intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các quyền của công đoàn trong Luật Công đoàn năm 1990 - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

19
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn làm sáng tỏ về mặt lý luận các quyền của tổ chức công đoàn. Trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện các quyền của tổ chức công đoàn. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các quyền của công đoàn trong Luật Công đoàn năm 1990 - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KHÚC THỊ PHƯƠNG NHUNG CÁC QUYỀN CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG LUẬT CÔNG ĐOÀN NĂM 1990 - THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KHÚC THỊ PHƯƠNG NHUNG CÁC QUYỀN CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG LUẬT CÔNG ĐOÀN NĂM 1990 - THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu Hµ néi - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VÀ 6 CÁC QUYỀN CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề chung về tổ chức công đoàn 6 1.1.1. Tính chất, vị trí của tổ chức công đoàn 6 1.1.2. Chức năng của tổ chức công đoàn 13 1.2. Khái quát chung về các quyền của công đoàn 18 1.2.1. Đặc điểm địa vị pháp lý của công đoàn 18 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm các quyền của Công đoàn 21 1.2.2.1. Khái niệm các quyền của Công đoàn 21 1.2.2.2. Đặc điểm các quyền của Công đoàn 21 1.2.3. Phân loại các quyền của Công đoàn 22 1.3. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật Công đoàn ở 24 Việt Nam Chương 2: CÁC QUYỀN CỦA CÔNG ĐOÀN VÀ THỰC TIỄN 30 THỰC HIỆN 2.1. Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn 30 2.2. Quyền tham gia của công đoàn với cơ quan nhà nước và đại 34 diện của người sử dụng lao động về các vấn đề quan hệ lao động 3
  4. 2.3. Quyền đại diện của công đoàn 44 2.4. Quyền tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy 50 định của pháp luật lao động 2.5. Quyền tham gia vào hoạt động quản lý, sử dụng lao động 54 2.6. Quyền tổ chức và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho 56 người lao động 2.7. Quyền khởi kiện và tham gia vào giải quyết tranh chấp lao động 58 2.8. Quyền tổ chức và lãnh đạo đình công 61 2.9. Một số nhận xét về các quyền của công đoàn và thực tiễn 63 thực hiện Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ 75 QUYỀN CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN 3.1. Một số yêu cầu cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả các 75 quyền của tổ chức công đoàn 3.1.1. Những yêu cầu khách quan 75 3.1.2. Những yêu cầu đối với tổ chức công đoàn 76 3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm phát huy các quyền của tổ 81 chức công đoàn 3.2.1. Về các quy định của pháp luật 81 3.2.2. Về tổ chức thực hiện 86 KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100 4
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong quan hệ lao động, sự hòa hợp giữa các chủ thể, giữa một bên là người sử dụng lao động và một bên là người lao động, giữa người thuê mướn và người bán sức lao động thường chỉ có tính bền vững và ổn định tương đối vì quyền và trách nhiệm của mỗi bên có tính đối ứng. Với trách nhiệm và tư cách là người quản lý xã hội, Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và bộ máy quyền lực tác động có ý thức vào quan hệ lao động, nhằm làm cho quan hệ lao động được hài hòa, ổn định, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ xã hội khác nhau mà quan hệ lao động này có biểu hiện cũng khác nhau. Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế bằng chỉ tiêu, kế hoạch đã định sẵn. Lúc đó, nền kinh tế chỉ tồn tại với hai thành phần chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Quan hệ lao động trong thời kỳ này thực chất là quan hệ hành chính. Người sử dụng lao động thay mặt cho Nhà nước ra những mệnh lệnh quản lý bắt buộc người lao động phải thực hiện, người lao động bị phụ thuộc hoàn toàn vào sự quản lý, lãnh đạo của người sử dụng lao động. Từ sau Đại hội VI của Đảng, nhất là từ năm 1990 trở lại đây, đường lối cải cách kinh tế, mở cửa, hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường lao động, giải phóng sức lao động. Cũng trong thời kỳ này, với chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta đã cho phép và khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển theo các quy luật của thị trường. Kinh tế thị trường cạnh tranh sôi động đã tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Số lượng các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh tăng lên nhanh chóng kéo theo nhu cầu sử dụng lao động cũng gia tăng. Do đó, quan hệ lao động cũng trở nên sôi động, 5
  6. đa dạng và phức tạp hơn. Trong mối quan hệ đó, người sử dụng lao động và người lao động đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình.Tuy nhiên, lợi ích của hai bên khi tham gia vào quan hệ lao động lại thường khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Người sử dụng lao động muốn có được những lao động có tay nghề, có trình độ nhưng chi phí lương, điều kiện và môi trường lao động lại thấp nhất đến mức có thể. Và, để đạt được mục đích này người sử dụng lao động thường phải tìm mọi cách, bất chấp mọi thủ đoạn để bóc lột hiệu quả nhất sức lao động của người lao động. Còn những người lao động lại mong muốn có được điều kiện và môi trường lao động thuận lợi, an toàn, được trả lương cao…Song, trong quan hệ lao động họ luôn ở vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động, bị phụ thuộc vào người sử dụng lao động. Chính vì vậy, cần phải có một tổ chức đứng ra đại diện cho họ, bảo vệ họ trong quan hệ lao động đó chính là tổ chức công đoàn. Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân lao động có vai trò vô cùng quan trọng. Sự có mặt của tổ chức công đoàn trong quan hệ lao động đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định và tính bền vững của quan hệ lao động cũng như sự phát triển của kinh tế - xã hội, góp phần hạn chế những tiêu cực đến thị trường lao động. Sự tham gia của tổ chức công đoàn trong quan hệ này đã được pháp luật ghi nhận và trao cho công đoàn những quyền năng nhất định để công đoàn có thể thực hiện được "sứ mệnh" của mình. Tuy nhiên, từ thực tiễn ở Việt Nam trong những năm qua, công đoàn chưa thể hiện tốt vai trò của mình, thậm chí ở nhiều nơi vai trò của tổ chức công đoàn còn rất mờ nhạt, công đoàn chưa thể hiện và chưa phát huy được hết những quyền năng của tổ chức mình trong quan hệ lao động. Vì vậy, để nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của công đoàn trong quan hệ lao động, cũng như nhằm nâng cao các quyền của tổ chức công đoàn phát huy có hiệu quả và "thực quyền" hơn nữa đang là một vấn đề được xã hội quan tâm. Với những lý do đó, tác giả chọn đề tài "Các quyền của công đoàn trong Luật Công đoàn năm 1990 - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện" làm 6
  7. luận văn thạc sỹ luật học của mình, với mong muốn góp phần vào quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn cũng như trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quan hệ lao động, công đoàn là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Sự tham gia của công đoàn vào quan hệ lao động là một đòi hỏi tất yếu. Tuy nhiên, trong quan hệ đó, công đoàn được pháp luật trao cho những quyền năng gì và thực tiễn thực hiện như thế nào thì vẫn đang là vấn đề được nhiều người quan tâm. Đã có không ít những công trình, đề tài nghiên cứu về tổ chức công đoàn song lại ở những khía cạnh khác nhau như Vũ Thị Thu (2001), Ví trí pháp lý của công đoàn trong giải quyết tranh chấp lao động, Khóa luận tốt nghiệp; Nguyễn Thị Thái Thuận (2005), Giải quyết tranh chấp lao động và vấn đề nâng cao vị trí của tổ chức công đoàn trong giải quyết tranh chấp lao động, Luận văn Thạc sỹ Luật học; Nguyễn Thị Phương Thúy (2009), Vai trò của Công đoàn trong giải quyết tranh chấp lao động và đình công, Luận văn thạc sĩ Luật học. Ngoài ra, đã có một số bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành như Nguyễn Hữu Chí (2001), Vai trò của công đoàn trong cơ chế ba bên và trong việc giải quyết tranh chấp lao động, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật; Dương Văn Sao (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt động của công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Tạp chí Lao động và Công đoàn; Nguyễn Thanh Tuấn (2006), Bảo vệ người lao động ở Liên bang Nga - Bộ luật Lao động và vai trò của công đoàn, Tạp chí Lao động và Công đoàn; Lê Thị Hoài Thu (2009), Cơ chế ba bên và vai trò của công đoàn, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; … Các công trình nghiên cứu trên mới chỉ mang tính chất gợi mở, đi sâu vào nghiên cứu một khía cạnh, lĩnh vực cụ thể chứ chưa đi vào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống vấn đề các quyền của tổ chức công đoàn - một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 7
  8. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn làm sáng tỏ về mặt lý luận các quyền của tổ chức công đoàn. Trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện các quyền của tổ chức công đoàn. Mục đích của đề tài được cụ thể hóa ở những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu vấn đề khái quát chung về quyền, vị trí, vai trò của tổ chức công đoàn. - Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn việc thực hiện các quyền của tổ chức công đoàn. - Đánh giá những ưu, nhược điểm về thực tiễn việc thực hiện các quyền của tổ chức công đoàn. - Đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện các quyền của tổ chức công đoàn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền của tổ chức công đoàn, quy định của pháp luật về quyền của tổ chức này cũng như thực tiễn thực hiện để bước đầu đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả việc thực hiện các quyền của tổ chức công đoàn trong quan hệ lao động, từ đó có thể bảo vệ được người lao động một cách triệt để nhất. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phép biện chứng của Triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, khảo sát, thu thập, điều tra xã hội học…được sử dụng phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. Các Nghị quyết của Đảng Cộng sản 8
  9. Việt Nam, các quy định của Hiến pháp, Bộ luật lao động, Luật Công đoàn….có liên quan đến quyền của tổ chức công đoàn được sử dụng với tư cách là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho quá trình nghiên cứu. 6. Kết quả của luận văn Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả các quyền của tổ chức công đoàn trong quan hệ lao động, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn thực hiện từ đó đưa ra các kiến nghị đồng bộ cả về mặt lập pháp và tổ chức thực hiện nhằm góp phần phát triển quan hệ lao động nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Kết quả của luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm đến vấn đề này nhất là trong giai đoạn hiện nay những vấn đề đang được đặt ra trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về tổ chức công đoàn và các quyền của Công đoàn Việt Nam Chương 2: Các quyền của công đoàn và thực tiễn thực hiện Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyền của tổ chức công đoàn. 9
  10. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VÀ CÁC QUYỀN CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề chung về tổ chức công đoàn 1.1.1. Tính chất, vị trí của tổ chức công đoàn Điều 10 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã ghi nhận: Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [27]. Giai cấp công nhân vừa là nguồn gốc vừa là cơ sở xã hội hình thành, tồn tại phát triển tổ chức công đoàn. Bởi công đoàn ra đời với mục tiêu cao cả là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân. Hình thức tổ chức của công đoàn là liên hiệp công nhân lao động theo nghề nghiệp và dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Công đoàn Việt Nam được Đảng thành lập, giáo dục và rèn luyện luôn luôn thể hiện bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Khác với Công đoàn các nước, Công đoàn Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay luôn luôn trung thành với lợi ích của dân tộc, của giai cấp. Công đoàn Việt Nam thể hiện hai tính chất cơ bản đó là: tính chất quần chúng rộng lớn và tính chất giai cấp. Thông qua hai tính chất này, Công đoàn Việt Nam luôn vận động, phát triển qua các thời kì cách mạng, luôn thống nhất trong lý luận và hành động, trong mục tiêu hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, tính chất của Công đoàn Việt Nam 10
  11. vẫn kế thừa tính chất cách mạng của Công đoàn cách mạng thế giới, được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo và biện chứng phù hợp với thực tiễn lịch sử dân tộc và giai cấp. Cụ thể như sau: Tính chất quần chúng rộng lớn của công đoàn Việt Nam được thể hiện ở chỗ ngay từ khi mới ra đời Công đoàn Việt Nam gắn liền với công nhân, lao động bị áp bức bóc lột. Thông qua phong trào đấu tranh của công nhân lao động, Công đoàn Việt Nam tồn tại phát triển thành một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn. Ngày nay, tính chất quần chúng của Công đoàn Việt Nam thể hiện qua việc Kết nạp công nhân viên chức lao động vào tổ chức không phân biệt nghề nghiệp, tín ngưỡng, thành phần…; Cán bộ công đoàn trưởng thành từ phong trào quần chúng công nhân viên chức lao động và được họ tín nhiệm bầu ra; Nội dung hoạt động của Công đoàn đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của đông đảo công nhân viên chức lao động. Bên cạnh đó, tính chất giai cấp của công đoàn Việt Nam cũng được biểu hiện ở chỗ giai cấp công nhân, lao động nước ta là cơ sở xã hội để hình thành và phát triển của tổ chức công đoàn. Tổ chức Công đoàn làm nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của những người lao động, chống lại mọi sự bóc lột của đế quốc, thực dân, phong kiến. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước công - nông được thành lập thì tổ chức Công đoàn là đại diện cho quyền lợi của công nhân, lao động trong điều kiện lịch sử mới. Thấy rõ tính chất giai cấp của Công đoàn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định đúng vị trí, vai trò của Công đoàn trong xã hội. Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, của người lao động tự nguyện thành lập nên, khác với Nhà nước của giai cấp công nhân Việt Nam là tổ chức chính trị, là công cụ của giai cấp công nhân. Ngày nay tính chất giai cấp của Công đoàn Việt Nam được biểu hiện ở những nội dung cơ bản như Công đoàn Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân, phấn đấu theo mục tiêu chiến lược cách mạng mà Đảng đã đề ra. Đảng giáo dục, rèn luyện và tạo mọi điều kiện để Công đoàn phát triển. Đồng thời Công 11
  12. đoàn Việt Nam là sợi dây nối liền giữa Đảng với quần chúng; mọi hoạt động của Công đoàn Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của Đảng đề ra và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Ở Việt Nam đó là việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, đánh đổ thực dân phong kiến, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa; xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam phải đảm bảo tính thống nhất về lý luận và hành động của giai cấp công nhân trong mọi thời kì của cách mạng nước ta; xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ Công đoàn theo đường lối, chính sách và tiêu chuẩn cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam; tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam là quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ- nguyên tắc tổ chức quan trọng nhất của giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, hoạt động của Công đoàn Việt Nam vì lợi ích dân tộc, bởi lẽ trong hoàn cảnh lịch sử nước ta thì lợi ích giai cấp của giai cấp công nhân Việt Nam cũng phù hợp với lợi ích dân tộc, nên mục tiêu phấn đấu của Công đoàn Việt Nam còn mang ý nghĩa to lớn là vì lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc Việt Nam. Hai tính chất của công đoàn có quan hệ gắn bó mật thiết phản ánh bản chất của Công đoàn Việt Nam. Chúng có ý nghĩa quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Công đoàn Việt Nam. Hai tính chất đó luôn luôn được quán triệt trong tôn chỉ và mục đích chỉ đạo, trong xây dựng tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam. Do vậy, cần quán triệt sâu sắc hai tính chất này trong tư tưởng chỉ đạo, xây dựng tổ chức và hoạt động, không coi trọng tính chất này mà xem nhẹ tính chất kia. Bởi lẽ, nếu chỉ coi trọng tính chất giai cấp của giai cấp công nhân mà xem nhẹ tính chất quần chúng thì về mặt tổ chức dần dần sẽ bị bó hẹp lại và ngược lại nếu chỉ coi trọng tính chất quần chúng mà xem nhẹ tính chất giai cấp thì sẽ dẫn đến xa rời mục tiêu chính trị, dần dần sẽ biến thành phường hội, sai lệch với mục tiêu chính trị, sai lệch với phương hướng hành động cách mạng và không đúng với bản chất của công đoàn cách mạng. 12
  13. Từ những tính chất đó cũng phần nào nói lên vị trí của Công đoàn Việt Nam. Trước hết phải khẳng định rằng vị trí của Công đoàn chính là địa vị của Công đoàn trong hệ thống chính trị - xã hội, là mối quan hệ của Công đoàn với các tổ chức đó. Có thể nói Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ tri thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Công đoàn là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao động. Vị trí của Công đoàn Việt Nam được Hiến pháp, Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và toàn thể công nhân, viên chức, lao động thừa nhận.Công đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam. Ngày nay, khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang tác động mạnh mẽ đến vị trí của tổ chức công đoàn trong đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Cơ chế thị trường với sức mạnh của nó đang lay chuyển chỗ đứng của tổ chức công đoàn. Do nhiều nguyên nhân công đoàn còn lúng túng trong bước chuyển biến của nền kinh tế, còn vướng mắc về mô hình tổ chức và phương pháp hoạt động trong tình hình mới. Vì vậy, có nhiều người cảm thấy vị trí của công đoàn như đang bị lướt đi trước sự gia tăng của quá trình hội nhập và sự phát triển của các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Nếu nhìn lại lịch sử, công đoàn đã ra đời từ những thập niên cuối thế kỷ XVIII, khi mà nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cơ chế tự do cạnh tranh đang bộc lộ rất nhiều khuyết điểm. Công đoàn ra đời vì yêu cầu lợi ích của công nhân, lao động và để thống nhất lực lượng giai cấp công nhân, đấu tranh cho sự phát triển xã hội. Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, có rất nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức từ 13
  14. thiện hoạt động nhưng chỉ có tổ chức công đoàn mới trực tiếp tham gia giải quyết quan hệ lao động. Ở Việt Nam, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngày càng nhiều. Đó là mảnh đất để tổ chức công đoàn hoạt động, đòi hỏi công đoàn phải đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động cho phù hợp, phải tập hợp được nhiều đoàn viên, bám sát cơ sở để giữ vững vị trí, phát huy vai trò tích cực của mình. Một lý do rất quan trọng để khẳng định vị trí của công đoàn là yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Muốn bảo đảm quá trình hội nhập ở Việt Nam đi đúng hướng phải nâng cao vai trò của hệ thống chính trị Việt Nam, trong đó Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, là cầu nối giữa quần chúng với Đảng, có mối liên hệ mật thiết với Nhà nước. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Công đoàn không những tạo nguồn lực thúc đẩy quá trình hội nhập có hiệu quả cao mà còn khẳng định vị trí của tổ chức công đoàn trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Và, việc giải quyết mối quan hệ này cần được thực hiện theo hướng: Với Đảng, Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chỗ dựa vững chắc và là sợi dây chuyền nối liền quần chúng với Đảng. Mối quan hệ giữa Công đoàn và Đảng Cộng Sản trong chặng đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thể hiện: Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn, mặt khác thể hiện trách nhiệm của Công đoàn trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và tham gia xây dựng Đảng. Công đoàn hoạt động không thể thiếu sự lãnh đạo của Đảng vì Đảng là bộ phận tiên phong nhất, tích cực nhất của giai cấp công nhân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn được hình thành trong lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn Việt Nam đã tham gia tích cực trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân 14
  15. dân, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảng lãnh đạo Công đoàn bằng đường lối, chủ trương Nghị quyết của cấp ủy Đảng. Công đoàn Việt Nam với chức năng của mình triển khai đường lối, chủ trương Nghị quyết của Đảng thành chương trình công tác của tổ chức mình. Đảng lãnh đạo Công đoàn thông qua phát huy vai trò của từng đảng viên trong tổ chức Công đoàn các cấp. Đảng tôn trọng tính độc lập về mặt tổ chức của tổ chức Công đoàn. Tính độc lập về mặt tổ chức của Công đoàn có nghĩa là: Công đoàn xây dựng tổ chức và hoạt động phù hợp với điều lệ của tổ chức Công đoàn Việt Nam trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Công đoàn các cấp. Cần tránh nhận thức sai lầm về sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn là sự can thiệp trực tiếp của Đảng vào công việc của Công đoàn. Đảng không gán ghép cán bộ của Đảng làm công tác Công đoàn, mà Đảng chỉ giới thiệu những đảng viên tốt để Đại hội Công đoàn lựa chọn và bầu vào các cương vị lãnh đạo Công đoàn. Đồng thời, không được đồng nhất tính độc lập về mặt tổ chức của Công đoàn với sự "biệt lập", "trung lập", "đối lập", "tách biệt" của Công đoàn với Đảng dẫn đến sự xa rời lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn. Nếu nhầm lẫn sẽ dẫn đến sự lệch lạc mục tiêu hoạt động và không còn đúng bản chất của Công đoàn Cách mạng. Ngoài ra, Đảng cũng tiến hành kiểm tra Công đoàn thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Trong quá trình hội nhập, Đảng thông qua tổ chức công đoàn để liên hệ mật thiết với giai cấp công nhân, giúp đỡ công đoàn trong việc đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của quần chúng công nhân lao động. Đảng thông qua công đoàn để đưa chủ trương, mục tiêu hội nhập kinh tế của Đảng vào công nhân, viên chức, lao động, động viên họ tích cực tham gia vào quá trình này. Công đoàn thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò trường học của mình, tham gia quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thuyết phục quần chúng phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công cuộc xây 15
  16. dựng xã hội mới, thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng. Trong quá trình hội nhập, nguồn nội lực có thể được phát huy và đạt hiệu quả cao khi đông đảo quần chúng nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước. Công đoàn đại diện cho người lao động, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, động viên người lao động tích cực tham gia xây dựng cuộc sống mới, vươn lên thành người chủ đất nước. Như vậy, sự tồn tại của công đoàn chỉ có ý nghĩa khi bản thân tổ chức này thực sự phát huy vai trò, thực hiện tốt mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của mình, góp phần thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng. Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân, là chiếc cầu và sợi dây liên hệ nối liền Đảng với quần chúng. Phong trào công đoàn chỉ tiếp nhận sự lãnh đạo của Đảng mới trở thành phong trào tự giác đi theo con đường phát triển lành mạnh. Với Nhà nước, Công đoàn là người cộng tác đắc lực, bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, ngược lại Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất cho Công đoàn hoạt động. Quan hệ giữa công đoàn với Nhà nước là quan hệ hợp tác. Giữa Công đoàn và Nhà nước không có sự đối lập. Công đoàn vận động công nhân, viên chức, lao động thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, ủng hộ Nhà nước triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Không có sự ủng hộ của Công đoàn thì chính quyền nhà nước sẽ bị lung lay. Nhà nước tôn trọng và giải quyết những kiến nghị của Công đoàn một cách hữu hiệu. Công đoàn phát huy vai trò tham gia, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước. Dưới chủ nghĩa xã hội mối quan hệ giữa Công đoàn Việt Nam với Nhà nước là mối quan hệ bình đẳng, hợp tác, tôn trọng, phối hợp chặt chẽ với nhau trong các mặt hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu chung là: " Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Công đoàn Việt Nam luôn cộng tác đắc lực với Nhà nước, góp phần xây dựng chính quyền Nhà nước không ngừng lớn mạnh. Công đoàn là người cung cấp, bồi dưỡng, rèn luyện những cán bộ ưu tú cho Đảng và Nhà nước. Vì thế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Công đoàn với 16
  17. Nhà nước sẽ tạo cơ sở xã hội - chính trị thuận lợi cho cả hai tổ chức này hoàn thành tốt hơn vai trò của mình trong hệ thống chính trị ở Việt Nam. Với tổ chức chính trị, xã hội khác. Công đoàn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hạt nhân trong khối liên minh Công, Nông, trí thức, bình đẳng, tôn trọng, tạo điều kiện cho nhau hoạt động. Công đoàn tham gia vào Mặt trận Tổ quốc với tư cách là một tổ chức độc lập, có đối tượng vận động cụ thể là công nhân, viên chức, lao động, có chức năng, nhiệm vụ, phương pháp hoạt động riêng của mình. Công đoàn góp phần to lớn vào mục tiêu hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo, tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng kiên cường của quần chúng lao động, tăng thêm sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Có thể nói, mối quan hệ giữa Công đoàn với Mặt trận Tổ quốc là quan hệ hiệp thương, dân chủ, thống nhất hành động. Ngoài ra, với các tổ chức chính trị- xã hội khác như Đoàn thành niên, Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Công đoàn có quan hệ bình đẳng, phối hợp nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng. Hệ thống chính trị Việt Nam là một thể thống nhất, các thành viên của nó có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Vì vậy, xây dựng tổ chức Công đoàn gắn liền với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị của Nhà nước. 1.1.2. Chức năng của tổ chức công đoàn Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng Công đoàn cũng phát triển, ở mỗi một điều kiện lịch sử - xã hội khác nhau, Công đoàn thực hiện chức năng khác nhau và nó luôn luôn được bổ sung những nội dung mới, ý nghĩa mới cho phù hợp. Đồng thời, sự phát triển chức năng không có nghĩa là phủ định, rũ bỏ những chức năng đã có của Công đoàn. Vì vậy, cần hiểu đúng để tránh sự trì trệ, bảo thủ, đồng thời tránh sa vào tư tưởng nóng vội, phủ định một cách vô căn cứ những chức năng của Công đoàn. Các chức năng của Công đoàn gắn chặt với các mặt hoạt động của đời sống xã hội, sản xuất kinh doanh, quản lý kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa - 17
  18. xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Chức năng của Công đoàn trong chủ nghĩa xã hội khác hẳn về chất so với chức năng của Công đoàn trong chủ nghĩa tư bản. Có sự khác nhau này là do sự thay đổi vị trí, vai trò của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong xã hội quyết định. Xác định đúng chức năng của Công đoàn Việt Nam có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và tư tưởng sâu sắc. Về mặt lý luận nó sẽ phản ánh được đầy đủ và toàn diện bản chất của Công đoàn. Về mặt thực tiễn, nó tránh được sự trùng lắp, chồng chéo giữa Công đoàn với Nhà nước và các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội khác. Đồng thời, xác định đúng chức năng của Công đoàn còn có ý nghĩa tư tưởng là giải đáp những vướng mắc, phân vân của quần chúng, củng cố lòng tin, đáp ứng nguyện vọng của công nhân, viên chức và lao động, đồng thời đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc, bôi đen chức năng của Công đoàn cách mạng. Xuất phát từ tính chất của Công đoàn Việt Nam là tính chất giai cấp và tính chất quần chúng nên Công đoàn Việt Nam hiện nay có ba chức năng sau: Một là, Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động; có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Công đoàn Việt Nam phải thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động bởi lẽ trình độ và kinh nghiệm quản lý của chính quyền các cấp còn non kém, bộ máy Nhà nước còn quan liêu, hành chính. Tình trạng tham ô, lãng phí, móc ngoặc, hối lộ, tham nhũng, vi phạm đến lợi ích, đời sống của người lao động vẫn còn tồn tại. Vì vậy, Công đoàn phải là người bảo vệ lợi ích của người lao động chống lại tệ nạn quan liêu, chống lại các biểu hiện tiêu cực. Đó là sự bảo vệ đặc biệt khác hẳn sự bảo vệ trong chủ nghĩa tư bản. Công đoàn Việt Nam thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động không bằng cách đấu tranh chống lại Nhà nước, làm 18
  19. suy yếu Nhà nước, không mang tính đối kháng giai cấp. Ngược lại Công đoàn còn tiến hành vận động, tổ chức cho công nhân viên chức lao động tham gia xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đồng thời Công đoàn cũng bảo vệ chính lợi ích của Nhà nước. Đấu tranh chống lại thói hư, tật xấu của một số người, nhóm người bị tha hóa, đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, bảo vệ chính quyền Nhà nước. Thực tế hiện nay của nước ta, trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, các xí nghiệp, doanh nghiệp tư nhân, liên doanh; xí nghiêp có vốn đầu tư nước ngoài, người lao động làm việc trong sự quản lý của chủ doanh nghiệp đã làm xuất hiện quan hệ chủ - thợ và tình trạng vi phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động có xu hướng phát triển. Do vậy, chức năng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người lao động của Công đoàn có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. Để thực hiện chức năng này, Công đoàn chủ động tham gia cùng chính quyền tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc cho người lao động; Công đoàn tham gia trong lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, trong việc kí kết hợp đồng lao động của người lao động; đại diện cho người lao động ký kết thỏa ước lao động tập thể; trong vấn đề thương lượng, giải quyết tranh chấp lao động; tổ chức đình công theo quy định của Bộ luật lao động. Quản lý và sử dụng quỹ phúc lợi tập thể và sự nghiệp phúc lợi tập thể; bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động; tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của người lao động; phát huy dân chủ, bình đẳng, công bằng xã hội; phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, du lịch, tham quan nghỉ mát cho các công đoàn viên trong Công đoàn. Song, trong quá trình thực hiện các nội dung hoạt động nhằm thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người lao động cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc rằng lợi ích của người lao động gắn liền với lợi ích của Nhà nước, của tập thể, sự tồn tại của Nhà nước chính là sự đảm bảo lợi ích cho người 19
  20. lao động. Lợi ích của người lao động không chỉ đơn giản là miếng cơm, manh áo mà cao hơn thế là lợi ích chính trị; lợi ích kinh tế; lợi ích văn hóa, tinh thần; lợi ích trước mắt, lâu dài; lợi ích cá nhân, tập thể, Nhà nước. Nhà nước là người bảo đảm, Công đoàn là người bảo vệ lợi ích của người lao động. Đây là vấn đề quan trọng nói lên mối quan hệ khăng khít, biện chứng giữa quyền và nghĩa vụ. Đồng thời nó là cơ sở nhận thức về lợi ích của người lao động trong điều kiện mới, thể hiện đúng bản chất của Công đoàn Cách mạng Việt Nam. Hai là, Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức; quản lý kinh tế xã hội, quản lý Nhà nước trong phạm vi chức năng của mình; thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật. Trong điều kiện giai cấp công nhân giành được chính quyền người lao động trở thành người chủ, họ có quyền và có trách nhiệm tham gia quản lý kinh tế, xã hội. Vì vậy, vấn đề tham gia quản lý đã trở thành chức năng của Công đoàn. Tuy nhiên cần nhận thức rằng, Công đoàn tham gia quản lý chứ không làm thay, không cản trở, không can thiệp thô bạo vào công việc quản lý của Nhà nước. Công đoàn tham gia quản lý thực chất là để thực hiện quyền của Công đoàn, quyền của công nhân, viên chức, lao động và để bảo vệ đầy đủ các quyền, lợi ích chính đáng của người lao động. Chức năng tham gia quản lý của Công đoàn Việt Nam được biểu hiện ở những nội dung cụ thể như sau: Công đoàn tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong công nhân, viên chức và lao động - một biện pháp tổng hợp để họ trực tiếp tham gia quản lý; tham gia xây dựng chiến lược tạo việc làm và điều kiện làm việc cho người lao động; tham gia xây dựng, hoàn thiện các chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến người lao động như tiền lương, tiền thưởng, nhà ở…; tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của công nhân, viên chức và lao động; tham gia xây dựng hoàn thiện các chính sách xã hội như Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách kế hoạch hóa gia đình, các phong 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2