Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay
lượt xem 4
download
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ khái niệm kết hôn trái pháp luật cũng như đường lối giải quyết việc kết hôn trái pháp luật. Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cũng như các quy định pháp lý về vấn đề kết hôn trái pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo trật tự xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HUYỀN TRANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT TRONG TÌNH HÌNH XÃ HỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HUYỀN TRANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT TRONG TÌNH HÌNH XÃ HỘI HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên HÀ NỘI - 2012 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT HÔN 6 TRÁI PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. Quan niệm về kết hôn trái pháp luật 6 1.1.1. Quan niệm kết hôn hợp pháp là cơ sở để xác định việc kết 6 hôn trái pháp luật 1.1.2. Quan niệm về kết hôn trái pháp luật 10 1.2. Hệ quả của việc kết hôn trái pháp luật và việc xử lý 14 1.2.1. Hệ quả về mặt pháp lý 14 1.2.2. Hệ quả về mặt xã hội 15 1.2.3. Mục đích, ý nghĩa của việc xử lý kết hôn trái pháp luật 16 1.3. Các yếu tố tác động đến việc kết hôn trái pháp luật 17 1.3.1. Kinh tế - xã hội 17 1.3.2. Văn hóa truyền thống 19 1.3.3. Cơ chế quản lý và pháp luật 19 1.3.4. Hội nhập quốc tế 21 1.3.5. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ 22 1.4. Pháp luật về kết hôn trái pháp luật ở việt nam qua các giai 23 đoạn phát triển 1.4.1. Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong cổ luật Việt Nam 23 3
- 1.4.2. Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong pháp luật Việt 26 Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 1.4.3. Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn từ 28 năm 1945 đến năm 1975 1.4.4. Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong pháp luật Việt 31 Nam từ năm 1975 đến nay Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ KẾT HÔN 35 TRÁI PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Thực trạng các trường hợp kết hôn trái pháp luật và điều 35 chỉnh pháp luật ở Việt Nam hiện nay 2.2. Thực trạng kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn 36 2.3. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về sự tự nguyện 41 2.4. Kết hôn với người đang có vợ hoặc có chồng 48 2.5. Kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự 54 2.6. Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, những 58 người có họ trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc 2.7. Kết hôn giữa những người cùng giới tính 61 2.8. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về đăng ký kết hôn 67 2.9. Vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật 72 2.9.1. Người có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật 72 2.9.2. Việc xử lý cụ thể đối với từng trường hợp kết hôn trái pháp luật 75 2.9.3. Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật 79 Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN 82 THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT Ở NƢỚC TA HIỆN NAY 3.1. Nhu cầu khách quan và phương hướng hoàn thiện pháp luật 82 về kết hôn trái pháp luật 4
- 3.1.1. Nhu cầu khách quan 82 3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kết hôn và kết hôn trái 84 pháp luật 3.2. Một số giải pháp và kiến nghị trong việc quy định về kết hôn 86 trái pháp luật và xử lý việc kết hôn trái pháp luật ở việt nam 3.2.1. Các giải pháp lập pháp 86 3.2.2. Giải pháp trong việc áp dụng pháp luật 89 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 5
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Tình hình đăng ký khai sinh của trẻ em có cha mẹ chưa 71 đăng ký kết hôn hoặc chưa đủ điều kiện đăng ký kết hôn 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và chung sống với nhau suốt đời. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn. Do đó, kết hôn đã trở thành một chế định được quy định độc lập trong hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình. Tại đó quy định cụ thể về những điều kiện kết hôn hợp pháp cũng như các hình thức kết hôn trái pháp luật. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, những mối quan hệ cũng như những vấn đề về tâm sinh lý của con người ngày càng trở nên phức tạp. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ hôn nhân, gia đình, trong đó có việc kết hôn giữa hai bên. Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp kết hôn trái pháp luật gây ra những ảnh hưởng vô cùng tiêu cực đến mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đến lối sống và đạo đức xã hội. Trong khi đó, hệ thống pháp luật lại chưa thể dự liệu cũng như điều chỉnh một cách toàn diện. Kết hôn trái pháp luật vẫn tồn tại như một hiện tượng xã hội không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể mà còn ảnh hưởng đến đạo đức và trật tự xã hội. Do đó, nghiên cứu về kết hôn trái pháp luật trong đời sống xã hội hiện nay là vô cùng cần thiết. Không chỉ nhằm dự liệu thêm các trường hợp phát sinh, mà quan trọng hơn đó là hoàn thiện hơn nữa cách khắc phục, giải quyết các trường hợp vi phạm đó. Có như vậy ý nghĩa của chế định này mới được phát huy, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kết hôn trái pháp luật luôn được là một vấn đề nóng bỏng trong thực tiễn cuộc sống, một vấn đề đáng quan tâm trong hệ thống pháp luật. Do vậy, 7
- trong thời qua ở Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Đã có một số bài viết mang tính chất nghiên cứu một số nội dung của vấn đề kết hôn trái pháp luật được đăng tải trên tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật… kể cả một số luận văn thạc sĩ và luận văn tiến sĩ luật học nghiên cứu liên quan. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu chủ yếu như: Hủy kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp của Đinh Thị Minh Mẫn, Trường Đại học Hà Nội, 2008. Với đề tài này, tác giả chủ yếu đưa ra những phân tích sâu về vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật tức là về đường lối xử lý những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận xung quanh khái niệm kết hôn trái pháp luật và những thực tiễn về tình trạng kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay lại chưa được đề cập. Hay như: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luận văn thạc sĩ luật học của Khuất Thị Thúy Hạnh, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội. Ở luận văn này, tác giả đánh giá về chế định kết hôn nói chung trong đó các điều kiện kết hôn và kết hôn trái pháp luật chỉ là một phần nhỏ. Một số các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật được đăng tải trên các Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Luật học… cũng đã có đề cập tới vấn đề này, tuy nhiên chỉ dừng lại một khía cạnh nào đó. Ví dụ "Về khái niệm và bản chất pháp lý của hôn nhân" của tác giả Nguyễn Hồng Hải trên Tạp chí Luật học số 2 năm 2000; "Mấy vấn đề về quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính" của tác giả Ngô Thị Hường trên Tạp chí Luật học số 3 năm 2001; "Nguyên tắc áp dụng phong tục, tập quán trong Luật Hôn nhân và gia đình nhìn từ góc độ giới" của tác giả Bùi Thị Mừng trên tạp chí Luật học số 3 năm 2007… Như vậy, có thể nhận thấy mỗi công trình nghiên cứu là một sự khai thác khác nhau, nhìn nhận vấn đề dưới các góc độ khác nhau. Với công trình của mình, em sẽ tiếp cận vấn đề một cách tổng quan về lý luận cũng như thực 8
- tiễn của việc kết hôn trái pháp luật. Do đó, công trình sẽ không phải là sự lặp lại của bất kỳ công trình nào trước đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ khái niệm kết hôn trái pháp luật cũng như đường lối giải quyết việc kết hôn trái pháp luật. Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cũng như các quy định pháp lý về vấn đề kết hôn trái pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo trật tự xã hội. Đồng thời, phân tích, đánh giá, nhìn nhận thực trạng và xu hướng phát triển các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật của Nhà nước về vấn đề kết hôn trái pháp luật và khắc phục hậu quả của kết hôn trái pháp luật. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết được những nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận kết hôn trái pháp luật như: Quan niệm kết hôn hợp pháp, kết hôn trái pháp luật; những yếu tố tác động tới tình trạng kết hôn trái pháp luật; Hệ quả của việc kết hôn trái pháp luật và hướng xử lý… - Đánh giá thực trạng tình hình kết hôn trái pháp luật trong xã hội hiện nay, các quy định pháp luật thực định cũng như việc áp dụng pháp luật trong việc xử lý các vi phạm. - Đánh giá chung về nhu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình về kết hôn cũng như kết hôn trái pháp luật. Qua đó kiến nghị và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là một số vấn đề lý luận về kết hôn trái pháp luật, các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000; pháp luật 9
- hôn nhân và gia đình của Việt Nam qua các thời kỳ về vấn đề này; tình trạng kết hôn trái pháp luật trong những năm gần đây và thực trạng pháp luật điều chỉnh cũng như các thiết chế đảm bảo thực thi việc áp dụng pháp luật trong việc xử lý kết hôn trái pháp luật. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong pháp luật hôn nhân và gia đình, vấn đề kết hôn trái pháp luật có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, với tên đề tài: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay, luận văn sẽ chủ yếu đề cập đến các vấn đề lý luận xung quanh quan niệm kết hôn trái pháp luật; những quy định về kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như thực tiễn kết hôn trái pháp luật trong xã hội hiện nay. Từ đó tìm ra những bất cập và đưa ra các phương hướng giải quyết. Như vậy, trong đường lối xử lý kết hôn trái pháp luật, luận văn chỉ xem xét những vi phạm nằm trong sự điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình, chứ chưa đến mức độ phải truy cứu trách nhiệm hình sự. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Phương pháp luận sử dụng chung cho mọi đề tài khoa học là phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin và luận văn này cũng không nằm ngoài thông lệ đó. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như phương pháp so sánh, tổng hợp, đối chiếu, lịch sử để nhằm đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện nhất. Trên cơ sở phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh các quan hệ kết hôn trái pháp luật, đặc biệt đánh giá, phân tích về thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề này, em đã rút ra những ưu điểm, tồn tại trong việc thi hành pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 10
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về kết hôn trái pháp luật theo pháp luật Việt Nam. Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về kết hôn trái pháp luật và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về kết hôn trái pháp luật ở nước ta hiện nay. 11
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. QUAN NIỆM VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT 1.1.1. Quan niệm kết hôn hợp pháp là cơ sở để xác định việc kết hôn trái pháp luật Nhìn từ góc độ xã hội học, quan hệ hôn nhân và gia đình là một hình thức của quan hệ xã hội được xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, quan hệ này tồn tại và phát triển theo quy luật của tự nhiên với mục đích đảm bảo sự sinh tồn, phát triển của xã hội loài người. Ngay cả khi không có bất kỳ một quy tắc, một quy định nào thì quan hệ hôn nhân và gia đình từ trước đến nay vẫn được xác lập, con người vẫn chung sống, vẫn sinh con đẻ cái và tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác. Do đó, quyền kết hôn là một quyền tự nhiên rất con người, quyền con người. Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn lịch sử, với sự xuất hiện của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, những quy tắc xã hội dần dần xuất hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội khách quan mang tính ý chí. Kết hôn không còn là một quyền tự do, bản năng của con người mà trở thành một quan hệ xã hội được điều chỉnh, tác động bởi những quan hệ về lợi ích của giai cấp thống trị. Khi ấy, mới bắt đầu xuất hiện những quan niệm đầu tiên về hôn nhân hợp pháp hay không hợp pháp. Trải qua các thời kỳ khác nhau, quan hệ hôn nhân trước hết được điều chỉnh bởi những tập quán, những ước lệ, đây là thời kỳ hôn nhân huyết thống. Quan niệm về kết hôn thời kỳ đó cũng hết sức đơn giản, không có những thủ tục, những lễ nghi rườm rà. Họ đơn thuần coi đó là sự kết hợp rất tự nhiên của hai chủ thể nam và nữ, quan hệ hôn nhân được xác lập trên cơ sở thực tế chung sống. Trong quá trình phát triển, bắt đầu xuất hiện những quy định về cấm kết hôn giữa những thế hệ trực hệ, giữa bố với con gái, mẹ và con trai, ông bà với cháu, dần dần cấm kết 12
- hôn giữa cả những thế hệ bàng hệ, giữa anh chị em ruột với nhau. Tức là quan hệ hôn nhân đã được điều chỉnh bởi những tục lệ được đặt ra trong khuôn khổ các thị tộc, bộ lạc, các hình thức tổ chức xã hội thời đó, do đó, nếu quan hệ hôn nhân tuân thủ theo những trật tự đặt ra thì sẽ được xã hội thừa nhận, cho phép, ngược lại nếu không tuân thủ thì sẽ bị ngăn cản, phản đối. Cho đến giai đoạn phồn thịnh của tôn giáo thì những trật tự tôn giáo do giáo chủ đặt ra còn có sức mạnh cưỡng chế, áp đặt hơn nhiều so với các tập tục, ước lệ trước kia. Dưới thời kỳ này, quan niệm về hôn nhân trái pháp luật chính là những quan hệ hôn nhân không tuân thủ những trật tự tôn giáo của xã hội. Không chỉ tuân thủ về các điều kiện kết hôn, mà về hình thức kết hôn thời kỳ này cũng rất được coi trọng. Ví dụ như việc một cuộc hôn nhân hợp pháp phải được tổ chức theo đúng nghi thức lễ giáo, tôn giáo. Như vậy, đến thời kỳ này, kết hôn không còn là một sự kết hợp tự nhiên giữa những chủ thể khác giới mà đã trở thành một nghi thức tôn giáo. Nếu đi ngược lại với những quy tắc đó thì không những hôn nhân không được chấp nhận, bị ngăn cấm mà những chủ thể còn bị trừng phạt bởi những chế tài rất hà khắc. Xã hội phát triển đến thời kỳ phong kiến, hôn nhân mang tính chất dân sự, tức là sự bày tỏ ý chí của các bên. Song hôn nhân không đơn thuần là sự kết hợp giữa đôi bên mà hôn nhân còn là sự giao lưu giữa các dòng họ kèm theo đó là những mục đích về kinh tế, chính trị nhất định. Chính vì vậy mà sự quyết định của cha mẹ là yếu tố bắt buộc trong quan hệ hôn nhân, giữa hai gia đình thì nhất định là phải môn đăng hộ đối… Và khi ấy, để xác lập quan hệ hôn nhân phải tuân theo những nghi thức cưới hỏi nhất định. Sự kiện kết hôn chỉ được xác lập khi những nghi thức như đính hôn, thành hôn được tiến hành theo đúng với phong tục, tập quán. Như vậy, có thể khái quát rằng, trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội, những yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa đã dần được hình thành và tác động trực tiếp tới các quy luật tự nhiên, điều chỉnh các mối quan hệ tự nhiên đó theo những chuẩn mực mà xã hội đặt ra vì mục đích lợi ích của giai cấp thống trị. Những quy định đó có thể mới chỉ dừng lại ở những tập tục, ước 13
- lệ, trật tự tôn giáo mà chưa được khái quát thành pháp luật để đưa quan hệ hôn nhân và gia đình thành một quan hệ pháp luật nhưng những ước lệ đó đã góp phần đặt nền móng cho những quan niệm sơ khai về kết hôn hợp pháp và trái pháp luật. Chỉ đến khi trong xã hội loài người có sự xuất hiện của pháp luật thì quan hệ hôn nhân và gia đình từ một quan hệ tự nhiên mới chính thức được xem xét trên khía cạnh một quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia đình. Khi đó, quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình là những quan hệ ý chí và phụ thuộc chặt chẽ vào ý chí pháp luật hay chính là những quy định pháp luật. Về mặt thuật ngữ, hôn nhân trái pháp luật phải dựa trên khái niệm hôn nhân hợp pháp. Mà bản chất của pháp luật chính là lợi ích của Nhà nước, của giai cấp nhằm ổn định trật tự xã hội nói chung, trật tự hôn nhân và gia đình nói riêng. Nhà nước đã sử dụng pháp luật - một quan hệ ý chí của con người, của giai cấp để điều chỉnh những quan hệ xã hội tự nhiên nhằm đưa các quan hệ xã hội tự nhiên phát triển theo những hướng nhất định, có lợi cho sự phát triển chung của xã hội. Tuy nhiên, pháp luật muốn điều chỉnh được các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng thì phải phản ảnh được bản chất khách quan của quan hệ đó, khi pháp luật không phản ảnh được tính khách quan của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh thì tự bản thân nó phải thay đổi theo những chiều hướng phù hợp hơn. Dưới góc độ pháp luật, kết hôn là một sự kiện pháp lý nhằm xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Xã hội được xây dựng lên bởi những tế bào vô cùng quan trọng, đó chính là gia đình, mà cơ sở đầu tiên để hình thành một gia đình chính là việc kết hôn giữa hai bên nam nữ. Để đảm bảo tạo ra những tế bào tốt, những gia đình ổn định, lành mạnh thì trước hết ngay từ việc kết hôn của hai bên nam nữ đã phải tuân thủ theo những điều kiện nhất định, sao cho cuộc hôn nhân đó được pháp luật cũng như xã hội công nhận. Cũng chính vì thế mà khi đề cập đến vấn đề kết hôn, người ta thường không chỉ nói khái 14
- niệm kết hôn nói chung mà thường nhắc tới cụm từ: kết hôn hợp pháp hay hôn nhân hợp pháp. Vậy quan niệm thế nào là kết hôn hợp pháp? Theo quy định của hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình tại Việt Nam hiện nay thì nam nữ kết hôn được coi là hợp pháp khi đảm bảo hai yếu tố sau: Thứ nhất, phải thể hiện ý chí của cả nam và nữ là mong muốn được kết hôn với nhau, ý chí và mong muốn đó được thể hiện bằng lời khai của họ trong tờ khai đăng ký kết hôn cũng như trước các cơ quan đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đây chính là điều kiện về yếu tố tự nguyện trong hôn nhân, hai bên nam nữ phải thể hiện ý chí thực của mình là mong muốn xác lập quan hệ vợ chồng với nhau, cùng nhau xây dựng gia đình, thương yêu, chăm sóc cho nhau và cho con cái… Như vậy, có thể thấy yếu tố tự nguyện là một trong những điều kiện quan trọng đầu tiên để đảm bảo cho hôn nhân có giá trị pháp lý đồng thời cũng là cơ sở để xây dựng gia đình bền vững. Thứ hai, việc kết hôn phải được Nhà nước thừa nhận. Hôn nhân chỉ được Nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân mà cụ thể là việc kết hôn phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn như C.Mác - Ph. Ăngghen: "Không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn…" [2, tr. 345]. Để hôn nhân được pháp luật thừa nhận, các cơ quan đăng ký kết hôn phải tiến hành điều tra, xác minh về những thông tin, lời khai của hai bên nam nữ, đối chiếu với những điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9, Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Khi đã thỏa mãn những điều kiện trên thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành đăng ký kết hôn cho hai bên nam nữ. Như vậy, để hôn nhân được Nhà nước và pháp luật công nhận, nam nữ phải tuân theo các điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Đây cũng là nội dung của những quy định trong pháp luật hôn nhân và gia đình, thể hiện tính khoa học, phù hợp với những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân… 15
- Như vậy, kết hôn hợp pháp là việc kết hôn đảm bảo thỏa mãn những điều kiện Luật định và sự tự nguyện cũng như các điều kiện và đăng ký kết hôn. Sự kiện kết hôn được pháp luật công nhận sẽ là cơ sở pháp lý ghi nhận quyền và nghĩa vụ vợ chồng, xác định chủ thể của quan hệ vợ chồng, giữa cha mẹ và con và xác định rõ thời điểm làm phát sinh các quan hệ đó. 1.1.2. Quan niệm về kết hôn trái pháp luật Trước hết cần khẳng định rằng, kết hôn trái pháp luật là một khái niệm pháp lý được pháp luật quy định và điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, đứng trên góc độ lý luận, để tìm hiểu những quan niệm sâu xa của vấn đề này thì cần đặt nó trong sự tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của mỗi thời kỳ. Bởi trong một xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị. Thông qua Nhà nước, bằng pháp luật, giai cấp thống trị tác động vào các quan hệ hôn nhân và gia đình làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Trong xã hội phong kiến, khi pháp luật là ý chí của một bộ phận rất nhỏ trong xã hội - tầng lớp quan lại, vua chúa, họ mặc nhiên đề ra những quy định điều chỉnh những quan hệ về hôn nhân và gia đình mà theo họ là phù hợp và đương nhiên cũng sẽ trở thành những nguyên tắc chung của toàn xã hội. Ở thời kỳ đó, hôn nhân trái pháp luật được quan niệm là những cuộc hôn nhân không tuân thủ các điều kiện kết hôn như: không "môn đăng hộ đối", những quan hệ hôn nhân không được sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng… Những quy định này thể hiện rất rõ trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long ở nước ta. Để lý giải cho những quan niệm thời đó, chúng ta có thể dễ dàng tìm ra câu trả lời trong chính nội tại bản thân xã hội phong kiến. Một xã hội chuyên quyền, gia trưởng, một xã hội mà hôn nhân không phải là sự quyết định của hai bên nam nữ, đó là mối quan hệ của cả một gia đình, dòng họ, 16
- tầng lớp, một xã hội mà khái niệm dân chủ chưa hề xuất hiện. Chính vì thế, nam nữ thời đó mặc nhiên chấp nhận việc kết hôn là việc của hai gia đình, sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng thân thích là một yếu tố bắt buộc mà thiếu nó cuộc hôn nhân đó sẽ không được Nhà nước cũng như xã hội thừa nhận. Mặt khác, bên cạnh những quy định trực tiếp điều chỉnh quan hệ hôn nhân, trong pháp luật phong kiến còn có hàng loạt những quy định hà khắc dành cho con người, đặc biệt là người phụ nữ, từ khi sinh ra họ đã không có quyền được đòi hỏi bất kỳ một quyền lợi gì cho bản thân. Do đó, trong bất kỳ một việc gì không riêng việc kết hôn họ cũng mặc nhiên chấp nhận những quy định đó, phụ nữ mặc nhiên chấp nhận, đàn ông mặc nhiên chấp nhận, từ đời này qua đời khác của cái xã hội phong kiến đó đã khiến những quy định của pháp luật ăn sâu vào hệ tư tưởng của mỗi con người, tạo thành những quan niệm xã hội mà không dễ gì thay đổi. Minh chứng cho việc đó là cho đến xã hội bây giờ, khi pháp luật điều chỉnh là hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, văn minh, tiến bộ, dân chủ, công bằng thì trong tiềm thức của người Việt Nam sự kiện kết hôn là một sự kiện trọng đại trong đời, hơn ai hết, cha mẹ phải là người đồng ý, tán thành. Tất nhiên, đó không còn là một căn cứ luật định, song với truyền thống, phong tục của người Việt Nam thì thường việc kết hôn của hai bên nam nữ vẫn không thể thiếu được sự đồng ý của cha mẹ. Tương tự như vậy, đối với các nước tư bản, chính những điều kiện sống, những yếu tố về xã hội, con người, kinh tế cũng đã quyết định đến những quan niệm của xã hội, theo đó, pháp luật điều chỉnh cũng có những xu hướng phù hợp. Về vấn đề kết hôn, có thể nói pháp luật của một số nước thuộc hệ thống Tư bản chủ nghĩa có những cách nhìn nhận rất khác với pháp luật của Việt Nam. Do đó, những căn cứ để xác định kết hôn hợp pháp và kết hôn không hợp pháp cũng có những khác biệt. Ví dụ như do các điều kiện về kinh tế, khí hậu, sinh học… khiến con người phát triển nhanh hơn, sự trưởng thành về thể lực cũng như trí lực sẽ khác với người Châu Á như Việt Nam, như vậy, điều kiện về tuổi kết hôn cũng sẽ phải điều chỉnh cho phù hợp. Hay 17
- việc kết hôn đồng giới hiện nay đã được thừa nhận tại một số quốc gia là kết hôn hợp pháp. Không chỉ được pháp luật thừa nhận mà ngay cả dư luận, cả xã hội cũng chấp nhận và ủng hộ việc đó. Như vậy, có thể khẳng định quan niệm về hôn nhân và kết hôn là một vấn đề chịu tác động rất lớn bởi những yếu tố khác nhau trong xã hội. Yếu tố đầu tiên có thể kể đến đó chính là pháp luật. Pháp luật về hôn nhân và gia đình là một ngành thuộc nhóm luật tư, tương tự như Luật Dân sự. Ở đó, sự tự định đoạt, tự thỏa thuận của các bên luôn được đề cao hàng đầu. Pháp luật chỉ đưa ra một khung pháp lý mà giới hạn của nó chính là những trật tự công. Trong phạm vi khung pháp lý đó, mọi sự thỏa thuận, sự tự định đoạt đều được tôn trọng và thừa nhận. Theo lẽ đó, đương nhiên các cơ quan công quyền chỉ tác động và điều chỉnh những mối quan hệ hôn nhân và gia đình khi xuất hiện những vi phạm ảnh hưởng đến cái mà ta gọi là trật tự công kia. Qua mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà lập pháp cũng có những sự nhìn nhận, đánh giá khác nhau để từ đó đặt ra những hành lang pháp lý nhất định. Theo sự phát triển của xã hội, và của xu hướng lập pháp nói chung, những quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hê dân sự - những quan hệ điển hình được điều chỉnh bởi luật tư ngày càng tôn trọng, đề cao sự tự nguyện, tự thỏa thuận, định đoạt của các bên và hạn chế sự tham gia của các cơ quan công quyền. Một ví dụ rõ nét nhất mà chúng ta có thể nhận thấy đó là những quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2000 khi bãi bỏ quyền của Viện kiểm sát được khởi tố vụ án dân sự, lao động - thẩm quyền đã được quy định cho Viện công tố và Viện kiểm sát trong 34 năm từ năm 1950 đến năm 2004. Như vậy, có thể nói rằng, pháp luật hiện nay khi đưa ra những quy định để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình đều rất mềm dẻo, linh hoạt sao cho vừa có thể bảo vệ được quyền và lợi ích của các bên, bảo vệ trật tự xã hội vừa có thể phù hợp với tâm tư, tình cảm của con người. Không chỉ có vậy, quan hệ hôn nhân và gia đình, đặc biệt là quan hệ kết hôn còn mang trong nó những đặc điểm riêng biệt mà ngay cả trong quan hệ dân sự cũng không có được. Đó chính là việc mọi sự thỏa 18
- thuận, mọi sự bình đẳng đều được gắn liền với yếu tố tình cảm, gắn với trách nhiệm của vợ, của chồng đối với gia đình, con cái. Bởi đây chính là mối quan hệ gốc mà từ đó sẽ phát sinh các quan hệ về ruột thịt, quan hệ nuôi dưỡng… Đối với người Việt Nam, tình cảm gia đình luôn là một điều thiêng liêng, mà ở đó những quy định của pháp luật có thể sẽ trở nên bất cập nếu như chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc mà bỏ qua yếu tố tình cảm trong đó. Có thể dẫn ra đây một ví dụ nhỏ nhưng hết sức thực tế trong trường hợp này, đó là khi xử lý việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cấm "kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự" [28]. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì những trường hợp như vậy sẽ bị Tòa án xử hủy kết hôn trái pháp luật. Nhưng việc xử lý đó sẽ không bao giờ đạt được mục đích nếu như gia đình họ vẫn đang êm ấm, vợ chồng thương yêu, cảm thông, chia sẻ cùng nhau mọi khó khăn. Nếu xử lý việc kết hôn của họ bằng việc hủy kết hôn trái pháp luật thì chẳng phải là đã phá vỡ một mái ấm gia đình hay sao? Ví dụ trên để khẳng định rằng quan niệm về hôn nhân hợp pháp cũng như cơ sở để xác định kết hôn trái pháp luật không chỉ căn cứ bởi những tiêu chí chung như đạo đức, chính trị, xã hội, nguyên tắc nhân đạo hay mục đích của hôn nhân… Mà hơn hết, những quan niệm đó phải luôn gắn với yếu tố tình cảm, trách nhiệm, sự yêu thương gắn bó với nhau giữa những thành viên trong gia đình. Ở Việt Nam chúng ta là một nước Á Đông điển hình với hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa quy định về kết hôn trái pháp luật là những trường hợp kết hôn vi phạm về các điều kiện kết hôn. Những điều kiện đó được Nhà nước pháp điển hóa từ những quan niệm trong đời sống xã hội và đưa vào những quy định của pháp luật. Theo đó, kết hôn trái pháp luật theo quan niệm của Việt Nam chính là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể là vi phạm một trong những điều kiện sau: Vi phạm điều kiện về độ tuổi; Vi phạm điều kiện về yếu tố tự nguyện; thuộc các trường hợp cấm kết hôn; vi phạm các điệu 19
- kiện về đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Những cơ sở đó được hình thành từ chính cuộc sống và con người Việt Nam, dựa trên những yếu tố về văn hóa, về sự phát triển sinh học của con người, sự phát triển của kinh tế, xã hội… 1.2. HỆ QUẢ CỦA VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT VÀ VIỆC XỬ LÝ 1.2.1. Hệ quả về mặt pháp lý Từ việc định nghĩa kết hôn trái pháp luật ta có thể hiểu đó là một hành vi vi phạm những điều kiện kết hôn, rơi vào những điều cấm kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Những hành vi như vậy ắt hẳn sẽ dẫn đến những hậu quả cho xã hội. Xét dưới góc độ pháp lý, hành vi kết hôn trái pháp luật trước kết xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Khi đã là những cuộc hôn nhân không hợp pháp xuất phát từ hành vi kết hôn trái pháp luật, đương nhiên pháp luật không thể ghi nhận và bảo vệ những quyền lợi chính đáng cho họ. Đó là quyền tự do, tự nguyện trong hôn nhân, đây là một quyền tất yếu của con người được pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các nước trên thế giới ghi nhận và bảo vệ. Trong xu hướng xã hội hóa toàn cầu, vấn đề nhân quyền của con người ngày càng được quan tâm, kết hôn do cưỡng ép, lừa dối sẽ là những hành vi bị lên án. Đối với những trường hợp tảo hôn, khi nam nữ chưa đủ tuổi kết hôn mà vẫn tiến hành những cuộc hôn nhân, điều đó không chỉ đơn thuần là xâm hại đến quyền tự do, tự nguyện của con người mà còn vi phạm những quy định của pháp luật liên quan đến việc bảo vệ trẻ em, thậm chí còn có thể phạm vào một số tội quy định trong Bộ luật hình sự. Kết hôn đồng giới sẽ xâm hại đến những quy định của pháp luật Việt Nam về việc kết hôn giữa nam và nữ… Không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của những cá nhân, việc kết hôn trái pháp luật còn ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước. Những cuộc hôn nhân không hợp pháp, kết hôn không có đăng ký kết hôn khiến cho các cơ quan nhà nước khó có thể nắm bắt và quản 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn