền làm việc và quyền bình đẳng giới của
phụ nữ, tạo điều kiện cho họ thực hiện tốt hai chức năng là chức năng lao
động và chức năng làm mẹ, chăm sóc và nuôi dạy thế hệ trẻ. Vì vậy việc pháp
luật quy định NSDLĐ không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ với phụ nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12
tháng tuổi là hợp lý, nhằm tạo điều kiện cho NLĐ nữ vừa thực hiện được
thiên chức thiêng liêng của họ đồng thời vẫn đảm bảo cho họ quyền làm việc.
Mặt khác, tại Điều 36 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định việc kết hôn là
quyền của công dân Việt Nam, nên nếu NSDLĐ đơn phương chấm dứt
HĐLĐ với NLĐ nữ vì lý do kết hôn là vi phạm Hiến pháp. Trường hợp NLĐ
nữ đang mang thai, nghỉ thai sản và đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trong
thời gian này, họ đang thực hiện thiên chức của phụ nữ vì vậy cả về sức khỏe
35
và thời gian làm việc đều sẽ bị ảnh hưởng, khó có thể đảm bảo thực hiện đúng
theo thỏa thuận trong HĐLĐ. Tuy nhiên NSDLĐ không được vì lý do NLĐ
nữ trong trường hợp này có vi phạm về thời gian lao động hay không hoàn
thành nhiệm vụ mà đơn phương chấm dứt HĐLĐ với họ.
Theo Khoản 4 Điều 39 BLLĐ 2012 quy định NSDLĐ không được
đơn phương chấm dứt HĐLĐ với “Người lao động nghỉ việc hưởng chế độ
thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”. Nội dung này nếu
theo Khoản 1 Điều 28 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 quy định có 04 trường
hợp bao gồm: Lao động nữ mang thai; Lao động nữ sinh con; Người lao động
nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi; Người lao động đặt vòng tránh thai,
thực hiện các biện pháp triệt sản”. Đến Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 các
trường hợp NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được quy định rộng hơn và
sửa một số trường hợp, gồm: “Lao động nữ mang thai; Lao động nữ sinh con;
Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; Người lao động
nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi; Lao động nữ đặt vòng tránh thai,
người lao động thực hiện biện pháp triệt sản; Lao động nam đang đóng bảo
hiểm xã hội có vợ sinh con”. Những thay đổi mang tính chất mở rộng đối
tượng hưởng quyền nghỉ việc hưởng chế độ thai sản của Luật Bảo hiểm xã
hội đem lại những lợi ích không nhỏ cho NLĐ. Từ những quy định trên cho
thấy pháp luật ngày càng hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NLĐ, đặc biệt là NLĐ nữ.
Các quy định tại Điều 39 BLLĐ 2012 đã giới hạn NSDLĐ không được
đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với NLĐ trong một số trường hợp cụ thể.
Nội dung này chỉ áp dụng đối với các căn cứ được quy định tại Điều 38
BLLĐ 2012, còn trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với
NLĐ do có thay đổi về cơ cấu, công nghệ, vì lý do kinh tế hay có sự kiện bất
khả kháng thì không thể áp dụng vì trong các trường hợp này, bản thân
NSDLĐ cũng không thể chủ động trong việc sử dụng lao động như trước.
Việc cắt giảm lao động là bắt buộc ngay cả khi NSDLĐ không mong muốn.
36
2.1.1.3. Trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ do
thay có đổi về cơ cấu, công nghệ, lý do kinh tế hoặc do đơn vị có sự thay đổi.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc một đơn vị phải thay đổi về
cơ cấu, công nghệ; thu hẹp hoặc chuyển đổi mục tiêu sản xuất kinh doanh;
sắp xếp lại hoặc chia tách, sáp nhập dẫn đến việc thay đổi về tổ chức, quản lý,
điều hành là điều diễn ra hết sức bình thường, phù hợp với quy luật vận hành
của kinh tế thị trường. Cùng với sự thay đổi nêu trên là sự thay đổi, biến động
của nhu cầu sử dụng lao động đối với đơn vị dẫn đến việc NSDLĐ buộc phải
đơn phương chấm dứt HĐLĐ với một số NLĐ. Trong tất cả các trường hợp
nêu trên, NSDLĐ đều có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ
nhưng bản chất của việc chấm dứt HĐLĐ trong các trường hợp trên là khác
nhau, nên trách nhiệm của NSDLĐ cũng có những điểm khác nhau.
Thứ nhất, trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ
do thay đổi về cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế.
Tại điều 44 BLLĐ 2012 quy định: “Trường hợp thay đổi cơ cấu, công
nghệ mà ảnh hưởng đến việc làm của nhiều người lao động, thì người sử
dụng lao động có trách nhiệm xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao
động theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này; trường hợp có chỗ làm việc
mới thì ưu tiên đào tạo lại người lao động để tiếp tục sử dụng.
Trong trường hợp người sử dụng lao động không thể giải quyết được
việc làm mới mà phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất
việc làm cho người lao động theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này.”
Theo quy định của điều luật này thì việc đơn vị có thay đổi về cơ cấu,
công nghệ không đồng nghĩa với việc NSDLĐ đương nhiên được đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với NLĐ. Khi thay đổi cơ cấu, công nghệ dẫn đến dư thừa
lao động, trước hết NSDLĐ phải xây dựng và thực hiện phương án sử dụng
lao động của đơn vị. Chỉ sau khi đã thực hiện phương án sử dụng lao động mà
vẫn không thể giải quyết được việc làm cho NLĐ thì NSDLĐ mới có thể thực
hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Quy định này nhằm tránh trường
hợp NSDLĐ lạm dụng việc thay đổi cơ cấu, công nghệ để đơn phương chấm
dứt HĐLĐ với NLĐ trong đơn vị một cách tùy tiện.
37
Theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP thì thay đổi cơ
cấu, công nghệ bao gồm các trường hợp sau: Thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức
lại lao động; Thay đổi sản phẩm, cơ cấu sản phẩm; Thay đổi quy trình, công
nghệ, máy móc, thiết bị sản xuất, kinh doanh gắn với ngành, nghề sản xuất,
kinh doanh của người sử dụng lao động.
Việc thay đổi cơ cấu công nghệ theo quy định nêu trên có thể sẽ dẫn
đến dư thừa lao động, đặc biệt là lao động phổ thông và lao động có tay nghề
thấp, chưa qua đào tạo. Vì vậy nếu pháp luật không có quy định chặt chẽ sẽ
dẫn đến tình trạng NSDLĐ sa thải hàng loạt NLĐ để ký HĐLĐ với những
NLĐ đã qua đào tạo, có tay nghề cao hơn. Việc này dẫn đến tình trạng NLĐ
bị mất việc làm không phải do lỗi của họ mà xuất phát từ nhu cầu đầu tư máy
móc, công nghệ; thay đổi cơ cấu tổ chức, cơ cấu sản phẩm … của NSDLĐ,
nên việc NLĐ mất việc làm là do NSDLĐ. Vì vậy, nhằm hạn chế việc
NSDLĐ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ một cách
tùy tiện, đồng thời bảo vệ việc làm cho NLĐ pháp luật lao động quy định
buộc NSDLĐ phải có trách nhiệm đào tạo lại và tạo việc làm cho NLĐ trong
trường hợp họ không còn phù hợp với công việc do NSDLĐ thay đổi cơ cấu
công nghệ của đơn vị. Trong trường hợp do thay đổi cơ cấu, công nghệ mà có
chỗ làm việc mới thì NSDLĐ phải ưu tiên đào tạo lại NLĐ để tiếp tục sử
dụng họ chứ không được nhận NLĐ mới.
Trong trường hợp vì lý do kinh tế mà đơn vị phải thu hẹp sản xuất kinh
doanh dẫn đến nhiều NLĐ bị mất việc làm thì NSDLĐ cũng phải có trách
nhiệm với NLĐ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 BLLĐ 2012 quy định
“Trong trường hợp vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất
việc làm, phải thôi việc, thì người sử dụng lao động phải xây dựng và thực
hiện phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này.
Trong trường hợp người sử dụng lao động không thể giải quyết được
việc làm mà phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc
làm cho người lao động theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này.”
Lý do kinh tế là căn cứ để thực hiện quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ trong trường hợp này phải là các lý do thuộc yếu tố
38
khách quan của nền kinh tế tác động đến việc sử dụng lao động của NSDLĐ.
Lý do kinh tế trong trường hợp này được cụ thể hóa tại Khoản 2 Điều 13
Nghị định số 05/2015/NĐ-CP là: Khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế; Thực
hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế hoặc thực hiện cam
kết quốc tế”. Khi vì lý do kinh tế mà NSDLĐ phải đơn phương chấm dứt
HĐLĐ với nhiều NLĐ thì họ cũng phải xây dựng và thực hiện phương án sử
dụng lao động; phải có trách nhiệm đào tạo lại và tạo việc làm cho NLĐ. Chỉ
trong trường hợp không thể giải quyết được việc làm cho NLĐ nữa thì
NSDLĐ mới được thực hiện việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ với họ.
Việc NSDLĐ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ vì lý do
thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế thường sẽ dẫn đến việc nhiều
NLĐ mất việc làm nên ảnh hưởng của hành vi này đối với xã hội rất lớn. Vì
vậy để thực hiện được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp
này, NSDLĐ phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ
tục. Trong đó, việc trao đổi với đại diện tập thể NLĐ tại doanh nghiệp và thực
hiện thông báo với cơ quan quản lý nhà nước về lao động tại địa phương là thủ
tục bắt buộc. Quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ.
So với các quy định của BLLĐ 2002 thì các quy định tại Điều 44
BLLĐ 2012 về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ trong trường
hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế có sự tiến bộ rõ rệt và có
tình khả thi cao. Vì đã bao quát rộng hơn, đầy đủ hơn các trường hợp vì lý do
kinh tế và thay đổi cơ cấu, công nghệ làm căn cứ để NSDLĐ thực hiện quyền
đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Đồng thời đã cụ thể hóa về đối tượng được đào
tạo lại trong trường hợp này. Việc quy định cụ thể NSDLĐ có trách nhiệm ưu
tiên đào tạo lại NLĐ để tiếp tục sử dụng trong trường hợp có chỗ làm việc
mới vừa giúp cho NLĐ có cơ hội được làm việc nhưng đồng thời cũng giúp
NSDLĐ có thể tập trung chi phí đào tạo vào NLĐ nằm trong danh sách và số
lượng người lao động tiếp tục được sử dụng, người lao động đưa đi đào tạo lại
để tiếp tục sử dụng. Còn đối với NLĐ khác thì NSDLĐ không có trách nhiệm
đào tạo lại, tránh tình trạng quy định không rõ ràng về đối tượng được đào tạo
lại dẫn đến việc đơn vị phải gánh chịu các chi phí đào tạo không cần thiết
39
hoặc dẫn đến tranh chấp do không đào tạo lại NLĐ mà đơn vị không còn nhu
cầu sử dụng.
Thứ hai, trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp
sáp nhập, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã.
Các trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã
đều dẫn dến sự thay đổi về quy mô, phương thức tổ chức của doanh nghiệp.
Việc thay đổi này dẫn đến việc chấm dứt mối quan hệ giữa NLĐ với NSDLĐ
cũ. Đồng thời do doanh nghiệp mới có quy mô, cơ cấu mới nên việc sử dụng
lao động cũng cần được điều chỉnh để phù hợp với hiện trạng của doanh
nghiệp mới. Trong trường hợp này pháp luật cho phép NSDLĐ cũ được chấm
dứt HĐLĐ với NLĐ và NSDLĐ kế tiếp sẽ là người phải có trách nhiệm tiếp
tục sử dụng NLĐ hiện có. Tại khoản 1 Điều 45 BLLĐ 2012 quy định “Trong
trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã thì
NSDLĐ kế tiếp phải chịu trách nhiệm tiếp tục sử dụng số lao động hiện có và
tiến hành việc sửa đổi, bổ sung HĐLĐ.
Trong trường hợp không sử dụng hết số lao động hiện có, thì NSDLĐ
kế tiếp có trách nhiệm xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động
theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này”.
Như vậy, do sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã
nên QHLĐ giữa NSDLĐ với NLĐ bị phá vỡ. Khi đó pháp luật cho phép
NSDLĐ cũ được chấm dứt HĐLĐ với NLĐ và NSDLĐ kế tiếp sẽ là người
phải có trách nhiệm tiếp tục sử dụng NLĐ hiện có. Điều này thể hiện sự bảo
hộ của Nhà nước về việc làm cho NLĐ. Trên thực tế có không ít trường hợp
các doanh nghiệp, hợp tác xã phải bị sáp nhập, hợp nhất, chia, tách do nguyên
nhân tổ chức quản lý cồng kềnh, yếu kém; công nghệ lạc hậu…Nên NSDLĐ
mới khi sắp xếp lại quy mô, cơ cấu của doanh nghiệp sẽ phải cắt giảm nhiều
lao động dư thừa hoặc không đáp ứng được nhu cầu của công nghệ mới. Khi
đó nếu pháp luật chỉ quy định trách nhiệm của NSDLĐ mới phải tiếp tục sử
dụng số lao động hiện có mà họ không được tự quyết định việc sử dụng hay
không sử dụng đối với những NLĐ không còn phù hợp thì việc sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách doanh nghiệp mất đi ý nghĩa vì bản chất của việc thay đổi này
40
là nhằm khắc phục các yếu kém của doanh nghiệp trước. Do đó việc BLLĐ
2012 quy định và cho phép NSDLĐ không phải có nghĩa vụ nhận lại tất cả
NLĐ là một quyết định hợp lý. Nhưng để hạn chế NSDLĐ lạm dụng việc sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp để đơn phương chấm dứt HĐLĐ với
NLĐ cũ, pháp luật buộc NSDLĐ mới trong trường hợp không sử dụng toàn
bộ NLĐ cũ thì phải xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động theo
quy định của Điều 46 BLLĐ 2012. Khi đó, NSDLĐ sẽ phải lên danh sách
những NLĐ được tiếp tục làm việc; danh sách NLĐ được đưa đi đào tạo lại
để về làm việc cho doanh nghiệp; danh sách NLĐ làm việc không trọn thời
gian và danh sách NLĐ phải chấm dứt hợp đồng lao động. Việc xây dựng và
thực hiện phương án sử dụng lao động trong trường hợp này ngoài ý nghĩa
bảo vệ việc làm cho LNĐ còn mang ý nghĩa công khai nguyên nhân chấm dứt
HĐLĐ với NLĐ để NLĐ bảo vệ quyền lợi của mình.
2.1.1.4. Trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ do những
nguyên nhân bất khả kháng.
Theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 38 BLLĐ 2012 thì trong
trường hợp: “Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác
theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện
pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc”.
Trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật thì khi doanh nghiệp gặp
phải những sự kiện khách quan, nằm ngoài ý muốn và gây ảnh hưởng lớn đến
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống sinh hoạt của con người hoặc
do các sự kiện bất khả kháng khác mà việc sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bị ảnh hưởng, NSDLĐ đã tìm cách khắc phục nhưng vẫn dẫn đến
doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, thì NSDLĐ được phép đơn phương chấm
dứt HĐLĐ với NLĐ. Quy định này có tính nhân văn cao, nhằm bảo vệ
NSDLĐ và giúp NSDLĐ có thể tập trung nguồn lực tài chính để duy trì, phát
triển sản xuất kinh doanh trong khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Tuy nhiên, để
thực hiện được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp này,
pháp luật quy định NSDLĐ phải bị ảnh hưởng lớn từ các sự kiện thiên tai, hỏa
hoạn, các lý do bất khả kháng khác dẫn đến phải thu hẹp sản xuất kinh doanh,
41
đồng thời NSDLĐ đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể khắc
phục được.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP thì
các sự kiện bất khả kháng bao gồm: “ a) Do địch họa, dịch bệnh;b) Di dời
hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền”. Quy định về lý do bất khả kháng như trên là rõ ràng, dễ
thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên quy định về việc “…người sử dụng lao
động đã tìm mọi biện pháp khắc phục…” thì chưa có quy định cụ thể. Nên
dẫn đến nhiều cách hiểu, cách áp dụng khác nhau về các biện pháp khắc phục
khó khăn của NSDLĐ. Pháp luật cũng chưa quy định về cách thức để chứng
minh NSDLĐ đã thực hiện mọi biện pháp khắc phục phải được thể hiện như
thế nào. Nên khi NSDLĐ áp dụng quy định này để đơn phương chấm dứt
HĐLĐ với NLĐ cũng như khi cơ quan chức năng giải quyết tranh chấp có
liên quan sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong thực tiễn.
BLLĐ năm 2019 bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2021 bên cạnh việc thừa
nhận các trường hợp chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ nêu trên còn thừa nhận
thêm 3 trường hợp NSDLĐ được quyền chấm dứt HĐLĐ đối với NLĐ. Đó là:
- Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác;
- Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05
ngày làm việc liên tục trở lên;
- Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định
của pháp luật khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển
dụng người lao động.
Như vậy có thể thấy BLLĐ năm 2019 đã mở rộng hơn quyền chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ đối với NLĐ, tạo điều kiện cho NSDLĐ được linh hoạt
hơn trong việc sử dụng lao động
2.1.2. Thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục đơn phương chấm
dứt HĐLĐ của NSDLĐ.
- Về thủ tục báo trước cho NLĐ
Theo quy định của Khoản 2 Điều 38 BLLĐ 2012 thì thời hạn báo trước
được quy định khá linh hoạt, tùy thuộc vào từng loại HĐLĐ và căn cứ đơn
42
phương chấm dứt HĐLĐ mà thời hạn báo trước được quy định khác nhau, cụ
thể: “Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động
phải báo cho người lao động biết trước:a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng
lao động không xác định thời hạn;b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao
động xác định thời hạn;c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy
định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.”
Theo quy định trên thì trước khi NSDLĐ thực hiện quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ, họ phải báo trước với NLĐ trong một thời gian hợp lý để
nhằm mục đích giúp NLĐ chủ động hơn trước khi bị đơn phương chấm dứt
HĐLĐ như chuẩn bị trước về tâm lý, tránh bị hẫng hụt khi mất việc làm;
chuẩn bị tìm việc làm mới cũng như chuẩn bị các phương án bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình…
Đối với các trường hợp chấm dứt HĐLĐ do thay đổi cơ cấu, công nghệ
hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp thì
NSDLĐ không phải thực hiện thủ tục báo trước, bởi nguyên nhân dẫn đến
việc NSDLĐ phải thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ là do những
yếu tố mang tính khách quan, chính NSDLĐ cũng bị động nên nếu quy định
buộc họ phải thực hiện thời gian báo trước là không hợp lý. Mặt khác tuy
trong những trường hợp này NSDLĐ không thực hiện việc báo trước nhưng
để đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ, NSDLĐ phải thực hiện rất nhiều
thủ tục như: Việc xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động; việc
trao đổi với tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và thông báo trước 30
ngày cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh. Việc thực hiện các
thủ tục nêu trên nhiều khi còn kéo dài hơn cả thời hạn báo trước. Trong một
số trường hợp cụ thể khi NLĐ bị chấm dứt HĐLĐ mặc dù không được báo
trước nhưng họ cũng đã biết trước.
BLLĐ năm 2019 cũng quy định khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ
NSDLĐ có trách nhiệm phải báo trước cho NLĐ. Cụ thể báo trước ít nhất 45
ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Ít nhất 30 ngày đối
với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36
43
tháng; Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn
có thời hạn dưới 12 tháng . Tuy nhiên BLLĐ năm 2019 cũng quy định: đối
với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực
hiện theo quy định của Chính phủ. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động đối với trường hợp NLĐ không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy
định khi hết thời hạn tạm hoãn hợp đồng và trường hợp NLĐ tự ý bỏ việc
không co lý do chính đáng từ 5 ngày làm việc liên tục trở lên thì người sử
dụng lao động không phải báo trước cho người lao động.
- Thủ tục tham khảo ý kiến của Công đoàn cơ sở.
Theo quy định của BLLĐ 2012 thì việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ
là quyền của NSDLĐ, việc NSDLĐ thực hiện quyền này khi có đủ các căn cứ
theo quy định của pháp luật thuộc về ý chí chủ quan của họ, không phụ thuộc
vào ý kiến của đại diện Công đoàn cơ sở.
Nghĩa vụ tham khảo ý kiến của Công đoàn khi NSDLĐ thực hiện
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ được áp dụng trong trường hợp quy định
tại Khoản 3 Điều 44 và Khoản 7 Điều 192 BLLĐ 2012. Tại khoản 3 Điều 44
quy định “Việc cho thôi việc đối với nhiều người lao động theo quy định tại
Điều này chỉ được tiến hành sau khi đã trao đổi với tổ chức đại diện tập thể
lao động tại cơ sở và thông báo trước 30 ngày cho cơ quan quản lý nhà nước về
lao động cấp tỉnh”. Còn tại Khoản 7 Điều 192 quy định “Khi người sử dụng lao
động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, chuyển làm công việc khác, kỷ
luật sa thải đối với người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách thì
phải thỏa thuận bằng văn bản với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở hoặc Ban
chấp hành cấp trên trực tiếp cơ sở”. Như vậy việc tham khảo ý kiến của Công
đoàn cơ sở không phải là bắt buộc đối với mọi trường hợp NSDLĐ đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với NLĐ. Thủ tục này chỉ còn được quy định khi NSDLĐ đơn
phương chấm dứt HĐLĐ đối với nhiều người hoặc người bị đơn phương chấn
dứt HĐLĐ là cán bộ Công đoàn không chuyên trách.
Thực tế, việc NSDLĐ trao đổi với tổ chức đại diện tập thể lao động tại
cơ sở khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với nhiều người chỉ là sự thông
báo mang tính hình thức vì các căn cứ để NSDLĐ thực hiện quyền đơn
44
phương chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp này đều là các sự kiện khách quan,
bất khả kháng dẫn đến NSDLĐ phải thu hẹp sản xuất. Nên kể cả trong trường
hợp ý kiến của Công đoàn cơ sở không nhất trí, thì NSDLĐ vẫn thực hiện
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo phương án sử dụng lao động đã xây
dựng. Trong trường hợp NSDLĐ thỏa thuận bằng văn bản với Ban chấp hành
Công đoàn khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ là cán bộ công đoàn
không chuyên trách, thì việc Ban chấp hành Công đoàn có nhất trí hay không
cũng không ảnh hưởng đến việc NSDLĐ quyết định đơn phương chấm dứt
HĐLĐ mà chỉ kéo dài thời gian quyết định của NSDLĐ thêm 30 ngày để báo
cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, sau thời gian này NSDLĐ vẫn có
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
- Thủ tục thông báo với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 44 và Khoản 7 Điều 192 BLLĐ 2012
thì khi NSDLĐ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với nhiều
người vì lý do thay đổi cơ cấu, công nghệ, lý do kinh tế hoặc chấm dứt HĐLĐ
với NLĐ là cán bộ công đoàn không chuyên trách thì ngoài việc tham khảo ý
kiến của Công đoàn cơ sở NSDLĐ còn phải có trách nhiệm thông báo cho cơ
quan quản lý nhà nước về lao động biết. Cụ thể trong trường hợp chấm dứt
HĐLĐ với nhiều NLĐ được quy định tại Điều 44 thì NSDLĐ chỉ được tiến
hành sau khi đã trao đổi với tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và
thông báo trước 30 ngày cho cơ quan quản lý lao động cấp tỉnh. Theo Điều 7
Thông tư số 47/2015/TT- BLĐTBXH hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định
số 05/2015/NĐ-CP quy định cụ thể như sau: “Người sử dụng lao động có
trách nhiệm thông báo bằng văn bản trước 30 ngày, kể từ ngày gửi thông báo
cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh biết trước khi tiến hành
cho thôi việc từ 02 người lao động trở lên theo quy định tại Khoản 3 Điều 13
Nghị định số 05/2015/NĐ-CP”. Như vậy pháp luật đã quy định rõ về hình
thức báo trước là phải bằng văn bản và “nhiều người” được hiểu là từ 02 (
hai) người trở lên. Cũng trong Điều 7 của Thông tư này có quy định: “Cơ
quan lao động cấp tỉnh có trách nhiệm tiếp nhận, theo dõi, kiểm tra việc cho
thôi việc đối với nhiều người lao động của người sử dụng lao động”. Nội
45
dung của quy định này thể hiện sau khi được thông báo thì cơ quan lao động
cấp tỉnh sẽ có theo dõi, kiểm tra việc NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Tuy nhiên cho đến nay chưa có văn bản pháp luật nào đề cập đến thẩm quyền
của cơ quan lao động cấp tỉnh trong trường hợp kiểm tra thấy có sai phạm thì
sẽ xử lý ra sao? Về nguyên tắc, nếu pháp luật không quy định thì cơ quan
quản lý lao động không có quyền yêu cầu NSDLĐ dừng việc đơn phương
chấm dứt HĐLĐ. Nhưng nếu trong quá trình theo dõi, kiểm tra phát hiện thấy
có sai phạm mà không được xử lý thì việc thông báo trước của NSDLĐ; việc
theo dõi, kiểm tra của cơ quan quản lý lao động cấp tỉnh chỉ mang ý nghĩa là
thủ tục hành chính thuần túy. Nếu thủ tục báo trước chỉ mang tính chất hành
chính để cơ quan quản lý lao động biết thì thời gian báo trước 30 ngày là quá
dài, sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
Trường hợp chấm dứt HĐLĐ với NLĐ là cán bộ công đoàn không
chuyên trách, NSDLĐ cũng phải thỏa thuận bằng văn bản với Ban chấp hành
Công đoàn cơ sở. Trong trường hợp không thỏa thuận được, hai bên phải báo
cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và sau 30 ngày kể từ ngày báo cáo,
NSDLĐ mới có quyền quyết định chấm dứt HĐLĐ và phải chịu trách nhiệm
về quyết định của mình. Cùng với các thủ tục nêu trên, BLLĐ năm 2019 còn
quy định về nghĩa vụ thông báo chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Cụ thể Điều
45 BLLĐ năm 2019 có quy định: “
"1. Người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao
động về việc chấm dứt hợp đồng lao động khi hợp đồng lao động chấm dứt
theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5, 6,
7 và 8 Điều 34 của Bộ luật này; 2. Trường hợp người sử dụng lao động không
phải là cá nhân chấm dứt hoạt động thì thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động
tính từ thời điểm có thông báo chấm dứt hoạt động. Trường hợp người sử
dụng lao động không phải là cá nhân bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh
doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện
theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người
đại diện theo pháp luật theo quy định tại khoản 7 Điều 34 của Bộ luật này thì
thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động tính từ ngày ra thông báo."
46
2.1.3. Thực trạng pháp luật về giải quyết hậu quả pháp lý khi
NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là sự kiện pháp lý phát sinh dẫn đến việc
chấm dứt mối quan hệ của các bên trong QHLĐ. Tuy nhiên, khi NSDLĐ đơn
phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ thì trách nhiệm đặt ra là rất lớn, bởi xuất
phát từ vị thế là người nắm giữ tư liệu sản xuất và có tài sản nên NSDLĐ luôn
là người có vai trò chủ động. Khi NSDLĐ thực hiện quyền đơn phương chấm
dứt HĐLĐ, họ đã đưa NLĐ vào vị thế của người gặp khó khăn và bị thua thiệt
do mất việc làm, mất thu nhập. Ngay cả khi NLĐ có lỗi dẫn đến họ bị
NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì cũng không thể phủ nhận công sức
của họ đã đóng góp trong thời gian thực hiện HĐLĐ giữa họ với NSDLĐ. Về
bản chất, NSDLĐ khi ký HĐLĐ với NLĐ là để hướng tới mục đích tìm kiếm
giá trị thặng dư khi sử dụng sức lao động của họ. Bởi vậy khi NSDLĐ không
sử dụng NLĐ nữa, họ phải có trách nhiệm đền bù lại phần nào các giá trị của
sức lao động mà NLĐ đã đem lại trước khi bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Vì vậy bên cạnh quyền lợi là được yêu cầu NLĐ trả lại những khoản nợ,
những trang thiết bị sử dụng trong doanh nghiệp mà NLĐ được trang bị và
trong một số trường hợp cụ thể được yêu cầu hoàn trả phí đào tạo nghề… thì
trách nhiệm của NSDLĐ là rất lớn, tùy thuộc vào hành vi đơn phương chấm
dứt HĐLĐ của NSDLĐ là hợp pháp hay bất hợp pháp mà họ sẽ phải chịu
trách nhiệm khác nhau theo quy định của pháp luật.
2.1.3.1. Trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ hợp pháp.
Trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ hợp pháp,
NSDLĐ phải thực hiện các trách nhiệm bao gồm: Trách nhiệm trả trợ cấp mất
việc làm cho NLĐ; trách nhiệm trợ cấp thôi việc cho NLĐ; trách nhiệm thanh
toán các khoản tiền lương, trợ cấp, phụ cấp, các khoản thu nhập khác và trả
các loại giấy tờ cho NLĐ.
Thứ nhất, về trách nhiệm trả trợ cấp mất việc làm cho NLĐ.
Trợ cấp mất việc làm là nghĩa vụ mà NSDLĐ phải thực hiện đối với
NLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ vì lý do thay đổi cơ cấu, công nghệ
hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp
47
tác xã. Theo quy định tại Điều 49 BLLĐ 2012 thì khi NSDLĐ đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với NLĐ trong trường hợp này thì phải có trách nhiệm chi
trả trợ cấp mất việc làm cho NLĐ đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng
trở lên, mỗi năm làm việc được một nửa tháng tiền lương, thời gian này được
tính theo năm (12 tháng là 01 năm), nếu có tháng lẻ thì từ đủ 01 tháng đến
dưới 06 tháng được tính bằng 1/2 năm; từ đủ 06 tháng trở lên được tính làm
tròn bằng 01 năm làm việc. Thời gian để tính trợ cấp mất việc làm là tổng thời
gian NLĐ đã làm việc thực tế cho NSDLĐ trừ đi thời gian NLĐ đã tham gia
bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian làm việc đã
được NSDLĐ chi trả trợ cấp thôi việc. Thời gian NLĐ làm việc thực tế được
quy định cụ thể tại Điểm a Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP, cụ
thể như sau: “Thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử
dụng lao động bao gồm: thời gian người lao động đã làm việc cho người sử
dụng lao động; thời gian thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho người
sử dụng lao động; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời
gian nghỉ hưởng chế độ theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội; thời gian
nghỉ hằng tuần theo Điều 110, nghỉ việc hưởng nguyên lương theo các Điều
111, Điều 112, Điều 115 và Khoản 1 Điều 116 của Bộ luật Lao động; thời
gian nghỉ để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn;
thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động; thời
gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc và thời gian bị tạm giữ, tạm giam
nhưng được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết
luận không phạm tội;”. Còn thời gian người NLĐ đã tham gia bảo hiểm thất
nghiệp được quy định cụ thể tại Điểm b Khoản 3 Điều 14 Nghị định số
05/2015/NĐ-CP, cụ thể bao gồm: “Thời gian người sử dụng lao động đã
đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian người sử
dụng lao động đã chi trả cùng lúc với kỳ trả lương của người lao động một
khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định
của pháp luật”. Tiền lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình
quân theo HĐLĐ của 06 tháng liền kề trước khi NLĐ bị đơn phương chấm
dứt HĐLĐ.
48
Theo quy định của BLLĐ 2012 thì thời gian được hưởng trợ cấp mất
việc làm là thời gian thực tế làm việc còn lại sau khi đã trừ đi thời gian NLĐ
đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Quy định này thể hiện sự tương thích và
tính hợp lý giữa các quy định của BLLĐ và quy định của Luật Bảo hiểm xã
hội vì khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp trên thực tế NLĐ đã được NSDLĐ
chi trả khoản tiền trợ cấp thông qua việc đóng bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ.
Khi NLĐ bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì họ sẽ được hưởng trợ cấp do cơ
quan Bảo hiểm xã hội chi trả. Tuy nhiên, quy định về việc chỉ cho những
NLĐ đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên được hưởng trợ cấp
mất việc làm là chưa hợp lý. Bởi trợ cấp mất việc làm không chỉ là khoản tiền
hỗ trợ NLĐ khi mất việc làm, mà còn có ý nghĩa như một khoản bồi thường
của NSDLĐ đối với NLĐ khi làm cho NLĐ mất đi cơ hội có thu nhập và việc
làm mà lỗi không thuộc về NLĐ. Nếu nhìn nhận vấn đề từ khía cạnh này, thì
rõ ràng những NLĐ đã làm việc thường xuyên cho NSDLĐ nhưng có thời
gian chưa đủ 12 tháng, khi bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ họ sẽ không được
nhận bất kỳ khoản tiền gì để bù đắp cho những thiệt thòi mà không phải do lỗi
của họ gây ra. Cho nên pháp luật không nên giới hạn thời gian làm việc của
NLĐ mà nên có quy định cụ thể từng mức thời gian để hưởng trợ cấp mất
việc làm, để tạo ra sự công bằng giữa những NLĐ có thời gian làm việc khác
nhau cho NSDLĐ.
Thứ hai, về trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ.
Trợ cấp thôi việc là khoản tiền NSDLĐ phải trả cho NLĐ khi chấm dứt
HĐLĐ. Khoản tiền này có ý nghĩa hỗ trợ phần nào cho NLĐ khi chấm dứt
việc làm, phần nào hỗ trợ NLĐ ổn định cuộc sống trong thời gian đi tìm việc
làm mới.
Theo quy định của Điều 48 BLLĐ 2012 thì NSDLĐ khi đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với NLĐ phải có nghĩa vụ trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ đã
làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp
một nửa tháng tiền lương. Về cách tính thời gian NLĐ làm việc thực tế để tính
trợ cấp và cách tính thời gian người NLĐ đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng
giống như cách tính của trường hợp NLĐ được hưởng trợ cấp mất việc làm. Tiền
49
lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân theo HĐLĐ của 06
tháng liền kề trước khi NLĐ bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Theo quy định của Điều 48 BLLĐ 2012 thì trong các trường hợp chấm
dứt HĐLĐ thì NSDLĐ đều phải chi trả cho NLĐ khoản tiền trợ cấp thôi việc,
trừ trường hợp NLĐ bị sa thải, NLĐ chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật, NLĐ
nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí, NLĐ đã hưởng trợ cấp mất việc làm, thời
gian NLĐ tham gia quan hệ lao động trùng với thời gian tham gia bảo hiểm
thất nghiệp.
Thứ ba, về trách nhiệm thanh toán các khoản tiền lương, tiền trợ cấp,
phụ cấp, các khoản thu nhập khác và trả các loại giấy tờ cho NLĐ.
Khi NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ, thì NSDLĐ phải
có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền lương, tiền trợ cấp, phụ cấp,
các khoản thu nhập khác và trả các loại giấy tờ cho NLĐ. Các khoản tiền trả
cho NLĐ, các khoản tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp và các quyền lợi khác của NLĐ phải được ưu tiên bảo đảm thanh toán.
Theo Điều 47 BLLĐ 2012 thì trách nhiệm này của NSDLĐ được quy
định như sau:
1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết
hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao
động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.
2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao
động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến
quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được
quá 30 ngày.
3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận
và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao
động đã giữ lại của người lao động.
4. Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động,
bị giải thể, phá sản thì tiền lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các quyền lợi khác của người lao động
50
theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết được ưu tiên
thanh toán.
Quy định này của pháp luật nhằm mục đích bảo vệ các quyền lợi hợp
pháp của NLĐ khi bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Vì vậy pháp luật quy
định trước khi việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ có hiệu lực thì NSDLĐ phải
có trách nhiệm thanh toán các khoản tiền mà NLĐ được hưởng như tiền
lương, thưởng, tiền làm thêm giờ…và phải nộp đủ các khoản tiền bảo hiểm
cho NLĐ bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Trường hợp NLĐ đủ điều kiện
hưởng chế độ bảo hiểm xã hội như trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
hay đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí thì NSDLĐ phải có trách nhiệm làm đủ
các thủ tục để chuyển hồ sơ cho cơ quan bảo hiểm xã hội để chi trả các khoản
này cho họ hoặc nhân thân của họ được hưởng. Nếu NLĐ chưa đủ điều kiện
để hưởng chế độ hưu trí thì NSDLĐ phải có trách nhiệm xác nhận vào sổ bảo
hiểm thời gian NLĐ đã đóng bảo hiểm và trả sổ bảo hiểm cho NLĐ, đồng
thời trả lại toàn bộ các giấy tờ khác như các loại văn bằng, chứng chỉ của
NLĐ đã nộp cho NSDLĐ khi ký kết HĐLĐ.
2.1.3.2. Trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật là trường hợp đơn phương
chấm dứt HĐLĐ không tuân thủ các thủ tục do pháp luật quy định, không có căn
cứ pháp luật hoặc vi phạm cả thủ tục lẫn căn cứ để đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Khi NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ bất hợp pháp thì
hậu quả của việc làm trái pháp luật lao động là rất nặng nề. Trong trường hợp
này, NLĐ không chỉ bị mất đi thu nhập và việc làm mà họ còn bị tổn thương
về tinh thần do hành vi chấn dứt HĐLĐ trái pháp luật của NSDLĐ gây ra. Vì
vậy pháp luật quy định trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ trong trường
hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ không chỉ là bồi thường các thiệt hại cho
NLĐ mà NSDLĐ còn phải bù đắp cho NLĐ những tổn thương về tinh thần.
Điều 42 BLLĐ 2012 quy định về nghĩa vụ của NSDLĐ khi đơn phương chấm
dứt HĐLĐ trái pháp luật như sau:
1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động
đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong
51
những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng
tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài
khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động
phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao
động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại
khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật
này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng
02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng
lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi
thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ
sung hợp đồng lao động.
5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi
thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của
người lao động trong những ngày không báo trước.
Theo quy định của Điều 42 BLLD thì khi NSDLĐ đơn phương chấm
dứt HĐLĐ bất hợp pháp, việc đầu tiên là họ phải nhận NLĐ trở lại làm việc
theo HĐLĐ đã giao kết. Quy định này nhằm bảo vệ quyền được làm việc của
NLĐ, đồng thời với việc nhận NLĐ trở lại làm việc thì NSDLĐ phải trả các
khoản tiền gồm tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày
NLĐ không được làm việc. Các khoản tiền này là tiền NLĐ lẽ ra được hưởng
nếu không bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ, việc họ không được lao động là
do NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với họ gây ra nên NLĐ không có
lỗi trong việc không lao động theo HĐLĐ. Ngoài ra NSDLĐ phải trả cho
NLĐ ít nhất 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ. Đây chính là khoản tiền bù đắp
cho các tổn thương về tinh thần do hành vi chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật của
NSDLĐ gây ra đối với NLĐ.
Pháp luật cũng quy định các trường hợp “NLĐ không muốn trở lại làm
việc” và “NSDLĐ không muốn nhận lại NLĐ” để tạo điều kiện cho các bên
52
có quyền tự quyết định trong QHLĐ. Trường hợp NLĐ không muốn trở lại
làm việc thì NSDLĐ phải trả cho NLĐ thêm tiền trợ cấp thôi việc, còn trong
trường hợp NSDLĐ không muốn nhận lại NLĐ thì hai bên có thể thỏa thuận
thêm một khoản bồi thường cho NLĐ, số tiền tối thiểu bằng 02 tháng tiền
lương theo HĐLĐ, để chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
Ngoài các quy định nêu trên, Điều 42 BLLĐ 2012 còn quy định một
nội dung rất linh hoạt để giải quyêt tình huống “…Trường hợp không còn vị trí,
công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn
làm việc…”. Để tránh tình trạng NSDLĐ không thể sắp xếp lại công việc cho
NLĐ đúng như HĐLĐ đã ký kết, pháp luật quy định trong trường hợp này
NSDLĐ và NLĐ thương lượng để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ. Quy định này nhằm
mục đích tạo điều kiện để NLĐ có việc làm trên cơ sở sửa đổi HĐLĐ cho phù
hợp với vị trí, công việc mới mà NSDLĐ có thể sắp xếp cho NLĐ.
Các quy định nêu trên của Điều 42 BLLĐ 2012 là cụ thể, tuy nhiên vẫn
còn một số điểm chưa rõ ràng, như:
Tại Khoản 1 quy định ngoài các trách nhiệm nhận NLĐ trở lại làm
việc, trách nhiệm thanh toán các khoản tiền lương, bảo hiểm… cho NLĐ
trong thời gian không được làm việc thì NLĐ còn phải trả cho NLĐ “…ít
nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động”. Pháp luật không quy định
NSDLĐ và NLĐ thỏa thuận về số tiền này, cũng không ấn định cụ thể số tiền
này là bao nhiêu tháng lương mà chỉ quy định chung chung là “…ít nhất 02
tháng tiền lương…” vì vậy sẽ dẫn đến tranh chấp giữa NSDLĐ và NLĐ về số
tiền này.
Quy định tại Khoản 4 về việc “…hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ
sung hợp đồng lao động”. Trong trường hợp hai bên thương lượng thành
công thì NLĐ trở lại làm việc theo HĐLĐ đã được sửa đổi, bổ sung. Nhưng
trong trường hợp thương lượng không thành công thì pháp luật chưa quy định
sẽ giải quyết ra sao.
Những quy định chưa rõ ràng nêu trên dẫn đến trường hợp rất khó áp
dụng trong thực tiễn, đặc biệt là trong giải quyết tranh chấp giữa các bên.
53
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người sử dụng lao động tại các cơ sở Y, Dược cổ truyền
2.2.1. Khái quát chung các cơ sở Y, Dược cổ truyền ở Việt Nam.
Việt Nam có một nền Y, Dược cổ truyền lâu đời, nó có trước khi nền
Y, Dược hiện đại xâm nhập vào. Y, Dược cổ truyền có vai trò tiên phong và
tiềm năng to lớn trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Chính vì tầm quan trọng của nó mà Đảng, Nhà nước, Quốc hội và
Chính phủ đã chỉ đạo ngành Y tế phối hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện hiệu quả công tác
phát triển y, dược cổ truyền trong các chiến lược, các chương trình, đề án,
chính sách chung của ngành Y tế.
Đặc biệt trong giai đoạn vừa qua, Chính phủ đã ban hành Quyết định số
2166/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động phát triển Y, Dược cổ truyền Việt
Nam đến năm 2020. Sau 5 năm triển khai thực hiện, đến nay đã đạt được các
chỉ tiêu cơ bản về phát triển y, dược cổ truyền trong Kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất trên toàn diện các lĩnh vực phát triển y, dược cổ truyền, đóng góp chung
vào thành tựu của ngành y tế trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân
dân, bảo tồn bản sắc, phát huy và phát triển một bộ phận văn hóa của dân tọc
Việt Nam và khẳng định vị thế của nên y, dược cổ truyền của Việt Nam trên
thị trường quốc tế.
Một số kết quả nổi bật là, mạng lưới quản lý nhà nước về y, dược cổ
truyền được củng cố và hoàn thiện với 49% Sở Y tế có cán bộ chuyên trách
về y, dược cổ truyền. Giai đoạn 2016-2020 ngành Y tế đã củng cố và hoàn
thiện mạng lưới khám, chữa bệnh bằng phương pháp Y học cổ truyền trên
toàn quốc, nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh bằng phương pháp y
học cổ truyền. Mạng lưới khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền được củng cố
và mở rộng, đến nay đã có 58/63 tỉnh, thành phố có Bệnh biện Y học cổ
truyền tuyến tỉnh trên cả nước; trong đó có 05 bệnh viện hạng I, 25 bệnh viện
hạng II và 33 bệnh viện hạng III.
54
Bên cạnh việc phát triển về mạng lưới cơ sở khám chữa bệnh, các tỉnh
thành phố trên cả nước cũng không ngừng đẩy mạnh phát triển về đội ngũ
nhân lực y tế cả về số lượng và chất lượng.
Mấy năm gần đây các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế tạm thời dừng tuyển
dụng viên chức do chờ Luật viên chức số 52/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức chính thức có hiệu lực
kể từ ngày 01/07/2020. Tuy nhiên, để đảm bảo cho hoạt động chuyên môn
khám chữa bệnh của đơn vị, các bệnh viện đã kí hợp đồng chuyên môn với
người lao động, là các Bác sĩ, Điều dưỡng, Kĩ thuật viên, Dược sĩ, Nữ hộ
sinh…Số lượng NLĐ tại các cơ sở tính đến năm 2020 được thể hiện qua bảng
số liệu sau:
Bảng cơ cấu nhân sự các Cơ sở Y, Dược cổ truyền tại Việt Nam
Số cán bộ, công STT Tên bệnh viện Số LĐHĐ chức, viên chức
Học viện Y-Dược học cổ 1 465 125 truyền Việt Nam
2 Bệnh viện YHCT Trung ương 500 170
Bệnh viện YHCT tỉnh Bà Rịa 3 65 15 Vũng Tàu
4 Bệnh viện YHCT Bắc Giang 154 48
5 Bệnh viện YHCT Bắc Ninh 265 67
6 Bệnh viện YHCT Bến Tre 256 79
7 Bệnh viện YHCT Bình Định 140 84
8 Bệnh viện YHCT Bình Dương 133 47
9 Bệnh viện YHCT Bình Phước 109 52
Bệnh viện YHCT & PHCN 10 170 76 Bình Thuận
11 Bệnh viện YHCT Cà Mau 164 79
12 Bệnh viện YHCT Cần Thơ 138 12
13 Bệnh viện YHCT Cao Bằng 130 64
55
14 Bệnh viện YHCT Đà Nẵng 120 61
15 Bệnh viện YHCT Đăk Lăk 160 88
16 Bệnh viện YHCT Điện Biên 127 81
17 Bệnh viện YHCT Đồng Nai 121 56
18 Bệnh viện YHCT Đồng Tháp 148 91
Bệnh viện YHCT & PHCN 19 110 39 Gia Lai
20 Bệnh viện YHCT Hà Giang 133 63
21 Bệnh viện YHCT Hà Nam 150 56
Bệnh viện Đa khoa YHCT Hà 22 261 101 Nội
23 Bệnh viện YHCT Hà Tĩnh 165 86
24 Bệnh viện YHCT Hải Dương 119 56
25 Bệnh viện YHCT Hải Phòng 215 103
26 Bệnh viện YHCT Hòa Bình 128 89
27 Bệnh viện YHCT Hưng Yên 165 66
28 Bệnh viện YHCT Khánh Hòa 203 78
29 Bệnh viện YHCT Kiên Giang 225 96
Bệnh viện YHCT & PHCN 30 85 25 Kon Tum
31 Bệnh viện YHCT Lai Châu 175 27
Bệnh viện YHCT Phạm Ngọc 32 185 45 Thạch Lâm Đồng
33 Bệnh viện YHCT Lạng Sơn 112 26
34 Bệnh viện YHCT Lào Cai 110 54
35 Bệnh viện YHCT Long An 87 44
36 Bệnh viện YHCT Nam Định 163 55
37 Bệnh viện YHCT Nghệ An 315 108
38 Bệnh viện YHCT Ninh Bình 189 43
39 Bệnh viện YHCT Ninh Thuận 78 37
56
40 Bệnh viện YHCT Phú Thọ 170 67
41 Bệnh viện YHCT Phú Yên 104 53
42 Bệnh viện YHCT Quảng Bình 90 22
43 Bệnh viện YHCT Quảng Nam 97 18
44 Bệnh viện YHCT Quảng Ngãi 93 27
45 Bệnh viện YHCT Quảng Ninh 270 111
Bệnh viện YHCT & PHCN 46 67 13 Quảng Trị
Bệnh viện Y, Dược cổ truyền 47 57 18 Sơn La
48 Bệnh viện YHCT Tây Ninh 95 43
49 Bệnh viện YHCT Thái Bình 140 56
Bệnh viện YHCT Thái 50 151 41 Nguyên
51 Bệnh viện Đông y Thanh Hóa 200 69
Bệnh viện YHCT Huế 52 208 104
53 Bệnh viện YHCT Tiền Giang 77 8
Bệnh viện YHCT thành phố 54 239 109 Hồ Chí Minh
55 Bệnh viện YHCT Trà Vinh 91 12
Bệnh viện YHCT Tuyên 56 95 18 Quang
57 Bệnh viện YHCT Vĩnh Long 135 61
58 Bệnh viện YHCT Vĩnh Phúc 183 87
59 Bệnh viện YHCT Yên Bái 140 74
57
2.2.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật về
đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của NSDLĐ tại các cơ sở Y,
Dược cổ truyền.
Ngày 30 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 2166/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch hành động của Chính phủ
Quy về phát triển Y, Dược cổ truyền đến năm 2020 với mục tiêu: "Hiện đại
hóa và phát triển mạnh y, dược cổ truyền trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân; củng cố và phát triển tổ chức, mạng lưới, nhân lực y,
dược cổ truyền".
Trong Báo cáo tổng kết công tác Y tế cuối năm 2019, tính đến ngày 31
tháng 12 năm 2019, cả nước có 59 Bệnh viện Y, Dược cổ truyền ở 58 tỉnh,
thành phố, với số lượng tổng biên chế tại các cơ sở Y-Dược cổ truyền là:
9.9440 người và số lượng hợp đồng là: 3.603 người.
Ngày 29 tháng 11 năm 2018, Chính phủ ban hành Nghị định số
161/2018/NĐ-CP quy định sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng
công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực
hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà
nước, đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị định có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 1
năm 2019. Trong đó, tại Khoản a Mục 1 Điều 3 quy định: "...không thực hiện
kí hợp đồng lao động trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập
đối với những người làm công việc chuyên môn, nghiệp vụ ở các vị trí việc
làm xác định là công chức trong các cơ quan hành chính hoặc là viên chức
trong đơn vị sự nghiệp công lập do nhà nước đảm bảo toàn bộ hoặc một phần
chi thường xuyên".
Mặc dù vậy, để đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trên cả
nước ngày càng tăng, các bệnh đa khoa nói chung và các cơ sở Y-Dược cổ
truyền nói riêng phải liên tục tăng cường đội ngũ cán bộ y, bác sĩ cả về số
lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, thông qua kí các loại
hợp đồng xác định thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng theo BLLĐ 2012.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện giao kết hợp HĐLĐ giữa NSDLĐ
và NLĐ không tránh khỏi những xung đột giữa hai bên, dẫn tới tình huống
58
đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Thông qua các quy định của BLLĐ 2012 và
các văn bản hướng dẫn thi hành, các cơ sở Y, Dược cổ truyền Việt Nam về cơ
bản đã thực hiện tốt các quy định của pháp luật khi thực hiện quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Các đơn vị đều đã triển khai thực hiện
và đăng kí thỏa ước lao động tập thể đảm bảo đúng trình tự, thủ tục. Nội dung
thỏa ước lao động tập thể đã quy định rõ quyền lợi và trách nhiệm của NLĐ,
của NSDLĐ về các nội dung: HĐLĐ, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,
tiền lương, BHXH...
Theo báo cáo thống kê của Vụ Tổ chức cán bộ-Bộ Y tế, hiện nay tổng
số lao động hợp đồng tại các cơ sở Y-Dược cổ truyền là 3.603 người. Các đơn
vị đã chấm dứt HĐLĐ với 715 người, trong đó có 620 trường hợp NSDLĐ
đơn phương chấm dứt HĐLĐ đúng quy định và có 95 trường hợp NSDLĐ
đơn phương chấm dứt HĐLĐ không đúng quy định. Với những trường hợp
không đúng quy định, NLĐ đã gửi đơn khiếu kiện lên Bộ Y tế. Sau khi Bộ Y
tế yêu cầu đơn vị báo cáo và hướng dẫn xử lý thì các vụ việc đều được giải
quyết theo chiều hướng hòa giải ổn thỏa, chỉ một số ít trường hợp nào không
thỏa mãn phải ra tòa án xử lý.
Ngoài ra, để người NSDLĐ có cơ sở chặt chẽ hơn trong việc sử dụng
quyền đơn chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp NLĐ thường xuyên không hoàn
thành nhiệm vụ được quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 38 BLLĐ 2012.
Một số cơ sở Y, Dược cổ truyền đã xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ
hoàn thành công việc theo tháng, quý, năm trên sơ sở ban hành quy chế đánh
giá thông qua lấy ý kiến tập thể tại cơ sở. Bên cạnh đó, ngành Y là một ngành
đặc thù, nó liên quan trực tiếp đến sức khỏe, sinh mạng của con người, nhận
thức được tầm quan trọng đó nên các cơ sở Y tế nói chung và cơ sở Y, Dược
cổ truyền nói riêng luôn chú trọng, quan tâm đến việc trau dồi, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nhân viên viên y tế, để đáp ứng được yêu cầu của công việc
chăm sóc sức khỏe toàn dân. Vì vậy, trong những năm qua tại các cơ sở Y,
Dược cổ truyền có rất ít trường hợp xảy ra việc NSDLĐ đơn phương chấm
dứt NLĐ. Trường hợp chấm dứt hợp đồng thì nhìn chung Các cơ sở Y, Dược
cổ truyền về cơ bản đã thực hiện tốt các quy định của pháp luật Quyền lợi của
59
NLĐ khi bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ cũng được NSDLĐ đặc biệt quan
tâm. Việc giải quyết các quyền lợi cho NLĐ thường được các đơn vị thực
hiện đầy đủ và nhanh chóng theo đúng quy định của pháp luật.
2.2.3. Những điểm còn tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực hiện
pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ tại các cơ sở Y,
Dược cổ truyền và nguyên nhân.
Trên thực tế, hiện nay việc NSDLĐ thực hiện hành vi đơn phương
chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật vẫn còn tồn tại, nguyên nhân một phần là do
NSDLĐ chưa nắm rõ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục và căn cứ
để thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ, nhưng nguyên
nhân chủ yếu vẫn do NSDLĐ cố tình ngụy tạo căn cứ, cố ý sai phạm nhằm
chối bỏ trách nhiệm của mình với NLĐ khi phát sinh tranh chấp HĐLĐ hoặc
NSDLĐ dựa vào các quy định chưa chặt chẽ, chưa cụ thể của pháp luật để
vận dụng, gây khó khăn cho NLĐ dẫn đến các tranh chấp HĐLĐ. Vì vậy, các
tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ tại các cơ sở Y, Dược cổ truyền ở
Việt Nam giai đoạn vừa qua vẫn còn tồn tại các tình huống như sau:
Thứ nhất, vi phạm thời gian báo trước.
Theo quy định của Khoản 2 Điều 38 BLLĐ 2012 thì NSDLĐ chỉ được
chấm dứt HĐLĐ đối với NLĐ sau khi đã thực hiện nghĩa vụ báo trước.
Nhưng trên thực tế việc vi phạm thời gian báo trước là tình trạng xảy ra phổ
biến nhất trong việc NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ bị coi là
trái pháp luật.
Ví dụ 1: Tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị ML (Tên đã sửa đổi) với
Bệnh viện YHCT X do vi phạm thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt
hợp đồng
Nội dung vụ kiện: Nguyễn Thị ML và Bệnh viện YHCT X đã giao
kết HĐLĐ không xác định thời hạn từ ngày 01/4/2011, công việc là kĩ thuật
viên xoa bóp bấm huyệt. Ngày 31/10/2016, Bệnh viện đã gửi thông báo cho
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, sở y tế thành
phố Hồ Chí Minh thông báo về việc tạm ngưng hoạt động bộ phận xoa bóp
bấm huyệt, thuộc khoa Vật lí trị liệu-Phục hồi chức năng vì lí do khoa này
60
quá ít bệnh nhân nên phải thu hẹp cơ cấu tổ chức. Do đó Bệnh viện phải
chấm dứt HĐLĐ với 5 nhân viên đang làm việc tại bộ phận trên, trong đó có
bà ML. Bà ML nhận được thông báo về việc này ngày 8/11/2016. Sau đó
Bệnh viện YHCT X đã ra Quyết định chấm dứt HĐLĐ với bà ML từ ngày
01/12/2016. Bà Nguyễn Thị ML không thống nhất với Quyết định trên và đã
làm đơn khởi kiện.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định đây là trường hợp chấm dứt HĐLĐ
do thay đổi cơ cấu. Tuy nhiên, Tòa án cũng khẳng định như sau: "Theo Điểm
c, Khoản 1 Điều 38 và Điểm a Khoản 2 Điều 38 BLLĐ 2012 thì Bệnh viện
phải báo trước cho bà ML 45 ngày tính đến ngày ra Quyết định là ngày
01/12/2016, nhưng trên thực tế Bệnh viện đã báo trước cho bà ML 23 ngày
do đó vi phạm thời hạn báo trước là 22 ngày. Tòa án cấp sơ thẩm buộc Bệnh
viện YHCT X phải bổi thường cho bà ML về việc vi phạm thời hạn báo trước
22 ngày x 3.745.000/26 ngày (bình quân một ngày lương) là có căn cứ. Đây
cũng là quan điểm của Đại diện Viện Kiểm Sát tham gia phiên tòa. Tại phiên
tòa phúc thẩm Bệnh viện thừa nhận đã đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái
pháp luật về thời hạn báo trước theo khoản 2 điều 38 BLLĐ 2012.
Như vậy, trong trường hợp này mặc dù về căn cứ Bệnh viện YHCT X
đơn phương chấm dứt HĐLĐ với Nguyễn thị ML là đúng nhưng lại vi phạm
thời hạn báo trước theo khoản 2 điều 38 BLLĐ 2012. Để xử lý đúng trong
trường hợp này, Bệnh viện phải đảm bảo thời hạn báo trước cho cả cơ quan
quản lý lao động và NLĐ, cụ thể phải báo trước cho Sở Lao động, Thương
binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, sở y tế thành phố Hồ Chí Minh với
thời hạn là 30 ngày và báo trước cho Nguyễn thị ML với thời hạn là 45 ngày.
Ví dụ 2: Tranh chấp giữa chị Nguyễn Thị L (Tên đã sửa đổi) với
Bệnh viện Y, Dược cổ truyền BVTT do vi phạm thời hạn báo trước khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng (Vụ việc đã được giải quyết bằng cách hòa giải)
Nội dung vụ việc như sau: Ngày 01/01/2015 Bệnh viện Y, Dược cổ
truyền BVTT đã ký Hợp đồng xác định thời hạn 36 tháng với chị Nguyễn Thị
L, với công việc của chị L là Bác sĩ Y học cổ truyền tại khoa Khám bệnh,
hưởng lương 85% x 2,34. Ngày 1/12/2016, chị L đã phải nghỉ 7 tháng để điều
61
trị bệnh. Đến ngày 15/6/2017 chị L đi làm trở lại, sau đó ngày 30/6/2017,
Trưởng khoa Khám bệnh và Đại diện Công đoàn đơn vị gọi chị L đến và
thông báo sẽ chấm dứt HĐLĐ với chị vì lí do: Chị L đã nghỉ ốm quá số ngày
quy định. Ngày 20/7/2017 Giám đốc Bệnh viện ra quyết định đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với chị L. Sau đó đến ngày 1/8/2017, Bệnh viện ra Quyết
định truy lĩnh nâng lương cho một loạt Bác sĩ kí HĐLĐ cùng đợt chị L, từ
85% x 2,34 lên 100% x 2.34 kể từ ngày 1/10/2015 (theo quy định của Luật
viên chức Bác sĩ tập sự 9 tháng, hưởng lương tập sự 85%). Nhận được thông
tin mình không được truy lĩnh nâng lương vì đã bị chấm dứt HĐLĐ trước thời
điểm ra quyết định, chị L không nhất trí nên đã có đơn kiện gửi Ban giám đốc
và Công đoàn cơ sở. Chị L cho rằng Bệnh viện đã vi phạm thời hạn báo trước,
trong trường hợp của chị lẽ ra phải được báo trước là 30 ngày nhưng Bệnh
viện đã nhà trường chỉ báo trước cho chị có 20 ngày đã ra quyết định đơn
phương chấm dứt HĐLĐ là vi phạm pháp luật.
Hơn nữa, chị L không công nhận việc thông báo chấm dứt HĐLĐ của
Trưởng khoa Khám bệnh và Đại diện Công đoàn là đúng pháp lý, vì chị cho
rằng những người này không phải người có thẩm quyền thông báo, nên việc
ra quyết định của Bệnh viện là không đúng pháp luật, không đảm bảo thời hạn
báo trước. Và vì thế chị có quyền được hưởng truy lĩnh nâng lương sau đó.
Trong trường hợp này, giữa NSDLĐ với NLĐ có tranh chấp về thời
điểm được coi là NLĐ nhận được thông báo sẽ bị chấm dứt HĐLĐ. Nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến phát sinh tranh chấp do pháp luật chưa có quy định cụ
thể về hình thức thông báo của NSDLĐ và ai là người được thông báo với
NLĐ về việc sẽ thực hiện hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ, thời hạn báo
trước. Vì vậy để tránh phát sinh các tranh chấp như trên, cần thiết phải có quy
định của pháp luật một cách cụ thể về hình thức và thẩm quyền, thời hạn
thông báo trước trong trường hợp này.
Thứ hai, vi phạm về thực hiện các quy định về giải quyết quyền lợi
cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ.
Trong quá trình áp dụng luật lao động hiện hành vào thực tiễn tại các
cơ sở Y, Dược cổ truyền, còn một số quy định còn chưa cụ thể, chưa được
62
hiểu thống nhất, dẫn đến những vướng mắc khi áp dụng luật và việc giải
quyết tranh chấp chưa đạt hiệu quả, cụ thể là:
Pháp luật lao động hiện hành chưa quy định cụ thể về cách xác định
BTTH khi chấm dứt HĐLĐ dựa trên "tiền lương theo hợp đồng lao động" là
như thế nào? Căn cứ Điều 90 BLLĐ 2012 thì tiền lương là khoản tiền mà
NSDLĐ trả cho NLĐ để thực hiện công việc theo thỏa thuận; tiền lương bao
gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản
bổ sung khác. Tuy nhiên, khi tính mức BTTH, các đơn vị còn khó khăn trong
việc xác định "tiền lương theo HĐLĐ" là: (i) Mức lương theo công việc hoặc
chứ danh; (ii) Hay bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ
cấp lương và các khoản bổ sung khác. Trong khi theo quy định tại Điều 4
Nghị định số 2015/NĐ-CP thì mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ
sung khác đều được ghi rõ trong HĐLĐ. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ có khoản
tiền theo quy định tại khoản 1, Điểm a Khoản 2 và Điểm a Khoản 3 Điều 4
Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH được biểu hiện bằng con số cụ thể, còn
phụ cấp và các khoản bổ sung khác không xác định. Do vậy, thu nhập của
NLĐ không cố định sẽ gây trở ngại, khó khăn cho NSDLĐ xác định chính
xác thu nhập để tính mức BTTH khi chấm dứt HĐLĐ.
Trong trường hợp NLĐ bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ đáp ứng được
các điều kiện được quy định tại các Điều 48 và 49 BLLĐ 2012 thì NSDLĐ
phải chi trả trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm cho họ. Căn cứ để tính
các chế độ này là tiền lương theo hợp đồng, tính theo tiền lương bình quân
của 06 tháng liền kề trước khi chấm dứt HĐLĐ bao gồm tiền lương cấp bậc,
chức vụ và các khoản phụ cấp... Tuy nhiên trên thực tế mức lương quy định
trong HĐLĐ được ký kết giữa NSDLĐ với NLĐ thường thấp hơn nhiều so
với mức lương thực tế NLĐ được nhận. Bình thường nếu không có tranh chấp
xảy ra, NLĐ vẫn mặc nhiên chấp nhận hiện tượng này vì cho rằng quyền lợi
của mình không bị xâm phạm. Nhưng khi bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì
mức lương thấp này lại được NSDLĐ sử dụng làm cơ sở để tính các chế độ
phụ cấp, khi đó NLĐ bị thiệt thòi. Mặt khác, mục đích của NSDLĐ khi ấn
63
định mức lương thấp trong HĐLĐ là để trốn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã
hội, đây cũng là hình thức xâm phạm đến quyền lợi của NLĐ.
Có thể thấy việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của các cơ sở Y, Dược
cổ truyền có những nội dung đã thực hiện tốt nhưng bên cạnh đó vẫn còn
nhiều vấn đề cần được quan tâm giải quyết trên thực tiễn.
Các tranh chấp lao động tại các cơ sở Y-Dược cổ truyền tuy không
nhiều, song qua khảo sát cho thấy tình hình thực hiện hợp đồng nói chung và
đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ nói riêng vẫn còn hiện tượng vi
phạm luật lao động, nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng nổ các tranh chấp lao
động trong thời gian tới. Vì vậy, việc điều chỉnh, định hướng cho các đơn vị
và NLĐ thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật lao động, tuân thủ các
nguyên tắc trong giao kết HĐLĐ và tôn trọng HĐLĐ là rất cần thiết, nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Đồng thời lường trước để có
các phương án giải quyết các tranh chấp lao động phát trinh trong tương lai.
Có thể thấy việc chấm dứt HĐLĐ tại các cơ sở Y-Dược cổ truyền
không nhiều và nếu có thì việc chấm dứt cơ bản đúng pháp luật, ít có trường
hợp sai phạm. Các trường hợp sai phạm về chấm dứt HĐLĐ ở đây nếu xảy ra
thì nguyên nhân chủ yếu là do NSDLĐ nhận thức chưa đúng về pháp luật lao
động nên dẫn đến việc áp dụng pháp luật lao động chưa chuẩn xác. Các cơ sở
Y-Dược cổ truyền tuy đã thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật cho cả
NLĐ và NSDLĐ tuy nhiên đôi khi vẫn còn sai phạm . Một trong những
nguyên nhân nữa là do một số quy định của pháp luật chưa rõ ràng dẫn đến
các cách hiểu khác nhau trong khi quan hệ lao động phát triển ngày càng đa
dạng nên việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất dẫn đến sự phát sinh tranh
chấp.
64
Tiểu kết Chương 2
Chương 2 của Luận văn đã nêu và phân tích các quy định của pháp luật
lao động hiện hành về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, qua
đó làm rõ các nội dung:
1. Các quy định về đơn phương chấm dứt HĐLĐ đã tạo cơ sở pháp lý
để đảm bảo quyền tự do tuyển chọn, sắp xếp, sử dụng lao động theo nhu cầu
sản xuất, kinh doanh của NSDLĐ. Tạo điều kiện cho thị trường lao động vận
động và phát triển một cách linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao
động của nền kinh tế thị trường hiện nay.
2. Qua đánh giá các quy định của pháp luật về quyền đơn phương chấm
dứt HĐLĐ và thực tiễn thi hành, làm bộc lộ thêm các tồn tại cần thiết phải
khắc phục để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng
cho quá trình áp dụng pháp luật cũng như việc giải quyết các tranh chấp về
chấm dứt HĐLĐ. Đồng thời làm rõ thêm các nguyên nhân của tình trạng đơn
phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật của NSDLĐ, như ý thức pháp luật của
một bộ phận NSDLĐ và NLĐ chưa cao; vai trò của tổ chức công đoàn còn
mờ nhạt, chưa phát huy được chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NLĐ trong QHLĐ. Qua đó nêu ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
của việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ trong trường hợp NSDLĐ đơn phương
chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
65
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP
ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
TẠI CÁC CƠ SỞ Y-DƯỢC CỔ TRUYỀN
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về đơn phương chấm
dứt HĐLĐ của NSDLĐ
3.1.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ
Quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ là một trong những quyền quan
trọng của NSDLĐ. Tuy nhiên trong thực tế khi thực hiện các quy định của
pháp luật về quyền này, còn phát sinh nhiều tồn tại, hạn chế. Những hạn chế
này xuất phát từ các quy định của pháp luật chưa thực sự chặt chẽ, phù hợp
với thực tiễn dẫn đến các khó khăn khi áp dụng pháp luật cũng như giải quyết
các vấn đề phát sinh khi NSDLĐ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ với NLĐ. Vì vậy thực tiễn đòi hỏi phải có những yêu cầu về hoàn
thiện pháp luật để đảm bảo cho việc thực thi các quy định của pháp luật trên
thực tế, cụ thể:
Thứ nhất, đảm bảo tính khả thi của các quy định pháp luật về quyền
đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ.
Các quy định pháp luật chỉ có ý nghĩa khi thực hiện được chức năng
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để đạt được chức năng này thì các quy định
của pháp luật phải được đảm bảo thực hiện trong thực tiễn. Nếu không được
đảm bảo thực hiện trong thực tiễn thì quy định của pháp luật chỉ mang tính
hình thức. Vì vậy vấn đề đảm bảo tính khả thi của các quy định pháp luật là
yêu cầu rất quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật, trong đó bao hàm cả
các quy định về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ.
Hiện nay, các tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ
ngày càng gia tăng và có tính chất phức tạp hơn nên nếu các quy định của
pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ không có tính
66
khả thi sẽ dẫn đến các vướng mắc cho NSDLĐ trong việc áp dụng pháp luật
để thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ cũng như các khó khăn,
phức tạp khi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này. Đồng
thời, chính những quy định của pháp luật không có tính khả thi cũng là một
trong những nguyên nhân làm phát sinh các tranh chấp khi NSDLĐ thực hiện
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến quy định của pháp luật thiếu
tính khả thi là do các quy định thiếu chặt chẽ, chưa cụ thể dẫn đến có nhiều
quan điểm, nhiều cách hiểu khác nhau, từ đó phát sinh nhiều cách giải quyết
trái ngược đối với cùng một vấn đề. Bên cạnh đó, có những quy định mới
chưa được kiểm nghiệm trên thực tế, chưa có các hướng dẫn cụ thể được đúc
rút qua kinh nghiệm thực tiễn nên chưa đảm bảo tính khả thi cao. Các vấn đề
nêu trên đòi hỏi khi xây dựng các quy định của pháp luật, cần phải có sự
nghiên cứu kỹ lưỡng về lý luận, dựa trên cơ sở đúc kết các kinh nghiệm thực
tiễn, đặc biệt là về tính khả thi. Như vậy, để các quy định về quyền đon
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ đảm bảo được tính khả thi thì các quy
định này phải phù hợp với thực tiễn và tình hình kinh tế, xã hội của đất nước,
bao quát được các tồn tại và lường trước được những vấn đề phát sinh trên
thực tế. Tạo ra được môi trường pháp lý cho các QHLĐ phát triển theo quy
luật thị trường.
Thứ hai, đảm bảo sự tương quan hợp lý giữa quyền đơn phương chấm
dứt HĐLĐ của NSDLĐ với vấn đề đảm bảo việc làm cho NLĐ.
Do NSDLĐ là người nắm giữ tư liệu sản xuất nên họ có quyền giám
sát, quản lý đối với NLĐ. Trong QHLĐ vị thế của NLĐ bao giờ cũng ở thế bị
động. Vì vậy, bảo vệ NLĐ là nguyên tắc cơ bản của luật lao động, nhưng mặt
khác, các quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ cũng cần phải được đảm bảo
và phải được pháp luật bảo vệ. Do đó pháp luật phải đặt ra vấn đề vừa bảo vệ
được việc làm cho NLĐ đồng thời cũng đảm bảo được quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ . Vấn đề đảm bảo mối tương quan giữa quyền
việc làm của NLĐ với quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quyền tự do tuyển
chọn, sử dụng lao động theo nhu cầu hoạt động của NSDLĐ có ý nghĩa đặc
67
biệt quan trọng. Chỉ khi cân bằng được sự tương quan này, pháp luật mới tạo
được môi trường lành mạnh cho QHLĐ phát triển, tạo ra động lực cho sự phát
triển của kinh tế xã hội. Nếu pháp luật nghiêng về bảo hộ NLĐ ở mức cao, sẽ
dẫn đến hạn chế khả năng lựa chọn, thay thế nhân sự của NSDLĐ, từ đó sẽ
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động và làm lu mờ đi
vai trò quản lý, giám sát của NSDLĐ. Ngược lại, nếu quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ được mở rộng sẽ dẫn đến việc NSDLĐ lạm
dụng quyền năng này và sẽ ảnh hưởng bất lợi đối với quyền có việc làm của
NLĐ. Như vậy, pháp luật không thể quy định cho NSDLĐ quá nhiều trách
nhiệm để bảo vệ NLĐ hoặc thả nổi cho NSDLĐ tự do thực hiện quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ. Nếu không điều chỉnh hợp lý, hài hoà
giữa quyền có việc làm của NLĐ với quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ, sẽ không dung hoà được lợi ích của các bên. Chỉ khi pháp luật điều
chỉnh được các mối quan hệ này trong sự tương quan, cân bằng mới tạo ra
được sự ổn định cần thiết của thị trường lao động, góp phần phát triển kinh tế,
ổn định xã hội.
Thứ ba, đảm bảo quyền chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ linh hoạt và hiệu quả.
Nguyên tắc mang tính cơ bản và xuyên suốt hệ thống pháp luật lao
động là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ, đặc biệt là vấn đề việc
làm. Do đó các quy phạm pháp luật lao động thường hạn chế hành vi có khả
năng phương hại đến quyền có việc làm của NLĐ, trong đó có quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Pháp luật quy định về quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ rất chặt chẽ cả về căn cứ chấm dứt
HĐLĐ đến trình tự, thủ tục NSDLĐ phải tuân thủ, thực hiện. Chỉ cần
NSDLĐ vi phạm một trong các quy định về trình tự, thủ tục hoặc căn cứ thì
việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ đều sẽ bị coi là trái pháp luật và khi đó
NSDLĐ sẽ phải thực hiện những nghĩa vụ hết sức nặng nề. Việc quy định
chặt chẽ như vậy sẽ đảm bảo được an ninh việc làm cho NLĐ ở mức độ cao,
nhưng sẽ bó buộc NSDLĐ trong việc thuê mướn nhân công, lựa chọn NLĐ
mới phù hợp hơn trong sử dụng lao động. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến tính linh
68
hoạt của thị trường lao động và quyền chủ động của NSDLĐ trong công tác tổ
chức, quản lý lao động.
QHLĐ giữa NSDLĐ với NLĐ chỉ mang tính bền vững tương đối, nên
việc bảo vệ việc làm cho NLĐ cũng cần được nhìn nhận là bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của NLĐ trong tổng hoà các mối quan hệ giữa NSDLĐ
với NLĐ. Các quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ được bảo vệ khi nó không
gây ra các thiệt hại (hoặc chỉ gây ra thiệt hại không lớn) cho NSDLĐ. Bảo vệ
việc làm cho NLĐ không có nghĩa là bảo vệ cho một loại công việc được duy
trì một cách dài hạn mà phải được hiểu bảo vệ cho NLĐ có việc làm và có các
quyền và lợi ích thu được từ việc làm đem lại. Nếu chỉ nghiêng về bảo hộ việc
làm dài hạn thì các quy định của pháp luật sẽ là rào cản, gây khó khăn, cản trở
cho việc phân bổ lao động, giảm tính cạnh tranh và làm yếu đi động lực phát
triển kinh tế, xã hội.
Vì vậy, khi hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ ở nước ta hiện nay, yêu cầu đặt ra là
phải đảm bảo được sự linh hoạt của NSDLĐ trong việc thực hiện quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ. Chỉ khi pháp luật đảm bảo cho NSDLĐ thực hiện
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ một cách linh hoạt thì mới phát huy được
tác dụng phát triển thị trường lao động, tạo ra động lực để NLĐ liên tục nâng
cao tay nghề, khả năng lao động, trình độ chuyên môn, nâng cao ý thức chấp
hành kỷ luật lao động. Từ đó nâng cao chất lượng lao động và mở rộng thị
trường lao động.
Thứ tư, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và tôn trọng tiêu chuẩn lao
động quốc tế.
Với xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, thị trường lao động trong nước
không thể đứng ngoài thị trường lao động quốc tế. Sự hoà nhập của thị trường
lao động đòi hòi hệ thống pháp luật về lao động của Việt Nam nói chung, các
quy định về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ nói riêng phải tương
thích với hệ thống pháp luật chung. Trên thực tế BLLĐ 2012 đã có những sửa
đổi so với BLLĐ 2002 để phù hợp hơn với pháp luật quốc tế. Cụ thể có thể ví
dụ: Quy định phải thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền khi NSDLĐ
69
chấm dứt HĐLĐ với NLĐ được quy định từ Điều 38 đến Điều 49 BLLĐ
2012 là các nội dung được tham khảo, vận dụng các nội dung trong Phần II,
Phần III Công ước 158 của ILO.
Việt Nam là thành viên của ILO nên việc phải đảm bảo pháp luật lao
động trong nước phù hợp với pháp luật lao động quốc tế là nguyên tắc cơ bản.
Khi xây dựng các nội dung liên quan đến đơn phương chấm dứt HĐLĐ, trên
thực tế Việt Nam đã tham khảo, vận dụng nội dung của nhiều Công ước ILO
mà Việt Nam tham gia, như Công ước 140 về nghỉ việc để học tập có lương;
Công ước 158 về chấm dứt việc sử dụng lao động do NSDLĐ chủ động;
Công ước 128 về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền tuất…Việc sử dụng nội dung
các Công ước để làm cơ sở áp dụng hoặc tham khảo khi xây dựng pháp luật
về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, hoặc lựa chọn một số nội dung
để áp dụng với mức độ tương thích với đặc điểm nước ta đã góp phần tạo ra
những quy định pháp luật có tính chất tương đồng giữa pháp luật trong nước
và pháp luật quốc tế.
Cùng với việc sử dụng các Công ước, Khuyến nghị của ILO như một
nguồn của việc xây dựng pháp luật, thì việc sử dụng nội dung Công ước,
Khuyến nghị còn có tác dụng làm phong phú, sâu sắc hơn hệ thống khái niệm
khoa học, thuật ngữ pháp lý về chấm dứt HĐLĐ cũng như góp phần đưa pháp
luật lao động Việt Nam đến với thị trường lao động quốc tế, tăng cường hơn
nữa quá trình hợp tác quốc tế về lao động. Trong điều kiện Việt Nam hội nhập
ngày càng sâu rộng về mọi mặt với khu vực và thế giới thì việc tôn trọng
những tiêu chuẩn, chuẩn mực lao động quốc tế và tham gia ngày càng nhiều
vào các Điều ước quốc tế về lao động có nội dung phù hợp với điều kiện kinh
tế, xã hội của nước ta là đặc biệt cần thiết. Để từ đó có thể tận dụng được tối
đa các thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của đất nước, đồng thời có điều
kiện xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật điều chỉnh QHLĐ,
góp phần xây dựng thị trường lao động lành mạnh, linh hoạt.
70
3.1.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ.
Thứ nhất, cần có văn bản hướng dẫn BLLĐ năm 2019 về HĐLĐ trong
đó có việc chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ đối với NLĐ.
Như chương 2 đã đề cập, BLLĐ năm 2019 đã có những sửa đổi và quy
định mới về việc chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ đối với NLĐ. Đặc biệt BLLĐ
năm 2019 đã bổ sung thêm một số trường hợp NSDLĐ được quyền chấm dứt
HĐLĐ đối với NLĐ, trong đó có những trường hợp thiết nghĩ cần phải có
hướng dẫn như trường hợp NLĐ cung cấp không trung thực thông tin theo
quy định khi giao kết hợp đồng làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng NLĐ.
Hay như về thời hạn báo trước BLLĐ năm 2019 cũng có quy định đối với
một số ngành nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện
theo quy định của Chính Phủ. Bởi vậy thiết nghĩ cần phải có hướng dẫn về
các nội dung này. BLLĐ năm 2019 cũng sắp bắt đầu có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, đối với quy định về trách nhiệm của NSDLĐ khi đơn phương
chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật:
Cần có sự phân biệt giữa việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp
luật về mặt nội dung và trái pháp luật do vi phạm thủ tục. Trong trường hợp
NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật về mặt nội dung, thể
hiện NSDLĐ đã áp dụng sai căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì NSDLĐ
phải nhận NLĐ trở lại làm việc, trừ trường hợp NLĐ không muốn tiếp tục
làm việc. Đồng thời NSDLĐ phải thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 1
Điều 42 BLLĐ 2012. Còn trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt
HĐLĐ chỉ vi phạm về thủ tục (vi phạm về thời gian báo trước) mà đảm bảo
về căn cứ chấm dứt HĐLĐ thì pháp luật nên quy định cho phép NSDLĐ được
chấm dứt HĐLĐ với NLĐ sau khi trả cho NLĐ một khoản tiền tương ứng với
thời gian báo trước mà không buộc họ phải nhận lại NLĐ vào làm việc nữa.
Đồng thời đề nghị có hướng dẫn cụ thể hơn nội dung quy định tại khoản 4
71
Điều 42 về hướng giải quyết trong trường hợp hai bên thương lượng để sửa
đổi, bổ sung hợp đồng lao động nhưng không thành.
Thứ ba, về thời hạn báo trước: Pháp luật nên quy định cụ thể hình thức
thông báo của NSDLĐ cho NLĐ trong việc biểu lộ ý chí khi muốn thực hiện
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Để rõ ràng, minh bạch và có căn cứ
pháp luật cần quy định việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản. Như
vậy sẽ hạn chế được các tranh chấp giữa các bên trong QHLĐ, đồng thời tạo
cơ sở pháp lý cho việc giải quyết nếu giữa các bên xảy ra tranh chấp.
Mặt khác, theo Công ước 158 của ILO và pháp luật lao động của một
số quốc gia trên thế giới có quy định cho phép NSDLĐ trả cho NLĐ một
khoản tiền tương đương với thu nhập của NLĐ trong thời gian báo trước để
được đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn báo trước. Quy định này sẽ
tạo ra cho NSDLĐ sự linh động cao trong việc bố trí, sắp xếp lao động, chủ
động về thời gian và nhân sự trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo ra cho
NSDLĐ cơ hội trong cạnh tranh đồng thời vẫn đảm bảo được quyền lợi hợp
pháp của NLĐ. Pháp luật nên bổ sung quy định này để NSDLĐ có thêm lựa
chọn khi thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ, đồng thời
để pháp luật Việt Nam tương thích với pháp luật quốc tế.
Thứ tư, đối với NLĐ là trẻ em dưới 15 tuổi: Đây là đối tượng lao động
đặc biệt. Nên khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ trong trường hợp
này, pháp luật cần quy định thêm NSDLĐ phải có nghĩa vụ báo trước cho
cha, mẹ hoặc người giám hộ của NLĐ. Vì trẻ em là đối tượng chưa phát triển
một cách toàn diện cả về thể chất và tinh thần, đặc biệt là khả năng nhận thức,
khả năng tự lập trong giải quyết các vấn đề. Nên khi phát sinh sự kiện làm
thay đổi, chấm dứt QHLĐ cần có người đại diện của NLĐ chưa đủ 15 tuổi
tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Ngoài ra quy định
nội dung này là cần thiết để thống nhất với chế định đại diện và giám hộ trong
pháp luật dân sự Việt Nam.
72
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật
về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ tại các cơ sở Y-Dược
cổ truyền Việt Nam
- Tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của NLĐ và
NSDLĐ về pháp luật lao động nói chung và pháp luật về quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ nói riêng.
Việc tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của NLĐ và
NSDLĐ về pháp luật lao động nói chung và pháp luật về quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhận
thức, hiểu biết và nắm bắt được các quy định của pháp luật sẽ giúp NSDLĐ
thực hiện đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt, Khi pháp luật về việc đơn
phương chấm dứt HĐLĐ có sự thay đổi như có văn bản hướng dẫn mới, luật
mới… thì càng cần tiến hành tập huấn và tuyên truyền pháp luật cho cả
NSDLĐ và NLĐ. Phổ biến pháp luật cho các đối tượng này là tiền đề để
những quy định pháp luật về lao động được thực hiện đúng và hiệu quả. Đặc
biệt là về phía NSDLĐ, khi họ đã được tập huấn, tiếp cận và hiểu rõ về các
quy định pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của mình để thực
hiện quyền này đúng pháp luật và hạn chế xảy ra tranh chấp.
BLLĐ năm 2019 được Quốc hội thông qua ngày 20/11/ 2019 và bắt
đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2020. Bởi vậy việc tuyên truyền BLLĐ năm
2019 là hết sức cần thiết. Các cơ sở Y-Dược cổ truyền Việt Nam cũng sử
dụng khá nhiều lao động. Bởi vậy cần phải nâng cao hoạt động này, tuyên
truyền, phổ biến để mọi NLĐ và đặc biệt là NSDLĐ nắm bắt được các quy
định của pháp luật.
Việc xây dựng các nội dung có trong nội quy, quy chế, thoả ước lao động
tập thể của các doanh nghiệp thực chất là việc xây dựng “pháp luật” của
doanh nghiệp đó. Vì vậy để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, trước hết NSDLĐ và đại diện tập thể
NLĐ phải xây dựng được các nội dung của nội quy, quy chế, thoả ước lao
động tập thể trong đơn vị cụ thể, rõ ràng và hợp pháp, có tính khả thi cao.
Điều này đòi hỏi các bên phải hết sức nghiêm túc khi xây dựng các quy định
73
về đơn phương chấm dứt HĐLĐ và tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp
luật về vấn đề này.
Cần công khai các quy định của pháp luật, nội quy, quy chế của doanh
nghiệp để NSDLĐ và NLĐ đều nắm rõ và thực hiện. Qua việc tạo điều kiện
cho NSDLĐ và NLĐ tiếp cận với các quy định của pháp luật, của nội quy,
quy chế do doanh nghiệp xây dựng mới có thể nâng cao ý thực tuân thủ pháp
luật, ý thức tổ chức kỷ luật của họ. Khi các bên tham gia QHLĐ nhận thực
đầy đủ và hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của mình thì hiệu quả
của việc thực hiện pháp luật mới được nâng cao. Nếu các bên tham gia QHLĐ
đều tuân thủ pháp luật thì quyền lợi của các bên đều được đảm bảo, sẽ hạn
chế tối đa các trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật của
NSDLĐ và hạn chế các tranh chấp HĐLĐ xảy ra.
- Phát triển hệ thống tư vấn pháp luật Lao động hoạt động có hiệu quả.
Trên thực tế, không phải đơn vị, doanh nghiệp nào cũng có bộ phận
pháp chế để tư vấn cho NSDLĐ các vấn đề liên quan đến pháp luật Lao động
nói chung và pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ nói riêng. Các cơ sở
Y-Dược cổ truyền cũng không ngoài tình trạng đó. Việc NSDLĐ chưa coi
trọng ý kiến tư vấn pháp luật cũng là nguyên nhân dẫn đến các vi phạm pháp
luật khi NSDLĐ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Để giảm
thiểu những sai phạm khi áp dụng pháp luật, NSDLĐ cần có sự nhận thức
đúng đắn về công tác tư vấn pháp luật. NSDLĐ có thể thực hiện việc tham
khảo ý kiến tư vấn pháp luật thông qua nhiều cách như: xây dựng bộ phận
pháp chế của doanh nghiệp; tham khảo ý kiến tư vấn của luật sư hoặc xin ý
kiến hướng dẫn của cơ quan quản lý lao động trước khi thực hiện quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ… Qua đó sẽ hạn chế được việc NSDLĐ đơn
phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật do thiếu hiểu biết pháp luật.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức đại diện người lao động lao
động tại cơ sở
Tổ chức đại diện của NLĐ có chức năng đại diện bảo vệ quyền lợi của
người lao động. Với vai trò như vậy, tổ chức đại diện NLĐ cần được xây
dựng và kiện toàn để phát huy sức mạnh của mình trong đơn vị sử dụng lao
74
động. Công đoàn là tổ chức bảo về quyền lợi cho người lao động, vì vậy trước
hết họ cần phải là người hiểu biết pháp luật lao động, giúp người lao động
thực hiện giao kết hợp đồng lao động không chỉ đúng pháp luật mà còn đảm
bảo lợi ích của người lao động, phải gần gũi, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng
của người lao động để tháo gỡ khó khăn cho họ.
Bởi vậy Cần chú trọng nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của tổ
chức đại diện NLĐ , đặc biệt là tổ chức công đoàn trong các cơ sở Y Dược cổ
truyền . Để có được điều này cần phải thành lập tổ chức đại diện, với đội ngũ
cán bộ am hiểu kiến thức pháp luật, có trình độ chuyên môn, nhiệt tình với
công tác nhiệm vụ của mình. Trong trường hợp tranh chấp xảy ra, cần kịp thời
nắm bắt tư tưởng, nguyện vọng của người lao động, có biện pháp kịp thời để
giúp người lao động vừa bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình, vừa chấp
hành đúng pháp luật lao động.
- Tăng cường công tác thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật lao động nói
chung, pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ nói riêng .
Công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật lao động tại
các đơn vị sử dụng lao động do cơ quan quản lý lao động tại địa phương thực
hiện cũng đóng vai trò rất quan trọng. Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm
tra thường xuyên để phát hiện kịp thời và chỉnh đốn, uốn nắn các vi phạm của
NSDLĐ trong sử dụng lao động cũng góp phần nâng cao hiệu quả và khả
năng thực thi các quy định của pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ, giảm thiểu các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực
hiện HĐLĐ giữa các bên tham gia QHLĐ.
Bổ sung, tăng cường kịp thời số lượng cũng như chất lượng thanh tra
nhằm đáp ứng các yêu cầu có tính chất đa dạng và phức tạp từ các vụ việc vi
phạm pháp luật của doanh nghiệp. Trong công tác nghiệp vụ, cần xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật lao động, quy định chế tài đủ mạnh để
xử lý các hành vi vi phạm. Thực tế cho thấy, không ít các doanh nghiệp bị
thanh tra cho rằng từ lợi ích thu được từ việc vi phạm pháp luật còn lớn hơn
rất nhiều so với mức xử phạt hành chính về lĩnh vực lao động. Tâm lý đó
75
khiến họ không còn sợ bị xử phạt và không còn ngại vi phạm các quy định về
hợp đồng lao động.
Cùng với đó, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc
đảm bảo thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về lao động. Đặc
biệt đối với những doanh nghiệp cố tình không chấp hành quyết định xử phạt
cần có những biện pháp thích hợp. Bên cạnh đó cũng cần xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm pháp luật lao động, mà trước hết cơ quan thi hành pháp
luật cần phải thực hiện đúng pháp luật, tránh xảy ra tình trạng bao che, chống
đỡ, ô dù đối với các hành vi vi phạm pháp luật lao động.
76
Tiểu kết chương 3
Từ những phân tích, đánh giá về quy định của pháp luật hiện hành, kết
hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ
của NSDLĐ trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Chương 3 của Luận văn đa tập trung
vào những vấn đề sau:
- Nêu ra một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thi hành pháp luật về
đơn phương chấm dứt HĐLĐ tại địa phương. Từ đó xác định cụ thể các
yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ
của NSDLĐ.
- Trên cơ sở các tồn tại trong quá trình thực hiện các quy định của pháp
luật. Luận văn đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Trong
đó có các kiến nghị để các quy định của pháp luật cụ thể, rõ ràng hơn.
Đảm bảo tính khả thi và tránh các tranh chấp phát sinh do còn có nhiều
cách hiểu về cùng một vấn để được pháp luật quy định.
- Đề ra các biện pháp phát huy hiệu quả của việc áp dụng các quy định
của pháp luật trong thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ. Trong đó không chỉ tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung các quy
định của pháp luật mà còn cần thiết phải nâng cao ý thức pháp luật cho
NSDLĐ và NLĐ; đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật; nâng
cao năng lực và hiệu quả của tổ chức đại diện cho NLĐ cũng như vai trò
của Nhà nước trong việc định hướng, điều tiết thị trường lao động.
77
KẾT LUẬN
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ là một hiện tượng khách
quan, tồn tại một cách tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ được pháp luật quy định và đảm bảo thực thi.
Khi NSDLĐ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ đã đem lại những
ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế và thị trường lao động, góp phần đảm bảo
quyền tự do của NSDLĐ trong sản xuất kinh doanh. Nhưng bên cạnh những
yếu tố tích cực, việc NSDLĐ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ
cũng đem lại những hậu quả nhất định cho các bên tham gia QHLĐ và ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế- xã hội. Nhất là khi NSDLĐ đơn phương
chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.
Pháp luật lao động hiện nay còn có những quy định chưa rõ ràng, cụ thể
nên dẫn đến nhiều tranh chấp phát sinh từ việc còn nhiều cách hiểu, cách vận
dụng khác nhau đối với cùng một nội dung. Trong đó thực tiễn áp dụng pháp
luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ còn nhiều vướng mắc cả về
căn cứ, trình tự, thủ tục cũng như các quy định về giải quyết quyền lợi, nghĩa
vụ của các bên khi xảy ra tranh chấp. Việc nghiên cứu cụ thể vấn đề đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như
thực tiễn sâu sắc, góp phần vào việc hoàn thiện những quy định của pháp luật,
bảo đảm an ninh việc làm cho NLĐ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
các bên trong QHLĐ.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, có thể rút ra những kết luận cơ bản sau:
• Nghiên cứu quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ dưới
góc độ là một quyền năng pháp lý, đề tài đã nghiên cứu làm sáng tỏ một số
vấn đề pháp lý về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ được quy
định trong luật pháp của một số quốc gia; Các nội dung liên quan đến quyền
của NSDLĐ được quy định tại công ước 158 của ILO. Qua đó rút ra những
bài học kinh nghiệm trong quá trình nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ trong nước.
78
• Từ thực trạng áp dụng pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của
NSDLĐ tại cơ sở Y Dược cổ truyền, chỉ ra một số bất cập cho thấy tính kém
khả thi và không phù hợp với nhiều quy phạm pháp luật khác; các nội dung
bất hợp lý, chưa rõ ràng trong các quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Đây chính là nguyên nhân làm gia
tăng các tranh chấp trong lĩnh vực này. Các quy định không cụ thể của pháp
luật cũng là nguyên nhân gây ra các cách hiểu pháp luật không đồng nhất, dẫn
đến việc áp dụng pháp luật không đúng khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ và
giải quyết tranh chấp.
• Từ việc phân tích, so sánh làm rõ các quy định của pháp luật về đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Luận văn đã đưa ra một số kiến nghị,
giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu
quả việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này tại cơ sở Y Dược cổ truyền.
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Công Bảy (2007), Vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động- lý luận và thực tiễn” Tạp chí Toà án nhân dân số 03/2007
2. Đỗ Ngân Bình, “Hoàn thiện chế định HĐLĐ - Từ thực tiễn hoạt động của
doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học, số 6/2017;
3. Nguyễn Hữu Chí (1998), Một số vấn đề về kỷ luật lao động trong BLLĐ,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 1998, Số 2, tr.3-5;24;
4. Nguyễn Hữu Chí (2002),“ Chấm dứt Hợp đồng lao động”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 09/2002
5. Nguyễn Hữu Chí (2004), “Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về HĐLĐ
tại toà án nhân dân”, Tạp chí toà án nhân dân, số 16/2004;
6. Nguyễn Tiến Dũng (2016), “Khái niệm về lao động cưỡng bức”, Tạp chí
Luật học, số 12/2016;
7. Nguyễn Tiến Dũng, “Pháp luật về chấm dứt HĐLĐ - Một số bất cập và
giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Nghề Luật, số 3/2017;
8. Trần Hoàng Hải & Đỗ Hải Hà (2011),“Hoàn thiện quy định về trách
nhiệm của người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
9. Đào Thị Hằng (2001)“Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”,
Tạp chí Luật học số 01/2001
10. Vũ Thị Thu Hiền (2010), “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động của người sử dụng lao động – từ quy định của pháp luật đến thực
tiễn áp dụng”, Tạp chí Nghề luật (2010)
11. Phan Thị Thanh Huyền (2014), HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể và giải
quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam, Nxb Tư
pháp, Hà Nội;
12. Nguyễn Duy Lãm (2001), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo
dục, Hà Nội;
13. Trần Thị Thúy Lâm (2009), Những vấn đề cần sửa đổi về HĐLĐ trong Bộ
luật lao động, Tạp chí Luật học 9/2009, Hà Nội;
80
14. Trần Thúy Lâm và Trần Minh Tiến “Chế định HĐLĐ theo BLLĐ năm
2019”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 5/2020.
15. Lưu Bình Nhưỡng (Chủ biên), TS. Nguyễn Xuân Thu – TS. Đỗ Thị Dung
(2015), Bình luận khoa học BLLĐ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Lao động, Hà Nội;
16. Lưu Bình Nhưỡng chủ biên (2015), Bình luận khoa học Bộ luật lao động
(năm 2012), Nxb Lao động, Hà Nội;
17. Quốc hội (2012), BLLĐ số 10/2012/QH13 do Quốc Hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 18/06/2012;
18. Quốc hội (2012), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Quốc Hội ban hành ngày 28/11/2013;
19. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 do Quốc Hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 24/11/2015;
20. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 do Quốc Hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 25/11/2015;
21. Quốc hội (2019), BLLĐ số 45/2019/QH14 do Quốc Hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 20/11/2019;
22. Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng (2009) – NXB Giáo dục, Hà Nội;
23. Nguyễn Thị Hoa Tâm (2009), “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 08/2009
24. Nguyễn Xuân Thu (2020), “Những điểm mới của BLLĐ năm 2029 về
thực hiện và chấm dứt HĐLĐ” Tạp chí Nghề Luật số 3 năm 2020
25. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học
(luật lao động, luật đất đai, tư pháp quốc tế), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội 1999;
81