Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
lượt xem 6
download
Mục tiêu của đề tài là tìm ra những luận cứ khoa học và căn cứ thực tiễn cho việc xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự một cách đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất. Đồng thời góp phần vào công cuộc áp dụng hoàn thiện các chế định pháp lý về bồi thường thiệt hại nhà nước nói chung và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT THANG THANH HOA XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VÀ MỨC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT THANG THANH HOA XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VÀ MỨC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu HÀ NỘI - 2010
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ảnh MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VÀ 7 MỨC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Lịch sử hình thành 7 1.1.1. Sơ lược pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan 7 trong hoạt động tố tụng hình sự một số nước trên thế giới 1.1.2. Sơ lược về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị 10 oan trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam 1.1.3. Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan 13 trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam 1.2. Thiệt hại, xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị 18 oan trong hoạt động tố tụng hình sự 1.2.1. Thiệt hại và xác định thiệt hại trong Bồi thường thiệt hại 18 ngoài hợp đồng 1.2.1.1. Thiệt hại 18 1.2.1.2. Thiệt hại về vật chất 18 1.2.1.3. Thiệt hại về tinh thần 23 1.2.2. Sự độc lập của các loại thiệt hại 29 1.2.3. Xác định thiệt hại 30
- 1.2.4. Mức bồi thường 31 1.2.5. Xác định thiệt hại và mức bồi thường trong trách nhiệm bồi 33 thường thiệt hại nhà nước 1.2.6. Mối quan hệ giữ xác định thiệt hại và mức bồi thường 35 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH THIỆT 39 HẠI VÀ MỨC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2.1. Căn cứ xác định thiệt hại và mức bồi thường 39 2.2. Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan 41 trong hoạt động tố tụng hình sự 2.2.1. Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan do 41 tổn thất về tinh thần 2.2.2. Xác định thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan chết 46 2.2.3 Xác định thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan 51 tổn hại về sức khỏe 2.2.4. Xác định thiệt hại trong trường hợp tài sản bị xâm phạm 55 2.2.5. Trả lại tài sản 60 2.2.6. Xác định thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm 63 sút của người bi oan 2.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại cho người bị oan 65 2.3.1. Nguyên tắc bồi thường kịp thời, công khai, đúng pháp luật 65 2.3.2. Nguyên tắc thỏa thuận, thương lượng 68 2.3.3. Nguyên tắc được trả một lần bằng tiền (trừ trường hợp pháp 68 luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác) 2.3.3. Nguyên tắc xác định thiệt hại và mức bồi thường phù hợp 72 với thực tiễn 2.4. Phương thức xác định thiệt hại và mức bồi thường 73
- Chương 3: TÌNH HÌNH ÁP DỤNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC 77 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VÀ MỨC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về xác định thiệt hại và mức 77 bồi thường cho người bị oan 3.2. Thực tiễn xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị 84 oan trong hoạt động tố tụng hình sự ở việt nam qua một số vụ án oan điển hình 3.2.1. Vụ án oan của các doanh nhân 84 3.2.2. Vụ án oan - bồi thường thiệt hại theo quy định Luật trách 92 nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước năm 2009 3.3. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về xác 96 định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam KẾT LUẬN 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
- Danh môc c¸c ¶nh Sè hiÖu Tªn ¶nh Trang ¶nh 1.1 Bà Yến chia sẻ với đôi vợ chồng bị oan trong buổi công 15 khai xin lỗi 3.1 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đọc lời 95 xin lỗi công khai trước toàn thể nhân dân, chính quyền địa phương, cơ quan cô giáo Đức công tác ngày 29/9/2010
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình giải quyết vụ án hình sự luôn đòi hỏi sự khách quan công bằng thể hiện chính sách đấu tranh, phòng ngừa tội phạm của Đảng và Nhà nước ta: Mọi tội phạm đều bị phát hiện kịp thời, xử lý công minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Những năm qua bên cạnh thành tựu đạt được thì tình trạng làm oan người vô tội vẫn xảy ra, có chiều hướng gia tăng, phức tạp. Làm oan người vô tội đồng nghĩa với việc bỏ lọt tội phạm, lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, kỷ cương pháp luật bị coi thường dẫn đến làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nền công lý xã hội chủ nghĩa. Việc khắc phục, bồi thường cho người bị oan do các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra là cần thiết nhằm khôi phục thiệt hại vật chất, tinh thần cho người bị oan, trả lại công bằng xã hội. Mặc dù đã có Nghị quyết 388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước đã có hiệu lực, nhưng việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan còn nhiều bất cập, thiệt hại của người bị oan chưa được bù đắp thỏa đáng, quyền và lợi ích của họ chậm được khắc phục đã tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, các cơ quan tư pháp đã góp phần tích cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp luật và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tuy nhiên việc xử lý oan sai trong hoạt động điều tra, truy bắt, giam giữ, truy tố, xét xử các vụ án hình sự vẫn đang là vấn đề bức xúc, đáng lo ngại đặc biệt là việc áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong thực tiễn chưa có hiệu quả. 1
- Chính vì vậy, việc xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự là rất quan trọng trong quá trình hoàn thiện về mặt pháp lý và áp dụng trong thực tiễn chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đã có một số công trình khoa học, bài viết, chuyên đề liên quan đến nội dung của đề tài như: - Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Mai Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự". Luận văn bao gồm nhiều nội dung, trong đó có những nội dung liên quan đến đề tài của tác giả như: tiếp cận vấn đề trách nhiệm dân sự, khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và đặc điểm pháp lý. - Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Thị Bích Loan: "Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín". - Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Mai Anh: "Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra". Nội dung của luận án đề cập đến nhiều vấn đề có tính tham khảo quan trọng cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu của tác giả như: đặc điểm, nội dung, bản chất của trách nhiệm bồi thường nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra khi tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. - Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Thái Phương: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước". - Sách chuyên khảo "Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng" của TS Phùng Trung Tập. Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết của các tác giả trên các tạp chí khoa học liên quan đến vấn đề pháp lý như: Bài viết "Chế định bồi thường thiệt hại 2
- cho người bị oan - lý luận và thực tiễn" của tác giả Ngô Văn Hiệp; Bài viết "Hoàn thiện pháp luật về minh oan và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự" của TS. Nguyễn Ngọc Chí; Bài viết "Khắc phục tình trạng oan, sai trong tố tụng hình sự" của ThS. Bùi Kiên Điện; Bài viết "Vấn đề oan sai trong tố tụng hình sự" của ThS. Lê Thị Thúy Nga hay bài viết "Thực tiễn áp dụng Nghị quyết 388 trong việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan và một số kiến nghị" của tác giả Đinh Văn Quế và Thanh Nga…và còn khá nhiều bài viết của nhiều tác giả về vấn đề oan sai trong tố tụng hình sự. Mỗi bài viết đều thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá ở những góc độ khác nhau về vấn đề này. Nhìn chung các đề tài đã đề cập đến vấn đề cơ bản của Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, đi sâu phân tích các trường hợp, các nội dung trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xem xét, đánh giá một cách khái quát vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước, phân tích, đánh giá các khái niệm liên quan đến trách nhiệm bồi thường nhà nước, phân tích vấn đề trách nhiệm bồi thường đối với oan sai trong tố tụng… Tuy nhiên các đề tài này hoặc đề cập ở dạng khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước một cách chung chung hoặc đi sâu phân từng vấn đề nhỏ của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước. Do vậy, đề tài "Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự" là một đề tài mới chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu, phân tích cho đến thời điểm hiện tại. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Mục đích: - Tìm ra những luận cứ khoa học và căn cứ thực tiễn cho việc xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự một cách đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất. Đồng thời góp phần vào công cuộc 3
- áp dụng hoàn thiện các chế định pháp lý về bồi thường thiệt hại nhà nước nói chung và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Nhiệm vụ: - Xác định rõ thiệt hại và mức bồi thường trong từng trường hợp cụ thể - Làm rõ mối liên hệ giữa quy định của pháp luật và áp dụng trong thực tiễn các quy định về xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. - Làm rõ tầm quan trọng của mối liên hệ giữa thiệt hại và mức bồi thường thỏa đáng cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. - Đưa ra một số kiến giải nhằm hoàn thiện các chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước đặc biệt là bồi thường thiệt hại cho người bị oan do hoạt động tố tụng hình sự gây ra ở Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu "Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự" cũng là một trong những đề tài nghiên cứu, phân tích về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay còn gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà xét về bản chất thì bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự, mà hậu quả pháp lý của nó về mặt tài sản được các bên thỏa thuận thông qua thương lượng hoặc do Tòa án quyết định trong trường hợp thương lượng không thành, một bên tiến hành khởi kiện. Đây là một dạng của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có chủ thể đặc biệt - một bên là Cơ quan nhà nước (Cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại) và một bên là công dân. Theo đó, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại buộc phải khắc phục hậu quả bằng cách phục hồi danh dự, bồi thường những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại. 4
- Tuy nhiên, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ bồi thường cho người bị thiệt hại những thiệt hại hợp lý được nhà nước quy định dựa trên những căn cứ về thiệt hại, có hành vi vi phạm pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, người gây thiệt hại có lỗi khi thi hành công vụ. Vậy những khoản bồi thường nào gọi là hợp lý? Có những thiệt hại của người bị oan có thể định giá bằng tiền nhưng cũng có những thiệt hại việc bồi thường bằng tiền chỉ mang tính tượng trưng, khắc phục được phần nào những tổn thất mà người bị oan đã phải gánh chịu. Cách thức xác định những thiệt hại như thế nào? Sự cần thiết của việc làm rõ các quy định này có ý nghĩa đối với thực tiễn giải quyết bồi thường oan sai ở nước ta hiện nay? Mối quan hệ giữa việc xác định thiệt hại chính xác đúng đắn hợp lý với mức bồi thường thỏa đáng góp phần bảo đảm công bằng xã hội ra làm sao? Các quy định của pháp luật hiện hành về xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan hiện nay ở Việt Nam có tính áp dụng thực tiễn hay không? Tất cả những câu hỏi trên sẽ một phần nào được tác giả phân tích, giải đáp trong đề tài này, góp một phần vào công trình nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước và khả năng áp dụng trong thực tiễn giải quyết bồi thường oan sai hiện nay của nước ta. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của Chủ ` nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó là các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê… Tất cả các phương pháp này đều được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo góp phần quan trọng trong quá trình hình thành và hoàn thành đề tài của tác giả. 6. Ý nghĩa và điểm mới của đề tài - Đưa ra và luận giải sự cần thiết và tính hợp lý của việc xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại nhà nước nói chung và cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. 5
- - Có những luận cứ mới về mối quan hệ chặt chẽ giữa xác định thiệt hại và mức bồi thường và lý giải vấn đề tại sao khi nghiên cứu về vấn đề này không thể tách biệt việc xác định thiệt hại và mức bồi thường. Đồng thời có những luận cứ so sánh các quy định pháp luật về mặt luật thực định và áp dụng trong thực tiễn về sự phù hợp, không phù hợp của việc xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan (bị gây thiệt hại). - Có những đánh giá về sự phát triển các quy định của pháp luật về vấn đề này qua các thời kỳ xây dựng pháp luật. - Đưa ra một số nhận xét và đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Chương 2: Thực trạng pháp luật về xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Chương 3: Tình hình áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam. 6
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VÀ MỨC BỒI THƢỜNG CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH 1.1.1. Sơ lƣợc pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước nói chung và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự nói riêng là một vấn đề còn rất mới cả về mặt khoa học lẫn thực tiễn pháp luật thực định trên thế giới. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, từ quan điểm chủ quyền tuyệt đối của Nhà nước nên quan niệm phổ biến trên thế giới được biết đến vẫn là quan niệm về quyền miễn trừ của Nhà nước, theo đó "vua không thể làm gì sai" và vì vậy không phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Về mặt lịch sử, xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước giành được độc lập, nhiều cuộc cách mạng dân chủ đòi quyền lợi chính đáng kể cả trong trường hợp lợi ích bị xâm phạm bởi cơ quan công quyền. Do quá trình lịch sử như vậy mà trong Hiến pháp của nhiều nước đã ghi nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và nhiều quốc gia trên thế giới đã có Luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đặc biệt là một số nước đã ban hành văn bản pháp lý cơ bản về đền bù hình sự hay đền bù oan sai trong hoạt động tố tụng hình sự. Nhật Bản là nước mà pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước rất hiệu quả. Nhật Bản ban hành Hiến pháp năm 1947, tại Điều 17 có quy định: "Mọi người có quyền yêu cầu Nhà nước hoặc cơ quan công quyền bồi thường thiệt hại mà họ phải gánh chịu do những hành vi trái pháp luật của 7
- các quan chức nhà nước gây ra theo quy định của pháp luật". Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để người dân Nhật Bản có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình và cũng như cơ sở hiến định quan trọng để xây dựng các đạo luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Cùng trong năm 1947, Nghị viện Nhật Bản đã thông qua Luật Bồi thường nhà nước. Đạo luật này tuy chỉ có sáu (6) điều luật nhưng đã khẳng định được ý nghĩa to lớn của nó. Nội dung cụ thể của Luật bao gồm: Điều 1: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi hoàn của công chức nhà nước (hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra do thực hiện công quyền); Điều 2: Trách nhiệm bồi thường trong trường hợp có thiệt hại xảy ra đối với người dân do những sai sót trong việc xây dựng hoặc quản lý các con đường, sông và các phương tiện công cộng khác (hay trách nhiệm bồi thường xảy ra do khiếm khuyết trong xây dựng và quản lý công trình công cộng); Điều 3: Trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể trong hai trường hợp quy định tại hai trường hợp trên; Điều 4: Việc áp dụng đồng thời Bộ luật Dân sự khi giải quyết quan hệ bồi thường nhà nước; Điều 5: Việc áp dụng các đạo luật khác trong trường hợp những đạo luật đó có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong lĩnh vực riêng biệt; Điều 6: Về nguyên tắc có đi có lại, cụ thể là trường hợp người nước ngoài bị thiệt hại thì trường hợp nào sẽ được bồi thường. Các khiếu kiện yêu cầu Nhà nước bồi thường được coi là các vụ kiện dân sự nên các quy định của Bộ luật Dân sự Nhật Bản sẽ được viện dẫn áp dụng trong trường hợp cần thiết. Luật Bồi thường nhà nước của Nhật Bản tuy đơn giản nhưng việc áp dụng lại rất linh hoạt vì Tòa án Nhật Bản có thẩm quyền trong việc giải thích và áp dụng pháp luật khi giải quyết các vụ việc cụ thể. Bước đột phá trong vấn đề đền bù nhà nước được đánh dấu vào năm 1950, Nghị viện Nhật Bản tiếp tục ban hành Luật Đền bù hình sự, theo đó, "quy định trách nhiệm đền bù tổn thất của Nhà nước đối với những người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự - một điểm cần lưu ý là đạo luật này chỉ áp dụng cho trường hợp mà nạn nhân đã được chuyển 8
- sang giai đoạn xét xử ở Tòa án và được Tòa án phán quyết là trắng án" [17]. Một điểm cần lưu ý khác là đạo luật này nhằm mục đích áp dụng cho những hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng mà không xem xét đến yếu tố lỗi của người trực tiếp thực hiện hành vi tố tụng. Theo giải thích của các chuyên gia Nhật Bản thì đây là một trong những đạo luật nhằm áp dụng cho trường hợp: hành vi cần thiết phải làm và hành vi này không trái pháp luật; hành vi cần thiết mà Nhà nước đã thực hiện dù cần thiết và hợp pháp song không thể tránh được việc gây ra một tổn thất cho ai đó; việc gây ra tổn thất được coi như việc một người chịu thiệt thòi vì một lợi ích chung và vì vậy Nhà nước có biện pháp, chính sách đền bù thỏa đáng. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Bộ Tư pháp Nhật Bản còn ban hành Quy tắc về bồi thường cho người bị tình nghi, theo đó những người là nạn nhân của hoạt động điều tra, truy tố nhưng được chấm dứt hoạt động tố tụng mà chưa chuyển sang giai đoạn xét xử ở Tòa án thì cũng sẽ được đền bù. Một quốc gia châu Âu có hệ thống pháp luật rất phát triển là Cộng hòa Liên bang Đức thì nước này không có một hệ thống pháp luật rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Năm 1981, Cộng hòa liên bang Đức có ban hành Luật về trách nhiệm Nhà nước; tuy nhiên, sau đó đạo luật này bị tuyên là trái Hiến pháp và vì vậy không có hiệu lực thi hành. Hiện nay việc xét xử của Tòa án đối với các yêu cầu bồi thường nhà nước được thực hiện trên cơ sở Điều 34 Hiến pháp Đức và Điều 839 Bộ luật Dân sự Đức về trách nhiệm của công chức do vi phạm trách nhiệm công vụ. Trung Quốc - nước láng giềng của Việt Nam cũng có hệ thống pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đã được định hình ổn định. Văn bản pháp luật hiện nay được áp dụng để giải quyết các yêu cầu bồi thường nhà nước của Trung Quốc là Luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước được Quốc hội Trung Quốc thông qua năm 1994. Đạo luật này quy định trách nhiệm của Nhà nước Trung Quốc trong trường hợp các cơ quan nhà nước 9
- gây thiệt hại trái pháp luật cho cá nhân, tổ chức; phạm vi áp dụng của đạo luật này loại trừ lĩnh vực lập pháp, theo đó chỉ những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hành chính và tư pháp hình sự mới thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Khác với Luật Bồi thường nhà nước của Nhật Bản, Luật của Trung Quốc lại quy định rất chi tiết và cụ thể về các vấn đề, ví dụ: các trường hợp được bồi thường do xâm phạm quyền nhân thân (Điều 3); các trường hợp được bồi thường do xâm phạm về tài sản (Điều 4); các trường hợp Nhà nước không phải bồi thường (Điều 5) [18] v.v.... Ngoài ra, để áp dụng Luật này trên thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc và Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung Quốc cũng đã có văn bản hướng dẫn để thi hành. 1.1.2. Sơ lƣợc về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam Việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã thể hiện từ lâu và được ghi nhận tại Hiến pháp. Cụ thể, Điều 29 Hiến pháp 1959 quy định "... Người bị thiệt hại vì hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước có thẩm quyền được bồi thường" [27]. Điều 73 Hiến pháp 1980 quy định: "... Mọi hành động xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường" [28]. Đoạn 2 Điều 72 Hiến pháp 1992 quy định: "Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh" [30]. Bộ luật Dân sự 1995, Điều 624 quy định về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, theo đó: Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách 10
- nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền đó có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ [31]. Cụ thể hóa quy định của Bộ luật Dân sự, ngày 3/5/1997 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/CP về giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Ngay sau khi Nghị định 47/ CP ra đời, để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị định 47/CP, các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực có liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn quan trọng: Ngày 4/6/1998 Ban Tổ chức - Cán bộ Chính Phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã ban hành Thông tư số 54/1998 TT-TCCP hướng dẫn thực hiện một số nội dung Nghị định 47/CP; ngày 30/3/1998 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 38/1998/TT-BTC hướng dẫn việc lập dự toán ngân sách nhà nước cho bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức, người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Trong những năm gần đây vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra được Đảng ta đặc biệt quan tâm, cụ thể: Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị chỉ rõ: Cùng với việc phát hiện và chú trọng giải quyết kịp thời các vụ án có dấu hiệu oan, sai, cần khẩn trương nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để bồi thường thiệt hại với các trường hợp bị oan, sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra... Việc bồi thường thiệt hại cần thực hiện đúng trình tự thủ tục đối với từng trường hợp cụ thể; những tài sản đã bị tịch thu, kê biên sai thì cần hoàn trả ngay; cần làm rõ cơ sở pháp lý, trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân; phân định trách nhiệm từng cơ quan và cá nhân tiến hành tố tụng và mức độ thiệt hại về dân sự do việc làm oan sai gây ra... [10]. 11
- Nghị quyết số 08 -NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị yêu cầu "... khẩn trương ban hành và thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp oan, sai trong hoạt động tố tụng;nghiên cứu xây dựng quỹ bồi thường thiệt hại về tư pháp..." [11]. Bộ luật Tố tụng Hình sự 2004 sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 24 Bộ luật Tố tụng Hình sự 1988 thành hai nguyên tắc độc lập là nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (Điều 29) và nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (Điều 30). Quán triệt đầy đủ yêu cầu Chỉ thị số 53-CT/TW và Nghị quyết số 08, ngày 17/3/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 388/2003/ NQ-UBTVQH11 bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra. Ngày 25/3/2004 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 01/2004/ TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC hướng dẫn việc thực hiện Nghị quyết 388 (sau đây gọi tắt là Thông tư 01). Ngày 13/5/2004, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 04 về việc triển khai thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự và yêu cầu Viện kiểm sát các cấp tiến hành tổng rà soát lập danh sách những người bị oan thuộc trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm sát nhân dân. Tiếp đố, ngày 28/5/2004 Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có văn bản hướng dẫn Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc tổng rà soát, ngày 1/6/2004 đã có hướng dẫn thống nhất mở sổ thụ lý vụ việc giả quyết đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại người bị oan và hướng dẫn về các trình tự thủ tục giải quyết bồi thường; Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 72/2004/KHXX ngày 21/4/2004 hướng dẫn cụ thể hơn về thẩm 12
- quyền và các thủ tục bồi thường của ngành tòa án theo quy định của Nghị quyết 388; Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 18/2004/TT-BCA ngày 9/11/2004 hướng dẫn bồi thường thiệt hại cho các trường hợp bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc Công an nhân dân gây ra. Bộ luật Dân sự năm 2005 đã tiếp tục ghi nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cán bộ công chức và người có thẩm quyền của cơ quan tố tụng tại Điều 619; Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ (Điều 620). Nhằm khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại cho người bị oan, sai nói chung và cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, Quốc hội khóa 11 đã ban hành Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2009. Trong đó quy định khá chi tiết các nguyên tắc, thủ tục bồi thường, vấn đề hoàn trả, đặc biệt là vấn đề xác định thiệt hại và mức bồi thường... Như vậy, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà nước Việt Nam nói chung và bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng đã manh nha hình thành ngay từ những ngày đầu tiên thành lập nước thông qua một số quy định trong Hiến pháp. Song chỉ đến khi Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời có hiệu lực và sự ra đời Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 2009 mới điều chỉnh một cách toàn diện quan hệ bồi thường nhà nước, khắc phục những hạn chế của những văn bản trước đó. 1.1.3. Xác định thiệt hại và mức bồi thƣờng cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam Trước khi Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời và nay là Bộ Luật dân sự năm 2005, Cho dù không được quy định một cách cụ thể rõ ràng trong bất kỳ một văn bản pháp luật nào nhưng nội dung vấn đề xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan vẫn được hiểu trên các nguyên tắc, quy tắc cơ bản của Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 13
- Theo Bộ luật dân sự năm 2005, Chương V, Mục 2 quy định khá chi tiết về vấn đề xác định thiệt hại, mức bồi thường..., Đáng chú ý là quy định chung về Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa quy định này trong các lĩnh vực pháp luật điều chỉnh. Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 đã quy định khá chi tiết vấn đề xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan, Nghị quyết quy định khi có công dân bị oan, sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, cơ quan có cán bộ, công chức thực hiện hành vi gây thiệt hại phải tiến hành khắc phục hậu quả trên hai phương diện là khôi phục danh dự và bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho họ. Việc khôi phục danh dự: Cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải xin lỗi, cải chính công khai cho người bị oan thông qua hai hình thức là trực tiếp và tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị oan, có sự tham dự của chính quyền địa phương nơi người bị oan cư trú, đại diện cơ quan nơi có người bị oan làm việc, đại diện của một tổ chức chính trị xã hội mà người bị oan là thành viên. Đăng trên tờ báo trung ương (Báo nhân dân hoặc Quân đội Nhân dân) và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp, trừ trường hợp người bị oan hoặc người thân của họ yêu cầu không đăng báo. Ví dụ: Tối 31/7/2008, sau gần 2 năm bị bắt giam và kết án oan với tội danh "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản", vợ chồng ông Thống đã được minh oan khi cơ quan tố tụng chính thức xin lỗi tại trụ sở khu phố nơi họ đang sinh sống. Dù được thông báo buổi làm việc sẽ diễn ra lúc 7 giờ tối, nhưng từ rất sớm ông Trần Văn Thống (54 tuổi) và vợ là bà Lê Thị Lộc (49 tuổi) cùng những hộ dân tại khu phố 7, phường 15, quận 10 đã tập trung về trụ sở khu phố để chờ đợi buổi xin lỗi công khai của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn