Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự Việt Nam
lượt xem 5
download
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của Điều 143 Bộ luật Hỡnh sự 1999 theo luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng điều luật này trong thực tiễn, từ đó thấy được những tồn tại trong thực tiễn khi định tội danh cho người phạm tội để đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự Việt Nam
- Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Ngô Thị Huyền Phương Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự việt nam Luận văn thạc sĩ luật học Hà nội - 2009
- Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Ngô Thị Huyền Phương Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự việt nam Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng Hà nội - 2009
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN 5 HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN 1.1. Lịch sử phát triển của tội danh 5 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm 11 1.2.1. Khách thể của tội phạm 12 1.2.2. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm 13 1.2.3. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. 19 1.2.4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm 21 1.3. Hình phạt và các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với 22 người phạm tội hủy hoại hoặc làm cố ý làm hư hỏng tài sản 1.3.1. Hình phạt chính 23 1.3.2. Các hình phạt bổ sung 31 1.3.3. Các biện pháp tư pháp áp dụng cho Điều 143 - Tội hủy hoại 34 tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 1.4. Phân biệt tội hủy hoại hoặc làm cố ý làm hư hỏng tài sản với 35 một số tội danh khác được quy định trong Bộ luật Hình sự 1999 1.4.1. Tội hủy hoại hoặc làm cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 Bộ 35 luật Hình sự) với tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản quy định tại (Điều 145 Bộ luật Hình sự)
- 1.4.2. Tội hủy hoại hoặc làm cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 Bộ 36 luật Hình sự) với Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 188 Bộ luật Hình sự) 1.4.3. Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 37 Bộ luật Hình sự) và Tội hủy hoại rừng (Điều 189 Bộ luật Hình sự) 1.4.4. Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 39 Bộ luật Hình sự) và Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231 Bộ luật Hình sự). 1.4.5. Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 42 Bộ luật Hình sự) và Tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 334 Bộ luật Hình sự) 1.4.6. Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143 44 Bộ luật Hình sự trong mối quan hệ với một số tội danh thường gặp 1.5. Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong Bộ 46 luật Hình sự của một số quốc gia Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN HOẶC 50 CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 2.1. Thực tiễn áp dụng Điều 143 - Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý 50 làm hư hỏng tài sản trong thời gian vừa qua. 2.2 Thực tiễn áp dụng hình phạt của tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý 59 làm hư hỏng tài sản của Tòa án trong 5 năm qua (2004-2008) 2.3. Những khó khăn vướng mắc khi giải quyết những vụ án hủy 61 hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143 Bộ luật Hình sự 2.4. Một số kiến nghị xung quanh các quy định liên quan đến 70 Điều 143 Bộ luật Hình sự KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
- Danh mục các bảng Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Một số tội danh đã xét xử trong giai đoạn 2004-2008 51 2.2 Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong 51 các giai đoạn điều tra - truy tố - xét xử từ 2004-2008 2.3 Tổng số án hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 52 đã xét xử từ 2004-2008 2.4 Các tội xâm phạm sở hữu không có mục đích tư lợi 53 2.5 Số vụ án hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 55 xét xử ở một số địa phương từ 2004-2008 2.6 Hình phạt áp dụng cho Điều 143 Bộ luật Hình sự 60 2.7 Án xét xử sở thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm 62 Danh mục các biểu đồ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 2.1 Tổng số án hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 53 đã xét xử từ 2004-2008 2.2 Các tội xâm phạm sở hữu không có mục đích tư lợi 53 2.3 Số vụ án hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 55 xảy ra ở một số địa phương từ 2004-2008
- MỞ ĐẤU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần tích cực bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, việc nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn xét xử các tội danh cụ thể được quy định trong Phần Các tội phạm của Bộ luật Hình sự là rất cần thiết. Ngành luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy định các mức hình phạt tương ứng. Bộ luật Hình sự quy định các tội xâm phạm quyền sở hữu tại Chương XIV từ Điều 133 đến Điều 145. Tùy theo tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội và giá trị tài sản xâm phạm mà mỗi hành vi có hình phạt tương ứng. Căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội, có thể chia 13 tội danh thuộc Chương sở hữu thành hai nhóm là nhóm các tội xâm phạm sở hữu có mục đích tư lợi, tức là nhằm thu về những lợi ích vật chất cho cá nhân hay nhóm cá nhân (từ Điều 133 đến Điều 142) và nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu không có mục đích tư lợi (gồm 3 điều: Điều 143 tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Điều 144 Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước và Điều 145 Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản) [30, tr. 365]. Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định tại Điều 143 Bộ luật Hình sự 1
- 1999, thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu không có mục đích tư lợi. Theo thống kê báo cáo hàng năm do Viện kiểm sát nhân dân tối cao cung cấp thì tỷ lệ án hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chiếm tỷ trọng lớn trong số nhóm tội xâm phạm sở hữu không có mục đích tư lợi và hiện nay diễn ra theo xu hướng ngày càng gia tăng (theo số liệu thống kê án xét xử tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143 Bộ luật Hình sự năm 2004 cả nước xét xử 649 vụ/ 1.016 bị cáo; năm 2008 xét xử 1.138 vụ/ 2.003 bị cáo, tỷ lệ án từ năm 2004 đến năm 2008 tăng 175,3%). Việc nghiên cứu tổng thể và toàn diện về tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tại Điều 143 Bộ luật Hình sự 1999, đánh giá việc áp dụng tội danh này trong thực tiễn để đưa ra những kiến giải nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng điều luật này trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa lý luận - thực tiễn. Đây là lý do tôi quyết định chọn đề tài "Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy các công trình, bài viết nghiên cứu về tội Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 143 Bộ luật Hỡnh sự 1999 không nhiều, các bài viết trên các diễn đàn trao đổi chủ yếu tập trung vào tranh luận việc định tội danh liên quan đến hành vi hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, trong khi đó về mặt lý luận và thực tiễn tội phạm này cũng có nhiều nội dung cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận án - Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của Điều 143 Bộ luật Hỡnh sự 1999 theo luật 2
- hình sự Việt Nam và việc áp dụng điều luật này trong thực tiễn, từ đó thấy được những tồn tại trong thực tiễn khi định tội danh cho người phạm tội để đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục. - Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích nội dung được ghi nhận tại Điều 143 Bộ luật Hình sự 1999, qua đó lµm s¸ng tá b¶n chÊt vµ nh÷ng dấu hiệu pháp lý của tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá Điều 143 Bộ luật Hỡnh sự 1999 trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trờn cả nước, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh việc ỏp dụng quy định này trong thực tiễn nhằm kiến nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng Điều 143 Bộ luật Hình sự, theo số liệu từ năm 2004 đến năm 2008. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý: luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí khoa học LuËn văn sử sụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng trong quy định của Bộ luật Hình sự nói chung và những quy định tại Điều 143 Bộ luật Hình sự nói riêng. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là các phương pháp: so sánh, phân tích - tổng hợp, thống kê; v.v... Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật, những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo 3
- cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tài liệu về cỏc vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử, cũng như những thông tin trên mạng internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Chương 2: Thực tiễn áp dụng Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và mét sè kiến nghị. 4
- Chương 1 NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ Các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong Bộ luật Hình sự (gồm 13 tội danh) là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật Hình sự quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và của công dân. Căn cứ vào tính chất, mục đích phạm tội của các tội xâm phạm sở hữu, chúng ta có thể chia 13 tội danh thuộc Chương XIV Bộ luật Hình sự 1999 thành hai nhóm. Đó là nhóm các tội có mục đích tư lợi, tức có mục đích nhằm thu về những lợi ích vật chất cho cá nhân hay nhóm cá nhân (gồm 10 tội danh đầu của chương) và nhóm các tội không có mục đích tư lợi (gồm 3 tội danh còn lại). Trong đó tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thuộc nhóm thứ hai, tức tội xâm phạm sở hữu không có mục đích tư lợi. 1.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TỘI DANH a. Giai đoạn trước khi có Bộ luật Hình sự 1985 Quá trình hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển của xã hội. Trong những ngày đầu mới thành lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, vừa từng bước xây dựng 5
- xã hội mới. Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là áp dụng pháp luật của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới với nguyên tắc đảm bảo dân chủ, công bằng. Bên cạnh đó, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản pháp luật mới quy định những hành vi xâm phạm đến sở hữu của Nhà nước và công dân, góp phần bảo vệ các quan hệ xã hội tiến bộ trong xã hội mới. Tuy còn sơ khai nhưng pháp luật hình sự thời kỳ này đã khái quát được những hành vi xâm phạm sở hữu trong thực tế và quy định thành các tội phạm cụ thể làm cơ sở cho Tòa án xét xử. Đồng thời các văn bản này còn quy định đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu trên nguyên tắc trừng trị kết hợp với khoan dung, trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo, đã có sự cá thể hóa hình phạt đối với các hành vi phạm tội. Trong quá trình thụ lý giải quyết các cơ quan chức năng đã có những văn bản hướng dẫn giải quyết các trường hợp cụ thể như: Báo cáo tổng kết công tác của Tòa án nhân dân tối cao năm 1971, 1972; Thông tư 213/NCPL ngày 5/5/1973 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an. - Về hình phạt: Tư tưởng chỉ đạo giai đoạn này là chú trọng bảo vệ tài sản chung (tài sản xã hội chủ nghĩa) hơn tài sản riêng (tài sản tư nhân). Trước khi có Bộ luật Hình sự năm 1985, các hình phạt không được quy định tập trung, sắp xếp theo một trật tự nhất định và cũng không có tiêu chí đánh giá, áp dụng thống nhất. b. Giai đoạn từ 1985 đến 1999 Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và có hiệu lực thi hành thống nhất trong cả nước ngày 1/1/1986 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng về kỹ thuật lập pháp hình sự nước ta. Trong đó các tội xâm phạm sở hữu được quy định thành hai chương độc lập: 6
- - Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa. - Chương VI: Các tội xâm phạm sở hữu công dân. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định thành hai điều: Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 138 thuộc Chương IV và tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân Điều 160 thuộc chương VI Bộ luật Hình sự 1985. Điều 138. Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa. 1- Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 79 và Điều 94, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm. Tội phạm này gồm 3 khung hình phạt Trường hợp không có tình tiết định khung hình phạt mức phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Trường hợp có các tình tiết định khung tăng nặng có mức phạt tù từ 5 năm đến 15 năm Trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình Điều 160. Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân: "1- Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm". Tội phạm này gồm 3 khung hình phạt Trường hợp không có tình tiết định khung hình phạt mức phạt tù từ 6 năm đến 5 năm. Trường hợp có các tình tiết định khung tăng nặng có mức phạt tù từ 3 năm đến 13 năm 7
- Trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. Căn cứ vào các quy định tại Điều 138 và Điều 160 Bộ luật Hình sự 1985 ta thấy mức hình phạt của hai điều luật áp dụng để bảo vệ hai khách thể của tội phạm có sự chênh lệch về tính nghiêm khắc của hình phạt, theo đó do tầm quan trọng của tài sản xã hội chủ nghĩa là tài sản quốc gia nên người phạm tội sẽ bị trừng trị nghiêm khắc hơn đối với những trường hợp phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân [16, tr. 292]. c. Giai đoạn từ năm 1999 đến nay Xuất phát từ yêu cầu của xã hội, kinh tế đất nước chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để đảm bảo và thực hiện sự bình đẳng của các thành phần kinh tế, chính sách hình sự và pháp luật hình sự cũng phải thay đổi. Bên cạnh đó, việc phân định hai hình thức sở hữu để quy định thành hai khách thể bảo vệ độc lập là tài sản thuộc sở hữu xã hội chủ nghĩa và tài sản thuộc sở hữu công dân theo quy định của Bộ luật Hình sự 1985 dẫn đến những khó khăn trong việc xác định tội danh. Bộ luật Hình sự 1999 được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 có hiệu lực ngày 1/7/2000 đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình xây dựng và phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Là sự đúc kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, thể hiện đường lối, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Bộ luật Hình sự 1999 đã nhập hai Chương IV và Chương VI của Bộ luật Hình sự 1985 vào thành một chương (Chương XIV Các tội xâm phạm sở hữu) với 13 tội danh. Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 143 Bộ luật Hình sự 1999 là tội được nhập từ tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng 8
- tài sản của công dân quy định tại Điều 160 và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự 1985. Điều 143. Téi hñy ho¹i hoÆc cè ý lµm h- háng tµi s¶n 1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; c) Gây hậu quả nghiêm trọng; d) Để che giấu tội phạm khác; đ) Vì lý do công vụ của người bị hại; e) Tái phạm nguy hiểm; g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 9
- 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với tội phạm này quy định ở Điều 138 và Điều 163 Bộ luật Hình sự 1985 thì Điều 143 Bộ luật Hình sự 1999 có nhiều điểm mới. Nếu trước đây nhà làm luật không quy định định lượng đối với giá trị tài sản bị xâm hại. Bộ luật Hình sự năm 1999 đã định lượng tài sản trong phần lớn các tội xâm phạm sở hữu. Việc định lượng vừa phục vụ cho định tội, vừa phục vụ cho việc định khung hình phạt. Do vậy, ranh giới giữa tội phạm và không phải tội phạm, giữa cấu thành cơ bản và cấu thành tăng nặng được phân biệt một cách rành mạch, rõ ràng ngay trong Bộ luật Hình sự [5, tr. 292]. Trước sự biến động không ngừng của xã hội, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Hình sự 1999 trở thành một yêu cầu thiết yếu. Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung bằng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009, chính thức có hiệu lực kể từ 0 giờ 00 ngày 01 tháng 01 năm 2010. Theo đó, kể từ khi Nghị quyết 33 của Quốc hội có hiệu lực người thực hiện hành vi hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chỉ bị coi là tội phạm nếu giá trị tài sản bị xâm hại có giá trị từ 2.000.000 đồng (Điều 143 Bộ luật Hình sự 1999 quy định chỉ coi là tội phạm khi tài sản bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng có giá trị từ 500.000đ trở lên). Theo tinh thần đó nếu tài sản dưới 2.000.000đ thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị 10
- xử phạt hành chính về hành vi hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, hoặc đã bị kết án về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, mới bị coi là tội phạm. Tóm lại, để truy tố một người vì Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi 2009, ngoài các yếu tố về mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể, khách thể thì nhà làm luật cũng có những quy định cụ thể các điều kiện bắt buộc khác là: - Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng; - Hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng: + Gây hậu quả nghiêm trọng; + Hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này; + Hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Điều này khác với các tội danh khác như Cướp tài sản (Điều 133); Cướp giật tài sản (Điều 136) cùng chương các tội xâm phạm sở hữu, do tính chất nguy hiểm của hành vi khác nhau nên ở các tội danh trên chỉ cần có dấu hiệu cướp tài sản hoặc cướp giật tài sản không cần biết giá trị tài sản bị xâm hại là bao nhiêu, đối tượng phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Ngoài các tình tiết định tội, nhà làm luật còn quy định thêm các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong cùng điều luật. 1.2. CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI PHẠM Về bản chất chính trị xã hội, bản chất pháp lý tội phạm là hiện tượng được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi và tính trái pháp 11
- luật hình sự. Về cấu trúc pháp lý tội phạm được hợp thành từ bốn yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội phạm. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 143 Bộ luật Hình sự 1999 là một trong các tội thuộc chương các tội xâm phạm sở hữu. Theo nghĩa thông thường hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản. Đây là tội phạm gồm hai hành vi độc lập, hành vi hủy hoại tài sản và hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản. Nhưng do có cùng một tính chất là làm mất đi giá trị hoặc giá trị sử dụng tài sản thuộc sở hữu của người khác, nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội hủy hoại tài sản hay tội cố ý làm hư hỏng tài sản. 1.2.1. Khách thể của tội phạm Tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị hoặc giá trị sử dụng. Tài sản là thước đo giá trị sức lao động do con người làm ra. Tài sản không có giá trị hoặc giá trị sử dụng sẽ không phải là đối tượng tác động của tội phạm sở hữu [6, tr. 116]. Ví dụ: thuốc tân dược nếu hết hạn sử dụng được mang đi tiêu hủy sẽ không là đối tượng của tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu phải có chủ sở hữu cụ thể với các quy định có tính pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản đó. Hành vi phạm tội khi xâm phạm quyền sở hữu phải tác động tới những tài sản đã được xác lập quyền sở hữu bằng những quy định pháp lý. Vì vậy, chỉ những tài sản nào có chủ sở hữu cụ thể mới là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu. Các hành vi xâm phạm tới tài sản vô chủ sẽ không cấu thành tội phạm hoặc cấu thành tội phạm khác chứ không cấu thành các tội xâm phạm sở hữu nói chung cũng như tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng. 12
- Việc xác định tài sản nào là khách thể của tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản với tài sản là khách thể của tội phạm khác trong nhiều trường hợp cần có sự hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền. Nếu tài sản bị hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng là tài sản thông thường thì xử lý theo Điều 143, nhưng nếu tài sản đó là tài sản là khách thể của một tội phạm khác được quy định trong một điều luật khác thì sẽ được xử lý theo điều luật tương ứng. Ví dụ, Điều 231 tội phá hủy các công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia thuộc sở hữu nhà nước, khách thể của tội phạm này cũng là tài sản nhưng là các loại tài sản có tầm quan trọng đối với an ninh quốc gia. Khách thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với một số tội xâm phạm sở hữu khác. Tội phạm được thực hiện bằng hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu của công dân, tập thể, Nhà nước. Ví dụ: Tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật Hình sự, khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội người phạm tội phải xâm phạm các quan hệ nhân thân trước sau đó mới xâm phạm quan hệ sở hữu, vì phải có hành vi dùng vũ lực uy hiếp mới chiếm đoạt được tài sản. Còn trong quy định của Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì quan hệ sở hữu bị xâm hại trước, tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể quan hệ nhân thân mới xác lập. Đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác thì tùy từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Nếu hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà nhằm mục đích xâm phạm đến tính mạng người khác thì hành vi đấy trở thành thủ đoạn của hành vi giết người. 13
- 1.2.2. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm Do điều luật quy định hai hành vi phạm tội khác nhau, gồm hành vi hủy hoại và hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản, nên mỗi hành vi phạm tội có hành vi khách quan khác nhau. - Mặt khách quan của tội hủy hoại tài sản là hành vi làm cho tài sản mất hẳn giá trị sử dụng, không thể khôi phục lại được hoặc khó có thể khô phục lại được và như vậy toàn bộ giá trị tài sản không còn. Ví dụ: Đốt cháy một căn nhà, đập nát một chiếc xe ô tô. Hành vi có thể được thực hiện dưới dạng hành động (đập, phá, đốt…) và không hành động (bắt buộc phải bảo dưỡng máy móc theo định kỳ, nhưng cố tình không làm, dẫn đến máy móc không còn khả năng sử dụng…). Hành vi hủy hoại tài sản có thể được thực hiện bằng những phương pháp, phương tiện hoặc công cụ khác nhau, hoặc sử dụng hóa chất để thực hiện hành vi hủy hoại [30, tr. 397]. Ví dụ: theo Bản án số 04/2009/HSST ngày 27/5/2009 của Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, Tỉnh Lai Châu về vụ án Hoàng Văn Béo (1958) can tội hủy hoại tài sản tại huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu. Bị cáo Hoàng Văn Bèo có ruộng ở khu vực đầu nguồn nước tại bản Nà Giàng, Tân uyên, Lai Châu, trong thời gian làm ruộng và thả cá, ruộng của Bèo thường xuyên bị tháo trộm nước, nhưng không biết là ai. Do bực tức nên ngày 1/3/2009 bị cáo Bèo lấu 06 gói thuốc trừ nấm bệnh dùng để phun cho cây chè, nhãn hiệu ANTRACOL mang ra ruộng rồi đổ 5 gói xuống ruộng thả cá nhà mình, còn 1 gói đổ xuống mương nước tưới tiêu của bản Nà Giàng với mục đích làm chết hết cá của những hộ dân phía dưới nguồn nước mà bị cáo nghi họ tháo trộm nước ở ruộng nhà mình, ngay khi đó con gái bị cáo là Hoàng Thị Nguyệt đã phát hiện, can ngăn bị cáo và chạy đi báo cho người trong bản biết. Hậu quả xảy ra là ruộng nhà ông Lò Văn Chài đang thả cá ở cùng bản Nà Giàng phía dưới ruộng nhà Bèo bị chết 8kg cá chép và 330 con cá Vược. Bản Kết luận định 14
- giá tài sản số 06 ngày 12/3/2009 kết luận tổng thiệt hại là 888.000đồng; vật chứng của vụ án được thu giữ, bản thân quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Bèo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; gia đình bị cáo cũng đã bồi thường thiệt hại là 950.000đồng. Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên xử Hoàng Văn Bèo 6 tháng tù giam. Hậu quả của tội hủy hoại tài sản là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm, tội phạm chỉ coi hoàn thành khi có hậu quả xảy ra. Để truy cứu trách nhiệm hình sự phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi hủy hoại tài sản và hậu quả xảy ra, nghĩa là thiệt hại đó do chính hành vi hủy hoại tài sản gây ra. Người có hành vi hủy hoại tài sản chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thiệt hại tài sản bị hủy hoại có giá trị từ 2.000.000đ đến dưới 50.000.000đ, nếu dưới 2.000.000đ thì phải thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng (căn cứ xác định hậu quả nghiêm trọng được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật Hình sự năm 1999); đã bị xử lý hành chính về hành vi này (hành vi hủy hoại tài sản) mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Theo quy định tại khoản Điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi bổ sung 2008): "Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính". Trong trường hợp này, người phạm tội đã bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đã thực hiện trước đây, hiện lại tiếp tục thực hiện hành vi hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì dù thiệt hại 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn