intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền đối vật trong Luật tư La Mã và ảnh hưởng đối với pháp luật Việt Nam hiện hành

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

39
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung vào một phần của Luật tư La Mã đó là chế định về quyền đối vật. Với mục đích là đi sâu làm rõ mọi vấn đề liên quan đến quyền đối vật trong Luật La Mã: Khái niệm, nội dung, căn cứ… Đồng thời kết hợp với việc nghiên cứu về chế định tương tự trong pháp luật dân sự của Việt Nam hiện hành, rút ra những mối liên hệ, những bài học, đề ra những phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong thời gian tới, có tính đến thực trạng kinh tế- xã hội của Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền đối vật trong Luật tư La Mã và ảnh hưởng đối với pháp luật Việt Nam hiện hành

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ LIÊN HƯƠNG QUYỀN ĐỐI VẬT TRONG LUẬT TƯ LA MÃ VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH Chuyên ngành: Luật Dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI ĐĂNG HIẾU Hà Nội - 2010
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Lê Thị Liên Hƣơng
  3. MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………...1 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƢ PHÁP LA MÃ VÀ QUAN HỆ VẬT QUYỀN TRONG TƢ PHÁP LA MÃ .................................. 6 1.1. Hệ thống Tư pháp La Mã. ........................................................................... 6 1.1.1. Lịch sử hình thành ..................................................................................... 6 1.1.1.1. Sơ lược lịch sử Đế chế La Mã .................................................................... 6 1.1.1.2. Tư pháp La Mã ........................................................................................ 10 1.1.2. Nội dung hệ thống Tư pháp La Mã .......................................................... 11 1.1.2.1 Cơ sở của luật Tư pháp La Mã ................................................................. 11 1.1.2.2. Đối tượng điều chỉnh ............................................................................... 13 1.1.2.3. Nguồn của luật Tư pháp La Mã ............................................................... 15 1.2. Vật quyền và trái quyền trong Tư pháp La Mã. ........................................ 18 CHƢƠNG 2 VẬT TRONG TƢ PHÁP LA MÃ ............................................ 20 2.1. Khái niệm và phân loại vật. ...................................................................... 20 2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành ............................................. 22 2.2.1. Khái niệm ................................................................................................ 22 2.2.2. Phân loại tài sản ....................................................................................... 23 CHƢƠNG 3 VẬT QUYỀN TRONG TƢ PHÁP LA MÃ ............................. 30 3.1. Quyền chiếm hữu ..................................................................................... 30 3.1.1. Khái niệm ................................................................................................ 30 3.1.2. Nội dung .................................................................................................. 30 3.1.2.1. Phân biệt chiếm hữu và thực tế chiếm hữu ............................................... 30 3.1.2.2. Ý nghĩa .................................................................................................... 31 3.1.2.3. Các hình thức chiếm hữu ......................................................................... 31 3.1.2.4. Xác lập và chấm dứt chiếm hữu ............................................................... 32 3.1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam ............................................................ 33 3.2. Quyền sở hữu. .......................................................................................... 36
  4. 3.2.1. Khái niệm ................................................................................................ 36 3.2.2. Nội dung .................................................................................................. 37 3.2.2.1. Nội dung quyền sở hữu ............................................................................ 37 3.2.2.2. Căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu ................................................ 37 3.2.2.3. Quyền sở hữu chung ................................................................................ 40 3.2.2.4. Các hạn chế đối với quyền sở hữu ............................................................ 41 3.2.3. Quy định của pháp luật Việt Nam ............................................................ 41 3.2.3.1. Khái niệm ................................................................................................ 41 3.2.3.2. Nội dung của quyền sở hữu ...................................................................... 41 3.2.3.3. Căn cứ xác lập và chấm dứt quyền sở hữu ............................................... 43 3.2.3.4. Sở hữu chung ........................................................................................... 45 3.2.3.5. Các hạn chế đối với quyền sở hữu ............................................................ 48 3.3. Quyền địa dịch.......................................................................................... 51 3.3.1. Khái niệm ................................................................................................ 51 3.3.2. Nội dung .................................................................................................. 51 3.3.3. Quy định của pháp luật Việt Nam ............................................................ 52 3.4. Quyền dụng ích cá nhân............................................................................ 54 3.4.1 Khái niệm ................................................................................................ 54 3.4.2. Nội dung .................................................................................................. 54 3.4.3. Quy định của pháp luật Việt Nam ............................................................ 55 3.5. Quyền cầm cố. ......................................................................................... 56 3.5.1. Khái niệm ................................................................................................ 56 3.5.2. Nội dung .................................................................................................. 56 3.5.3. Quy định của pháp luật Việt Nam ............................................................ 58 3.5.3.1. Khái niệm cầm cố, thế chấp ..................................................................... 59 3.5.3.2. Nội dung và đặc điểm .............................................................................. 59 3.6. Các biện pháp bảo vệ. ............................................................................... 63 3.6.1. Kiện ......................................................................................................... 63 3.6.2. Biện pháp khác ........................................................................................ 63 3.6.3. Quy định của Pháp luật Việt Nam ............................................................ 64
  5. CHƢƠNG 4 ẢNH HƢỞNG CỦA TƢ PHÁP LA MÃ ĐẾN PHÁP LUẬT CÁC NƢỚC ................................................................................. 68 4.1. Đối với các nước Châu Âu ........................................................................ 68 4.1.1. Pháp luật Dân sự của Cộng hòa Pháp ....................................................... 69 4.1.2. Pháp luật Dân sự của Cộng hòa liên bang Đức ......................................... 71 4.2. Pháp luật Dân sự của Nhật Bản ................................................................ 71 4.3. Đối với Việt Nam .................................................................................... 72 4.3.1. Sơ lược lịch sử phát triển của Luật Dân sự Việt Nam ............................... 72 4.3.2. Ảnh hưởng của các hệ thống pháp luật thế giới ........................................ 73 4.3.3. Nhận xét. ................................................................................................. 76 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................. 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 82
  6. LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài và tính cấp thiết của đề tài Lý do ra đời đề tài Từ thế kỷ II TCN, Đế chế La Mã đã phát triển hùng mạnh và bành trướng khắp Châu Âu lục địa trong một thời gian dài, ảnh hưởng của đời sống và pháp luật La Mã đã in dấu ấn đậm nét trong xã hội Châu Âu lục địa và có tầm ảnh hưởng lớn trên phạm vi toàn thế giới. Như chúng ta đã biết, ngành luật so sánh xếp pháp luật Việt Nam vào hệ thống pháp luật của các nước xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên vì lý do lịch sử, hệ thống pháp luật Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật Cộng hòa Pháp- một bộ phận tiêu biểu của Hệ thống luật Châu Âu lục địa. Như vậy chúng ta có thể thấy một phần ảnh hưởng tất yếu của Luật La Mã đối với pháp luật dân sự của Việt Nam hiện nay. Ảnh hưởng đó thể hiện ở đâu? Với mức độ nào? Ý nghĩa của nó là gì? Đó luôn là những câu hỏi mà tôi mong muốn được giải quyết một cách thấu đáo và triệt để. Cụ thể trong luận văn này tôi tập trung vào chế định quyền đối vật- một chế định cơ bản trong luật dân sự. Việc làm rõ khái niệm và nội dung của quyền đối vật trong Luật tư La Mã là rất cần thiết. Trên thực tế tại Việt Nam hiện nay có rất ít các công trình nghiên cứu khoa học về Luật La Mã, đặc biệt là công trình tập trung về riêng chế định quyền đối vật. Nắm rõ được bản chất, nội dung của vấn đề này sẽ giúp cho chúng ta đi sâu và phát triển các lý luận pháp lý cũng như các quy định pháp luật khi áp dụng vào thực tế kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay. Tính tích cực của đề tài - Mong muốn đi sâu tìm hiểu về chế định quyền đối vật trong Luật tư La Mã để làm rõ các quan điểm của nhà làm luật đương thời. - Đồng thời sử dụng phương pháp so sánh để thấy được những ảnh hưởng của pháp luật La Mã đối với pháp luật Việt Nam hiện hành về chế định quyền sở hữu tài 1
  7. sản. Đưa ra những nhận định đúng đắn và phương hướng hoàn thiện pháp luật phù hợp với thực trạng Việt Nam hiện nay. Cơ sở nghiên cứu đề tài Để tiến hành thực hiện đề tài này, tôi đã dựa trên việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam thông qua: Bộ luật Dân sự (1995, 2005), các quy định pháp lý từ năm 1945 đến trước năm 1995; các quy định pháp lý trước năm 1945; Nghiên cứu pháp luật Cộng hòa Pháp (Bộ luật Dân sự Pháp hay còn gọi là Bộ luật Napoleon), Đức, Nhật Bản…Căn cứ vào các bằng chứng lịch sử, khảo cổ để nghiên cứu về tình hình kinh tế- xã hội của La Mã thời bấy giờ để trình bày và lý giải về những quy định pháp lý về chế định quyền đối vật và hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam để chứng minh sự ảnh hưởng của Luật tư La Mã đối với chế định vật quyền ở Việt Nam từ trước tới nay (có thể kết hợp với việc nghiên cứu pháp luật dân sự của nước Cộng hòa Pháp để khẳng định rõ hơn điều đó). 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian gần đây Luật La Mã bước đầu đã được tiến hành giảng dạy trong các trường luật, đã có một số cuốn sách viết về Luật La Mã (như Giáo trình Luật La mã của trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã của TS. Nguyễn Ngọc Điện – Trường Đại học Cần Thơ, Lịch sử văn minh thế giới do Vũ Dương Ninh chủ biên...) hoặc có nhắc đến Luật La Mã nhưng vẫn thiên về lịch sử hoặc giới thiệu toàn bộ nội dung một các sơ lược. Chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu vào từng vấn đề cụ thể, mặc dù mọi người vẫn luôn thừa nhận Luật La Mã có sự ảnh hưởng rất lớn đến các hệ thống luật trên thế giới.Nghiên cứu các loại nguồn của Luật La Mã bao gồm: Tập quán của người La Mã; các đạo luật như Luật XII bảng, Quyết định của quan chấp chính, quan tòa, án lệ; Hoạt động của các luật gia La Mã; Hệ thống hóa Luật La Mã của Hoàng đế Justinian. 3. Mục đích của đề tài Như đã phân tích ở trên, chế định quyền đối vật là một chế định quan trọng trong ngành luật dân sự. Những quy định của Luật La Mã đã đặt nền móng vững 2
  8. chắc, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến luật thành văn của các nước trên thế giới trong quá trình xây dựng luật dân sự hiện đại. Trong phạm vi luận văn này tôi chỉ xin tập trung vào một phần của Luật tư La Mã đó là chế định về quyền đối vật. Với mục đích là đi sâu làm rõ mọi vấn đề liên quan đến quyền đối vật trong Luật La Mã: khái niệm, nội dung, căn cứ… Đồng thời kết hợp với việc nghiên cứu về chế định tương tự trong pháp luật dân sự của Việt Nam hiện hành, rút ra những mối liên hệ, những bài học, đề ra những phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong thời gian tới, có tính đến thực trạng kinh tế- xã hội của Việt Nam hiện nay. Hệ thống các chế định pháp luật không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi, mà nó là sự kế thừa từ đời này sang đời khác, là sự tiếp thu, học hỏi, giao thoa giữa các hệ thống pháp luật trên thế giới. Chúng ta cần nghiên cứu, tiếp cận những tinh hoa của nhận loại để mở rộng kiến thức, và áp dụng kiến thức đó một cách khoa học vào thực tiễn đời sống của chúng ta hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu - Chế định quyền đối vật trong Luật La Mã: trong phạm vi đề tài này, tôi tập trung vào khái niệm (theo các luật gia La Mã thời bây giờ), chủ thể quyền, các căn cứ phát sinh quyền, nội dung quyền, sự chiếm hữu và quyền đối với tài sản của người khác. - Đối với pháp luật Việt Nam: nghiên cứu nội dung của quyền sở hữu: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt, khái niệm, căn cứ phát sinh, quyền đối với tài sản của người khác; nghiên cứu các nội dung trên theo hướng phát triển từ trước tới nay để rút ra những so sánh, kết luận về bản chất, đưa ra các phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về chế định đó. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong phạm vi luận văn này, những phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng như: 3
  9. - Phương pháp phân tích: Dựa vào hoàn cảnh kinh tế, xã hội, những quy định pháp luật La Mã để rút ra nhận xét và kết luận về quan điểm lập pháp của các nhà làm luật La Mã; Dựa vào những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam để rút ra quan điểm pháp lý về vấn đề sở hữu tài sản của các nhà làm luật Việt Nam. - Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng nhiều do đặc thù của Luận văn là nghiên cứu về chế định Quyền đối vật trong Tư pháp La Mã và những ảnh hưởng đối với pháp luật Việt Nam. Sư dụng phương pháp này nhằm tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thống pháp luật, đồng thời nhấn mạnh ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa đối với pháp luật Việt Nam, đặc biệt là trong luật dân sự. - Tổng hợp: Từ những nghiên cứu dựa trên sự phân tích, so sánh giữa các hệ thống pháp luật để rút ra những kết luận về sự ảnh hưởng của pháp luật La Mã đối với Pháp luật Việt Nam (trong phạm vi Luận văn này là về chế định quyền sở hữu tài sản) và từ đó tìm ra phương hướng và kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn nghiên cứu, phân tích các quy định có liên quan đến quyền đối vật được quy định trong luật pháp La Mã bao gồm: Khái niệm vật, quyền chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền địa dịch, quyền dụng ích cá nhân, quyền cầm cố. - Song song với việc nghiên cứu các quy định của pháp luật La Mã, trong phạm vi luận văn này còn tìm hiểu các quy định có liên quan đến quyền sở hữu tài sản được quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành. - Ngoài ra, luận văn còn phân tích một số quy định tương tự của pháp luật dân sự một số nước trên thế giới như Pháp, Liên bang Đức, Nhật Bản. - Trên cơ sở phân tích những điểm giống và khác nhau trong các quy định nêu trên, rút ra kết luận về sự ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật La Mã đối với pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, đồng thời đưa ra những phương hướng hoàn thiện hơn nữa chế định về quyền sở hữu của pháp luật dân sự Việt Nam. - Đề xuất việc nghiên cứu sâu hơn nữa đối với pháp luật La Mã nói chung. 4
  10. Khả năng ứng dụng trong thực tiễn: Pháp luật La Mã được coi là cội nguồn của pháp luật dân sự rất đáng được học hỏi để hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam. Việc nghiên cứu pháp luật La Mã cần được chú trọng hơn nữa, đặc biệt là trong các trường luật ở Việt Nam hiện nay khi mà các tài liệu nghiên cứu sâu luật La Mã bằng tiếng Việt còn rất thiếu. Hi vọng những nghiên cứu trong luận văn này có thể góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành bốn chương như sau: Chương 1: Khái quát chung về Tư pháp La Mã và quan hệ vật quyền trong Tư pháp La Mã. Chương 2: Vật trong Tư pháp La Mã. Chương 3: Vật quyền trong Tư pháp La Mã. Chương 4: Ảnh hưởng của Tư pháp La Mã đến pháp luật các nước. 5
  11. CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƢ PHÁP LA MÃ VÀ QUAN HỆ VẬT QUYỀN TRONG TƢ PHÁP LA MÃ 1.1. Hệ thống Tư pháp La Mã. 1.1.1. Lịch sử hình thành. 1.1.1.1. Sơ lược lịch sử Đế chế La Mã. La Mã là tên một quốc gia mà nơi phát nguyên là ở bán đảo Italia. Lịch sử La Mã có thể chia thành ba thời kỳ lớn là thời kỳ Vương chính, thời kỳ cộng hòa và thời kỳ quân chủ chuyên chế. La Mã là một quốc gia hình thành vào thế kỷ thứ VII trước công nguyên và tồn tại đến thế hỷ VII sau công nguyên. Thời kỳ Vương chính: Theo truyền thuyết, thành La Mã do vua Romulus xây dựng năm 753 TCN, do đó tên của ông được dùng để đặt tên cho thành này. Giai đoạn từ năm 753 TCN – 510 TCN là giai đoạn vương chính, xã hội phân biệt theo huyết tộc. Ban đầu hình thành nên các thị tộc, cứ 100 thị tộc kết hợp thành một bộ lạc. Sau đó bộ lạc Xabelian (khoảng 100 thị tộc) sáp nhập vào và bộ lạc thứ ba gồm những thành phần khác nhau tương ứng với 100 thị tộc, do vậy 300 thị tộc đã thành lập được ba bộ lạc. Theo cơ cấu, cứ 10 thị tộc lập thành một bào tộc, 10 bào tộc (curia) lập thành một bộ lạc. Thị tộc của người La Mã ở những thời kỳ đầu của thành La Mã đã tồn tại chế độ tài sản đều là của chung thị tộc, các thành viên trong thị tộc có quyền thừa kế của nhau, chế độ phụ quyền đã hình thành. Sự phân hóa xã hội càng sâu sắc xã hội thị tộc của người La Mã được quản lý bằng ba cơ quan quyền lực bao gồm: Viện nguyên lão: là những thủ lĩnh của 300 thị tộc hợp thành, do vậy số lượng thành viên của viện nguyên lão là 300 người. Viện nguyên lão là cơ quan có quyền lực tối cao, có quyền quyết định mọi công việc quan trọng của nhà nước La Mã. Viện nguyên lão có các quyền thảo luận trước về các đạo luật, có quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết những nghị quyết của đại hội nhân dân; Đại hội nhân dân: là cơ quan quyền lực thứ hai của nhà nước La Mã. Đây là đại hội của tất cả đàn ông của 300 thị tộc và mỗi người thể hiện ý muốn của mình bằng một lá 6
  12. phiếu trong đại hội. Đại hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước La Mã như tuyên chiến hay hòa bình, xét xử, tế lễ và bầu ra một ông vua (Rex) trong số người đại diện cho bào tộc. Người làm vua không được cha truyền con nối và có thể bị bãi miễn trong đại hội nhân dân. Vua chỉ được hiểu theo nghĩa thủ lĩnh quân sự của ba bộ lạc người La Mã và quyền hành không bao trùm như các vua sau này. Như vậy khi mới thành lập, nhà nước La Mã gồm có vua, Viện nguyên lão và Đại hội nhân dân (Comitia Curiata). Thời kỳ Cộng hòa: Sự thực nhà nước La Mã ra đời vào giữa thế kỷ VI TCN, do cuộc cải cách của vua Xecviut Tuliut, xã hội được phân thành 6 đẳng cấp dựa trên mức độ tài sản bao gồm: Đẳng cấp thứ nhất gồm những người có mức tài sản trên 100.000 đồng axơ (AS); Đẳng cấp thứ hai gồm những người có từ 75.000 đồng axơ đến dưới 100.000 đồng axơ, Đẳng cấp thứ ba gồm những người có từ 50.000 đồng axơ đến dưới 75.000 đồng axơ; Đẳng cấp thứ tư gồm những người có từ 25.000 đồng axơ đến dưới 50.000 đồng axơ; Đẳng cấp thứ năm gồm những người có từ 11.500 đồng axơ đến dưới 25.000 đồng axơ; Đẳng cấp thứ sáu là những người đàn ông ít của cải nhất [3]. Vào khoảng năm 510 TCN, người La Mã nổi dậy khởi nghĩa lật đổ vua Taccanh kiêu ngạo, từ đó chính quyền thành việc của dân, do vậy chế độ nhà nước mới gọi là Respublica (là từ ghép bao gồm res (vật, việc) và publica (chung), từ đó nói rằng: từ nay mọi công việc quản lý nhà nước là công việc chung của mọi người dân) tức là chế độ cộng hòa. Bộ máy nhà nước thời kỳ bao gồm: Viện nguyên lão (Senatus) gồm 300 đại diện của tầng lớp quý tộc, Đại hội nhân dân (Comitia Centuriata) gồm đại diện của 6 đẳng cấp, và Bộ máy hành chính (Magistratus) gồm các chức quan như: consul, praetor, censor, edill, quaestor, tribul. Magistratus là hệ thống quản lý nhà nước thống nhất của nhà nước Cộng hòa La Mã. Magister là tên gọi chung cho các quan chức trong cả hệ thống magistratus. Các magister này được 7
  13. phân thành các loại sau: Consul: hai quan chức tối cao của hệ thống quản lý nhà nước, chuyên nắm giữ quyền lực tối cao trong các vấn đề quân sự, triệu tập và chủ trì các phiên họp của hội đồng tối cao và viện nguyên lão; Praetor: các quan chức được coi là phó cho hai Consul, nhưng trên thực tế lại là các quan chức trực tiếp thực hiện quản lý điều hành đất nước, thực hiện mọi chức năng quản lý của Consul khi Consul vắng mặt như: triệu tập hợp hội nghị và viện nguyên lão, quản lý mọi mặt trong nước, ban hành văn bản pháp luật, xét xử, xử phạt…; Censor: Các quan chức kiểm duyệt thực hiện chức năng quản lý dân số, phân chia dân số theo các Centuria và Tribus, phân loại công dân theo đẳng cấp, độ tuổi, tài sản, quản lý danh sách các thành viên viện nguyên lão…; Edill: các quan chức bảo an, thực hiện chức năng giám sát trật tự công cộng, chống hỏa hoạn, giám sát việc cung cấp lương thực cho thành phố, quản lý việc buôn bán; Quaestor: Các nhân viên trợ lý giúp việc cho các Consul trong các lĩnh vực xét xử hình sự, quản lý ngân sách và lưu trữ quốc gia; Các Magister thanh tra chuyên giám sát hoạt động của các Magister chuyên trách nói trên. Khi mới thành lập, La Mã chỉ là một thành bang nhỏ ở miền Trung bán đảo Italia. Từ thế kỷ IV TCN, La Mã không ngừng xâm lược ra bên ngoài, và hơn một thế kỷ sao, La Mã đã chinh phục được toàn bộ bán đảo Italia. Tuy chế độ cộng hòa đã được thiết lập nhưng sự cách biệt giữa quý tộc và bình dân vẫn rất lớn. Vì vậy, bình dân đã đấu tranh với quý tộc trong hai trăm năm để đòi giải quyết các yêu cầu của họ. Kết quả là bình dân đã được thỏa mãn các yêu cầu như được cử quan Bảo dân để bênh vực quyền lợi của mình, được chia ruộng đất, được kết hôn với quý tộc, được làm quan chấp chính, bình dân nếu phá sản cũng không biến thành nô lệ… Thắng lợi của bình dân đã làm cho chế độ cộng hòa quý tộc của La Mã được dân chủ hóa thêm một bước so với trước. Thời kỳ quân chủ: Do chiến tranh liên tiếp diễn ra, La Mã giành được nhiều thắng lợi, số tù binh bắt được rất nhiều, tình hình đó làm cho chế độ nô lệ phát triển mạnh mẽ, dân số nô lệ nhiều hơn dân số nông dân và lao động của nô lệ giữ vai trò 8
  14. quan trọng nhất trong các ngành kinh tế. Từ thế kỷ I TCN, chế độ cộng hòa ở La Mã dần dần bị chế độ độc tài thay thế. Do bất đồng với nhau trong việc giải quyết những vấn đề của đất nước, các phe phái trong giai cấp chủ nô La Mã đã tạo điều kiện cho các tướng lĩnh đứng lên nắm chính quyền. Người dành được quyền độc tài đầu tiên là Xila. Năm 82 TCN, Xila tuyên bố làm độc tài suốt đời nhưng đến năm 79 TCN vì ốm nặng phải từ chức và đến năm 78 TCN thì chết. Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Spactacus, ở La Mã xuất hiện chính quyền tay ba lần thứ nhất vào năm 60 TCN bao gồm Caesar, Pompeius và Crassus. Năm 43 TCN, ở La Mã xuất hiện chính quyền tay ba lần thứ hai, đó là Antonius, Lepidus, Octavious. Năm 29 TCN, Octavious trở thành người thống trị duy nhất của toàn đế quốc. Mặc dù chưa xưng hoàng đế nhưng ông được tôn làm nguyên thủ, được dâng danh hiệu Augustus nghĩa là đấng chí tôn và nhiều danh hiệu cao quý khác. Như vậy Octavious thực chất đã trở thành một hoàng đế và La Mã tuy vẫn mang danh nghĩa là chế độ cộng hòa nhưng thực chất đã chuyển sang chế độ quân chủ chuyên chế [9]. Sự suy vong của Đế quốc La Mã: Đến thời quân chủ, chế độ nô lệ ở La Mã ngày càng khủng hoảng trầm trọng. Để khắc phục tình trạng đó, giai cấp địa chủ chủ nô phải thay đổi cách bóc lột: giao khoán từng khoảnh ruộng (peculium) cho nô lệ canh tác và nộp tô cho chủ nô. Việc đó dẫn đến sự ra đời của một tầng lớp xã hội mới gọi là lệ nông – tiền thân của nông nô thời trung đại sau này. Đến thể kỉ III, công thương nghiệp phát triển một thời cũng nhanh chóng suy sụp, cư dân thành thị giảm sút, thành thị trở nên điêu tàn, mối liên hệ kinh tế giữa các nơi của đế quốc không còn chặt chẽ nữa. Trong hoàn cảnh đó, do miền Đông nhờ có sự liên hệ với các nước phương Đông, kinh tế còn có thể phát triển thuận lợi hơn ở miền Tây, đến năm 330, hoàng đế Constantious đã rời đô từ Roma sang 9
  15. Bizantium (nằm ở yết hầu giữa 2 châu lục Âu và Á), đổi tên thành phố đó là Constantinopolis. Năm 395, hoàng đế Teododious chia đế quốc thành hai nước: đế quốc Đông La Mã đóng đô ở Constantinopolis và đế quốc Tây La Mã đóng đô ở Roma. Trong khi đó, đến thế kỉ IV, người German đã di cư ồ ạt vào lãnh thổ của đế quốc La Mã. Lúc bấy giờ, họ đang sống trong xã hội nguyên thủy nên người La Mã gọi họ là Man tộc. Sang thế kỉ V, một số bộ lạc German đã thành lập các vương quốc của mình trên đất đai của Tây La Mã. Đến thập kỉ 70 của thế kỉ V, đế quốc Tây La Mã chỉ còn lại một vùng nhỏ bé mà ở đó chính quyền thực tế đã nằm trong tay các tướng lĩnh người German. Năm 476, thủ lĩnh quân đánh thuê người German là Odoacre đã lật đổ hoàng đế cuối cùng của Tây La Mã là Rolomus Augustuler rồi tự xưng là hoàng đế. Sự kiện đó đã đánh dấu sự diệt vong của đế quốc Tây La Mã, đồng thời chấm dứt chế độ chiếm hữu nô lệ. Còn đế quốc Đông La Mã thì vẫn tiếp tục tồn tại và đi dần vào con đường phong kiến hóa và thường được gọi là đế quốc Bidantium. Đến năm 1453, Đông La Mã bị Thổ Nhĩ Kì tiêu diệt [9]. 1.1.1.2. Tư pháp La Mã: Pháp luật La Mã đã có những phát triển đáng kể, một phần là do nền kinh tế xã hội phát triển, một phần là do kế thừa sự phát triển của nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Các quy định về tư pháp là các quy phạm điều chỉnh các quan hệ của cá nhân với cá nhân trong các quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân. Phổ biến là các quan hệ mua bán, vay tài sản, thuê, đổi tài sản, giữ gìn tài sản, mượn tài sản, dụng ích theo thỏa thuận…các quy định về tư pháp có đặc điểm: cho phép các chủ thể của quan hệ được thỏa thuận để thay đổi, xác lập, chấm dứt nội dung của quan hệ liên quan đến thay đổi về quyền và nghĩa vụ của các bên hoặc chấm dứt quan hệ nhất định. Sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ do luật tư điều chỉnh không được 10
  16. trái với nguyên tắc chung của luật công, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước La Mã, công dân La Mã và những đối tượng, công việc pháp luật cấm lưu thông hoặc cấm thực hiện. Những nghĩa vụ liên quan đến nhân thân của một cá nhân theo tính chất không thể chuyển dịch, thì không thể thỏa thuận chuyển giao. Sự phân biệt giữa luật tư và luật công được xác định vào thời kỳ cộng hòa và luật XII bảng được coi là cội nguồn của toàn bộ quy định về công pháp và tư pháp thời La Mã. Trong xã hội La Mã, việc phân chia đẳng cấp cá nhân ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân loại luật. Luật quy định đối với công dân La Mã (Civitas) được hưởng những quy định của luật dân sự (ius civile), những người nước ngoài sống ở La Mã không được hưởng chế độ của pháp luật quy định cho công dân La Mã, mà phải tuân theo những quy định dành riêng cho người nước ngoài (ius peregrinorum). Do lãnh thổ của người La Mã ngày càng mở rộng do xâm lược, theo đó quan hệ ngoại thương của người La Mã và người nước ngoài cũng phát triển mạnh mẽ, việc cho người nước ngoài được trở thành công dân La Mã là một nguyên nhân xuất hiện những quy định pháp luật dành cho mọi người (isu gentium). Luật cho mọi người (luật vạn dân) được ban hành phù hợp với các quan hệ thực tế trong xã hội La Mã và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong luật La Mã. Mỗi cá nhân sống trong lãnh thổ La Mã được hưởng những quy chế pháp luật áp dụng cho riêng công dân La Mã hoặc được hưởng những quy định của luật dành cho mọi người. 1.1.2. Nội dung hệ thống Tư pháp La Mã. 1.1.2.1 Cơ sở của luật Tư pháp La Mã. Lịch sử của cộng hòa chiếm hữu nô lệ La mã là những cuộc đấu tranh gay gắt giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp bình dân xung quanh quyền lợi chính trị và ruộng đất. Để ngăn chặn tình trạng mất ổn định trong quan hệ xã hội ở Nhà nước La Mã, vào năm 450 TCN Đại hội nhân dân đã được triệu tập lần thứ hai, các thành viên của đại hội yêu cầu viết luật hành văn thay vì từ trước vẫn sử dụng tập quán của người La Mã để giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Một ủy ban đặc trách đã 11
  17. được đại hội nhân dân thành lập với nhiệm vụ soạn thảo ra các điều luật ở hình thức văn bản. Ủy ban đặc trách soạn thảo pháp luật gồm 10 người, 5 người đại diện cho tầng lớp bình dân và 5 người đại diện cho tầng lớp quý tộc. Ủy ban này đã soạn thảo ra các điều luật được tập hợp thành 12 bảng và phổ biến công khai tới từng người dân La Mã. Luật XII bảng là kết quả của hệ thống hóa các tập quán, quy ước, thói quen của người La Mã lên thành các nguyên tắc có tính hệ thống bắt buộc đối với mọi công dân La Mã trong các quan hệ phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật. Luật La Mã cổ chỉ áp dụng đối với công dân La Mã (Civitas) - người có quốc tịch La Mã. Khi có tranh chấp phát sinh, người La Mã được yêu cầu xét xử theo luật ius civile hay còn gọi là luật Quiritium – luật dành riêng cho công dân La Mã. Ius Civile đối lập với ius gentium luật của tất cả các công dân thuộc La Mã (kể cả dân ngoại lai), và có thể xem nó là biến thể của luật dân sự La Mã. Ius Civile còn khác với hệ thống các quy phạm pháp luật của quan tòa – ius honorarium. Hệ thống luật tư La Mã (Jus privatum) bao gồm ba bộ phận jus civile (Luật dành cho công dân La Mã sống trong thành La Mã), jus peregrinorum (Luật dành cho người ngoại lai) và jus provincii (Luật dành cho người La Mã sống tại các vùng lân bang mà La Mã chiếm được). Trong jus civile gồm có hệ thống các văn bản của Đại hội nhân dân ban hành (thời cộng hòa gọi là Lex, thời đế chế gọi là Constitucia), của Viện nguyên lão ban hành thì gọi là Senatuconstum, các văn bản của các quan praetor ban hành gọi là jus praetorium, các văn bản của quan edill ban hành gọi là edicta… Các luật trên song song tồn tại trong ba thế kỷ đầu công nguyên và chúng có ảnh hưởng lẫn nhau. Những chế định của ius civile dựa trên những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, quan hệ tố tụng phát sinh từ thực tế đời sống xã hội, do vậy nội dung của ius civile luôn không theo kịp những quan hệ thực tế ngày một phát sinh đa dạng và phức tạp trong xã hội La Mã. Những quy định trong luật 12 Bảng không thể đáp ứng kịp những nhu cầu của các quan hệ xã hội về phạm vi và tính chất. Do vậy sự ra đời của luật vạn dân- ius gentium là tất yếu và là một động lực cần thiết cho sự phát triển hệ thống luật La Mã cổ đại. Ius gentium đã góp phần hoàn thiện, 12
  18. bổ sung những quy phạm không được điều chỉnh trong ius civile đối với việc điều chỉnh các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân giữa công dân La Mã và những người không phải là công dân La Mã. Chính vì vậy mà qua thời gian ius gentium đã tồn tại và được thừa nhận là một phần của ius civile. Ngoài những chế định của ius civile và ius gentium, quyết định của quan chấp chính cũng được coi là chuẩn mực pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể mà luật civile không quy định. Cơ sở quyết định của quan chấp chính dựa trên án lệ và dần dần được thừa nhận là luật. Sự hợp nhất ba bộ phận jus civile, jus peregrinorum và jus provincii được thực hiện từ năm 212 với sự ra đời của Lex Caracala – quy định mọi người dân sống trên đất La Mã đều được công nhận là công dân La Mã. Những chế định trong luật La Mã cổ đại bao gồm các chế định về chủ thể trong quan hệ về tài sản, quan hệ về nhân thân, quan hệ về tố tụng. 1.1.2.2. Đối tượng điều chỉnh. Căn cứ vào các văn bản pháp luật và hệ thống hóa các văn bản pháp luật của Nhà nước La Mã cổ đại, đối tượng điều chỉnh của tư pháp La Mã bao gồm: Quan hệ về tài sản: Luật tư pháp La Mã điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội về tài sản phát sinh một cách khách quan trong quá trình sản xuất và lưu thông các sản phẩm là thành quả của lao động sáng tạo ra vật chất. Quyền được bảo vệ khi có hành vi xâm phạm đến những lợi ích vật chất của công dân La Mã. Quan hệ tài sản do luật dân sự La Mã điều chỉnh bao gồm: Quan hệ vật quyền,(vật, các quyền đối vật); Quan hệ trái quyền (từ hợp đồng, như từ hợp đồng, từ vi phạm tư pháp, như từ vi phạm tư pháp); Quan hệ thừa kế. Trong quan hệ về quyền sở hữu tài sản, công dân La Mã có quyền sở hữu đất đai (chỉ được công nhận trong hệ thống Jus Civile), nô lệ và các tài sản khác. Sự chiếm hữu nô lệ và đầu cơ đã giúp hình thành chế độ tư hữu tài sản ở La Mã. Trong quan hệ sở hữu tài sản, luật La Mã đã phân biệt sự chiếm hữu tài sản với quyền sở hữu tài sản để xác định ai là chủ sở hữu của tài sản. Đặc biệt, nội dung quyền sở hữu tài sản được luật La Mã quy định gần đầy đủ các quyền năng chiếm hữu (ius possidendi), quyền sử dụng (ius utendi), quyền hưởng 13
  19. dụng (ius fruendi), quyền định đoạt (ius abutendi) và quyền khởi kiện đòi lại vật bị người khác chiếm hữu trái phép (ius vidicandi). Luật La Mã còn điều chỉnh quan hệ nghĩa vụ và hợp đồng, các căn cứ xác lập nghĩa vụ theo hợp đồng và nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Luật La Mã còn phân biệt nghĩa vụ phát sinh từ chuẩn khế ước, từ chuẩn vi phạm, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mức bồi thường do hành vi vi phạm hợp đồng và vi phạm quyền tư pháp khác của công dân, ngoài ra còn có quy định về một số hợp đồng thông dụng như mua bán, thuê, vay, gửi giữ tài sản…Quan hệ thừa kế được điều chỉnh bằng hai trình tự: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Những quan hệ tài sản nói trên do luật La Mã điều chỉnh mang tính chất hàng hóa- tiền tệ nhưng lại không thật sự tuyệt đối vì vào thời cổ đại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thường được áp dụng dưới hình thức phi nhân tính, tàn bạo như: nguyên tắc máu trả máu, mắt trả mắt… Tuy nhiên, đặc điểm ý chí của chủ thể trong quan hệ tài sản do luật La Mã điều chỉnh cũng đã được thể hiện như một điều kiện làm phát sinh quan hệ giữa các chủ thể. Quan hệ về nhân thân: Luật dân sự La Mã điều chỉnh các quan hệ nhân thân phát sinh giữa công dân La Mã với nhau, giữa công dân La Mã với người không có quốc tịch La Mã, người không được coi là công dân La Mã (nô lệ) được thể hiện trong các quan hệ về quyền gia trưởng, về danh dự, uy tín, đổi họ của người phụ nữ khi kết hôn, về sự trừng phạt thể xác, làm nhục nơi công cộng khi phạm tội, về xác định quyền công dân La Mã cho đứa trẻ được sinh ra, về quan hệ hôn nhân… Quan hệ nhân thân do luật La Mã điều chỉnh mang tính chất phi tài sản không tuyệt đối. Quan hệ nhân thân do luật La Mã điều chỉnh không bình đẳng được thể hiện trong quan hệ cha con, vợ chồng là quyền gia trưởng của người đàn ông, người bố trong gia đình: vợ và con đều dưới quyền người bố, người chồng là gia trưởng và luật La Mã coi người con, người vợ chỉ là những người không độc lập, không có quyền và trong chứng mực nhất định chỉ như “tài sản” của gia chủ, khi người vợ bị người khác chiếm đoạt, chồng kiện đòi vợ theo phương thức kiện vật quyền, trong trường hợp người con gây thiệt hại cho người khác, gia chủ gán người con đó cho người bị thiệt hại thay vì phải bồi thường bằng tiền… 14
  20. Quan hệ tố tụng cũng được điều chỉnh bằng các quy phạm của luật La Mã. Tố tụng dân sự La Mã quy định các hình thức tố tụng bao gồm: Tố tụng hai giai đoạn; Tố tụng công thức và Tố tụng đặc biệt. 1.1.2.3. Nguồn của luật Tư pháp La Mã. - Tập quán của người La Mã: Tập quán của người La Mã được hình thành phù hợp với chế độ thị tộc. Những tập quán được hình thành và chi phối mọi quan hệ xã hội và được coi là chuẩn mực chung đối với hành vi của mọi người. - Đạo luật: Vào thời quân chủ, nhà vua căn cứ vào hoàn cảnh, tình hình của La Mã đã tạo ra các đạo dụ hay còn gọi là chiếu chỉ của vua để ra một lệnh nào đó có nội dung chỉ dẫn, khuyến dụ có tính chất bắt buộc một tầng lớp hoặc toàn thể công dân La Mã phải tuân theo hoặc thực hiện một việc trong một quan hệ nhất định. Nhưng chiếu chỉ của vua có chứa đựng những nguyên tắc xử sự bắt buộc trong quan hệ tài sản và nhân thân giữa các công dân La Mã, có giá trị là nguồn của luật La Mã. Luật XII bảng được công bố vào năm 449TCN có nội dung điều chỉnh các quan hệ thuộc lĩnh vực tư pháp, được coi là nguồn chính của luật tư pháp La Mã. Ngoài ra còn có quyết định của quan chấp chính, quan tòa. Vào thời cộng hòa, tuy tập quán của người La Mã vẫn được áp dụng phổ biến trong xã hội, nhưng các quan chấp chính vẫn công bố những quyết định về việc giải quyết những vụ việc cụ thể. Những án lệ mà quan chấp chính hay quan tòa đã áp dụng khi giải quyết các tranh chấp giữa các công dân La Mã được thông báo công khai cũng là nguồn của luật tư pháp La Mã. Sự hình thành của luật XII bảng: Năm 454 TCN, La Mã cử 3 người sang Hy Lạp để tìm hiểu luật pháp Hy Lạp, sau đó đến năm 452TCN, khi 3 người này trở về, La Mã đã thành lập ủy ban 10 người để soạn luật. Sau một năm làm việc, ủy ban này soạn được một bộ luật khắc trên 10 bảng đồng đặt ở quảng trường để mọi người đều biết sau đó mới giao cho hội nghị Bách nhân đội của Đại hội nhân dân phê 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2