intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu - Những bài học thực tiễn đặt ra

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

11
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hóa của pháp luật Hoa Kỳ; trên cơ sở đó nghiên cứu một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ liên quan đến hoạt động nhập khẩu và đưa ra các giải pháp định hướng về mặt pháp lý cho doanh nghiệp Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu - Những bài học thực tiễn đặt ra

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HOA KỲ VỀ HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU: NHỮNG BÀI HỌC THỰC TIỄN ĐẶT RA CHO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI- NĂM 2004
  2. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nửa sau của thế kỷ XX, nền thương mại thế giới có những bước phát triển nhảy vọt mà nguyên nhân là do các quốc gia trên thế giới đã hợp tác chặt chẽ trong việc loại dần chế độ bảo hộ mậu dịch, đồng thời xúc tiến tự do trao đổi hàng hoá. Kết quả của những nỗ lực hợp tác này, trước hết là Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) với những cơ sở pháp lý làm nền tảng cho chế độ tự do mậu dịch quốc tế của GATT (như quy chế tối huệ quốc, quy chế sự đãi ngộ quốc gia, nguyên tắc sự minh bạch các chính sách lập pháp liên quan đến hoạt động thương mại, nguyên tắc về nguồn gốc hàng hoá nhập khẩu…). Thứ hai là việc hình thành vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) và sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) với hàng loạt các quy tắc pháp lý áp dụng cho những biện pháp loại trừ dần những rào cản thuế quan và phi thuế quan tại mỗi quốc gia thành viên cũng như các quy tắc pháp lý áp dụng để kiểm soát hàng nhập khẩu. Tự do hoá thương mại trở thành xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới. Trải qua thời gian chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã có nhiều động thái tích cực nhằm hội nhập với nền kinh tế thế giới, mở rộng quan hệ với các nước khác, trong đó có Hoa Kỳ- một thành viên quan trọng của WTO. Từ năm 1993, Việt Nam đã chủ động từng bước bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ và ngày 03/02/1994, Hoa Kỳ đã xoá bỏ cấm vận kinh tế chống Việt Nam. Ngày 12/07/1995, hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Từ tháng 9 năm 1996, hai bên bắt đầu xúc tiến đàm phán Hiệp định thương mại. Ngày 13/07/2000, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã được ký chính thức. Song song với tiến trình phát triển của quan hệ chính trị- ngoại giao, lượng hàng xuất nhập khẩu vào cả hai thị trường này ngày càng tăng. Chúng ta nhận định rằng đối tác kinh tế quan trọng mà Việt Nam không thể không tiếp cận là Hoa Kỳ và để hoạt động xuất khẩu vào thị trường này được
  3. thuận lợi, việc nghiên cứu pháp luật về hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ là điều cần thiết. Tuy nhiên, các vướng mắc liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ xuất hiện ngày càng nhiều, nhất là những vướng mắc về mặt pháp lý mà một trong các nguyên nhân là sự khác biệt trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ và hệ thống pháp luật Việt Nam. “Pháp luật Hoa Kỳ thuộc dòng thông luật (Common Law) và về lĩnh vực thương mại, là một hệ thống pháp luật khá phát triển, năng động và phức tạp. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam thuộc hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa, với những dấu hiệu của hệ thống luật lục địa khác biệt căn bản với thông luật và đang còn ở trình độ thấp về nhiều phương diện so với thế giới.” [2, tr. 9] Hơn nữa, Hoa Kỳ là một thành viên quan trọng của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nước này có ảnh hưởng lớn đến pháp luật của WTO. Mặt khác, pháp luật Hoa Kỳ cũng phản ánh khá rõ những nguyên tắc về tự do thương mại của tổ chức quốc tế này. Vì vậy, nghiên cứu pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu không chỉ giúp các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Hoa Kỳ được thuận lợi mà còn giúp cho các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam từng bước tiếp cận đến hệ thống pháp luật của WTO. Điều này là vô cùng quan trọng trong lộ trình gia nhập WTO của Việt Nam. Xuất phát từ thực tế đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu để thông qua đó tìm các giải pháp về mặt pháp lý giúp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này một cách an toàn trong điều kiện hiện nay là điều cần thiết và cấp bách. Với những lý do nêu trên, học viên đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu: Những bài học thực tiễn đặt ra cho Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong các năm qua, hệ thống pháp luật Hoa Kỳ nói chung và các quy định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu nói riêng đã trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều công trình khoa học có giá trị. Nói chung, các công trình
  4. này chủ yếu tập trung nghiên cứu hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ; hoặc nghiên cứu Hiệp định thương mại Việt- Mỹ; hoặc chỉ nghiên cứu về một vấn đề cụ thể liên quan đến hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Có thể dẫn chứng một số công trình như: Bước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Mỹ của Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật – Nxb. Khoa học xã hội năm 2002; Tìm hiểu pháp luật Hoa Kỳ trong điều kiện Việt nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới do TS. Phạm Duy Nghĩa chủ biên- Nxb. Chính trị quốc gia năm 2001; Về việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ do TS. Nguyễn Bá Diến chủ biên- Nxb. Chính trị quốc gia năm 2002; Tìm hiểu Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và quy chế thương mại đa phương của tác giả Phạm Minh- Nxb. Thống kê năm 2001; Vụ cá ba sa nhìn từ góc độ pháp lý của tác giả Nguyễn Khánh Ngọc- tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3/2003… Ngoài ra, có khá nhiều sách tham khảo dành cho doanh nghiệp liên quan đến các nghiệp vụ nhập khẩu hàng vào Hoa Kỳ như Hướng dẫn tiếp cận thị trường Hoa Kỳ của Bộ Thương mại- Trung tâm thông tin thương mại Việt Nam; Cẩm nang về thâm nhập thị trường Mỹ của TS. Hồ Sỹ Hưng và Nguyễn Việt Hưng- Nxb Thống kê năm 2003; Những quy định về nhập khẩu hàng vào Mỹ (Importing into the United State) do Trần Thanh Quang dịch… Có thể nhận thấy các công trình khoa học hay những bài viết, sách tham khảo nói trên đã ít nhiều tiếp cận từ góc độ phân tích pháp luật Hoa Kỳ về điều chỉnh hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên, nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến việc điều chỉnh hoạt động nhập khẩu này hoặc còn đang bị bỏ ngỏ; hoặc cần được nghiên cứu, luận giải một cách sâu sắc và toàn diện hơn nữa. Trong khuôn khổ của một công trình khoa học pháp lý ở cấp độ luận văn thạc sỹ, việc nghiên cứu một cách sâu sắc những vấn đề lý luận về điều chỉnh hoạt động nhập khẩu của pháp luật Hoa Kỳ; tiến hành phân tích, đánh giá một cách khách quan về một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ liên quan đến hoạt động nhập khẩu để trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp định hướng về mặt pháp lý cho doanh nghiệp Việt Nam, sẽ có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
  5. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hoá của pháp luật Hoa Kỳ; trên cơ sở đó nghiên cứu một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ liên quan đến hoạt động nhập khẩu và đưa ra các giải pháp định hướng về mặt pháp lý cho doanh nghiệp Việt Nam. Để đạt mục đích này, luận văn có nhiệm vụ phân tích, luận giải nhằm làm rõ các vấn đề lý luận về điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hoá của pháp luật Hoa Kỳ; trên cơ sở lý luận này, luận văn có nhiệm vụ phân tích một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu để từ đó đưa ra một số giải pháp về mặt pháp lý góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sang Hoa Kỳ của doanh nghiệp Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu. Do khuôn khổ có giới hạn của luận văn cấp độ thạc sỹ, hàng hoá nhập khẩu ở đây chỉ được nghiên cứu dưới góc độ là hàng hoá vật chất, không nghiên cứu hàng hoá dịch vụ và hàng hoá phi vật chất (như phần mềm chẳng hạn). Phạm vi nghiên cứu là một số quy định pháp luật trong thể chế liên bang của Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác- Lênin, phép biện chứng duy vật cũng như các quan điểm của Đảng và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường lối, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp đối chiếu, phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích, thống kê kết hợp giải thích và tổng hợp khái quát hoá…
  6. 6. Các đóng góp của luận văn Với việc nghiên cứu đề tài “Một số qui định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu: Những bài học thực tiễn đặt ra cho Việt Nam”, luận văn đạt được kết quả như sau: - Nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, có chiều sâu về các vấn đề lý luận liên quan đến việc điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hoá của pháp luật Hoa Kỳ. - Đưa ra các ý kiến nhận xét và đánh giá cụ thể về một số qui định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu, có đặt trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật của Tổ chức thương mại thế giới WTO. - Đưa ra một số giải pháp về mặt pháp lý nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Nhìn từ góc độ thực tiễn, các giải pháp này phải có tính ứng dụng và có tác dụng góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ một cách an toàn và hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế thị trường theo xu hướng hội nhập quốc tế. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được thiết kế gồm ba chương với tiêu đề như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về chế độ pháp lý đối với hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ Chương 2: Một số qui định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu Chương 3: Những vướng mắc đặt ra cho Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ và giải pháp khắc phục về mặt pháp lý.
  7. CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU VÀO HOA KỲ 1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU VÀO HOA KỲ 1.1.1 Khái niệm hàng hoá nhập khẩu Do có sự khác nhau về nguồn tài nguyên giữa các quốc gia (như vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên…) nên các luồng hàng hoá trên thế giới luôn di chuyển; hàng hoá của nước này thâm nhập vào thị trường của nước khác. Đồng thời, quá trình phân công chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng cũng làm cho sự tác động lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước tăng lên, thị trường các nước ngày càng chịu sự ảnh hưởng của hàng hoá nhập khẩu. Theo tác giả GS. TS. Bùi Xuân Lưu, trong cuốn Giáo trình Kinh tế ngoại thương thì “Nhập khẩu là mua hàng hoá, dịch vụ của nước ngoài”. [1, tr.124] Theo nghĩa truyền thống thì hàng hoá nhập khẩu chỉ bao hàm các hàng hoá hữu hình như thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, thực phẩm… Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nhu cầu ngày càng gia tăng của đời sống kinh tế, xã hội thì phạm vi hàng hoá nhập khẩu ngày càng mở rộng. Bên cạnh những hàng hoá hữu hình thì các hàng hoá vô hình như phần mềm máy tính, hàng hoá dịch vụ cũng trở thành đối tượng của hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn này, học viên chỉ nghiên cứu các vấn đề liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình mà thôi. Trong thương mại hàng hoá, giao dịch nhập khẩu truyền thống điển hình là hàng hoá được nhập khẩu trọn gói, tức là nhập khẩu thành phẩm vào một nước. Nhưng cũng có thể hàng hoá đã trải qua nhiều lần giao dịch, trong đó hàng hoá
  8. được nhập vào một quốc gia, lắp ráp thêm linh phụ kiện và trở thành hàng hoá nhập khẩu đến nước khác. Theo thuật ngữ thương mại thông thường thì hàng hoá nhập khẩu là luồng hàng hoá được đưa vào thị trường một nước để tiêu dùng [8, tr.101]. Trên thực tế, chúng ta có thể thấy có những hàng hoá được nhập khẩu để sử dụng cho mục đích nào đó nhưng không phải vì mục đích bán. Ví dụ như các trang phục mẫu do các nhà sản xuất nhập làm mẫu; các tạp chí, catalog thời trang và ảnh phục vụ giới thiệu hàng và quảng cáo; hàng hóa phục vụ mục đích thử nghiệm, thí nghiệm; các tác phẩm nghệ thuật, bản vẽ, in ấn, ảnh chụp, máy móc khoa học do các nghệ sỹ chuyên nghiệp, giảng viên hoặc nhà khoa học đưa từ nước ngoài vào để dự triển lãm, minh hoạ, xúc tiến và khuyến khích nghệ thuật; ô tô, mô tô, xe đạp, máy bay, bóng thám không, tàu thủy, xe đua và các phương tiện tương tự khác và các thiết bị liên quan được người nước ngoài tạm đưa vào để tham gia các cuộc đua chẳng hạn… Tất cả các hàng hoá thuộc loại này đều được nhập khẩu theo thủ tục hàng tạm nhập không phải nộp thuế, nhưng sẽ phải tái xuất trong một khoảng thời gian nhất định. Ở nhiều nước, các hàng hoá này còn phải có bảo chứng- một loại chứng từ cam kết bảo lãnh hàng hoá với giá trị gấp đôi số tiền thuế ước tính phải nộp để tránh trường hợp hàng không được tái xuất. Như vậy, hàng hoá nhập khẩu không phải chỉ là loại hàng hoá dịch chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác mà nó còn có đặc điểm là được sử dụng cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh ở nước nhập khẩu. Tóm lại, trong khuôn khổ của luận văn này, học viên nghiên cứu hàng hoá nhập khẩu với các dấu hiệu sau: * Có sự dịch chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác. * Là hàng hoá hữu hình: hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu… * Được sử dụng cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh ở quốc gia nhập khẩu hàng hoá (không phải là hàng hoá tạm nhập- tái xuất). 1.1.2 Vai trò của hàng hoá nhập khẩu
  9. Khi xuất khẩu được hàng hoá sang thị trường nước khác thì nước xuất khẩu thu được rất nhiều lợi ích như: - Thu được nhiều ngoại tệ - Thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển - Tạo việc làm cho người lao động Ngược lại, hàng hoá nhập khẩu cũng có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của nước nhập khẩu. Điều đó thể hiện ở những mặt sau: Thứ nhất, đó là nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất trong nước. Không phải nước nào cũng có đủ nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sản xuất trong nước mình. Chính vì vậy, nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu từ nước khác luôn là phần bù đắp thiếu hụt, giúp ổn định ngành sản xuất. Thứ hai, hàng hoá nhập khẩu còn góp phần thúc đẩy lợi thế sản xuất, đổi mới cơ cấu ngành trong nước cho phù hợp với lợi thế so sánh của nước mình. Thứ ba, hàng hoá nhập khẩu còn giúp xây dựng thị trường có tính chất cạnh tranh, tăng cường cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, tiến tới cải thiện công nghệ quản lý, công nghệ kỹ thuật và cuối cùng giảm giá bán cho người tiêu dùng. Thứ tư, hàng hoá nhập khẩu góp phần thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước khi sản xuất trong nước chưa đáp ứng được, hoặc tăng cường cơ hội cũng như phạm vi lựa chọn cho người tiêu dùng. Như vậy, hàng hoá nhập khẩu góp phần thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người dân về hàng tiêu dùng, đảm bảo đầu vào cho sản xuất và tạo việc làm ổn định cho người lao động. Tuy nhiên, tác động của hàng hoá nhập khẩu đến thị trường nước nhập khẩu không phải lúc nào cũng làm hài lòng các chủ thể của nền kinh tế bắt nguồn từ sự phát triển không đều và sự khác biệt trong điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia, do sự chênh lệch về khả năng cạnh tranh giữa các công ty trong nước với các công ty nước ngoài… Do tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, nếu các doanh nghiệp nhập khẩu chỉ chạy theo lợi nhuận thì hàng hoá nhập khẩu sẽ không đem lại hiệu quả
  10. chung cho nền kinh tế. Ví dụ như: sử dụng nguồn vốn lớn mà không đem lại hiệu quả tương ứng; hàng hoá nhập khẩu là các công nghệ, máy móc lạc hậu; hàng hoá nhập khẩu tương đồng với hàng hoá trong nước cũng sản xuất được làm cho nền sản xuất trong nước bị suy thoái … thì hàng hoá nhập khẩu không phát huy vai trò thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trên đây là hai tác động ngược chiều của hàng hoá nhập khẩu đến thị trường trong nước. Trong thực tế, hai tác động này song song tồn tại và cũng xuất phát từ đây, xu hướng tự do hoá thương mại (tức là nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại trong hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc nhập khẩu hàng hoá) và xu hướng bảo hộ mậu dịch (tức là chủ trương hạn chế nhập khẩu) xuất hiện. Giữa hai xu hướng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chúng được sử dụng kết hợp với nhau. Tuỳ theo các điều kiện và đặc điểm cụ thể mà người ta sử dụng và khéo léo kết hợp hai xu hướng trên. Có thể nói, trong một chừng mực nào đó, các quốc gia đều sử dụng các công cụ bảo hộ mậu dịch với những mức độ khác nhau. Công cụ này mang tính tự vệ, hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong nước trong quá trình cạnh tranh với hàng hoá từ bên ngoài. 1.2 CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƢỜNG HOA KỲ 1.2.1 Vai trò của pháp luật trong việc quản lý hàng hoá nhập khẩu Tuy hàng hoá nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế- xã hội của các quốc gia nhưng các nước nhập khẩu đều có xu hướng quản lý hoạt động nhập khẩu này bằng pháp luật để bảo hộ sản xuất trong nước. Trong lịch sử thương mại thế giới, chính sách tự do hoá thương mại và các học thuyết liên quan đã luôn khuyến khích các quốc gia mở cửa thị trường, không áp đặt chế độ bảo hộ mậu dịch. Tuy vậy, quá trình thực hiện và truyền bá lý luận tự do thương mại mà học thuyết chi phí so sánh (của David Ricardo) là nền tảng đã diễn ra không được thuận buồm xuôi gió.
  11. Thứ nhất là do ngay từ trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương thống trị, tức là vào thế kỷ 15, 16, đã có chủ nghĩa bảo hộ rồi. Các quốc gia luôn muốn áp đặt các biện pháp kiểm soát chặt chẽ và hạn chế nhập khẩu với mục đích bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Hơn nữa, sự ảnh hưởng của hàng hoá nhập khẩu đến các vấn đề của quốc gia cũng là nguyên do khiến các nước cảm thấy lo ngại về chủ quyền quốc gia của mình. Ngay như các thành viên của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) cũng nhận thức được rằng, do bị ràng buộc bởi điều kiện kinh tế và môi trường chính trị, nên không thể thực hiện được chính sách tối ưu hoá, tự do hoá thương mại. Rồi cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề trong lịch sử chủ nghĩa tư bản nổ ra cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX báo hiệu rằng: muốn cho nền kinh tế quốc dân phát triển vững chắc, lâu dài thì ngoài bàn tay vô hình ra, còn phải có bàn tay hữu hình của nhà nước điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Trong đó đặc biệt chú ý đến chính sách liên quan đến bàn tay hữu hình- sự điều chỉnh của nhà nước. Các học thuyết về vấn đề này đã tạo thành một lý luận thương mại quốc tế mới. Theo đó, lý luận thương mại quốc tế mới ra đời có điểm khác cơ bản nhất với lý luận thương mại truyền thống là: lý luận thương mại quốc tế mới chứng minh rằng trong điều kiện kinh tế quy mô và thị trường không hoàn hảo, chính phủ can thiệp là hợp tình hợp lý [13, tr. 211]. Về cơ bản, chính phủ can thiệp để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, kiểm soát lượng hàng nhập khẩu thông qua các công cụ sau:  Thuế nhập khẩu Đây là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá nhập khẩu. Khoản tiền thuế này người nhập khẩu phải nộp cho cơ quan Hải quan nơi hàng đến. Đương nhiên, kết quả kinh tế của thuế nhập khẩu là làm cho giá trị hàng hoá trong nước vượt cao hơn mức giá nhập khẩu và chính người tiêu dùng trong nước phải trang trải cho gánh nặng thuế quan này. Việc đánh thuế nhập khẩu nhằm vào mục đích tài chính hoặc mục đích bảo hộ. Trên thực tế, khi đánh thuế quan, chính phủ đều có hai mục đích này. Tuy vậy, trong những điều kiện khác nhau, thuế nhập khẩu có thể nhằm vào mục đích bảo hộ được đề cao và thuế quan trở thành công cụ
  12. quan trọng nhằm đạt mục đích kinh tế- chính trị trong quan hệ buôn bán với nước ngoài. Vì vậy, trong quan hệ thương mại giữa các quốc gia, vấn đề thuế quan luôn là vấn đề rõ ràng trước mắt cần được thoả thuận để đạt được mục đích trao đổi hàng hoá. Việc quy định tỷ lệ thuế nhập khẩu luôn là vấn đề được quan tâm từ nhiều phương diện. Xu hướng chung của thương mại quốc tế hiện nay là hàng rào thuế quan sẽ được giảm đi, đồng thời các quốc gia chuyển từ chỗ chú trọng thuế suất cao tới chỗ chú trọng điều chỉnh kết cấu thuế.  Hàng rào phi thuế quan Đây là các biện pháp thương mại được áp dụng để kiểm soát hàng hoá nhập khẩu không bao gồm thuế quan. Các biện pháp này là: - Hạn ngạch nhập khẩu Đây là một hình thức của hàng rào phi thuế quan. Hạn ngạch là quy định số lượng (hoặc giá trị) nhập khẩu đối với từng thị trường, từng mặt hàng thông qua hình thức giấy phép. Nó là một công cụ phục vụ cho công tác điều tiết quản lý nhà nước về nhập khẩu vừa nhằm bảo hộ sản xuất trong nước vừa bảo vệ cán cân thanh toán. Hạn ngạch nhập khẩu hạn chế số lượng nhập khẩu, do đó, nó cũng ảnh hưởng đến giá trị nội địa của hàng hoá. Do hạn ngạch nhập khẩu ảnh hưởng đến mức cung nên giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện thương mại tự do. Xét về ý nghĩa bảo vệ lợi ích quốc gia, hạn ngạch cũng có tác động như thuế quan. Hạn ngạch nhập khẩu là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước. Đối với chính phủ và các doanh nghiệp, hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu, còn đối với thuế quan, lượng hàng nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ linh hoạt của cung cầu và thường không cho biết trước được. Sự tác động của hạn ngạch nhập khẩu khác với sự tác động của thuế quan ở hai điểm: Mức thuế quan ít nhất cũng mang lại thu nhập cho chính phủ, từ đó có thể cho phép giảm những loại thuế khác và do đó bù đắp được một phần nào cho người trong nước, còn hạn ngạch nhập khẩu thì đưa lại lợi nhuận có thể rất lớn cho những người xin được giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch.
  13. Hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp duy nhất trong nước thành một nhà độc quyền có thể đặt mức giá cao để họ thu được lợi nhuận tối đa. - Những quy định về điều kiện kỹ thuật Đó là những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, đo lường, an toàn lao động, bao bì đóng gói, đặc biệt là các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, vệ sinh phòng dịch đối với động thực vật tươi sống, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái… Mặc dù tiêu chuẩn kỹ thuật là một yêu cầu khách quan đối với các loại hàng hoá và nhằm bảo vệ người tiêu dùng, nhưng dưới góc độ nào đó thì nó lại được các nước áp dụng để ngăn chặn hàng hoá của nước ngoài vào nước mình một cách rất khéo léo. - Giấy phép nhập khẩu Nhập khẩu hàng hoá phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép bằng việc cấp cho nhà nhập khẩu giấy phép nhập khẩu. Tính chất kín đáo và bí mật của giấy phép cũng như thủ tục cấp giấy phép của chính phủ đã tạo khả năng hạn chế nhập khẩu mạnh. Thông qua giấy phép, nhà nước can thiệp t rực tiếp vào hoạt động nhập khẩu hàng hoá. Ngoài các biện pháp nói trên, chính phủ còn có thể sử dụng các biện pháp khác để hạn chế nhập khẩu, ví dụ như biện pháp qui định dùng một tỷ lệ nhất định nguyên vật liệu trong nước để sản xuất một số loại hàng (biện pháp này dẫn đến hạn chế nhập khẩu một số nguyên liệu và gây thiệt hại cho các nước mà phần nguyên liệu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng xuất khẩu của họ, đặc biệt là những nước đang phát triển)… Khi hàng rào thuế quan giảm đi thì hàng rào phi thuế quan tăng lên. Bản thân các biện pháp phi thuế quan có tính chất kín đáo và không rõ ràng, nên so với hàng rào thuế quan, các biện pháp phi thuế quan có tác dụng hạn chế nhập khẩu nhiều hơn. Có thể nói, các biện pháp phi thuế quan đã dần dần thay thế hàng rào thuế quan, trở thành biện pháp chủ yếu được các nước dùng để hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, không phải các nước muốn áp đặt, quy định về vấn đề này như thế nào cũng được. Vòng đàm phán GATT quyết định đặt biện pháp phi thuế quan dưới sự ràng buộc của các quy tắc của tổ chức này nhằm mục đích
  14. giảm bớt và tiến tới loại bỏ hoàn toàn các biện pháp phi thuế quan. Tháng 4 năm 1979, Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) đã đạt được 5 thoả thuận về trợ cấp, thuế, hàng rào kỹ thuật thương mại, trị giá tính thuế hải quan, chính phủ thu mua và trình tự cấp phép nhập khẩu, hơn nữa còn lập ra được một hội đồng giám sát và đôn đốc việc thực hiện các thoả thuận trên. Để chuẩn mực hoá hành vi hành chính của các nước thành viên, Ban thư ký GATT đã liệt kê danh sách các biện pháp phi thuế quan có ảnh hưởng tới sản xuất các sản phẩm công nghiệp, đồng thời quy định sẽ bổ sung và sửa đổi theo định kỳ tuỳ theo tình hình thay đổi. Danh sách này bao gồm hàng trăm biện pháp phi thuế quan, nhưng có thể chia thành 5 nhóm: (1) Những việc chính phủ thường tham gia để hạn chế thương mại. (2) Các biện pháp hạn chế nhập khẩu có tính chất hành chính và do hải quan thực hiện. (3) Hàng rào có tính chất kỹ thuật đối với thương mại. (4) Hạn chế đặc thù, như hạn chế cấp phép nhập khẩu, quy chế về giá trong nước. (5) Lệ phí thuế nhập khẩu, như tiền ký quỹ, thuế điều tiết nhập khẩu. Để quản lý, giám sát việc tuân thủ quy tắc về trợ cấp và về thuế, hàng năm GATT đều công bố báo cáo, trong đó có danh sách các biện pháp phi thuế quan. Song, đáng tiếc là thoả thuận về các biện pháp phi thuế quan nói trên đạt được tại Vòng đàm phán Tokyo của GATT không được các nước ký kết thoả thuận tuân thủ, vì thoả thuận này vốn được tuyên bố là các bên ký kết có thể thực hiện trên cơ sở lựa chọn. Các biện pháp kiểm soát hàng hoá nhập khẩu nói trên thường được thực hiện trên thực tế thông qua một hình thức pháp lý là các quy phạm pháp luật. Đó lầ một trong những cách hữu hiệu để chính phủ can thiệp vào thị trường nói chung và kiểm soát hàng hoá nhập khẩu nói riêng. Với các đặc tính như tính bắt buộc chung, tính quy phạm phổ biến…, pháp luật có những ưu thế riêng mà không một công cụ nào khác có được. Đồng thời, trong quan hệ thương mại đa phương và song phương giữa các nước, hệ thống văn bản pháp luật quốc tế (các hiệp ước, hiệp định…) và các tập quán pháp, tiền lệ pháp… tham gia điều chỉnh hoạt động thương mại là chủ yếu.
  15. Trong quản lý hàng hoá nhập khẩu, các quốc gia luôn có một chế độ pháp lý để điều chỉnh vấn đề này. Chế độ pháp lý đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường trong nước có chức năng bảo hộ và chức năng phối hợp, điều chỉnh nền kinh tế. Với chức năng bảo hộ, chế độ pháp lý đối với hàng hoá nhập khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có khả năng đứng vững và vươn lên trong các hoạt động kinh doanh, tăng cường sức cạnh tranh với các hàng hoá từ bên ngoài, tạo thêm việc làm và đạt tới quy mô tối ưu cho các ngành kinh tế, đáp ứng yêu cầu tăng cường lợi ích của quốc gia. Đồng thời, chế độ pháp lý này còn góp phần vào việc giữ vững an ninh quốc gia. Với chức năng phối hợp và điều chỉnh, chế độ pháp lý đối với hàng hoá nhập khẩu tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước thích ứng với sự biến đổi và vận động mạnh mẽ của nền kinh tế và thị trường thế giới, thiết lập cơ chế điều chỉnh thích hợp trong điều kiện giá hàng hoá (dặc biệt là nguyên, nhiên vật liệu) trên thế giới thường xuyên thay đổi. Chế độ pháp lý đối với hàng hoá nhập khẩu là một hệ thống những quy tắc và những điều luật mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hoá, bao gồm cả quá trình ban hành và thực thi pháp luật, nhằm thực hiện các mục tiêu xác định trong lĩnh vực ngoại thương trong một thời kỳ nhất định phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Hệ thống những quy tắc và điều luật này điều chỉnh trên các lĩnh vực thuế quan, các thủ tục nhập khẩu, các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn, các yêu cầu về mẫu mã, bao bì, bản quyền…đối với hàng hoá nhập khẩu. 1.2.2 Các bộ phận cấu thành chế độ pháp lý đối với hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ Hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải chịu sự điều chỉnh của các quy tắc, các quy phạm pháp luật liên quan. Hoa Kỳ là một nước điển hình theo hệ thống thông luật với đặc trưng cơ bản là các tục lệ pháp lý chiếm số lượng lớn, luật ở đây không phải luật thành văn, nó là “luật của thực tiễn xét xử” hay “luật của các quan toà” [2, tr.26]. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận là cùng với sự biến đổi dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố dân tộc và quốc tế, nguồn của luật ở Hoa Kỳ đã có nhiều vẻ, không chỉ có án lệ mà còn có một khối lượng đồ sộ các
  16. văn bản pháp luật, các văn bản của các tổ chức quốc tế mà Hoa Kỳ có nghĩa vụ thi hành với tư cách là thành viên, các tập quán thương mại quốc tế… Dưới góc độ nguồn của pháp luật, chúng ta có thể thấy các bộ phận cấu thành chế độ pháp lý đối với hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ như sau: 1.2.2.1 Các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ Hoa Kỳ luôn đưa ra những nguyên tắc quan trọng có tính chặt chẽ và bất dịch trong việc thiết lập và thực thi pháp luật về thương mại. Việc Hoa Kỳ tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tham gia vào quan hệ hợp tác thương mại với các nước đã tác động lớn đến vấn đề này. Một mặt, trong tiến trình xây dựng các nguyên tắc của WTO nói chung và các nguyên tắc trong hiệp định song phương và đa phương ký kết giữa Hoa Kỳ và các nước khác nói riêng, các Uỷ ban pháp luật của Hoa Kỳ, các cơ quan đại diện của chính phủ Hoa Kỳ luôn luôn có vai trò quan trọng. Nhưng mặt khác, chính các nguyên tắc đó, sau khi có hiệu lực, đã trở thành sự ràng buộc mà pháp luật về thương mại của Hoa Kỳ phải tuân thủ. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản: (i). Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc. Hầu hết tất cả các bạn hàng thương mại của Mỹ đều được hưởng quy chế tối huệ quốc về thương mại. Các hàng hoá từ các quốc gia hưởng quy chế này chịu các mức thuế như nhau khi gia nhập thị trường Mỹ. Khi Mỹ thay đổi một sắc thuế thì sự thay đổi đó được áp dụng bình đẳng đối với tất cả các nước được hưởng quy chế tối huệ quốc. Hiện nay, Hoa Kỳ mở rộng quy chế tối huệ quốc tới tất cả thành viên của Tổ chức thương mại thế giới và hầu hết các quốc gia khác. (ii). Nguyên tắc có đi có lại. Nguyên tắc này có nghĩa là một quốc gia không thể điều chỉnh các quan hệ bên trong của mình lớn hơn so với các nước khác khi thực hiện các hiệp định về thương mại. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ hạn chế sự thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ các hàng hoá của bất kỳ nước nào nếu nước đó không cho phép hàng hoá của Hoa Kỳ được xuất khẩu sang. (iii). Nguyên tắc ưu đãi thuế quan đối với một số mặt hàng và đối với một số nước. Trong đó bao gồm hệ thống ưu đãi chung là chương trình miễn thuế đối
  17. với hơn 4450 sản phẩm từ khoảng 150 nước hoặc lãnh thổ đang phát triển nhằm mục đích hỗ trợ các nước này. Bên cạnh đó còn có Chương trình khuyến khích phát triển vùng vịnh Caribe. Chương trình này cho phép miễn hoặc giảm thuế đối với phần lớn sản phẩm nhập từ 24 quốc gia ở khu vực Trung Mỹ và Caribe. Ngoài ra còn có ưu đãi về loại thuế quan đặc biệt dành cho các mặt hàng nhập khẩu có linh kiện sản xuất tại Hoa Kỳ. Ví dụ như thuế nhập khẩu sẽ chỉ áp dụng trên giá trị phần sản phẩm sản xuất ở nước ngoài, còn phần linh kiện sản xuất ở Hoa Kỳ sẽ không bị đánh thuế. Nguyên tắc này được áp dụng rộng rãi đối với các sản phẩm từ các loại xe có động cơ đến các chất bán dẫn và kể cả quần áo may ở nước ngoài nhưng vải lại dệt ở Mỹ. (iv). Nguyên tắc bảo hộ sản xuất trong nước trong tình trạng khẩn cấp. Điều 19 của GATT phê chuẩn những điều khoản “tự vệ”- theo luật của Mỹ thì điều khoản này được gọi là điều khoản giải thoát (Escape Clause)- để giúp các hãng và công nhân chịu thiệt hại do hàng hoá nhập khẩu điều chỉnh mức cạnh tranh nhập khẩu tăng lên. Theo đó, mục 201 của Luật Thương mại Mỹ năm 1974 yêu cầu Uỷ ban thương mại quốc tế (USITC) phải điều tra những lời than phiền, kêu ca chính thức được coi là những khiếu nại của những ngành sản xuất và công nhân trong nước cho rằng họ bị tổn hại hay đe doạ bị tổn hại do hậu quả của việc tăng nhập khẩu và phải hoàn thành việc điều tra trong vòng 6 tháng. Luật Thương mại Mỹ nêu rõ nếu USITC thấy rằng một ngành trong nước bị thiệt hại nghiêm trọng hay đe doạ bị thiệt hại nghiêm trọng thì Uỷ ban này sẽ khuyến nghị lên Tổng thống để hỗ trợ cho ngành đó dưới cách thức hạn chế nhập khẩu tạm thời (thuế quan, hạn ngạch hoặc hạn ngạch thuế suất) hoặc hỗ trợ điều chỉnh thương mại. Tổng thống sẽ cân nhắc có nên thực hiện theo những kiến nghị của USITC về việc hỗ trợ hay không. Đó thường là hỗ trợ dưới dạng tăng thuế hay hạn chế số lượng. Việc hạn chế nhập khẩu này không được kéo dài quá 8 năm, kể cả gia hạn. (v). Nguyên tắc đảm bảo các nguyên tắc và cam kết trong những vòng đàm phán của Tổ chức thương mại thế giới được thực thi. Đây chính là nguyên tắc pacta sunt servanda. Hoa Kỳ đã đảm bảo ít nhiều thực hiện quy tắc này trên thực
  18. tế. Ví dụ như Điều 401 Luật về các hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã tác động đến pháp luật Mỹ, khi cấm mọi sự hạn chế áp dụng phí đối với các mặt hàng nông nghiệp nhập khẩu từ các nước thành viên WTO và Hoa Kỳ đã tuân thủ. Một ví dụ khác là các hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay về nông nghiệp đòi hỏi các thành viên WTO phải cam kết thực hiện và Hoa Kỳ đã chấp thuận chuyển đổi cơ chế hạn ngạch tỷ lệ thuế nhập và giảm dần các loại thuế nhập theo thời gian. Điển hình là vấn đề hạn ngạch tỷ lệ thuế nhập đối với đường, trong khi Mỹ luôn là một nước nhập siêu về đường. Kể từ năm 1934, Mỹ đã có những sự hạn chế nhập khẩu đường để nuôi dưỡng ngành công nghiệp mía đường và củ cải đường trong nước. Đến nay, các hạn ngạch tuyệt đối áp dụng đối với đường nhập khẩu đã được chuyển đổi thành cơ chế hạn ngạch tỷ lệ thuế nhập vào năm 1990 để đưa chương trình đường của Mỹ phù hợp hơn với GATT và sau đó là Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay. Theo cơ chế hạn ngạch tỷ lệ thuế nhập, Bộ trưởng Nông nghiệp Mỹ quyết định lượng đường có thể được nhập khẩu với mức thuế thấp hơn và đại diện thương mại Mỹ phân bổ tới các nước. Đường nhập khẩu vượt quá số lượng hạn ngạch thì phải chịu các mức thuế cao hơn. Các hạn ngạch tỷ lệ thuế nhập cũng đã được áp dụng trong hoạt động nhập khẩu thịt, vấn đề này trước đây phải chịu sự hạn chế của Luật nhập khẩu thịt. Các hạn ngạch tỷ lệ thuế nhập thay thế các hạn ngạch nhập khẩu vốn được quy định theo luật khi lượng thịt nhập khẩu vượt quá một mức độ nhất định. Luật nhập khẩu thịt đã được chính thức huỷ bỏ nhờ đó pháp luật Mỹ trở nên phù hợp hơn với Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay về nông nghiệp [2, tr.99]. 1.2.2.2 Các quy định pháp luật về hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ Các quy định pháp luật về hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ có rất nhiều và do rất nhiều cơ quan ban hành. Sau đây là tóm lược các cơ quan hoạch định chính sách thương mại và ban hành, thực thi pháp luật về hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ. Lĩnh vực Các cơ quan Ban hành các quy phạm và thi hành Quốc hội (có sự tham gia của các Uỷ ban như Uỷ ban pháp luật…) ban hành
  19. kết hợp với các cơ quan của ngành hành pháp (Bộ Thương mại, Nông nghiệp, Ngoại giao, Tài chính, Lao động, Tư pháp, Quốc phòng, Nội vụ, Giao thông vận tải, Năng lượng, Y tế, Uỷ ban an ninh quốc gia…). Các cơ quan của ngành hành pháp thực thi. Đàm phán những hiệp định thương Đại diện thương mại Mỹ (USTR) mại Bộ Thương mại Bộ Ngoại giao, Thứ trưởng phụ trách những vấn đề kinh tế Bộ Nông nghiệp Cơ quan bảo vệ môi trường Thực thi các biện pháp kiểm soát Cục Hải quan Mỹ thương mại (trong đó có hoạt động Uỷ ban thương mại quốc tế Mỹ (ITC) kiểm soát nhập khẩu) Bộ Thương mại (DOC) Uỷ ban thương mại liên bang Các cơ quan có lĩnh vực liên quan Chúng ta có thể gộp các quy định pháp luật về hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ thành ba nhóm sau: Nhóm một, các đạo luật về thuế nhập khẩu và hải quan: bao gồm các quy định về thủ tục hải quan, hệ thống thuế quan, tính giá hải quan, các quy định về thuế nhập khẩu. Điển hình là Luật Thuế suất năm 1930. Luật này ra đời nhằm điều tiết hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ, chống lại việc nhập khẩu hàng hoá giả. Luật này quy định mức thuế rất cao đối với hàng hoá nhập khẩu. Đến nay nhiều điều khoản của luật này vẫn còn hiệu lực, song thuế suất đã được nhiều lần sửa đổi và hạ xuống rất nhiều. Nhóm hai, các đạo luật về giải pháp thương mại, bao gồm:
  20.  Luật Thuế đối trọng (còn gọi là Luật Thuế đối kháng- Countervailing Duty Law, viết tắt là CVD), Luật Chống phá giá (Antidumping Duty Law, viết tắt là AD): Đây là 2 đạo luật phổ biến nhất mang tính chế tài để bảo vệ các ngành công nghiệp Mỹ khi phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu được buôn bán không công bằng. Hai luật này quy định rằng các hàng hoá nhập khẩu, nếu bị phát hiện là xuất khẩu sang Mỹ một cách không công bằng, sẽ phải chịu thêm một mức thuế nữa. Cả hai luật này đều nêu ra những thủ tục tương tự về quy trình điều tra, đánh thuế, rà soát lại và có thể bãi bỏ việc áp thuế sau một thời gian nhất định. Luật Thuế đối kháng quy định việc bảo vệ lợi ích cho ngành công nghiệp Mỹ bằng cách tăng thuế nhập khẩu trên cơ sở có quyết định hàng hoá nhập khẩu có được trợ giá bất hợp pháp hay không, vì việc bán những sản phẩm được trợ cấp này ở Mỹ đã hoặc sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất tại Mỹ, đặc biệt là đối với nhà sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc ngăn cản sự ra đời của một ngành sản xuất mới. Luật Chống phá giá được sử dụng rộng rãi hơn Luật Thuế đối kháng. Thuế chống phá giá được đánh vào hàng nhập khẩu khi hàng nhập khẩu đó được xác định bị bán phá giá, hoặc sẽ bị bán phá giá trên thị trường Mỹ, với mức giá thấp hơn giá trị thực của hàng hoá đó.  Luật về thương mại và thuế quan 1984. Luật này làm rõ và chi tiết hoá, cụ thể hoá các điều khoản về thuế chống phá giá và trợ cấp, đưa ra các điều kiện cho các trường hợp áp dụng theo điều khoản 301 của Luật Thương mại 1974 đối với các trường hợp buôn bán không bình đẳng.  Điều 201 đến điều 204 Luật Thương mại năm 1974 điều chỉnh hàng hoá nhập khẩu. Điều luật này cho phép Tổng thống có quyền hành động khi có sự gia tăng việc nhập khẩu hàng của một nước gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với một ngành công nghiệp trong nước. Quyền này vẫn được áp dụng ngay cả khi hàng nhập khẩu được định giá một cách công bằng.  Hiệp định buôn bán năm 1979: bao gồm các điều khoản về sự bảo trợ của chính phủ liên quan đến các chướng ngại kỹ thuật trong buôn bán, các sửa đổi thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa, ế- một loại thuế đánh vào các loại hàng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2