Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
lượt xem 7
download
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận, đánh giá việc áp dụng các biện pháp tăng nặng trách nhiệm hình sự trong các vụ án mà đối tượng phạm tội là người chưa thành niên, luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hình sự về việc áp dụng các biện pháp tăng nặng nói chung và việc áp dụng cụ thể các quy định này đối với người phạm tôi chưa thành niên nói riêng nhằm đạt và hiệu quả cao nhất trong việc áp dụng thực tiễn, đồng thời đưa ra một số ý kiến đánh giá và đóng góp xây dựng và đưa ra một số giải pháp mới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN MẠNH TOÀN CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2011
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 4 Chương 1 - CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ YÊU CẦU ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ............................................................. 11 1.1. Khái niệm về tội phạm của người chưa thành niên ............................. 11 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên ................................................ 11 1.1.2. Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra .................. 13 1.1.3. Những đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của người chưa thành niên phạm tội................................................................................................. 16 1.2. Tình hình và đặc điểm chung của tội phạm do người chưa thành niên gây ra ở nước ta hiện nay .......................................................................... 18 1.3. Chính sách hình sự của nhà nước về việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội .................................................... 20 1.4. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) ................................. 26 1.4.1. Khái niệm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ....................... 26 1.4.2. Hệ thống các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ................... 29 Chương 2 - THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ........................................................ 42 2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ............ 42 2.2. Thực tiễn việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong quá trình tố tụng ...................... 49 2.2.1. Thực trạng các vụ án áp dụng các tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự tại một số địa phương ở Việt Nam ............................................. 49 1
- 2.2.2. Nghiên cứu thực tiễn việc áp dụng các tình tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một số vụ án cụ thể ................................................ 52 2.3. So sánh việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam và một số quốc gia khác trên thế giới ........................................................................................................... 61 2.4. Đánh giá chung về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở nước ta hiện nay .......... 69 Chương 3 - HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI ......................................................... 72 3.1. Nhu cầu khách quan của việc hoàn thiện chế định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong điều kiện hiện nay ở nước ta ..................................................................... 72 3.2. Các giải pháp bảo đảm hiệu quả áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ............................. 77 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về việc áp dụng các biện pháp tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ............................................................................... 77 3.2.2. Những đảm bảo về thủ tục tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ....................................................................... 87 KẾT LUẬN .................................................................................................. 97 Danh mục tài liệu tham khảo ...................................................................... 100 2
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Bảng thống kê các tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội năm 2010 tại một số Toà án địa phương trên cơ sở báo cáo tổng kết của các địa phương ..................................................................................................................... 49 Bảng 2.2. Bảng thống kê tỷ lệ các vụ án có áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên cơ sở nghiên cứu sắc xuất 100 vụ án, tại một số địa phương ......................................................................................................... 50 Bảng 2.3. Bảng thống kê tỷ lệ các vụ án do người chưa thành niên phạm tội có áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên cơ sở nghiên cứu sắc xuất 100 vụ án do người chưa thành niên thực hiện tại một số địa phương ..................................................................................................................... 50 3
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong đời sống xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh về kinh tế và sự giao thoa văn hoá mạnh mẽ với các quốc gia trên thế giới là sự gia tăng của hiện tượng tội phạm trên tất cả các lĩnh vực. Trong số đó, các đối tượng phạm tội là trẻ em chưa đủ tuổi thành niên chiếm một số lượng không nhỏ. Trên thực tế cho thấy, đối tượng phạm tội là người chưa đủ tuổi thành niên tăng nhanh trong thời gian qua với hành vi và thủ đoạn phạm tội rất đa dạng đã xâm hại không nhỏ đến đời sống xã hội tại nước ta. Đó là một vấn đề quan trọng đang được đặt ra với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cả xã hội. Vậy để đảm bảo tính nghiêm minh trong việc đấu tranh chống tội phạm, nhà nước đã xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, tuy nhiên đối với những đối tượng phạm tội là những trẻ em chưa đủ tuổi thành niên với đặc điểm cơ bản là các đối tượng này chưa thể nhận biết một cách đầy đủ những hành vi của mình và đặc biệt là chịu tác động, ảnh hưởng mạnh bởi các đối tượng xung quanh, cũng như đang trong quá trình hoàn thành nhân cách thì vấn đề xử lý các đối tượng này càng phải được đặt ra. Việc xử lý trẻ em chưa thành niên phạm tội không chỉ đơn thuần chỉ mang tính chất trừng phạt mà còn phải mang tính chất giáo dục và răn đe để tạo điều kiện cho các em có thể hội nhập vào đời sống xã hội sau này. Chính vì vậy, xử lý các đối tượng chưa thành niên phạm tội đòi hỏi làm sao phải vừa thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật nhưng cũng phải kết hợp với tính nhân đạo và giáo dục. Nhận thấy rõ được tầm quan trọng của việc xét xử các đối tượng phạm tội là người chưa thành niên Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra quan điểm: "Vấn 4
- đề không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó, điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hoạt động phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái ấy xảy ra". Nhà nước đã đưa ra nhiều các nguyên tắc, biện pháp áp dụng đối với người chưa thành niên chưa phạm tội ở Việt Nam mang tính chất nhân đạo và giảm nhẹ cho các đối tượng này. Trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Nhà nước đã quy định cụ thể về việc áp dụng các loại hình phạt cũng như thủ tục áp dụng đối với đối tượng phạm tội là người chưa thành niên, trong đó các quy định đề cho thấy tính nhân đạo, giảm nhẹ của nhà nước. Trên thực tế xét xử các vụ án có đối tượng phạm tội chưa đủ tuổi thành niên, các cơ quan tiến hành tố tụng đã dựa trên cơ sở quy định của pháp luật để xét xử vừa đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật nhưng cũng vừa đảm bảo được quyền lợi cho những đối tượng này. Tuy nhiên, trong điều kiện mà đối tượng phạm tội là người chưa đủ tuổi thành niên ngày càng gia tăng và hành vi, động cơ, mục đích phạm tội ngày càng đa dạng thì vấn đề này càng được đặt ra. Có những vụ án thực tế được đối tượng phạm tội là người chưa thành niên thực hiện với tính chất nguy hiểm cho xã hội cao và có rất nhiều tình tiết có thể áp dụng để tăng nặng trách nhiệm hình sự, như vậy trong trường hợp này một vấn đề cần đặt ra là áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa đủ tuổi thành niên phạm tội như thế nào? Có áp dụng các biện pháp tăng nặng đó như áp dụng với người phạm phạm đã thành niên hay cần áp dụng khác biệt, bởi các đối tượng này dẫu sao khả năng nhận thức vẫn chưa thực sự đầy đủ, và phần nào chịu ảnh hưởng nhiều vào đời sống văn hoá mới đang du nhập vào xã hội hiện nay. Từ những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn trên tôi muốn lựa chọn nghiên cứu đề tài “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội” nhằm xem xét, đánh giá về thực 5
- trạng áp dụng vấn đề này tại Việt Nam hiện nay trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ án cụ thể tại một số địa phương, qua đó có thể đưa ra một số bàn luận và các giải pháp đóng góp của riêng tôi cho việc thực hiện việc áp dụng các biện pháp tăng nặng này đối với người chưa thành niên phạm tội trong thực tiễn hoạt động xét xử cũng như sự phát triển hoàn thiện, hệ thống hoá hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay trong quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và một số các văn bản pháp luật khác đã quy định, giải thích tương đối rõ ràng về việc áp dụng hình phạt đối với đối tượng phạm tội là người chưa thành niên; xác định và giải thích rõ ràng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và vấn đề áp dụng các tình tiết này trong thực tế xét xử. Tuy nhiên chưa có văn bản pháp luật nào quy định, hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng các tình tiết này đối với đối tượng phạm tội là người chưa thành niên. Các nhà nghiên cứu tư pháp cũng đã đề cập rất nhiều đến các vấn đề này trên sách báo, tạp chí (Tạp chí dân chủ và pháp luật, tạp chí luật học, tạp chí Toà án nhân dân), tuy nhiên các bài viết trên vẫn chỉ đi vào những vấn đề chung mà chưa đi sâu vào việc nghiên cứu vấn đề áp dụng những biện pháp đó đối với một đối tượng cá biệt là đối tượng phạm tội chưa đủ tuổi thành niên. Trong các tài liệu giảng dạy, và sách chuyên khảo các nhà nghiên cứu cũng mới chỉ đề cập vấn đề này ở góc độ chung nhất. Bên cạnh đó một số đề tài nghiên cứu khoa học trước đó ở bậc thạc sỹ liên quan đến vấn đề về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và vấn đề người chưa thành niên chưa thành niên cũng chưa đi sâu vào 6
- phân tích vấn đề này, mà chỉ nghiên cứu những vấn đề trên ở những góc độ khác như “Thủ tục về những vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong luật Tố tụng Hình sự Việt Nam - Luận văn thạc sỹ luật học” của Nguyễn Thị Phượng; “Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam”; “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam”; v.v.. Với tình hình nghiên cứu trên có thể khẳng định đề tài “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội” là đề tài nghiên cứu riêng, không bị trùng lặp với những đề tài đã được nghiên cứu trước đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận, đánh giá việc áp dụng các biện pháp tăng nặng trách nhiệm hình sự trong các vụ án mà đối tượng phạm tội là người chưa thành niên, luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hình sự về việc áp dụng các biện pháp tăng nặng nói chung và việc áp dụng cụ thể các quy định này đối với người phạm tôi chưa thành niên nói riêng nhằm đạt và hiệu quả cao nhất trong việc áp dụng thực tiễn, đồng thời đưa ra một số ý kiến đánh giá và đóng góp xây dựng và đưa ra một số giải pháp mới. 3.2. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Luận văn đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong đó tập trung nghiên cứu các vấn đề: khái quát về người chưa thành niên, tâm lý của lứa tuổi chưa thành niên cũng như sự tác động của đời sống xã hội với tâm lý và hành vi phạm tội của lứa tuổi chưa thành 7
- niên; những quy định của pháp luật nói chung về người chưa thành niên; những quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và việc áp dụng trong những trường hợp cụ thể đối với người chưa thành niên phạm tội. Thông qua đó, luận văn có thể đưa ra những giải pháp, đóng góp khoa học để áp dụng cho phù hợp với thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên hiện nay nhằm mục đích vừa mang tính chất răn đe, trừng phạt đích đáng nhưng cũng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, thông qua đó có thể giáo dục, cải tạo họ thành người có ích cho xã hội. 4. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu: các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, và các nguyên tắc, cũng như các quy định trong việc áp dụng các loại hình phạt theo quy định của pháp luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với người chưa thành niên phạm tội. Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong giai đoạn xét xử người chưa thành niên phạm tội thông qua các phiên toà và các bản án của Toà án ở một số các địa phương trong những năm gần đây. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch sử, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu tình hình thực tiễn hoạt động áp dụng trong quá trình xét xử. Qua đó chúng tôi nghiên cứu rút ra những thành tựu cũng như những tồn tại, hạn chế của thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên nhằm tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. 8
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên. 6. Những điểm mới của luận văn Đề tài chúng tôi chọn là đề tài đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội chưa đủ tuổi thành niên ở Việt Nam. Luận văn sẽ đưa ra được những điểm mới sau đây: - Phân tích được đặc điểm của việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn việc áp dụng các tình tiết này trên thực tế xét xử. - Xây dựng được cơ sở của việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội chưa thành niên. - Luận văn cũng nêu ra được những hạn chế bất cập của việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội từ đó đưa ra được những kiến nghị, giải pháp về việc phát triển, đổi mới những quy định của pháp luật đang có về vấn đề này. 7. Cơ sở khoa học của đề tài 7.1. Cơ sở lý luận Phương pháp luận và phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 7.2. Cơ sở thực tiễn Tình hình thực tiễn việc áp dụng trong giai đoạn xét xử tại toà và qua các bản án hình sự trên địa bàn một số các địa phương. 9
- 8. Kết cấu của luận văn Luận văn sẽ được thực hiện với một khối lượng phù hợp với yêu cầu trên cơ sở mục đích, phạm vi, nhiệm vụ và mức độ nghiên cứu của vấn đề. Trên cơ sở yêu cầu trên, luận văn được chia làm 3 phần gồm lời nói đầu, phần nội dung và phần kết luận. - Phần mở đầu là lập luận về sự cần thiết của việc lựa chọn đề tài nghiên cứu và các luận điểm mang tính chất đặt vấn đề. - Phần nội dung đi sâu vào phân tích những vấn đề nghiên cứu chính của đề tài đồng thời đưa ra bình luận và giải pháp. - Phần kết luận tổng kết những vấn đề lý luận, thực trạng và thực tiễn vấn đề mà đề tài nêu ra. * Cụ thể luật văn sẽ có kết cấu như sau: Chương 1: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và yêu cầu áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Chương 2: Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở nước ta hiện nay Chương 3: Hoàn thiện chế định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội 10
- Chương 1 - CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ YÊU CẦU ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm về tội phạm của người chưa thành niên 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên Hiện nay, pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận độ tuổi thành niên, độ tuổi được pháp luật thừa nhận có khả năng tham gia vào hầu hết các quan hệ pháp luật. Đối tượng công dân chưa đủ độ tuổi này được coi là đối tượng chưa thành niên, cũng là chủ thể chưa đầy đủ của các quan hệ pháp luật. Có thể hiểu, những người ở độ tuổi chưa thành niên là những người chưa phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có được đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Pháp luật mỗi quốc gia đều quy định cụ thể độ tuổi chưa thành niên. Điều 1 Công ước Quốc tế về trẻ em chưa thành niên được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi chưa thành niên sớm hơn”. Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em thì quy tắc tối thiểu phổ biến về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1992 cũng là một văn bản pháp luật quốc tế quan trọng đề cập đến khái niệm người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Ở Việt Nam, độ tuổi chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 1992 và một số các văn bản pháp luật cơ bản khác của nhà 11
- nước như Bộ luận Hình sự năm 1999, Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao Động v.v.. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên” [29]. Bộ luật Lao động cũng quy định “Người lao động thành niên là người đủ 18 tuổi”. Qua đó ta có thể thấy quan điểm của pháp luật Việt Nam về người chưa thành niên phù hợp với quan điểm quốc tế, phù hợp với Công ước Quốc tế về trẻ em mà nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Cần phân biệt khái niệm người chưa thành niên với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 luật Bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 quy định “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy có thể thấy đối tượng người chưa thành niên rộng hơn so với đối tượng trẻ em. Nói tóm lại khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt vật chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có được đầy đủ các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý như những người đã thành niên. [11] Tham khảo thêm một số các văn bản pháp luật quốc tế có liên quan đến người chưa thành niên gồm: Công ước về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua 20/11/1989, Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc áp dụng pháp luật với người chưa thành niên ngày 29/11/1985, Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành 12
- niên ngày 14/12/1990 thì người chưa thành niên được quan điểm là người từ dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên là đối tượng chủ thể chưa đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, do chưa đủ độ tuổi và chưa hoàn thiện đầy đủ về thể chất cũng như khả năng nhận thức. Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người có ích cho xã hội. 1.1.2. Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra Tội phạm là một hiện tượng xã hội pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước và pháp luật nói chung cũng như của luật hình sự nói riêng đã từ lâu khẳng định một cách xác đáng và có căn cứ luận điểm đúng đắn được thừa nhận chung này. Khoản 1, Điều 8 Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 chỉ ra khái niệm tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý và vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” [25] Như vậy, có thể hiểu tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm, do người đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện xâm 13
- hại các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội phạm. 2. Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chị trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [25] Như vậy, theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành hiện nay ở Việt Nam, người chưa thành niên phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự trước nhà nước. Cụ thể, căn cứ trên quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12, người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm hình sự có thể là người từ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; người từ 16 đến dưới 18 tuổi với mọi tội được quy định trong Bộ luật hình sự. Điều 68 Bộ luật hình sự quy định về áp dụng Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên tội cũng quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với quy định của Chương này” [25]. Ngoài ra, đối với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ người có hành vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn phải căn cứ vào các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự. Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây: 14
- Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện. Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm. Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cân nhắc cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc cá biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Những điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra bao giờ cũng gắn liền với người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải mọi trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đều trở thành tội phạm. Từ đó, có thể đưa ra khái niệm về tội phạm do người chưa thành niên gây ra như sau: “Tội phạm do người chưa thành niên gây ra là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người dưới 18 tuổi và người đó phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của mình theo phán xét của cơ quan tiến hành tố tụng”. Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra và khái niệm người chưa thành niên phạm tội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra dùng đã chỉ tội phạm đã được thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt là người chưa thành niên còn khái niệm người chưa thành niên phạm tội muốn chỉ đến một đối tượng chủ thể đặc biệt là người chưa thành niên thực hiện một hành vi phạm tội. 15
- 1.1.3. Những đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của người chưa thành niên phạm tội Trong luật hình sự Việt Nam, người chưa thành niên vừa là đối tượng tác động của tội phạm và cũng là chủ thể của tội phạm. Với tư cách là chủ thể của tội phạm, người chưa thành niên không những mang tính pháp lý mà còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Dựa trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, khảo sát về tâm lý đối với những đối tượng chưa thành niên phạm tội (bao gồm những người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, chúng ta có thể thấy những người chưa thành niên là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh lý. Hoàn cảnh và mức độ phát triển của từng người là khác nhau. Nhưng nói chung đây là giai đoạn chuyển tiếp từ lứa tuổi trẻ em sang lứa tuổi người lớn. Người chưa thành niên không còn thoả mãn với vai trò thụ động của người được giáo dục, được dạy dỗ mà bắt đầu hình thành ý thức độc lập trong việc giải quyết các công việc của riêng mình. Người chưa thành niên có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý mà thông thường và phổ biến là nồng nhiệt, hành động thường bồng bột, xốc nổi, nhẹ dạ và thiếu kinh nghiệm sống, dễ va vấp. Sự hiểu biết về pháp luật rất hạn chế và nông cạn, thiếu chính xác, phiến diện và thiếu hệ thống. Sự hiểu biết của họ về các mặt của cuộc sống xã hội chưa đầy đủ để có thể lựa chọn và quyết định mức xử sự phù hợp với chuẩn mực xã hội. Thực tiễn cho thấy, người chưa thành niên có trình độ nhận thức về tính chất nguy hiểm cũng như chống đối xã hội của hành vi phạm tội và khả năng kìm chế nói chung còn yếu. Phần lớn người chưa thành niên không có ý thức và thói quen của sự đối chiếu, so sánh các hành vi của mình với các quy phạm pháp luật, các quy tắc ứng xử của xã hội. Ở lứa tuổi chưa thành niên, con người chịu sự chi phối và tác động mạnh mẽ của môi trường sống. Quá trình 16
- hình thành nhân cách cũng như các phẩm chất thuộc về nhân thân của họ chịu sự chi phối có tính chất quyết định của môi trường giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội. Họ dễ tiếp thu những thói hư tật xấu, đễ bị tha hoá về nhân cách, và cũng dễ bị kích động, lôi kéo vào những hành vi vi phạm pháp luật. Ngược lại nếu trong môi trường sống lành mạnh thì người chưa thành niên có đủ những điều kiện để phát triển mạnh mẽ, toàn diện về thể chất cũng như tinh thần trở thành những người có ích cho xã hội. Vì vậy, đối với trường hợp người chưa thành niên phạm tội, ngoài trách nhiệm của bản thân họ, Nhà nước và xã hội cũng có một phần trách nhiệm bởi việc quản lý giáo dục lứa tuổi này còn có nhiều thiếu sót, do chưa ngăn ngừa được những ảnh hưởng xấu của các tiêu cực xã hội xâm nhập vào. Tóm lại, người chưa thành niên là người mà sự phát triển về thể chất có sự không tương xứng với quá trình phát triển về nhân cách, năng lực trí tuệ, nhân sinh quan và thế giới quan để hình thành toàn bộ các đặc điểm tâm sinh lý của một người bước vào độ tuổi thành niên. Ở người chưa thành niên có những biến đổi sâu sắc về mặt sinh học, có những mâu thuẫn sâu sắc trong sự phát triển nhân cách. Sự phát triển về thể chất cũng như về các đặc điểm nhân thân khác chịu sự tác động có tính quyết định của môi trường sống. Vì vậy, luật hình sự Việt Nam không coi người chưa thành niên phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự như người đã thành niên phạm tội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố và xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định khả năng nhận thức và khả năng điều chỉnh hành vi của họ, đồng thời cũng phải xác định được nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Như vậy, có thể thấy đối tượng người chưa thành niên phạm tội có nhiều những đặc điểm khác biệt về tâm sinh lý so với những đối tượng phạm tội đã thành niên. Khả năng hiểu biết xã hội và pháp luật cũng như khả năng 17
- làm chủ hành vi của mình có nhiều hạn chế hơn so với những người ở độ tuổi thành niên. Những đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý này có tác động ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi phạm tội của đối tượng phạm tội chưa thành niên. Một yêu cầu đặt ra khi xử lý tội phạm do người chưa thành niên gây ra cần phải tập trung phân tích đánh giá yếu tố tâm sinh lý của người chưa thành niên phạm tội một cách cần thiết và chính xác. 1.2. Tình hình và đặc điểm chung của tội phạm do người chưa thành niên gây ra ở nước ta hiện nay Trong những năm trở lại đây số lượng tội phạm do người chưa thành niên gây ra tăng cao, đa dạng về các loại tội và hơn nữa là tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, ngày càng tăng cao. Theo thống kê các vụ án hình sự do người chưa thành niên phạm tội, năm 2001 là 385 người chưa thành niên thì đến năm 2005, tăng lên 652 người; năm 2007 là 10.361 vụ phạm tội do 15.589 người chưa thành niên thực hiện, năm 2008 là 11.592 vụ với khoảng 18.000 người chưa thành niên thực hiện. Số lượng vụ án do người chưa thành niên phạm tội thực hiện chiếm khoảng 20% số vụ án hình sự được thực hiện. Thông qua những con số trên, có thể thấy tình hình phạm tội của người chưa thành niên tăng nhanh trong những năm gần đây. Trong số đó đối tượng phạm tội trong giai đoạn từ 16 – 18 tuổi chiếm khoảng 60%, còn các đối tượng phạm tội trong giai đoạn từ 14 – 16 tuổi chiếm khoảng 32%. Cùng với số lượng các vụ án do người chưa thành niên phạm tội tăng cao thì các loại tội phạm thực hiện cũng đa dạng. Thống kê cho thấy 38% đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản, 11% đối tượng phạm tội cố ý gây thương tích, tội giết người chiếm khoảng 1,4% còn lại là các tội phạm khác. Các vụ án do người chưa thành niên phạm tội còn diễn ra trên địa bàn rộng, không chỉ tập trung ở các thành thị mà còn ở cả các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu và vùng xa. Ngoài ra cũng có thể thấy mức độ tái phạm của người chưa thành 18
- niên phạm tội là khá cao. Thống kê cho thấy có khoảng 35% đối tượng người chưa thành niên tiếp tục tái phạm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội của người chưa đủ tuổi thành niên. Các nguyên nhân đến từ gia đình, bản thân các đối tượng phạm tội, từ nhà trường cũng như từ xã hội, các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đa phần các đối tượng phạm tội không có được sự giáo dục tốt nhất. Theo một con số thống kê cho thấy chỉ có khoảng 52,4% số đối tượng người chưa thành niên phạm tội là được sự nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình. Trong số các đối tượng chưa thành niên phạm tội có đến 17% là trẻ lang thang vô gia cư, và 71,4% trong số đó ít được sự quan tâm giáo dục của gia đình. Ngoài các nguyên nhân từ gia đình còn phải kể đến các nguyên từ xã hội. Hiện nay ở nước ta vẫn còn thiếu những trung tâm cộng đồng để hỗ trợ người chưa thành niên và gia đình vượt qua những điều kiện khó khăn cũng như thiếu các chương trình xã hội cần thiết để bảo vệ người chưa thành niên cũng như góp phần đưa những người chưa thành niên phạm tội tái hoà nhập xã hội, phòng ngừa tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Mặt khác, hiện nay công tác giáo dục, phòng ngừa và hạn chế người chưa thành niên phạm tội vẫn còn rất yếu kém. Công tác phòng chống tội phạm mới chỉ thiên về mặt chống và trừng trị các hành vi phạm tội mà ít chú ý đến công tác phòng ngừa. Ngoài ra là hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến việc phòng chống tội phạm vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ và còn nhiều quy định chưa phù hợp, thiếu cơ chế phối hợp cụ thể. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra ở nước ta hiện nay có một số đặc điểm cơ bản. Các đối tượng phạm tội đa phần chưa nhận thức hết được tính chất nguy cho xã hội do hành vi của mình gây ra hoặc nhận thức được tính chất nguy hiểm do hành vi của mình gây ra nhưng khả năng kìm chế bản thân kém, đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn