intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

30
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu làm sáng tỏ các quy định và hệ thống chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam về phương diện pháp lý và thực tiễn thực hiện. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí HÀ NỘI - 2012
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI 9 VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội 9 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội 9 1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội 11 1.1.3. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội 12 1.2. Sự cần thiết phải bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ 15 1.2.1. Khái niệm lao động nữ và tính đặc thù của lao động nữ 15 1.2.2. Sự cần thiết phải thực hiện bảo hiểm xã hội đối với lao 20 động nữ 1.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ 23 1.3.1. Chủ thể của bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ 23 1.3.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ 24 1.4. Một số quy định của pháp luật quốc tế về bảo hiểm xã hội 26 đối với lao động nữ 1.4.1. Các công ước quốc tế 27
  4. 1.4.2. Pháp luật một số nước 30 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM 37 XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ 2.1. Chế độ nghỉ chăm sóc con ốm 37 2.1.1. Điều kiện hưởng chế độ nghỉ chăm sóc con ốm 37 2.1.2. Chế độ và quyền lợi 37 2.2. Chế độ thai sản 41 2.2.1. Điều kiện hưởng chế độ thai sản 42 2.2.2. Chế độ và quyền lợi 43 2.3. Chế độ hưu trí 55 2.3.1. Chế độ hưu trí bắt buộc 56 2.3.1.1. Chế độ hưu trí hàng tháng 56 2.3.1.2. Chế độ hưu trí một lần 64 2.3.2. Chế độ hưu trí tự nguyện 65 2.3.2.1. Chế độ hưu trí hàng tháng 65 2.3.2.2. Chế độ hưu trí một lần 66 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI 68 VỚI LAO ĐỘNG NỮ 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội đối với 68 lao động nữ 3.1.1. Nâng cao nhận thức cho lao động nữ về bảo hiểm xã hội 68 3.1.2. Nâng cao tính đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật 68 3.1.3. Đảm bảo sự ổn định và bền vững của nguồn tài chính 69 3.1.4. Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực bộ máy 69 quản lý nhà nước
  5. 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện bảo hiểm xã hội đối với lao 70 động nữ 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao 71 động nữ 3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp 80 luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ 3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn đối 82 với việc bảo vệ lao động nữ 3.2.4. Công tác cán bộ 83 3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà 84 nước có thẩm quyền với việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phụ nữ là lực lượng lao động đông đảo, có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong gia đình và xã hội. Cũng như bất kỳ người lao động nào trong quan hệ lao động, lao động nữ có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội để được bù đắp phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút trong các trường hợp họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già hay do sự tác động của kinh tế thị trường. Tuy nhiên với tính đặc thù của mình, lao động nữ cần chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp để không chỉ giúp lao động nữ thực hiện tốt chức năng lao động mà còn phải thực hiện tốt chức năng tái sản xuất sức lao động cho xã hội. Vốn được coi là phái yếu trong mọi quan hệ xã hội (trong đó có quan hệ lao động), lao động nữ luôn luôn phải đấu tranh để được bình đẳng với nam giới. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Trong ba hình thức bất bình đẳng lớn nhất của lịch sử nhân loại thì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ chính là nguồn gốc đích thực về mặt lịch sử, xã hội của những mâu thuẫn cơ bản… " [24]. Ngày nay, sự bất bình đẳng đó vẫn tồn tại ở hầu khắp các khu vực và trên thế giới. Điều đó đã hạn chế sự vươn lên của phụ nữ khiến họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, trong lao động và trong quá trình thực hiện thiên chức của mình. Vì thế, việc đề ra các chủ trương, biện pháp để bảo vệ phụ nữ là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Và bảo hiểm xã hội là một trong những biện pháp, chính sách quan trọng được các quốc gia sử dụng để bảo vệ họ. Ở Việt Nam, pháp luật về bảo hiểm xã hội đã có những quy định riêng tương đối phù hợp với những nét đặc thù của lao động nữ và có hiệu quả trong việc bảo vệ lợi ích của họ, nhất là trong chế độ trợ cấp thai sản. Các quy định này một phần giúp cho lao động nữ phục hồi sức khỏe, một phần giúp họ 1
  7. vượt qua được những khó khăn về kinh tế để vươn lên, ổn định đời sống, nâng cao thể lực, trí lực và năng suất lao động. Tuy nhiên vẫn còn khá nhiều quy định bất cập, cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Và thực tiễn ở Việt Nam, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, trong một số vấn đề, quyền bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ chưa được đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ vì nguyên nhân từ chính pháp luật (ví dụ trong vấn đề cho thuê lại lao động mà hiện tại Luật lao động Việt Nam chưa điều chỉnh). Đó là lý do cơ bản tôi chọn đề tài: "Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay". Trên cơ sở làm sáng tỏ một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm nói chung, bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ nói riêng, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành đối với lao động nữ, so sánh, đối chiếu với pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ của một số nước, luận văn đưa ra một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ cũng là yêu cầu để đảm bảo tính tương thích và góp phần thực hiện tốt hơn Luật bình đẳng giới. 2. Tình hình nghiên cứu Từ trước đến nay cũng đã có một số bài báo, bài viết về vấn đề này nhưng cũng chỉ nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ cũng như thực trạng về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở nước ta. Trong xu thế hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả có tham khảo các tạp chí khoa học pháp lý: Nhà nước pháp luật, thông tin khoa học pháp lý, bảo hiểm xã hội, Nghiên cứu lập pháp, các công trình nghiên cứu khoa học của người đi trước 2
  8. thông qua mạng, báo chí... Như bài viết của TS. Nguyễn Hữu Chí: "Hoàn thiện thực thi pháp luật về lao động nữ trong doanh nghiệp ngoài Nhà nước"; TS. Nguyễn Thị Kim Phụng với bài viết: "Nội luật hóa CEDAW về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ khi dự thảo Luật bảo hiểm xã hội"; tác giả Đào Duy Phương về: "Chế độ bảo hiểm xã hội về thai sản theo pháp luật hiện hành"… Tuy nhiên, các công trình của các tác giả mới chỉ tập trung nghiên cứu trong những phạm vi hẹp mang tính chất nghiên cứu , trao đổi, là các công trình nghiên cứu khoa học ngắn gọn trên các tạp chí có tính gợi mở . Việc nghiên cứu , tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài để hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là điều cần thiết. Ngoài ra, trên cơ sở tìm hiểu các thành quả mà người đi trước đã đạt được, tác giả tiếp tục nghiên cứu và kiến nghị đưa ra các giải pháp để góp phần hoàn thiện thực trạng chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ. Một trong những vấn đề góp phần làm nên thành công của luận văn là việc nghiên cứu các tài liệu, vì thế nên việc tiếp cận và tìm hiểu các văn bản pháp lý liên quan đến chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ là hết sức cần thiết. Người viết tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật Việt Nam gồm đạo luật quan trọng có giá trị cao nhất đảm bảo quyền con người, đặc biệt là quyền của phụ nữ như: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992. Tìm hiểu hệ thống pháp luật trước khi có Luật lao động ra đời như các Sắc lệnh 29, Sắc lệnh 54, Sắc lệnh 76, Sắc lệnh 77, Sắc lệnh 105... của Hồ Chủ Tịch, các Điều lệ bảo hiểm ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995, Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995, Luật lao động năm 1994, các văn bản hướng dẫn Luật lao động năm 1994, Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 19/01/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995, Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm bắt buộc, Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 3
  9. quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp, Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm tự nguyện... Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, nhằm tạo lập hành lang pháp lý về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị. 4. Mục đích và nhiệm vụ Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu làm sáng tỏ các quy định và hệ thống chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam về phương diện pháp lý và thực tiễn thực hiện. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra cho quá trình nghiên cứu là: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ nói riêng. - Phân tích và làm rõ các quy định cũng như thực trạng áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ theo pháp luật hiện hành. Đồng thời xem xét thực tế thực hiện cũng như các kết quả đạt được cần phát huy và các hạn chế cần khắc phục. - Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước về bảo hiểm xã hội, đưa ra những đề xuất để hoàn thiện các quy định về chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam. 4.Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài 41. Cở sở khoa học Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới một công 4
  10. bằng dân chủ văn minh, đảm bảo quyền con người, tất cả vì con người, do con người cho nên vấn đề đảm bảo chính sách an sinh nhất là chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ là một trong những mục tiêu lớn thể hiện tính ưu việt của chế độ chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khẳng định: "Chính sách bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc... coi nhẹ chính sách tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa" [15]. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 nhấn mạnh một lần nữa: "Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội..." [18]. Cuộc giải phóng phụ nữ gắn liền với cuộc giải phóng dân tộc luôn là mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời hướng tới. Từ khi bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều lần đề cập đến bảo hiểm xã hội. Hồ Chí Minh tố cáo thực dân Pháp câu kết với bọn phản động, người lao động Việt Nam một cổ hai tròng, không được hưởng bất kỳ một chế độ, chính sách bảo hiểm nào. Năm 1924 Hồ Chí Minh đã vạch ra sự thống trị của bọn thực dân phong kiến ở Việt Nam, những nhà máy có hàng ngàn công nhân phải làm từ 12-13 tiếng, ngày lễ ngày nghỉ không được đếm xỉa đến nhưng "không có bảo hiểm cho tuổi già, không có trợ cấp lúc thương tật, ốm đau" [25]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo hiểm xã hội là một chính sách cơ bản đối với người lao động: Nghĩa là không chỉ đặt ra đối với công nhân mà cả nông dân và những người lao động khác. Tư tưởng này ở Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện ngay từ năm 1930. Trong bài báo cáo về Nghị quyết của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương về phong trào nông dân đòi giảm sưu thuế, giảm giờ tăng công, đặc biệt "đòi bảo hiểm xã hội, ngày nghỉ được trả công" [26]. Vấn đề bảo hiểm cho nông dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra cách đây 3/4 thế kỷ đến nay vẫn có ý nghĩa thời sự. Ngay từ khi có Hiến pháp năm 1946 Nhà nước ta đã rất quan tâm đến quyền lợi của phụ nữ, rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử. Lần đầu tiên 5
  11. trong lịch sử Nhà nước Việt Nam quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được Hiến pháp ghi nhận: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông" quy định này tạo tiền đề và cơ sở cho chuyển biến to lớn về vị trí, vai trò của phụ nữ trong pháp luật và thực tế Việt Nam sau này. Hiến pháp năm 1959 kế thừa nguyên tắc tiến bộ của Hiến pháp 1946 tại Điều 24 quy định: Cùng làm việc như nhau phụ nữ được hưởng lương như nam giới. Nhà nước đảm bảo cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ được hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình... [31]. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 kế thừa và đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ ở mức độ cao hơn, tại Điều 63 Hiến pháp năm 1992 đã đề cập một cách toàn diện hơn sự bình đẳng nam nữ, nhấn mạnh chính sách thai sản của phụ nữ: "Lao động nữ và nam làm việc như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật" [34]. Luật hóa các nhu cầu an sinh là một bước tiến quan trọng của hệ thống chính sách xã hội. Dựa trên hai nguyên tắc của an sinh là san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng cho nên bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ nói riêng đảm bảo an toàn cho các thành viên trong xã hội (chủ yếu là người lao động có tham gia bảo hiểm xã hội), cho phép họ sống có ý nghĩa trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, nghỉ hưu. Hơn nữa, Việt Nam đang từng bước hội nhập khu vực và quốc tế trên tất cả các lĩnh vực trong đó có pháp luật. Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Công ước về xóa mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ - CEDAW và trở thành thành viên thứ 35 của Công ước này. Nước ta là một trong số các quốc gia có nhiều ưu 6
  12. tiên cho phụ nữ, đặc biệt các Công ước ILO như Công ước số 3 năm 1919, Công ước số 103 năm 1952... là tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo quyền của phụ nữ được đặc biệt quan tâm. Như vậy, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Hiến pháp, các văn bản pháp luật, các điều ước quốc tế đa phương và song phương là cơ sở pháp lý đáp ứng đòi hỏi thực tế của cuộc sống, là cơ sở khoa học cho chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở nước ta. 4.2. Cơ sở thực tế Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là hàng hóa, sự thuê mướn nhân công phát triển, quan hệ lao động trở nên bất ổn cho người lao động làm công ăn lương như ốm đau, tai nạn lao động, thai sản cho nên cần có sự san sẻ rủi ro và chính sách trợ giúp của nhà nước và người sử dụng lao động. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã khiến người lao động rơi vào cảnh bất lợi nên nhu cầu an sinh càng cao như nhu cầu trợ giúp thường xuyên đối với đối tượng yếu thế có nguy cơ bị loại trừ như người già, người sinh con... giúp họ thăng bằng thu nhập bị giảm sút hay bị mất. Chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ như: ốm đau, thai sản, hưu trí. Ước tính ở nước ta mỗi năm có gần hai triệu người bước vào độ tuổi lao động, với những đặc thù về giới như thể lực, tâm sinh lý, cùng với chức năng làm mẹ và trách nhiệm chăm sóc gia đình đã gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế, cần phải có chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ để khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho những người lao động khi tham gia vào quan hệ lao động. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được những yêu cầu và mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền chủ nghĩa; 7
  13. - Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường; Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích, so sánh luật học; phương pháp đánh giá, bình luận, diễn giải, quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra học… 6. Ý nghĩa luận văn Trên cơ sở nghiên cứu tìm tòi khai thác, xây dựng luận văn, người viết xin đóng góp một vài ý kiến nhỏ bé của mình vào quá trình hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội đặc biệt là chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam với mong muốn giữa pháp luật và thực tế cuộc sống tìm được tiếng nói thống nhất, các quy định pháp luật có hiệu lực nhằm bảo vệ quyền lợi của lao động nữ. Bản thân người nghiên cứu hiện đang làm về công tác tổ chức và nguồn nhân lực, do vậy công việc có liên quan đến giải quyết chế độ cho người lao động nên việc quyết định chọn đề tài "Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn công trình nghiên cứu phục vụ tốt cho chuyên môn, nghề nghiệp của mình. Tác giả cũng mong muốn sẽ có nhiều công trình nghiên cứu tiếp theo hoàn thiện tiếp những hạn chế mà tác giả nghiên cứu chưa sâu hoặc chưa đề cập tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và sự cần thiết phải thực hiện bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ Chương 3: Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ 8
  14. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ 19 được xác lập ở Đức bao gồm chế độ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp, bảo hiểm tuổi già, tàn tật... sau đó trước tác dụng tích cực của bảo hiểm xã hội trong quan hệ lao động nhiều nước bắt đầu áp dụng hệ thống bảo hiểm xã hội. Ở khía cạnh kinh tế và pháp lý sẽ có các khái niệm về bảo hiểm xã hội khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, bảo hiểm xã hội là sự: "Bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi không làm được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động" [51]. Theo tác giả Trần Quang Hùng và Tiến sĩ Mạc Văn Tiến: Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải các biến cố hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm bằng các hình thức và sử dụng một qũy tài chính tập trung sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội [21]. Cuốn: "Thuật ngữ lao động Thương binh xã hội" Tập 1 nhà xuất bản lao động 1999, bảo hiểm xã hội được hiểu là: Sự bảo đảm của xã hội đối với người lao động thông qua việc huy động các nguồn đóng góp của người sử dụng lao động, 9
  15. người lao động và sự hỗ trợ của nhà nước để trợ cấp người lao động khi họ bị mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già chết nhằm đảm bảo an toàn xã hội [46]. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Như vậy, đã có rất nhiều quan điểm khi đưa ra khái niệm bảo hiểm xã hội song có một điểm chung là bảo hiểm xã hội có tác dụng giúp người lao động trong những lúc khó khăn hiểm nghèo, ốm đau, tai nạn, thai sản... trên cơ sở đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động có sự hỗ trợ của Nhà nước trước khi có biến cố xảy ra và khi người lao động gặp phải thì quỹ bảo hiểm xã hội sẽ giúp họ cân bằng phần thu nhập bị giảm sút hay bị mất, giúp họ trang trải phần chi tiêu bị tăng cao khi gặp các rủi ro khó khăn. Dưới góc độ kinh tế: là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự bảo đảm thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Dưới góc độ xã hội: bảo hiểm xã hội thuộc phạm trù xã hội, là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm mục đích bảo đảm đời sống xã hội là chính chứ không nhằm mục đích kinh doanh. Tính xã hội còn biểu thị ở tính tương trợ cộng đồng và sự ưu đãi của xã hội dành cho người lao động và các thành viên khác trong xã hội. Khi người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội, họ không chỉ đóng góp cho mình mà còn hỗ trợ, giúp đỡ những người lao động khác gặp khó khăn, rủi ro trong cuộc sống. 10
  16. Dưới góc độ pháp lý: Chế độ bảo hiểm xã hội là tổng hợp những quy định của Nhà nước, quy định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho người lao động và trong một số trường hợp là thành viên gia đình họ khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Luật bảo hiểm xã hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 đã chính thức quy định chế độ bảo hiểm xã hội tại Điều 3: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội" [41]. 1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến mức độ nào đó thì hệ thống bảo hiểm xã hội có điều kiện ra đời, phát triển. Vì vậy các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, lạc hậu, đời sống của nhân dân thấp kém thì không thể có một hệ thống bảo hiểm xã hội vững mạnh. Trái lại, kinh tế càng phát triển, tiến bộ thì hệ thống bảo hiểm xã hội càng đa dạng, các chế độ bảo hiểm xã hội càng phong phú và mở rộng hơn, do đó đời sống xã hội nói chung và đời sống người lao động nói riêng ngày càng được cải thiện và nâng lên một tầng cao mới. Thực chất, bảo hiểm xã hội là sợ hỗ trợ nhằm khắc phục hậu quả của những "rủi ro xã hội". Sự hỗ trợ này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Như vậy, bảo hiểm xã hội cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, bảo hiểm xã hội là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu bảo hiểm xã hội như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh 11
  17. nghề nghiệp, già yếu, chết… Vì vậy, mục đích của bảo hiểm xã hội là thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. Bảo hiểm xã hội mang bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của bảo hiểm xã hội không tách rời mà đan xen vào nhau. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức, phân phối lại thu nhập nên đời sống của người lao động và gia đình họ được đảm bảo trước những khó khăn, bất trắc, rủi ro. Về mặt xã hội, do có sự "san sẻ rủi ro" của bảo hiểm xã hội, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản tiền nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ bảo hiểm xã hội, nhưng xã hội sẽ có một khoản tiền lớn để trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, bảo hiểm xã hội đã thực hiện nguyên tắc "lấy số đông bù số ít". Bảo hiểm xã hội thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, trong đó mỗi cá nhân được coi là một mắt xích của hệ thống giá trị xã hội. Bảo hiểm xã hội tạo cho những người bất hạnh những điều kiện cần thiết để khắc phục rủi ro, có cơ hội để phát triển và hòa nhập vào cộng đồng. Bảo hiểm xã hội kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, hướng con người tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống, vì một xã hội nhân ái, công bằng, an toàn. 1.1.3. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ tuân thủ đầy đủ những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc, đó là: - Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Điều 56 Hiến pháp 1992: "Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động" [34]. 12
  18. Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa... Để đảm bảo thực hiện hài hòa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà bảo hiểm xã hội đặt ra thì việc thực hiện bảo hiểm xã hội trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Trách nhiệm đó thể hiện: Nhà nước là người trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và quản lý toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó. Nhà nước tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ mà quy định chính sách quốc gia về bảo hiểm xã hội, nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động bị suy giảm khả năng lao động hoặc gặp các rủi ro, khó khăn khác. Mặt khác, quỹ bảo hiểm xã hội với ý nghĩa là một quỹ tích lũy hình thành trên cơ sở đóng góp của ba bên (Nhà nước - Người sử dụng lao động - Người lao động) nhằm giúp đỡ về mặt vật chất cho người lao động khi họ gặp các rủi ro, khó khăn không chỉ tham gia quan hệ lao động mà cả khi đã chấm dứt quan hệ lao động. Do đó, bên cạnh nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm của người sử dụng lao động, thì Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội trong trường hợp cần thiết, Nhà nước cho phép áp dụng các biện pháp về bảo toàn giá trị quỹ, đảm bảo sự an toàn về tài chính cho quỹ bảo hiểm xã hội. - Thực hiện bảo hiểm xã hội trên cơ sở cân đối mức đóng và hưởng bảo hiểm, kết hợp với nguyên tắc "lấy số đông bù số ít" Bảo hiểm xã hội là một trong những hình thức phân phối tổng sản phẩm quốc dân nên việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải dựa trên nguyên tắc cân đối giữa mức đóng và hưởng bảo hiểm. Nghĩa là, phải đảm bảo hợp lý giữa đóng góp của người lao động cho xã hội thể hiện thông qua mức tiền công, tiền lương, thời gian đóng góp cho quỹ bảo hiểm xã hội để từ đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng trợ cấp phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của người lao động. 13
  19. Tuy nhiên, khi xem xét nguyên tắc này cần đặt chúng trong mối quan hệ phù hợp với các nguyên tắc khác của bảo hiểm xã hội. Bởi vì, bảo hiểm xã hội bên cạnh nội dung pháp lý còn chứa đựng trong mình nội dung xã hội theo nguyên tắc "lấy số đông bù số ít". Do đó, người lao động đóng góp quỹ bảo hiểm xã hội và mức hưởng bảo hiểm trong những trường hợp nhất định không hoàn toàn căn cứ vào mức đóng bảo hiểm của người lao động đó. - Thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi trường hợp giảm hoặc mất khả năng lao động và cho mọi người lao động. Ý nghĩa xã hội của bảo hiểm xã hội chỉ được thực hiện khi bảo hiểm xã hội áp dụng rộng rãi với tất cả mọi người lao động, không có sự phân biệt nào. Nguyên tắc này đảm bảo cho người lao động làm việc trong bất kỳ thành phần kinh tế nào, bất kỳ loại hình tổ chức nào, khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động đều được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ mà đối tượng tham gia, thụ hưởng bảo hiểm và các trường hợp bảo hiểm sẽ được xác định khác nhau. Nền kinh tế càng phát triển, khả năng mở rộng đối tượng tham gia và các trường hợp bảo hiểm càng được đảm bảo ở một mức độ cao hơn. Vì thế, với nền kinh tế đang ở trình độ thấp như nước ta hiện nay, đây vừa là một nguyên tắc, vừa là mục tiêu mà chính sách bảo hiểm xã hội cần đạt được trong tương lai. - Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không được cao hơn mức tiền lương khi đang làm việc, nhưng không được thấp hơn mức bảo hiểm tối thiểu do Nhà nước quy định và trong những trường hợp nhất định phải đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người được bảo hiểm. Trợ cấp bảo hiểm xã hội nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí... Vì vậy, về nguyên tắc, mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không cao hơn mức tiền lương khi đang làm việc. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh 14
  20. nguyên tắc phân phối lại quỹ bảo hiểm xã hội cho những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không được cao hơn mức tiền lương của người lao động khi đang làm việc vừa có tác dụng bảo đảm sự công bằng giữa người lao động đang cống hiến sức lao động (hưởng lương) và người lao động cống hiến sức lao động ít hơn hoặc phải nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội, vừa có tác dụng phòng ngừa và loại bỏ tình trạng lợi dụng, trục lợi bảo hiểm xã hội từ phía người lao động. Tuy nhiên, cũng cần tính đến những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của người được bảo hiểm. Do đó, Nhà nước cần phải quy định khống chế mức trợ cấp bảo hiểm xã hội tối thiểu nhằm bảo vệ quyền lợi cho người được hưởng bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội tối thiểu được quy định, thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể và thường căn cứ vào một số yếu tố liên quan như mức sống tối thiểu, tiền lương tối thiểu, nhu cầu chi tiêu tối thiểu khi có bảo hiểm xã hội phát sinh. 1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ 1.2.1. Khái niệm lao động nữ và tính đặc thù của lao động nữ Chiếm khoảng 50% dân số thế giới, phụ nữ hiện đang gánh vác gần 75% thời gian lao động, bao gồm cả lao động xã hội và lao động trong gia đình. Điều này đã phần nào nói lên vị trí, vai trò của người phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng trong xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà nhà xã hội học không tưởng người Pháp thế kỷ XIX Phuriê lại nhấn mạnh: "Mức độ giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ của xã hội văn minh và tiến bộ nhân loại". Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã chỉ rõ: "Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa". Người chỉ rõ: "Phải đảm bảo chú ý đến sức lao động của phụ nữ". Mặc dù Bộ luật lao động dành hẳn chương X để quy định về lao động nữ, Luật bảo hiểm xã hội cũng có nhiều quy định về lao động nữ nhưng lại không có một khái niệm chính thức về lao động nữ. Tuy nhiên, chúng ta có 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0