intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

46
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận, cơ sở pháp lý, cho việc xác định phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở nước ta và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƯU ĐỨC ANH PH¹M VI B¶O Hé QUYÒN Së H÷U C¤NG NGHIÖP §èI VíI NH·N HIÖU THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƯU ĐỨC ANH PH¹M VI B¶O Hé QUYÒN Së H÷U C¤NG NGHIÖP §èI VíI NH·N HIÖU THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ QUẾ ANH HÀ NỘI - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Lưu Đức Anh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ PHẠM VI BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU ........................................ 8 1.1. Khái niệm và phân loại nhãn hiệu .................................................... 8 1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu ............................................................................. 9 1.1.2. Phân loại nhãn hiệu............................................................................. 12 1.2. Khái niệm và phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ............ 14 1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp ................................................ 14 1.2.2. Phạm vi bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp ....................................... 15 1.3. Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và phạm vi của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ..................................................................................... 18 1.3.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ................... 18 1.3.2. Khái niệm phạm vi bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu .............. 22 1.4. Cơ sở xác định phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu............................................................................... 22 1.4.1. Phạm vi bảo hộ về thời gian ............................................................... 23 1.4.2. Phạm vi bảo hộ về không gian ........................................................... 24 1.4.3. Phạm vi bảo hộ về nội dung ............................................................... 28 1.4.4. Phạm vi hàng hóa, dịch vụ được gắn nhãn hiệu ................................. 36 1.4.5. Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu ................................................... 38
  5. Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ PHẠM VI BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU ................................................... 41 2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ............................................ 44 2.1.1. Phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu về thời gian .............................................................................................. 45 2.1.2. Phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu về không gian .......................................................................................... 45 2.1.3. Phạm vi nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ....... 46 2.2. Xử lý các hành vi xâm phạm phạm vi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu .................................................................. 59 2.2.1. Các quy định chung về xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ........................................................... 59 2.2.2. Biện pháp dân sự ................................................................................ 61 2.2.3. Biện pháp quản lý nhà nước ............................................................... 68 Chương 3: THỰC TIỄN XÂM PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN PHẠM VI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM........................................................................ 75 3.1. Thực tiễn vi phạm liên quan đến phạm vi thời gian và không gian của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ................. 75 3.2. Thực tiễn vi phạm liên quan đến phạm vi nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ................................................. 78 3.2.1. Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ đăng ký kèm theo nhãn hiệu ........ 78
  6. 3.2.2. Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ đăng ký kèm theo nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ ................................................................................ 79 3.2.3. Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ đăng ký kèm theo nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ ...... 79 3.2.4. Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ đăng ký kèm theo nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ.......................................................................................... 79 3.3. Thực tiễn vi phạm liên quan đến phạm vi hàng hóa được gắn nhãn hiệu .................................................................................... 82 3.4. Những xâm phạm mới liên quan đến môi trường internet .......... 83 3.5. Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu .................... 85 KẾT LUẬN .................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 91
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SHCN: Sở hữu công nghiệp SHTT: Sở hữu trí tuệ
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Cùng với sự phát triển xã hội loài người theo quy luật “Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất…” mà C. Mác đã khẳng định, kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa đã bao trùm nền kinh tế của các nước…, thì hàm lượng chất xám, trí tuệ trong mỗi sản phẩm ngày càng chiếm tỷ trọng cao, đặc biệt là có những sản phẩm thuần túy là trí tuệ được lưu thông trong thị trường với giá trị không nhỏ. Cách đây hàng thế kỷ, nhiều nước đã có luật sở hữu công nghiệp. Với các nỗ lực chung của các quốc gia có nền kinh tế thị trường, ngay từ thế kỷ XIX đã ra đời Liên minh quốc tế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp - đó là Công ước Paris năm 1883. Ngày nay, nền kinh thị trường cạnh tranh gay gắt, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu không những bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu với những sản phẩm chất lượng, mẫu mã tương ứng…, mà điều quan trọng hơn là bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng được các quốc gia, các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp… rất quan tâm, vì nó tạo ra sự khuyến khích, bảo đảm cho đầu tư trong, ngoài nước và cũng là động lực tăng trưởng kinh tế. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, trong đó có nhãn hiệu đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Một trong số 16 cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc là Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) có trụ sở ở Géneve, Thụy Sĩ, được thành lập năm 1967 với Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) nhằm thúc đẩy tiến trình bảo hộ sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, khuyến khích việc ký kết các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, hiện đại hóa pháp luật quốc gia các nước thành viên, quản lý các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ… 1
  9. Từ tầm quan trọng đặc biệt đó, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng trở thành vấn đề thách thức đối với nhiều quốc gia, đã trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để một nước trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đối với nước ta, thách thức đó trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, khi mà việc đàm phán, thương lượng song phương hay đa phương để được trở thành thành viên chính thức của WTO đã ở giai đoạn sắp kết thúc. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở nước ta trong thời gian qua cũng đã có được bước chuyển biến khả quan kể cả trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến cơ chế thực thi, cũng như xử lý các vi phạm…, tuy nhiên trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập, đó là: - Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng còn thiếu, chưa đạt đủ các tiêu chí của Hiệp định TRIPS/WTO; - Hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp còn chưa hạn chế, chưa đẩy lùi được tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và xâm phạm nhãn hiệu đang diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng; - Việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và xâm phạm nhãn hiệu vẫn còn thiên về xu hướng “hành chính hóa”, “hình sự hóa”, mà chưa chú ý xử lý vi phạm bằng biện pháp, chế tài dân sự… - Nhiều tranh chấp phát sinh liên quan đến nhãn hiệu gây tranh cãi do chưa xác định được phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Tình trạng này đã gây khó khăn không chỉ cho các doanh nghiệp trong nước mà còn với cả các nhà đầu tư nước ngoài. Xuất phát từ tình hình đó, việc nghiên cứu đề tài: “Phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam” sẽ góp phần lý giải nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện 2
  10. pháp luật, bảo đảm cơ chế và nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ngoài đã có nhiều công trình nghiên cứu về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu như: Quyền sở hữu công nghiệp của các giáo sư Albert Chavane và Jean Jacques Burst (Cộng hòa Pháp, 1993); Nhãn hiệu - sự sáng tạo, giá trị và sự bảo hộ của Francis Le FEBVRE (Cộng hòa Pháp, 1994); Nhãn hiệu của giáo sư Andrea Semprini Đại học Montpellier III (Cộng hòa Pháp, 1995); Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của Tiến sĩ Gordian N. Hasselblatt (Cộng hòa Liên bang Đức, Beck Mỹnchen, 2001)… Các công trình nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề luật nhãn hiệu của các nước đó. Ở nước ta, một số nhà khoa học, luật gia đã có những công trình khoa học liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu như: “Nâng cao vai trò và năng lực của Tòa án trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (TS. Đinh Ngọc Hiện - Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, 1999); “Ý nghĩa của Nghị định số 12/1999/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp và vấn đề tổ chức thực hiện” (PGS.TS Đoàn Năng); “Pháp luật về sở hữu trí tuệ - Thực trạng và hướng phát triển trong những năm đầu thế kỷ XXI” (PGS.TS Lê Hồng Hạnh - đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, 2000); “Nhãn hiệu trong pháp luật dân sự” (PGS.TS Đinh Văn Thanh, luật gia Đinh Thị Hằng)...; trong các hội thảo khoa học, nhiều nhà khoa học cũng đề cấp đến vấn đề này, như: “Xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và thực hiện Nghị định 12/CP/1999 của Chính phủ” (PGS.TS Đoàn Năng), “Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam” (TS. Đinh Ngọc Hiện), “Tình hình đăng ký sở hữu công nghiệp và thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam”; “Tầm quan trọng 3
  11. của bảo hộ nhãn hiệu trong kỷ nguyên hội nhập kinh tế nhằm tăng cường tính cạnh tranh toàn cầu” (Trần Việt Hùng). Tạp chí Nhà nước và Pháp luật cũng có bài nghiên cứu, như: “Về thực trạng và phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay” (PGS.TS Đoàn Năng)...; trong Tạp chí Luật học cũng có một số bài như: “Thương hiệu hay nhãn hiệu” (PGS.TS Lê Hồng Hạnh)... Các công trình của các tác giả Việt Nam đề cập vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong mối quan hệ chung với các đối tượng khác của sở hữu trí tuệ, có nêu lên thực trạng xâm phạm, có kiến nghị giải pháp khắc phục... Nhưng, nhìn chung chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. 3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận, cơ sở pháp lý, cho việc xác định phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở nước ta và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Với mục đích trên, trong luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu nhãn hiệu với tư cách là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp trong mối quan hệ chung của việc bảo hộ sở hữu công nghiệp; xây dựng một số khái niệm khoa học có liên quan đến nhãn hiệu, phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu… nhằm tạo ra hệ quan điểm, quan niệm và cách nhìn đúng đắn về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong thời đại hiện nay; - Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam, đánh giá hiệu 4
  12. quả điều chỉnh của pháp luật hiện hành; chỉ ra những hạn chế cần khắc phục trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ; - Nghiên cứu thực trạng hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu liên quan đến phạm vi bảo hộ, do các cơ quan nhà nước và của Tòa án nhân dân, từ đó đề xuất các biện pháp đồng bộ nhằm bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu; - Nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, bộ máy và biện pháp thực thi bảo hộ nhãn hiệu của các nước, so sánh và tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài, nhất là mô hình Tòa án về sở hữu công nghiệp; - Đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thông qua xác định phạm vi bảo hộ. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận văn được hoàn thành trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về sở hữu công nghiệp nói chung. Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: Tổng kết thực tiễn, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống hóa… cũng được sử dụng triệt để nhằm làm rõ các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp nói chung và phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng. 5. Những đóng góp mới của luận văn Là công trình khoa học đầu tiên đi chuyên sâu nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống từ chế định pháp luật, cơ chế thực thi và thực trạng về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam, trong nội dung của luận văn đã có được một số đóng góp mới, cụ thể như: 5
  13. 5.1. Nêu rõ mọi khía cạnh của phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và từ việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam, chỉ rõ hiệu quả và những nguyên nhân, hạn chế. 5.2. So sánh, đối chiếu các quy định pháp luật Việt Nam về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu với quy định về bảo hộ nhãn hiệu trong một số điều ước quốc tế và pháp luật của một số nước khác trên thế giới, từ đó chỉ rõ “tính đầy đủ” và “tính hiệu quả” của pháp luật Việt nam và mục tiêu cụ thể cần đạt tới. 5.3. Xây dựng được một số khái niệm khoa học có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu như: - Nhãn hiệu - đối tượng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; - Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu; - Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu; - Hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu; - Hành vi sản xuất hàng giả và hàng giả... 5.4. Nêu ra các khuyến nghị và giải pháp đồng bộ nhằm góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật, tăng cường hiệu quả các hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo các tiêu chí “đầy đủ” và “hiệu quả” để các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả đạt được của luận án góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận trong khoa học chuyên ngành pháp luật dân sự, thống nhất chung về khái niệm phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu… và tầm quan trọng của việc xác định phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu và các kiến nghị trong luận văn phần nào 6
  14. cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều kiến giải trong luận văn có ý nghĩa thực tiễn góp phần hoàn thiện cơ chế xác định phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những giải pháp được nêu trong luận văn có tác dụng thiết thực đối với các doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình bảo vệ nhãn hiệu của mình. Những luận cứ khoa học và thực tiễn được trình bầy trong luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy khối kiến thức về sở hữu trí tuệ; những kết luận, khuyến nghị trong luận án có thể được tham khảo trong hướng dẫn thi hành và áp dụng pháp luật ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Chương 2: Những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Chương 3: Thực tiễn xâm phạm liên quan đến phạm vi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và Một số khuyến nghị hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam. 7
  15. Chương 1 LÝ LUẬN VỀ PHẠM VI BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 1.1. Khái niệm và phân loại nhãn hiệu Sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng cho hàng hoá cùng chủng loại. Thường nếu không có sự khác biệt rõ ràng đối với người tiêu dùng, chúng thường chỉ khác nhau về chất lượng, giá cả và các đặc tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được hướng dẫn, giúp họ suy xét các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn cho riêng mình trong số các hàng hoá cạnh tranh. Do vậy, hàng hoá cần phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên hàng hoá trên thị trường chính là nhãn hiệu hàng hoá. Thông qua đó, khuyến khích chủ sở hữu các nhãn hiệu duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm bán ra dưới nhãn hiệu đó, để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng và không ngừng nâng cao uy tín của mình trên thị thường đối với các sản phẩm do mình sản xuất ra. Từ đó khiến nhãn hiệu không chỉ còn là thông điệp và sự bảo đảm của nhà sản xuất, kinh doanh đối với người tiêu dùng mà đã trở thành giá trị kết cấu của nền kinh tế, vì thế sự bảo hộ của Nhà nước và rộng hơn là của pháp luật quốc tế đối với hàng hóa và nhãn hiệu luôn là vấn đề thời sự quan trọng. Bảo hộ đối với một đối tượng nào đó là vấn đề cần phải làm rõ nó là gì, nghĩa là phải xác định được những đặc trưng hay các dấu hiệu của đối tượng. Nói khía cạnh khoa học thì đó là khái niệm về đối tượng bảo hộ và ở đây chính là khái niệm nhãn hiệu. Trong khoa học cũng như trong điều chỉnh pháp luật hay trong quản lý, khái niệm về nhãn hiệu đã được các học giả, các nhà lập pháp hay các nhà quản lý, các nhà sản xuất, kinh doanh… xác định khá nhiều và cũng rất khác 8
  16. nhau. Tuy không thể nêu và phân tích hết được, song những khái niệm nhãn hiệu được giới thiệu và phân tích dưới đây sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn vấn đề nghiên cứu. 1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu Theo cách tiếp cận được lựa chọn tại Mục 1(1) của Luật Mẫu WIPO về nhãn hiệu thì một nhãn hiệu hàng hoá là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá của doanh nghiệp này với hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh [21]. Cụ thể hơn, Hiệp định TRIPs cũng có đưa ra khái niệm nhãn hiệu là: Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp dấu hiệu nào. Có khả năng phân biệt hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các sắc mầu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được [30, Đ.15] Có thể thấy, định nghĩa nhãn hiệu theo quy định của WIPO chỉ tập trung vào bản chất của nhãn hiệu đồng thời là hai chức năng chính của nhãn hiệu, chức năng chỉ nguồn gốc và chức năng phân biệt. Trong khi đó, TRIPs định nghĩa được đưa ra tại TRIPs lại có tính cụ thể nhưng vẫn bảo đảm bao quát chung nhất các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu, từ bản chất, chức năng, các yếu tố cấu thành đến điều kiện bảo hộ của nhãn hiệu đều được đề cập. Ở cấp độ khu vực, Liên minh châu Âu cũng đưa ra một khái niệm về nhãn hiệu theo các Chỉ thị số 89/104 và 40/94. Theo đó, Một nhãn hiệu cộng đồng có thể gồm bất kỳ dấu hiệu nào được trình bày một cách rõ ràng và chi tiết (represented graphically), đặc biệt là các từ, 9
  17. bao gồm tên riêng, các phác hoạ hình ảnh, chữ viết, chữ số, hình dáng của hàng hoá hoặc của bao bì sản phẩm, với điều kiện là những dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hoá, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác [25, tr. 14]. Với sự tiếp thu có chọn lọc tinh thần của định nghĩa nhãn hiệu trong Hiệp định TRIPs và định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng khẳng định bản chất của nhãn hiệu cũng như nêu bật các yếu tố cấu thành nhãn hiệu trong định nghĩa đề cập trên, tuy nhiên Hiệp định này không chỉ dừng ở đó mà còn đưa vào định nghĩa đó phân loại nhãn hiệu: Trong hiệp định này, nhãn hiệu được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa dịch vụ của một người với hàng hóa dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người,hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp mầu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận [20, Đ.6]. Khái niệm theo Hiệp định này gần giống với khái niệm đưa ra theo Đạo luật Lanham của Hoa Kỳ (1946): Nhãn hiệu là từ hoặc một số từ, chữ số hoặc ký tự, hình ảnh hoặc ký hiệu hoặc thiết kế đồ họa hoặc âm thanh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó mà một doanh nghiệp sử dụng để nhận biết hàng hóa hoặc dịch vụ của mình và phân biệt chúng với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác [27]. Theo quy định nêu trên, về cơ bản nhãn hiệu ở Hoa Kỳ là các dấu hiệu vừa truyền thống vừa hiện đại. Quy định tương tự cũng được pháp luật Đức quy định theo Điều 3 Luật nhãn hiệu 1995: Các từ ngữ (bao gồm cả tên riêng), hình ảnh, chữ cái, chữ số, 10
  18. dấu hiệu âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều (bao gồm cả hình dáng của hàng hóa và bao bì của hàng hóa) cũng như các màu sắc và sự kết hợp của các màu sắc đó. Các dấu hiệu có liên quan phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác [26]. Khái niệm nhãn hiệu nêu trên tuy được quy định khái quát chung nhưng cũng đã thể hiện được các điều kiện cơ bản của nhãn hiệu. Các dấu hiệu được quy định trong luật không chỉ bao gồm các dấu hiệu truyền thống được quy định trong các điều ước quốc tế mà còn bao gồm cả các dấu hiệu hiện đại như dấu hiệu âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều. Theo pháp luật về nhãn hiệu của Australia, “âm thanh, mùi vị có thể được đăng ký. Thêm vào đó, nhãn hiệu được đăng ký ngay cả khi chúng không có sẵn tính phân biệt với điều kiện là nhãn hiệu đó đã đạt được tính phân biệt thông qua sử dụng” [22]. Nhãn hiệu được bảo hộ theo quy định nêu trên có những nết đặc thù so với các quy định về nhãn hiệu trong luật của Cộng hòa Liên bang Đức và Hoa Kỳ đó là: ngoài dấu hiệu âm thanh thì mùi vị cũng có thể được đăng ký bảo hộ là nhãn hiệu. Nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ thông qua việc sử dụng của các nhà sản xuất, kinh doanh; nếu nhãn hiệu đó đã đạt được tính phân biệt thông qua sử dụng mặc dù trước khi sử dụng nhãn hiệu không có sẵn tính phân biệt. Tóm lại, qua khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật nhãn hiệu của các tổ chức quốc tế và của các nước như Đức, Hoa Kỳ, Australia nêu trên, thì thấy rằng: Luật pháp quốc tế và luật pháp của các nước này đều xác định rõ nhãn hiệu phải có những dấu hiệu thể hiện khả năng nhận biết và phân biệt. Dấu hiệu nhận biết và phân biệt được coi là yếu tố định lượng rất quan trọng khi phân biệt nhãn hiệu này với nhãn hiệu khác. Nhãn hiệu có các chức năng phân biệt và nhận biết hàng hóa, dịch vụ (không bắt buộc phải là hàng hóa, 11
  19. dịch vụ cùng loại) của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác (doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác). Đây là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho nhãn hiệu thực hiện chức năng của mình, tạo dựng bản sắc riêng cho từng chủ thể kinh doanh và tránh sự nhầm lẫn khi hàng hóa được đưa vào lưu thông trên thị trường. Như vậy, Nhãn hiệu là dấu hiệu hữu hình mà từ đó xác định được nguồn gốc, đồng thời giúp phân biệt hàng hóa, dịch vụ với các sản phẩm cùng loại nhưng khác nguồn gốc. 1.1.2. Phân loại nhãn hiệu Mục đích của việc phân loại này sẽ giúp làm rõ bản chất của nhãn hiệu với những nét đặc thù cho phép xác định đặc trưng của một loại nhãn hiệu - đặc trưng này không chỉ ảnh hưởng tới yếu tố cảm nhận nhãn hiệu trong người tiêu dùng, tới tính chất của việc sử dụng nhãn hiệu mà còn ảnh hưởng tới cả quá trình đăng ký nhãn hiệu đó. Đồng thời còn ảnh hưởng tới việc xác định chế độ pháp lý đối với từng loại nhãn hiệu [1]. Trong nghiên cứu này, tác giả phân loại các nhãn hiệu theo hai nhóm tiêu chí. Một là về chủ sở hữu (gồm sở hữu của tập thể, hoặc một chủ sở hữu) và hai là dựa trên chức năng của nhãn hiệu (gồm nhãn hiệu thường và nhãn hiệu chứng nhận). 1.1.2.1. Phân loại theo tiêu chí chủ sở hữu Nhãn hiệu thuộc về một chủ sở hữu là nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ cho một tổ chức, hoặc cá nhân duy nhất và chỉ có tổ chức, các nhân đó mới có quyền sở hữu nhãn hiệu. Đây là dạng nhãn hiệu phổ biến nhất, thường gặp nhất trong quá trình thẩm định nhãn hiệu. Nhãn hiệu tập thể: hầu hết các nước đều thừa nhận nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của thành viên một “tập thể” [29, Điều 7Bis] hay “tổ chức” (theo khoản 17, Điều 4, Luật SHTT 2005) với hàng hoá, dịch vụ của các đối tượng khác không phải là thành viên. Đây 12
  20. cũng là nhãn hiệu được đa số các văn bản quy định và các nước bảo hộ vì phải tuân thủ nghĩa vụ bảo hộ trong Công ước Paris. Dễ thấy, nhãn hiệu tập thể có các đặc điểm sau giúp phân biệt với các nhãn hiệu thông thường: Thứ nhất, chủ sở hữu nhãn hiệu là một tổ chức còn người sử dụng lại là thành viên của tổ chức; Thứ hai, chức năng của nhãn hiệu là nhằm phân biệt hàng hoá, dịch vụ của tổ chức với các chủ thể khác, nó như sự bảo đảm cho hàng hoá, dịch vụ của thành viên bằng uy tín của tổ chức sở hữu nhãn hiệu. 1.2.2.2. Phân loại theo tiêu chí chức năng Ngoài những nhãn hiệu thông thường, người ta còn sử dụng nhãn hiệu để chứng nhận cho hàng hóa, dịch vụ. Nhãn hiệu chứng nhận: khác với cách phân loại theo chủ sở hữu nhãn hiệu, cách phân loại theo chức năng này ít được các điều ước quốc tế và các quốc gia điều chỉnh do việc các điều ước lớn như Công ước Paris, TRIPS không quy định nghĩa vụ phải bảo hộ nó và do bản chất của nhãn hiệu chỉ mang tính xác nhận một đặc điểm nào đó của hàng hoá, dịch vụ mang nó, mà không mang tính độc quyền hay áp dụng nội bộ. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhãn hiệu chứng nhận ở các quốc gia. Một số quốc gia quy định, nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu của tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận về hàng hoá, dịch vụ được dùng cho hàng hoá, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức kinh doanh khi hàng hoá, dịch vụ của họ phù hợp với các điều kiện của nhãn hiệu chứng nhận. Nhưng tại Hoa Kỳ, không phải bất kỳ ai tuân thủ các tiêu chuẩn đã xác định đều có thể sử dụng nhãn hiệu chứng nhận, mà chỉ các doanh nghiệp đã được chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận cho phép mới được sử dụng nhãn hiệu đó [21, tr.68]. Khoản 18, Điều 4, Luật SHTT 2005 của Việt Nam cũng quy định theo nghĩa hẹp như vậy: Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2