Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam
lượt xem 5
download
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về xây dựng cơ bản, để xác định phương hướng và nội dung hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay; phân tích cơ sở lý luận của sự hình thành và phát triển pháp luật về xây dựng cơ bản, những đặc điểm, đặc trưng pháp luật về xây dựng cơ bản;... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ THỊ QUYÊN HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ THỊ QUYÊN HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC HÀ NỘI - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Võ Thị Quyên
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM 8 1.1. Vị trí, vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân 8 1.1.1. Khái niệm ngành xây dựng và các ngành trực tiếp có liên quan 8 1.1.2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và các chủ thể tham gia vào quá trình hình thành công trình xây dựng 9 1.1.3. Vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân 10 1.2. Khái niệm và cấu trúc của khung pháp luật về Xây dựng cơ bản 12 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư xây dựng - đối tượng điều chỉnh của pháp luật về xây dựng cơ bản 12 1.2.2. Vai trò và quá trình hình thành cơ chế quản lý đầu tư xây dựng 19 1.2.3. Các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản 23 1.3. Nội dung của khung pháp luật về xây dựng cơ bản 28 1.4. Kinh nghiệm quốc tế về đầu tư xây dựng 28 1.4.1. Trung Quốc 28 1.4.2. Malaysia 31 1.4.3. Pháp 31 1.4.4. Hoa Kỳ 32 Chương 2: THỰC TRẠNG KHUNG PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 36 2.1. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư xây dựng ở Việt Nam 36 2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về Xây dựng cơ bản 37
- 2.2.1. Pháp luật về quy hoạch xây dựng 37 2.2.2. Pháp luật về dự án đầu tư xây dựng 39 2.2.3. Pháp luật về khảo sát, thiết kế xây dựng 43 2.2.4. Pháp luật về xây dựng công trình 47 2.2.5. Pháp luật về lựa chọn nhà đầu tư và hợp đồng xây dựng 55 2.2.6. Pháp luật về quản lý Nhà nước về xây dựng 57 2.3. Những kết quả đạt được trong hoạt động xây dựng khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam 60 2.4. Một số bất cập và hạn chế trong việc xây dựng và thực thi khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam 65 2.4.1. Về hệ thống pháp luật 65 2.4.2. Một số vấn đề khác 77 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM 79 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam 79 3.2. Những yêu cầu và phương hướng hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam 83 3.2.1. Những yêu cầu hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam 83 3.2.2. Phương hướng hoàn thiện 85 3.3. Các giải pháp hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam 86 3.3.1. Các giải pháp hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh xây dựng cơ bản ở Việt Nam 86 3.3.2. Hoàn thiện, nâng cao tổ chức thực hiện pháp luật về xây dựng cơ bản 97 3.3.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xây dựng cơ bản 100 KẾT LUẬN 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh tế - xã hội nước ta năm 2013 tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa được giải quyết triệt để. Hệ quả xấu vẫn đang tiếp diễn từ sự suy thoái trong khu vực đồng euro với khủng hoảng tín dụng và tình trạng thất nghiệp gia tăng tại các nước thuộc khu vực này. Thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp. Các nền kinh tế đầu tàu suy giảm kéo theo sự giảm sút của các nền kinh tế khác. Một số quốc gia và khối liên minh lớn có vị trí quan trọng trong quan hệ thương mại song phương với nước ta như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật bản và EU đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn nên tăng trưởng chậm. Những bất lợi từ sự suy giảm của kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước. Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua giảm mạnh. Vấn đề nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể, phá sản. Trong đó, ngành xây dựng là lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp, nhiều nhất từ khó khăn chung đó. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng đều phải hứng chịu thiệt hại nặng nề từ cơn bão khủng hoảng kinh tế thế giới, chịu nhiều khó khăn do việc chậm tiêu thụ, tồn đọng hàng hoá lớn, thất nghiệp tăng cao. Chủ đầu tư các dự án lại chậm thanh toán, lãi suất cho vay còn cao, khó tiếp cận nguồn vốn... Đặc biệt như lĩnh vực xây lắp, nhiều công trình không thể triển khai thi công tiếp do chưa thu xếp được vốn của chủ đầu tư, dẫn đến bị đình trệ hoặc tạm hoãn, khiến nhiều doanh nghiệp bất động sản phải “gồng mình” gánh chi phí lãi vay và các chi phí đầu vào liên tục tăng cao. Về nhà ở và hạ tầng, lượng vốn huy động từ xã hội lại rất thấp do thị trường bất động sản đang đóng băng cùng những khó khăn, hạn chế trong việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng đã làm 1
- cho nhiều dự án phát triển nhà và đô thị phải dừng đầu tư, hoặc triển khai cầm chừng. Theo dự tính của các chuyên gia kinh tế, khủng hoảng luôn mang tính chất chu kỳ của kinh tế thị trường, chính vì vậy phần lớn các quốc gia trên thế giới đều tính đến vai trò ngành xây dựng trong việc vực dậy nền kinh tế trong thời gian ngắn hạn cũng như dài hạn. Do đặc thù ngành xây dựng trải rộng khắp toàn quốc, trải đều trên nhiều vùng, với số lượng công việc đa dạng nên khả năng kiến tạo và chuyển đổi việc làm nhanh, tiêu thụ nhiều sản phẩm đầu ra của các ngành khác. Trước tình hình kinh tế biến động phức tạp như vậy, Đảng, Quốc hội và Chính phủ thẳng thắn nhìn nhận và chỉ ra những hạn chế, bất cập trong nội tại nền kinh tế, đồng thời đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức hiện nay, trên cơ sở đó ban hành nhiều văn bản quan trọng với những định hướng đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành kinh tế-xã hội. Mà trọng yếu là Xây dựng cơ bản, một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn, tạo cơ sở hạ tầng quan trọng cho sự phát triển đất nước, đồng thời bao trùm phổ rộng các loại quan hệ xã hội tham gia vào đời sống kinh tế, vì vậy ngành này đứng trước yêu cầu cấp bách là thay đổi căn bản cách thức quản lý nhà nước thông qua việc hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản, nhằm vượt qua những khó khăn thách thức to lớn trước mắt của toàn ngành nói riêng cũng như của nền kinh tế nói chung. Những bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện dự án, làm chậm tiến độ, lỡ cơ hội đầu tư; việc quy định trách nhiệm của các chủ thể chưa rõ ràng, các chế tài chưa đủ mạnh, nên tình trạng vi phạm pháp luật xây dựng vẫn còn tràn lan, tiếp diễn phức tạp nhưng lại thiếu các căn cứ để xử lý. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tồn tại này là hệ thống pháp luật điều chỉnh những vấn đề về xây dựng cơ bản chưa được thống nhất, chưa được điều chỉnh kịp thời. Phạm vi, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về xây dựng cơ bản cần đầy đủ, toàn diện hơn: điều chỉnh toàn bộ các hoạt động xây dựng, 2
- như đầu tư xây dựng, từ việc lập quy hoạch xây dựng đến lập dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng, quản lý dự án, giám sát việc xây dựng, nghiệm thu, thanh quyết toán... Tiếp tục tập trung hơn nữa vào điều chỉnh, quản lý các hoạt động đầu tư xây dựng ở nông thôn - nơi đang gây bức xúc do tốc độ đô thị hóa nhanh, như xây dựng lấn chiếm đất công, tranh chấp, khiếu kiện, ô nhiễm môi trường... Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản còn có những biểu hiện tuỳ tiện không tuân theo pháp luật và chưa đáp ứng được yêu cầu ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, như tình trạng xây dựng tự phát không tuân thủ quy hoạch, quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, buông lỏng công tác tiền kiểm của cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng trong giai đoạn hình thành dự án dẫn đến việc chủ đầu tư có thể tùy tiện thay đổi, chỉnh sửa thiết kế. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch được duyệt còn yếu kém, chưa thu hút được sự tham gia rộng rãi của cộng đồng.Vấn đề quy định, thủ tục về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch còn mất nhiều thời gian, chưa đáp ứng được thực tế yêu cầu phát triển. Ngoài ra, việc đầu tư nghiên cứu xây dựng mới hệ thống các quy trình, quy phạm tiêu chuẩn và quy chuẩn, phương pháp thiết kế quy hoạch xây dựng và quản lý các loại quy hoạch xây dựng cũng chưa được quan tâm một cách thỏa đáng, chưa phù hợp với yêu cầu quản lý và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay và tương lai. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp trong lĩnh vực xây dựng cơ bản còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, hiệu lực pháp lý thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý toàn diện về phát triển xây dựng trong cả nước, tại các vùng, các khu vực đặc thù, như các loại quy hoạch xây dựng vùng liên tỉnh, liên huyện; quy hoạch xây dựng các khu kinh tế, khu du lịch sinh thái, quy hoạch xây dựng nông thôn ngoài các điểm dân cư nông thôn… Các văn bản pháp luật còn thiếu và không đồng bộ như vậy thì việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đã ban hành gặp nhiều khó khăn, đã ảnh hưởng không nhỏ đến ý thức sống và làm việc theo pháp luật của các 3
- cá nhân, tổ chức tạo nên rào cản lớn gây trở ngại cho sự phát triển ổn định kinh tế - xã hội của đất nước. Từ những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài là “Hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam” cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện nay, có một số luận án đã nghiên cứu các vấn đề chuyên ngành của luật xây dựng như: đề tài Phân cấp quản lý nhà nước về xây dựng của Ths. Đỗ Thị Hồng Mai, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2007; đề tài Pháp luật về các hình thức huy động vốn đầu tư xây dựng nhà ở tại Việt Nam, của Ths. Hà Thị Thu Trang, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014; đề tài Pháp luật về đăng ký quyền sở hữu nhà ở Việt Nam của Ths. Nguyễn Mạnh Khởi, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2010; đề tài Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng, liên hệ qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội của Ths. Quân Ngọc Anh năm 2009. Các luận án mới chỉ nghiên cứu, đánh giá các quy phạm pháp luật xây dựng ở từng lĩnh vực cụ thể mà chưa có công trình đánh giá tổng thể hệ thống pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, tồn tại một luận án tiến sĩ về hệ thống văn bản pháp luật về xây dựng cơ bản của Việt Nam là đề tài Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của ngành xây dựng của TS. Bùi Sĩ Hiển, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2004 nhưng luận án đã sử dụng các văn bản pháp luật hiện nay đã hết hiệu lực, chưa có đánh giá, so sánh với Luật xây dựng năm 2014 mới được ban hành trong thời gian vừa qua. Chính vì vậy, đề tài “Hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam” là mới so với các đề tài nghiên cứu trước đây. 4
- 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về xây dựng cơ bản, để xác định phương hướng và nội dung hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích cơ sở lý luận của sự hình thành và phát triển pháp luật về xây dựng cơ bản, những đặc điểm, đặc trưng pháp luật về xây dựng cơ bản; - Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về xây dựng cơ bản và từ thực tiễn thi hành pháp luật về xây dựng cơ bản trong thời gian qua, xác định phương hướng, đề xuất nội dung cụ thể hoàn thiện pháp luật về xây dựng cơ bản; - Trên cơ sở những vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật về xây dựng cơ bản, thực tiễn thi hành pháp luật về xây dựng cơ bản trong thời gian qua và có tham khảo một cách chọn lọc pháp luật của một số quốc gia khác, đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện nội dung, hình thức pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay. Trong đó tập trung vào việc hoàn thiện các quy định pháp luật về xây dựng cơ bản tạo khung pháp lý tối ưu cho việc tổ chức và hoạt đông quản lý xây dựng cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và hội nhập kinh tế thế giới. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên vận dụng các phương pháp khoa học như: phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp xã hội học, kết hợp phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích mô tả, phương pháp so sánh luật học, phương pháp tiếp cận thu thập thông tin, phương pháp nghiên cứu tài liệu… 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống pháp luật hiện hành về xây dựng cơ bản ở Việt Nam. Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng hệ 5
- thống pháp luật về xây dựng cơ bản, luận văn đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu công tác xây dựng pháp luật về xây dựng cơ bản trên cơ sở hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật xây dựng cơ bản và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Luận văn phân tích và khái quát các yêu cầu cụ thể chuyên ngành liên quan đến xây dựng cơ bản để làm nổi bật vấn đề quan tâm chủ yếu: hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài - Luận văn là công trình mới, đầu tiên, không trùng lặp với bất kỳ đề tài khoa học nào đã công bố trước đây và nghiên cứu một cách toàn diện, tập trung và trực tiếp vấn đề lý luận về pháp luật xây dựng cơ bản nhằm mục đích đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xây dựng cơ bản bao gồm hoàn thiện về hình thức và nội dung, theo hướng ngày càng đồng bộ, thống nhất, khả thi theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. - Luận văn hướng tới làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về xây dựng cơ bản, tạo tiền đề quan trọng cho hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản góp phần tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đúng với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách kinh tế vĩ mô, tạo hành lang pháp lý an toàn ổn định thúc đẩy sự phát triển bền vững đưa ngành xây dựng cơ bản nước nhà nhanh chóng tiến kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới. - Luận văn hoàn thành sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực xây dựng cơ bản, đặc biệt là các cơ quan 6
- ban hành chính sách pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, và các trường cao đẳng, đại học áp dụng, nghiên cứu ứng dụng trong công tác giảng dạy. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, thì nội dung Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực trạng Khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay. 7
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM 1.1. Vị trí, vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân 1.1.1. Khái niệm ngành xây dựng và các ngành trực tiếp có liên quan Ngành xây dựng là một ngành cơ bản trong nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia. Ngành xây dựng còn được gọi là lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Theo nghĩa này thì ngành xây dựng được hiểu là toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc đầu tư và xây dựng các công trình như tư vấn đầu tư và xây dựng (lập dự án, khảo sát, thiết kế, quản lý thực hiện dự án…), cung ứng vật tư, thiết bị xây dựng; thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị vào công trình, các tổ chức tài chính ngân hàng phục vụ xây dựng, các tổ chức nghiên cứu và đào tạo phục vụ xây dựng, các cơ quan Nhà nước trực tiếp liên quan đến hoạt động xây dựng và các tổ chức dịch vụ khác phục vụ xây dựng… [52, tr.7]. Lĩnh vực đầu tư mà ngành xây dựng quan tâm là lĩnh vực đầu tư được thực hiện thông qua việc xây dựng công trình để vận hành, sinh lợi và không bao gồm các lĩnh vực đầu tư khác như đầu tư tài chính, đầu tư không kèm theo các giải pháp xây dựng công trình. Trong nền kinh tế quốc dân, bên cạnh ngành xây dựng thì còn một số ngành nghề khác trực tiếp có liên quan và đóng một số vai trò nhất định đối với ngành xây dựng như ngành công nghiệp xây dựng, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành cơ khí xây dựng. Ngành công nghiệp xây dựng được hiểu là ngành thực hiện các hoạt động thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị thuộc công trình. Ngành công nghiệp xây dựng đóng vai trò là ngành kết thúc giai đoạn cuối cùng tạo thành công trình xây dựng. Ngành công nghiệp xây dựng hiện nay bao gồm tất cả các doanh nghiệp xây dựng và lắp máy thuộc quyền quản lý của nhiều ngành, bộ, địa phương [50, tr.7]. 8
- Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng là ngành sản xuất các vật liệu xây dựng và cấu kiện xây dựng. Về bản chất, đây là ngành công nghiệp sản xuất vật chất độc lập. Thông thường trong các doanh nghiệp xây dựng vẫn có các hoạt động sản xuất kinh doạnh vật liệu xây dựng. Ngành cơ khí xây dựng là ngành sản xuất các máy móc, thiết bị xây dựng để cung cấp cho ngành công nghiệp xây dựng. 1.1.2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và các chủ thể tham gia vào quá trình hình thành công trình xây dựng Ngành xây dựng tạo ra sản phẩm cuối cùng được gọi là sản phẩm xây dựng và sản phẩm xây dựng có những đặc điểm riêng, khác với sản phẩm của các ngành nghề khác trong nền kinh tế quốc dân. 1.1.2.1. Khái niệm về sản phẩm xây dựng Theo nghĩa rộng, sản phẩm xây dựng với tư cách là công trình xây dựng đã hoàn chỉnh là tổng hợp và kết tinh sản phẩm của nhiều ngành sản xuất khác như các ngành chế tạo máy, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành năng lượng, hóa chất, luyện kim… và cuối cùng là của ngành xây dựng đóng vai trò tổ chức cấu tạo công trình ở khâu cuối cùng để đưa vào hoạt động. Sản phẩm trực tiếp của ngành công nghiệp xây dựng chỉ bao gồm phần kiến tạo các kết cấu xây dựng làm chức năng nâng đỡ, bao che và phần lắp đặt các thiết bị máy móc cần thiết vào công trình cât dựng để đưa chúng vào hoạt động. Các sản phẩm xây dựng thường rất lớn và phải xây dựng trong thời gian dài nên để phù hợp với công việc thanh quyết toán cần phân biệt sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng của xây dựng. Sản phẩm trung gian có thể là công việc xây dựng, các giai đoạn, các đợt xây dựng đã hoàn thành và bàn giao. Sản phẩm cuối cùng là các công trình hay hạng mục công trình xây dựng đã hoàn chỉnh và có thể bàn giao đưa vào sử dụng. [57,tr.12] 1.1.2.2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng Sản phẩm xây dựng với tư cách là công trình xây dựng có rất nhiều đặc điểm riêng biệt khác với các sản phẩm của ngành sản xuất khác. 9
- Sản phẩm xây dựng bao gồm các đặc điểm: Thứ nhất, sản phẩm xây dựng có tính lưu động và thiếu ổn định. Điều này có thể được lý giải bởi sản phẩm xây dựng là công trình, nhà cửa được xây dựng và sử dụng tại chỗ nhưng lại phân bố tản mạn khắp các vùng lãnh thổ. Thứ hai, sản phẩm xây dựng có kích thước lớn, thời gian xây dựng và sử dụng lâu dài; trong quá trình hình thành nên sản phẩm xây dựng đòi hỏi nhu cầu về vốn, lao động, vật tư, máy móc, thiết bị thi công rất lớn. Do đó, các chủ thể tham gia vào quá trình tạo nên sản phẩm phải tránh những sai sót, giảm thiểu lãng phí. Thứ ba, sản phẩm xây dựng đa dạng, phức tạp, có tính cá biệt cao về công dụng, về chế tạo. Thứ tư, sản phẩm xây dựng có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lực lượng khác nhau cùng hợp thành. Vì vậy, việc quản lý đầu tư xây dựng rất phức tạp. Thứ năm, sản phẩm xây dựng ảnh hưởng và tác động lớn đến kiến trúc cảnh quan, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và do đó liên quan rất nhiều đến lợi ích của công đồng dân cư địa phương nơi xây dựng công trình. Ví dụ, khi xây dựng một nhà máy thủy điện tại một địa phương, việc xây dựng, vận hành nhà máy thủy điện sẽ có tác động tới nguồn lợi đất và hệ sinh thái trên đất; tác động đến thế giới động vật do hồ chứa nước của các công trình thủy điện chiếm dịch tích lớn mất đi hệ quần thể thực vật vốn là thức ăn nuôi sống động vật; tác động đến người dân sinh sống từ trước ở khu vực hồ nước như phải di chuyển nơi sinh sống đến khu tái định cư mới… Thứ sáu, sản phẩm xây dựng mang tính chất tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hóa, nghệ thuật và quốc phòng. 1.1.3. Vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân Nhìn chung, mỗi ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân đều có một sứ mệnh cụ thể và đóng góp lợi ích nhất định trong việc hình thành, duy trì và 10
- phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia. Trong đó, ngành xây dựng được coi là một ngành có vai trò đặc biệt quan trọng, điều này được thể hiện ở một số điểm sau đây: Thứ nhất, ngành xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn (ngành cấp 1) của nền kinh tế, đóng vai trò chủ chốt ở khâu cuối cùng tạo nên cơ sở vật chất, kỹ thuật và tài sản cố định cho mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội dưới mọi hình thức. Nhìn vào diện mạo đô thị Việt Nam ngày nay thì có thể thấy phần nào vị trí quan trọng và sức lớn mạnh của ngành xây dựng để khẳng định vị trí của một ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Theo sự đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì ngành xây dựng ở nước ta là một ngành có khả năng dẫn dắt nền kinh tế và đem lại nguồn thu nhập quốc dân rất lớn. Ngoài ra, với sự phát triển của ngành xây dựng thì mạng lưới đô thị quốc gia được sắp xếp lại, mở rộng và phát triển trên cả nước, góp phần quan trọng tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn và đô thị. Ngành xây dựng cũng huy động mọi nguồn vốn đầu tư, phát triển để xây dựng nhà ở… đáp ứng nhu cầu của xã hội. [50, tr.10] Thứ hai, ngành xây dựng trực tiếp góp phần thay đổi các mối quan hệ phát triển giữa các ngành kinh tế như: quan hệ giữa phát triển công nghiệp với nông nghiệp, quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa giáo dục và các mối quan hệ khác. Về mặt kinh tế các công trình được xây dựng lên là thể hiện cụ thể đường lối phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước, làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, đẩy mạnh tốc độ và nhịp điệu tăng năng xuất lao động xã hội và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Về mặt chính trị và xã hội các công trình được xây dựng lên sẽ góp phần mở rộng các vùng công nghiệp và các khu đô thị mới. Về mặt văn hóa và nghệ thuật các công trình được xây dựng lên ngoài việc góp phần mở mang đời sống cho nhân dân, đồng thời còn làm phong phú thêm cho nền nghệ thuật của đất nước. 11
- 1.2. Khái niệm và cấu trúc của khung pháp luật về Xây dựng cơ bản 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư xây dựng - đối tượng điều chỉnh của pháp luật về xây dựng cơ bản a) Khái niệm đầu tư xây dựng Xét về nghĩa chung nhất, đầu tư được hiểu là sự sử dụng các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai. Nguồn lực được sử dụng có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ và thu được các kết quả có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực. Căn cứ vào bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, đầu tư được phân biệt thành các loại như sau: Thứ nhất, đầu tư tài chính. Đây là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu...). Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Thứ hai, đầu tư thương mại. Đây là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho chênh lệch giá khi mua và bán. Giống như đầu tư tài chính, đầu tư thương mại không tạo ra tài sản mới cho nên kinh tế mà chỉ tăng tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư, giữa người đầu tư với khách hàng. Thứ ba, đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là việc chỉ dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà máy, thiết bị, công trình...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng...), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Tùy theo nội dung tiếp cận mà hoạt động này sẽ bao gồm nhiều nội dung khác nhau. Căn cứ vào lĩnh vực phát huy tác dụng, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng- kỹ 12
- thuật chung của nền kinh tế, đầu tư phát triển văn hoá giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội khác, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và những nội dung khác. Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư phát triển những tài sản vật chất, đầu tư phát triển những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển tài sản vật chất bao gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng) và đầu tư vào hàng tồn trữ. Đầu tư phát triển tài sản vô hình bao gồm: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu các hoạt động khoa học, kỹ thuật... Như vậy, có thể thấy đầu tư xây dựng là một nội dung của đầu tư phát triển, là hoạt động nhằm tái tạo tài sản cố định. Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra khái niệm về đầu tư xây dựng như sau: Đầu tư xây dựng được hiểu là việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất định. b) Đặc điểm của đầu tư xây dựng Có thể dễ nhận thấy đầu tư xây dựng tạo ra những sản phẩm như nhà ở, đường, trường học, bệnh viện, trụ sở cơ quan... nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của xã hội nên việc tạo ra những sản phẩm có hiệu quả có ý nghĩa về mặt kinh tế và mặt xã hội. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nước ta, một nước đang phát triển. Đầu tư xây dựng mang nhiều đặc tính của cả công nghiệp sản xuất và công nghiệp dịch vụ. Giống với các ngành sản xuất khác, nó cũng có các sản phẩm vật chất, các sản phẩm này có kích thước, giá thành và sự phức tạp đa dạng. Mặt khác, đầu tư xây dựng lại mang đặc điểm của một ngành công nghiệp dịch vụ vì đầu tư xây dựng không tích luỹ một lượng vốn đáng kể so với các ngành công nghiệp sản xuất khác như thép, dầu khí...; sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp xây dựng phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực của con người nhiều hơn là vào kỹ thuật. Một số đặc điểm chủ yếu của đầu tư xây dựng: 13
- Thứ nhất, đầu tư xây dựng gắn liền với đất đai và phải phù hợp với quy hoạch xây dựng Theo Khoản 2 Điều 3 Luật xây dựng năm 2003, “Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất….” nên sản phẩm xây dựng là yếu tố luôn gắn liền với đất đai và muốn đầu tư xây dựng thì trước tiên phải có đất đai. Đối với công trình xây dựng, điều cốt yếu là lựa chọn vị trí khu đất xây dựng công trình, rồi sau mới đến việc thiết kế phương án kiến trúc, thiết kế xây dựng cho phù hợp với vị trí và cảnh quan khu vực xung quanh khu đất. Bên cạnh đó, trong các nội dung của đầu tư phát triển, chỉ có đầu tư xây dựng là gắn với quy hoạch xây dựng, quy hoạch xây dựng phải đi trước một bước, là tiền đề cho đầu tư xây dựng. Việc đầu tư xây dựng phải phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Mặt khác, hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng phụ thuộc vào chất lượng công tác quy hoạch. Quy hoạch xây dựng là cơ sở cho việc triển khai các hoạt động đầu tư xây dựng, kiểm soát quá trình phát triển đô thị và các khu chức năng, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động xây dựng, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường. Quy hoạch xây dựng là căn cứ cho việc hình thành các dự án và là cơ sở để quản lý đầu tư xây dựng và quản lý trật tự xây dựng. Nếu không có quy hoạch xây dựng thì việc đầu tư xây dựng sẽ không có trọng tâm, trọng điểm hoặc gây ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng xấu đến môi trường nói chung, dẫn đến mất cân bằng sinh thái, thiếu sự hài hoà trong việc tổ chức không gian và sự đồng bộ trong việc kết nối các công trình hạ tầng kỹ thuật ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội. Quy hoạch xây dựng tạo ra động lực phát triển bền vững của vùng, miền; kiểm soát được quá 14
- trình đầu tư xây dựng công trình; là căn cứ để xử lý, giải quyết tranh chấp trong hoạt động xây dựng; kiểm soát sự phát triển đô thị, xã hội, môi trường, hạ tầng kỹ thuật đồng bộ. Trong trường hợp dự án không có trong quy hoạch ngành được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì nhà đầu tư phải báo cáo Bộ quản lý ngành hoặc địa phương theo phân cấp để xem xét, chấp thuận bổ sung quy hoạch theo thẩm quyền hoặc trình Thủ tướng chính phủ chấp thuận bổ sung quy hoạch trước khi lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Vị trí, quy mô xây dựng công trình parhi phù hợp với quy hoạch xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trường hợp dự án chưa có trong quy hoặc xây dựng thì vị trí, quy mô xây dựng phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận bằng văn bản đối với các dự án nhóm A hoặc có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt về quy hoạch đối với những dự án nhóm B, C. Thời gian xem xét, chấp thuận về quy hoạch ngành hoặc quy hoạch xây dựng không quá 15 ngày làm việc. Thứ hai, kết quả của hoạt động đầu tư xây dựng được hình thành trong tương lai và phụ thuộc rất nhiều vào nhà thầu tham gia quá trình đầu tư xây dựng Có thể khẳng định rằng, việc tìm ra người làm ra sản phẩm xây dựng là mối quan tâm đầu tiên của chủ đầu tư mà không phải là sản phẩm xây dựng. Điều này được lí giải vì không phải tất cả các chủ đầu tư đều am hiểu về sản phẩm xây dựng để đưa ra yêu cầu cho nhà thầu thực hiện. Vì thế, chủ thể tham gia vào lĩnh vực đầu tư xây dựng bao gồm rất nhiều bên như các công ty tư vấn thực hiện các công việc thăm dò, khảo sát địa chất, quy hoạch, thiết kế, giám sát, quản lý dự án...; các nhà thầu thi công xây dựng nhằm giúp chủ đầu tư hoàn thành sản phẩm xây dựng trong khuôn khổ vốn đầu tư và thời gian đã được xác định trước theo tiến độ thực hiện dự án. Tuỳ thuộc vào mức độ chuyên ngành và quy mô tổ chức của đơn vị xây dựng, quá trình xây dựng có thể được chia thành các công đoạn khác nhau 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn