intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:123

40
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về QĐTCK, luận văn tập trung làm rõ hơn những vấn đề lý luận pháp luật QĐTCK, phân tích thực trạng và đề xuất các nhóm giải pháp sửa đổi, bổ sung những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật QĐTCK trên thực tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ THỊ MỸ HƯƠNG PHÁP LUẬT VỀ QUỸ ĐẦU TƯCHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.50 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội 2009
  2. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Danh mục các thuật ngữ viết tắt Mục lục Mở đầu CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN 1.1 Những vấn đề chung về quỹ đầu tƣ chứng khoán 1 1.1.1 Khái niệm và phân loại quỹ đầu tư chứng khoán 1 1.1.2 Đặc điểm của quỹ đầu tư chứng khoán 8 1.1.3 Vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán 12 1.1.4 Các nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của 15 Quỹ đầu tư chứng khoán 1.2 Những vấn đề cơ bản về pháp luật quỹ đầu tƣ chứng 18 khoán 1.2.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với tổ chức và 19 hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán 1.2.2 Yêu cầu của pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán 22 1.3 Pháp luật về quỹ đầu tƣ chứng khoán của một số nƣớc và 28 bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Kết luận Chương 1 37 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
  3. 2.1 Pháp luật quỹ đầu tƣ chứng khoán trƣớc khi Luật chứng 39 khoán có hiệu lực (1998 – 2006) 2.1.1 Một số đặc điểm về nội dung của pháp luật quỹ đầu tư chứng 39 khoán giai đoạn 1998 – 2006 2.1.2 Những hạn chế pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán giai đoạn 52 1998 – 2006 2.2 Luật chứng khoán 2006 và các văn bản hƣớng dẫn thi 56 hành – Bảo đảm pháp lý mới cho hoạt động của quỹ đầu tƣ chứng khoán trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam 2.2.1 Tác động của sự ra đời Luật chứng khoán 2006 và các văn 56 bản hướng dẫn thi hành đối với sự phát triển quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam 2.2.2 Hoạt động xây dựng và một số nội dung cơ bản của pháp luật 60 về Quỹ đầu tư chứng khoán từ 2006 đến nay 2.2.3 Tình hình thực thi pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán Việt 68 Nam từ 2006 đến nay Kết luận Chương 3 80 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Ý KIẾN GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật 81 quỹ đầu tƣ chứng khoán 3.1.1 Thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển 82 nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán 3.1.2 Xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 84 với tính chất ngày càng phức tạp, chủ thể tham gia thị trường
  4. tham gia ngày càng đông 3.1.3 Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán 87 Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế và thực thi các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán bảo đảm khuyến khích nhà đầu tư tổ chức tham gia thị trường 3.1.4 Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức để thị trường chứng 90 khoán Việt Nam trở thành kênh huy động vốn hữu hiệu, an toàn, ổn định cho các doanh nghiệp và là “hàn thử biểu” cho nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu 3.1.5 Nâng cao hơn nữa vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán trong 92 việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, trong việc nâng cao tính minh bạch, khắc phục tình trạng đầu tư “bầy đàn” trên thị trường chứng khoán Việt Nam 3.1.6 Chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để cùng với các nước thành 94 viên ASEAN tiến tới thành lập một thị trường vốn ASEAN 3.1.7 Tạo đà cho thị trường phục hồi sau khủng hoảng tài chính 96 toàn cầu hiện nay 3.2 Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực thi 97 pháp luật quỹ đầu tƣ chứng khoán ở Việt 3.2.1 Về phương diện lập pháp 97 3.2.1.1 Khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn các quy định về 98 công ty đầu tư chứng khoán 3.2.1.2 Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của khối 102 công ty quản lý quỹ 3.2.1.3 Cần có những nghiên cứu để bảo đảm hài hoà trong việc thực 104
  5. thi chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán 3.2.1.4 Bổ sung thêm những chi tiết cần thiết, đảm bảo cho hoạt động 105 của quỹ đầu tư được an toàn và hiệu quả 3.2.2 Một số giải pháp khác 107 3.2.2.1 Nâng cao nhận thức của nhà đầu tư cá nhân về QĐTCK và 107 phương thức đầu tư qua quỹ, đây là giải pháp cần tiến hành ngay 3.2.2.2 Tăng cường công tác giám sát các hoạt động của các QĐTCK 110 3.2.2.3 Thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán thuộc sở hữu nhà nước, 110 sau khi quỹ hoạt động ổn định, bán lại quỹ cho các nhà đầu tư công chúng 3.2.2.4 Cho phép thành lập Quỹ đầu tư trước, sau đó chuyển sang cho 112 Công ty quản lý quỹ quản lý 3.2.2.5 Tăng cường đội ngũ chuyên gia kinh tế tài chính, tính chuyên 114 nghiệp trong hoạt động của các QĐTCK 3.2.2.6 Tăng cường công tác phổ biến về quỹ đầu tư chứng khoán cho 114 nhà đầu tư trên thị trường Kết luận 115 Tài liệu tham khảo
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tế đã chứng minh là, khi TTCK phát triển đến một giai đoạn nhất định, các hoạt động đầu tư cần phải được tiến hành thông qua các nhà đầu tư có tổ chức, có kinh nghiệm để nhà đầu tư nhỏ có thể đạt được lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro và chi phí thấp nhất. Người thực hiện hoạt động đầu tư thay cho các nhà đầu tư nhỏ, năng lực tài chính thấp, thiếu kỹ năng phân tích, đánh giá để đưa ra các quyết định đầu tư, đó là các QĐTCK. Các QĐTCK chỉ có thể phát huy được vai trò của mình trong việc ổn định, phát triển thị trường theo hướng minh bạch, an toàn khi TTCK hoạt động theo những quy luật vốn có của nó. Khi TTCK mới xây dựng, nhà đầu tư nước ta còn khá e dè khi đầu tư vào thị trường, nhưng khi cảnh kiếm tiền trên TTCK quá dễ đã thôi thúc nhà đầu tư, bất kể họ là ai lao vào kinh doanh chứng khoán. Chứng khoán vượt quá giá trị thật. Nhà đầu tư biết nhưng họ vẫn mua. Họ chấp nhận mạo hiểm vì tin rằng trên thị trường sẽ còn có người mua lại nó với giá cao hơn nữa. Lòng tham của con người khiến họ hành động, bởi khi còn nhìn thấy cơ hội kiếm lợi, họ còn nhảy vào. Sự phát triển theo kiểu “bong bóng” của TTCK Việt Nam trong năm 2006 có mức tăng trưởng cao nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với 145% và đầu năm 2007 tăng thêm 46% - cao nhất trên thế giới [24] buộc các nhà hoạch định chính sách phải suy nghĩ bảo đảm sự phát triển bền vững của thị trường, đến mức Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 03/QĐ-NHNN về hạn chế cho vay kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại để tránh một cuộc khủng hoảng tài chính như đã xảy ra ở các nước Đông Nam á những năm 1997. Thực trạng trên kết hợp với tình trạng từ đầu năm 2008 tới nay, TTCK Việt Nam sụt giảm tới mức đáng lo ngại, nhiều nhà đầu tư đã mất hết nguồn vốn đầu tư, tài sản riêng do chứng khoán mất giá, hoặc có nhà đầu tư chuyển hướng sang kinh doanh vàng hoặc đô la Mỹ càng làm cho tình trạng rối ren trên thị trường tài chính
  7. nước ta. Để thị trường phát triển ổn định, an toàn, nhà nước cần có các biện pháp để khuyến khách nhà đầu tư chuyên nghiệp và các QĐTCK. Muốn làm được điều này, cần nâng cao nhận thức của nhà đầu tư về những lợi ích thoong qua việc đầu tư thông qua QĐTCK, các quy định pháp luật về mô hình QĐTCK, nhất là các quyền và nghĩa vụ pháp lý của nhà đầu tư để nhà đầu tư nhận thức được nếu đầu tư qua QĐTCK học sẽ được bảo đảm rằng nguồn vốn đầu tư sẽ mang lại lợi nhuận tối đa và sự bảo vệ của các quy định pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về QĐTCK hiện nay phần lớn mới chỉ tập trung vào các biện pháp nhằm khuyến khích, phát triển QĐTCK trong điều kiện TTCK Việt Nam ngày càng phát triển, như Nguyễn Lê Cường (2007) Quỹ đầu tư chứng khoán – mô hình tổ chức và giải pháp thúc đẩy phát triển trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Tài chính; Phương Hoàng Lan Hương (2001), Hình thành và phát triển quỹ đầu tư chứng khoán và Công ty quản lý quỹ ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ; Viện Hàn lâm khoa học Quốc gia Ucraine, TS. Nguyễn Minh Đức (2006), Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế chuyển đổi, Nxb Tài chính, Hà Nội; Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2008), “Quỹ đầu tư chứng khoán mô hình thích hợp để nhà đầu tư nhỏ tham gia thị trường chứng khoán”, Tạp chí Ngân hàng số 19, tháng 9/2008; Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2009), “Phát triển quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 82, tháng 3/2009; Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2009), Thực trạng pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số tháng 7/2009; Võ Thị Mỹ Hương (2009), Vài nét về pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 84, tháng 5/2009… Như vậy, các nghiên cứu này phần lớn tập trung chỉ rõ mô hình tổ chức, cách
  8. thức vận hành QĐTCK hoặc khai thác những lợi ích từ việc đầu tư thông qua QĐTCK hoặc nghiên cứu QĐTCK song song với công ty quản lý quỹ. Trong tác tài liệu giảng dạy tại các trường đại học hiện nay, QĐTCK được đề cập rất ít, chỉ là những nét khái quát hay được đề cập như một chủ thể kinh doanh trên TTCK, như Học viện Tài chính (2008), Giáo trình thị trường chứng khoán, Nxb Tài chính, Hà Nội; TS. Đào Lê Minh (Chủ biên, 2004) Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; PGS NGƯT Đinh Xuân Trình, PTS Nguyễn Thị Quy (1998), Giáo trình thị trường chứng khoán, Nxb Giáo dục, Hà Nội... Các nghiên cứu chuyên sâu, có tính hệ thống các quy định pháp luật về QĐTCK hiện nay hầu như chưa được đề cập nhiều. Với những suy nghĩ trên, việc lựa chọn nội dung “Pháp luật về Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Nội dung nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về QĐTCK, luận văn tập trung làm rõ hơn những vấn đề lý luận pháp luật QĐTCK, phân tích thực trạng và đề xuất các nhóm giải pháp sửa đổi, bổ sung những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật QĐTCK trên thực tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Là luận văn chuyên ngành luật học, Luận văn không phân tích dưới giác độ kinh tế mà tập trung chủ yếu vào việc đánh giá, bình luận về các quy định pháp luật hiện hành về QĐTCK. Để làm được điều này, Luận văn tập trung xây dựng hệ thống các vấn đề lý luận về QĐTCK, trong đó nhấn mạnh đến đặc điểm đặc thù của QĐTCK; những vấn đề lý luận pháp luật QĐTCK trên cơ sở phân tích, so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới. Đồng thời Luận văn phân tích thực trạng của pháp luật QĐTCK qua các giai đoạn phát triển nhằm chỉ ra những bất cập, hạn
  9. chế và đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung phù hợp với tiến trình cải cách TTCK Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích so sánh tổng hợp để chỉ rõ mô hình pháp lý của QĐTCK, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định để chỉ ra biện pháp sửa đổi, bổ sung. Ngoài các phương pháp trên, tác giả cũng sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để chỉ rõ những khó khăn trong việc vận hành mô hình QĐTCK, đồng thời làm rõ nhu cầu, phương hướng xây dựng, vận hành QĐTCK theo quy định của pháp luật hiện hành, nhất là thành lập và vận hành mô hình công ty đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật chứng khoán 2006. 6. Những đóng góp mới của Luận văn - Luận văn đã khái quát được hệ thống các vấn đề lý luận về QĐTCK, lý luận pháp luật QĐTCK và nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước về QĐTCK và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; - Luận văn khái quát quá trình phát triển pháp luật QĐTCK Việt Nam qua các giai đoạn, chỉ rõ những nội dung, kết quả công tác lập pháp và những bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật QĐTCK làm tiền đề lý luận và thực tiễn đề xuất các nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật QĐTCK trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế; - Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, Luận văn đã xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật QĐTCK, đề xuất các nhóm giải pháp pháp lập pháp và thực thi pháp luật QĐTCK trên thực tế. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày bao gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về Quỹ đầu tư chứng khoán và pháp luật về
  10. Quỹ đầu tư chứng khoán Chương 2. Thực trạng pháp luật về Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam Chương 3. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật Quỹ đầu tư chứng khoán trong giai đoạn hiện nay
  11. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Khái niệm và phân loại quỹ đầu tƣ chứng khoán 1.1.1.1 Khái niệm quỹ đầu tƣ chứng khoán TTCK trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được xác định là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Để thực hiện việc đầu tư - kinh doanh chứng khoán trên thị trường tài chính, đòi hỏi công chúng và các nhà đầu tư không chỉ có kiến thức về chứng khoán và TTCK mà còn phải thường xuyên quan tâm, theo dõi, bám sát thực trạng, phân tích xu hướng phát triển của thị trường vốn. Để làm được điều này đòi hỏi các nhà đầu tư phải tiến hành khảo sát thực tiễn, thu thập thông tin, tài liệu để tiến hành phân tích từng chứng khoán cụ thể, lập và quản lý danh mục đầu tư… nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Với lĩnh vực nghiệp vụ, chuyên môn đặc biệt này, chỉ những chuyên gia và các nhà đầu tư chuyên nghiệp mới có thể thực hiện được. Vì vậy, mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư với khả năng hạn chế về tri thức, thông tin và công nghệ đã được giải quyết bởi quá trình hợp tác và phân công lao động xã hội trong hoạt động đầu tư - kinh doanh chứng khoán. Từ nhu cầu thực tiễn đã dẫn đến sự hình thành từng bước những mối quan hệ kinh tế tất yếu trên cơ sở của sự phân công và phối hợp những quan hệ về sở hữu vốn, quản trị và điều
  12. hành việc sử dụng vốn đầu tư một cách có tổ chức... Cùng với nó, những người chủ sở hữu vốn đầu tư thành lập những tổ chức tài chính dưới mô hình như: “quỹ đầu tư”, “công ty đầu tư”, “công ty quản lý quỹ đầu tư”... Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ ra đời xuất phát từ nhu cầu nội tại của thị trường tài chính và khi TTCK đã phát triển ở mức độ nhất định. Thực tiễn đã chứng minh rằng, mặc dù TTCK đã xuất hiện từ giữa thế kỷ XV nhưng các Quỹ đầu tư, Công ty quản lý quỹ mới chỉ bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX đến nay. Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ thường được hình thành một cách tuần tự, từ đơn giản đến phức tạp, quy mô từ nhỏ đến lớn và mô hình tổ chức - quản lý ngày càng hoàn thiện, phạm vi hoạt động từ quốc gia đến quốc tế. Lịch sử phát triển của các Quỹ đầu tư, Công ty quản lý quỹ cho thấy, mô hình khởi điểm là các Quỹ đầu tư tập thể, chưa phải là pháp nhân, sau đó là thời kỳ phát triển của các Quỹ đầu tư dưới dạng công ty theo mô hình “đóng” rồi mới xuất hiện và phát triển dưới mô hình “mở”. Từ thực tiễn, sự phát triển không ngừng của các Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ trên thị trường tài chính là một trong những kết quả trực tiếp của sự phát triển của phân công lao động xã hội trong lĩnh vực tài chính [28]. Dưới góc độ kinh tế, QĐTCK là một loại hình quỹ đầu tư trên TTCK, trong đó lượng vốn đầu tư của quỹ được tập trung vào chứng khoán các loại như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Dưới góc độ xã hội, QĐTCK là một chủ thể tham gia đầu tư vàoTTCK thông qua việc tập hợp những nhà đầu tư nhỏ, ít kinh nghiệm lại với nhau để cùng chung vốn đầu tư thông qua các nhà đầu tư có kinh nghiệm, am hiểu thị trường nhằm đạt lợi nhuận cao nhất với chi phí và độ rủi ro thấp nhất tạo nên sự ổn định và phát
  13. triển bền vững của TTCK. Trong trường hợp thị trường có những biến động xấu ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển, QĐTCK là sự lựa chọn tối ưu của nhà đầu tư, vì các QĐTCK ít chịu tác động của tâm lý đám đông, tâm lý bầy đàn, nhất là ở các thị trường mới nổi. Dưới góc độ pháp lý, do bản chất hoạt động của mình, QĐTCK đã trở thành một phần quan trọng của mọi thị trường chứng khoán và các nhà đầu tư nhỏ, ít kinh nghiệm thường dựa vào các định chế này để tham gia đầu tư trên thị trường. Vì vậy, định nghĩa về quỹ đầu tư thường được các cơ quan pháp luật lựa chọn để thực hiện khả năng bảo hộ tối đa cho những người đầu tư, đảm bảo sự tin tưởng hoàn toàn của công chúng đầu tư vào thị trường chứng khoán. Các quỹ đầu tư tại Mỹ được định nghĩa là các tổ chức tài chính phi ngân hàng thu nhận tiền từ một số lượng lớn các nhà đầu tư và tiến hành đầu tư số vốn đó vào các tài sản tài chính có tính thanh khoản dưới dạng tiền tệ và các công cụ của thị trường tài chính. Các quỹ đầu tư tại Anh được coi là mọi hình thái về tài sản hoặc bất kỳ loại nào với mục đích là cho phép những người tham gia vào các hình thái đó được tham gia hoặc thu lợi nhuận phát sinh từ việc mua, giữ, quản lý hoặc xử lý tài sản hoặc tiền được thanh toán từ lợi nhuận hoặc thu nhập đó. Các quỹ đầu tư tại Nhật Bản được coi là một sản phẩm được hình thành nhằm đầu tư số tiền tập hợp được từ một số lớn các nhà đầu tư vào chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu), tập trung dưới sự quản lý của những người không phải là người đầu tư và phân phối lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ vốn mà họ đóng góp vào quỹ. Theo định nghĩa của Trung Quốc, quỹ đầu tư là một phương thức đầu tư tập thể vào chứng khoán, chủ yếu bằng việc thu hút vốn của người đầu tư thông qua phát hành các đơn vị quỹ. Vốn được uỷ thác cho các tổ chức giám sát quỹ và được những người điều hành quản lý và đầu tư vào các công cụ tài chính như cổ phiếu
  14. và trái phiếu. Đối với Việt Nam, khái niệm QĐTCK lần đầu tiên được quy định tại Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Theo quy định của Nghị định 48/1998/NĐ-CP, QĐTCK được hiểu là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư được ủy thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. Đây là các quy định có ý nghĩa mở đầu cho việc hình thành và phát triển mô hình QĐTCK tại Việt Nam. Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành thay thế cho Nghị định 48/1998/NĐ-CP. Nghị định 144/2003/NĐ-CP đã có những quy định cụ thể rõ ràng hơn về QĐTCK và mô hình tổ chức của nó. Theo Nghị định này, QĐTCK vẫn được tổ chức theo mô hình quỹ tín thác đầu tư dạng hợp đồng với các chủ thể tham gia chủ yếu là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư. QĐTCK, Công ty quản lý quỹ phải có vốn điều lệ tối thiểu là 5 tỷ đồng Việt Nam. QĐTCK có thể là quỹ công chúng hoặc quỹ thành viên. Quỹ công chúng sau khi được thành lập được thực hiện việc huy động vốn thông qua việc phát hành chứng chỉ quỹ phải có nghĩa vụ niêm yết chứng chỉ quỹ trên thị trường giao dịch tập trung. Luật chứng khoán 2006 đã có những quy định cụ thể hơn và đầu đủ hơn về QĐTCK. Luật chứng khoán quy định, QĐTCK được hiểu là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Với quy định này của Luật chứng khoán, QĐTCK không chỉ là QĐTCK dạng hợp đồng dạng tín thác đầu tư mà còn được thiết lập theo mô hình công ty – công ty đầu tư chứng khoán. Mô hình QĐTCK dù được thiết lập dưới dạng hợp đồng hay công ty đều có thể được thiết lập dưới dạng Quỹ đại chúng hay Quỹ thành
  15. viên. Đây là cơ hội thuận lợi để phát triển mô hình QĐTCK trong điều kiện TTCK nước ta đang có những bước điều chỉnh theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên nghiệp hơn. 1.1.1.2. Phân loại quỹ đầu tƣ chứng khoán Cho đến nay, trên thế giới xuất hiện khá nhiều loại hình QĐTCK. Tùy thuộc vào mức độ phát triển và tình hình của thị trường tài chính của mỗi quốc gia sẽ xuất hiện các loại hình của Quỹ tương ứng cũng như tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu có thể sử dụng các tiêu chí (căn cứ) khác nhau trong phân loại QĐTCK a) Căn cứ vào nguồn vốn huy động, QĐTCK gồm hai loại: - Quỹ đầu tƣ tập thể (quỹ công chúng) Là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại. - Quỹ đầu tƣ cá nhân (Quỹ thành viên) Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các cá nhân hay các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn, do vậy tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường với lượng vốn lớn, và đổi lại họ có thể tham gia vào trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ. b) Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn, QĐTCK gồm - Quỹ đóng Đây là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến hành huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ sẽ được
  16. niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư của mình thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và không biến đổi trong suốt thời gian quỹ hoạt động. Hình thức quỹ đóng này mới được áp dụng tại Việt Nam, đó là Quỹ đầu tư VF1 do công ty VFM huy động vốn và quản lý. - Quỹ mở Khác với quỹ đóng, tổng vốn cũa quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch do tính chất đặc thù của nó là nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ, và quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do việc đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn tại ở các nước có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Châu Âu, Mỹ, Canada… và chưa có mặt tại Việt Nam. c) Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ, QĐTCK gồm - Quỹ đầu tƣ dạng công ty Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (nhà đầu tư) bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Mô hình quỹ đầu tư dạng công ty hiện được áp dụng rộng rãi tại các nước có thị trường chứng khoán hình thành và phát triển từ lâu đời mà điển hình là thị trường chứng khoán Mỹ và Anh, chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo quy định của
  17. UBCKNN, quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân. Sơ đồ 1: Cơ chế hoạt động của quỹ đầu tƣ dạng công ty - Quỹ đầu tƣ dạng hợp đồng Quỹ đầu tư dạng hợp đồng còn được gọi là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Bản chất hoạt động của các quỹ tín thác đầu tư là dựa trên cơ sở quan hệ tín thác tài sản và hợp đồng tín thác được coi là một chứng từ pháp lý cơ bản để điều chỉnh hoạt động của các bên tham gia. Một đặc điểm khác biệt cơ bản với mô hình công ty là quỹ đầu tư trong mô hình này không phải là một pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó, ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát được thể hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư là những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ.
  18. Sơ đồ 2: Cơ chế hoạt động của quỹ đầu tƣ dạng hợp đồng 1.1.2. Đặc điểm của quỹ đầu tƣ chứng khoán So với các chủ thể tham gia TTCK, quỹ đầu tư chứng khoán có những đặc điểm riêng sau đây: Một là, QĐTCK hoạt động trên cơ sở quan hệ ủy thác tài sản, theo đó, nhà đầu tư – những người có tiền tạm thời nhàn rỗi chuyển giao tiền vốn của mình cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư hộ mình. Những nhà đầu tư chuyên nghiệp này là người có kiến thức, am hiểu thị trường giúp cho các nhà đầu tư riêng lẻ yên tâm hơn trong hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư thực hiện việc đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán bằng cách góp tiền vào quỹ thông qua việc mua chứng chỉ quỹ đầu tư. Chứng chỉ quỹ đầu tư là cơ sở xác lập quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với tài sản của quỹ cũng như để phân chia lợi nhuận. Đây là điểm khác biệt giữa việc huy động vốn của QĐTCK với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Bởi lẽ việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại là để thực hiện hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Các ngân hàng thương mại phải trả cho người gửi tiền một khoản phí/lãi suất khi sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho vay lại.
  19. Hai là, hoạt động của QĐTCK được thực hiện thông qua các công ty quản lý quỹ. Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp được tổ chức dưới mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần. Công ty quản lý quỹ thực hiện nghiệp vụ kinh doanh là quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư. Công ty quản lý quỹ thiết lập và điều hành mọi mặt hoạt động của QĐTCK, được giao quản lý tài sản và không ngừng gia tăng tài sản của quỹ. Công ty quản lý quỹ được trả phí từ sự gia tăng tài sản của QĐTCK. Như vậy, có thể khẳng định QĐTCK và công ty quản lý quỹ tồn tại không thể thiếu nhau, cùng nương tựa vào nhau, hoạt động và tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động của QĐTCK được thực hiện trên cơ sở tập hợp các nguồn vốn đầu tư nhỏ thành lượng vốn đầu tư có quy mô lớn, được thống nhất quản lý, điều hành và sử dụng thông qua công ty quản lý quỹ. Công ty quản lý quỹ có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của QĐTCK. Ba là, QĐTCK là loại quỹ đầu tư mà tỷ trọng vốn của quỹ được sử dụng chủ yếu vào để đầu tư kinh doanh chứng khoán. Nói một cách khác đi, vốn đầu tư của QĐTCK được dùng để kinh doanh chứng khoán. QĐTCK được hình thành trên cơ sở huy động tiền nhàn rỗi của các nhà đầu tư cá nhân có nhu cầu tham gia TTCK. Như vậy, đối tượng phục vụ chủ yếu của các QĐTCK là những nhà đầu tư cá nhân, những người có tiềm lực tài chính không mạnh, thiếu các kỹ năng đầu tư trên TTCK. Khi thực hiện ủy thác tài sản của mình cho những nhà đầu tư chuyên nghiệp thực hiện việc đầu tư, Ban đại diện QĐTCK và công ty quản lý quỹ phải cam kết sử dụng tài sản của nhà đầu tư vào chứng khoán. Việc sử dụng tài sản của nhà đầu tư để kinh doanh lĩnh vực khác là trái pháp luật. Để bảo đảm tính khách quan, công bằng trong hoạt động, hoạt động của QĐTCK thường dựa trên mối quan hệ giữa ba chủ thể cơ bản là các nhà đầu tư, công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát. Bốn là, mô hình hoạt động của QĐTCK rất đa dạng, linh hoạt, giúp cho các
  20. nhà đầu tư lựa chọn phù hợp với nhu cầu của mình như quỹ đại chúng, quỹ thành viên, quỹ mở, quỹ đóng… Sự phát triển của các mô hình QĐTCK phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, trình độ phát triển của nền kinh tế và các nhà đầu tư để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của họ. Hoạt động của QĐTCK góp phần rất lớn cho sự phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững của hệ thống thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng. Năm là, QĐTCK là mô hình đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của nhà đầu tư. Ở mức độ khái quát, nhà đầu tư được hiểu là những người thực hiện việc bỏ tiền đầu tư chứng khoán thông qua việc trao đổi, giao dịch các công cụ của TTCK. Nhà đầu tư bao gồm nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư chuyên nghiệp. Nhà đầu tư cá nhân là những người tự mình tham gia giao dịch chứng khoán trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Khi TTCK chưa phát triển, nhà đầu tư cá nhân thường sử dụng tiền nhàn rỗi của mình để đầu tư bất động sản hoặc cất trữ những tài sản an toàn, ít mất giá như vàng hay đôla Mỹ. Khi TTCK phát triển thì nhà đầu tư cá nhân thường chọn TTCK để đầu tư, vì TTCK phản ánh sự tăng trưởng kinh tế, do đó nhà đầu tư dễ thu được các khoản lợi nhuận cao từ sự tăng trưởng kinh tế thông qua việc mua bán chứng khoán các loại. Tuy vậy, cũng giống như đầu tư lĩnh vực khác lợi nhuận và kỳ vọng lợi nhuận luôn song hành với các rủi ro. Các nhà đầu tư cá nhân thường là những người có tiềm lực tài chính không mạnh, không có khả năng phân tích, dự báo xu hướng phát triển của thị trường mà thường đầu tư theo đám đông nên độ rủi ro cao. Nhà đầu tư chuyên nghiệp thường là các tổ chức đầu tư. Họ là những người thường xuyên mua bán chứng khoán với khối lượng lớn trên thị trường. Hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư chuyên nghiệp thường được quản lý bởi một đội ngũ chuyên gia lành nghề về phân tích và đầu tư trên cơ sở tiềm lực tài chính mạnh. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư trên cơ sở một danh mục đầu tư đã được xác định, quy mô vốn lớn hơn nhiều so với nhà đầu tư cá nhân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1