intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng hình phạt này ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

19
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm các mục tiêu: Đưa ra một nhận thức toàn diện và có hệ thống về hình phạt tiền; đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt tiền qua đó đưa ra những kiến nghị cho việc hoàn thiện hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt này trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng hình phạt này ở nước ta hiện nay

  1. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt trÇn lÖ trinh H×nh ph¹t tiÒn trong LuËt h×nh sù ViÖt Nam vµ viÖc ¸p dông h×nh ph¹t nµy ë n-íc ta hiÖn nay luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009
  2. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt trÇn lÖ trinh H×nh ph¹t tiÒn trong LuËt h×nh sù ViÖt Nam vµ viÖc ¸p dông h×nh ph¹t nµy ë n-íc ta hiÖn nay Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù M· sè : 60 38 40 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. Tr-¬ng Quang Vinh Hµ néi - 2009
  3. Môc lôc Trang Trang phô b×a Lêi cam ®oan Môc lôc Danh môc c¸c b¶ng më ®Çu Ch-¬ng 1: mét sè vÊn ®Ò lý luËn vÒ h×nh ph¹t vµ 6 h×nh ph¹t tiÒn 1.1. Kh¸i niÖm, môc ®Ých cña h×nh ph¹t vµ h×nh ph¹t tiÒn 6 1.1.1. Kh¸i niÖm, môc ®Ých vµ hÖ thèng h×nh ph¹t 6 1.1.1.1. Kh¸i niÖm h×nh ph¹t 6 1.1.1.2. Môc ®Ých cña h×nh ph¹t 12 1.1.1.3. HÖ thèng h×nh ph¹t 16 1.1.2. Kh¸i niÖm, môc ®Ých cña h×nh ph¹t tiÒn 21 1.1.2.1. Kh¸i niÖm h×nh ph¹t tiÒn 21 1.1.2.2. Môc ®Ých, ý nghÜa cña h×nh ph¹t tiÒn 23 1.1.2.3. Ph©n biÖt h×nh ph¹t tiÒn víi h×nh ph¹t vµ chÕ tµi ph¸p luËt 26 t-¬ng tù kh¸c 1.2. Kh¸i qu¸t lÞch sù lËp ph¸p vÒ h×nh ph¹t tiÒn trong ph¸p luËt 29 h×nh sù ViÖt Nam 1.2.1. Kh¸i qu¸t vÒ h×nh ph¹t tiÒn trong ph¸p luËt h×nh sù ViÖt 29 Nam thêi kú phong kiÕn 1.2.2. Kh¸i qu¸t vÒ h×nh ph¹t tiÒn trong ph¸p luËt h×nh sù ViÖt 31 Nam tõ sau C¸ch m¹ng Th¸ng T¸m ®Õn tr-íc khi Bé luËt H×nh sù n¨m 1999 cã hiÖu lùc
  4. 1.2.2.1. H×nh ph¹t tiÒn trong ph¸p luËt h×nh sù ViÖt Nam tõ n¨m 31 1945 ®Õn tr-íc n¨m 1985 1.2.2.2. H×nh ph¹t tiÒn trong Bé luËt H×nh sù n¨m 1985 33 Ch-¬ng 2: H×nh ph¹t tiÒn trong Bé luËt H×nh sù n¨m 1999 41 2.1. Nh÷ng quy ®Þnh míi cña h×nh ph¹t tiÒn trong Bé luËt H×nh 41 sù n¨m 1999 so víi Bé luËt H×nh sù n¨m 1985 2.1.1. VÒ ph¹m vi, ®iÒu kiÖn ¸p dông h×nh ph¹t tiÒn 41 2.1.2. VÒ sè l-îng c¸c ®iÒu luËt cã quy ®Þnh h×nh ph¹t tiÒn 42 2.1.3. VÒ møc ph¹t tiÒn 43 2.1.4. VÒ c¸ch thøc thi hµnh h×nh ph¹t tiÒn 43 2.2. Nh÷ng quy ®Þnh cô thÓ vÒ h×nh ph¹t tiÒn trong Bé luËt H×nh 43 sù n¨m 1999 2.2.1 H×nh ph¹t tiÒn khi ¸p dông lµ h×nh ph¹t chÝnh 43 2.2.1.1. Ph¹m vi vµ ®iÒu kiÖn ¸p dông 43 2.2.1.2. Møc ph¹t tiÒn 50 2.2.1.3. C¸ch thøc nép tiÒn ph¹t 53 2.2.2. H×nh ph¹t tiÒn khi ¸p dông lµ h×nh ph¹t bæ sung 54 2.2.2.1. Ph¹m vi vµ ®iÒu kiÖn ¸p dông 54 2.2.2.2. Møc tiÒn ph¹t vµ c¸ch thøc nép tiÒn ph¹t 62 2.2.3. Mét sè quy ®Þnh kh¸c trong PhÇn chung Bé luËt H×nh sù 63 n¨m 1999 liªn quan ®Õn h×nh ph¹t tiÒn 2.2.3.1. Tæng hîp h×nh ph¹t tiÒn 63 2.2.3.2. MiÒn h×nh ph¹t tiÒn 66 2.2.3.3. Thêi hiÖu thi hµnh b¶n ¸n ph¹t tiÒn 66 2.2.3.4. Gi¶m møc h×nh ph¹t tiÒn ®· tuyªn 68 2.2.3.5. Xãa ¸n tÝch ®èi víi ng-êi bÞ kÕt ¸n ph¹t tiÒn 69 2.2.3.6. H×nh ph¹t tiÒn ¸p dông ®èi víi ng-êi ch-a thµnh niªn ph¹m téi 70
  5. Ch-¬ng 3: Thùc tiÔn ¸p dông h×nh ph¹t tiÒn vµ Mét sè 73 gi¶I ph¸p nh»m n©ng cao hiÖu qu¶ cña viÖc ¸p dông h×nh ph¹t nµy ë n-íc ta hiÖn nay 3.1. Thùc tiÔn ¸p dông h×nh ph¹t tiÒn ë n-íc ta hiÖn nay 73 3.1.1. Thùc tr¹ng viÖc ¸p dông h×nh ph¹t tiÒn trong qu¸ tr×nh xÐt 73 xö cña Tßa ¸n 3.1.2. Nh÷ng khã kh¨n, h¹n chÕ trong viÖc ¸p dông h×nh ph¹t tiÒn 83 trong thùc tÕ 3.2. Mét sè gi¶i ph¸p nh»m n©ng cao hiÖu qu¶ cña viÖc ¸p dông 86 h×nh ph¹t tiÒn 3.2.1. Mét sè gi¶i ph¸p vÒ mÆt lý luËn 86 3.2.2. Mét sè gi¶i ph¸p vÒ viÖc ¸p dông h×nh ph¹t tiÒn trong thùc tiÔn 88 kÕt luËn 90 danh môc tµi liÖu tham kh¶o 91
  6. Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu Tªn b¶ng Trang b¶ng 3.1 Sè l-îng bÞ c¸o bÞ ph¹t tiÒn trong xÐt xö s¬ thÈm c¶ n-íc 74 tõ n¨m 2000 - 2005 3.2 ViÖc ¸p dông h×nh ph¹t tiÒn trong xÐt xö s¬ thÈm n¨m 2006 75 3.3 ViÖc ¸p dông h×nh ph¹t tiÒn trong xÐt xö s¬ thÈm n¨m 2007 77 3.4 ViÖc ¸p dông h×nh ph¹t tiÒn trong xÐt xö s¬ thÈm 8 th¸ng 79 ®Çu n¨m 2008
  7. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Là một bộ phận cấu thành cơ bản trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền có một lịch sử lâu dài cũng như vị trí rất quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam. Các quy định về hình phạt tiền đã xuất hiện và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử. Từ khi các bộ luật đầu tiên của các triều đại phong kiến Việt Nam, hình phạt tiền đã được hình thành và được pháp luật hình sự thừa nhận như một loại hình phạt góp phần quan trọng vào việc bảo vệ Nhà nước, trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân dưới chế độ cũ. Trong một thời gian khá dài, nước ta dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, mặc dù pháp luật thời kỳ này tồn tại rất nhiều hạn chế nhưng chúng ta thấy được sự ghi nhận của pháp luật hình sự các quy định về hình phạt tiền, các quy định này ít nhiều cũng chứa đựng những nhân tố tích cực, góp phần không nhỏ đến quá trình lập pháp về hình phạt tiền của pháp luật hình sự Việt Nam ở các thời kỳ tiếp sau. Cho đến khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, khi mà đất nước chưa có một bộ luật hình sự áp dụng chung, thì các quy định về hình phạt tiền đã được quy định rải rác trong rất nhiều các văn bản pháp luật đơn hành, từ các Sắc lệnh thời kỳ đầu thành lập như Sắc lệnh số 21 ngày 14/02/1946, Sắc lệnh số 223 ngày 17/11/1946 đến các Sắc luật: Sắc luật số 125/SL ngày 11/7/1950; Sắc luật số 163/SL ngày 17/11/1950; Sắc luật số 202/SL ngày 14/12/1956; Sắc luật số 001/SL ngày 19/4/1957; Sắc luật số 003/SL ngày 18/6/1957... Và từ khi các quy định của luật hình sự được bắt đầu luật hóa cho đến ngày nay chế định về hình phạt tiền vẫn đang được chúng ta tiếp tục phát triển và hoàn thiện. 1
  8. Cùng với các loại hình phạt khác trong hệ thống pháp luật hình sự, hình phạt tiền tham gia không chỉ vào việc trừng trị người phạm tội mà còn có ý nghĩa to lớn trong vấn đề cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa người phạm tội phạm tội mới và đồng thời giáo dục những người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nước ta có nhiều chuyển biến mới mẻ như hiện nay thì vai trò của hình phạt tiền ngày càng được phát huy. Bởi vậy mà Bộ luật Hình sự của thời kỳ mới (Bộ luật Hình sự năm 1999) đã có những quy định rất tiến bộ về hình phạt tiền và các quy định này đã, đang và sẽ phát huy ngày càng có hiệu quả hơn trong đời sống xã hội, góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, từ khi các quy định về hình phạt tiền trong Bộ luật Hình sự năm 1999 được áp dụng cho đến nay thì hình phạt này vẫn chưa phát huy được hết những vai trò và hiệu quả của nó. Bên cạnh sự hạn chế còn tồn tại trong các quy định của pháp luật thì thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt tiền trong thực tế có những điểm còn chưa đúng, chưa đủ, chưa hợp lý, đòi hỏi các nhà làm luật và thi hành pháp luật phải nhìn nhận và đánh giá một cách toàn diện. Cùng với chế định tội phạm, chế định về hình phạt là một chế định rất cơ bản và hết sức quan trọng của luật hình sự và bởi vai trò xã hội và hiệu quả của luật hình sự phụ thuộc rất nhiều vào hình phạt nên việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề về hình phạt tiền và việc áp dụng các quy định về hình phạt tiền trong thực tế đời sống xã hội, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện để góp phần nâng cao hiệu quả của các quy định đã nêu không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài "Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng hình phạt này ở nước ta hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2
  9. 2. Mục đích của đề tài Hình phạt tiền là một loại hình phạt có vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nước ta. Khi nghiên cứu hình phạt tiền, luận văn nhằm đạt được các mục đích như sau: - Đưa ra một nhận thức toàn diện và có hệ thống về hình phạt tiền; - Đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt tiền qua đó đưa ra những kiến nghị cho việc hoàn thiện hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt này trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. 3. Nội dung của đề tài, các vấn đề cần giải quyết Để hoàn thành các mục đích đã đề ra, luận văn tập trung trình bày các nội dung sau: - Phân tích về khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt, hệ thống hình phạt và hình phạt tiền trong pháp luật Việt Nam; - Khái quát về lịch sử lập pháp của hình phạt tiền; phân tích các quy định của hình phạt tiền trong Bộ luật Hình sự hiện hành, từ đó rút ra các quy định tiến bộ của hình phạt tiền trong pháp luật hiện hành so với các quy định trước đó; - Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng hình phạt tiền theo các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt tiền. Từ đó phân tích một số tồn tại xung quanh việc quy định và áp dụng quy định về hình phạt tiền; - Đưa ra những đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện hình phạt tiền trên cơ sở các nguyên tắc của luật hình sự và chính sách hình sự của Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. 3
  10. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các luận chứng của đề tài được đưa ra trên cơ sở của Hiến pháp, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chính sách hình sự, dựa vào các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự và có tham khảo Bên cạnh đó, các nghiên cứu mang tính cá nhân thể hiện trong đề tài được trình bày trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các tài liệu pháp lý, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các chuyên gia trong và ngoài nước. - Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu truyền thống như: phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch… 5. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Qua việc nghiên cứu về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng hình phạt này ở nước ta hiện nay, luận văn đã góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành, phát triển và nội dung pháp lý của hình phạt tiền, đưa ra bức tranh khái quát về tình hình áp dụng hình phạt tiền trong thực tiễn ở nước ta hiện nay; đồng thời luận văn đưa ra những điểm chưa hợp lý về hình phạt tiền trong các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, những hạn chế còn tồn tại trong quá trình áp dụng quy định về hình phạt tiền để đề xuất các phương hướng, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hình phạt tiền trong thực tiễn. Bên cạnh đó, ý nghĩa về mặt khoa học của luận văn biểu hiện ở chỗ, đây là một công trình nghiên cứu chuyên khảo tương đối đầy đủ và toàn diện ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến hình phạt tiền trong khoa học luật hình sự Việt Nam, vì vậy luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo cần 4
  11. thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề về hình phạt và hình phạt tiền. Chương 2: Hình phạt tiền trong Bộ luật Hình sự năm 1999. Chương 3: Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt này ở nước ta hiện nay. 5
  12. Chương 1 Một số vấn đề lý luận về hình phạt và hình phạt tiền 1.1. Khái niệm, mục đích của hình phạt và hình phạt tiền 1.1.1. Khái niệm, mục đích và hệ thống hình phạt 1.1.1.1. Khái niệm hình phạt Tội phạm và hình phạt là hai chế định cơ bản trong pháp luật hình sự của tất cả các quốc gia trên thế giới. Nếu như tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật thì hình phạt ra đời bắt nguồn từ nhiệm vụ đấu tranh với tình hình tội phạm và để bảo vệ quyền lợi, duy trì điều kiện tồn tại của giai cấp thống trị, của nhà nước trong bất kỳ một chế độ xã hội nào. Dù là trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, tư bản hay chế độ xã hội chủ nghĩa thì các nhà nước luôn coi hình phạt là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của xã hội và nhà nước bởi "hình phạt không phải là một cái gì khác ngoài phương tiện để tự bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó" (C.Mác). Do đó, trong tất cả các biện pháp đấu tranh phòng và chống tội phạm thì hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến và có lịch sử lâu đời nhất. Tuy nhiên, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, trong các quốc gia khác nhau không phải lúc nào cũng có những quan điểm thống nhất về bản chất, nội dung và mục đích của hình phạt. Thông thường quan niệm về hình phạt phụ thuộc và tương ứng với quan niệm về tội phạm trong mỗi một hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Và cũng chính những quan điểm không giống nhau về khái niệm tội phạm mà ở mỗi thời kỳ, ở mỗi nhà nước, hình phạt lại có những tác động khác nhau đến người phạm tội, đến các thành viên khác trong xã hội cũng như đến tình hình tội phạm nói chung. Về cơ bản có hai quan niệm về hình phạt cần được xem xét: 6
  13. Quan niệm thứ nhất coi hình phạt là công cụ trả thù người phạm tội, tức là hình phạt được áp dụng để trừng phạt, trả thù người đã thực hiện hành vi vi phạm quy định của pháp luật hình sự. Theo đó, tính chất trừng trị của các hình phạt theo quan niệm này rất dã man, hà khắc. Nhà nước cho phép áp dụng phổ biến và rộng rãi các hình phạt có tính chất nhục hình, đầy đọa thể xác và chà đạp lên phẩm giá của con người. Điều này được biểu hiện ở nhiều nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến. Quan niệm thứ hai mang tính chất tiến bộ và nhân đạo hơn khi coi hình phạt là công cụ đấu tranh để phòng ngừa tội phạm. Theo đó, hình phạt được đặt ra không chỉ nhằm trừng trị người thực hiện hành vi phạm tội mà còn nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm. Mục đích cuối cùng được đặt ra đối với việc áp dụng hình phạt trong trường hợp này là hạn chế và đi đến triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Quan điểm này về tội phạm và hình phạt được biểu hiện rất sâu sắc trong các nhà nước dân chủ tiến bộ. Có thể nói, việc quan niệm thế nào về hình phạt phụ thuộc rất nhiều vào chính sách kinh tế - xã hội nói chung và chính sách hình sự nói riêng của mỗi một quốc gia. Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay cho thấy chúng ta đã kết hợp hài hòa trong việc kế thừa truyền thống văn hóa nhân đạo chủ nghĩa với việc tiếp thu những tinh hoa văn minh của luật hình sự thế giới, đồng thời có xét đến thực trạng và yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thực tế để xây dựng những vấn đề có liên quan đến hình phạt, mà trước tiên là khái niệm hình phạt. Về cơ bản, các nhà khoa học hình sự đã luôn coi hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người thực hiện tội phạm, nhằm mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm. Điều đó biểu hiện trong các quan niệm cụ thể như sau: 7
  14. TS. Uông Chu Lưu, TS. Nguyễn Đức Tuấn đưa ra khái niệm: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người thực hiện tội phạm theo quy định của luật hình sự, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm" [13]. TSKH. PGS. Lê Văn Cảm cũng cho rằng: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự" [8]. GS.TS. Đỗ Ngọc Quang coi hình phạt là: "biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc của Nhà nước được quy định trong luật hình sự do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và mục đích nhất định với mục đích cải tạo giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân" [Dẫn theo 6]. PGS. TS. Võ Khánh Vinh định nghĩa: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Tòa án quyết định trong bản án đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án" [38]. Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và TS. Lê Thị Sơn thì hình phạt "là biện pháp cưỡng chế nhà nước được luật hình sự quy định và do Tòa án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội nhằm rse41cũng như nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm" [10]. Với những cách diễn đạt khác nhau song nhìn chung nội hàm của các khái niệm trên không có sự khác biệt. Chúng ta có thể kết hợp những ưu điểm từ những khái niệm nêu trên cũng như căn cứ vào bản chất của hình phạt để đưa ra một khái niệm khoa học về hình phạt như sau: Hình phạt là biện pháp 8
  15. cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước quy định trong luật hình sự do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án với mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm. Như vậy, tuy Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985 chưa quy định cụ thể khái niệm về hình phạt song ngay từ trước khi khái niệm về hình phạt chính thức được ghi nhận trong một văn bản pháp lý thì các nhà khoa học luật hình sự nước ta đều đã thống nhất trong việc đánh giá về bản chất, nội dung cũng như mục đích của hình phạt. Những quan điểm khoa học đó là một trong những cơ sở lập pháp quan trọng cho sự ra đời của khái niệm hình phạt theo Điều 26 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo đó: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định [22]. Khái niệm trên cho thấy trước hết hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Tính nghiêm khắc ở đây thể hiện ở chỗ người bị kết án bị tước đi các quyền và lợi ích thiết thân nhất như quyền tự do, quyền chính trị, quyền sở hữu, thậm chí cả quyền sống. Ví dụ như khi bị kết án ba năm tù giam thì đồng nghĩa với việc họ bị mất quyền tự do trong thời hạn ba năm khi chấp hành án phạt tù, bên cạnh đó các quyền khác của người chấp hành hình phạt cũng bị ảnh hưởng trong thời gian họ thực hiện án phạt giam đó. Mặt khác, hình phạt bao giờ cũng để lại cho người bị kết án hậu quả pháp lý là án tích. Và trong trường hợp chưa được xóa án tích thì người bị kết án và thi hành hình phạt chưa được hoàn toàn chấm dứt việc thực hiện trách 9
  16. nhiệm pháp luật hình sự. Đây là hậu quả để lại mà không có ở bất kỳ một biện pháp cưỡng chế nào khác của Nhà nước. Chẳng hạn một người bị kết án phạt tù có thời hạn năm năm thì năm năm sau khi chấp hành xong hình phạt theo quy định của Điều 64 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì người đó vẫn bị coi là đang mang án tích. Mặc dù có thể thấy hình phạt luôn là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của các nhà nước song không phải trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tính chất và mức độ nghiêm khắc của hình phạt do các nhà nước áp dụng là hoàn toàn giống nhau. Phù hợp với mỗi một chế độ kinh tế - xã hội, mỗi nhà nước lại đưa ra những hình phạt áp dụng khác nhau với từng tội phạm cụ thể để tính nghiêm khắc của hình phạt phát huy được hiệu quả cao nhất trong việc đạt được mục đích của hình phạt. Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam bên cạnh sự nghiêm khắc của tính cưỡng chế còn mang nội dung giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm, thể hiện tính ưu việt và tính nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa với tư tưởng trừng trị là cơ sở để giáo dục, cải tạo; giáo dục, cải tạo là sự phát huy tính tích cực của trừng trị. Thứ hai, hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội hay nói một cách khác hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm. Các dấu hiệu tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tính trái pháp luật hình sự gắn liền với tính chịu hình phạt của tội phạm. Điều này thể hiện rõ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như nguyên tắc: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" đã được ghi nhận tại Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đặc điểm này của hình phạt được biểu hiện ở những khía cạnh cụ thể như sau: - Pháp luật hình sự nước ta chỉ cho phép áp dụng hình phạt đối với những hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm. Những hành vi vi phạm pháp luật nhưng không được quy định trong Bộ luật Hình sự là tội 10
  17. phạm thì không được áp dụng hình phạt mà chỉ có thể áp dụng các chế tài pháp luật khác như chế tài hành chính, dân sự, kinh tế… - Không được áp dụng hình phạt nếu hình phạt đó không được quy định trong hệ thống hình phạt hiện hành và trong chế tài của điều luật cụ thể. Tòa án chỉ được áp dụng những hình phạt được quy định trong Điều 28 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với người thực hiện hành vi phạm tội và hình phạt được áp dụng đó còn phải được quy định trong chế tài của điều luật quy định về tội phạm áp dụng đối với người bị kết án. - Hình phạt chỉ được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó có nghĩa là chỉ đặt ra việc áp dụng hình phạt đối với chính người phạm tội vì họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhằm đạt được những mục đích nhất định, không thể áp dụng hình phạt đối với những thành viên trong gia đình cũng như những người thân thích khác của người phạm tội và pháp luật hiện hành cũng không cho phép người khác chịu hình phạt thay cho người phạm tội bởi như thế sẽ không thể đạt được mục đích của hình phạt. Đây là một nội dung cho thấy sự tiến bộ trong quy định về hình phạt của pháp luật hiện hành so với những quan niệm về hình phạt trong các nước chiếm hữu nô lệ và các quốc gia phong kiến trước kia khi cho phép áp dụng hình phạt đối với cả những người không thực hiện hành vi phạm tội như trường hợp hình phạt chu di tam tộc. Thứ ba, hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự. Hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 1999 là văn bản pháp lý duy nhất của Nhà nước quy định đầy đủ và cụ thể về các hình phạt. Trong Bộ luật, hình phạt được quy định ở cả Phần chung và Phần các tội phạm. Phần chung quy định về khái niệm, mục đích, hệ thống hình phạt, các nguyên tắc áp dụng hình phạt, miễn hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt… Phần các tội phạm quy định về loại và mức hình phạt áp dụng cho từng tội phạm cụ thể. Hình phạt chỉ được quy 11
  18. định bởi Bộ luật Hình sự, các biện pháp cưỡng chế khác mặc dù về nội dung và hình thức có thể giống hình phạt nhưng nếu không được Bộ luật Hình sự quy định thì không thể là hình phạt. Đặc điểm thứ tư là hình phạt do Tòa án áp dụng hay nói cách khác, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất được áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Chỉ Tòa án mới có quyền tuyên một người là có tội và buộc họ phải chịu hình phạt theo luật định trên cơ sở nguyên tắc "không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Việc quyết định hình phạt của Tòa án phải tuân theo những trình tự, thủ tục nhất định được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự. Khi quyết định hình phạt Tòa án cần phải căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự và việc quyết định hình phạt phải tuân thủ đúng nguyên tắc: chỉ được áp dụng loại và mức hình phạt đã được quy định ở Phần chung và loại, mức hình phạt đó được giới hạn trong điều luật quy định về tội phạm cụ thể đó, trừ trường hợp đặc biệt nếu luật hình sự cho phép Tòa án được "quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật". Với những đặc trưng nêu trên chúng ta có thể phân biệt hình phạt với các biện pháp cưỡng chế khác của Nhà nước (chế tài luật hành chính, chế tài luật dân sự, chế tài luật tố tụng hình sự...) hay các biện pháp tư pháp được quy định trong Bộ luật Hình sự. 1.1.1.2. Mục đích của hình phạt Mục đích của hình phạt được xem là kết quả cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy định hình phạt trong luật hình sự cũng như khi áp dụng chúng trên thực tế. Mục đích của hình phạt quyết định việc quy định từng loại hình phạt nói riêng và hệ thống hình phạt nói chung. Do vậy, quan 12
  19. điểm như thế nào là mục đích của hình phạt không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có vai trò quan trọng trong thực tiễn. Hình phạt tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến những điều kiện và nguyên nhân làm phát sinh tội phạm nhưng với nội dung hạn chế hoặc tước bỏ những quyền và lợi ích của người phạm tội, hình phạt có tác động nhất định đến người phạm tội cũng như những người khác trong xã hội theo những hướng khác nhau tùy thuộc vào việc quy định và áp dụng hình phạt. Và luật hình sự đòi hỏi sự tác động đó của hình phạt phải đạt được những mục đích nhất định. Xác định được đúng mục đích của hình phạt là một yêu cầu quan trọng giúp xác định hiệu quả của hình phạt. Mục đích đặt ra sẽ chi phối quá trình xây dựng và áp dụng các biện pháp nhằm đạt mục đích đó. Khi xác định mục đích của hình phạt, Điều 20 Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định như sau: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm" [20]. Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng xác định cụ thể: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm mục đích giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm [22]. Theo quy định của pháp luật hình sự thống nhất từ trước tới nay thì như vậy hình phạt được xác định có ba mục đích chính: - Mục đích trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới; 13
  20. - Mục đích ngăn ngừa những người "không vững vàng" trong xã hội phạm tội; - Mục đích giáo dục các thành viên khác trong xã hội nâng cao ý thức pháp luật, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Quan điểm trên cũng là quan điểm của rất nhiều các nhà khoa học và giáo trình của các cơ sở đào tạo, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm tranh luận rằng không thể coi trừng trị là mục đích của hình phạt. Theo đó, "trừng trị là nội dung, là thuộc tính, là phương thức để thực hiện hình phạt… trừng trị là nội dung quan trọng nhất của hình phạt. Nếu không có nó thì sẽ không có hình phạt. Trừng trị là tiền đề quan trọng cho việc đạt được mục đích phòng ngừa tội phạm" [37], chính vì vậy, mục đích của hình phạt được xác định là "cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa" [20]. Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng: cả trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội đều không thể là mục đích cuối cùng của hình phạt và mục đích cuối cùng của hình phạt là bảo đảm công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm, còn trừng trị và cải tạo, giáo dục là thuộc tính, là phương thức thực hiện hình phạt, là phương thức để hình phạt đạt được mục đích của mình [12]. ở đây chúng tôi vẫn đồng ý với quan điểm truyền thống về mục đích của hình phạt khi phân chia mục đích của hình phạt bao gồm hai mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung bởi những biểu hiện cụ thể như sau: Thứ nhất, mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt có hai nội dung chính: - Hình phạt với tư cách là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước có nội dung là sự tước bỏ hoặc hạn chế các quyền, lợi ích nhất định của người bị kết án; thể hiện thái độ phản ứng, sự lên án của Nhà nước đối 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2