Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt theo Bộ luật hình sự năm 1999 (trên cơ sở số liệu xét xử ngành Tòa án Hà Nội giai đoạn 2007 - 2012)
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt nói riêng, đồng thời phân tích thực trạng việc xét xử đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt theo Bộ luật hình sự năm 1999 (trên cơ sở số liệu xét xử ngành Tòa án Hà Nội giai đoạn 2007 - 2012)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA NGÀNH TÕA ÁN HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2007 - 2012) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
- HÀ NỘI - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ minh hoa và các trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Thúy Hồng
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................... 7 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................... 7 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt ..................................................................................... 7 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt .............................................................................. 14 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT .................................. 16 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ......................................... 16 1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ................................... 23 1.3. QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC.... 34
- 1.3.1. Bộ luật hình sự của Trung Quốc ........................................................ 34 1.3.2. Bộ luật hình sự của Liên bang Nga .................................................... 39 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................................ 46 2.1. CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ ĐẶC TRƢNG CHUNG CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ... 46 2.1.1. Khách thể của tội phạm ...................................................................... 47 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm ............................................................ 50 2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................ 54 2.1.4. Chủ thể của tội phạm.......................................................................... 56 2.2. PHÂN BIỆT CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 ................... 56 2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................................................................................. 60 2.4. NHỮNG TỒN TẠI, VƢỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ .............................................. 64 2.4.1. Những tồn tại, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt theo Bộ luật hình sự năm 1999 trên địa bàn thành phố Hà Nội ...................... 64
- 2.4.2. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt ................................................................... 82 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT......90 3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ..................... 90 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ..................... 93 3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................................................................... 96 3.3.1. Nhóm giải pháp về tổ chức cán bộ và chuyên môn nghiệp vụ .......... 96 3.3.2. Nhóm giải pháp về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ............ 98 KẾT LUẬN .................................................................................................. 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
- DANH MỤC CÁC BẢNG Stt Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1 Bảng 2.1. Tổng kết tình hình xét xử các loại án của ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 – 2012 61 2 Bảng 2.2. Số liệu xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu của ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 – 2012 62 3 Bảng 2.3. Số liệu xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt của ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 – 2013 63
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử phát triển loài ngƣời, vấn đề lợi ích vật chất luôn là căn nguyên của mọi xung đột trong xã hội. Bởi vậy, việc đảm bảo quyền sở hữu các lợi ích vật chất luôn đƣợc các nhà nƣớc trên thế giới quan tâm, bảo hộ. Ở nƣớc ta, quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản, bất khả xâm phạm của công dân, đƣợc ghi nhận tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 – Đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Quyền đó còn đƣợc ghi nhận cụ thể hơn trong các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật trên mọi lĩnh vực nhƣ: hình sự, dân sự, kinh tế… Trong pháp luật dân sự, tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong số những vấn đề quan trọng, đƣợc quy định cụ thể tại Phần thứ hai “Tài sản và quyền sở hữu” với 7 Chƣơng và 118 điều của Bộ luật dân sự năm 2005. Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu đƣợc bảo hộ thông qua 13 điều luật (từ Điều 133 đến Điều 145) thuộc Chƣơng XIV “Các tội phạm xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của Nhà nƣớc, tổ chức và công dân. Cùng với tiến trình xây dựng đất nƣớc và trƣởng thành, pháp luật hình sự về vấn đề sở hữu từng bƣớc đƣợc thiết lập và ngày càng hoàn thiện, đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng của nó. Tuy nhiên, sự phát triển của nó không thể tách rời với sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và chịu sự chi phối bởi đặc điểm lịch sử của đất nƣớc và thế giới. Bởi vì pháp luật của mỗi nƣớc phản ánh sự phát triển của đất nƣớc đó. Trong bối cảnh hiện tại, đất nƣớc ta đang tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế bƣớc đầu có những chuyển biến và đạt đƣợc những thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của 1
- ngƣời dân từng bƣớc đƣợc nâng cao. Bên cạnh đó, mặt trái của nền kinh thị trƣờng mang lại, đó là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện nhƣ tội phạm công nghệ cao, một số loại tội phạm có chiều hƣớng gia tăng nhƣ tội phạm về ma túy; tội phạm về môi trƣờng, tội phạm xâm phạm sở hữu… gây thiệt hại lớn về ngƣời, tài sản cho Nhà nƣớc, tổ chức và công dân. Thực tiễn xét xử trong những năm qua cho thấy, các tội phạm xâm phạm sở hữu luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số các vụ án hình sự. Đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt thƣờng xảy ra ít hơn so với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, nhƣng đang ngày càng xảy ra phổ biến hơn, tính chất và thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng và ảnh hƣởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Song trên thực tế, do từ trƣớc đến nay, loại tội phạm này ít xảy ra, thậm chí có tội chƣa xảy ra nên chƣa có sự tổng kết kinh nghiệm xét xử và văn bản hƣớng dẫn hầu nhƣ rất ít nên các cơ quan tiến hành tố tụng tỏ ra lúng túng, khó khăn khi giải quyết vụ án, không đánh gia đúng bản chất hành vi phạm tội dẫn đến việc xác định sai tội danh hoặc xử oan, bỏ lọt tội phạm. Để khắc phục tình trạng trên thì vấn cốt lõi đƣợc đặt ra là phải năm vững các quy định của pháp luật về tội phạm, nhận thức đúng bản chất của hành vi phạm tội, từ đó đƣa ra đƣờng lối xử lý đúng đắn, bảo đảm sự khách quan, công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Nhận thức đƣợc điều đó, tôi chọn đề tài: “Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt theo Bộ luật hình sự năm 1999 (trên cơ sở số liệu xét xử ngành Tòa án Hà Nội giai đoạn 2007 - 2012)". 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu các tội xâm phạm sở hữu nói chung có ý nghĩa to lớn không những về mặt khoa học mà còn cả về hình thức nên đã có nhiều 2
- công trình nghiên cứu xung quanh về vấn đề này nhƣ: “Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn phương pháp định tội danh”, - PGS. TS. Trịnh Quốc Toản; “Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu” - TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm sở hữu” – Đại tá, PGS, TS. Trầ n Vi Dân ; “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu” - TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản công dân”- Tác giả Vũ Thiện Kim; “Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam” - TS. Đào Trí Öc; “Xung đột quan điểm trong việc xác định tội danh” - TS. Phạm Văn Beo; “Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phương diện là những hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa án” - ThS. Chu Thị Trang Vân; “Vấn đề xác định và chuyển hóa tội danh nặng hơn, nhẹ hơn và ngược lại” - ThS. Nguyễn Hữu Hậu; “Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006- 2010” - ThS. Trần Thị Phƣơng; Tạp chí Tòa án số 01- 2009; Tạp chí khoa học pháp luật số 2/2001.... Nhìn chung, những công trình nghiên cứu nói trên đã khái quát đƣợc một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu nhƣng chƣa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề “Các tội xâm phạm sở hữu không có tình chất chiếm đoạt theo bộ luật hình sự năm 1999” trên cơ sở số liệu xét xử ngành Tòa án Hà Nội giai đoan 2007 - 2012. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt nói riêng, đồng thời phân tích thực trạng việc xét xử đối với các tội xâm phạm sở hữu không 3
- có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt theo Luật hình sự Việt Nam Nhƣ: Khái niệm, đặc điểm của các tội phạm xâm phạm sở hữu; Đặc điểm các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt; Cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt. - Phân tích, đánh giá sâu sắc thực trạng xét xử các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Chỉ ra đƣợc những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, cũng nhƣ các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, vấn đề cải cách tƣ pháp theo Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 26/5/2005 và Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: Phƣơng pháp thống kê; phƣơng pháp phân tích và tổng hợp các số liệu dƣa trên bản án, quyết định và số liệu thống 4
- kê hàng năm của các cấp Tòa án; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu. 5. Những điểm mới của luận văn và đóng góp của luận văn Việc nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn. Bởi lẽ đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập đến việc với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó giải quyết các vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn xoay quanh đề tài tài này trên cơ sở những bản án, quyết định, số liệu báo cáo thống kê của ngành Tòa án Hà Nội. Những điểm mới của luận văn là: - Nghiên cứu nhằm làm rõ khía cạnh pháp lý về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt, góp phần hoàn thiện lý thuyết định tội danh trong khoa học pháp lý hình sự. - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ thực trạng xét xử các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt của Tòa án cá cấp trong ngành Tòa án Hà Nội, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Trên cơ sở những phân tích, đánh giá khoa học các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thực định liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà lập pháp cũng nhƣ các nhà nghiên cứu luật học và đặc biệt là các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong việc định tội 5
- danh làm cơ sở ho việc giải quyết vụ án hình sự đƣợc khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện các quy định các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự năm 1999 và nâng cao hiệu quả áp dụng. 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt Ở bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại những cách thức nhất định để chiếm giữ, làm chủ của cải vật chất và trong quá trình thực hiện những cách thức đó xuất hiện quan hệ giữa ngƣời với ngƣời đối với những của cải vật chất đó. Mối quan hệ đó là quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội xuất hiện, tồn tại và phát triển nhƣ một tất yếu khách quan trong đời sống xã hội loại ngƣời, là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải vật chất. Nó đƣợc luật hoá hành quyền sở hữu. Theo Điều 164 Bộ Luật dân sự năm 2005 thì “quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật” [27, tr.83]. Đây là ba quyền năng cơ bản hợp thành quyền sở hữu. Quyền chiếm hữu tài sản là quyền của chủ tài sản tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình. Thông thƣờng quyền chiếm hữu đƣợc thực hiện bởi chủ sở hữu tài sản. Nhƣng ngƣời ngƣời không phải là chủ sở hữu tài sản cũng có quyền chiếm hữu tài sản trong trƣờng hợp đƣợc chủ sở hữu chuyển giao hoặc do pháp luật quy định đƣợc nắm giữ, quản lý tài sản (Điều 182 BLDS). 7
- Quyền sử dụng tài sản là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hƣởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trong đó hoa lợi là sản vật do tự nhiên mang lại và lợi tức là các khoản thu lời đƣợc từ việc khai thác tài sản. Ngƣời không phải là chủ sở hữu tài sản cũng có quyền sử dụng tài sản trong trƣờng hợp đƣợc chủ sở hữu giao quyền sử dụng tài sản thông qua hợp đồng hay do pháp luật quy định (Điều 192 BLDS). Quyền định đoạt tài sản là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho ngƣời khác hoặc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu tài sản của mình thông qua các hình thức chuyển giao quyền sở hữu nhƣ bán, chuyển nhƣợng, tặng cho, để thừa kế… Trong quá trình thực hiện các quyền nêu trên, chủ sở hữu có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho ngƣời khác thay mình thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng và quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình theo ý chí của chủ sở hữu nhƣng không đƣợc gây thiệt hại hoặc làm ảnh hƣởng đến lợi ích của nhà nƣớc, lợi ích công cộng và quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác. Quyền sở hữu tài sản đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, đƣợc pháp luật tôn trọng và bảo vệ thông qua các quy định pháp luật trên các lĩnh vực nhƣ dân sự, hình sự, kinh doanh thƣơng mại... Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu tài sản đƣợc bảo hộ thông qua các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam tại chƣơng “Các tội phạm xâm phạm sở hữu”. Và quyền sở hữu ở đây là quyền sở hữu về tài sản mà không phải quyền sở hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ. Vì vậy mọi hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Tuy nhiên, hành vi phạm tội về sở hữu có thể xâm phạm cả ba quyền năng thuộc quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu nhƣ tội cƣớp tài sản, trộm cắp tài sản… nhƣng cũng có tội phạm chỉ xâm hại một trong các quyền năng 8
- thuộc quyền sở hữu nhƣ tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản… Đối với một số tội, tuy có hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhƣng không phải là tội xâm phạm sở hữu và không đƣợc các nhà làm luật quy định ở chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu”. Điều này xuất phát từ bản chất của hành vi phạm tội là ngoài việc xâm phạm quan hệ sở hữu, hành vi này còn đồng thời xâm phạm quan hệ xã hội khác và sự xâm phạm này mới thể hiện đƣợc đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì trong trƣờng hợp đó khách thể của tội phạm không phải là quan hệ sở hữu. Ví dụ nhƣ hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức qua đó xâm phạm quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức đó. Nhƣ vậy, hành vi nhƣ thế nào bị coi là tội phạm xâm phạm sở hữu? Hiện có rất nhiều quan điểm xung quanh vấn đề này nhƣ: Theo PGS. TS. Nguyễn Văn Huyên: Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định tại Chƣơng XIV Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm chế độ sở hữu tài sản của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và cá nhân. Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và của công dân. Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa: Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi có lỗi, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ bản nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Theo Thông tƣ 02/2001/TTLN ngày 25/12/2001 của liên ngành TANDTC- VKSNDTC - BTP - BCA hƣớng dẫn áp dụng các tội xâm phạm sở hữu: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi xâm phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt về tài sản của ngƣời khác. 9
- Theo quan điểm của tác giả, khái niệm tội phạm nói chung hay khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu nói riêng phải có tính tổng quát, phản ánh đƣợc bản chất pháp lý và bản chất xã hội của tội phạm, từ đó phân biệt các tội này với tội phạm khác. Nhìn chung, định nghĩa về khái niệm các tội xâm phạm sở hữu nêu trên đã đề cập tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng nhƣ khách thể của tội phạm là quyền sở hữu tài sản – mặt khách quan, tính trái pháp luật hình sự - mặt pháp lý và mặt chủ quan, đó là tội phạm xâm phạm sở hữu do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên các khái niệm nêu trên chƣa đề cập đến một dấu hiệu quan trọng của tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng, đó là “đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự” của ngƣời thực hiện tội phạm. Đặc điểm này là một trong ba đặc điểm thuộc mặt chủ quan của tội phạm, có ý nghĩa trong việc xác định một hành vi xâm phạm quyền sở hữu có phải là tội phạm hay không. Đặc điểm “tuổi chịu trách nhiệm hình sự” có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực trách nhiệm hình sự và lỗi. Bởi lẽ, một ngƣời đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì thông thƣờng sẽ có năng lực trách nhiệm hình sự (trừ trƣờng hợp bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi), nghĩa là ngƣời đó có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi theo quy định của pháp luật hình sự, và khi ngƣời đó thực hiện tội phạm thì mới có lỗi. Nếu tại thời điểm chủ thể của hành vi thực hiện hành vi ngây thiệt hại về tài sản cho ngƣời khác mà ngƣời đó chƣa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc không có năng lực trách nhiệm hình sự thì chủ thể của hành vi không có lỗi, vì thế không phải là tội phạm. Vì vậy không thể thiếu đặc điểm này trong khái niệm tội phạm nói chung cũng nhƣ trong khái niệm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. 10
- Từ những phân tích nêu trên, có thể đƣa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu nhƣ sau: Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và của công dân. Căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan xâm hại đến các quyền năng trong quyền sở hữu đối với tài sản, các tội xâm phạm sở hữu đƣợc chia làm 2 nhóm: + Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt đƣợc quy định từ Điều 133 đến Điều 140. + Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc quy định từ Điều 141 đến Điều 145. Theo đó, các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là những tội xâm phạm sở hữu bằng việc chiếm đoạt và trong cấu thành tội phạm của những tội này có dấu hiệu chiếm đoạt. Trong đó, “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình” [48, tr.366]. Khái niệm này đã thể hiện đƣợc bản chất của khái niệm chiếm đoạt nhƣng đã đồng nhất dấu hiệu chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt. Có quan điểm khác lại cho rằng, chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang đƣợc sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng đƣợc biểu hiện dƣới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội. Xung quanh khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và hành vi chiếm đoạt còn rất nhiều tranh cãi. Nhƣng cho đến nay, chƣa có một học giả nào đƣa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt. Song căn cứ vào khái niệm các tội xâm phạm sở hữu cũng 11
- nhƣ khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nêu trên, tác giả xin đƣa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nhƣ sau: Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản nhƣng không nhằm chiếm đoạt tài sản mà chỉ gây thiệt hại về tài sản bằng hành vi hủy hoại, làm hƣ hỏng, sử dụng, chiếm giữ trái phép hoặc thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan xâm phạm quyền sở hữu tài sản nên có sự phân chia các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm là các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nhƣng dù thuộc nhóm tội nào thì hành vi phạm tội đối với các tội này đều có chung bản chất đó là xâm phạm sở hữu nên đều đƣợc quy định trong chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu”. Do đó, các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt cũng có các đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu và có đặc điểm đặc trƣng riêng của nhóm tội này. Cụ thể nhƣ sau: Một là , khách thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt là quan hệ sở hữu tài sản (chỉ xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản mà không xâm phạm đến quan hệ nhân thân nhƣ một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là tội cƣớp tài sản, cƣớp giật tài sản hay bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản…). Theo quy định của Bộ Luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu tài sản đƣợc hợp thành bởi quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Trong khi các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt có hành vi xâm phạm cả ba quyền năng đối với tài sản của chủ sở hữu tài sản gồm quyền sử dụng, quyền 12
- chiếm hữu và quyền định đoạt tài sản nhƣ tội cƣớp tài sản, tôi trộm cắp tài sản … thì đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, có ba tội là tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là hành vi phạm tội xâm phạm cả ba quyền năng của chủ sở hữu, còn lại hai tội là tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội sử dụng trái phép tài sản, hanh vi phạm tội chỉ xâm phạm quyền chiếm hữu hay quyền sử dụng là một trong ba quyền năng đối với tài sản của chủ sở hữu. Hai là, đối tƣợng tác động của các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng là tài sản. Tài sản, theo Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005, bao gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Nhƣng trong các điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm sở hữu và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, đối tƣợng tác động chủ yếu của loại tội phạm này là các loại tài sản hữu hình nhƣ vật, tiền, các giấy tờ có giá, còn tài sản thuộc loại vô hình (quyền tài sản) thì ít là đối tƣợng tác động của hành vi phạm tội này. Ba là , về hành vi khách quan, các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc thực hiện thông qua các hành vi chiếm giữ, sử dụng, hủy hoại hoặc làm hƣ hỏng, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhƣng những hành vi này không có dấu hiệu chiếm đoạt và cũng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Bốn là, hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt phần lớn gây ra là thiệt hại về tài sản. Đối với các tội này, thì thiệt hại về tài sản là thƣớc đo đánh giá tích chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và giá trị tài sản bị thiệt hại còn là căn cứ để phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm khác, bởi vì thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra chƣa đến mức quy định của Bộ luật hình sự thì chƣa bị coi là tội phạm. Ví dụ nhƣ 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn