intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam và việc xử lý tội phạm này trong thực tiễn, từ đó tìm ra những bất cập để đề xuất những kiến giải lập pháp cũng như những giải pháp cụ thể phục vụ cho công tác đấu tranh phòng và chống có hiệu quả loại tội phạm này ở nước ta.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam

  1. Đại học Quốc gia Hà nội KHOA LUẬT ---------------- Lê Thị Phượng Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự việt nam Luận văn thạc sĩ luật học Hà nội - 2010 1
  2. Đại học Quốc gia Hà nội KHOA LUẬT ---------------- Lê Thị Phượng Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự việt nam Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60.38.40 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: GS - TSKH Lê Văn Cảm Hà nội - 2010 2
  3. Mục lục Trang Trang phụ bìa ....................................................................................... Lời cam đoan ....................................................................................... Mục lục ................................................................................................. Danh mục các bảng ................................................................................. Mở ĐầU................................................................................................. 1 Chương 1: một số VấN Đề CHUNG Về TộI xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự ......................................................................... 7 1.1. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và ý nghĩa của việc ghi nhận tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam ......................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ........ 7 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ............................................................................... 12 1.1.3. ý nghĩa của việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam .................................. 14 1.2. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp .................................................................................. 14 1.3. Điều ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới đối với vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bằng chế tài hình sự 22 1.3.1. Điều ước quốc tế đa phương ............................................ 22 1.3.2. Điều ước quốc tế khu vực ................................................ 24 1.3.3. Điều ước quốc tế song phương ........................................ 24 1.3.4. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bằng chế tài hình sự ................................... 26 4
  4. Chương 2: Các quy định của luật hình sự việt nam hiện hành về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp .............................................................. 32 2.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp .................................................................................. 32 2.1.1. Khách thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp... 32 2.1.2. Mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ........................................................................................ 33 2.1.3. Chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ...... 38 2.1.4. Mặt chủ quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ........................................................................................ 40 2.2. Quy định về hình phạt đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ......................................................................................... 43 2.3. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với một số tội phạm khác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ............................................... 47 2.3.1. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan .................................. 47 2.3.2. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với các tội sản xuất, buôn bán hàng giả ............................................ 49 2.3.3. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với tội vi phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ........................................................................ 51 Chương 3: thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở việt nam hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ............................... 54 3.1. Thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay ...................................................................................... 54 5
  5. 3.1.1. Tình hình xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và thực tiễn xét xử tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp .................. 54 3.1.2. Nguyên nhân của tình hình xâm phạm và thực tiễn xét xử tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, xu hướng phát triển tội phạm này trong thời gian tới ................................................. 63 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ....................... 73 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế - xã hội................ 73 3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 74 3.2.3. Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ............. 78 3.2.4. Nâng cao nhận thức của nhân dân về sở hữu công nghiệp 81 3.2.5. Phát triển hợp tác quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ................................................ 82 KếT luận................................................................................................ 84 DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO ....................................................... 86 6
  6. Danh mục các bảng Bảng 2.1: Sự khác nhau giữa tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (trang 48) Bảng 2.2: Sự khác nhau giữa tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và các tội sản xuất, buôn bán hàng giả (trang 50) Bảng 2.3: Sự khác nhau giữa tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và tội vi phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (trang 52) Bảng 3.1: Số liệu khiếu nại về vi phạm quyền sở hữu công nghiệp từ năm 2003 đến năm 2009 (trang 54) Bảng 3.2: Số liệu thống kê tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp từ năm 2003 đến năm 2009 (trang 58) 7
  7. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế kỷ XXI là thế kỷ mà thế giới "tiếp tục có những biến đổi sâu sắc, nền khoa học và nhất là khoa học công nghệ sẽ có bước phát triển nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật và quan trọng trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất" [45]. Xu thế toàn cầu hóa (quốc tế hóa) đã trở thành một xu thế khách quan, tất yếu lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Với việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đất nước ta đang có những bước tiến đáng kể đặc biệt là trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ bởi lẽ đây là lĩnh vực phát triển hết sức năng động, nhạy cảm, mang tính chất đặc thù và có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Do vậy, vấn đề bảo hộ và thực thi quyền sở hữu sở hữu công nghiệp - một trong những nội dung cơ bản của quyền sở hữu trí tuệ là rất quan trọng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của đất nước phát triển một cách lành mạnh, hạn chế những yếu tố tiêu cực có thể nảy sinh của quá trình toàn cầu hóa. Có thể nói, hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền sở hữu công nghiệp nói riêng ở nước ta được bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỷ XX nhưng so với các nước phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Hà Lan thì chúng ta vẫn đi sau cả một chặng đường dài (ở các nước này, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã được điều chỉnh bằng pháp luật từ hàng trăm năm nay). Mặc dù thời gian gần đây, nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc ban hành các văn bản pháp luật để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (chẳng hạn như việc cho ra đời Luật chuyên biệt về sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2009) song đánh giá 1
  8. một cách tổng quan thì pháp luật nước ta vẫn còn thiếu tính đồng bộ, chồng chéo nên dẫn tới việc thực thi và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng như quyền sở hữu công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Hiện tượng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp và các quyền tương đương khác diễn ra rất phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau mà chưa có cách nào ngăn chặn một cách hiệu quả. Về phía chủ thể có đối tượng cần được bảo hộ, phần lớn lại chưa nhận thức đẩy đủ, rõ ràng tầm quan trọng của quyền sở hữu công nghiệp nên đã có phần lơi là, mất cảnh giác trong việc bảo vệ quyền lợi của chính mình. Mặt khác, nước ta đã tham gia cũng như ký kết nhiều hiệp ước đa phương, song phương về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp như: Công ước Paris năm 1883 về sở hữu công nghiệp; Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ năm 1994 (Hiệp định TRIPS); Thoả ước năm 1891 về đăng ký nhãn hiệu hàng hóa; Hiệp định về hợp tác bằng sáng chế (PTC) năm 1970; Hiệp định Việt Nam - Thuỵ Sĩ về sở hữu trí tuệ ngày 7/7/1999; Thoả thuận hợp tác giữa Việt Nam - Nhật Bản về việc triển khai dự án IICA tài trợ cho lĩnh vực quản lý sở hữu công nghiệp tại Việt Nam ngày 01/02/1999; Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 13/7/2000, trong đó có đề cập đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ… Ngoài ra, nước ta còn tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực chẳng hạn như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ASEAN …Do vậy, đòi hỏi quyền sở hữu công nghiệp cần được quan tâm một cách thiết thực và đúng mức hơn nữa. Bởi những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam” là cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta về sở hữu trí tuệ, đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các hành vi xâm phạm và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhằm mục tiêu đưa đất nước ta hòa nhập nhanh vào công cuộc hội nhập quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu 2
  9. Với vai trò ngày càng quan trọng của quyền sở hữu công nghiệp nên việc nghiên cứu tội phạm này ở các mức độ khác nhau đã được một số luật gia trong nước quan tâm nghiên cứu song số lượng chưa nhiều: Có một số bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành chẳng hạn như: Bài “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật hình sự” đăng trên Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 3/2004 của GS. TSKH Lê Cảm; bài “Tội phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và một số ý kiến về sửa đổi Bộ luật hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số 3/2007 của TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi; bài “Các quy định của Bộ luật hình sự về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9/2008 của Ths. Lê Việt Long.v.v. . Dưới dạng công trình nghiên cứu khoa học có luận án tiến sĩ vừa được bảo vệ tháng 3/2009 tại Viện Nhà nước và Pháp luật của tác giả Nguyễn Đức Nga với đề tài “Đấu tranh phòng, chống các loại tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay” nhưng dưới góc độ tội phạm học. Ngoài ra còn được đề cập ít nhiều trong các sách chuyên khảo, giáo trình như: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2003; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2005.v.v. Các công trình và bài viết này, đã bước đầu đi vào phân tích các quy định cụ thể trong pháp luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng như những căn cứ áp dụng và những kiến giải lập pháp cụ thể cho các quy phạm này. Tuy nhiên, khái quát chung thì thấy rằng tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới chỉ dừng lại ở góc độ giới thiệu một cách cơ bản về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung hoặc nghiên cứu kết hợp với một số tội phạm sở hữu trí tuệ khác hoặc chỉ đi sâu nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học... mà chưa có công trình nào đề cập một cách toàn diện, có hệ thống dưới góc độ pháp luật hình sự với tên đề tài “Tội xâm phạm quyền sở 3
  10. hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam” ở cấp độ một luận văn thạc sĩ hay ở cấp độ khác cao hơn... cho nên rõ ràng việc nghiên cứu đề tài này vẫn là cần thiết và mang tính thời sự sâu sắc. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam và việc xử lý tội phạm này trong thực tiễn, từ đó tìm ra những bất cập để đề xuất những kiến giải lập pháp cũng như những giải pháp cụ thể phục vụ cho công tác đấu tranh phòng và chống có hiệu quả loại tội phạm này ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu nêu trên đã đặt ra cho luận văn các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: Thứ nhất, từ những nghiên cứu, phân tích về sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng đối với việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm cũng như các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, phân biệt nó với một số loại tội phạm khác, luận văn tập trung vào việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của tội phạm này theo luật hình sự Việt Nam hiện hành. Thứ hai, chỉ ra thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay nhằm lý giải cho sự cần thiết phải hoàn thiện về mặt pháp luật thực định và đề xuất các giải pháp để phòng, chống có hiệu quả tội phạm này. 3.3. Đối tượng nghiên cứu 4
  11. Đối tượng nghiên cứu của luận văn có thể kể ra đó là: khái niệm, các đặc điểm, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác gần nó, đánh giá thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tìm ra nguyên nhân và đưa ra những kiến nghị thiết thực, cụ thể cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo luật hình sự Việt Nam hiện hành đồng thời cũng có đề cập đến một số quy phạm của luật chuyên biệt về sở hữu trí tuệ, luật dân sự, hành chính nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra. Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2009. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ cơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật của phương pháp luận Mác - Lênin. Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm sở hữu trí tuệ nói chung và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Đồng thời, căn cứ vào các văn bản pháp luật và những giải thích có tính chất thống nhất về đường lối xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật liên quan đến tội phạm này, những số liệu thống kê thực tế của ngành Tòa án, Cục Sở hữu trí tuệ… luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, logic, thống kê, lịch sử, so sánh.v.v. để làm sáng tỏ các vấn đề tương ứng được lần lượt đưa ra nghiên cứu. 5. ý nghĩa của luận văn 5
  12. Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp qua đó khẳng định vai trò của các quy định này trong quá trình thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần vào việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, khắc phục tình trạng hành chính hóa tràn lan những hành vi xâm phạm đã vượt ra ngoài phạm vi điều chỉnh của các ngành luật phi hình sự, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự. Chương 2: Các quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Chương 3: Thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. 6
  13. Chương 1: một số vấn đề chung về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự 1.1. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và ý nghĩa của việc ghi nhận tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Để làm rõ khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, việc trước tiên ta cần phải làm sáng tỏ những khái niệm cơ bản có liên quan như: tài sản trí tuệ, sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp.v.v. Yêu cầu này buộc ta phải tìm về với các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật chuyên ngành về sở hữu trí tuệ. Khái niệm tài sản trí tuệ: Trước những năm 90 của thế kỷ XX người ta quan niệm tài sản chỉ bao gồm tiền tệ và vật chất (gọi chung là tài sản hữu hình). Nhưng ngày nay khi nền kinh tế tri thức đã phát triển, khái niệm tài sản đã có sự thay đổi đáng kể nó không chỉ bao gồm có tiền, vật chất (tài sản hữu hình) mà còn bao gồm cả tài sản vô hình trong đó có tài sản trí tuệ. Chính bởi mang trong mình thuộc tính vô hình nên tài sản trí tuệ không thể được xác định bằng các đặc điểm vật chất mà cần được thể hiện ra bên ngoài theo một cách thức nào đó với một hình thức cụ thể để chúng ta có thể nhận biết được. Theo từ điển Tiếng Việt thì: "trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định. Đó là tài sản riêng của con người mà không một loài vật nào có được" [57]. Do vậy, hiểu một cách đơn giản: Tài sản trí tuệ là sản phẩm của hoạt động trí tuệ, tồn tại dưới các dạng thông tin, tri thức. Theo Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì tài sản trí tuệ bao gồm: tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, bản ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa, sáng chế, kiểu dáng công 7
  14. nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh và giống cây trồng… Tài sản trí tuệ có khả năng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần vô cùng to lớn cho chủ sở hữu tài sản cũng như người chiếm hữu, sử dụng nó. Khái niệm sở hữu trí tuệ: Trong khoa học pháp lý hiện đại, có khá nhiều khái niệm khác nhau về sở hữu trí tuệ. Nhưng theo cách hiểu chung nhất thì sở hữu trí tuệ là sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với các tài sản trí tuệ - kết quả từ việc tư duy, sáng tạo của con người. Đây là khái niệm pháp lý chỉ sự bảo hộ của Nhà nước đối với các thành quả lao động do hoạt động của trí tuệ mang lại. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ: Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) giải thích quyền sở hữu trí tuệ là: "sáng tạo trí óc: sáng chế, tác phẩm văn học và nghệ thuật, biểu tượng, tên, ảnh và các thiết kế dùng trong thương mại. Quyền sở hữu trí tuệ được phân làm hai loại là sở hữu công nghiệp và bản quyền". Vậy hiểu một cách chung nhất, quyền sở hữu trí tuệ chính là quyền của cá nhân, tổ chức đối với các sản phẩm trí tuệ do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Là độc quyền được công nhận cho phép họ sử dụng hay khai thác các khía cạnh thương mại của sản phẩm trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ có điểm giống với quyền sở hữu tài sản thông thường ở chỗ nó cũng phải chịu những hạn chế nhất định về thời gian, hiệu lực bảo hộ và phạm vi lãnh thổ… Khái niệm sở hữu công nghiệp: Sở hữu công nghiệp là một cụm từ mang tính chất ước lệ, tượng trưng, có nguồn gốc từ châu Âu. Trải qua khá nhiều cuộc tranh luận trong giới các nhà khoa học, giờ đây cụm từ này ngày càng trở nên phổ biến, được các quốc gia dần dần công nhận và sử dụng một cách rộng rãi. 8
  15. Sở hữu công nghiệp có thể được hiểu là sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với các thành quả nghiên cứu triển khai có thể áp dụng công nghiệp. Các "thành quả" này còn gọi là các đối tượng sở hữu công nghiệp và nó bao gồm: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp: Tại Điều 780 Bộ luật dân sự năm 1995 được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 có ghi nhận: "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định". Khoản 4 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì đưa ra định nghĩa pháp lý đầy đủ, cụ thể và chính xác hơn. Theo đó, quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là: "Quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh". Như vậy, so với Bộ luật dân sự năm 1995 thì Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có những thay đổi đáng kể về đối tượng sở hữu công nghiệp cũng như về chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp. Đồng thời, các định nghĩa pháp lý riêng, tương ứng với từng đối tượng sở hữu công nghiệp cũng có những điểm mới cơ bản, phù hợp hơn với pháp luật thế giới. Một số đối tượng sở hữu công nghiệp trước đây như giải pháp hữu ích, tên gọi xuất xứ hàng hóa đã không còn được đề cập mà thay vào đó là các đối tượng: tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn. 9
  16. Các đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật Việt Nam hiện hành ghi nhận và bảo vệ cụ thể như sau: - Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. - Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này. - Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (gọi chung là thiết kế bố trí) là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn. Trong đó "mạch tích hợp bán dẫn" được hiểu là "sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm thực hiện chức năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và mạch vi điện tử". - Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. + Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. + Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. + Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau. 10
  17. + Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam. - Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh (khu vực kinh doanh là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng). - Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. - Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. [28] Căn cứ để chủ thể xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, thiết kế bố trí được dựa trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là Cục sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học & Công nghệ) hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Riêng đối với nhãn hiệu nổi tiếng thì quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp nêu trên có các quyền cơ bản như: sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ; ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp; định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật. Cũng phải nhấn mạnh rằng, trong số các hành vi xâm phạm đến đối tượng sở hữu công nghiệp nêu trên thì chỉ có hành vi xâm phạm nhãn hiệu, chỉ dẫn đại lý với quy mô nhất định mới được luật hình sự điều chỉnh (tại 11
  18. Điều 171 Bộ luật hình sự) còn hành vi xâm phạm tới nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý nhưng chưa đến mức xử lý bằng chế tài hình sự hoặc các hành vi xâm phạm đến đối tượng sở hữu công nghiệp khác như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, bí mật kinh doanh… thì được xử lý chủ yếu bằng biện pháp hành chính hay biện pháp dân sự. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: Mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) không ghi nhận định nghĩa pháp lý về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Song, từ những khái niệm liên quan được phân tích ở trên đồng thời xuất phát từ khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cánh cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa" cho phép ta đưa ra khái niệm về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp như sau: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm tới nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý của chủ thể (cá nhân, tổ chức) khác đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Từ khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, có thể nhận thấy tội phạm này có bốn đặc điểm cơ bản: 12
  19. Thứ nhất, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi nguy hiểm cho xã hội: Đó là hành vi gây nên (hoặc có khả năng thực tế) gây nên thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được pháp luật hình sự bảo vệ. Đây là đặc điểm thể hiện bản chất xã hội và thuộc tính khách quan của tội phạm, là căn cứ để phân biệt hành vi là tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Thứ hai, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi bị luật hình sự cấm (còn gọi là tính trái pháp luật hình sự của tội phạm): Đây là đặc điểm pháp lý (hình thức) của các tội phạm được quy định trong luật hình sự nói chung và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Tính trái pháp luật hình sự thể hiện ở việc Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại Điều 171 đã ngăn cấm việc thực hiện tội phạm này bằng cách đe doạ áp dụng chế tài hình sự (hình phạt) đối với người thực hiện hành vi phạm tội có thể là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn.v.v. Đặc điểm này lại một lần nữa cụ thể hóa Điều 2 Bộ luật hình sự hiện hành: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" và cụ thể hóa cho một nguyên tắc cơ bản của luật hình sự đó là nguyên tắc: "Nullum crimen, nulla poena sine lege" (không có tội phạm, không có hình phạt nếu không được luật quy định). Thứ ba, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý: Cũng giống như các tội phạm khác, chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhất thiết phải là người ở trong trạng thái bình thường (tức là không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất hoàn toàn khả năng 13
  20. nhận thức hoặc điều khiển hành vi), có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực tế cũng như tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện và điều khiển được đầy đủ hành vi đó. Đồng thời, tại thời điểm thực hiện tội phạm, người này còn phải đạt đến một độ tuổi nhất định mà luật hình sự quy định phải chịu trách nhiệm hình sự. Cùng với năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì "lỗi" cũng là một đặc điểm chủ quan và mang tính bắt buộc đối với mọi cấu thành tội phạm. ở tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, lỗi của chủ thể khi thực hiện tội phạm là lỗi cố ý: người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi do mình gây nên nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả xảy ra. Thứ tư, tội phạm này xâm phạm đến quyền sở hữu công nghiệp đối với hai đối tượng sở hữu công nghiệp cụ thể là nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại: (Đặc điểm này sẽ được đi sâu làm rõ tại Chương 2 của luận văn). 1.1.3. ý nghĩa của việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam Việc ghi nhận tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam mang lại những ý nghĩa thiết thực: Một là, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể trong xã hội, khuyến khích khả năng sáng tạo các tài sản trí tuệ, tạo động lực để phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật và hướng tới một môi trường kinh doanh lành mạnh. Hai là, việc quy định tội phạm này trong luật hình sự đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cũng như nâng cao hơn nữa hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống các xâm phạm về sở hữu công nghiệp nói chung và tội xâm 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0