Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
lượt xem 9
download
Việc nghiên cứu đề tài luận văn nhằm các mục đích: Xác định khái niệm về công nghệ, chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích các cách tiếp cận khác nhau về các khái niệm này; trên cơ sở đó làm rõ bản chất pháp lý, các nội dung chủ yếu, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật hiện hành.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Danh Sơn
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục mở đầu 1 Chương 1: những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng chuyển giao 6 công nghệ 1.1. Những vấn đề cơ bản về công nghệ và chuyển giao công 6 nghệ 1.1.1. Khái niệm công nghệ và vai trò của công nghệ 6 1.1.1.1. Khái niệm công nghệ 6 1.1.1.2. Vai trò của công nghệ 13 1.1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển giao công nghệ 15 1.1.2.1. Khái niệm chuyển giao công nghệ 15 1.1.2.2. Phân loại chuyển giao công nghệ 17 1.2. Những vấn đề cơ bản về hợp đồng chuyển giao công nghệ 22 1.2.1. Khái niệm và những đặc trưng của hợp đồng chuyển giao 22 công nghệ 1.2.2. Phân loại hợp đồng chuyển giao công nghệ 28 1.2.2.1 Phân loại theo tính độc lập của hợp đồng chuyển giao công 28 nghệ 1.2.2.2. Phân loại theo thủ tục hành chính liên quan 29 1.2.3. Những nguyên tắc của hợp đồng chuyển giao công nghệ 30
- 1.2.3.1. Các nguyên tắc chung 30 1.2.3.2. Các nguyên tắc chuyên biệt 31 1.2.4. Một số vấn đề cơ bản về nội dung hợp đồng chuyển giao 33 công nghệ 1.2.4.1. Điều khoản chủ yếu của hợp đồng chuyển giao công nghệ 33 1.2.4.2. Điều khoản thông thường và điều khoản tùy nghi của hợp 35 đồng chuyển giao công nghệ 1.2.5. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc giao kết và thực 36 hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ (hay ảnh hưởng đến hoạt động chuyển giao công nghệ) Chương 2: pháp luật hiện hành về hợp đồng chuyển giao công nghệ 41 2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng 41 chuyển giao công nghệ ở Việt Nam 2.1.1. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về hợp đồng chuyển 41 giao công nghệ 2.1.2. Mối quan hệ giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh về hợp 47 đồng chuyển giao công nghệ 2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về hợp đồng chuyển 50 giao công nghệ 2.2.1. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng chuyển giao công nghệ 50 2.2.1.1. Đối tượng chuyển giao công nghệ 50 2.2.1.2. Phương thức chuyển giao công nghệ 56 2.2.1.3. Những quy định về giá cả và phương thức thanh toán 58 2.2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng chuyển 62 giao công nghệ 2.2.1.5. Hiệu lực của hợp đồng chuyển giao công nghệ 67 2.2.2. Giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng chuyển giao công 67
- nghệ 2.2.3. Đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ, xin phép chuyển 72 giao công nghệ Chương 3: thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao 76 công nghệ và một số kiến nghị 3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao 76 công nghệ 3.1.1. Tình hình thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao 76 công nghệ 3.1.2. Những bất cập cơ bản của pháp luật về hợp đồng chuyển 84 giao công nghệ 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng 91 chuyển giao công nghệ 3.2.1. Những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung pháp luật về hợp 91 đồng chuyển giao công nghệ 3.2.2. Những kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về hợp 97 đồng chuyển giao công nghệ kết luận 100 danh mục tài liệu tham khảo 101
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, việc Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội kinh doanh thuận lợi và tăng khả năng thâm nhập thị trường các nước thành viên cho các doanh nghiệp của Việt Nam, là chìa khóa để đưa nền kinh tế Việt Nam tiếp tục hội nhập với kinh tế quốc tế. Trong hơn một năm kể từ ngày Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO vào ngày 28/11/2006 và sự kiện Hạ viện Hoa Kỳ phê chuẩn quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam vào ngày 09/12/2006, Việt Nam đã đón nhận rất nhiều dòng đầu tư nước ngoài mới vào Việt Nam, đồng thời chứng kiến sự tăng trưởng và phát triển vượt bậc của các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế trong nước. Cùng với sự phát triển nhanh chóng cả về đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, các hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam cũng diễn ra mạnh mẽ cả về quy mô và số lượng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, công nghệ sẽ là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ý thức và hiểu rõ được tầm quan trọng của công nghệ và chuyển giao công nghệ đối với sự phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã và đang luôn dành sự quan tâm đặc biệt trong lĩnh vực này, ngay từ những ngày đầu thực hiện chính sách mở cửa. Việc xây dựng một hệ thống các quy định pháp luật hoàn chỉnh điều chỉnh tổng thể hoạt động chuyển giao công nghệ, trong đó đặc biệt là các vấn đề liên quan đến hợp đồng chuyển giao công nghệ là một nhu cầu tất yếu. Thông qua cơ chế pháp luật, việc kiểm soát và điều tiết các hoạt động chuyển giao công nghệ có thể được thực hiện có hiệu quả, góp phần vào việc chọn lọc được các công nghệ tiến bộ có giá trị từ nước ngoài, hạn chế tình trạng chảy máu ngoại tệ do những công nghệ lạc hậu và đồng thời khuyến khích các hoạt động chuyển giao công nghệ trong nước và từ Việt Nam ra nước ngoài. 1
- Ở Việt Nam, nếu tính từ Quyết định số 175-CP ngày 29/04/1981 về ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật, đã có rất nhiều các văn bản pháp quy được ban hành điều chỉnh các vấn đề về chuyển giao công nghệ, đặc biệt là về hợp đồng chuyển giao công nghệ, ví dụ, Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam ngày 05/12/1981, Bộ luật Dân sự 1995, Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 01/07/1998, Nghị định 11/2005/NĐ-CP ngày 2/02/2005 v.v..., bước đầu đã tạo ra được môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động chuyển giao công nghệ nói chung và quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ nói riêng. Các văn bản pháp luật này, bên cạnh việc quy định điều chỉnh các vấn đề có tính nguyên tắc về chuyển giao công nghệ, đều luôn dành những điều khoản điều chỉnh các vấn đề liên quan hợp đồng chuyển giao công nghệ như nội dung hợp đồng chuyển giao công nghệ, các vấn đề liên quan đến đăng ký đến đăng ký, phê chuẩn hợp đồng chuyển giao công nghệ v.v..., tạo cơ sở pháp lý bảo đảm các quyền và lợi ích của các bên có liên quan trong giao dịch. Tuy nhiên, do thực tiễn và yêu cầu vào thời điểm ban hành các văn bản pháp quy nói trên đã có nhiều thay đổi và không còn phù hợp với hiện tại. Kế thừa và khắc phục các thiếu sót của các quy định pháp luật trước đó, Luật Chuyển giao công nghệ đã được ban hành vào ngày 22/11/2006 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2007, đã đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu đặt ra từ thực tiễn. Nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất các vấn đề liên quan đến hợp đồng chuyển giao công nghệ - loại hợp đồng có đối tượng rất đặc thù là công nghệ dưới cả góc độ pháp lý và thực tiễn sẽ góp phần làm sáng tỏ nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chuyển giao công nghệ, đồng thời có những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chuyển giao công nghệ nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung. Trong khuôn khổ của chương trình đào tạo cao học luật và tính cấp thiết của các vấn đề như đã trình bày trên đây, người viết đã chọn đề tài "Hợp đồng 2
- chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành" làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu và điểm mới của đề tài Nghiên cứu về hợp đồng chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập hiện nay là một vấn đề khá mới. Cho đến nay, chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ mới chỉ được nghiên cứu thông qua một số công trình khoa học được trình bày trên các tạp chí khoa học và một số luận văn thạc sĩ luật học như: luận văn thạc sĩ luật học tại Đại học Luật Hà Nội - Đại học Panthéon Assas Paris II năm 2004 của tác giả Lê Ngọc Bích với đề tài “Pháp luật về chuyển giao công nghệ - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện; luận văn thạc sĩ luật học tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1998 của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương với đề tài "Pháp luật về chuyển giao công nghệ ở Việt Nam". Các công trình nghiên cứu này đã đưa ra được những phân tích, luận giải các vấn đề về công nghệ, chuyển giao công nghệ cũng như đã chỉ ra được các bản chất pháp lý về hình thức và nội dung của hợp đồng chuyển giao công nghệ theo các quy định pháp luật về chuyển giao công nghệ được ban hành trước thời điểm năm 2005. Tuy nhiên, kể từ khi Luật Chuyển giao công nghệ được ban hành cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện về hợp đồng chuyển giao công nghệ theo các quy định mới và tình hình thực tiễn ở Việt Nam, để qua đó có thể chỉ ra và phân tích được những ưu điểm và thiếu sót trong các quy định pháp luật hiện hành. Trên cơ sở định hướng nghiên cứu và tiếp tục kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đó, người viết trình bày một số quan điểm khoa học của mình nhằm góp phần làm sáng tỏ các nội dung: - Hệ thống hóa các quan điểm khoa học về công nghệ - đối tượng của hợp đồng chuyển giao công nghệ, đồng thời phân tích các vấn đề cơ bản nhất về chuyển giao công nghệ. 3
- - Phân tích và làm rõ khái niệm và những đặc trưng cơ bản của hợp đồng chuyển giao công nghệ về chủ thể ký kết, nội dung, nguyên tắc... để xác định đầy đủ về dạng hợp đồng này. - Phân tích sâu về các vấn đề của hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng, qua đó đưa ra các đánh giá khách quan về các nội dung tiến bộ cũng như các bất cập còn tồn tại nhằm đưa ra các đề xuất đối với việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng chuyển giao công nghệ. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu đề tài luận văn nhằm các mục đích: Xác định khái niệm về công nghệ, chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích các cách tiếp cận khác nhau về các khái niệm này; trên cơ sở đó làm rõ bản chất pháp lý, các nội dung chủ yếu, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật hiện hành. Để đạt được mục đích nghiên cứu này, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu các khái niệm, quan điểm khoa học về công nghệ, chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ, để xác định các đặc trưng của hợp đồng chuyển giao công nghệ. - Đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam bao gồm: nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, từ đó chỉ ra những tồn tại trong các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng chuyển giao công nghệ; đề xuất kiến nghị, phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện các quy định pháp luật này đáp ứng các đòi hỏi của thực tiễn. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật hiện hành. Để đảm bảo dung lượng của luận văn, người viết chỉ tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản, chung nhất về hợp đồng chuyển giao công nghệ mà không đi sâu vào từng dạng hợp đồng chuyên biệt. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp cũng được sử dụng khi nghiên cứu đề tài. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng chuyển giao công nghệ. Chương 2: Pháp luận hiện hành về hợp đồng chuyển giao công nghệ. Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ và một số kiến nghị. 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ 1.1.1. Khái niệm công nghệ và vai trò của công nghệ 1.1.1.1. Khái niệm công nghệ Ngày nay, với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật như vũ bão và được coi là một yếu tố không thể thiếu của lực lượng sản xuất thì công nghệ trở thành mối quan tâm đặc biệt của doanh nhân, các trung tâm nghiên cứu và của tất cả các quốc gia. Không ai còn nghi ngờ về vai trò to lớn của công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, Việt Nam đã và đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công nghệ lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thuật ngữ công nghệ (tiếng Anh là technology) có nguồn gốc từ hai thuật ngữ Hy Lạp cổ là techne có nghĩa là kỹ năng hoặc cách thức cần thiết để làm một cái gì đó và logos có nghĩa là khoa học, kiến thức hay sự nghiên cứu về một cái gì đó [28, tr. 13]. Như vậy, thực chất của thuật ngữ công nghệ là việc ứng dụng những kỹ năng có được từ sự nghiên cứu, khám phá. Hiện nay có nhiều cách tiếp cận đối với khái niệm công nghệ. Theo Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (United Nation’s Industrial Development Organization, viết tắt là UNIDO) thì công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý nó một cách có phương pháp và có hệ thống [29, tr. 8]. Định nghĩa này của UNIDO gắn bản chất công nghệ với các ứng dụng chỉ trong lĩnh vực công nghiệp và chỉ nhấn mạnh đến một thuộc tính của công nghệ là tính khoa học mà thôi. Nguyên nhân của thực tế này là do thuật ngữ công nghệ do UNIDO 6
- định nghĩa chỉ nhằm phục vụ cho hoạt động trong khuôn khổ của UNIDO mà thôi. Theo hướng mở rộng khái niệm công nghệ của UNIDO, Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á - Thái Bình Dương (Economic and Social Commision for Asia anh the Pacific - viết tắt là ESCAP) cho rằng: "Công nghệ là tập hợp các công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực sản xuất trung gian thành hàng hóa tiêu dùng hoặc các nguồn lực trung gian khác". Công cụ, phương tiện ở đây được hiểu là "tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin" [29, tr. 8]. Khái niệm công nghệ của ESCAP đã mở rộng nhiều so với khái niệm của UNIDO, đã bao quát, thể hiện thực chất về công nghệ. Khái niệm công nghệ không còn bị bó hẹp trong phạm vi một ngành sản xuất trực tiếp là ngành công nghiệp, mà còn bao quát cả lĩnh vực dịch vụ, quản lý và thông tin. Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới (WIPO) cũng đưa ra khái niệm công nghệ tương tự như UNIDO nhưng mở rộng phạm vi áp dụng của công nghệ không chỉ là công nghiệp mà còn những lĩnh vực khác như nông nghiệp và thương mại. Theo WIPO, công nghệ là "hệ thống những kiến thức được sử dụng để sản xuất ra một sản phẩm, ứng dụng một dây chuyền sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ, bất kể những kiến thức này đã được thể hiện trong văn bản bảo hộ sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích, những cây trồng mới, hoặc các kỹ năng hay thông tin kỹ thuật, hoặc các dịch vụ do các chuyên gia thực hiện để thiết kế, lắp đặt, vận hành hoặc bảo trì cho một nhà máy sản xuất công nghiệp, hoặc các dịch vụ quản lý xí nghiệp công nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh thương mại" [33, tr. 5]. Các nhà khoa học Việt Nam cũng đưa ra nhiều cách tiếp cận với khái niệm công nghệ, trong đó đáng chú ý là quan điểm của GS. Đặng Hữu khi cho rằng: "Công nghệ là một tập hợp những hiểu biết về các phương pháp, kỹ năng, quy tắc được sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra 7
- một sản phẩm. Sự tác động này phải thông qua những phương tiện vật chất như máy móc, thiết bị…" [24, tr. 18]. Theo cách hiểu này, công nghệ bao gồm phần cứng và phần mềm. Phần cứng là có thể những vật thể hàm chứa công nghệ như nhà máy, dây chuyền sản xuất, thiết bị phụ trợ…, còn phần mềm là những kiến thức có hệ thống, tổ chức đã được tư liệu hóa như sáng chế, giải pháp hữu ích, bí quyết, số liệu hoặc thông tin công nghệ khác.... được thể hiện trong các hình thức lưu trữ cụ thể. Một số nhà kinh tế học lại cho rằng, "công nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra" [29, tr. 9]. Tóm lại, các khái niệm công nghệ theo các cách tiếp cận khác nhau có ý nghĩa về mặt khoa học giúp nhận thức được bản chất của công nghệ. Tuy nhiên, khái niệm công nghệ theo quan điểm của Giáo sư Đặng Hữu thì công nghệ bắt buộc phải bao gồm các công cụ, phương tiện nhất định. Điều này có thể bó hẹp khái niệm về công nghệ, đôi khi sẽ làm việc chuyển giao công nghệ bị giới hạn trong các giao dịch mua, bán, chuyển nhượng dây chuyền sản xuất hoặc máy móc thiết bị. Dưới giác độ pháp lý, công nghệ được đề cập đến trong Bộ luật Dân sự 2005, nhưng văn bản này cũng không đưa ra khái niệm về công nghệ mà chỉ đưa ra những đối tượng của hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Điều 755 Bộ luật Dân sự, đối tượng chuyển giao công nghệ bao gồm: bí quyết kỹ thuật, kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, chương trình máy tính, thông tin dữ liệu được chuyển giao, giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ, cấp phép đặc quyền kinh doanh và các đối tượng khác do pháp luật về chuyển giao công nghệ quy định. Điều này cũng dễ giải thích vì hai lý do: thứ nhất, Bộ luật Dân sự chỉ quy định những vấn đề điều chỉnh chung, bao quát còn những nội dung cụ thể sẽ do các văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh; thứ hai, bản thân Bộ luật Dân sự chỉ hướng tới điều chỉnh đến những giao dịch dân sự liên quan đến công nghệ, chứ không phải bản thân công nghệ. Liên quan đến vấn đề này, người viết cho rằng, trước 8
- thực trạng không thống nhất về khái niệm công nghệ, Bộ luật Dân sự 2005 thực chất đã khôn khéo tránh việc đưa ra khái niệm công nghệ mà chỉ quy định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự đối với lĩnh vực này thông qua việc liệt kê các đối tượng của hoạt động chuyển giao công nghệ. Chính vì vậy, khái niệm công nghệ chỉ được đề cập cụ thể trong những văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Luật Chuyển giao công nghệ, khái niệm công nghệ được xác định một cách cụ thể, rõ ràng tại mục 2, Điều 3 của Luật này như sau: Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm. Đây là một khái niệm tuy ngắn gọn, súc tích nhưng rất đầy đủ. Dựa trên khái niệm công nghệ này, người viết có thể có được các nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến công nghệ trong luận văn này. Để xem xét một cách toàn diện khái niệm công nghệ, cần thiết phải nắm được những đặc trưng của công nghệ. Từ khái niệm công nghệ nêu trên, có thể rút ra một số nhận định mang tính lý luận. Cụ thể, công nghệ có các đặc trưng cơ bản sau đây: - Tính hệ thống của công nghệ Hệ thống được hiểu là sự liên kết chặt chẽ của nhiều thành tố để đạt được kết quả nhất định. Không thể nhìn nhận công nghệ như những thành tố riêng rẽ, bởi công nghệ chỉ phát huy tác dụng của nó nếu có sự phối hợp và liên hệ chặt chẽ giữa các thành tố khác nhau của công nghệ. Trên thực tế, việc chuyển giao từng thành tố của công nghệ không phủ nhận bản chất của công nghệ phải là tập hợp cần và đủ các thành tố tương ứng tạo nên. Kinh nghiệm cho thấy không ít trường hợp, sự tách rời của từng thành tố công nghệ vẫn có thể được chấp nhận nếu như bên ứng dụng công nghệ có khả năng tự mình đáp ứng được những thành tố còn lại. Ví dụ, việc chuyển giao công nghệ có thể chỉ là việc chuyển giao những tài liệu kỹ thuật, nếu bên nhận chuyển giao tự mình có thể hiểu và áp dụng được chúng. Như vậy, thực chất công nghệ 9
- được chuyển giao vẫn đủ tất cả các thành tố cần thiết, mặc dù không được chuyển giao tất cả. Từ việc phân tích trên đây, có thể nhận thấy công nghệ bao hàm các thành tố sau: Một là, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu (technoware - phần cứng). Phần này được gọi là phần kỹ thuật của công nghệ, đóng vai trò như những phương tiện vật chất để thể hiện công nghệ. Hai là, kỹ năng, kinh nghiệm, bí quyết kinh doanh của con người (humanware). Thành tố này rất quan trọng, giúp cho việc ứng dụng công nghệ đạt hiệu quả cao, nhanh chóng và với chi phí hợp lý. Nó cũng đảm bảo rằng, công nghệ có thể được tiếp nhận, thay đổi và cải tiến cho phù hợp với hoàn cảnh. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc áp dụng công nghệ hay (còn được gọi là thể chế) cũng đóng một vai trò quan trọng. Nó bao gồm việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và giải quyết những đòi hỏi của quy trình quản lý. Mặc dù thể chế không bao hàm những tri thức căn bản làm nên công nghệ nhưng nó lại đảm bảo cho sự áp dụng có hiệu quả của công nghệ. Một số tác giả cho rằng đây là thành tố thứ tư của công nghệ [16, tr. 26], nhưng theo người viết, đây chỉ là một phần cấu thành nên thành tố thứ hai, vì những kinh nghiệm tổ chức cũng nằm trong tổng thể những kinh nghiệm nhằm áp dụng công nghệ đạt hiệu quả cao, rất có ý nghĩa đối với hoạt động chuyển giao công nghệ. Ba là, tài liệu kỹ thuật bao gồm các thiết kế, bản vẽ, hướng dẫn nghiệp vụ, bí quyết kỹ thuật… Thành tố này được coi là phần thông tin của công nghệ, thể hiện những tri thức công nghệ được tư liệu hóa. - Tính ứng dụng của công nghệ Công nghệ phải có tính ứng dụng trên thực tế nhằm giải quyết những vấn đề nhất định nhằm phục vụ lợi ích của con người. Tính ứng dụng của công nghệ thể hiện ở chỗ, việc tuân theo công nghệ sẽ làm cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao hơn như tăng năng suất, giảm chi phí, gia tăng tính năng của sản phẩm hoặc để phát triển những công nghệ mới, sản phẩm mới. Chính 10
- khả năng ứng dụng của công nghệ là động lực để phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ và hình thành thị trường công nghệ. - Tính trao đổi của công nghệ Đặc trưng này cho thấy bản thân công nghệ có thể được tiếp nhận, dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác và giữa các cá nhân, tổ chức khác nhau. Sự trao đổi công nghệ là vô cùng quan trọng nhằm đạt hiệu quả cao trong việc biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Mặc dù tính trao đổi của công nghệ chỉ thể hiện dưới dạng khả năng, còn phụ thuộc rất nhiều các yếu tố khác như khuôn khổ pháp lý, sự bảo hộ, khả năng tiếp nhận… nhưng đó đảm bảo rằng công nghệ có thể được ứng dụng rộng rãi để phục vụ lợi ích của con người. Tính trao đổi của công nghệ là thuộc tính gắn liền với tính ứng dụng của công nghệ. Công nghệ có khả năng ứng dụng thì mới nảy sinh nhu cầu tiếp nhận cũng như chuyển giao. Việc trao đổi công nghệ sẽ cho phép bên chuyển giao có thể tiếp tục phát triển công nghệ mới, còn bên nhận chuyển giao sẽ được ứng dụng công nghệ tiên tiến với chi phí thấp hơn (thay vì phải nghiên cứu để sáng tạo ra công nghệ đó). - Tính giới hạn của công nghệ Tính giới hạn của công nghệ được hiểu là bản thân công nghệ đang áp dụng hoặc chưa áp dụng cũng có thể sẽ nhanh chóng bị lạc hậu và được thay thế bởi những công nghệ mới tiên tiến hơn. Tính giới hạn của công nghệ đòi hỏi công nghệ phải luôn được đổi mới, bắt kịp sự đòi hỏi của nền kinh tế xã hội. Chính vì công nghệ có tính giới hạn, mà việc áp dụng công nghệ càng phải được triển khai nhanh chóng để đạt được hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, công nghệ cũng cần được phổ biến rộng rãi nhằm tăng cường khả năng ứng dụng của công nghệ trong cuộc sống, đồng thời đảm bảo lợi ích cho chủ sở hữu công nghệ. Điều này đòi hỏi cần có những chính sách và pháp luật phù hợp để có thể khuyến khích nghiên cứu, phát triển hoặc tiếp nhận những công nghệ mới và nhanh chóng ứng dụng công nghệ để tạo ra những sản phẩm hàng hóa có giá trị cao. 11
- Từ việc xem xét, phân tích những đặc trưng của công nghệ, có thể nhận thấy rằng, việc đưa ra khái niệm mẫu mực về công nghệ là một thách thức không đơn giản. Bản thân công nghệ luôn có sự biến đổi, phát triển, chuyển hóa dưới nhiều hình thức khác nhau nên càng không dễ dàng đưa ra được khái niệm chuẩn xác. Mỗi một cách tiếp cận khái niệm công nghệ đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, phù hợp với mục tiêu của việc sử dụng khái niệm ấy mà thôi. Để làm rõ hơn nội hàm của khái niệm công nghệ, thiết nghĩa cần phải phân biệt khái niệm công nghệ với một vài khái niệm dễ gây nhầm lẫn như là khoa học và kỹ thuật. Khoa học là "hệ thống tri thức về thế giới khách quan" [32, tr. 269]. Khoa học để chỉ những hiểu biết của con người về thế giới được định hình bằng các khái niệm, các phạm trù và quy luật. Giữa khoa học và công nghệ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khoa học đóng vai trò là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển của công nghệ. Ngược lại, công nghệ có ảnh hưởng đáng kể đến xu hướng nghiên cứu và là động lực của khoa học. Tuy cùng là sản phẩm trí tuệ của con người, nhưng giữa khoa học và công nghệ có những sự khác biệt nhất định. Thứ nhất, nếu như khoa học chỉ hướng tới việc tìm hiểu bản chất của thế giới thì công nghệ lại chú trọng đến việc áp dụng những hiểu biết ấy để tạo ra những sản phẩm phục vụ lợi ích của con người. Thứ hai, nghiên cứu khoa học là hoạt động ít hoặc thậm chí không bị hạn chế về thời gian và không gian, thì ngược lại, những yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến công nghệ. Một công nghệ dễ dàng bị thay thế bởi một công nghệ khác tiên tiến hơn, và nó có thể được bảo hộ ở những chừng mực khác nhau nhằm hạn chế khả năng ứng dụng rộng rãi. Thứ ba, kết quả của khoa học là việc phong phú thêm những hiểu biết về thế giới, còn kết quả của công nghệ là việc sản xuất ra một sản phẩm mới, cải tiến sản phẩm đang có hoặc chí ít là tăng cường hiệu suất trong việc sản xuất sản phẩm sẵn có. Công nghệ cũng khác với kỹ thuật. Kỹ thuật được hiểu là một kỹ năng 12
- để thực hiện một số nhiệm vụ đặc thù [28, tr. 14]. Như vậy khái niệm kỹ thuật khá gần với khái niệm công nghệ. Tuy nhiên, giữa công nghệ và kỹ thuật có những điểm khác nhau cơ bản. Ở giác độ thứ nhất, công nghệ là sự phát triển cao của kỹ thuật, hay nói khác đi, công nghệ hàm chứa kỹ thuật tiên tiến, có thể đem lại hiệu quả cao trong sản xuất. Một kỹ thuật là một kỹ năng, thông thường là một kỹ năng cụ thể. Ví dụ, một người làm gốm thủ công có kinh nghiệm pha trộn nguyên liệu đất sét như thế nào, cách thức tạo hình các sản phẩm, nhiệt độ nung nóng như thế nào. Còn một công nghệ được coi là một hệ thống thông tin trọn gói và các bí quyết cần thiết để sản xuất một sản phẩm hoặc thực hiện một số nhiệm vụ. Ví dụ, công nghệ dây chuyền sản xuất hàng loạt các sản phẩm gốm kỹ thuật cao sẽ bao gồm các kiến thức khoa học cụ thể về nguyên liệu tạo sản phẩm, các chất phụ gia, cách thức kiểm tra độ cứng, bóng của sản phẩm... Ở giác độ thứ hai, công nghệ bao hàm cả kỹ thuật. Trong bốn thành tố của công nghệ, kỹ thuật chỉ hàm chứa trong hai thành tố đầu tiên (máy móc và những kỹ năng, kinh nghiệm của con người). 1.1.1.2. Vai trò của công nghệ Công nghệ có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia và của cả thế giới. Một cách khái quát, công nghệ có những vai trò sau đây: - Công nghệ góp phần làm giảm nguồn lực tiêu hao Áp dụng công nghệ vào sản xuất, nguồn lực sẽ được sử dụng một cách hợp lý, tránh lãng phí không cần thiết. Trước những thách thức to lớn về nguồn nhân lực, năng lượng và yêu cầu bảo vệ môi trường để phát triển bền vững, thì công nghệ tiên tiến chính là giải pháp tốt nhất để đạt được hiệu quả sản xuất nhưng vẫn giải quyết được những vấn đề đặt ra. Ví dụ, việc áp dụng phần mềm Ship Constructor trong công đoạn lấy dấu, hạ liệu, triển khai tôn vỏ tàu các size 12.500 DWT, 11.500 DWT và 6.500 DWT tại các nhà máy đóng tầu của Tập đoàn kinh tế Vinashin đã góp phần rút ngắn thời gian triển khai tôn vỏ tàu xuống rất đáng kể (thời gian triển khai tôn vỏ tàu 11.500 DWT 13
- rút ngắn từ 8 xuống còn 2 tháng). - Công nghệ giúp doanh nghiệp hợp lý hóa các khâu sản xuất, tăng cường hiệu quả kinh doanh Công nghệ không chỉ giải quyết những vấn đề kỹ thuật, mà nó còn giúp cho các khâu sản xuất, khâu quản lý được gắn kết với nhau hợp lý hơn, do đó hiệu quả sản xuất sẽ tốt hơn. Những chi phí gián tiếp sẽ giảm xuống, các khâu kiểm tra, giám định chất lượng được hiệu quả hơn, do đó khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường cũng sẽ tốt hơn. Đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vai trò của công nghệ là cực kỳ to lớn. Nắm bắt và làm chủ công nghệ, "đi tắt đón đầu" trong lĩnh vực công nghệ là những chính sách được ưu tiên hàng đầu nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển, giảm khoảng cách phát triển đối với các nước trong khu vực và những quốc gia tiên tiến trên thế giới. Cụ thể với Việt Nam, công nghệ còn có những vai trò sau đây: - Công nghệ góp phần làm giảm khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước tiên tiến trên thế giới Trình độ nắm bắt và phát triển công nghệ là một phần thước đo của sự phát triển. Nếu công nghệ lạc hậu, tiêu hao nguồn lực nhiều, là rào cản lớn trong phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cần thiết phải tiếp thu và làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, "bỏ qua" sự phát triển công nghệ trung gian, những công nghệ có thể vẫn là "tiên tiến" đối với Việt Nam, những đã lạc hậu so với thế giới. Có như vậy, Việt Nam mới có cơ hội bắt kịp tốc độ phát triển của các nước tiên tiến. Trong những năm qua, nhờ có chính sách khuyến khích phát triển công nghệ, mà hiện nay, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất, chúng ta đã có những công nghệ hàng đầu thế giới, tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội nước nhà. Điều này có thể thấy rõ trong lĩnh vực đóng mới và sửa chữa tàu thủy, công nghệ thông tin và bưu chính viễn thông... Với chiến lược đi tắt đón đầu, Tập đoàn kinh tế 14
- Vinashin đã tập trung đầu tư nhiều trang thiết bị và dây chuyền công nghệ mới như các thiết bị cắt CNC, gia công cơ khí, hàn tự động, nâng hạ với công suất lớn; đo lường - kiểm định phục vụ gia công vỏ tàu, lắp ráp thân tàu... cũng như nhận chuyển giao các công nghệ tiên tiến phục vụ việc tự động hóa quá trình gia công chế tạo, lắp ráp tàu thủy Vinasin đã thực hiện thành công việc chuyển giao công nghệ với Ba Lan để đóng tàu 1.016 TEU và tàu 1.800 TEU; hợp tác chuyển giao công nghệ đóng tàu hút bùn với hãng Krupp Vosta (Hà Lan)... Với vai trò là một trong những động lực vô cùng quan trọng, hoạt động chuyển giao công nghệ đã đưa Vinashin có được những bước tiến vượt bậc, trở thành một trong những tập đoàn đóng tàu lớn nhất thế giới (top 5 tập đoàn đóng tàu lớn nhất thế giới). - Bản thân công nghệ là một ngành sản xuất tiềm năng, rất phù hợp với tố chất của người Việt Nam Người Việt Nam được đánh giá là có tố chất thông minh sáng tạo, học hỏi nhanh, lại cần cù nhẫn nại, do đó rất phù hợp với việc sáng tạo công nghệ. Nhiều quốc gia ở Châu Á nhờ nắm bắt nhanh những công nghệ mới khi được chuyển giao, lại biết cải tiến, phát triển thêm nên đã trở thành những cường quốc công nghệ như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc… Do vậy, việc phát triển công nghệ được xem như là một hướng đi đầy hứa hẹn cho nền kinh tế Việt Nam trong công cuộc hội nhập và phát triển. 1.1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển giao công nghệ 1.1.2.1. Khái niệm chuyển giao công nghệ "Chuyển giao công nghệ" hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là việc đưa công nghệ từ nơi có công nghệ đến nơi có nhu cầu nhận công nghệ, từ nơi có trình độ công nghệ cao đến nơi có trình độ công nghệ thấp hơn một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các bên tham gia hoặc là sự dịch chuyển toàn bộ hoặc một phần công nghệ từ nhóm người này sang nhóm người khác [21, tr. 11]. Chuyển giao công nghệ được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng chính xác từ khi nào thì chưa có bằng chứng để khẳng định. 15
- Tuy nhiên, từ khoảng thế kỷ XIII trở đi, cùng với sự phát triển của giai cấp tư sản thì hoạt động chuyển giao công nghệ trở nên nhộn nhịp và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Đến nay, việc chuyển giao công nghệ hết sức phát triển và phổ biến, được thực hiện trong tất cả các ngành sản xuất vật chất. Chuyển giao công nghệ không còn diễn ra một chiều, từ những nước phát triển đến những nước đang phát triển mà ngược lại, các nước đang phát triển cũng hoàn toàn có khả năng chuyển giao công nghệ cho các nước phát triển ở một số lĩnh vực có thế mạnh. Hiểu theo nghĩa rộng, chuyển giao công nghệ xảy ra khi một hoặc nhiều thành tố của công nghệ được mở rộng phạm vi áp dụng (chuyển dịch về địa lý hoặc chủ thể sở hữu, sử dụng…). Theo nghĩa hẹp, chuyển giao công nghệ được hiểu là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng (một phần hoặc toàn bộ) công nghệ từ bên có quyền giao công nghệ sang bên nhận công nghệ [10, Điều 3]. Cần phân biệt thuật ngữ "chuyển giao công nghệ" và thuật ngữ "mua bán công nghệ". Mặc dù cùng là cơ chế hợp đồng và có sự trao đổi ngang giá, nhưng khái niệm chuyển giao công nghệ có nội hàm rộng hơn thuật ngữ mua bán công nghệ. Thứ nhất, việc chuyển giao công nghệ có thể chỉ là chuyển giao quyền sử dụng công nghệ trong một thời gian nhất định, chứ không phải là "bán đứt" công nghệ cho bên nhận chuyển giao. Bên nhận chuyển giao chỉ được quyền sử dụng công nghệ trong thời gian mà các bên thỏa thuận. Thứ hai, việc chuyển giao công nghệ có thể không làm mất đi quyền sử dụng công nghệ của bên chuyển giao. Bên chuyển giao vẫn tiếp tục áp dụng công nghệ trong hoạt động của mình hoặc tiếp tục chuyển giao cho chủ thể khác. Thứ ba, trong chuyển giao công nghệ, việc hoàn trả lại đối tượng chuyển giao trong nhiều trường hợp là không thể, bởi phần quan trọng trong công nghệ là kiến thức và một khi đã được chuyển giao thì không thể thu hồi lại được. Những đặc trưng này của hoạt động chuyển giao công nghệ làm cho nó không giống với hoạt động mua bán thông thường và có những ảnh hưởng đáng kể đến nội dung pháp luật điều chỉnh về chuyển giao công nghệ. Như vậy, giao dịch mua 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn