intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng theo pháp luật Hình sự Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

22
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là góp phần bổ sung, phát triển lý luận về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng; đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thời gian tới. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng theo pháp luật Hình sự Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ THÙY TRANG CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÀ NỘI - 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ THÙY TRANG CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 8380104 Người hướng dẫn khoa học PGS.TS PHẠM CÔNG NGUYÊN HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn với đề tài “Các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng theo pháp luật Hình sự Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng năm 2020 Tác giả luận văn Trần Thị Thùy Trang
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG ......... 10 1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng ......................................................................................................... 10 1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng ................................................................................................ 15 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG ................................................................................................ 24 2.1. Thực trạng tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam .......... 24 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng .................................................... 43 2.3. Nhận xét, đánh giá chung................................................................. 51 Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG .............................................. 58 3.1. Dự báo .............................................................................................. 58 3.2. Giải pháp .......................................................................................... 63 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
  5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bọ luật TTHS BLDS Bộ luật Dân sự TNHS Trách nhiệm Hình sự CTTP Cấu thành tội phạm VKSND Viện kiểm sát nhân dân TAND Tòa án nhân dân CSKT Cảnh sát kinh tế NHNN Ngân hàng Nhà nước TCTD Tổ chức tín dụng TCTDQD Tổ chức tín dụng quốc doanh TCTDCP Tổ chức tín dụng cổ phần TSĐB Tài sản đảm bảo VPĐD Văn phòng đại diện VNĐ Việt Nam đồng
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngân hàng là một trong những công cụ quan trọng nhất giúp Chính phủ điều hành nền kinh tế, là kênh huy động vốn lớn nhất cho các dự án, là trung tâm thanh toán và thực thi chính sách tiền tệ, nơi tập trung khối lượng lớn tiền, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và các tài sản quý vàng, bạc... Do đó, các loại tội phạm luôn xác định đây là mục tiêu để thực hiện các hoạt động phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản. Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi và đang trong giai đoạn hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế và khu vực, hoạt động ngân hàng đang bị chi phối rất lớn bởi các yếu tố bên ngoài. Điều này khiến hoạt động ngân hàng đang trở nên ngày càng phức tạp và dễ bị tác động theo chiều hướng tiêu cực nếu thiếu sự quản lý thận trọng và các chính sách chậm được đổi mới. Khi các điều kiện cần thiết cho hoạt động ngân hàng không vững chắc sẽ dẫn đến hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng mất ổn định, có thể đổ vỡ mang tính hệ thống, đe doạ nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Một trong những biểu hiện rõ ràng nhất cho lập luận trên đây là tình trạng vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thời gian qua gia tăng mạnh mẽ với nhiều hình thức vi phạm và phương thức, thủ đoạn phạm tội tinh vi, phức tạp. Theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, từ năm 2010 đến tháng 6/2019, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu đã phát hiện 1.861 vụ với 2.384 đối tượng vi phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng; trong đó, khởi tố, điều tra 696 vụ với 1.875 bị can. Những năm gần đây, tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng có xu hướng gia tăng cả về số vụ và số đối tượng, phương thức, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt và phức tạp, gây hậu quả, thiệt hại lớn về nhiều mặt. Về cơ cấu tội phạm, chủ yếu ở hai nhóm tội 1
  7. tham nhũng, chức vụ và xâm phạm sở hữu như: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Cho vay lãi nặng”, “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD”, “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”, “Tham ô tài sản”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng… Công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng đã được các cơ quan tố tụng, Ngân hàng Nhà nước cũng như các ngân hàng triển khai quyết liệt, tuy nhiên, quá trình thực hiện còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế như: còn quan điểm không đồng tình việc hình sự hóa các hành vi sai phạm trong lĩnh vực ngân hàng, cho rằng việc xử lý hình sự làm chậm quá trình thu hồi nợ, thu hồi TSĐB, tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng, nhất là sau khi xảy ra nhiều “đại án” thời gian vừa qua; về phía cơ quan tố tụng, việc đấu tranh với loại vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng gặp khó khăn do liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống; khoa học- công nghệ phát triển tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới như: giao dịch điện tử, công nghệ số, chữ ký điện tử, chứng từ điện tử nên việc thu thập tài liệu, chứng cứ, việc kiểm tra, xác minh kéo dài; quan điểm đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, diện xử lý còn nhiều ý kiến khác nhau cũng là nguyên nhân dẫn đến chất lượng và thời hạn giải quyết các vụ án tín dụng, ngân hàng còn hạn chế; ngoài ra, số lượng vụ án hình sự, vụ án dân sự, kinh doanh thương mại trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng gia tăng, trong khi số lượng Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán cơ bản không tăng, lại không được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực giải quyết vụ án tín dụng, ngân hàng nên không ít sai sót khi giải quyết các vụ án này. 2
  8. Từ thực trạng nói trên, học viên lựa chọn đề tài “Các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ và đưa ra những giải pháp thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng gây nhức nhối dư luận, tác động mạnh đến kinh tế xã hội, do hậu quả thiệt hại thường lớn lên đến hàng nghìn tỷ đồng, làm mất lòng tin của người dân, ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân tín dụng, gián tiếp gây ra tình trạng khan hiếm nguồn vốn do người dân e dè, lo lắng khi gửi tiền vào ngân hàng, tuy nhiên, đây là vấn đề tương đối mới, nảy sinh và phát triển mạnh sau tiến trình hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, nhu cầu vốn tăng mạnh trong khi cơ chế chính sách và quy định của pháp luật chưa theo kịp, do đó, đến nay chưa có nhiều nghiên cứu về chủ đề này hoặc nghiên cứu từ thời kỳ trước, chỉ đi sâu về công tác phòng chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, chưa đi sâu vào phân tích các yếu tố CTTP theo quy định của pháp luật hình sự hoặc mới chỉ nghiên cứu một tội danh, chưa có sự khái quát để đề ra giải pháp chung đối với hệ thống ngân hàng. Một số nghiên cứu về phòng chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng: Luận văn thạc sĩ luật học: “Phòng chống tội phạm trong hoạt động ngân hàng” của thạc sĩ Trần Thị Hằng tại Trường Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2006. Luận văn thạc sĩ luật học: Phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam của thạc sĩ Lê Xuân Hiền, trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010. Luận án Tiến sĩ luật học: “Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng” của nghiên cứu sinh Nguyễn Đình Trung, Viện trưởng VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019. Luận văn thạc sĩ, “Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần tại thành phố Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh”, Đặng Tuấn Tú, 3
  9. 2014, Học viện An ninh nhân dân. Luận văn đã phân tích, làm rõ tình hình hoạt động và những phức tạp về an ninh nảy sinh trong hoạt động của hệ thống NHTM cổ phần; đánh giá thực trạng triển khai công tác an ninh đối với hoạt động của hệ thống NHTM cổ phần và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác an ninh đối với hoạt động của hệ thống NHTM cổ phần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, các luận văn trên có nhiều nét tương đồng với đề tài nghiên cứu của học viên, chỉ khác về không gian và giới hạn đề tài nghiên cứu. Đây sẽ là một trong những cơ sở để học viên kế thừa, chắt lọc phục vụ nghiên cứu về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, có cái nhìn tổng quan, đánh giá sát với thực tiễn tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng hiện nay, từ đó giúp học viên đưa ra các giải pháp phù hợp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài - Mục đích: Góp phần bổ sung, phát triển lý luận về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng; đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thời gian tới. - Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau: + Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. + Phân tích đánh giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, chỉ ra kết quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. + Dự báo và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. 4
  10. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Lý luận về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. - Phạm vi nghiên cứu: + Nội dung khoa học: Luận văn tập trung nghiên cứu về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng dưới khía cạnh pháp lý hình sự (CTTP, nguyên nhân, thực trạng…), đặc biệt làm rõ cơ sở và những hành vi phạm tội của loại tội phạm này, đồng thời phân tích thực tiễn áp dụng trong giai đoạn từ năm 2010 – 2017, để từ đó, đưa ra những kiến nghị, giải pháp có hệ thống và khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng ở nước ta hiện nay. Với mục đích nghiên cứu như đã đặt ra ở trên, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở 06 điều luật được quy định trong BLHS năm 1999 và thực tiễn xét xử 06 tội danh tương ứng trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2017. Cụ thể là: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139- BLHS năm 1999, Điều 174 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 BLHS năm 1999, Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165- BLHS năm 1999, không còn điều này ở BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nội dung của điều luật đã được cụ thể hóa thành một số tội danh khác); tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD (Điều 179 BLHS năm 1999, Điều 206 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tên điều được sửa đổi thành tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng); tội rửa tiền (Điều 251 BLHS năm 1999, Điều 324 LHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và tội tham ô tài sản (Điều 278 BLHS năm 1999, Điều 353 BLHS năm 2015). Trong số 06 tội danh này, thì chỉ có 5
  11. một điều, Điều 206 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định trực tiếp về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng là tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Do BLHS năm 2015 tuy đã được Quốc hội thông qua, sau đó được bổ sung, sửa đổi năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 nhưng phần thực tiễn xét xử chưa phát sinh nhiều. Vì vậy, toàn bộ các số liệu, bản án trong luận văn xin được giữ nguyên tên gọi và số điều khoản theo BLHS năm 1999 để bảo đảm giữ nguyên bản gốc, số liệu gốc và thuận tiện theo dõi. + Về không gian: Tại các cơ quan tố tụng cấp Trung ương (Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, TAND tối cao, VKSND tối cao) và Ngân hàng Nhà nước. + Về thời gian: Thực trạng tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng từ năm 2010 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin để đưa ra những lý luận cơ bản về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Để hoàn thành luận văn, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau: - Phương pháp tổng kết thực tiễn: Được sử dụng để nghiên cứu, tổng kết thực tiễn về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng tại các cơ quan tố tụng cấp trung ương (Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, TAND tối cao, VKSND tối cao) và Ngân hàng Nhà nước. Trong đó, tập trung nghiên cứu các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo chuyên đề phòng, chống tội phạm trên lĩnh vực ngân hàng nhằm đánh giá, làm rõ kết quả đã đạt được, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân tại mục 2.2, Chương 2; rút ra những bài học kinh nghiệm, giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm trên lĩnh vực ngân hàng ở mục 3.2, Chương 3 của luận văn. 6
  12. - Phương pháp chuyên gia: Ngoài ý kiến của người hướng dẫn, học viên xây dựng hệ thống câu hỏi và phỏng vấn, tranh thủ ý kiến giảng viên Đại học Luật Hà Nội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Điều tra viên, cán bộ của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, TAND Tối cao, VKSND tối cao) và Ngân hàng Nhà nước để làm sáng tỏ lý luận về phòng chống tội phạm trên lĩnh vực ngân hàng; đề nghị góp ý vào đề cương chi tiết, nhận xét các vấn đề lý luận được trình bày trong luận văn. Về thực tiễn, nghiên cứu sinh đã xây dựng hệ thống câu hỏi, tranh thủ ý kiến của các nhà khoa học, cán bộ, lãnh đạo các đơn vị nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, Ngân hàng Nhà nước, Cục An ninh kinh tế đã và đang chỉ đạo, tổ chức công tác phòng, chống tội phạm trên lĩnh vực ngân hàng. - Phương pháp nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu, khảo sát 30 vụ án trong lĩnh vực ngân hàng điển hình, xử lý dữ liệu bằng SPSS (Statistics Program for Social Sciences - Phần mềm thống kê dành cho các Khoa học xã hội), từ đó, rút ra những vấn đề đặc trưng, quy luật phổ biến của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng (CTTP, nguyên nhân, thực trạng…). - Phương pháp nghiên cứu tài liệu và tiếp cận hệ thống: Được sử dụng để phân tích, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, từ đó góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về phòng, chống tội phạm; xem xét, đánh giá phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng trong tổng thể công tác phòng, chống tội phạm, gắn với điều kiện lịch sử, các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa từ năm 2010 đến nay. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng phân tích các công trình khoa học có liên quan ở trong và ngoài nước, từ đó, xác định những vấn đề lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu. Học viên phân tích về đặc trưng, quy luật phổ biến của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng (CTTP, nguyên nhân, thực trạng. Trên cơ sở phân tích làm rõ thực trạng phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, luận văn tổng hợp và rút ra bản chất, quy luật trong 7
  13. phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Phân tích, đánh giá toàn diện các mặt công tác, các hoạt động nghiệp vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, tổng hợp, đánh giá rút ra được những thành công, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế; đề xuất giải pháp. - Phương pháp thống kê, so sánh: Được sử dụng thống kê hoạt động của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Để làm rõ hoạt động của đối tượng, học viên đã thống kê số vụ án, số lượng tội phạm, làm rõ đặc điểm nhân thân (giới tính, tuổi, nghề nghiệp, thành phần...), địa bàn hoạt động; các công tác, biện pháp nghiệp vụ áp dụng trong điều tra, xử lý. Đồng thời, học viên còn thu thập dữ liệu, xây dựng phụ lục, bảng biểu, so sánh dẫn chiếu theo các mốc sự kiện, thời gian, địa điểm... từ đó, minh chứng cho các kết luận của luận văn. Ngoài ra, học viên còn sử dụng phương pháp diễn giải, quy nạp... để lý giải những vấn đề liên quan, tác động đến đối tượng nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Góp phần hoàn thiện và nâng cao nhận thức những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Đánh giá đầy đủ và toàn diện về thực trạng, nguyên nhân, đặc điểm, tác động xã hội của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp. Đề xuất các định lý và giải pháp có luận cứ khoa học và phù hợp thực tiễn, có tính khả thi hỗ trợ các cơ quan tố tụng trong phòng chống tội phạm; cơ quan lập pháp trong hoàn thiện hệ thống pháp luật và rút ra bài học đối với ngân hàng trong khâu quản lý. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập trong các nhà trường về tội phạm, phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm và phòng chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng. 8
  14. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, bao gồm: Chương 1: Lý luận chung và quy định của pháp luật Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Chương 3: Dự báo và giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. 9
  15. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG 1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng 1.1.1. Khái niệm Theo Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa, thuật ngữ “lĩnh vực” là phạm vi hoạt động hay xem xét nào đó, phân biệt với các phạm vi hoạt động hoặc xem xét khác (Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý (Chủ biên), NXb Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh, năm 2008, trang 933). Theo Điều 4, Luật các TCTD năm 2010 định nghĩa, “ngân hàng” là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã. Như vậy có thể hiểu “lĩnh vực ngân hàng” gồm sự tồn tại của chính hệ thống ngân hàng (Ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại và ngân hàng chính sách xã hội) và các hoạt động kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, lĩnh vực ngân hàng là khái niệm tương đối có nội hàm chỉ sự tồn tại của các ngân hàng và hoạt động của các ngân hàng đó theo quy định của pháp luật [14]. Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, pháp luật cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà nước đã quy định hành vi nào là tội phạm và áp dụng TNHS hoặc hình phạt đối với người nào thực 10
  16. hiện hành vi đó. Do vậy, tội phạm không chỉ mang thuộc tính lịch sử - xã hội mà nó còn có bản chất là một hiện tượng pháp lý. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa pháp lý của việc xác định rõ khái niệm tội phạm, pháp luật hình sự Việt Nam và các nước XHCN đều có định nghĩa thống nhất khái niệm tội phạm thể hiện bản chất xã hội của tội phạm, qua đó phản ánh quan điểm, đường lối, chính sách đúng đắn về hình sự của nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, cách mạng, bảo vệ các lợi ích của toàn thể nhân dân. Hơn nữa, khái niệm tội phạm trong luật hình sự còn là cơ sở để phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác và với hành vi trái đạo đức, cũng như các trường hợp không phải là tội phạm, qua đó, bảo vệ, củng cố và duy trì trật tự pháp luật, góp phần phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ một cách hữu hiệu lợi ích của nhà nước, của xã hội, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Theo quy định tại khoản 1, Điều 8, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [8]. Căn cứ quy định trên, có thể khái quát: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong luật hình sự, do người có TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ và phải chịu hình phạt. 11
  17. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý, có thể hiểu: Tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại những quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật ngân hàng, được quy định trong BLHS, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến hoạt động đúng đắn của ngân hàng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và xã hội. 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý 1.1.2.1. Khách thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng Khách thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, đang được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau như sản xuất, kinh doanh, lưu thông, quản lý tài chính, tiền tệ, … gây ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Đối tượng tác động chủ yếu của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường là tiền, vàng hoặc các loại giấy tờ có giá khác. Hành vi phạm tội có thể tác động vào các đối tượng cụ thể khác nhau của khách thể - các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ. Các đối tượng này có thể là con người, đối tượng vật chất khác và hoạt động bình thường của chủ thể. Như vậy, có thể thấy đối tượng tác động chủ yếu của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường là tiền, vàng hoặc các giấy tờ có giá trị khác. 1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng Hầu hết các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng có cấu thành vật chất, tức là các tội được coi là hoàn thành kể từ khi thực hiện một hành vi quy định trong điều luật với một số lượng, giá trị vật chất cụ thể. Tuy nhiên, cũng có những tội cấu thành hình thức, tức là tội này không cần có hậu quả xảy ra thì tội phạm đã được coi là hoàn thành. Một số tội có quy định là đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án về tội quy định trong nhóm các tội trong lĩnh vực ngân hàng chưa được xoá án tính mà còn vi phạm. Một trong những dấu hiệu 12
  18. nêu trên là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Hầu hết các tội trong lĩnh vực ngân hàng được biểu hiện bằng những hành động cụ thể, thể hiện bằng các thủ đoạn khác nhau khi thực hiện tội phạm, công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm… thực hiện tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, trừ trường hợp luật định. Các hành vi phạm tội thường gặp trong lĩnh vực ngân hàng: Lợi dụng chức vụ quyền hạn để thực hiện hành vi tham nhũng. Thủ đoạn phạm tội này tương đối phổ biến trong hầu hết các vụ án đã xảy ra trong thời gian qua, một số cán bộ ngân hàng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi phạm tội vì động cơ vụ lợi và có sự tính toán, che giấu tinh vi khi thực hiện. Lợi dụng vị trí công tác, uy tín của tổ chức ngân hàng để thực hiện hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tiền của các ngân hàng, tổ chức và cá nhân. Cán bộ ngân hàng lợi dụng vị trí công tác, uy tín của ngân hàng để thực hiện hành vi lừa đảo nhằm rút tiền của ngân hàng hoặc chiếm đoạt tiền của các tổ chức, cá nhân, thông qua các biện pháp nghiệp vụ như: huy động vốn cho ngân hàng (thỏa thuận trả lãi suất cao hơn quy định Nhà nước cho phép), sau đó không đưa vào ngân hàng mà chiếm đoạt luôn tiền, tài sản của các cá nhân, tổ chức; cán bộ ngân hàng sử dụng các biện pháp nghiệp vụ nhằm sửa chữa, tẩy xóa nâng giá trị tiền lên nhiều lần trong các chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng phát hành, rồi đem thế chấp tại chính ngân hàng mình đang công tác. Cán bộ ngân hàng bị lôi kéo, mua chuộc, tiếp tay cho tội phạm. Những người ngoài ngành ngân hàng chỉ thực hiện được tội phạm khi lôi kéo, mua chuộc được cán bộ ngân hàng, chủ yếu là cán bộ trực tiếp làm công tác tín dụng, cán bộ thẩm định hồ sơ, tài sản thế chấp, hoặc lãnh đạo của các chi nhánh ngân hàng, bằng cách cho hưởng phần trăm hoặc “hoa hồng” trên tổng số tiền vay, thực chất những hành vi đó là đưa, nhận hối lộ để có được sự thông đồng tiếp tay của cán bộ ngân hàng dưới nhiều hình thức. 13
  19. Cán bộ ngân hàng thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Loại hành vi này xảy ra do lãnh đạo đơn vị ngân hàng hoặc người có trách nhiệm trong các ngân hàng cả tin, quan liêu, năng lực yếu kém thiếu kiểm tra cấp dưới dẫn đến bị lợi dụng và để xảy ra vi phạm, tội phạm. Hành vi lừa đảo với các thủ đoạn như tạo dựng hồ sơ dự án để thế chấp vay vốn ngân hàng: các đối tượng phạm tội đăng ký thành lập doanh nghiệp để lấy tư cách pháp nhân, sau đó xây dựng các bộ hồ sơ dự án giả mạo để thế chấp vay ngân hàng; giả mạo hợp đồng đồng mua bán hàng hóa để thế chấp vay vốn ngân hàng: đối tượng phạm tội thường làm giả con dấu của doanh nghiệp khác, tạo ra các hợp đồng mua bán hàng hóa; hoặc lập ra nhiều doanh nghiệp để ký kết các hợp đồng kinh tế giả mạo dùng thế chấp vay vốn ngân hàng; giả mạo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở; hoặc lừa đảo sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân; hoặc cùng một tài sản (nhà, đất) lập ra nhiều giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở, đất ở đem thế chấp tại nhiều ngân hàng để vay vốn. Mua chuộc cán bộ nhà nước, cán bộ ngân hàng tiếp tay cho hành vi lừa đảo. Thông qua các vụ án đã khảo sát cho thấy, trong lĩnh vực ngân hàng đã có rất nhiều quy định chặt chẽ nhất là quy định về vay vốn, mặc dù hành vi và thủ đoạn của bọn tội phạm lừa đảo ngân hàng rất tinh vi, nhưng nếu không có sự tiếp tay của cán bộ Nhà nước, đặc biệt là cán bộ trong ngành ngân hàng, thì khó xảy ra các hành vi lừa đảo chiếm đoạt được tài sản của ngân hàng. 1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng Tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường được thực hiện với lỗi cố ý, bao gồm cả lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Động cơ, mục đích của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường mang tính vụ lợi. Tuy nhiên, động cơ, mục đích tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, trừ trường hợp điều luật quy định cụ thể. 14
  20. 1.1.2.4. Chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng Đa số các tội, chủ thể là bất kể người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi quy định. Tuy nhiên, một số tội cũng được quy định chủ thể đặc biệt, người có chức vụ, quyền hạn và có thể là pháp nhân ngân hàng. Chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường là người có trình độ học vấn nhất định, song bên cạnh đó có nhiều chủ thể là đối tượng chủ mưu không có trình độ đại học hoặc tương đương, thậm chí chưa tốt nghiệp Phổ thông trung học. Nghiên cứu về đặc điểm nhân thân của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng có thể thấy, chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm những người có chức vụ, quyền hạn trong các ngân hàng; cán bộ ngân hàng; khách hàng vay tiền của ngân hàng [1]. 1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng 1.2.1. Lịch sử phát triển những quy định của pháp luật Việt Nam về các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng - Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8/1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất (BLHS năm 1985). Sau thành công của Cách mạng Tháng 8/1945, nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự quy định về việc trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa như: Sắc lệnh số 26- SL ngày 25/2/1946 về tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 223 – SL ngày 27/11/1946 về tội biển thủ công quỹ; Sắc lệnh số 267 – SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở chính sách, kế hoạch của Nhà nước... Giai đoạn này còn có Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân do Lệnh số 150 – LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước và 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2