intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

22
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở các quan điểm lý luận, bài viết nêu lên những vấn đề mang tính thực tế của Việt Nam trong lịnh sử cũng như hiện tại về vấn đề "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", quan điểm chỉ đạo của Đảng hiện nay và việc áp dụng nguyên tắc trên trong thời gian tới tại Việt Nam, những khó khăn và thuận lợi tác động tới việc áp dụng nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" tại Việt Nam, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu cũng như trên thực tế áp dụng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG HỒNG PHƢƠNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG HỒNG PHƢƠNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái HÀ NỘI - 2011
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM 5 PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc 5 lập và chỉ tuân theo pháp luật 1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập 12 và chỉ tuân theo pháp luật 1.2.1. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử 12 1.2.2. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật 23 1.2.3. Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 28 trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm 1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc 30 lập và chỉ tuân theo pháp luật Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG 33 CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT 2.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân 33 độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và nguyên nhân 2.1.1. Một số biểu hiện của việc không độc lập và tuân theo pháp 33 luật của Thẩm phán và Hội thẩm
  4. 2.1.2. Nguyên nhân của thực trạng 47 2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện 67 nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" 2.2.1. Về hoàn thiện hệ thống pháp luật 68 2.2.2. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ 72 2.2.3. Về đạo đức Thẩm phán và Hội thẩm 74 2.2.4. Về tổ chức và hoạt động của cơ quan Tòa án 76 2.2.5. Về các giải pháp khác 80 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tòa án là cơ quan có chức năng đặc biệt trong bộ máy nhà nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết một người có tội hay không có tội. Tòa án xét xử và giải quyết những vụ án hình sự, dân sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng chính hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Để đảm bảo cho Tòa án thực hiện đúng chức năng của mình, Hiến pháp cùng nhiều văn bản luật có quy định những nguyên tắc cơ bản cho cơ quan đặc biệt này. Nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" là một trong những nguyên tắc cơ bản để Tòa án thực hiện nhiệm vụ xét xử, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong hoạt động xét xử, Hội thẩm và Thẩm phán có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quyết định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan và chính xác mà không phải phụ thuộc vào bất cứ sự tác động nào khác. Đây là một nguyên tắc Hiến định được ghi nhận từ rất sớm và phát triển cùng Hiến pháp và pháp luật. Mặc dù được quy định trong hiến pháp và nhiều văn bản luật khác nhưng trên thực tế việc 1
  6. áp dụng nguyên tắc này còn nhiều bất cập, chưa thực sự đem lại hiệu quả thiết thực trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ việc. Đặc biệt theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì việc đi sâu nghiên cứu "Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" là vấn đề có ý nghĩa thiết thực phục vụ cho quá trình nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài "Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" không còn là vấn đề là mới, trong thời gian qua đã có rất nhiều những bài viết, những công trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này, như: Khóa luận tốt nghiệp: "Khi xét xử thẩm phán, hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", của Hàn Mạnh Thắng, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; Luận văn "Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự", của Trần Thị Nhung San, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1995; "Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", của Trần Văn Kiểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 1(186), 2011; "Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của tòa án", của Đỗ Thị Phương, Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao; cùng nhiều những bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành khác. Trên cơ sở tiếp thu, tổng hợp những đề tài, bài viết trước, cùng với sự tìm tòi, và quá trình nghiên cứu của mình, tác giả đi vào phân tích nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", để thấy rằng, việc áp dụng nguyên tắc này thực tế vẫn còn nhiều bất cập và đưa ra những giải pháp thích hợp để nguyên tắc được thực thi có hiệu quả hơn. Đề tài lựa chọn của tác giả cũng nhằm mục đích khẳng định đường lối chủ trương 2
  7. của Đảng trong cải cách tư pháp là đúng đắn, kịp thời và nên được thống nhất thực hiện. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" trong hoạt động xét xử nhằm làm rõ khái niệm, nội dung và ý nghĩa; - Trên cơ sở các quan điểm lý luận, bài viết nêu lên những vấn đề mang tính thực tế của Việt Nam trong lịnh sử cũng như hiện tại về vấn đề "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", quan điểm chỉ đạo của Đảng hiện nay và việc áp dụng nguyên tắc trên trong thời gian tới tại Việt Nam, những khó khăn và thuận lợi tác động tới việc áp dụng nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" tại Việt Nam, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu cũng như trên thực tế áp dụng. 4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" trong hoạt động xét xử. Nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong rất nhiều các văn bản luật: Luật tổ chức tòa án, Luật tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân… Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin mà cụ thể là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu: phân tích, tổng hợp, so sánh, logic biện chứng, hệ thống. 5. Điểm mới của đề tài Do nghiên cứu đề tài ở phạm vi hẹp nên luận văn có điều kiện đi sâu xem xét nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo 3
  8. pháp luật" ở Việt Nam, đồng thời nêu lên thực tế áp dụng nguyên tắc này của ngành tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị mang tính xây dựng nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật về vấn đề này góp phần vào quá trình cải cách tư pháp trong thời gian tới tại Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc "thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc "thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". 4
  9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Để tìm hiểu nguyên tắc này, trước hết chúng ta phải biết vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong trong bộ máy nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định tại Điều 127 Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đồi, bổ sung năm 2001); Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (Điều 2) và một số văn bản quy phạm pháp luật khác của Việt Nam. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực, có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của nhà nước Việt Nam được giao cho Tòa án nhân dân. Do vậy, Tòa án nhân dân có một vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước. Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: "Tổ chức các cơ quan tư pháp, các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm" [9]. Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 5
  10. Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, xã hội, chủ động hội nhập kinh tế và khu vực, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tòa án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền của con người và đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Tòa án xét xử những vụ án hình sự; những vụ án dân sự (bao gồm những tranh chấp về dân sự, những tranh chấp về hôn nhân và gia đình; những tranh chấp về kinh doanh, thương mại; những tranh chấp về lao động); giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, xem xét và kết luận việc đình công hợp pháp hay không hợp pháp. Tòa án giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật (giảm hình phạt, miễn hình phạt, ra quyết định thi hành án hình sự, ra quyết định xóa án tích…). Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của Tòa án lại càng được khẳng định. Vì Tòa án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực thi này ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và tuyên có tội hay không có tội, quyết định mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến các quyền của công dân như bồi thường, biện pháp ngăn chặn, án phí,… Chủ thể được nhà nước trao quyền nhân danh nhà nước để thực hiện việc xét xử đó là Thẩm phán và Hội thẩm. Do tính chất quan trọng của hoạt động xét xử nên pháp luật quy định xét xử phải tuân theo những trình tự thủ tục và những nguyên tắc nhất định. Một trong những nguyên tắc đó là "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Nguyên tắc này được ghi nhận rất sớm trong các văn bản pháp luật dù không giống nhau hoàn toàn về mặt câu chữ. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán có quy định: 6
  11. Tòa án tư pháp sẽ độc lập với cơ quan hành chính, các vị Thẩm phán sẽ chỉ trong pháp luật và công lý, các cơ quan khác không được can thiệp vào tư pháp. Mỗi Thẩm phán quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án [42]. Mặt khác, Sắc lệnh số 13 còn quy định: "Các Phụ thẩm nhân dân có bổn phận lấy lý trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một cách công bằng, không vì nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích riêng hay tư thù mà bênh vực hay làm hại ai" [42]. Nguyên tắc này được tiếp tục ghi nhận trong hiến pháp nước ta qua các thời kỳ, cụ thể là: Điều 69 Hiến pháp năm 1946: "Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp" [23]; Điều 100 Hiến pháp 1959: "Khi xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" [24]; Điều 131 Hiến pháp năm 1980: " Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" [25], và Điều 130 Hiến pháp 1992: "Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" [26]. Trong Sắc lệnh và các bản Hiến pháp, nội dung câu chữ và phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc có khác nhau nhưng đều thể hiện tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Sự khác nhau đó phản ánh quá trình phát triển của hoạt động lập Hiến pháp và lập pháp, từ chưa hoàn thiện đến việc hoàn thiện và ngày càng chính xác. Tinh thần của nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các Luật tổ chức Tòa án, pháp luật tố tụng qua các giai đoạn hình thành, sửa đổi, bổ sung. Nội dung được cụ thể hóa một cách đầy đủ nhất tại Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo quy định của pháp luật" [30]; đồng thời nguyên tắc này cũng quy định cụ thể, rõ ràng trong Điều 12 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005. Như vậy, "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" là nguyên tắc cơ bản và quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án. 7
  12. Vậy cần hiểu nguyên tắc trên như thế nào? Nguyên tắc được hiểu là "những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc" [54, tr. 1217]. Đó thực chất là những tư tưởng, quan điểm được rút ra từ những tri thức thức khoa học có ý nghĩa chỉ đạo, bao trùm, xuyên suốt đảm bảo cho quá trình tiếp cận, nhận thức hay giải quyết đúng đắn các vấn đề cụ thể. Bởi thế, nguyên tắc không thể thiếu trong các hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, chính việc thực hiện theo nguyên tắc sẽ tạo điều kiện để những hoạt động đó đi đúng hướng và đạt hiệu quả. Pháp luật về tố tụng với tư cách là hoạt động pháp luật của các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm phải tuân theo những nguyên tắc nhất định là tất yếu. Trong khoa học pháp luật tố tụng, điển hình là luật tố tụng hình sự, nguyên tắc được định nghĩa: "Những phương châm, định hướng, chi phối toàn bộ hay một số hoạt động tố tụng hình sự, được ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác liên quan" [37, tr. 5]. Trong hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là hoạt động trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và xét xử, Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra phán xét một người là có tội hay không có tội. Tính chính xác, khách quan, hợp pháp của sự phán xét, cũng như sự bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phụ thuộc rất nhiều vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì thế, việc đưa ra các nguyên tắc tố tụng là thực sự cần thiết, đặc biệt là nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Hiện nay, khái niệm "xét xử" vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. Xét xử hiểu theo nghĩa rộng là chức năng của Tòa án. Cũng như bất kỳ cơ quan nhà nước nào khác, Tòa án đều phải quản lý cán bộ, quản lý ngân sách và cơ sở vật chất của đơn vị; Tòa án phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền và bảo vệ pháp luật. Tuy nhiên, 8
  13. hoạt động chủ yếu của Tòa án vẫn là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Đó chính là sự tổng hợp một chuỗi hoạt động của Tòa án kể từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến khi ra bản án, ra quyết định thi hành án (đối với vụ án hình sự) hoặc ra quyết định nhằm giải quyết vụ án. Như vậy, hoạt động xét xử là xem xét và giải quyết vụ án. Hiểu theo nghĩa hẹp thì xét xử là hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm tại phiên tòa mà kết quả của hoạt động này, là ra bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ án. Với cách hiểu này, có ý kiến cho rằng: "Độc lập xét xử là một nguyên tắc có tính đặc thù, chỉ có thể được áp dụng đối với Thẩm phán và Hội thẩm trong khi xét xử" [34, tr. 1-2]. "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật" là nguyên tắc được đề cao trong hoạt động xét xử. Tuy nhiên, " xét xử" trong nguyên tắc trên hiểu theo nghĩa thứ nhất hoặc thứ hai đều chưa chuẩn xác, bởi lẽ: Theo nghĩa thứ nhất, hoạt động xét xử kể từ thời điểm thụ lý, khi đó mới phát sinh vị trí pháp lý của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, vị trí pháp lý của Hội thẩm lại xuất hiện muộn hơn, đó là thời điểm có quyết định phân công xét xử của Chánh án và Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu theo nghĩa thứ hai, hoạt động xét xử chỉ diễn ra tại phiên tòa, trong khi đó vị trí pháp lý của Thẩm phán và Hội thẩm lại xuất hiện sớm hơn. Hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chủ yếu diễn ra tại phiên tòa, song trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm cũng có những hoạt động tác nghiệp khác bổ trợ cho hoạt động xét xử tại phiên tòa như nghiên cứu hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ và các công việc cần thiết khác. Vì vậy, có thể hiểu, xét xử của Hội thẩm và Thẩm phán là các hoạt động kể từ thời điểm họ được giao nhiệm vụ xét xử vụ án khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến khi kết thúc phiên tòa (đối với vụ án hình sự, 9
  14. Chánh áncòn phải ra quyết định thi hành án hình sự) bao gồm hoạt động xem xét đánh giá chứng cứ tại phiên tòa và các hoạt động bổ trợ khác để đưa ra quyết định, bản án giải quyết vụ án. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nghĩa là phải tự mình đưa ra kết luận giải quyết vấn đề trên cơ sở quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố nào khác. Đó là những tư tưởng chủ đạo, định hướng trở thành xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi được phân công xét xử vụ án. Từ những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm nguyên tắc như sau: Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là những tư tưởng chủ đạo có tính bắt buộc thể hiện quan điểm của nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định trong pháp luật tố tụng, theo đó chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm (Hội đồng xét xử) mới có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác (mà không chịu chi phối bởi bất kỳ một sự tác động nào). Vấn đề "Độc lập xét xử" thường được trực tiếp hoặc gián tiếp ghi nhận một cách rộng rãi trong Hiến pháp và pháp luật phần lớn các nước trên thế giới, như: - Điều 76 Hiến pháp Nhật Bản quy định: Tư pháp do tòa án tối cao và các Tòa án cấp dưới sử dụng. Không thể thiết lập tòa án đặc biệt và không có cơ quan nào của ngành hành pháp được sử dụng quyền Tư pháp chung thẩm. Các Thẩm phán xét xử theo lương tâm và phải tôn trọng Hiến pháp, pháp luật một cách triệt để. - Điều 97 Hiến pháp Liên bang Đức năm 1959 quy định: "Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật…". - Điều 64 Hiến pháp đệ ngũ Cộng hòa Pháp năm 1958 quy định: "Tổng thống bảo đảm sự độc lập của cơ quan tư pháp. Tổng thống được Hội 10
  15. đồng tối cao Thẩm phán phụ tá. Một đạo luật biên chế ấn định quy chế của Thẩm phán". - Nguyên tắc độc lập xét xử và tuân theo pháp luật cũng được ghi nhận khá cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga: Khoản 4 Điều 7 quy định về đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động tố tụng: Các quyết định của Tòa án, quyết định của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Dự thẩm viên, nhân viên điều tra ban đầu phải hợp pháp, có căn cứ và nêu rõ lý do. Ngoài ra, nguyên tắc còn được thể hiện ở Điều 17 quy định về tự do đánh giá chứng cứ: Thẩm phán, thành viên Bồi thẩm đoàn cũng như Kiểm sát viên, Dự thẩm viên, nhân viên điều tra ban đầu đánh giá chứng cứ theo niềm tin nội tâm dựa trên những chứng cứ có trong vụ án, căn cứ vào pháp luật và lương tâm của mình. Không có chứng cứ nào có hiệu lực được xác nhận trước đó [53]. - Chúng ta cũng có thể tìm thấy nguyên tắc này trong Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Điều 126 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "Tòa án nhân dân có quyền độc lập xét xử". Nguyên tắc được cụ thể hóa trong luật tố tụng dân sự tại Điều 6 và Điều 7 như sau: "Tòa án nhân dân dựa vào quy định của pháp luật xét xử độc lập những vụ án Dân sự, không chịu can thiệp của bất cứ cơ quan hành chính, đoàn thể xã hội và cá nhân nào khác. Tòa án nhân dân lấy sự thật làm căn cứ, lấy pháp luật làm chuẩn mực". - Điều 125 Hiến pháp Cuba ghi nhận: "Trong khi thực hiện chức năng xét xử, các Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo quy định của pháp luật". Như vậy, không chỉ ở nước ta mà nhiều nước trên thế giới đều xem trọng vấn đề "độc lập xét xử" của các Thẩm phán và Hội thẩm, do đó, nó thường được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật với tư cách là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng. 11
  16. 1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 1.2.1. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử Độc lập nghĩa là tự đưa ra quyết định dựa trên những chứng cứ và quy định của pháp luật để đưa ra quyết định về vụ án mà không phụ thuộc vào bất cứ sự tác động nào khác. Lấy chủ thể của hoạt động xét xử để nghiên cứu thì sự độc lập được biểu hiện trên hai khía cạnh: Độc lập với các yếu tố khách quan và độc lập với yếu tố chủ quan.  Độc lập với các yếu tố khách quan: - Độc lập với các chủ thể khác của Tòa án. Tại sao lại đặt vấn đề Thẩm phán, Hội thẩm độc lập với các chủ thể khác của Tòa án? Phải chăng giữa họ có hình thành một mối quan hệ nào hạn chế hoặc ảnh hưởng đến tính độc lập trong xét xử? Điều kiện để trở thành Thẩm phán, Hội thẩm Tòa án nhân dân: Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002, được sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2011 quy định: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ Cử nhân luật và được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và hội Thẩm Tòa án nhân dân có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm 12
  17. Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án quân sự. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và hội Thẩm Tòa án nhân dân đã là Thẩm phán sơ cấp ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân đã là Thẩm phán trung cấp ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương. Việc bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân phải được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán lựa chọn và đề nghị. Thẩm phán Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán Tòa án quân sự bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương đồng thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án. Hội thẩm Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân cấp huyện (gọi chung là Hội thẩm nhân dân), Hội thẩm quân nhân Tòa án quân khu và tương đương, Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự khu vực (gọi chung là Hội thẩm quân nhân). 13
  18. Hội thẩm nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Về chuyên môn nghiệp vụ: Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ hướng dẫn các Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án cấp dưới; Giám đốc việc xét xử của tòa án các cấp, tòa án đặc biệt và các Tòa án khác; Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, phúc thẩm những vụ án mà bản án quyết định chưa có hiệu lực của tòa án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền: Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại; Hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án; Hội đồng giám đốc thẩm và Hội đồng tái thẩm có thẩm quyền hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, hủy bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra xét xử lại. Ngoài ra, theo Điều 38 Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án: Chánh án Tòa án có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức công tác xét xử của Tòa án, Quyết định phân công cho Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết xét xử án hình sự…, Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm … trước khi mở phiên Tòa. 14
  19. Từ những quy định pháp lý trên có thể khái quát mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được thể hiện ở quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án và các đồng nghiệp cùng trong cùng đơn vị Tòa án; quan hệ giữa Thẩm phán và Tòa án cấp trên; quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án tòa án nhân dân cấp trên, quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án tòa án nhân dân tối cao; Hội thẩm có quan hệ giữa Hội thẩm và Chánh án Tòa án nơi Hội thẩm tham gia xét xử. Những mối quan hệ này không đơn thuần là quan hệ về tổ chức hành chính, càng không đơn thuần là quan hệ tố tụng. Trong quan hệ hành chính có quan hệ tố tụng và trong quan hệ tố tụng có mối quan hệ hành chính nhất định, không có sự tách bạch rõ ràng. Tiêu chí để có thể được tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán là người được lựa chọn phải có phẩm chất đạo đức, năng lực, liêm khiết, do cơ quan nơi người được tuyển chọn đánh giá thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm. Chánh án là người đứng đầu cơ quan vừa sử dụng cán bộ nhưng đồng thời cũng là người quản lý cán bộ trong đơn vị mình, ngoài việc bỏ một phiếu tín nhiệm như cán bộ công chức khác, Chánh án còn có tiếng nói quan trọng trong việc lựa chọn, định hướng công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ như trong việc bổ nhiệm Thẩm phán, sau khi có phiếu tín nhiệm, người được lựa chọn phải qua Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán mà Chánh án cấp tỉnh là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân, sau đó Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán làm tờ trình, danh sách trích ngang những người đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán và biên bản họp, đề nghị Chánh án tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Đối với việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì Chánh án tòa án nhân dân tối cao còn làm chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Có thể nói Thẩm phán và Hội thẩm là người chịu sự quản lý của Chánh án và Tòa án cùng và Chánh án và Tòa án cấp trên. Thông qua công tác tổ chức xét xử như họp bàn án trước khi xét xử, phân công Thẩm phán, Hội thẩm xét xử 15
  20. vụ án, Chánh án có thể tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng nhưng việc "Tòa cấp trên" hủy án "Tòa cấp dưới" cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm của mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật. Mặc dù pháp luật đã quy định khi hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại, Tòa án cấp phúc thẩm không được quy định trước những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc bác bỏ cũng như không quyết luật, đảm bảo việc xét xử công bằng, khách quan. Khi án bị hủy để xét xử sơ thẩm lại, Hội đồng xét xử cũng cần phải tỉnh táo để xem xét lại nguyên nhân mà Tòa án cấp trên hủy, xem xét toàn diện các chứng cứ, thông tin có phù hợp với thực tế khách quan hay không để xét xử lại cho chính xác; nếu cấp trên hủy sai thì phải bảo vệ chính kiến, quan điểm của Hội đồng xét xử, miễn sao bản án, quyết định phải có căn cứ và đúng pháp luật. Độc lập xét xử với Chánh án và Tòa án cấp trên không có nghĩa là không lắng nghe, không học hỏi, chỉ đưa ra quyết định dựa trên những suy nghĩ chủ quan của mình, việc tranh thủ ý kiến của tập thể Thẩm phán, của cấp trên để áp dụng thống nhất pháp luật, củng cố niềm tin nội tâm sẽ hạn chế được những sai sót có thể xảy ra do lỗi chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm. Điều quan trọng là không được lạm dụng quá mức mối quan hệ này trong việc xét xử, khi đưa ra một bản án hay thỉnh thị án. - Độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước công khai xác định nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước, đó là: Đảng ra nghị quyết, chỉ thị, đề ra đường lối, chủ trương chính sách; đào tạo và giới thiệu những đảng viên ưu tú vào cơ 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0