Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 2
download
Luận văn nghiên cứu tập trung, đi sâu vào vấn đề quyền ưu đãi xã hội như một trong những quyền cơ bản của công dân, bao gồm những khái niệm, đặc điểm, nội dung, sự phát triển và thực trạng quyền ưu đãi xã hội của công dân. Từ đó, đề xuất xây dựng và hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam hiện nay
- MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 Chương 1: những vấn đề lý luận cơ bản về quyền ưu đãi xã hội của công 7 dân 1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền ưu đãi xã hội của công dân 7 1.1.1. Khái niệm quyền ưu đãi xã hội của công dân 7 1.1.2. Đặc điểm quyền ưu đãi xã hội của công dân 13 1.1.2.1 Quyền ưu đãi xã hội là một trong những quyền cơ bản của công dân 14 1.1.2.2. Quyền ưu đãi xã hội chỉ áp dụng đối với người có công với đất nước 16 1.1.2.3. Quyền ưu đãi xã hội phản ánh, thể hiện chính sách xã hội của Nhà 16 nước trong từng thời kỳ phát triển của đất nước 1.1.2.4. Chế định quyền ưu đãi xã hội góp phần giữ vững thành quả cách 18 mạng, ổn định chính trị- xã hội 1.2. Nội dung quyền ưu đãi xã hội của công dân 20 1.2.1. Nội dung quyền ưu đãi về trợ cấp 21 1.2.2. Nội dung quyền ưu đãi về kinh tế - văn hoá - xã hội 25 1.3. Các bảo đảm pháp lý thực hiện quyền ưu đãi xã hội của công dân 29 1.3.1. Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền ưu đãi xã hội của công 29 dân 1.3.2. Hệ thống quyền ưu đãi xã hội của công dân trong mối quan hệ 29 giữa Nhà nước và công dân 1.3.3. Văn hoá pháp lý và hành vi hợp pháp- nhân tố bảo đảm thực hiện 30 quyền ưu đãi xã hội của công dân. 1.4. Sự phát triển quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam từ 31 năm 1945 đến nay 1.4.1. Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1994 31 1.4.2. Từ năm 1995 đến nay 38
- Chương 2: Thực trạng Quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam 42 2.1. Điều chỉnh pháp luật và hoạt động thực hiện quyền ưu đãi xã hội 42 của công dân ở Việt Nam 2.1.1. Điều chỉnh pháp luật đối với quyền ưu đãi xã hội của công dân ở 42 Việt Nam 2.1.1.1. Đối tượng thụ hưởng quyền ưu đãi xã hội 42 2.1.1.2. Ưu đãi xã hội 54 2.1.2. Hoạt động thực hiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt 75 Nam hiện nay 2.1.2.1. Ưu đãi về trợ cấp 76 2.1.2.2. Ưu đãi về kinh tế- văn hoá- xã hội 78 2.2. Đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp luật và hoạt động thực hiện 80 quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam 2.2.1. Đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với quyền ưu đãi xã 80 hội của công dân ở Việt Nam 2.2.1.1. Ưu đãi về trợ cấp 80 2.2.1.2. Ưu đãi về kinh tế- văn hoá- xã hội 84 2.2.2. Đánh giá hoạt động thực hiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở 87 Việt Nam hiện nay Chương 3: hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam 89 3.1. Nhu cầu hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt 89 Nam 3.1.1. Phát huy truyền thống “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc ta 89 3.1.2. Đáp ứng yêu cầu của tình hình chính trị- kinh tế- xã hội của đất 90 nước giai đoạn hiện nay 3.1.3. Đảm bảo quyền được trợ giúp của người yếu thế 93
- 3.1.4. Đảm bảo công bằng xã hội 94 3.1.5. Điều chỉnh pháp luật và hoạt động thực hiện quyền ưu đãi xã hội 96 của công dân còn nhiều hạn chế 3.2. Quan điểm hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt 97 Nam 3.2.1. Sửa đổi, ghi nhận quyền ưu đãi xã hội là quyền cơ bản của công 97 dân trong Hiến pháp 3.2.2. Mở rộng đối tượng thụ hưởng quyền ưu đãi xã hội của công dân 97 3.2.3. Nâng cao mức trợ cấp ưu đãi đối với đối tượng thụ hưởng quyền 98 ưu đãi xã hội bằng mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội 3.2.4. Quy định đầy đủ, cụ thể quyền ưu đãi về kinh tế- văn hoá- xã hội 99 3.2.5. Xây dựng Luật ưu đãi người có công với đất nước 101 3.2.6. Tăng cường các bảo đảm pháp lý thực hiện quyền ưu đãi xã hội 103 của công dân 3.3. Giải pháp hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt 103 Nam 3.3.1. Phát triển kinh tế, tạo tiền đề vật chất để hoàn thiện quyền ưu đãi 103 xã hội của công dân 3.3.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật ưu 104 đãi xã hội 3.3.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quyền ưu 105 đãi xã hội của công dân 3.3.4. Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước về ưu đãi xã 106 hội 3.3.5. Chú trọng việc nghiên cứu khoa học ưu đãi xã hội 106 3.3.6. Hợp tác quốc tế về lĩnh vực ưu đãi xã hội 107 Kết luận 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
- LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quyền ưu đãi xã hội đối với người có công với đất nước không chỉ là vấn đề đạo lý, truyền thống mà còn là vấn đề chính trị, tư tưởng, kinh tế và xã hội. Đó không chỉ là vấn đề cấp bách trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài. Chính vì vậy, sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành quy định về quyền ưu đãi xã hội đối với những người có công với đất nước. Ngày 16 tháng 02 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 20/SL về chế độ hưu bổng thương tật…Từ đó đến nay, quyền ưu đãi xã hội đối với người có công với đất nước đã có một chặng đường trên nửa thế kỷ hình thành phát triển. Hiện nay, có hơn 8 triệu người thụ hưởng quyền ưu đãi xã hội. Nguồn kinh phí đảm bảo thực hiện ưu đãi xã hội hàng năm được điều chỉnh căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội của đất nước và khả năng đáp ứng ngân sách nhà nước (năm 2005 là 5.832 tỷ đồng; năm 2006 là 6.193 tỷ đồng; năm 2007 là hơn 8000 tỷ đồng). Như vậy, số lượng đối tượng thụ hưởng quyền ưu đãi xã hội ở nước ta là rất lớn. [19]. Tuy nhiên, sau hơn 30 năm đất nước thống nhất, một bộ phận không nhỏ trong số họ vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống về vật chất và tinh thần như Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã phát biểu: “Phần mộ và hài cốt của một số liệt sĩ cho đến nay vẫn chưa được tìm thấy. Một bộ phận gia đình chính sách còn khó khăn trong cuộc sống, nhiều anh chị em thương binh, bệnh binh hàng ngày phải đối mặt với thương tật, ốm đau; một số đồng chí còn bị chất độc da cam hành hạ…” [17 ]. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi sự phân biệt giàu nghèo đang diễn ra, sự phân hoá xã hội đang ngày càng sâu sắc, các định hướng giá trị của xã 1
- hội đang có những thay đổi, nếu không giải quyết có tình, có lý với đối tượng thụ hưởng quyền ưu đãi xã hội thì một bộ phận trong số họ là những người có sự hy sinh, cống hiến vô giá, có những chiến công hiển hách làm nên những trang sử sáng chói của dân tộc sẽ tụt xuống vực sâu của cuộc sống, bất công xã hội nảy sinh và chúng ta sẽ không lường được biến cố chính trị, xã hội xảy ra như thế nào. Do điều kiện lịch sử và điều kiện kinh tế- xã hội nên nội dung quyền ưu đãi xã hội thường chắp vá, thay đổi. Nhiều nội dung quyền ưu đãi xã hội còn mang tính bình quân cao, nhất là các chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội. Quyền ưu đãi xã hội của công dân chưa được xây dựng và thực hiện một cách toàn diện, đầy đủ. Đảng đã lãnh đạo Nhà nước, nhân dân ta giành được những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Từ một quốc gia phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới; chỉ số tăng trưởng kinh tế rất cao, thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng mạnh; an sinh xã hội có điều kiện phát triển toàn diện… Cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng ta cũng nêu rõ: “ Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế- xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc” [15; tr101]. Trong điều kiện mới về kinh tế- xã hội của đất nước hiện nay, quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam đã bộc lộ những điểm bất cập, lạc hậu, không còn phù hợp với thực tế cuộc sống. Điều này ảnh hưởng không ít đến đời sống, tâm tư và tình cảm của đối tượng thụ hưởng quyền ưu đãi xã hội. 2
- Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mục đích cao cả, nhiệm vụ thường trực của Nhà nước pháp quyền không có gì khác hơn là vì con người. Tất cả vì con người, theo hướng có lợi cho con người là một trong những tiêu chí quan trọng nhất của Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, nhất là lĩnh vực ưu đãi xã hội, nguyên tắc trên còn chưa thực sự được quan tâm đầy đủ và còn thiếu những quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý bảo đảm thực hiện. Quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Đây là lĩnh vực bắt gặp nhiều vấn đề liên quan đến tính hợp pháp và hợp lý, đến nguyên tắc và ngoại lệ trong việc xây dựng, ban hành và áp dụng quy định pháp luật. Từ những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam hiện nay” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học cho bản thân mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua, đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực ưu đãi xã hội ở Việt Nam với nhiều cách tiếp cận khác nhau như: Luận án Tiến sỹ Luật học của Nguyễn Đình Liêu “Hoàn thiện pháp luật về ưu đãi xã hội ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn”- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; “Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách đảm bảo xã hội ở nước ta hiện nay” PGS, PTS Đỗ Minh Cương, PTS Mạc Văn Tiến- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 1996; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Tạ Vân Thiều “Cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực người có công ở ngành Lao động- Thương binh và Xã hội”- Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật năm 1997; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Hiền Phương “Pháp luật về bảo đảm xã hội Việt Nam: Thực trạng và hướng hoàn thiện”- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2002; Luận 3
- văn Thạc sĩ Luật học của Phạm Trọng Nghĩa “Định hướng hoàn thiện khung pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam”- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2006…. Các công trình trên chủ yếu nghiên cứu quyền ưu đãi xã hội của công dân như một trong những chế định pháp lý. Cho đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nghiên cứu mang tính chất toàn diện và đầy đủ về quyền ưu đãi xã hội như một trong những quyền cơ bản của công dân. 3. Mục tiêu, phạm vi và nội dung nghiêu cứu Ưu đãi xã hội là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, là một lĩnh vực mới được tiếp cận và nghiên cứu ở nước ta. Do vậy, tôi chỉ nghiên cứu tập trung, đi sâu vào vấn đề quyền ưu đãi xã hội như một trong những quyền cơ bản của công dân, bao gồm những khái niệm, đặc điểm, nội dung, sự phát triển và thực trạng quyền ưu đãi xã hội của công dân. Từ đó, đề xuất xây dựng và hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam. * Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam hiện nay. * Mục tiêu nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như thực trạng quyền ưu đãi xã hội của công dân để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn này, tôi chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. * Nội dung nghiên cứu 4
- - Khái niệm và đặc điểm quyền ưu đãi xã hội của công dân. - Nội dung quyền ưu đãi xã hội của công dân. - Các bảo đảm pháp lý thực hiện quyền ưu đãi xã hội của công dân. - Sự phát triển quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Điều chỉnh pháp luật và hoạt động thực hiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở nước ta. - Đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp luật và hoạt động thực hiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở nước ta. - Nhu cầu, quan điểm, giải pháp hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp duy vật lịch sử: Nhận thức, xác định quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam theo một hệ thống có mối liên hệ lịch sử, kế thừa và phát triển. - Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp luật và hoạt động thực hiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam. - Phương pháp chuyên gia: Thu thập thông tin, quan điểm, phương pháp luận của các chuyên gia về quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam. - Phương pháp điều tra xã hội học: Thu thập tài liệu, thông tin về quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam và những nội dung dự báo xã hội, pháp luật về vấn đề này. - Phương pháp tư duy lô gíc: Lý luận- thực trạng- hướng xây dựng trong việc luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn để nêu lên căn cứ và nội dung hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam. 5. Những đóng góp của Luận văn 5
- - Đưa ra quan điểm, khái niệm, đặc điểm quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam. - Dựng lại một cách khái quát quá trình phát triển quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn của nhu cầu xây dựng và hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam. - Xác định những nội dung quyền ưu đãi xã hội của công dân cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội hiện nay ở nước ta. - Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam. - Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách, các nhà khoa học pháp lý, các luật gia và sinh viên chuyên ngành Luật, xã hội… 6. Kết cấu của Luận văn Luận văn được kết cấu phù hợp với mục tiêu, phạm vi và nội dung nghiên cứu. Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền ưu đãi xã hội của công dân Chương 2: Thực trạng quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam Chương 3: Hoàn thiện quyền ưu đãi xã hội của công dân ở Việt Nam. 6
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN ƯU ĐÃI XÃ HỘI CỦA CÔNG DÂN 1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền ưu đãi xã hội của công dân 1.1.1. Khái niệm quyền ưu đãi xã hội của công dân Sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân gắn liền với sự tồn tại và phát triển của cộng đồng. Cộng đồng cơ bản và vững chắc nhất là gia đình, trên nữa là bộ lạc, dòng họ, thôn, xóm, làng, bản, xã/phường, quận/huyện, tỉnh/thành phố và quốc gia. Do vậy, các cá nhân phải có trách nhiệm, nghĩa vụ loan toan, gánh vác các công việc của cộng đồng nơi mình sinh sống. Có cá nhân đóng góp nhiều sức lực, của cải, thành tích cho cộng đồng, có cá nhân đóng góp ít. Công việc chung của cộng đồng thường gồm hai loại: một là sự nghiệp chiến đấu để bảo vệ cộng đồng; hai là sự nghiệp kiến thiết, xây dựng và phát triển cộng đồng. Trong quá trình lo toan cho công việc chung của cộng đồng, có nhiều cá nhân và gia đình của họ đã tình nguyện, chấp nhận hy sinh tính mạng, bị thương tật, bệnh tật hoặc bị tàn phá hết cơ sở vật chất, của cải, không thể phục hồi được cuộc sống bình thường. Đây chính là những đối tượng được cộng đồng hết sức quan tâm, chăm sóc. Tuỳ theo đặc điểm của từng cộng đồng và truyền thống của cộng đồng, những người đó và gia đình họ có thể được thưởng công 7
- xứng đáng ngay sau khi hoàn thành công việc hoặc có thể được chăm sóc, nuôi dưỡng, giúp đỡ trong suốt cuộc đời sau này. Họ chính là những người có công với cộng đồng. Bản thân những người có công là những cá nhân công dân bình thường, làm công việc của cộng đồng, tự coi đó là trách nhiệm, nghĩa vụ với cộng đồng mình nơi sinh sống. Họ không bao giờ kể công, đòi hỏi cộng đồng phải báo nghĩa. Nhưng cộng đồng đời đời nhớ ơn họ và có những hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” cụ thể, nhất định tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị- kinh tế- xã hội. Những người có công được cộng đồng dành cho những quyền ưu đãi cụ thể trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Đó không phải là sự trả công, mà là sự “đền ơn đáp nghĩa” của cộng đồng đối với bản thân người có công và gia đình họ. Ưu đãi dành cho người có công- những người có công lao, cống hiến đặc biệt với đất nước, với cộng đồng, là sự phản ánh trách nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng xã hội, là sự đãi ngộ đặc biệt, được ưu tiên hơn mức bình thường. Đó có thể là sự ưu tiên về đời sống vật chất, có thể là sự ưu tiên về đời sống văn hoá, tinh thần. Theo quan điểm của kinh tế học thì đây là hoạt động phân phối lại của cải vật chất của xã hội. Tuy nhiên, sự phân phối này không căn cứ vào kết quả lao động của mỗi người đã đóng góp, cống hiến để trả công. Ở điều kiện nước ta, sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn thể nhân dân ta trường kỳ kháng chiến chống quân Pháp, Mỹ xâm lược. Đây là những cuộc chiến tranh nhân dân tổng lực- toàn dân, toàn diện và lâu dài, ác liệt. Cả dân tộc Việt Nam đứng lên chống kẻ thù xâm lược, ở mặt trận tiền phương thì cán bộ, chiến sĩ đối mặt với quân thù ngoại xâm, ở mặt trận hậu phương thì nhân dân tăng gia sản xuất, chống giặc đói, cung cấp lương thực, quân trang, vũ khí cho tiền phương. Hàng vạn, hàng triệu người tham gia vào bộ đội, du kích đánh giặc giữ làng, 8
- xung phong vào lực lượng thanh niên xung phong... Tất cả cho chiến thắng, cho độc lập, tự do của Tổ Quốc. Trong các cuộc kháng chiến đó, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã ngã xuống, hy sinh xương máu; hàng triệu người suốt đời bị ốm đau, bệnh tật hoặc thương tật trên mình, hàng vạn người bị nhiễm chất độc hoá học…, nhiều gia đình tham gia đóng góp của cải vật chất và sức lực cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Họ là những người có công với cách mạng. Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị đã sơ bộ nêu lên những tổn thất mất mát nhưng đầy vinh quang trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược: “- 1.100.000 con em các dân tộc đã chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. - 600.000 thương binh (thực tế chiến tranh số người bị thương trong chiến đấu rất lớn- thường chiếm xấp xỉ 3-4/1 phần so với hy sinh), số liệu thống kê chỉ tính số đã xếp hạng thương tật và được hưởng trợ cấp). - 300.000 người bị mất tích trong chiến đấu. - 2.000.000 người dân bị giết hại. - 2.600.000 người có công với cách mạng. - 44.269 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. - 3.119 đơn vị anh hùng (trong đó có 576 đơn vị dân quân tự vệ và 1.241 Anh hùng lực lượng vũ trang). - 163 tập thể anh hùng. - 267 Anh hùng lao động. Chiến tranh cũng đã để lại hậu quả nặng nề. - Khoảng 2.000.000 người tàn tật. - 2.000.000 người bị nhiễm chất độc hóa học. 9
- - 500.000 trẻ em bị dị dạng” [22; tr582]. Sau cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, cũng có hàng chục vạn người hy sinh, bị thương tật, bị mắc bệnh tật suốt đời. Đây là những mất mát vô cùng lớn lao mà dân tộc ta đã phải gánh chịu để bảo vệ non sông đất nước, đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Nhìn dưới góc độ văn hoá, truyền thống, người Việt ta luôn luôn coi trọng đạo lý và nhân nghĩa, có truyền thống “tương thân tương ái”, “đền ơn đáp nghĩa”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”… Cuộc sống “đồng cam cộng khổ”, “lá lành đùm lá rách” đã có tự bao giờ. Tình cảm “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng…” là những nét đẹp của tâm hồn người Việt, của tâm lý cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Kế thừa và phát huy truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc, Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến ưu đãi xã hội, đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, động viên người có công với đất nước và gia đình họ. Trong thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức ngày “thương binh toàn quốc” (tháng 7/1947), Bác Hồ viết: “…Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu…” “… Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy” [31]. Trong Bài nói chuyện tại Buổi lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng (ngày 5/1/1960), Bác Hồ nói: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ…”. [16]. 10
- Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng đến ưu đãi xã hội thông qua việc ban hành nhiều văn bản, chính sách quy định việc giúp đỡ thương binh, bệnh binh, giải quyết những nhu cầu bức xúc khi chạy chữa vết thương, bệnh tật và các nhu cầu trong sinh hoạt hàng ngày…Bên cạnh đó, nhiều phong trào được nhân dân, đoàn thể, các tổ chức chính trị- xã hội phát động, phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các địa phương thuộc vùng tự do như trợ giúp thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ làm nhà ở, giúp ruộng đất, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để thương binh, bệnh binh về làng có cuộc sống ổn định… Đến nay, ưu đãi xã hội trở thành một nhiệm vụ kinh tế- xã hội trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta, nhiều phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” được cộng đồng xã hội phát động và phát triển mạnh mẽ trên khắp cả nước với nhiều thành quả hết sức ấn tượng, đáng khích lệ, biểu dương. Ưu đãi xã hội đối với người có công với đất nước ra đời là tất yếu, phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội ở nước ta. Ưu đãi xã hội thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của Nhà nước và cộng đồng đối với người có công và gia đình của họ. [26]. Ưu đãi xã hội là sự “đền ơn đáp nghĩa” của cộng đồng, là sự phản ánh trách nhiệm của Nhà nước, là sự đãi ngộ, ưu tiên đặc biệt về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần đối với một số công dân có nhiều hy sinh, cống hiến với đất nước nhằm tạo mọi điều kiện, khả năng góp phần ổn định và nâng cao đời sống. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành năm 2000 thì quyền là “1. Điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi. 2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm (nói tổng quát)”. [36; tr815]. 11
- Cũng theo Từ điển tiếng Việt thông dụng do Như Ý chủ biên (Nhà xuất bản Giáo dục năm 1996) thì quyền “là thế, sức mạnh, trách nhiệm do pháp luật công nhận hoặc do địa vị xã hội đem lại”. [37]. Nhìn nhận dưới góc độ pháp lý thì quyền là khả năng của một chủ thể tự do lựa chọn hành động hoặc thụ hưởng những ưu đãi nhất định. Về khái niệm quyền con người, có nhiều quan điểm, trường phái khác nhau lý giải nội dung quyền con người. Có quan điểm cho rằng quyền con người là một đặc quyền tự nhiên không phụ thuộc và có từ khi xuất hiện loài người. Quan điểm khác lại cho rằng con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, quyền con người là phạm trù có tính lịch, là giá trị chung của nhân loại được hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung trong quá trình phát triển. Chủ nghĩa Mác- Lê Nin cho rằng quyền con người vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội, vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính nhân loại sâu sắc. Quyền con người là sự biện chứng giữa quyền tự nhiên và quyền xã hội. Quyền con người là khả năng được làm hoặc được hưởng của cá nhân mà nhà nước và xã hội cho phép hoặc thừa nhận. Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin thể hiện tính chính xác, khách quan và khoa học về quyền con người. Về quyền công dân, Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành năm 2000 xác định quyền công dân là “quyền của người công dân, bao gồm những quyền tự do dân chủ và các quyền lợi cơ bản về kinh tế, văn hoá, xã hội v.v. được hiến pháp công nhận”. [36; tr815]. Quyền công dân là quyền con người, là những giá trị gắn liền với một Nhà nước nhất định và được Nhà nước đó bảo hộ bằng pháp luật của mình đối với người mang quốc tịch của nước mình, thể hiện mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với một nhà nước cụ thể. [29; tr25]. 12
- Quyền công dân là nội dung cơ bản và là sự thể hiện cụ thể của quyền con người. Không thể quan niệm rằng, một cá nhân con người vừa có quyền con người vừa có quyền công dân một cách tách biệt hoàn toàn. Điều này được khẳng định tại Điều 50 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. [2]. Như vậy, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện tốt các quyền công dân chính là đã thực hiện tốt những nội dung cơ bản của quyền con người. Quyền công dân được phân chia thành các nhóm tương ứng với các lĩnh vực khác nhau như quyền chính trị, quyền kinh tế, quyền dân sự, quyền xã hội… Trong đó, quyền ưu đãi xã hội thuộc nhóm quyền kinh tế- xã hội. Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên, chúng tôi cho rằng: Quyền ưu đãi xã hội là khả năng của công dân được tự do lựa chọn, thụ thưởng những ưu đãi xã hội nhất định, là những giá trị gắn liền với Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng pháp luật, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với những công dân có công lao, cống hiến đặc biệt với đất nước. Quyền ưu đãi xã hội của công dân được quy định từ rất sớm ở nước ta. Ngày 16 tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL quy định “chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Hơn nửa thế kỷ qua, quyền ưu đãi xã hội đã được hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ theo hướng toàn diện, đầy đủ và mở rộng đối tượng, phạm vi áp dụng hơn; thể hiện chính sách kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ lịch sử, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đông đảo nhân dân đối với công tác “đền ơn đáp nghĩa”. Quyền ưu đãi xã hội đối với người có công với đất nước không phải là sự đền bù. Sự hy sinh cao quý vì Tổ quốc, bằng tính mạng và xương máu của mình 13
- thì không có gì có thể so sánh được, không có gì có thể bù đắp được. Quyền ưu đãi xã hội không chỉ thể hiện bằng yếu tố vật chất thuần tuý, mà còn là đạo lý, truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam, là lòng kính trọng đối với nhiều thế hệ người có công với đất nước. 1.1.2. Đặc điểm quyền ưu đãi xã hội của công dân Trước hết, chúng tôi xin đưa ra một số đặc điểm của ưu đãi xã hội như sau: - Về đối tượng hưởng ưu đãi xã hội: Đối tượng hưởng ưu đãi xã hội là những cá nhân và gia đình họ có nhiều hy sinh, công hiến đặc biệt với đất nước đã được cơ quan có thẩm quyền công nhận là người có công theo quy định của pháp luật. Ưu đãi xã hội được áp dụng đối với mọi công dân, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, thành phần kinh tế… - Về mục tiêu của ưu đãi xã hội: Ghi nhận công lao, sự hy sinh, đóng góp của những người có công với đất nước và tạo mọi điều kiện, khả năng đền đáp, bù đắp phần nào về đời sống vật chất, văn hoá tinh thần đối với họ. Thực hiện tốt ưu đãi xã hội góp phần đảm bảo công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và tiến tới việc xây dựng một xã hội phồn thịnh, ấm no, hạnh phúc. - Về nội dung của ưu đãi xã hội: Ưu đãi xã hội có nội dung rất phong phú, bao trùm trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội… Cơ bản gồm: ưu đãi về đời sống vật chất, trong đó trợ cấp vật chất là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng nhất nhằm giúp đảm bảo hoặc hỗ trợ thêm đời sống người có công và ưu đãi về đời sống văn hoá, tinh thần nhằm giúp cho người có công có đời sống tinh thần lạc quan, yêu đời, hạnh phúc. - Về chủ thể thực hiện ưu đãi xã hội: Chủ thể thực hiện ưu đãi xã hội bao gồm Nhà nước, cộng đồng và các chủ thể khác. Việc thực hiện ưu đãi xã hội của các chủ thể này có phạm vi, phương pháp và hiệu quả khác nhau. . Nhà nước: Ban hành pháp luật, chính sách và tổ chức thực hiện. 14
- . Với xu hướng xã hội hoá ngày càng mạnh công tác thực hiện ưu đãi xã hội, vai trò của cộng đồng là hết sức quan trọng. . Chủ thể khác: Thực hiện ưu đãi xã hội theo các hình thức tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã được nghiên cứu ở phần trên, chúng tôi cho rằng quyền ưu đãi xã hội của công dân có một số đặc điểm cơ bản như sau: 1.1.2.1. Quyền ưu đãi xã hội là một trong những quyền cơ bản của công dân Quyền cơ bản của công dân luôn luôn là một chế định cơ bản của Luật Hiến pháp Việt Nam. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, chế định quyền cơ bản bao giờ cũng giữ một vị trí quan trọng, được quan tâm một cách thích đáng. [25; tr237]. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, mối quan hệ Nhà nước- công dân là mối quan hệ qua lại cùng có trách nhiệm. Mối quan hệ qua lại cùng có trách nhiệm chỉ có thể tồn tại trong một chế độ xã hội mà ở đó tư tưởng mỗi người vì hạnh phúc của mọi người, mọi người vì hạnh phúc của mỗi người trở thành nguyên tắc đạo đức và pháp lý. Mối quan hệ giữa Nhà nước - công dân thể hiện ở các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Các nghĩa vụ của Nhà nước được xác định trong Hiến pháp nói riêng, trong pháp luật nói chung dưới hình thức các nhiệm vụ của Nhà nước, của các cơ quan nhà nước cụ thể hoặc dưới hình thức các quyền công dân và những đảm bảo của nó. Trách nhiệm của công dân đối với Nhà nước và xã hội được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật dưới hình thức nghĩa vụ công dân. Các quyền được ghi nhận trong Hiến pháp được gọi là các quyền cơ bản, trước hết vì nó xác định những mối quan hệ cơ bản nhất giữa Nhà nước và công 15
- dân. Thứ hai, vì những quyền đó được quy định trong luật cơ bản của Nhà nước. Các quyền của công dân được ghi nhận, thể hiện trong Hiến pháp là cơ sở chủ yếu, có ý nghĩa quyết định để xác định địa vị pháp lý của công dân. Đây cũng chính là cơ sở để xác định các quyền khác của công dân, ở mọi cấp độ và trong mọi ngành luật. Quyền cơ bản là khả năng của mỗi công dân được tự do lựa chọn hành động. Khả năng đó được Nhà nước ta ghi nhận trong Hiến pháp và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Quyền cơ bản thể hiện khả năng của mỗi công dân được tự do lựa chọn cách thức và mức độ thể hiện thái độ cũng như hành động của mình một cách tự nguyện, tự giác. [25; tr238]. Điều 67 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định quyền ưu đãi xã hội là một trong những quyền cơ bản của công dân như sau: “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc…”. [2]. Việc ghi nhận quyền ưu đãi xã hội là một trong những quyền cơ bản của công dân và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật đã thể hiện sự chú trọng, quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với lĩnh vực ưu đãi xã hội, với những người có công với đất nước và gia đình họ. Bởi họ, chính là những đại diện ưu tú nhất của dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống kẻ thù xâm lược - những người đã cống hiến, hy sinh, mất mát nhiều nhất cho độc lập, tự do của đất nước. 1.1.2.2. Quyền ưu đãi xã hội chỉ áp dụng đối với người có công với đất nước 16
- Người có công với đất nước là những người đã hy sinh xương máu hoặc có cống hiến lớn lao trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quyền ưu đãi xã hội đối với người có công với đất nước là quyền đặc biệt, được áp dụng cho những đối tượng đặc biệt. Bản chất của quyền ưu đãi xã hội là sự “đền ơn đáp nghĩa”, chứ không mang ý nghĩa trả công, bởi sự hy sinh xương máu, tính mạng của người có công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì không điều gì có thể bù đắp, trả công được. Chúng ta sẽ có những gì để có thể trả công cho những người mẹ đã hy sinh 09 người thân ruột thịt là chồng, là con cho Tổ quốc, cho người thương binh, bệnh binh bị thương tật, bệnh tật suốt đời, cho những người bị nhiễm chất độc da cam sinh thế hệ con, cháu là những người tật nguyền, cho những người đã anh dũng ngã xuống… trong các cuộc kháng chiến? Do vậy, chỉ những người có công với đất nước mới được hưởng quyền ưu đãi xã hội. Toàn Đảng, toàn dân có trách nhiệm chăm lo đời sống cho người có công, nhưng trước hết trách nhiệm đó thuộc về Nhà nước. Nhà nước ta là người đại diện cho giai cấp, cho nhân dân, cho toàn xã hội nên Nhà nước phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đảm bảo và nâng cao đời sống tinh thần và vật chất đối với người có công với đất nước và gia đình họ. 1.1.2.3. Quyền ưu đãi xã hội phản ánh, thể hiện chính sách xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển của đất nước Quyền ưu đãi xã hội của công dân phản ánh, thể hiện chính sách xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển của đất nước. Tuỳ từng điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể, khả năng ngân sách của nhà nước, khả năng kinh tế của các địa phương trong từng giai đoạn lịch sử chung của đất nước, quyền ưu đãi xã hội lại có nội dung, hình thức, đối tượng thuộc diện thụ hưởng và các biện pháp bảo đảm thực hiện khác nhau. Chế định quyền ưu đãi xã hội của công dân có vai trò thể chế hoá một phần quan trọng chính sách xã hội của Nhà nước, là phương 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn