Luận văn Thạc sĩ Luật học: Sự độc lập trong hoạt động xét xử của toà án tại Việt Nam
lượt xem 2
download
Mục tiêu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về độc lập xét xử ở Việt Nam; phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án; làm rõ pháp luật đã ghi nhận, thể hiện như thế nào về sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án;... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Sự độc lập trong hoạt động xét xử của toà án tại Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ AN SỰ ĐỘC LẬP TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60.38.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG Hà Nội - 2010
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN LÀ MỘT NGUYÊN TẮC CỦA NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 6 1.1. Tại sao trong Nhà nước pháp quyền, toà án phải độc lập 6 1.2. Những yêu cầu của toà án độc lập 20 1.2.1. Toà án độc lập về mặt thể chế 24 1.2.2. Toà án phải có hành chính nội bộ riêng 34 1.2.3. Thẩm phán phải độc lập 37 1.3. Toà án độc lập ở một số quốc gia điển hình 41 1.3.1. Toà án độc lập ở Mỹ 41 1.3.2. Toà án độc lập ở Vương quốc Anh 47 1.3.3. Toà án độc lập ở Pháp 51 Chƣơng 2: NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN Ở VIỆT NAM 68 2.1. Khái quát về hệ thống toà án Việt Nam 68 2.2. Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của toà án tại Việt Nam 75 2.2.1. Khái niệm về tính độc lập của toà án ở Việt Nam 75 2.2.2. Những khía cạnh chính của nguyên tắc độc lập toà án ở Việt Nam 87 Chƣơng 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT CỤ THỂ ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP XÉT XỬ TẠI VIỆT NAM 3.1. Sự độc lập của toà án không giản đơn chỉ có trong giai đoạn xét xử 118 3.2. Tăng cường trách nhiệm của thẩm phán 120 3.3. Nhiệm kỳ của thẩm phán phải vững chắc và lâu dài 123 3.4. Chế độ lương bổng cho thẩm phán phải được đảm bảo 127 3.5. Thẩm phán phải xét xử theo lương tâm 129 KẾT LUẬN 134 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 136 3
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ AN SỰ ĐỘC LẬP TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60.38.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG Hà Nội - 2010
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Vũ Thị An
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN LÀ MỘT NGUYÊN TẮC CỦA NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 6 1.1. Tại sao trong Nhà nước pháp quyền, toà án phải độc lập 6 1.2. Những yêu cầu của toà án độc lập 20 1.2.1. Toà án độc lập về mặt thể chế 24 1.2.2. Toà án phải có hành chính nội bộ riêng 34 1.2.3. Thẩm phán phải độc lập 37 1.3. Toà án độc lập ở một số quốc gia điển hình 41 1.3.1. Toà án độc lập ở Mỹ 41 1.3.2. Toà án độc lập ở Vương quốc Anh 47 1.3.3. Toà án độc lập ở Pháp 51 Chƣơng 2: NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN Ở VIỆT NAM 68 2.1. Khái quát về hệ thống toà án Việt Nam 68 2.2. Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của toà án tại Việt Nam 75 2.2.1. Khái niệm về tính độc lập của toà án ở Việt Nam 75 2.2.2. Những khía cạnh chính của nguyên tắc độc lập toà án ở Việt Nam 87 Chƣơng 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT CỤ THỂ ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP XÉT XỬ TẠI VIỆT NAM 3.1. Sự độc lập của toà án không giản đơn chỉ có trong giai đoạn xét xử 118 3.2. Tăng cường trách nhiệm của thẩm phán 120 3.3. Nhiệm kỳ của thẩm phán phải vững chắc và lâu dài 123 3.4. Chế độ lương bổng cho thẩm phán phải được đảm bảo 127 3.5. Thẩm phán phải xét xử theo lương tâm 129 KẾT LUẬN 134 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 136 3
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Ngày 02-01-2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” nhằm giải quyết một bước những hạn chế, vướng mắc bức xúc nhất của công tác tư pháp đã tồn tại trong nhiều năm; tiếp đó, đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhằm đổi mới đồng bộ, toàn diện nền tư pháp nước nhà. Trong công cuộc cải cách tư pháp Đảng ta đã xác định trong hệ thống các cơ quan tư pháp: Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Do vậy, cải cách tổ chức và hoạt động của toà án nói chung và nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử nói riêng là một trong những vấn đề quan trọng nhất, có ảnh hưởng mang tính quyết định tới thành công của tiến trình cải cách tư pháp. Với nhận thức như vậy, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và chỉ đạo các cơ quan hữu quan có các biện pháp nhằm định vị rõ hơn vị thế, vai trò của toà án trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; hoàn thiện một bước cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của hệ thống toà án, tăng cường năng lực cho thẩm phán trong việc ra các phán quyết tư pháp. Điều này thể hiện rõ nét nhất qua việc triển khai chủ trương tăng thẩm quyền xét xử về hình sự, dân sự cho toà án nhân dân cấp huyện và nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. 1
- Tuy nhiên, vị trí, tầm quan trọng của toà án trong tổng thể thực hiện quyền lực nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ; hoạt động xét xử chưa được xem xét dưới góc độ phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền; tổ chức bộ máy và thẩm quyền của hệ thống toà án chưa được đổi mới cơ bản; năng lực, trình độ của thẩm phán chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; tỷ lệ bản án, quyết định của toà án bị huỷ, sửa chưa giảm mạnh... Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là nguyên tắc “độc lập xét xử” chưa được chính thức coi là tiêu chí, mục đích của các nhiệm vụ cải cách tư pháp; các yếu tố bảo đảm thực thi nguyên tắc hiến định “ Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [23, Điều 130, tr.21] chưa được xem xét, đổi mới và áp dụng triệt để; quá trình ra quyết định, bản án của thẩm phán còn bị tác động bởi nhiều mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện các cam kết quốc tế trong bối cảnh nước ta trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới đã làm cho việc chú trọng bảo đảm trên thực tế nguyên tắc độc lập xét xử vừa là yêu cầu, vừa là nhu cầu khách quan và bức thiết. Công tác nghiên cứu những vấn đề lý luận về mối quan hệ của nguyên tắc độc lập xét xử với điều kiện đặc thù nhất nguyên chính trị và thực thi thống nhất quyền lực nhà nước ở nước ta nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc nhận thức đúng, chính xác về vai trò của toà án cũng như sự độc lập xét xử, từ đó thể chế hoá đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, phù hợp với pháp luật quốc tế vẫn chưa được làm sáng tỏ. 2
- Với những lý do trên, việc nghiên cứu Sự độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án tại Việt Nam, nhằm kiến nghị các giải pháp bảo đảm thực thi có hiệu quả nguyên tắc hiến định về độc lập xét xử trên cơ sở phân tích, so sánh, đánh giá có hệ thống và khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn về độc lập xét xử ở Việt Nam là hết sức cấp thiết. 2. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài Với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [3, tr.1], Chiến lược cải cách tư pháp đã xác định tổ chức các cơ quan tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại, trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Theo định hướng của Chiến lược cải cách Tư pháp, sẽ tiến tới tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, sẽ có toà sơ thẩm, toà phúc thẩm, toà thượng thẩm và Toà án nhân dân tối cao. Do vậy, việc thực hiện đề tài nghiên cứu Sự độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án tại Việt Nam có cơ sở khoa học và thực tiễn chủ yếu sau đây: 1. Mặc dù nguyên tắc về sự độc lập của hoạt động xét đã được quy định ngay từ Hiến pháp 1946 và khẳng định trong tất cả các Hiến pháp tiếp theo, tuy nhiên, trên thực tế, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế chính trị, đặc biệt là của Đảng vẫn còn có quá nhiều "áp lực" đối với hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử. Vai trò và vị trí của Toà án trong cơ chế quyền lực chưa thực sự xứng đáng với chức năng, nhiệm vụ của nó trong cơ chế của nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cần có sự thay đổi cơ bản về các phương thức thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Toà án cũng như toàn bộ hệ thống Tư pháp để đảm bảo sự độc lập của hoạt động xét xử. 2. Về các nghiên cứu khoa học trong nước, hiện nay mới có một số bài nghiên cứu về một số khía cạnh của độc lập xét xử nhưng chưa chú trọng tới 3
- việc phân tích có hệ thống và toàn diện về sự độc lập xét xử. Chưa có công trình khoa học cấp nhà nước hoặc cấp bộ/ngành nào tập trung nghiên cứu về độc lập xét xử nói chung. Một số nghiên cứu tổng quan về cải cách tư pháp cũng chỉ đề cập sơ lược về độc lập xét xử. Với việc nghiên cứu đề tài này, tác giả hi vọng sẽ có được những kết luận và kiến nghị xác đáng về các giải pháp bảo đảm sự độc lập trong hoạt động xét xử của toà án tại Việt Nam. 3. Mục đích của đề tài Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về độc lập xét xử để từ đó góp phần đưa nguyên tắc độc lập xét xử thực sự phát huy hiệu quả ở Việt Nam. Cụ thể, luận văn cần đạt được các mục tiêu chủ yếu sau đây: - Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về độc lập xét xử ở Việt Nam: phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án. - Thứ hai, làm rõ pháp luật đã ghi nhận, thể hiện như thế nào về sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án. - Thứ ba, phân tích thực tiễn hoạt động xét xử ở Việt Nam xét từ góc độ bảo đảm sự độc lập của tòa án (việc thực thi quy định pháp luật hiện hành liên quan đến độc lập xét xử và đánh giá thực tiễn áp dụng các yếu tố bảo đảm thực thi độc lập xét xử trong những năm qua ở Việt Nam; phân tích tính đặc thù, vị trí, vai trò của thẩm phán và toà án trong mối quan hệ với vấn đề độc lập xét xử ở nước ta; phân tích các mối quan hệ xã hội ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định của thẩm phán); - Thứ tư, đề xuất, kiến nghị về các giải bảo đảm sự độc lập xét xử của tòa án 4. Nội dung của đề tài Luận văn gồm mở đầu, ba chương và Kết luận. Cụ thể như sau: 4
- Chương 1: Độc lập của toà án là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Chương này làm rõ các nội dung: 1. Tại sao trong Nhà nước pháp quyền, toà án phải độc lập 2. Những yêu cầu của toà án độc lập 3. Toà án độc lập ở một số quốc gia điển hình Chương 2: Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án ở Việt Nam. Chương này làm rõ hai nội dung lớn nhất: 1. Khái quát về hệ thống toà án Việt Nam qua các bản Hiến pháp 2. Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của toà án tại Việt Nam. Chương 3: Những đề xuất cụ thể để đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử tại Việt Nam 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: giải thích, so sánh, phân tích, tổng hợp … cũng sẽ được sử dụng để hoàn thành mục tiêu của đề tài. 5
- Chương 1 ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN LÀ MỘT NGUYÊN TẮC CỦA NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 1.1. TẠI SAO TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN, TOÀ ÁN PHẢI ĐỘC LẬP Trong các xã hội tiền tư bản, quyền tư pháp chưa tách khỏi quyền lập pháp và hành pháp. Tư pháp chưa tách thành một hệ thống độc lập. Trong xã hội hiện đại, các nhà nước đều thừa nhận sự tách biệt của quyền tư pháp khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp, đồng thời thiết lập một hệ thống cơ quan độc lập thực hiện quyền tư pháp, được gọi là toà án. Thuật ngữ “Toà án” theo tiếng Latinh là Forum, nghĩa là nơi công đường, nơi hoạt động của cộng đồng được tiến hành. Theo nghĩa đó, từ khi có Nhà nước, có hoạt động xét xử thì đã có Toà án. Nhưng Toà án với cách hiểu như hiện nay là một hệ thống cơ quan độc lập thực hiện quyền tư pháp thì chỉ có trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa. Một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao tòa án phải độc lập? Câu trả lời được tìm thấy trong khái niệm “Nhà nước pháp quyền”. Ngày nay, khái niệm “Nhà nước pháp quyền” đã trở thành một trong những giá trị cơ bản nhất của một xã hội dân chủ và đã được các học giả, luật gia, chính quyền và các tổ chức quốc tế công nhận một cách rộng rãi. Có thể nói, Nhà nước pháp quyền là một cách thức tổ chức quyền lực nhà nước phúc đáp một cách đầy đủ nhất các nhu cầu dân chủ và đang là một xu hướng tất yếu của quá trình chính trị hiện đại. Mọi nhà nước muốn trở thành dân chủ, muốn trở thành văn minh đều phải hướng tới không phân biệt chế độ chính trị. Việc các Đại hội Đảng gần đây của nước ta đều quan tâm mong muốn xây 6
- dựng một Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Mặc dù cho đến cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính xác về “Nhà nước pháp quyền”, song về cơ bản, Nhà nước pháp quyền có những đặc trưng - giá trị cơ bản sau đây: Thứ nhất, đó là tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật là cơ sở của mọi hình thức tổ chức quyền lực công khai. Mọi đường lối, chính sách và quyết định của nhà nước đều phải dựa vào luật, phục tùng luật và tất cả các mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và cá nhân cũng phải dựa trên cơ sở của pháp luật. Khác với nhà nước pháp trị, pháp luật của nhà nước pháp quyền phải vươn tới sự đầy đủ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và với mục tiêu: vì con người, vì quyền con người. Khi một quốc gia không tôn trọng nguyên tắc pháp trị, thì người bị trị không thể nào được che chở hữu hiệu trước những hành động bột phát của những người cầm quyền. Nhưng sẽ không có một hệ thống pháp luật nào có thể hoạt động một cách tự động, vô nhân tính và chính xác như một cái máy. Luật pháp không tự nó mà có, không tự nó thi hành mà đều phải thông qua con người. Chính con người làm ra pháp luật, con người thực thi pháp luật và cũng chính con người giải thích pháp luật. Trong mọi trường hợp, con người cần phải kìm hãm và chế ngự bằng pháp luật. Thứ hai, quyền tối thượng của Hiến pháp. Tất cả các thành viên của chính phủ cho đến các nghị sỹ của Quốc hội, các nhân viên của nhà nước từ trung ương tới địa phương dù bầu hay chỉ định đều phải tuyên thệ ủng hộ Hiến pháp và đều có thể bị truy tố khi vi phạm Hiến pháp. Trong Nhà nước pháp quyền, lập pháp cũng bị hạn chế, cũng trở thành đối tượng cần phải xét xử của tư pháp khi lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp. Thứ ba, Nhà nước pháp quyền có mục tiêu bảo đảm quyền tự do của con người, đối lập với nhà nước bạo lực. Tính tối cao của pháp luật chưa chắc đã 7
- là đặc điểm riêng có của Nhà nước pháp quyền. Bởi cũng tính tối cao có thể có và cũng rất cần có trong nhà nước cực quyền, bao gồm những đạo luật phản nhân quyền, tước bỏ mọi quyền của công dân. Điều đó có nghĩa là nhà nước thừa nhận và có nghĩa vụ bảo đảm, không được can thiệp vô hạn vào đời sống cá nhân của con người. Pháp luật phải thể hiện là pháp luật của công lý, của lý trí và phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người. Nhà nước được xây dựng trên nền tảng của xã hội công dân - một xã hội mà ở đó công dân là chủ thể, nhà nước có trách nhiệm phải phục tùng lợi ích của công dân, mà không có điều ngược lại. Pháp luật phải đứng trên nhà nước và nhà nước phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật. Để đảm bảo cho tính chất này, nhà nước phải nêu cao vai trò của toà án. Tính độc lập của toà án được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Chỉ có toà án mới có chức năng phán xét các tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội. Thứ tư, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được thành lập từ đa số, nhưng lại phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của những người yếu, của thiểu số, cá nhân. Khi cá nhân tham gia cùng đa số để thành lập ra nhà nước với mục đích, hay là chí ít cũng tin rằng nhà nước sẽ là người bảo vệ mình hữu hiệu nhất, so với bất kể một chủ thể nào trong xã hội, trong những trường hợp đặc biệt bị rơi vào hoàn cảnh thiểu số, nhất là trong trường hợp bị nghi can là tội phạm. Trong trường hợp họ rơi vào tình trạng thiểu số của sự thành lập ra bộ máy nhà nước là họ có một mong muốn một nhà nước với thành phần cơ cấu khác hơn, với chính sách khác hơn chứ không phải họ không cần đến nhà nước. Nhưng theo luật quy định, thì lá phiếu của họ không rơi vào phía đa số nên không có giá trị cho việc thành lập một nhà nước theo cơ cấu cũng như thành phần và chính sách của họ. Điều đó không có nghĩa nhà nước được thành lập theo đa số kia không có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của thiểu số không bỏ phiếu, mà điều ngược lại, nhà nước không những chỉ có 8
- trách nhiệm phải bảo vệ quyền lợi của đa số - của những người đã bỏ phiếu cho đa số mà còn phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của thiểu số - của cả những người không bỏ phiếu. Bởi một lẽ đơn giản rằng, một khi nhà nước được thành lập thì nhà nước phải là người đại diện chung cho toàn xã hội chứ không phải chỉ là của đa số nói trên. Nhưng dẫu sao đi nữa, dân chủ thường được hiểu ở nghĩa đơn giản, thuần tuý là sự cai trị của đa số, là biện pháp loại bỏ quyền của những người thiểu số; quyền của cá nhân thường sẽ không được tôn trọng. Dân chủ theo nghĩa thuần tuý là một phương pháp mà nhờ đó ý chí của nhà nước được xây dựng bởi đa số. Trong khi đó, nhân dân trong cộng đồng hình thành nên quốc gia thường là rất đa dạng với nhiều giác độ khác nhau và có những quyền lợi khác nhau như: chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, lứa tuổi, lãnh thổ, giai cấp, trình độ…. Có người thì ở đa số này, nhưng có người lại ở số ít, thiểu số kia. Nhưng cả hai đều phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước. Trong khi đó dân chủ đang tồn tại như là một nguyên tắc tối quan trọng trong việc tổ chức và hoạt động của nhà nước thời hiện đại, nên việc quyết định theo đa số đang là một tiêu chí cho nhiều các quyết định khác của cơ quan nhà nước. Khía cạnh thứ hai của vấn đề còn ở chỗ không phải lúc nào đa số cũng đúng, hay nói cách khác, sự đúng và đa số không phải lúc nào cũng là một. Vì vậy trong nhiều trường hợp không nên lấy quyết định của đa số áp đặt cho thiểu số, bất chấp mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Dân chủ và sự đúng không nên được hiểu ở nghĩa đơn giản và thuần tuý. Cái khó của một nhà nước dân chủ không thuần tuý là biết bảo vệ quyền lợi của thiểu số và của cá nhân. Trong một xã hội văn minh, của một nền dân chủ không thuần tuý, nguyên tắc đa số chỉ thành công khi bảo đảm được quyền của thiểu số và của cá nhân. Quyền của họ phải được bảo vệ bằng hiến pháp và luật pháp chứ không thể bằng lòng tốt của đa số. Quyền được công bằng trước pháp luật hay 9
- nói cách khác là được bảo vệ ngang nhau là một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền. Trong bộ máy nhà nước, nhiều cơ quan được thành lập bằng phương pháp bầu cử lấy đa số làm chuẩn mực phân biệt sự thành công hay thất bại. Lập pháp và hành pháp, tức là Quốc hội và Tổng thống đều được thành lập từ phương pháp bầu cử nên hoạt động của hai cơ quan cơ bản này đều buộc phải thể hiện ý chí của đa số. Khi đó họ không có động tác tính đến quyền lợi của thiểu số. Chỉ còn lại một cơ quan tư pháp - toà án không được thành lập bằng cơ sở này mà do sự bổ nhiệm của cấp trên sẽ rất có khả năng bảo vệ quyền lợi của thiểu số và quyền lợi của cá nhân. Một nhà nước dân chủ, muốn thực hiện tốt chức năng bảo vệ thiểu số và quyền lợi của cá nhân phải tăng cường hoạt động của tư pháp. Thứ năm, Nhà nước pháp quyền là một nhà nước bị hạn chế quyền lực mà không phải là một nhà nước cực quyền chuyên chế, với mục đích bảo vệ quyền con người. Muốn thế, nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền. Mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Mọi sự tập quyền hay những mưu mô của tập quyền đều tạo điều kiện cho sự lạm dụng quyền lực. Nhà nước pháp quyền được tổ chức để không ai có thể lạm dụng quyền lực, chống người khác, mưu lợi cho bản thân. Muốn không có sự lạm dụng quyền lực thì phải sắp xếp quyền lực sao cho quyền lực ngăn chặn quyền lực. Quyền lực của nhà nước phải được kiểm soát từ nhiều giác độ khác nhau. Bên cạnh việc phân chia quyền lực là việc các cành quyền lực phải tạo ra những kinh nghiệm hoạt động và những tâm lý nghề nghiệp riêng. Và bản thân từng cành quyền lực cũng phải có những đòi hỏi riêng khác với chính các cành quyền lực nhà nước đó trong trạng thái của một nhà nước không tuân thủ tiêu chí của Nhà nước pháp quyền. Cành quyền lực lập pháp không những bị kiểm soát, bị hạn chế 10
- như những cành quyền lực khác trong cơ cấu nhà nước, mà còn đòi hỏi tính cẩn trọng trong việc thi hành các chức năng lập pháp của mình. Đối với cành quyền lực hành pháp bên cạnh việc bị hạn chế theo tiêu chuẩn phải tuân theo pháp luật là đòi hỏi tính trách nhiệm của Chính phủ cho việc phát triển và tồn vong của đất nước. Nhà nước pháp quyền phải nhận thấy tầm quan trọng của Chính phủ - hành pháp trong vai trò là trọng tâm của toàn bộ bộ máy nhà nước. Đối với cành quyền lực tư pháp, bên cạnh việc cũng bị hạn chế trong việc phải tuân thủ các quy định của pháp luật, nhưng lại khác với cành lập pháp và hành pháp là việc tư pháp ngày càng can thiệp sâu vào các hoạt động của xã hội và phải có trách nhiệm loại trừ mức thấp nhất những oan sai trong hoạt động xét xử của mình. Một trong những đòi hỏi của tư pháp trong nhà nước pháp quyền là phải độc lập trước các cành quyền lực khác của nhà nước. Khi vai trò của các nhà lập pháp và quan toà được trao cho hai cơ quan khác nhau, sự quản lý tuỳ tiện sẽ không còn hoặc ít nhất là có cơ sở cho việc bị hạn chế. Khi quyền làm luật được tách khỏi quyền hiểu, tức là quyền giải thích và áp dụng luật thì chính nền tảng của pháp quyền sẽ được tăng cường. Tính độc lập của tư pháp cho phép toà án đưa ra những phán quyết đúng đắn, không những số đông của đa số nhân dân phản đối vì không kịp nhận ra, mà còn có thể chống lại quyền lợi của các cành quyền lực nhà nước khác. Tổng thống, các bộ trưởng và các nhà lập pháp đôi khi phải vội vã tìm giải pháp tiện lợi mang tính tình thế cho một vấn đề nóng bỏng cần phải giải quyết ngay. Một bộ máy độc lập bình tĩnh phải có trách nhiệm tìm ra tác hại của những giải pháp tình thế đối với các quyền lợi và tự do của công dân. Nhưng để các toà án có hiệu quả, các nhà cai trị cũng cần phải tuân thủ pháp luật. Hệ thống tư pháp cần phải đưa ra những đối trọng đối với những hành động tuỳ tiện của nhà nước. Việc buộc các nhà cai trị phải tuân theo luật pháp đã tồn tại từ rất lâu như một mong muốn của dân chủ. Khi các nhà cai trị chấp nhận vấn đề 11
- này thì vấn đề cần phải đặt ra ngay là phải có những thể chế cụ thể quyết định trong trường hợp nào các cơ quan nhà nước vi phạm pháp luật và các biện pháp trừng phạt hợp lý kèm theo. Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền là nhà nước của pháp luật chứ không phải là nhà nước của cá nhân. Tư tưởng này có từ thời Aristotle. Trong bản hiến pháp lần đầu tiên ở Mỹ cũng diễn đạt tư tưởng này. Trong khoa học luật Hiến pháp cũng như Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, chúng ta có thể gặp những hình thức nhà nước rất khác nhau. Dưới góc độ cơ cấu lãnh thổ hình thành, dù là nhà nước liên bang hay nhà nước đơn nhất đều cần phải là Nhà nước pháp quyền nếu nhà nước ấy muốn trở thành nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hay nói cách khác, nhà nước pháp quyền không phụ thuộc vào hình thức liên bang hay đơn nhất. Nhưng ở phương diện khác, Nhà nước pháp quyền không thể có trong nhà nước quân chủ - nơi không có sự tham gia của nhân dân vào tổ chức và hoạt động của nhà nước - mà chỉ có ở chính thể cộng hoà, tức là chính thể dân chủ. Song, cả hai cách phân tích hình thức nhà nước như trên đều không thấy được vị trí vai trò của các cơ quan tư pháp. Chỉ khi phân tích hình thức Nhà nước pháp quyền hay không là Nhà nước pháp quyền, nhà nước nhân trị, nhà nước cực quyền, nhà nước pháp trị…, nhà nước mới được xem xét toàn diện hơn, cho phép thấy được vị trí vai trò của toà án và giá trị của con người nằm trong các bảo đảm an bình của một xã hội công dân. Nhà nước pháp quyền là một hình thức nhà nước được phân tích trong mối tương quan giữa nhà nước và pháp luật. Nhà nước pháp quyền thể hiện tính dân chủ, tính quy luật cần phải tiến tới của nhân loại. Đến nay, nhiều tài liệu khoa học lý giải và phát triển các lý thuyết và mô hình lý tưởng về Nhà nước pháp quyền từ các cách nhìn khác nhau: các học 12
- thuyết theo trường phái hình thức, các học thuyết theo trường phái nội dung và mô hình kết hợp hai trường phái này. Cho dù tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền theo trường phái nào đi nữa thì nội dung trọng tâm của nguyên tắc Nhà nước pháp quyền vẫn là việc kiềm chế quyền lực nhà nước bằng pháp luật hay nói cách khác, chính quyền hay nhà nước phải chịu sự kiềm chế của pháp luật, và mỗi hành vi của chính quyền đều phải có cơ sở pháp lý. Nhìn từ góc độ khác của nội dung trung tâm này thì thấy rằng không chỉ các cơ quan nhà nước mà ngay cả bất cứ cá nhân nào cũng đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải có vai trò tối thượng trong việc điều chỉnh các hoạt động xã hội. Thế nhưng một điều hiển nhiên là, cho dù pháp luật có được định nghĩa như thế nào đi nữa thì đã có pháp luật tất yếu sẽ có vi phạm pháp luật. Khi xuất hiện vi phạm pháp luật thì bắt buộc phải có chế tài vì nếu không thì pháp luật sẽ không thực hiện được chức năng mà nó phải thực hiện, và như thế, dần dần nó sẽ mất đi vai trò của mình trong việc điều tiết, quản lý xã hội. Thế nhưng, pháp luật thì cũng chỉ là một “thực thể vô tri” do con người tạo ra, nó không có khả năng tự bảo vệ mình. Cần phải có ai đó hoặc cơ quan nào đó được giao thẩm quyền để bảo đảm sự thực thi của pháp luật. Về lý thuyết, người đó hoặc cơ quan đó có thể đến từ một trong ba nhánh quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, hoặc tư pháp. Tuy nhiên trên thực tế thì nhánh lập pháp không đủ tiêu chuẩn để làm việc này, bởi vì nó được giao quyền lập pháp. Nếu như nó vừa ban hành luật lại vừa bảo đảm thực thi luật đó thì sẽ không công bằng. Hơn nữa, một lý do không kém quan trọng là nhánh lập pháp bao gồm các đại biểu đại diện và không có kỹ năng trong việc thi hành pháp luật sẽ khó đảm đương cùng lúc cả công việc bảo đảm thực thi pháp luật trong các hoạt động hàng ngày. Nhánh hành pháp cũng không đủ tiêu chuẩn, bởi vì nó được trao quyền hành pháp. Trong quá trình thi hành pháp luật thì nó thường có quyền ban hành các quy định mà 13
- rất có thể sẽ vi phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện chức năng hành pháp của mình thì bản thân cơ quan hành pháp cũng có thể vi phạm pháp luật. Vì thế mà cũng sẽ không bảo đảm được công bằng và công lý nếu trách nhiệm bảo đảm thực thi pháp luật lại được trao cho cơ quan hành pháp. Lúc này thì rõ ràng là chỉ có cơ quan tư pháp, không có quyền lập pháp cũng như ban hành các quy tắc xử sự chung, và cũng không có quyền hành pháp, là cơ quan đủ tư cách để đảm bảo sự thực thi pháp luật. Nói cách khác, hệ thống tòa án phải là người trọng tài cao nhất bảo đảm cho hiệu lực thực thi của pháp luật trong thực tiễn. Song, khi chức năng này được trao cho cơ quan tư pháp thì hiệu quả của việc thực hiện nó cũng phải đối diện với một số thách thức thực sự. Do bản chất của nó nên hệ thống tòa án là nhánh quyền lực “yếu” nhất. Về vấn đề này, Alexander Hamilton, một trong những Cha đẻ của Hiến pháp Mỹ đã có một nhận xét phù hợp với mọi hệ thống tòa án. Ông cho rằng: Nhánh hành pháp không chỉ có chức năng nguyên thủ mà còn có cả lưỡi kiếm (tức là lực lượng vũ trang) của quốc gia. Nhánh lập pháp không chỉ có uy quyền đối với ví tiền quốc gia (tức là ngân sách), mà còn có quyền ban hành các quy định để điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ của mọi công dân. Ngược lại, nhánh tư pháp chẳng có ảnh hưởng gì đối với vấn đề kiếm hay ví của quốc gia cả, không có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đối với vấn đề sức mạnh hay thịnh vượng của xã hội, và cũng không có quyền tự thực thi các quyết định của mình. Có thể nói một cách chính xác rằng nó không có quyền liên quan tới sức mạnh cưỡng chế cũng như là thể chế hóa ý chí mà nó chỉ có một thứ là các phán quyết, thậm chí nó cũng phải lệ thuộc vào sự trợ giúp của nhánh hành pháp để các phán quyết của nó được thực hiện một cách có hiệu quả. Rõ ràng là nhánh tư pháp yếu nhất trong số ba nhánh quyền lực nhà nước, nó không bao giờ có khả năng gây ảnh hưởng tới một trong hai nhánh quyền lực 14
- kia, và cần có sự quan tâm tối đa để làm cho nhánh tư pháp có khả năng tự bảo vệ mình trước các mối đe dọa [37, tr.489] Một kết luận hiển nhiên từ những lập luận của Hamilton về cái sự “yếu” của hệ thống tòa án trên đây là nhân tố cơ bản và không thể thiếu để làm cho nhánh tư pháp có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình với tư cách là người bảo đảm cuối cùng cho nguyên tắc Nhà nước pháp quyền chính là sự độc lập của nó đối với những ảnh hưởng có hại từ nhánh hành pháp và lập pháp nói riêng và từ tất cả các nguồn bên ngoài khác nói chung. Nếu như không độc lập thì tòa án không thể thực thi được pháp luật, hoặc nếu có thực thi được đi nữa thì thì nhiều khả năng nguyên tắc Nhà nước pháp quyền sẽ bị xâm hại bởi vì khi đó tòa án khó có thể làm điều đó một cách công bằng và khách quan. Vì thế, tính độc lập của tòa án chính là một điều kiện không thể thiếu để bảo đảm cho sự duy trì nguyên tắc Nhà nước pháp quyền trong một hệ thống pháp lý. Như vị giáo sư người Áo Hans - Georg Heinrich nhận xét tại Hội thảo “Judical Independence and Incompatibilities of the Office of Judge with Other Activities” do Hội đồng châu Âu phối hợp với Tòa án Tối cao Kyrgyzstan vào ngày 20 - 21/4/1998 rằng: “tính độc lập của tòa án có địa vị như là một điều kiện của Nhà nước pháp quyền: không có cái thứ nhất thì cái thứ hai sẽ không thể tồn tại được” [11, tr.37 - 38]. Trên khía cạnh lý thuyết, quả thật tính độc lập của tòa án là một vấn đề quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào. Chúng ta biết rằng, các nguyên tắc pháp quyền và tôn trọng quyền con người là những giá trị quan trọng và không thể thiếu đối với các nền dân chủ hiện nay. Cả hai nguyên tắc này đều yêu cầu phải có sự hiện diện của một hệ thống tòa án độc lập như là một điều kiện cơ bản để có thể được duy trì một cách bền vững. Một quốc gia nếu muốn xây dựng và duy trì được Nhà nước pháp quyền và cơ chế bảo vệ quyền 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn