VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRƯỜNG SƠN

ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRƯỜNG SƠN

ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành:Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN THANH LÝ

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.

Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất

kỳ công trình khoa học nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP VÀ

ĐIỀU KIỆN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ........................... 7

1.1. Một số vấn đề lý luận về giải thể doanh nghiệp .................................................... 7

1.2. Một số vấn đề lý luận về điều kiện giải thể doanh nghiệp theo pháp luật .......... 25

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH

NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................... 31

2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp ở Việt

Nam hiện nay .............................................................................................................. 31

2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp

ở Viện Nam ................................................................................................................ 47

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH

PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY .......................................................................................................................... 58

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp ............. 58

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp ........................... 60

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 69

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Doanh nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy các chế

định pháp lý liên quan đến doanh nghiệp luôn nhận được sự quan tâm của

Chính phủ mỗi quốc gia. Hoàn thiện các chế định pháp lý liên quan đến doanh

nghiệp đồng nghĩa với việc tạo lập hành lang pháp lý thuận lợi để tăng cường

sự quản lý Nhà nước với doanh nghiệp và góp phần thúc đẩy sự ra đời, phát

triển của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát huy tốt nhất vai trò của nó đối

với nền kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế thị trường,

việc doanh nghiệp muốn chấm dứt hoạt động kinh doanh là một hiện tượng

tất yếu. Để tạo cơ sở pháp lý giúp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động kinh

doanh một cách hợp pháp và giảm thiểu tối đa những hệ lụy về mặt kinh tế,

xã hội thì pháp luật các quốc gia nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng

đều quan tâm và xây dựng chế định về giải thể doanh nghiệp.

Thực tế cho thấy, giải thể doanh nghiệp không phải là vấn đề pháp lý

mới vì chế định này đã được đề cập đến trong nhiều văn bản quy phạm pháp

luật từ Luật Công ty năm 1990 đến Luật Doanh nghiệp 2014 cùng hệ thống

các văn bản hướng dẫn thi hành; ngoài ra còn được quy định tại các văn bản

pháp luật chuyên ngành như Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật Kinh

doanh Bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2000), Luật Chứng khoán

2006….. Các văn bản pháp luật trên đã tạo ra khung pháp lý để chấm dứt sự

tồn tại của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường một cách

hợp pháp mà vẫn bảo vệ quyền lợi của các chủ thể có liên quan nhất là chủ

nợ, người lao động và những chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan khác.

Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức và thực hiện thủ tục giải thể doanh

nghiệp, một số quy định về giải thể doanh nghiệp đã bộc lộ những hạn chế

nhất định, như: quy định về điều kiện giải thể, thời hạn thanh lý hợp đồng,

thời hạn giải thể... Mặt khác, từ thực tế cho thấy có một lượng lớn doanh

1

nghiệp không còn hoạt động nhưng không thực hiện quy trình giải thể. Đây là

một tỷ lệ thấp dẫn tới việc Nhà nước thất thu, người lao động bị xâm hại

quyền lợi và làm sai lệch các thông tin thống kê về doanh nghiệp…… ảnh

hưởng tới sự minh bạch môi trường kinh doanh.

Những hạn chế từ các quy định pháp luật về giải thể doanh nghiệp và

những bất cập trong thực tế nói trên của doanh nghiệp nếu không khắc phục,

sửa đổi, hoàn thiện kịp thời sẽ gây ra những tác động xấu đến nền kinh tế - xã

hội. Xuất phát từ những lý do trên học viên quyết định chọn vấn đề “Điều

kiện giải thể doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài

luận văn thạc sĩ cho mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Xuất phát từ tầm quan trọng của chế định về giải thể doanh nghiệp đối

với nền kinh tế - xã hội nên trong thời gian vừa qua, vấn đề này đã nhận được

sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước dưới các góc độ

và bình diện khác nhau, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như sau:

- Giáo trình, sách chuyên khảo: Trường Đại học Luật Hà Nội (2016)

Giáo trình Luật thương mại – tập 1, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Ngô Huy Cương

(2013), Giáo trình Luật thương mại: phần chung và thương nhân, Nxb Đại

học Quốc Gia Hà Nội; Lê Tài Triển (chủ biên), Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn

Tân “Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải”…….

- Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ: Hoàng Thị Huế (2015), Giải thể

doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp

dụng tại công ty cổ phần JM, Luận văn thạc sĩ, Khoa luật đại học quốc gia; Lê

Ngọc Anh (2014), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam, thực trạng

và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Vi

Quang Thanh (2018), Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp

2014 và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật

Hà Nội; …..

2

- Các bài báo, tạp chí khoa học: Nguyễn Thị Dung (2012), Thực trạng

pháp luật về giải thể doanh nghiệp - một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện,

Tạp chí Luật học số 10/2012; Lê Tự (2015), Một số vấn đề về giải thể doanh

nghiệp, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2015, Nguyễn Thị Diễm Hường

(2016), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp. Thực trạng và giải pháp, Tạp chí

Công Thương, số 7/2016; Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong Báo cáo tổng kết thi

hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong Báo cáo

tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2005, Hà Nội, 2013) đã đánh giá

mức độ thành công của Luật Doanh nghiệp năm 2005 trong đó có các quy

định về giải thể doanh nghiệp.

Phần lớn các công trình nghiên cứu, các bài viết trên tập trung phân

tích và đánh giá các quy định về giải thể doanh nghiệp theo quy định của Luật

Doanh nghiệp năm 2005. Từ đó nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện

pháp luật về giải thể doanh nghiệp trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 có

hiệu lực. Một số công trình đã đề cập đến những quy định về giải thể doanh

nghiệp năm 2014 khi mới trong giai đoạn đầu triển khai nên khi đặt vào trong

tình hình kinh tế mới hiện nay thì chưa đánh giá được một cách đầy đủ và

toàn diện về điều kiện giải thể doanh nghiệp và thực trạng thi hành pháp luật

giải thể trong giai đoạn hiện nay.

Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp

luật về giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và những

văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, luận văn sẽ đưa ra các phương

hướng và giải pháp hoàn thiện hơn về điều kiện giải thể doanh nghiệp trong

xu thế hội nhập.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn tập trung phân tích thực trạng các quy định của pháp luật

doanh nghiệp về điều kiện giải thể doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng tại tại

3

Việt Nam hiện nay. Qua đó, đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng

như nâng cao hiệu quả áp dụng về điều kiện giải thể doanh nghiệp ở Việt

Nam hiện nay. Cụ thể:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp, đặc biệt là giải thể

doanh nghiệp. Xác định vấn đề giải thể doanh nghiệp là vấn đề trung tâm của

luận văn, cần đào sâu tìm hiểu một cách hệ thống và toàn diện.

- Nghiên cứu các vấn đề pháp lý đặc thù của giải thể doanh nghiệp,

trong đó tập trung vào vấn đề mang tính bản chất của giải thể doanh nghiệp.

- Phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng, thi hành pháp luật giải thể

doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay.

- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về

giải thể doanh nghiệp.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn xác định thực hiện

nhiệm vụ nghiên cứu sau:

(i) Làm rõ những vấn đề lý luận về giải thể doanh nghiệp, như: khái

niệm, đặc điểm của giải thể doanh nghiệp; các hình thức giải thể doanh

nghiệp; phân biệt giải thể với các hình thức chấm dứt doanh nghiệp khác; khái

niệm pháp luật về giải thể doanh nghiệp; vai trò và các bộ phận của pháp luật

về giải thể doanh nghiệp;

(ii) Nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về giải thể doanh

nghiệp ở Việt Nam hiện nay, như: Lý do giải thể, điều kiện giải thể, thủ tục

giải thể, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục

doanh nghiệp…

(iii) Khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về

giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam sau khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 có

hiệu lực. Qua đó, chỉ ra những ưu điểm, những vấn đề còn bất cập, vướng

mắc và các nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện

pháp luật về giải thể doanh nghiệp.

4

(iv) Từ việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng, Luận

văn đề xuất phương hướng và các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về điều

kiện giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: các quy định của pháp luật hiện

hành về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả tập trung vào giai đoạn

chấm dứt hoạt động doanh nghiệp cụ thể là “giải thể doanh nghiệp” để làm rõ

các vấn đề còn tồn tại và sự cần thiết tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy

định pháp luật trong lĩnh vực này.

Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về giải

thể doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn 5 năm (từ năm 2014 - năm 2019).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Để làm rõ các vấn đề thuộc nhiệm vụ nghiên cứu, Luận

văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

và đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta

trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường.

- Phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết các vấn đề trong Luận văn

đặt ra, học viên sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau:

+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng

trong tất cả các chương cuẩ Luận văn để làm rõ những vấn đề thuộc về bản

chất, các quan điểm liên quan đến điều kiện giải thể doanh nghiệp, đánh giá

thực trạng. Qua đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật giải thể doanh

nghiệp và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở

Việt Nam.

5

+ Phương pháp thống kê: Được sử dụng để thống kê về kết quả thực

hiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam.

+ Phương pháp so sánh: Được sử dụng nhằm so sánh kinh nghiệm

pháp luật của một số quốc gia trên thế giới trong việc xây dựng pháp luật về

giải thể doanh nghiệp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần làm

sáng tỏ các vấn đề lý luận liên quan đến giải thể và pháp luật về giải thể

doanh nghiệp.

- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham

khảo, có giá trị trong nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện chế định pháp luật

về giải thể. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo cần thiết trong giảng

dạy và học tập của giảng viên cũng như sinh viên.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn được kết cấu 3

chương, như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải thể doanh nghiệp và điều kiện

giải thể doanh nghiệp theo pháp luật.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam

hiện nay.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải thể

doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP VÀ

ĐIỀU KIỆN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP

THEO PHÁP LUẬT

1.1. Những vấn đề lý luận về giải thể doanh nghiệp

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chính sách chung của Đảng và

Nhà nước là đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tạo điều kiện cho mọi chủ thể

cùng tham gia phát triển kinh tế của đất nước. Trong đó, nhóm chủ thể kinh

doanh quan trọng nhất là các doanh nghiệp. Vậy, khái niệm doanh nghiệp

được hiểu như thế nào?

Dưới góc độ kinh tế: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành

lập để thực hiện các hoạt động thương mại nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Nó chỉ

mang tính chất như một vỏ bọc hình thức để hợp pháp hoá các giao dịch, chi

phí và hoạt động kinh doanh của các thành viên công ty. Người ta xem doanh

nghiệp như một cái áo khoác pháp lý để thực hiện ý tưởng kinh doanh [15,

tr.250]

Dưới góc độ pháp lý: Khái niệm “doanh nghiệp” đã được đề cập trong

quá trình xây dựng và phát triển pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam trên

cơ sở đảm bảo sự phù hợp với pháp luật quốc tế và điều kiện kinh tế - xã hội

của Việt Nam.

Tại Điều 4 của Luật Doanh nghiệp 2005 quy định thống nhất về doanh

nghiệp: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở

giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật

nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.

7

Đến Khoản 7, Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014, quy định: “Doanh

nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký

thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” trên cơ sở

kế thừa từ các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và xác định đó là

bản chất pháp lý của doanh nghiệp và điều kiện doanh nghiệp tham gia giao

dịch trên thị trường đó là phải được đăng ký thành lập doanh nghiệp. Trong

phạm vi đề tài luận văn, tác giả tập trung vào nghiên cứu các doanh nghiệp tư

nhân, đặc biệt là mô hình công ty.

* Đặc điểm của doanh nghiệp:

Từ khái niệm doanh nghiệp được ghi nhận tại Điều 4 Luật Doanh

nghiệp 2014, có thể thấy doanh nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng. Theo đó, doanh

nghiệp trước hết phải là tổ chức kinh tế. Tổ chức kinh tế được thành lập ra bởi

một người hoặc trên cơ sở liên kết của hai hay nhiều người, tổ chức trên cơ sở

cùng chung mục đích, sự tin tưởng, vốn, …đã liên kết với nhau theo những

hình thức nhất định và tạo ra mô hình tổ chức kinh doanh – gọi chung là

doanh nghiệp với mục đích kinh doanh, tạo ra lợi nhuận cho những người

thành lập. Các doanh nghiệp đều có tên riêng - đây là cơ sở để Nhà nước thực

hiện quản lý đối với doanh nghiệp, đồng thời là cơ sở để phân biệt chủ thể

trong quan hệ giữa các doanh nghiệp khác nhau với khách hàng. Với việc có

tên riêng và là một tổ chức kinh tế độc lập, doanh nghiệp tự nhân danh mình

tham gia các giao dịch một cách độc lập.

Thứ hai, doanh nghiệp có tài sản:

Doanh nghiệp được thành lập ra với mục đích là kinh doanh, tìm kiếm

lợi nhuận và điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp hoạt động đó là có tài sản.

Khi thành lập doanh nghiệp, các thành viên phải thực hiện hoạt động góp vốn

tức là họ phải bỏ ra một số tài sản để góp vào doanh nghiệp tạo thành tài sản

của doanh nghiệp. Một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định đòi hỏi doanh

8

nghiệp phải đáp ứng số vốn pháp định nhất định để có thể kinh doanh. Tài sản

của doanh nghiệp bao gồm tài sản vô hình hoặc tài sản hữu hình và được hình

thành bởi nhiều cách thức khác nhau như: các thành viên sáng lập góp vốn

thành lập doanh nghiệp; phát hành chứng khoán huy động vốn trong quá trình

hoạt động doanh nghiệp……

Thứ ba, doanh nghiệp có trụ sở giao dịch ổn định.

Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa chỉ tiến hành các hoạt động kinh

doanh với các bên có liên quan. Trụ sở chính của doanh nghiệp phải được xác

định cụ thể, gồm: số nhà, tên phố/đường, (ngõ phố) hoặc tên xã, phường, thị

trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương và địa chỉ này phải ở trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, trụ sở

doanh nghiệp còn là địa điểm giúp xác định mối quan hệ giữa doanh nghiệp

với cơ quan quản lý Nhà nước. Cơ quan quản lý sẽ thực hiện chức năng kiểm

tra, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp tại trụ sở để biết được thực tế

hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ tư, doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của pháp

luật. Đăng ký thành lập doanh nghiệp là việc doanh nghiệp tiến hành các thủ

tục theo luật định nhằm khai sinh về mặt pháp lý cho doanh nghiệp. Xét từ

phía cơ quan Nhà nước, nó thể hiện sự thừa nhận tư cách pháp lý của doanh

nghiệp. Với tư cách là một chủ thể trong nền kinh tế, doanh nghiệp được Nhà

nước thừa nhận và trao cho các quyền và nghĩa vụ nhất định cũng như sẽ

được bảo đảm về mặt pháp lý kể từ khi hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh.

Thứ năm, trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp: Khi tham gia vào các

quan hệ kinh tế, mỗi doanh nghiệp đều phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối

với các chủ thể khác, đặc biệt là trách nhiệm về tài chính và thanh toán các

khoản nợ. Hiện nay, trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp bao gồm: trách

nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vô hạn. Tùy từng doanh nghiệp với quy chế

pháp lý khác nhau mà họ phải chịu trách nhiệm về tài sản khác nhau. Đây

9

cũng chính là nội dung khi thành thành lập doanh nghiệp chúng ta cần đánh

giá để chỉ ra những ưu điểm cũng như hạn chế của từng loại trách nhiệm để

xem xét lựa chọn loại hình phù hợp nhất. Ví dụ: Công ty cổ phần chịu trách

nhiệm bằng toàn bộ tài sản của công ty đối với các nghĩa vụ tài chính và

khoản nợ (trách nhiệm hữu hạn); các thành viên của công ty, người đại diện

theo pháp luật của công ty không phải chịu trách nhiệm bằng tài sản cá nhân

của mình, mà phải chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với phần vốn góp của

mình; hay đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu

trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ tài chính, khoản nợ của doanh nghiệp

không chỉ bằng tài sản của doanh nghiệp mà còn bằng tài sản của cá nhân chủ

doanh nghiệp tư nhân cho đến khi thanh toán hết các khoản nợ.

Thứ sáu, mục đích của doanh nghiệp: Doanh nghiệp được thành lập để

thực hiện các hoạt động kinh doanh với mục đích lợi nhuận. Đây là cơ sở để

phân biệt pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Tuy nhiên, lợi

nhuận của doanh nghiệp đạt được bao nhiêu còn phụ thuộc vào hiệu quả kinh

doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp

cũng có thể thực hiện nhiều hoạt động khác không nhằm mục đích kinh doanh

như hoạt động xã hội từ thiện. Tuy nhiên các hoạt động này không phải là

mục tiêu, mục đích của doanh nghiệp mà được doanh nghiệp tiến hành để

phục vụ cho hoạt động kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn.

1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm giải thể doanh nghiệp

* Khái niệm của giải thể doanh nghiệp

Trong một vòng đời của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh thì

thường được chia làm bảy giai đoạn, bao gồm [20]: Giai đoạn “gieo hạt”,

khởi động, phát triển, ổn định, mở rộng, suy thoái và cuối cùng là tan rã.

Trong đó, “tan rã” là giai đoạn mà chủ thể doanh nghiệp phải chấm dứt hoạt

động của doanh nghiệp, rút lui ra khỏi thị trường. Trong khoa học pháp lý,

10

việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp thông thường được thực hiện dưới

nhiều cách thức khác nhau và phổ biến hiện nay là giải thể doanh nghiệp.

Dưới góc độ ngôn ngữ:

Trong tiếng anh, khái niệm giải thể được sử dụng bởi nhiều thuật ngữ

như: “disband” hay “break up” nhưng thông dụng nhất và được sử dụng rộng

rãi nhất để chỉ sự chấm dứt tồn tại của một doanh nghiệp, tổ chức trong các

văn bản pháp lý là thuật ngữ “dissolution”.

Theo từ điển tiếng Việt, “giải thể có nghĩa là không còn hoặc làm cho

không còn đủ điều kiện tồn tại như một tổ chức nữa, các thành viên phân tán

đi” [25]. Theo đó, khi doanh nghiệp không còn hoặc bị làm cho không còn đủ

điều kiện tồn tại, các thành viên trong doanh nghiệp phân tán đi, không còn

liên kết với nhau nữa thì doanh nghiệp đó sẽ giải thể. Hay nói cách khác giải

thể doanh nghiệp là một cách “khai tử” cho doanh nghiệp.

Dưới góc độ pháp lý:

Theo từ điển Luật học, giải thể doanh nghiệp là “thủ tục chấm dứt sự

tồn tại của doanh nghiệp, với tư cách là một chủ thể kinh doanh bằng cách

thanh lý tài sản của doanh nghiệp để trả cho các chủ nợ”[26]. Giáo trình

Luật Doanh nghiệp – Trường Đại học Luật Hà Nội: “Giải thể doanh nghiệp là

quá trình chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện doanh nghiệp

có khả năng thanh toán hoặc bảo đảm thanh toán các nghĩa vụ tài sản của

doanh nghiệp” [22, tr.419]; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam của Viện Đại

học Mở Hà Nội: “Giải thể doanh nghiệp là một trong những thủ tục pháp luật

dẫn đến chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp”[24]

Qua đây, có thể thấy về cơ bản dưới góc độ pháp lý khái niệm giải thể

doanh nghiệp được hiểu khá tương đồng nhau. Theo đó, giải thể doanh nghiệp

là việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Đây không phải là một sự kiện

pháp lý mà là một quá trình theo quy định của pháp luật. Trong đó, pháp luật

quy định cụ thể các trường hợp giải thể, điều kiện giải thể doanh nghiệp khi

11

doanh nghiệp bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác

cũng như các nghĩa vụ hợp đồng khác với các bên có liên quan; đồng thời

không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài;

thủ tục giải thế.

Như vậy, có thể thấy: giải thể doanh nghiệp là quá trình dẫn đến việc

chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp khi đảm bảo thanh toán hết các khoản

nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết

tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.

* Đặc điểm của giải thể doanh nghiệp

Chủ sở hữu doanh nghiệp tiến hành giải thể doanh nghiệp khi thấy sự

tồn tại của doanh nghiệp không còn cần thiết hoặc doanh nghiệp bị giải thể

theo quy định của pháp luật. Và để doanh nghiệp được giải thể thì phải tuân

theo một trình tự pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ,

các cổ đông hoặc thành viên của công ty khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt

động. Khi tìm hiểu về đặc điểm của giải thể doanh nghiệp thì có những

đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, về hậu quả pháp lý, giải thể doanh nghiệp dẫn đến việc chấm

dứt sự tồn tại của doanh nghiệp về pháp lý và thực tế.

Giải thể doanh nghiệp dẫn đến tư cách pháp lý của doanh nghiệp bị

chấm dứt, tên của doanh nghiệp trong sổ đăng ký doanh nghiệp bị xóa, mọi

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều bị dừng lại; các doanh nghiệp

phải tiến hành thanh lý tài sản, các khoản nợ và các nghĩa vụ khác của doanh

nghiệp. Điều này đồng nghĩa doanh nghiệp đó không còn tồn tại trên thị

trường từ thời điểm Cơ quan đăng ký kinh doanh hoàn thành thủ tục xóa tên

trong sổ đăng ký.

Thứ hai, thủ tục giải thể doanh nghiệp là một thủ tục hành chính.

Trái với thủ tục phá sản mang tính tố tụng tư pháp khi yêu cầu tòa án

tuyên bố chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thủ tục giải thể

12

doanh nghiệp là một thủ tục hành chính, được tiến hành theo trình tự, thủ tục

pháp luật quy định và do cơ quan hành chính thực hiện như: chấm dứt hiệu

lực của mã số thuế; nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp, hủy con dấu, xóa tên

doanh nghiệp trong sổ đăng ký doanh nghiệp,… Mục đích của hoạt động

hành chính này suy cho cùng là để đảm bảo lợi ích của các chủ nợ của doanh

nghiệp. Vì vậy, về nguyên tắc, khi doanh nghiệp chưa thanh toán hết các

khoản nợ mà Cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp thì chính cơ

quan này phải chịu trách nhiệm “trả nợ thay”.

Thứ ba, lý do giải thể:

Lý do giải thể có thể bị bắt buộc do doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp

luật hoặc từ ý chí tự nguyện của chủ doanh nghiệp. Cụ thể:

Giải thể doanh nghiệp mang tính tự nguyện xuất phát từ ý chí của các

chủ sở hữu doanh nghiệp (chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân; tất cả các thành

viên hợp danh của công ty hợp danh, Hội đồng thành viên của Công ty TNHH

hai thành viên trở lên, chủ sở hữu Công ty TNHH một thành viên, Đại hội

đồng cổ đông của Công ty cổ phần), chẳng hạn: chủ sở hữu doanh nghiệp

không muốn tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh nữa do tỷ suất lợi nhuận

không cao, mâu thuẫn nội bộ doanh nghiệp, triển vọng kinh tế trong lĩnh vực

ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp không có nhiều hứa hẹn trong

tương lai; kết thúc thời hạn hoạt động ghi trong điều lệ mà không có quyết

định gia hạn… Trong trường hợp này chủ sở hữu doanh nghiệp có thể đi đến

quyết định giải thể để thu hồi vốn hoặc chuyển sang kinh doanh những loại

hình doanh nghiệp khác, kinh doanh với những chủ thể khác.

Bên cạnh đó, cũng có trường hợp doanh nghiệp buộc phải giải thể theo

một quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi doanh

nghiệp có hành vi vi phạm, như: nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh

doanh là giả mạo; doanh nghiệp ngừng hoạt động kinh doanh 01 năm mà

không thông báo cho Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan Thuế… Trong

13

trường hợp này, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là chủ thể ra quyết định

giải thế doanh nghiệp chứ không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu doanh

nghiệp.

Thứ tư, điều kiện để cơ quan có thẩm quyền cho phép giải thể doanh

nghiệp: một doanh nghiệp chỉ được phép giải thể khi doanh nghiệp đó đảm

bảo thanh toán hết các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh

nghiệp; không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan

trọng tài.

Đây là một trong những đặc trưng khi giải thể doanh nghiệp. Doanh

nghiệp trước khi tiến hành chấm dứt sự tồn tại của mình trên thị trường phải

đảm bảo hoàn thành mọi nghĩa vụ tài chính, khoản nợ mà bên này xác lập đối

với các bên, các nghĩa vụ khác của hợp đồng theo thỏa thuận giữa các bên có

liên quan. Sau khi giải quyết mọi khoản nợ và nghĩa vụ khác của doanh

nghiệp thì mọi tài sản còn lại của doanh nghiệp được phân chia cho các thành

viên hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp.

Có thể thấy rằng, đây là một điều kiện tiên quyết, để cơ quan có thẩm

quyền chấp nhận việc giải thể của doanh nghiệp. Nếu không để chấm dứt sự

tồn tại của mình, doanh nghiệp chỉ có thể tiến hành theo thủ tục phá sản.

1.1.2. Các hình thức giải thể

Việc xác định các hình thức giải thể doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan

trọng, đó là cơ sở pháp lý đầu tiên để từ đó áp dụng pháp luật về giải thể. Đối

với các trường hợp giải thể, có thể chia thành hai hình thức giải thể doanh

nghiệp: giải thể tự nguyện và giải thể bắt buộc.

Thứ nhất, giải thể tự nguyện:

- Giải thể tự nguyện là việc giải thể mà do chính doanh nghiệp quyết

định trong quá trình tiến hành hoạt động của mình khi đã đạt được mục đích

kinh doanh và thấy rằng việc tồn tại của doanh nghiệp là không còn cần thiết

14

hoặc gặp khó khăn không thể khắc phục được… Hình thức này bao gồm các

trường hợp giải thể khi:

+ Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân;

của các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của Hội đồng thành

viên đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; của chủ sở

hữu đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; của Đại hội đồng

cổ đông đối với Công ty cổ phần.

Giải thể trong trường hợp này thể hiện sự tự nguyện, ý chí của chủ sở

hữu đối với doanh nghiệp của mình. Việc chủ doanh nghiệp không muốn tiếp

tục kinh doanh có thể bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau, như: lợi nhuận

thấp, thua lỗ kéo dài, có mâu thuẫn nội bộ, không còn phù hợp với mục đích

kinh doanh đề ra ban đầu và nhiều yếu tố thị trường khác. Trong trường hợp

này, chủ doanh nghiệp có thể quyết định giải thể doanh nghiệp để thu hồi

vốn hoặc chuyển sang kinh doanh những loại hình doanh nghiệp khác. Đây

là quyết định hoàn toàn mang tính tự nguyện và chủ động của chủ doanh

nghiệp.

+ Doanh nghiệp kết thúc hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà

không có quyết định gia hạn. Đây là trường hợp đã có sự thỏa thuận và là ý

chí của chủ sở hữu doanh nghiệp ngay từ khi thành lập doanh nghiệp. Trường

hợp Điều lệ công ty có quy định về thời hạn hoạt động, khi hết thời hạn hoạt

động được ghi trong Điều lệ công ty, nếu các thành viên không muốn xin gia

hạn hoạt động, thì công ty phải tiến hành giải thể. Việc quy định thời hạn hoạt

động của doanh nghiệp có thể do thỏa thuận của các thành viên, cổ đông sáng

lập, hoặc do sự cấp phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định

của pháp luật.

Thứ hai, giải thể bắt buộc

- Giải thể bắt buộc là trường hợp giải thể không do ý chí chủ quan của

doanh nghiệp mà do cơ quan Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp phải tiến hành

15

giải thể. Điều này, xuất phát từ lý do doanh nghiệp không đáp ứng các điều

kiện nhất định mà pháp luật quy định hoặc có những hành vi vi phạm

pháp luật. Các trường hợp giải thể bắt buộc bao gồm như sau:

+ Công ty không còn đủ số lượng thành viên, cổ đông tối thiểu theo

quy định của Luật Doanh nghiệp trong thời hạn sáu tháng liên tục mà không

làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp phù hợp.

Có đủ số lượng thành viên, cổ đông tối thiểu là một trong những điều

kiện để công ty tồn tại và hoạt động. Pháp luật quy định số lượng thành viên

tối thiểu cho mỗi loại hình công ty khác nhau. Số lượng cổ đông tối thiểu theo

quy định đối với Công ty cổ phần là 03, đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn

có hai thành viên trở lên là 02. Đối với công ty hợp danh, pháp luật quy định

phải có ít nhất 02 cá nhân là thành viên hợp danh. Khi không có đủ số lượng

thành viên tối thiểu để tiếp tục tồn tại, công ty phải bổ sung thêm thành viên,

cổ đông cho đủ số lượng thành viên tối thiểu. Nếu trong thời hạn 6 tháng liên

tục mà công ty không tiến hành bổ sung thêm cổ đông, thành viên mà số

lượng thành viên không đủ hoặc không chuyển đổi sang loại hình doanh

nghiệp phù hợp thì công ty phải tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp.

+ Công ty bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp:

Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định trong thời hạn 10 ngày, kể từ

ngày nhận được quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,

doanh nghiệp phải triệu tập họp để quyết định giải thể doanh nghiệp. Để

thành lập doanh nghiệp, người thành lập phải chuẩn bị hồ sơ đăng ký doanh

nghiệp và nộp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời phải chịu trách

nhiệm về tính chính xác, trung thực và hợp pháp của hồ sơ đăng ký doanh

nghiệp. Trên cơ sở hồ sơ hợp lệ, Cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ thực hiện

cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp, ghi nhận sự ra

đời, công nhận về mặt pháp lý sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thị trường.

Có thể nói, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chính là tấm giấy “thông

16

hành” để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động của mình trên thị

trường cũng như xác lập các quan hệ pháp lý với cơ quan Nhà nước. Do vậy,

bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng có nghĩa là Nhà nước

rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh đối với doanh nghiệp. Trong

trường hợp này, doanh nghiệp không còn được công nhận về địa vị pháp lý và

không còn được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Khoản 1, Điều 211 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định 5 trường

hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, bao

gồm:

“a. Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo;

b. Doanh nghiệp do những người bị cấm thành lập doanh nghiệp theo

khoản 2 Điều 18 của Luật này thành lập;

c. Doanh nghiệp ngừng hoạt động kinh doanh 01 năm mà không thông

báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan Thuế;

d. Doanh nghiệp không gửi báo cáo theo quy định tại điều c khoản 1

Điều 209 của Luật này đến Cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 06

tháng, kể từ ngày hết hạn gửi báo cáo hoặc có yêu cầu bằng văn bản;

d. Trường hợp khác theo quyết định của Tòa án”.

1.1.3. Phân biệt giải thể với các hình thức chấm dứt doanh nghiệp khác

1.1.3.1. Phân biệt giải thể doanh nghiệp với phá sản doanh nghiệp

Giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp đều là thủ tục “khai tử”

để chấm dứt sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy

nhiên, về cơ bản, giải thể và phá sản doanh nghiệp vẫn có những điểm khác

biệt, cụ thể:

Thứ nhất, lý do giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp:

Lý do giải thể doanh nghiệp rộng hơn rất nhiều của phá sản doanh

nghiệp. Giải thể doanh nghiệp xuất phát từ nhiều lý do như từ ý chí của chủ

sở hữu doanh nghiệp khi mà mục đích của doanh nghiệp không đạt được hay

17

là do hoạt động của doanh nghiệp không đạt hiệu quả mà việc chấm dứt sự

tồn tại của doanh nghiệp là sẽ có lợi hơn. Chẳng hạn: Chủ doanh nghiệp tư

nhân quyết định giải thể doanh nghiệp; của các thành viên hợp danh quyết

định giải thể đối với công ty hợp danh…; Giải thể doanh nghiệp cũng có thể

xuất phát từ ý chí của cơ quan quản lý Nhà nước theo yêu cầu quản lý Nhà

nước khi mà doanh nghiệp không còn đủ điều kiện tồn tại như không còn đủ

số lượng thành viên tối thiểu trong 6 tháng liên tục mà không làm thủ tục thay

đổi mô hình doanh nghiệp, hay có vi phạm pháp luật. Trong khi đó, phá sản

doanh nghiệp chỉ có 01 lý do duy nhất là tình trạng doanh nghiệp, hợp tác xã

mất khả năng thanh toán và có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Theo quy

định tại khoản 1 Điều 4 của Luật Phá sản 2014: “Doanh nghiệp, hợp tác xã

mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa

vụ thanh toán được các khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn

thanh toán”

Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền quyết định giải thể doanh nghiệp và

phá sản doanh nghiệp.

Đối với giải thể doanh nghiệp thuộc quyền quyết định của chủ sở hữu

doanh nghiệp đối với những trường hợp giải thể tự nguyện hoặc do cơ quan

quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập doanh nghiệp quyết định

đối với trường hợp giải thể bắt buộc. Trong khi đối với phá sản doanh nghiệp,

chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định tuyên bố một

doanh nghiệp phá sản và tiến hành các thủ tục phá sản.

Thứ ba, tính chất của thủ tục giải thể và thủ tục phá sản doanh nghiệp.

Giải thể doanh nghiệp là thủ tục mang tính hành chính, chủ yếu do Cơ

quan đăng ký kinh doanh thực hiện theo trình tự, thủ tục được quy định tại

Luật Doanh nghiệp 2014. Đối với phá sản doanh nghiệp là thủ tục tư pháp, do

Tòa án thực hiện theo quy định của Luật Phá sản năm 2014.

Thứ tư, điều kiện giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp.

18

Đối với giải thể doanh nghiệp: doanh nghiệp chỉ được giải thể khi đảm

bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp

không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.

Trong khi đó, đối với phá sản, doanh nghiệp phải đảm bảo thanh toán

hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác không là điều kiện bắt buộc. Theo

quy định của Luật Phá sản 2014, doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục phá sản mất

khả năng thanh toán nợ; các chủ nợ sẽ được thanh toán các khoản nợ theo thứ

tự luật định trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp (từ doanh nghiệp tư

nhân và thành viên hợp danh công ty hợp danh). Trường hợp, giá trị tài sản

còn lại không thanh toán hết các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản thì các chủ nợ sẽ

được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ dựa trên thứ tự ưu

tiên. Như vậy, doanh nghiệp phá sản có thể thanh toán hết hoặc không thanh

toán các khoản nợ cho các chủ nợ.

Thứ năm, hậu quả pháp lý của việc áp dụng thủ tục giải thể doanh

nghiệp và phá sản doanh nghiệp.

Đối với giải thể doanh nghiệp, sau khi hoàn thành thủ tục giải thể, bị

xóa tên trong sổ đăng ký doanh nghiệp thì về mặt pháp lý doanh nghiệp

không còn tồn tại.

Đối với thủ tục phá sản doanh nghiệp, hậu quả pháp lý không phải luôn

là chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp, không phải trường hợp nào sau khi

mở thủ tục phá sản cũng dẫn đến doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Trên thực

tế, có những trường hợp sau khi thực hiện thủ tục phá sản doanh nghiệp, chỉ

làm thay đổi chủ doanh nghiệp mà thôi (ví dụ một người nào đó mua lại toàn

bộ doanh nghiệp để tiếp tục sản xuất kinh doanh) hoặc trong trường hợp Tòa

án áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong quá trình áp dụng thủ

tục phá sản. Nếu thủ tục phục hồi kinh doanh có hiệu quả thì Tòa án sẽ quyết

định đình chỉ thủ tục phá sản của doanh nghiệp, khi đó doanh nghiệp vẫn tiếp

tục tồn tại. Như vậy, sau khi áp dụng thủ tục phá sản thì về mặt pháp lý,

doanh nghiệp vẫn có thể tồn tại.

19

Thứ sáu, quyền của chủ doanh nghiệp sau khi giải thể hoặc phá sản.

Đối với doanh nghiệp bị giải thể, chủ doanh nghiệp có quyền thành lập

và quản lý, điều hành doanh nghiệp khác. Nhà nước không đặt ra bất kỳ một

sự hạn chế nào đối với quyền tự do kinh doanh của chủ doanh nghiệp bị giải thể

bởi lẽ, giải thể doanh nghiệp chủ yếu xuất phát từ ý chí của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, đối với chủ doanh nghiệp bị phá sản không được phép thành

lập doanh nghiệp trong một thời gian nhất định kể từ ngày tuyên bố phá sản.

Điều này xuất phát từ nguyên nhân của việc áp dụng thủ tục phá sản là doanh

nghiệp hoạt động không hiệu quả, thua lỗ dẫn đến tình trạng không có khả

năng thanh toán nợ mà để dẫn đến tình trạng này là có việc quản lý điều hành

doanh nghiệp yếu kém, sai lầm. Trên cơ sở đó, mà chủ doanh nghiệp bị phá

sản sẽ bị hạn chế quyền thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, chủ doanh nghiệp

sẽ không bị hạn chế quyền trong trường hợp phá sản do những sự kiện bất khả

kháng, ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, như: hỏa hoạn, chiến tranh,

thiên tai, dịch bệnh, bạo loạn, đình công, khủng hoảng kinh tế, chính sách

pháp luật của Nhà nước thay đổi….dẫn đến doanh nghiệp bị khủng hoảng,

thiệt hại nặng nề và không có khả năng thanh toán mọi khoản nợ và buộc phải

tự yêu cầu Tòa án tiến hành thủ tục phá sản.

1.1.3.2. Phân biệt giải thể doanh nghiệp với các trường hợp tổ chức lại

doanh nghiệp

Trước khi phân biệt giải thể doanh nghiệp với các trường hợp tổ chức

lại doanh nghiệp, cần phải tìm hiểu các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp.

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 tổ chức lại doanh nghiệp là việc

chia, tách, hợp nhất, sáp nhập hoặc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, cụ thể:

- Chia doanh nghiệp là trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty

cổ phần có thể chia các cổ đông, thành viên và tài sản công ty để thành lập hai

hoặc nhiều công ty mới. Trong trường hợp chia doanh nghiệp, công ty bị chia

chấm dứt tồn tại, chấm dứt tư cách pháp nhân sau khi các công ty mới được

20

cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Các doanh nghiệp mới được

thành lập sau khi chia phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ,

nghĩa vụ tài chính trong hoạt động kinh doanh chưa được thanh toán, hợp

đồng lao động với người lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh

nghiệp bị chia hoặc thỏa thuận với đối tác và người lao động.

- Tách doanh nghiệp là trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công

ty cổ phần tách doanh nghiệp bằng cách chuyển một phần tài sản, quyền và

nghĩa vụ của công ty hiện có (sau đây gọi là công ty bị tách) để thành lập một

hoặc một số Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần mới (sau đây gọi

là công ty được tách) mà không chấm dứt tồn tại của công ty bị tách. Sau khi

tách doanh nghiệp, doanh nghiệp bị tách và doanh nghiệp được tách phải

cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính chưa thanh

toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị tách,

trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

- Hợp nhất doanh nghiệp là trường hợp hai hoặc một số công ty (sau

đây gọi là công ty bị hợp nhất) hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi

là công ty hợp nhất), đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.

Khi công ty mới được thành lập sẽ đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty

bị hợp nhất. Công ty mới thành lập được hưởng các quyền và lợi ích hợp

pháp, và đồng thời phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán,

hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.

- Sáp nhập doanh nghiệp là trường hợp một hoặc một số công ty (sau

đây gọi là công ty bị sáp nhập) sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là

công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và

lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại

của công ty bị sáp nhập. Doanh nghiệp nhận sáp nhập được hưởng các quyền

và lợi ích hợp pháp, cũng như phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa

21

thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị

sáp nhập.

- Chuyển đổi doanh nghiệp, là trường hợp chuyển đổi qua lại giữa các

loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển đổi

thành Công ty cổ phần hoặc ngược lại; doanh nghiệp tư nhân có thể được

chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn (chuyển đổi hình thức pháp

lý). Sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp được

chuyển đổi chấm dứt tồn tại; doanh nghiệp chuyển đổi được hưởng các quyền

và lợi ích hợp pháp, đồng thời chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh

toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp được

chuyển đổi. Như vậy, các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp về bản chất là

do chính chủ sở hữu doanh nghiệp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả trong

hoạt động kinh doanh.

* Phân biệt các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp với giải thể

doanh nghiệp:

Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền quyết định giải thể doanh nghiệp và

tổ chức lại doanh nghiệp.

Đối với giải thể doanh nghiệp, quyền quyết định có thể thuộc về của

chủ sở hữu doanh nghiệp đối với những trường hợp giải thể tự nguyện hoặc

thuộc về cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập doanh

nghiệp quyết định đối với trường hợp giải thể bắt buộc. Còn đối với hoạt động

tổ chức lại doanh nghiệp thì chủ thể quyết định chính là chủ sở hữu doanh

nghiệp với mục đích thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh

doanh.

Thứ hai, về thời điểm hoàn thành thủ tục của giải thể doanh nghiệp và

tổ chức giải thể doanh nghiệp.

22

Đối với giải thể doanh nghiệp, khi mà Cơ quan đăng ký kinh doanh xóa

tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký doanh nghiệp thì chính là thời điểm thủ tục

giải thể đã được hoàn thành. Khi đó các quyền và nghĩa vụ, cũng như tư cách

pháp lý của doanh nghiệp chấm dứt. Đối với tổ chức lại doanh nghiệp, có thể

doanh nghiệp sẽ bị xóa tên trong sổ đăng ký doanh nghiệp như khi chuyển

đổi, hợp nhất, chia doanh nghiệp nhưng không thể xem đây là thời điểm hoàn

thành thủ tục. Thủ tục chỉ được hoàn thành khi doanh nghiệp mới được thành

lập (được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc được ghi nhận trong

sổ đăng ký doanh nghiệp).

Thứ ba, hậu quả pháp lý của giải thể doanh nghiệp và tổ chức giải thể

doanh nghiệp.

Đối với giải thể doanh nghiệp, sau khi hoàn thành thủ tục giải thế,

doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại, các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp

không được kế thừa. Nhưng đối với việc tổ chức lại doanh nghiệp, doanh

nghiệp được tổ chức lại không còn tồn tại về mặt pháp lý nhưng về bản chất

doanh nghiệp đó vẫn tồn tại nhưng trong một hình thức mới; các quyền và

nghĩa vụ của doanh nghiệp đó vẫn được kế thừa trong doanh nghiệp mới được

hình thành.

1.1.3.3. Phân biệt giải thể doanh nghiệp với tạm ngừng kinh doanh

Thứ nhất, về bản chất pháp lý:

Giải thể doanh nghiệp được hiểu là quá trình dẫn đến sự chấm dứt tồn

tại của doanh nghiệp sau khi đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa

vụ tài sản khác của doanh nghiệp đó. Còn tạm ngừng kinh doanh được hiểu là

trường hợp doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong

khoảng một thời gian nhất định. Sau khoảng thời gian tạm ngừng đó, doanh

nghiệp trở lại hoạt động bình thường.

23

Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền quyết định giải thể doanh nghiệp và

tạm ngừng kinh doanh.

Giải thể doanh nghiệp có thể là quyền của doanh nghiệp nếu giải thể tự

nguyện, nhưng cũng là giải thể bắt buộc nếu doanh nghiệp đó vi phạm pháp

luật và bị Cơ quan đăng ký kinh doanh thu hồi giấy chứng nhận đăng ký

doanh nghiệp hoặc không đáp ứng đủ điều kiện hoạt động theo quy định của

pháp luật. Còn đối với tạm ngừng kinh doanh thì hoàn toàn do quyền của

doanh nghiệp trên cơ sở kết quả và mục đích kinh doanh.

Thứ ba, hậu quả pháp lý của giải thể doanh nghiệp và tạm ngừng kinh doanh.

Hậu quả pháp lý của giải thể doanh nghiệp bao giờ cũng là chấm dứt

hoạt động của doanh nghiệp, đóng mã số thuế của doanh nghiệp. Còn tạm

ngừng kinh doanh không làm chấm dứt hoàn toàn hoạt động của doanh

nghiệp; doanh nghiệp chỉ tạm ngừng kinh doanh trong một khoảng thời gian

nhất định, hết thời hạn đó, doanh nghiệp tiếp tục hoạt động bình thường; trong

thời hạn ngừng hoạt động, doanh nghiệp phải nộp đủ số thuế còn nợ, tiếp tục

thanh toán các khoản nợ, hoàn thành việc thực hiện hợp đồng đã ký với khách

hàng và người lao động, trừ trường hợp có quy định khác.

Thứ tư, đối với giải thể doanh nghiệp, doanh nghiệp phải trả các khoản

nợ và nghĩa vụ tài chính thì tạm ngừng kinh doanh là doanh nghiệp có thể bớt

đi nỗi lo về tiền lương cho người lao động, thuế, các khoản chi khác; nhờ đó,

doanh nghiệp tập trung được nhân lực và vật lực để giải quyết các khó khăn

còn tồn đọng; tìm cách huy động vốn từ các nhà đầu tư để tái cơ cấu lại doanh

nghiệp hoặc cũng có thể chờ đợi cơ hội mới tốt hơn. Một ưu điểm nổi bật của

việc tạm ngừng kinh doanh là khi doanh nghiệp hoạt động trở lại bình thường

thì thủ tục rất đơn giản, nếu hết thời hạn tạm ngừng thì doanh nghiệp tự hoạt

động trở lại còn nếu sớm hơn thời hạn tạm ngừng thì chỉ cần làm công văn

thông báo. Ngược lại, khi doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, không có

24

cơ hội để phát triển và thoát khỏi khủng hoảng thì nên chọn giải pháp giải thể

hoặc phá sản doanh nghiệp để chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp.

1.2. Một số vấn đề lý luận về điều kiện giải thể doanh nghiệp theo pháp luật

1.2.1. Khái niệm pháp luật về giải thể doanh nghiệp

Để đảm bảo doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường một cách có trật tự,

lành mạnh qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên

quan thì việc có sự điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật là cần thiết. Do đó,

các quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp đã được quan tâm và quy

định trong Luật Doanh nghiệp.

Pháp luật về giải thể doanh nghiệp bao gồm một hệ thống các quy

phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát

sinh trong quá trình giải quyết việc giải thể doanh nghiệp. Các quan hệ xã hội

phát sinh trong quá trình giải quyết việc giải thể doanh nghiệp là quan hệ giữa

chủ sở hữu doanh nghiệp và doanh nghiệp, quan hệ giữa doanh nghiệp và đối

tác trong kinh doanh, quan hệ giữa doanh nghiệp và chủ nợ, quan hệ giữa

doanh nghiệp với người lao động, quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền.

Trước đây, pháp luật về giải thể doanh nghiệp được quy định tương

ứng với từng loại hình cụ thể: đối với doanh nghiệp Nhà nước, việc giải thể

được quy định tại Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995 và Luật doanh

nghiệp Nhà nước năm 2003; đối với các doanh nghiệp; còn đối với khối

doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì các quy định về giải thể doanh nghiệp

được ghi nhận tại Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm

1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999; Luật doanh nghiệp 2005 và hiện nay là

Luật Doanh nghiệp 2014 tại Chương IX.

1.2.2. Vai trò của pháp luật về giải thể doanh nghiệp

Giải thể là quy luật mang tính tất yếu trong nền kinh tế thị trường, và

nó cũng có những ý nghĩa nhất định đối với kinh tế – xã hội. Các quy định

25

của Luật Doanh nghiệp về giải thể doanh nghiệp được ban hành không chỉ để

đào thải các doanh nghiệp yếu kém mà còn nhằm mục đích khôi phục lại sự

cân bằng về cán cân thanh toán thị trường. Điều này được thể hiện ở những

nội dung chủ yếu sau:

– Pháp luật về giải thể doanh nghiệp là công cụ bảo vệ một cách có

hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ:

Bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ trước tiên là bảo vệ các quyền về tài sản

của các chủ nợ. Khi doanh nghiệp mắc nợ không trả được nợ cho các chủ nợ

thì khi doanh nghiệp giải thể phải để bán toàn bộ tài sản còn lại của doanh

nghiệp để trả cho các chủ nợ.

- Pháp luật giải thể doanh nghiệp góp phần vào bảo vệ lợi ích của người

lao động:

Việc doanh nghiệp bị giải thể thì chính những người lao động trong

doanh nghiệp sẽ phải chịu hậu quả trực tiếp, họ sẽ bị mất việc làm, mất nguồn

thu nhập để đảm bảo đời sống. Sự bảo vệ của pháp luật giải thể đối với người

làm công thể hiện ở chỗ họ có quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương trước

các khoản nợ khác của doanh nghiệp, nợ thuế trước khi cơ quan ra quyết định

giải thể doanh nghiệp và xóa tên trong sổ đăng ký doanh nghiệp.

- Pháp luật giải thể doanh nghiệp góp phần bảo vệ trật tự trong xã hội:

Khi doanh nghiệp bị giải thể thì chủ nợ nào cũng muốn lấy được càng

nhiều càng tốt tài sản còn lại của doanh nghiệp bị giải thể. Như vậy nếu

không có Luật để đưa vấn đề phân chia tài sản của doanh nghiệp theo một trật

tự nhất định, nhằm bảo đảm sự công bằng và khách quan mà cứ để “mạnh ai

người ấy lấy” một cách vô tổ chức thì sẽ gây ra tình trạng lộn xộn, mất trật tự,

gây ra mâu thuẫn giữa chủ nợ với con nợ, giữa chủ nợ với nhau. Để có thể

giải quyết công bằng, thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ và con nợ

và giữa các chủ nợ với nhau, pháp luật về giải thể quy định cụ thể thứ tự ưu

26

tiên thanh toán góp phần giải quyết mâu thuẫn, hạn chế những căng thẳng có

thể có giữa họ với nhau, nhờ đó đảm bảo được trật tự của xã hội.

- Pháp luật giải thể góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, tái tạo tổ chức lại

doanh nghiệp:

Giải thể doanh nghiệp bao giờ cũng kéo theo những hậu quả về kinh tế

xã hội nhất định, nhưng không phải trong trường hợp nào giải thể doanh

nghiệp cũng mang lại những tiêu cực. Giải thể doanh nghiệp là một biện pháp

giúp cơ cấu lại nền kinh tế, giúp đào thải tự nhiên đối với doanh nghiệp làm

ăn yếu kém, thua lỗ góp phần duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp làm ăn có

hiệu quả, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh. Qua đó góp phần vào sự tăng

trưởng, phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa, pháp luật về giải thể doanh

nghiệp còn là công cụ răn đe buộc các nhà kinh doanh luôn luôn phải năng

động sáng tạo nhưng không được mạo hiểm và liều lĩnh.

Ta thấy việc quy định này là hết sức cần thiết bởi nó không chỉ tạo cơ

sở pháp lí để chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp, mà quan trọng hơn là còn

bảo vệ quyền lợi của những chủ thể có liên quan. Qua đó, góp phần cơ cấu lại

nền kinh tế, tái tạo tổ chức lại doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế đất nước

bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng.

1.2.3. Các nội dung điều chỉnh pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp

Một doanh nghiệp, từ khi ra đời cho đến khi chấm dứt hoạt động, luôn

có mối quan hệ với Nhà nước. Quan hệ mang tính tất yếu này thuộc phạm vi

quản lý của Nhà nước về Doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích chung cộng

đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của chính công ty và người thứ ba. Để đảm

bảo mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, mục đích

quản lý Nhà nước, mục đích điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước quy định

trình tự, thủ tục, điều kiện giải thể doanh nghiệp. Tại Việt Nam hiện nay,

pháp luật điều chỉnh về điều kiện giải thể doanh nghiệp được quy định trong

Luật Doanh nghiệp 2014, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp

27

2014 và các văn bản có liên quan khác. Các nội dung cơ bản của pháp luật

điều chỉnh pháp luật về điều kiện giải thể.

Thứ nhất, điều kiện về tình trạng của doanh nghiệp được phép giải thể:

Giải thể doanh nghiệp là sự kiện pháp lý làm chấm dứt tư cách pháp

nhân, chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc chấm dứt hoạt

động của doanh nghiệp nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể,

ảnh hưởng đến sự vận hành của thị trường, của nền kinh tế nên doanh nghiệp

muốn được giải thể thì phải đáp ứng điều kiện về tình trạng của doanh nghiệp

mới được giải thể. Pháp luật về doanh nghiệp quy định về tình trạng của

doanh nghiệp được phép giải thể trong 02 trường hợp sau:

- (i) Doanh nghiệp giải thể tự nguyện: đây là việc giải thể mà do chính

doanh nghiệp quyết định trong quá trình tiến hành hoạt động của mình khi

thấy rằng việc tồn tại của doanh nghiệp là không còn cần thiết, hoặc doanh

nghiệp không còn đủ khả năng duy trì hoạt động. Đây là trường hợp giải thể

pháp luật cho phép xuất phát từ quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo

hộ, mà quyền chấm dứt doanh nghiệp là một phần của quyền tự do kinh

doanh. Cụ thể: Doanh nghiệp mặc dù đang hoạt động nhưng theo quyết định

của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân, của tất cả thành viên hợp

danh đối với công ty hợp danh, của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty

đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông đối với Công

ty cổ phần thống nhất quyết định giải thể doanh nghiệp; hoặc, hết thời hạn

hoạt động theo Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn.

- (ii) Doanh nghiệp giải thể bắt buộc: là trường hợp giải thể do cơ quan

Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp phải tiến hành giải thể. Nhà nước yêu cầu

doanh nghiệp phải giải thể khi doanh nghiệp không đáp ứng được điều kiện

để một doanh nghiệp tồn tại và hoạt động theo quy định của pháp luật, cụ thể:

Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật

này trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình

doanh nghiệp hoặc bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Thứ hai, điều kiện về tài chính và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi giải thể

28

Một trong những hậu quả khi doanh nghiệp giải thể đó là việc phải giải quyết

xong các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp, cụ thể là đối với các thành viên, cổ

đông của doanh nghiệp; người thứ ba (trật tự công, người lao động, chủ nợ...).

Điều này, xuất phát từ quyền được bảo hộ tài sản hợp pháp của công dân. Pháp

luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam quy định điều kiện về thực hiện nghĩa

vụ thanh toán các khoản nợ cũng như các nghĩa vụ khác, cụ thể:

- (i) Doanh nghiệp đã thanh toán hết các khoản nợ

- (ii) Doanh nghiệp đã hoàn thành các nghĩa vụ tài sản khác.

- (iii) Doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án

hoặc cơ quan trọng tài. Các quy định về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể có

liên quan đến việc giải thể doanh nghiệp.

Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để cho phép hoặc bắt buộc một

doanh nghiệp giải thể. Bởi lẽ, nếu không giải quyết được vấn đề này thì

quyền lợi của người thứ ba sẽ bị xâm phạm.

Thứ ba, điều kiện về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp.

Pháp luật các nước cũng như Việt Nam đều quy định trình tự thủ tục giải

thể là bắt buộc. Đây là vấn đề quan trọng xác định lộ trình cụ thể để đảm bảo

thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan. Trình

tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp bao gồm: thông qua quyết định giải thể doanh

nghiệp, thanh lý tài sản, thông báo quyết định giải thể doanh nghiệp…..Ngoài

ra, đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực đặc thù như: doanh nghiệp bảo

hiểm, Ngân hàng, doanh nghiệp trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng….. thì bên

cạnh việc áp dụng các quy định mang tính chất chung như trên thì việc giải thể

còn áp dụng các quy định mang tính đặc thù nhằm đảm bảo tính hiệu quả của

việc giải thể các doanh nghiệp này.

29

Tiểu kết Chương 1

Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh quan trọng và không thể thiếu

trong nền kinh tế hiện nay khi thực hiện các hoạt động kinh doanh để tạo ra

sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho các nhu cầu của toàn xã hội.

Trong quá trình hoạt động, có những doanh nghiệp có nhu cầu muốn chấm

dứt hoạt động; cũng có những doanh nghiệp bắt buộc phải chấm dứt hoạt

động và giải thể doanh nghiệp là một trong những cách thức để doanh nghiệp

chấm dứt hoạt động. Để đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh

nghiệp trong quá trình kinh doanh, giúp doanh nghiệp rút khỏi thị trường một

cách lành mạnh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác thì

cần có một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh về điều kiện giải thể doanh nghiệp.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định điều chỉnh về điều kiện

giải thể doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi

hành. Các quy định đó bên cạnh giúp đạt được các mục đích nêu trên thì còn

là công cụ giúp Nhà nước nâng cao hiệu quả quản lý đối với việc hoạt động

của doanh nghiệp.

30

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ

DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh

nghiệp ở Việt Nam hiện nay

2.1.1. Tổng quan pháp luật điều chỉnh về giải thể doanh nghiệp

Hiện nay ở Việt Nam các quy định về giải thể doanh nghiệp nói chung

được ghi nhận cơ bản trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 và hệ thống các

văn bản hướng dẫn thi hành, gồm những nội dung cơ bản sau: các trường hợp

và điều kiện giải thể doanh nghiệp; trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp và

các quy định về quyền, lợi ích của các chủ thể liên quan trong quá trình giải

thể doanh nghiệp. Cụ thể:

Thứ nhất, pháp luật về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp

Pháp luật Việt Nam quy định các trường hợp và điều kiện giải thể

doanh nghiệp tại khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014 với 04

trường hợp doanh nghiệp tiến hành thủ tục giải thế:

(i) Kết thúc thời gian hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không

có quyết định gia hạn. Điều lệ công ty hay chính là bản cam kết của tất cả

thành viên trong công ty về thành lập và hoạt động công ty, trong đó có thỏa

thuận về thời gian hoạt động của doanh nghiệp.“Kết thúc thời hạn hoạt động

đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn” có nghĩa là

khoảng thời gian doanh nghiệp tồn tại mà thành viên đã định ra với nhau đã

hết, mà các thành viên không muốn xin gia hạn hoạt động thì công ty đương

nhiên phải tiến hành giải thể;

(ii) Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư

nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của Hội đồng

31

thành viên, chủ sở hữu công ty đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn, của

Đại hội cổ đông đối với Công ty cổ phần.

(iii) Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định

của Luật này trong thời hạn 6 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi

loại hình doanh nghiệp.

(iv) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Bị thu hồi giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng có nghĩa là Nhà nước rút lại sự công

nhận tư cách chủ thể của doanh nghiệp. Lúc này doanh nghiệp không còn

được tiến hành các hoạt động kinh doanh, mục đích thành lập của doanh

nghiệp đương nhiên sẽ không có cơ hội để thực hiện nói cách khác sự tồn tại

của doanh nghiệp sẽ không còn ý nghĩa. Vì vậy, pháp luật đã quy định trong

trường hợp này doanh nghiệp phải tiến hành giải thể.

Thứ hai, quy định về điều kiện giải thể doanh nghiệp

Tại Khoản 2 Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về điều

kiện giải thể doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo

đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp

không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.

Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm d khoản 1

Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.

Như vậy, mặc dù cho doanh nghiệp giải thể theo trường hợp nào, tự nguyện

hay bắt buộc thì cũng phải thỏa mãn các điều kiện trên. Nếu doanh nghiệp

không đáp ứng được điều kiện này thì doanh nghiệp không thể chấm dứt hoạt

động theo thủ tục giải thể. Đây cũng là một trong những tiêu chí để phân biệt

giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp.

Thứ ba, quy định về trình tự, thủ tục và giải thể doanh nghiệp

Trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp của pháp luật Việt Nam quy định

tại Điều 202 Luật Doanh nghiệp 2014 và Điều 59 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP

quy định về trình tự, thủ tục giải thể trong các trường hợp giải thể doanh nghiệp

32

(trừ trường hợp giải thể do bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp)

như sau:

- Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp

- Gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh, chủ nợ và

công khai quyết định này.

- Tổ chức thanh lý tài sản và thanh toán nợ.

- Gửi đề nghị giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan đăng

ký kinh doanh cấp nhận tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên cơ sở dữ

liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

Sau thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải thể,

không nhận được ý kiến hoặc phản đối của bên có liên quan bằng văn bản

hoặc trong 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Cơ quan đăng ký

kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp dựa trên Cơ sở dữ

liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, đồng thời thông báo về việc giải thể

của doanh nghiệp.

Thứ tư, quy định về quyền, lợi ích của các chủ thể liên quan trong quá trình

giải thể doanh nghiệp

Pháp luật Việt Nam quy định về các hành vi bị nghiêm cấm kể từ khi

có quyết định giải thể Điều 201, Điều 205 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

Kể từ ngày quyết định giải thể doanh nghiệp, nghiêm cấm doanh

nghiệp, người quản lý doanh nghiệp thực hiện các hoạt động cất giấu, tẩu tán

tài sản; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo

đảm thành các khoản nợ có đảm bảo bằng tài sản doanh nghiệp; ký kết hợp

đồng mới trừ trường hợp để thực hiện giải thể doanh nghiệp; cầm cố, thế

chấp, tặng cho, cho thuê tài sản; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;

huy động vốn dưới mọi hình thức; tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, cá

nhân có hành vi vi phạm có thể xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu

33

trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường (Điều 205 Luật

Doanh nghiệp 2014).

Thứ năm, quy định về quản lý nhà nước về giải thể doanh nghiệp

Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý bằng hệ thống chính sách của

Đảng, pháp luật của nhà nước, các chế tài về kinh tế - tài chính nhằm thực

hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, nhằm thúc

đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định tình hình chính trị - xã hội của đất nước.

Đối với hoạt động giải thể doanh nghiệp, Nhà nước cũng bằng hệ thống pháp

luật về doanh nghiệp cùng các công cụ quản lý khác của Nhà nước để thực

hiện chức năng quản lý của Nhà nước về hoạt động giải thể doanh nghiệp.

Pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam quy định:

- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản

lý Nhà nước đối với doanh nghiệp trong phạm vi địa phương. Ủy ban nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn được phân công chịu trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trực

thuộc và Ủy ban nhân dân cấp huyện định kỳ gửi cho Cơ quan đăng ký kinh

doanh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính các thông tin theo quy định tại khoản 2

Điều này (Điều 208, Luật doanh nghiệp 2014).

- Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện giải thể doanh nghiệp là cơ

quan đăng ký kinh doanh. Theo điểm e, khoản 1 Điều 209 quy định Cơ quan

đăng ký kinh doanh có nhiệm vụ, quyền hạn: “Xử lý vi phạm các quy định về

đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thu hồi Giấy chứng nhận

đăng ký doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo quy

định của Luật này”. Như vậy, Cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền thu

hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm

thủ tục giải thể.

Ngoài ra, tại Điều 203, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định giải thể doanh

nghiệp trong trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc

34

theo quyết định của Tòa án. Theo đó Cơ quan đăng ký kinh doanh, phải thông

báo tình trạng doanh nghiệp đang làm thủ tục giải thể trên Cổng thông tin

quốc gia về đăng ký doanh nghiệp đồng thời với việc ra quyết định thu hồi

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc ngay sau khi nhận được quyết

định giải thể của Tòa án đã có hiệu lực thi hành. Kèm theo thông báo phải

đăng tải quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc

quyết định của Tòa án. Như vậy, Tòa án có thẩm quyền yêu cầu doanh nghiệp

giải thể.

2.1.2. Quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp

2.1.2.1. Điều kiện về tình trạng của doanh nghiệp được phép giải thể

Theo Khoản 1, Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2014, quy định của pháp

luật về giải thể bao gồm các trường hợp giải thể như sau:

Thứ nhất, kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà

không có quyết định gia hạn.

Điều lệ công ty được xem như là một đạo luật riêng của công ty. Tất cả

các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức, phương hướng hoạt động, cơ chế

giải quyết tranh chấp được quy định trong Điều lệ công ty trên cơ sở cam kết,

thỏa thuận của các thành viên sáng lập công ty và nội dung đó không trái với

quy định của pháp luật, có giá trị bắt buộc đối với công ty (bao gồm người sở

hữu, người quản lý và người lao động).

Ngay từ khi thành lập, doanh nghiệp có thể quyết định thời hạn hoạt

động của công ty và được ghi nhận trong Điều lệ công ty. Khi hết thời hạn

này thì doanh nghiệp sẽ phải giải thể, tuy nhiên không phải khi đến hạn này

thì việc giải thể bắt buộc phải thực hiện, mà doanh nghiệp có thể quyết định

việc tiếp tục tồn tại thông qua quyết định gia hạn. Về nguyên tắc, khi doanh

nghiệp hết thời hạn hoạt động mà không có quyết định gia hạn thì phải giải thể.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay nhiều Điều lệ công ty không phải ghi thời

gian hoạt động bởi không phải nội dung bắt buộc trong điều lệ, nên sẽ không

35

xuất hiện trường hợp giải thể khi kết thúc thời hạn được ghi trong Điều lệ

công ty. Ngoài ra, theo quy định của Luật Đầu tư 2014, một số trường hợp

thời hạn hoạt động lại được quy định trong Giấy chứng nhận đầu tư (Khoản 7

Điều 39 Luật Đầu tư); riêng dự án đầu tư có vốn nước ngoài mà thành lập tổ

chức kinh tế (doanh nghiệp) sẽ có thời hạn hoạt động và thời hạn này được

ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, chứ không phải ghi trong Điều lệ

công ty, điều này cho thấy sự không tương thích giữa Luật Đầu tư và Luật

Doanh nghiệp.

Thứ hai, theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư

nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của Hội đồng

thành viên, chủ sở hữu công ty đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại

hội đồng cổ đông đối với Công ty cổ phần

Quy định này của pháp luật thể hiện việc tôn trọng của Nhà nước đối

với chủ sở hữu trong việc định đoạt doanh nghiệp của mình, đồng thời cũng là

ví dụ thể hiện rõ quyền của chủ doanh nghiệp trong việc giải thể doanh

nghiệp. Đây là cách làm của nhiều chủ doanh nghiệp khi đứng trước các khó

khăn không thể tháo gỡ về kinh tế, nhân sự, là cách để bảo vệ quyền lợi của

doanh nghiệp cũng như bảo vệ quyền lợi của người lao động trước pháp luật.

Thứ ba, Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy

định của Luật này trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục

chuyển đổi loại hình doanh nghiệp

Một trong những điều kiện cơ bản để thành lập doanh nghiệp chính là

phải có đủ số lượng thành viên tối thiểu. Hiện nay, không có một con số cụ

thể nào về số lượng thành viên tối thiểu đối với tất cả các loại hình doanh

nghiệp. Số lượng thành viên tối thiểu là bao nhiêu thì phải tùy thuộc vào loại

hình doanh nghiệp của công ty đó. Theo Luật Doanh nghiệp 2014, số lượng

thành viên yêu cầu tối thiểu đối với công ty hợp danh là 2 thành viên, con số

này cũng đúng đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên,

36

nhưng Công ty cổ phần thì số lượng cổ đông tối thiểu là 3 (điểm b, Điều 110,

Luật Doanh nghiệp 2014).

Như vậy, khi không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu để tiếp tục

tồn tại, công ty phải kết nạp thêm các thành viên cho đủ số lượng tối thiểu

trong thời hạn 6 tháng. Sau thời hạn trên, công ty không kết nạp thêm thành

viên dẫn đến không đủ điều kiện pháp lý cơ bản nhất cho việc tồn tại, mà

công ty cũng không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp thì công ty

phải giải thể. So với Luật Doanh nghiệp năm 2005 Luật Doanh nghiệp năm

2014 đã bổ sung thêm cụm từ “mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình

doanh nghiệp” vào điểm c khoản 1 Điều 201 quy định về công ty không còn

đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn 06

tháng liên tục. Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi vì số lượng thành viên tối

thiểu cho mỗi loại hình công ty là khác nhau và do pháp luật quy định; đồng

thời quy định này cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp khi chưa muốn giải

thể mà tiếp tục kinh doanh thì có thể làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh

nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay việc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền muốn

xác định được tính liên tục trong hoạt động của doanh nghiệp là rất khó khăn

bởi lẽ không có một căn cứ cụ thể nào để xác định được tính liên tục trong

hoạt động của doanh nghiệp hiện nay.

Thứ tư, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Công ty sẽ bị giải thế nếu bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh

nghiệp cũng là một trường hợp của bắt buộc giải thể doanh nghiệp. Trường

hợp thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được quy định tại Điều

211, Luật Doanh nghiệp 2014.

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là căn cứ pháp lý không thể

thiếu cho sự tồn tại và hoạt động của các doanh nghiệp nói chung, công ty nói

riêng. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là một dạng văn bản pháp quy

đảm nhận vai trò “giấy khai sinh” – ghi nhận ngày đăng ký kinh doanh lần

đầu và là căn cứ xác thực năng lực pháp lý cho một doanh nghiệp ngoài ra nó

37

còn là “giấy thông hành” để doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động của

mình và xác lập quan hệ đối với các cơ quan Nhà nước và các chủ thể khác.

Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng có nghĩa là Nhà

nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể của doanh nghiệp. Lúc này doanh

nghiệp không còn được tiến hành các hoạt động kinh doanh, mục đích thành

lập của doanh nghiệp đương nhiên sẽ không có cơ hội để thực hiện nói cách

khác sự tồn tại của doanh nghiệp sẽ không còn ý nghĩa. Vì vậy, pháp luật đã

quy định trong trường hợp này doanh nghiệp phải tiến hành giải thể.

Như vậy, khi doanh nghiệp rơi vào một trong các trường hợp đã nêu thì

có thể tiến hành giải thể doanh nghiệp. Có 02 trường hợp giải thể doanh

nghiệp là giải thể tự nguyện (điểm a, b) và 02 trường hợp là giải thể bắt buộc

theo quy định của pháp luật.

Qua đó thấy được rằng điều luật này đã khái quát một cách khá cụ thể

về các trường hợp và điều kiện để giải thể doanh nghiệp giúp cho doanh

nghiệp có thể chủ động nắm bắt khi nào thì được tiến hành giải thể.

2.1.2.2. Quy định điều kiện về tài chính và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi

giải thể

Tuy nhiên, dù là giải thể tự nguyện hay bắt buộc, theo quy định của

Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp chỉ được giải thể nếu thỏa mãn được

cả các điều kiện giải thể được quy định tại Khoản 2, Điều 201 “doanh nghiệp

chỉ có thể thực hiện thủ tục giải thể nếu tài sản của doanh nghiệp tại thời

điểm giải thể đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác,

đồng thời doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa

án hoặc cơ quan trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy

định tại điểm d khoản 1 Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản

nợ của doanh nghiệp”. Như vậy, vấn đề quan trọng nhất khi doanh nghiệp

muốn giải thể phải trả hết tất cả các khoản nợ, hoàn tất mọi nghĩa vụ tài sản

khác, nếu không đáp ứng được điều kiện đó, không thể tiến hành thủ tục giải

38

thể phải thực hiện một thủ tục pháp lý khác (thủ tục phá sản theo quy định của

Luật Phá sản) để châm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Bên

cạnh đó, doanh nghiệp không đang là nguyên đơn hoặc bị đơn (chủ yếu là bị

đơn) trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc Cơ quan trọng tài.

Việc quy định doanh nghiệp chỉ được giải thể “khi bảo đảm thanh toán hết

các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình

giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài” là nhằm đảm bảo tối

đa quyền, lợi ích, của những người có liên quan tới hoạt động giải thể như

người lao động, chủ nợ.

Tuy nhiên, để tạo ra một cơ chế giúp Cơ quan đăng ký kinh doanh xác

định chính xác doanh nghiệp giải thể đã trả hết nợ hay chưa, đang trong quá

trình giải quyết tranh chấp hay không là một việc không hề đơn giản. Hơn

nữa, Luật Doanh nghiệp 2014 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa

hướng dẫn như thế nào được coi là “đảm bảo thanh toán” bởi “bảo đảm

thanh toán hết” và “thanh toán hết” là hai khái niệm với mức độ thực hiện

khác nhau; đồng thời thực tế các trường hợp doanh nghiệp và chủ nợ thỏa

thuận được về việc chuyển giao nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ của doanh

nghiệp thì người nhận chuyển giao nghĩa vụ có nghĩa vụ thanh toán các khoản

nợ của doanh nghiệp khi bị giải thể thì có được coi là đảm bảo thanh toán và đủ

điều kiện giải thể hay không? Hơn nữa tại Khoản 2 Điều 201 của Luật Doanh

nghiệp 2014 chỉ yêu cầu về nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp mà không quan

tâm đến các nghĩa vụ khác được thực hiện như thế nào chẳng hạn như nghĩa vụ

bảo vệ môi trường của những doanh nghiệp đặc thù, doanh nghiệp có các hoạt

động có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường như: doanh nghiệp kinh doanh trong

lĩnh vực y tế, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dầu khí, hay doanh nghiệp

xử lí chất thải, doanh nghiệp kinh doanh hóa chất các loại…

2.1.2.3. Quy định về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp

39

Thứ nhất, trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp đối với các trường

hợp giải thể được quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 201 Luật Doanh

nghiệp 2014

Bước 1: Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp

Trong trường hợp việc giải thể doanh nghiệp được tiến hành theo quyết

định của chủ sở hữu doanh nghiệp, quyết định giải thể doanh nghiệp được

thông qua theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và điều lệ của từng

doanh nghiệp cụ thể. Nếu là doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp quyết

định; đối với công ty hợp danh, quyết định giải thể công ty phải được ít nhất

¾ tổng số thành viên hợp danh chấp thuận, trừ trường hợp Điều lệ công ty có

quy định khác đối với công ty cổ phần, quyết định giải thể công ty phải được

số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ

đông dự họp chấp thuận, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác; đối

với Công ty TNHH hai thành viên trở lên thì phải được số phiếu đại diện ít

nhất 75% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp chấp thuận...

Nội dung của quyết định giải thể doanh nghiệp bao gồm những nội

dung chủ yếu sau đây: Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; Lý do giải

thể; Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của

doanh nghiệp; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt

quá 06 tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể; Phương án xử lý các

nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động; Họ, tên, chữ ký của người đại diện

theo pháp luật của doanh nghiệp.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông qua quyết định giải

thể, doanh nghiệp gửi thông báo về việc giải thể đến Phòng Đăng ký kinh

doanh, Cơ quan Thuế, người lao động trong doanh nghiệp, đăng quyết định

giải thể trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và phải được

niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh

nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo tình trạng doanh nghiệp

40

đang làm thủ tục giải thể trên Cổng Thông tin quốc gia về đăng ký doanh

nghiệp ngay sau khi nhận được quyết định giải thể của doanh nghiệp. Kèm

theo thông báo phải có quyết định của chủ sở hữu công ty đối với Công ty

trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Quyết định và bản sao hợp lệ biên bản

họp của Hội đồng thành viên đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành

viên trở lên, của Đại hội đồng cổ đông đối với Công ty cổ phần, của các thành

viên hợp danh đối với công ty hợp danh về việc giải thể doanh nghiệp.

Trường hợp doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thanh toán thì

phải gửi kèm theo quyết định giải thể phương án giải quyết nợ đến các chủ

nợ, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan. Thông báo phải có tên, địa

chỉ của chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó;

cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ.

Trên thực tế, khi thực hiện bước đầu tiên này hầu như các doanh nghiệp

giải thể chẳng bao giờ gửi Thông báo, Quyết định và Biên bản họp về việc

giải thể (kèm theo phương án giải quyết nợ nếu có) đến Cơ quan đăng ký kinh

doanh để đăng trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Cũng

không mấy doanh nghiệp thực hiện niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi

nhánh, văn phòng đại diện để cho người lao động, tổ chức, cá nhân có liên

quan biết về tình trạng của doanh nghiệp. Có chăng chỉ là việc liên hệ với cơ

quan Thuế để thực hiện nghĩa vụ thuế sau cùng trước khi giải thể doanh

nghiệp (nếu không có xác nhận hoàn tất nghĩa vụ thuế thì không được giải thể).

Do đó, Cơ quan đăng ký kinh doanh không thể nào kiểm soát được tình hình

thanh toán nợ của doanh nghiệp giải thể với các chủ nợ khác. Khi bản thân

các “chủ nợ” còn khó khăn trong việc nắm bắt tình hình đang làm thủ tục giải

thể của “con nợ” (trừ khi doanh nghiệp giải thể thông báo). Thậm chí, tình

trạng giải thể nếu có được đăng trên Cổng Thông tin quốc gia, các doanh

nghiệp chủ nợ cũng khó mà biết, bởi các họ không theo dõi cập nhật thường

xuyên tình trạng các doanh nghiệp giải thể để xem trong đó có “con nợ” của

41

mình hay không. Do đó, nhiều doanh nghiệp “chủ nợ” khi đi đòi nợ mới vỡ lẽ

“con nợ” đã giải thể từ thuở nào.

Bước 2: Doanh nghiệp giải thể tiến hành thanh lý tài sản và thanh toán

khoản nợ

Chủ doanh nghiệp tư nhân, Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công

ty, Hội đồng quản trị trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp, trừ

trường hợp Điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức thanh lý riêng. Các

khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự sau: (1) Các khoản

nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và

các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp

đồng lao động đã ký kết; (2) Nợ thuế; (3) Các khoản nợ khác. Sau khi đã

thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh nghiệp, phần còn lại

chia cho chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu

công ty theo tỷ lệ sở hữu phần vốn góp, cổ phần. Tuy nhiên, pháp luật không

quy định cụ thể về thứ tự ưu tiên hay không ưu tiên thanh toán đối với các

khoản nợ có bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ có đảm bảo trong

khi Pháp luật phá sản quy định rất rõ điều này.

Bước 3: Gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh

doanh để hoàn tất thủ tục giải thể doanh nghiệp

- Trước khi gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh

doanh thì doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế

theo thủ tục được quy định tại Điều 15 Thông tư 80/202/TT-BTC ngày

22/5/2012 hướng dẫn Luật Quản lý Thuế và Đăng ký Thuế. Đối với doanh

nghiệp sử dụng con dấu do Cơ quan Công an cấp, doanh nghiệp có trách

nhiệm trả con dấu, Giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu con dấu cho Cơ quan

Công an để được cấp Giấy chứng nhận đã thu hồi con dấu theo Thông tư

07/20210/TT-BCA ngày 05/2/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của

Nghị định số 58/2011/NĐ-CP ngày 24/8/2001 về quản lý và sử dụng con dấu

42

đã được sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 31/2009/NĐ-CP ngày

01/4/2009. Trong trường hợp này, con dấu và Giấy chứng nhận mẫu dấu

trong hồ sơ giải thể doanh nghiệp khi doanh nghiệp không còn đủ thành viên

tối thiểu trong 6 tháng liên tục mà không tiến hành chuyển đổi mô hình doanh

nghiệp thì được thay thế bằng Giấy chứng nhận đã thu hồi con dấu.

- Sau đó, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gửi đề nghị

giải thể (hồ sơ giải thể) cho Cơ quan đăng ký kinh doanh trong 05 ngày làm

việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp. Hồ sơ giải thể

của doanh nghiệp bao gồm: Thông báo về giải thể doanh nghiệp; Báo cáo

thanh lý tài sản doanh nghiệp; danh sách chủ nợ và số nợ đã thanh toán, gồm

cả thanh toán hết các khoản nợ về thuế và nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội,

người lao động sau khi quyết định giải thể doanh nghiệp (nếu có); Con dấu và

Giấy chứng nhận mẫu dấu (nếu có); Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

- Sau khi nhận được hồ sơ giải thể của doanh nghiệp, Phòng Đăng ký

kinh doanh gửi thông tin về việc doanh nghiệp đăng ký giải thể cho cơ quan

Thuế. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông tin của

Phòng Đăng ký kinh doanh, cơ quan Thuế gửi ý kiến về việc giải thể của

doanh nghiệp đến Phòng Đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn 05 ngày làm

việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Phòng Đăng ký kinh doanh chuyển tình

trạng pháp lý của doanh nghiệp trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký

doanh nghiệp sang tình trạng giải thể nếu không nhận được ý kiến từ chối của

cơ quan Thuế, đồng thời ra Thông báo về việc giải thể của doanh nghiệp. Như

vậy, chỉ khi cơ quan Thuế từ chối thì hồ sơ giải thể của doanh nghiệp mới có

thể bị trả lại. Như vậy, cơ chế kiểm soát nghĩa vụ thanh toán nợ của doanh

nghiệp giải thể được pháp luật quy định chỉ là nghĩa vụ thuế với Nhà nước.

Còn đối với quyền lợi chính đáng của các tổ chức, cá nhân có liên quan Luật

Doanh nghiệp 2014 có quy định về “trách nhiệm cá nhân” đối với thành viên

Hội đồng quản trị Công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên Công ty

43

trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám

đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh, người đại diện theo pháp luật

của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ

giải thể doanh nghiệp. Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo,

những người nêu trên phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa

thanh toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi của người lao động chưa được giải

quyết và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh

trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến Cơ

quan đăng ký kinh doanh. Điều đó có nghĩa là nếu hồ sơ giải thể có giả mạo,

thiếu trung thực (không liệt kê một số chủ nợ...), pháp luật quy định những

người chủ sở hữu hoặc người quản lý doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm

thanh toán khoản nợ chưa thanh toán đó bằng tài sản riêng của mình. Thời

hạn này như một biện pháp “chế tài”, buộc các chủ nợ cũng phải có ý thức

quan tâm đến đối tác, đến việc thu hồi công nợ của mình để bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp đó một cách kịp thời và hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế khi

những người chịu trách nhiệm có hành vi “bỏ trốn” thì việc yêu cầu chịu

trách nhiệm hoặc trách nhiệm liên đới là chuyện không dễ dàng.

Thứ hai, trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp trong trường hợp bị thu

hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc theo quyết định của Tòa án.

Điều 203 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cụ thể về trình tự, thủ tục

giải thể doanh nghiệp trong trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký

doanh nghiệp hoặc theo quyết định của Tòa án, cụ thể:

Bước 1: Cơ quan đăng ký kinh doanh, phải thông báo tình trạng doanh

nghiệp đang làm thủ tục giải thể trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký

doanh nghiệp đồng thời với việc ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng

ký doanh nghiệp hoặc ngay sau khi nhận được quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực thi hành. Kèm theo thông báo phải đăng tải quyết định thu hồi Giấy

chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc quyết định của Tòa án;

44

Bước 2: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thu

hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc quyết định của Tòa án có

hiệu lực, doanh nghiệp phải triệu tập họp để quyết định giải thể. Quyết định

giải thể và bản sao quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực phải được gửi đến Cơ quan đăng ký

kinh doanh, Cơ quan Thuế, người lao động trong doanh nghiệp và phải được

niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi nhánh của doanh nghiệp. Đối với

trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định giải thể doanh

nghiệp phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba

số liên tiếp.

Trường hợp doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thanh toán thì

phải đồng thời gửi kèm theo quyết định giải thể của doanh nghiệp phương án

giải quyết nợ đến các chủ nợ, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan.

Thông báo phải có tên, địa chỉ của chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và

phương thức thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại

của chủ nợ.

Lưu ý: Các khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự

sau: (1) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định

của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao

động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết; (2) Nợ thuế; (3) Các khoản nợ

khác. Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh

nghiệp, phần còn lại chia cho chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ

đông hoặc chủ sở hữu công ty theo tỷ lệ sở hữu phần vốn góp, cổ phần.

Bước 3: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gửi đề nghị

giải thể cho Cơ quan đăng ký kinh doanh trong 05 ngày làm việc, kể từ ngày

thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp.

Bước 4: Sau thời hạn 180 ngày, kể từ ngày thông báo tình trạng giải

thể doanh nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều này mà không nhận phản đối

45

của bên có liên quan bằng văn bản hoặc trong 05 ngày làm việc kể từ ngày

nhận hồ sơ giải thể, Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý

của doanh nghiệp trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

2.1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi doanh nghiệp thực hiện thủ

tục giải thể doanh nghiệp

Hiện nay, pháp luật quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể

khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp.

Thứ nhất, các hoạt động bị cấm kể từ khi có quyết định giải thể

doanh nghiệp.

Quy định này được quy định tại Điều 204 Luật Doanh nghiệp 2014,

theo đó: kể từ khi có quyết định giải thể doanh nghiệp, nghiêm cấm doanh

nghiệp, người quản lý doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sau đây: Cất

giấu, tẩu tán tài sản; Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; Chuyển các khoản nợ

không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh

nghiệp; Ký kết hợp đồng mới trừ trường hợp để thực hiện giải thể doanh

nghiệp; Cầm cố, thế chấp, tặng cho, cho thuê tài sản; Chấm dứt thực hiện hợp

đồng đã có hiệu lực; Huy động vốn dưới mọi hình thức. Quy định này nhằm

mục đích bảo toàn tài sản của doanh nghiệp khi tiến hành giải thể doanh

nghiệp, tăng khả năng trả nợ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ

thể có liên quan và qua đó xác định được điều kiện chấp thuận cho doanh nghiệp

giải thể.

Thứ hai, quy định trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp bị giải thể.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 204 Luật Doanh nghiệp, thành viên

Hội đồng quản trị Công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên Công ty

trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám

đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh, người đại diện theo pháp luật

của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ

giải thể doanh nghiệp. Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo,

46

những người này phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa thanh

toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi của người lao động chưa được giải quyết

và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh trong

thời hạn 05 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến Cơ quan

đăng ký kinh doanh. Quy định này nhằm ràng buộc trách nhiệm nếu như có

sai sót và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể có liên quan.

Tuy nhiên, lại chưa có quy định về chế tài áp dụng với doanh nghiệp,

người quản lý doanh nghiệp nếu thực hiện các hoạt động bị cấm kể từ khi có

quyết định giải thể. Nghị định 155/2013/ND-CP ngày 11/11/2013 quy định xử

phạt hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư mới chỉ dừng lại quy định

xử phạt đối với hành vi không tiến hành thủ tục giải thể đối với doanh nghiệp

thuộc các trường hợp bị giải thể theo quy định của pháp luật (Điều 34), kinh

doanh dưới danh nghĩa doanh nghiệp khi đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng

ký doanh nghiệp hoặc đã giải thể (điểm b, khoản 2, Điều 23),… Dẫn tới thực

tế, một số chủ doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở này và thực hiện các hoạt động bị

cấm. Hơn nữa, chế tài xử phạt còn chưa đủ răn đe, nhiều doanh nghiệp không

quan tâm đến nghĩa vụ giải thể doanh nghiệp.

* Lưu ý: Trước khi thực hiện thủ tục đăng ký giải thể doanh nghiệp,

doanh nghiệp phải làm thủ tục chấm dứt hoạt động các chi nhánh, văn phòng

đại diện, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp tại Phòng Đăng ký kinh

doanh nơi đặt chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh.

2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh

nghiệp ở Viện Nam

2.2.1. Những kết quả đạt được

Trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới, số lượng doanh nghiệp

giải thể trên tăng qua các năm là kết quả tất yếu của quy luật cạnh tranh, thanh

lọc, đào thải của thị trường; Nhiều doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn

trong việc tiếp cận các nguồn lực như tín dụng, đất đai; hiện tượng nhũng

47

nhiễu, gây khó dễ cho doanh nghiệp vẫn còn xảy ra. Từ đó, những doanh

nghiệp yếu kém, năng lực quản trị kém, thiếu tư duy về thị trường; trình độ

ứng dụng khoa học công nghệ thấp; thiếu tính đổi mới sáng tạo trong sản

phẩm; chất lượng hàng hóa, quy mô sản xuất và năng suất lao động còn thấp

không đủ sức cạnh tranh sẽ bị loại bỏ để thay vào đó là những doanh nghiệp

mới với những ý tưởng kinh doanh mới có chất lượng hơn. Đặc biệt, trong bối

cảnh hội nhập, nền kinh tế Việt Nam lại là một nền kinh tế năng động, đang

có nhiều triển vọng, khoa học công nghệ không ngừng phát triển như hiện nay

thì sức ép đối với doanh nghiệp càng lớn, tính cạnh tranh, thanh lọc càng thể

hiện rõ rệt. Theo thống kê cho thấy từ năm 2014 đến nay số doanh nghiệp

giải thể, ngừng hoạt động tăng cao, cụ thể:

- Năm 2014: cả nước có 67.823 doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải

giải thể và 58.322 doanh nghiệp khó khăn phải ngừng hoạt động, tăng 14,5%

so với năm trước.

- Năm 2015: cả nước có hơn 9.400 doanh nghiệp giải thể và 71.391 doanh

nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước [18].

- Năm 2016: cả nước có số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là

12.478 doanh nghiệp, tăng 3.011 doanh nghiệp so với năm 2015 (tăng

31,8%). Số lượng doanh nghiệp giải thể phần lớn là những doanh nghiệp có

quy mô vốn đăng ký nhỏ dưới 10 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 93,1% trên tổng số đơn

vị kinh doanh bị giải thể của cả nước. Cũng theo Cục Quản lý Đăng ký kinh

doanh, Bộ KH&ĐT, tình hình doanh nghiệp giải thể trong năm 2016 tăng tại

một số vùng trong cả nước so với cùng kỳ năm 2015, cụ thể: vùng Tây

Nguyên có 1.186 doanh nghiệp, tăng 273%; vùng Đông Nam Bộ có 4.849

doanh nghiệp, tăng 41,9%; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có

1.898 doanh nghiệp, tăng 28,1%; vùng Đồng bằng Sông Hồng có 2.274 doanh

nghiệp, tăng 24,4%. Ở chiều ngược lại, Trung du và miền núi phía Bắc có 567

doanh nghiệp, giảm 6,3%; vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có 1.704 doanh

48

nghiệp, giảm 6,2%. Về cơ cấu các ngành, số DN trong ngành nông, lâm thủy

sản có số lượng DN giải thể nhiều nhất với khoảng trên 500 DN, tăng 107%

so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực có số DN giải thể nhiều thứ 2 là Y tế và

hoạt động trợ giúp xã hội có số DN giải thể tăng 90,9%; Kinh doanh bất động

sản tăng 69,6%; Khai khoáng tăng 61,5%... và cuối cùng ngành Thông tin và

truyền thông có 394 doanh [23].

- Năm 2017, cả nước có 126.859 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới

với tổng vốn đăng ký là 1.295,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% về số doanh

nghiệp. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong năm 2017 là 12.113

doanh nghiệp, giảm 2,9% so với năm trước, trong đó 11.087 doanh nghiệp có

quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 91,5%. Nếu phân theo loại hình doanh

nghiệp, trong tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, có 5.242 Công ty

trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 43,3%); 3.459 Công ty trách nhiệm

hữu hạn 2 thành viên (chiếm 28,6%); 1.806 doanh nghiệp tư nhân (chiếm

14,9%); 1.603 Công ty cổ phần (chiếm 13,2%) và 3 Công ty hợp danh [21].

- Năm 2018, cả nước có 131.275 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới.

Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp giải thể trong năm 2018 cũng lên 16.314

doanh nghiệp [12].

- Năm 2019 tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường

trong là 177.560 doanh nghiệp (tăng 7,4% so với năm 2018), bao gồm:

138.139 doanh nghiệp thành lập mới (tăng 5,2%) và 39.421 doanh nghiệp

quay trở lại hoạt động (tăng 15,9%). Tuy nhiên, trong năm 2019 cũng có đến

16.840 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể (tăng 3,2%). Trung bình mỗi

tháng có 7.440 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Và trong số 16.840 doanh

nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể thì doanh nghiệp hoạt động trong ngành kinh

doanh bất động sản cũng có tỷ lệ giải thể nhiều nhất (686 doanh nghiệp, tăng

39,4%); y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có 103 doanh nghiệp, tăng 47,1%;

và tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có 208 doanh nghiệp, tăng 30,8% [11]

49

Trong quá tình thực hiện các thủ tục hành chính để tiến hành giải thể

doanh nghiệp, về cơ bản các doanh nghiệp đã tuân theo các quy định của pháp

luật. Điều đó dẫn đến số lượng các doanh nghiệp hoàn tất các thủ tục giải thể

tăng qua các năm. Điều này xuất phát từ khung khổ pháp lý hiện hành về giải

thể doanh nghiệp khá rõ ràng, minh bạch để doanh nghiệp thực hiện; quy định

rõ số lượng bộ hồ sơ giải thể “01 bộ” và việc đăng báo quyết định giải thể của

doanh nghiệp cần sửa đổi theo hướng “đăng tập trung tại một hoặc một số tờ

báo nhất định, kể cả báo điện tử và cổng thông tin doanh nghiệp của Cơ quan

Quản lý Nhà nước về Kế hoạch và Đầu tư”.

2.2.2. Những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện pháp luật về

giải thể doanh nghiệp

- Thứ nhất, trong những năm gần đây số lượng doanh nghiệp tạm

ngừng kinh doanh hoặc chờ giải thể vẫn còn nhiều, cụ thể:

+ Năm 2016: cả nước có số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh

doanh có thời hạn là 19.917 doanh nghiệp, tăng 4.268 doanh nghiệp so với

cùng kỳ năm trước (27,3%). Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không

thời hạn hoặc chờ giải thể của cả nước là 40.750 doanh nghiệp, giảm gần

15.000 doanh nghiệp so với cùng kỳ (giảm 26,9%).

+ Năm 2017, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong năm 2017 là

60.553 doanh nghiệp, giảm 0,2% so với năm trước, bao gồm 21.684 doanh

nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 8,9% và 38.869 doanh

nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, giảm 4,6%.

+ Năm 2018, số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động tăng, trong đó:

27.126 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn; 63.525

doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; trong số

63.525 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể,

có 44.730 doanh nghiệp ngừng hoạt động không đăng ký và 18.795 doanh

nghiệp chờ giải thể.

50

+ Năm 2019, có đến 28.731 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh

doanh có thời hạn (tăng 5,9%), 43.711 doanh nghiệp chờ giải thể (tăng

41,7%). Trong số 43.711 doanh nghiệp chờ giải thể có đến hơn 17.700 doanh

nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; gần 14.500 doanh

nghiệp đăng thông báo giải thể và hơn 11.500 doanh nghiệp chờ làm thủ tục

giải thể với cơ quan Thuế. Các doanh nghiệp chờ giải thể lớn nhất thuộc

ngành bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy với 15.996 doanh nghiệp,

chiếm 36,6%; xây dựng có 6.058 doanh nghiệp, chiếm 13,9%; công nghiệp

chế biến, chế tạo có 5.376 doanh nghiệp, chiếm 12,3% [11].

Như vậy, số liệu trên cho thấy giải thể doanh nghiệp đang nổi lên vấn

đề “tồn kho” một lượng rất lớn doanh nghiệp đã không còn hoạt động sản

xuất kinh doanh nhưng không nộp đơn giải thể, tạm ngừng kinh doanh không

đăng ký và đang chờ thực hiện thủ tục giải thể. Trong đó, có một lượng lớn

doanh nghiệp không còn hoạt động nhưng không thực hiện quy trình giải thể.

Đây phần nào phản ánh tính khả thi trong quy định của pháp luật về giải thể

doanh nghiệp. Thực trạng đó, khiến Nhà nước thất thu, người lao động bị xâm

hại quyền lợi và làm sai lệch các thông tin thống kê về doanh nghiệp, ảnh

hưởng tới sự minh bạch môi trường kinh doanh. Đặc biệt, việc doanh nghiệp

đã ngừng hoạt động nhưng vẫn gây hậu quả kéo dài đang thể hiện rõ với

những trường hợp chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, có thuê đất nhà

nước, còn nợ thuế, nợ khách hàng, nợ lương người lao động… nhưng chủ

doanh nghiệp đã bỏ trốn về nước nên không có người chịu trách nhiệm để

thực hiện các thủ tục giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật. Ngoài ra,

nguyên nhân khiến chủ doanh nghiệp tránh giải thể còn là vấn đề phức tạp

liên quan đến thủ tục giải thể tại cơ quan Thuế. Với mọi loại hình doanh

nghiệp, không kể thời gian thành lập được bao lâu, các thủ tục cơ bản khi xử

lý bên thuế, bao gồm: Nộp tờ khai thuế các quý; Quyết toán thuế thu nhập cá

nhân; Quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp; Báo cáo tài chính.

51

+ Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp chờ giải thể gia tăng là do việc

triển khai công tác rà soát đối với các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động tại

trụ sở từ lâu nhưng không đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh của các

cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Thứ hai, tình trạng doanh nghiệp bỏ trốn, “mất tích” trong nền kinh tế

vẫn còn diễn ra nhiều do Luật Doanh nghiệp năm 2014 chưa có quy định

kiểm soát.

Tại thời điểm tháng 04/2018, cả nước có khoảng 8.000 doanh nghiệp

"mất tích", với nợ bảo hiểm xã hội khoảng 2.000 tỷ đồng [16]. Điển hình là

vụ biến mất của Công ty TNHH Nam Phương (100% vốn Hàn Quốc tại khu

công nghiệp Tây Bắc Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh) vào thời điểm tháng 01/2018

đã gây ảnh hưởng đến quyền lợi của gần 600 công nhân. Hoặc trường hợp

Công ty TNHH BumJin Vina tại Khu công nghiệp Vĩnh Lộc, quận Bình Tân,

TP. Hồ Chí Minh mà Ông Park Kye Ho - Giám đốc, đại diện pháp luật của

công ty đã bỏ trốn vào ngày 10/02/2018 để lại khoản nợ bảo hiểm xã hội hơn

2,9 tỷ đồng chưa thanh toán hoặc Công ty KL Texwell Vina có trụ sở chính

tại tỉnh Đồng Nai cũng biến mất vào thời điểm tháng 02/2018 để lại khoản nợ

lương người lao động tháng 01/2018 gần 13,7 tỉ đồng và khoản nợ bảo hiểm

xã hội 17,5 tỉ đồng [8].

Tìm hiểu được biết, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc chủ doanh

nghiệp bỏ trốn. Trong đó chủ yếu là do các doanh nghiệp gặp khó khăn về

kinh tế dẫn đến trốn tránh nghĩa vụ về thuế. Thậm chí, có không ít doanh

nghiệp FDI kinh doanh không lành mạnh, lợi dụng kẽ hở của pháp luật Việt

Nam cũng như chính sách "trải thảm đỏ" trong thu hút đầu tư của nhà nước để

tận dụng ưu đãi, chiếm đoạt tiền lương, các khoản trợ cấp của người lao động

rồi bỏ trốn. Ngoài ra, việc các doanh nghiệp bỏ trốn sau một thời gian hoạt

động cũng có nguyên nhân từ việc quy định thành lập doanh nghiệp quá dễ

dàng như không cần vốn pháp định, vốn điều lệ chỉ cam kết đóng và không có

52

các quy định cũng như chế tài hậu kiểm tra việc góp vốn này. Bên cạnh đó

các quy định khi phá sản doanh nghiệp phức tạp cũng là một trong những lý

do khiến các doanh nghiệp không mặn mà với việc thực hiện các quy định

này. Trên thực tế cả nước hàng năm may ra chỉ có một vài vụ Tòa án thụ lý

việc phá sản doanh nghiệp. Để xảy ra tình trạng nói trên cũng phải kể đến một

phần trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước khi chưa phát hiện chưa kịp

thời vụ việc, đặc biệt là sự phối hợp giữa cơ quan thuế và BHXH; những hạn

chế trong đề ra các giải pháp phòng ngừa và thực hiện các chế tài xử phạt nợ

lương, BHXH… Tình hình này không chỉ gây lúng túng cho cơ quan quản lý

nhà nước về lao động mà còn khiến người lao động thiệt thòi cho quyền lợi.

Việc nhiều doanh nghiệp biến mất, bỏ trốn trong nền kinh tế Việt Nam

không còn là hiện tượng cá biệt nhưng các quy định về “doanh nghiệp bỏ trốn”

trong pháp luật hiện hành nói nói chung và Luật doanh nghiệp nói riêng gần như

đang bị “bỏ ngỏ”; chưa có các chế định cụ thể đối với hiện tượng này.

Thứ ba, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chưa quy định về thủ tục giải thể

doanh nghiệp bằng phương thức trực tuyến (online).

Trong thời đại công nghệ 4.0 như hiện nay thì việc ứng dụng công nghệ

thông tin vào trong mọi hoạt động của đời sống xã hội đều được đẩy mạnh

đặc biệt là trong hoạt động quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhằm

nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, tiết giảm chi phí tài chính, thời gian,

công sức cho doanh nghiệp. Chúng ta đã ứng dụng công nghệ thông tin vào

việc thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp thông qua các quy định tại Nghị

định 78/2015/NĐ-CP và Nghị định 108/2018/NĐ-CP mang lại hiệu quả cao

và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính. Tuy nhiên, đối với thủ tục

giải thể doanh nghiệp, việc ứng dụng công nghệ thông tin vẫn là một bước lùi

so với thủ tục đăng ký doanh nghiệp so với bước phát triển của công nghệ

thời kỳ 4.0, cụ thể là Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn

chưa có hướng dẫn ứng dụng quy trình online để thực quy trình, thủ tục giải

thể doanh nghiệp. Cho đến thời điểm hiện nay, doanh nghiệp vẫn phải trực

53

tiếp nộp hồ sơ giải thể tại Cơ quan đăng ký kinh doanh. Thực trạng này dẫn

đến tình trạng sách nhiễu, quan liêu của cán bộ thực hiện khi thực hiện thủ

tục, từ đó đã phát sinh chi phí tài chính, thời gian, công sức cho nhà đầu tư

một cách không đáng có, đi ngược lại với xu thế chung của thế giới.

Thứ tư, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chưa có quy định về việc gửi

quyết định giải thể doanh nghiệp cho cơ quan Bảo hiểm xã hội để đảm bảo

nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động trước khi doanh nghiệp

chấm dứt hoạt động.

Tại Khoản 3 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định trong

thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể và biên

bản họp phải được gửi đến Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan Thuế, người

lao động trong doanh nghiệp, đăng quyết định giải thể trên Cổng thông tin

quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi

nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp. Trong khi đó, theo quy định của

Khoản 5 Điều 202 và Khoản 1 Điều 204 Luật Doanh nghiệp năm 2014, thứ tự

thanh lý tài sản của doanh nghiệp khi giải thể và trong hồ sơ giải thể doanh

nghiệp gửi về cho Cơ quan đăng ký kinh doanh luôn đề cập đến việc thanh

toán nợ bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vây, khi doanh nghiệp

giải thể luôn luôn phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động về việc đóng

đầy đủ bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2014 không quy định

quyết định giải thể được gửi đến cho cơ quan Bảo hiểm xã hội là không phù

hợp. Việc bỏ sót chủ thể được thông báo/gửi quyết định giải thể là cơ quan

Bảo hiểm xã hội như trên vô hình trung gây khó khăn không ít cho doanh

nghiệp trong quá trình giải thể, vì nếu cơ quan Bảo hiểm xã hội không nắm

được thông tin doanh nghiệp giải thể ngay từ đầu thì khó cho cơ quan này xác

nhận cho doanh nghiệp giải thể việc hoàn thành nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã

hội cho người lao động, do đó dễ dẫn đến việc ách tắc trong tiến trình giải thể

doanh nghiệp trên thực tế, quyền lợi củ người lao động bị ảnh hưởng. Điển

54

hình là trường hợp một số doanh nghiệp tại tỉnh Khánh Hoà như Công ty

TNHH Phong Đạt, Công ty TNHH Xây dựng Sao Sáng, Công ty TNHH Tư

vấn doanh nghiệp Thuận Nguyễn, …... Đây là những đơn vị, doanh nghiệp

nhiều tháng không đóng Bảo hiểm xã hội cho người lao động, với tổng số tiền

nợ gần 2 tỷ đồng.Tuy nhiên, các doanh nghiệp này đều đã được giải thể. Sau

khi giải thể, người lao động khởi kiện đến Toà án yêu cầu công ty đóng bảo

hiểm xã hội. Tình trạng này gây khó khăn trong quá trình đảm bảo quyền lợi

cho người lao động. Sau khi vụ việc này xảy ra, Toà án đã chuyển hồ sơ sang

phòng PC03 - Công an tỉnh vì những doanh nghiệp cố tình chây ì, có dấu hiệu

vi phạm Điều 216 Bộ luật Hình sự năm 2015 về “tội trốn đóng Bảo hiểm xã

hôi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động”. [28]

2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập hạn chế trong quá trình áp dụng

pháp luật về giải thể doanh nghiệp

Những khó khăn, vướng mắc trong vấn đề giải thể doanh nghiệp xuất

phát từ nhiều nguyên nhân:

Thứ nhất, nhận thức pháp luật nói chung của nhiều doanh nghiệp (cụ

thể là chủ doanh nghiệp, đại diện pháp luật của doanh nghiệp) còn thấp, ý

thức chấp hành các quy định về giải thể doanh nghiệp chưa cao.

Thứ hai, chế tài xử lý đối với các chủ doanh nghiệp, người đại diện

theo pháp luật của doanh nghiệp khi họ không chấp hành các quy định chưa

đủ răn đe, dẫn tới nhiều chủ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật

không quan tâm tới nghĩa vụ giải thể. Giữa việc thực hiện quy định của pháp

luật (trình tự, thủ tục giải thể khá mất thời gian, công sức) và việc không thực

hiện quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp mà vẫn không phát sinh

trách nhiệm pháp lý gì cụ thể thì tất yếu họ chọn im lặng (không hành động và

biến mất không dấu vết).

Thứ ba, trong nhiều trường hợp, việc hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện

để doanh nghiệp hoàn thành nhanh chóng các thủ tục hành chính liên quan

theo quy trình giải thể tại một số cơ quan quản lý Nhà nước địa phương chưa

55

được tốt; Đặc biệt, thủ tục hoàn tất nghĩa vụ thuế còn gặp nhiều khó khăn,

thời gian kéo dài, tạo tâm lý mệt mỏi cho doanh nghiệp.

Thứ tư, cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và người lao

động trong trường hợp giải thể doanh nghiệp vẫn chưa được đặt ra một cách

thỏa đáng. Môi trường kinh doanh thông thoáng, thủ tục hành chính đơn giản

là mục tiêu mà cải cách hành chính hướng tới, tuy nhiên cần tăng cường công

tác “hậu kiểm” để tránh trường hợp nhiều doanh nghiệp ra đời chỉ để chờ

“giải thể hoặc phá sản” khi nợ nần đã chồng chất.

Thứ năm, một số quy định của pháp luật còn có sự mâu thuẫn, bất cập

(đã phân tích tại mục 2.2 Chương 2 Luận văn) dẫn đến quá trình giải thể

doanh nghiệp còn nhiều khó khăn.

56

Tiểu kết Chương 2

Như vậy, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định tương đối

hoàn chỉnh về các điều kiện giải thể doanh nghiệp để đảm bảo lợi ích của các

chủ thể có liên quan giúp doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường một cách văn

minh, trật tự và đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về doanh nghiệp. Tuy

nhiên, những quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về điều kiện giải thể

doanh nghiệp vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập; điều đó gây khó khăn,

cản trở cho doanh nghiệp tiến hành giải thể doanh nghiệp. Những hạn chế đó

thường do nhận thức pháp luật nói chung của nhiều doanh nghiệp còn thấp, ý

thức chấp hành các quy định về giải thể doanh nghiệp chưa cao; chế tài xử lý

đối với các doanh nghiệp khi họ không chấp hành các quy định chưa đủ răn

đe; cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và người lao động

trong trường hợp giải thể doanh nghiệp vẫn chưa được đặt ra một cách thỏa

đáng, một số quy định của pháp luật còn có sự mâu thuẫn, bất cập… Do đó,

cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như

hoàn thiện công tác thực thi pháp luật về giải thể doanh nghiệp.

57

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH

PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp

Nhìn chung, các quy định về giải thể doanh nghiệp được ghi nhận trong

Luật Doanh nghiệp năm 2014 và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành

đến nay đã khá hoàn thiện và đầy đủ, song pháp luật về doanh nghiệp nói

chung và pháp luật về giải thể doanh nghiệp nói riêng không phải không còn

những vấn đề bất cập cần nghiên cứu, bổ sung phù hợp, thống nhất, rõ ràng và

để thực hiện tốt thông điệp “Doanh nhân Việt Nam – Động lực phát triển đất

nước” việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp cũng như

các chính sách cho phát triển doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết. Trong

bối cảnh đó, pháp luật về giải thể doanh nghiệp cần được hoàn thiện tập trung

vào những định hướng cơ bản như sau:

Thứ nhất, cần quán triệt những quan điểm, chủ trương, chính sách của

Đảng về vai trò của doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp; xác định “Doanh

nghiệp Việt Nam là động lực phát triển kinh tế của đất nước”.

Hoàn thiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp phải phù hợp với thực

tiễn nền kinh tế thị trường Việt Nam, hướng tới thị trường công khai, minh

bạch; bảo đảm chặt chẽ nhưng cũng đảm bảo linh hoạt mềm dẻo dễ thích ứng

với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, phát huy tối đa lợi ích, ý nghĩa,

vai trò của giải thể doanh nghiệp; hạn chế các biểu hiện tiêu cực, lợi dụng giải

thể doanh nghiệp gây ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

của tổ chức cá nhân. Các quy định của pháp luật phải tạo hành lang pháp lý

mà mọi doanh nghiệp đều muốn đồng hành cùng Nhà nước chứ không phải

muốn lảng tránh.

58

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp phải

đặt trong tổng thể hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về hoạt động của

doanh nghiệp.

Thứ ba, cần đặc biệt quan tâm đến nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

làm xây dựng luật cũng như cán bộ làm công tác đăng ký, quản lý doanh

nghiệp. Phát huy vai trò, sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, của các

chuyên gia tham gia xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật về doanh nghiệp;

cung cấp các thông tin về doanh nghiệp cho Nhà nước, tổ chức và ngược lại

Nhà nước cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân.

Thứ tư, cần chú trọng đến việc rà soát, xây dựng và hoàn thiện các quy

định pháp luật về doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp với mục tiêu của

nhiệm vụ này là hướng đến khuôn khổ pháp lý với nhiều đổi mới phù hợp,

nhằm xây dựng và vận hành hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh

bạch, khả thi, để tiếp cận việc hoàn thiện pháp luật về giải giải thể doanh

nghiệp không thể chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện các quy định trong Luật

Doanh nghiệp năm 2014 phải đồng bộ, thống nhất trong hệ thống văn bản

hướng dẫn thi hành cũng như các luật có liên quan như Luật Đầu tư năm

2014, Bộ luật Hình sự năm 2015…

Cần chú trọng đến việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật

về giải thể doanh nghiệp của các địa phương trong cả nước, lắng nghe doanh

nghiệp; thực tiễn phong phú, đa dạng của thị trường là chất liệu quan trọng

cho việc đề xuất các giải pháp phù hợp, khả thi.

Hoàn thiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp theo hướng công khai,

minh bạch, tin học và đơn giản hóa thủ tục. Cần sớm triển khai đồng bộ trong

cả nước thủ tục giải thể doanh nghiệp qua mạng Internet theo hướng đơn giản

hóa; một cổng kết nối, đặc biệt là những thủ tục hành chính mà doanh nghiệp

phải thực hiện tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm tạo điều kiện cho

doanh nghiệp rút khỏi thị trường một cách nhanh chóng và thuận tiện đúng

quy định, đảm bảo lợi ích của các bên liên quan.

59

Như vậy, mới tạo thuận lợi cho việc áp dụng các quy định về giải thể

doanh nghiệp được thực hiện một cách thống nhất; phục vụ đắc lực cho sự

phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập quốc tế sâu rộng.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện giải thể

doanh nghiệp

Thứ nhất, về các trường hợp giải thể của doanh nghiệp

- Nên bổ sung quy định về thời hạn hoạt động là một trong những nội

dung bắt buộc của Điều lệ công ty khi tiến hành đăng ký kinh doanh nhằm

đảm bảo tính khả thi của điểm a khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2014.

Vì trong thực tế, nhiều Điều lệ công ty không phải ghi thời gian hoạt động bởi

không phải nội dung bắt buộc trong điều lệ, nên sẽ không xuất hiện trường

hợp giải thể khi kết thúc thời hạn được ghi trong Điều lệ công ty.

- Bổ sung quy định điểm a khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2014

theo hướng ghi nhận các trường hợp hết thời hạn hoạt động trong Giấy chứng

nhận đầu tư của Luật Đầu tư 2014; Riêng dự án đầu tư có vốn nước ngoài mà

thành lập tổ chức kinh tế (doanh nghiệp) sẽ có thời hạn hoạt động và thời hạn

này được ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, chứ không phải ghi

trong Điều lệ công ty để bao quát tất cả các trường hợp giải thể của doanh

nghiệp có thời hạn hoạt động. Qua đó, bảo đảm tính thống nhất giữa Luật

Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.

- Quy định rõ ràng các trường hợp Tòa án có quyền tuyên bố giải thể

doanh nghiệp; đồng thời hướng dẫn rõ thẩm quyền của Tòa án thống nhất với

thẩm quyền của Tòa án theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, theo hướng:

Khi Tòa án tuyên bố hủy toàn bộ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng

ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư thì doanh nghiệp phải thực hiện thủ

tục giải thể vì Tòa án chỉ có thẩm quyền tuyên bố hủy toàn bộ giấy chứng

60

nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đầu tư mà

không có thẩm quyền quyết định tuyên bố giải thể doanh nghiệp, chấm dứt

hoạt động của dự án đầu tư do vi phạm pháp luật. Sau khi Tòa án quyết định

đình chỉ hoạt động của doanh nghiệp thì phải chuyển quyết định cho Cơ quan

đăng ký kinh doanh để thực hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp. Bởi theo quy

định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án không có thẩm quyền quyết

định tuyên bố giải thể doanh nghiệp hay chấp dứt hoạt động đầu tư.

Thứ hai, về điều kiện giải thể doanh nghiệp

- Hướng dẫn cụ thể việc như thế nào được coi là “đảm bảo thanh toán”;

đồng thời hướng dẫn cụ thể trường hợp doanh nghiệp và chủ nợ thỏa thuận

được về việc chuyển giao nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp

thì người nhận chuyển giao nghĩa vụ có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ của

doanh nghiệp khi bị giải thể. Qua đó góp phần thúc đẩy nhanh thủ tục giải thể

doanh nghiệp đồng thời, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sớm rút lui khỏi thị

trường khi mà sự tồn tại của doanh nghiệp không còn cần thiết đảm bảo ít chi

phí nhất và an toàn nhất cho chính doanh nghiệp và các chủ thể có quyền, lợi

ích hợp pháp liên quan.

Thứ ba, sửa đổi bổ sung trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp

- Hoàn thiện thủ tục giải thể doanh nghiệp theo hướng cho phép doanh

nghiệp giải thể qua mạng: bổ sung quy định thời hạn cơ quan Thuế xác nhận

quyết toán thuế cho doanh nghiệp. Xây dựng quy trình liên thông trong giải

quyết thủ tục giải thể doanh nghiệp trong đó xác định cơ quan đầu mối tiếp

nhận và trả kết quả là Cơ quan đăng ký doanh nghiệp.

- Cần đơn giản hóa những thủ tục hành chính của doanh nghiệp tại các

cơ quan Quản lý Nhà nước trước khi doanh nghiệp thực hiện nộp bộ hồ sơ

giải thể tại Cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong đó, tập trung đơn giản hóa

quy trình về kê khai và quyết toán thuế cho doanh nghiệp sau khi doanh

nghiệp quyết định giải thể. Tuy nhiên, cần thiết phải có một cơ chế pháp lý

61

đơn giản mà hiệu quả để tăng cường kiểm soát nghĩa vụ tài chính của doanh

nghiệp giải thể với các chủ nợ khác và người lao động.

- Bổ sung quy định về thủ tục thanh toán các khoản nợ có bảo đảm

nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ có đảm bảo theo hướng: Ưu tiên thanh

toán có bảo đảm bằng chính tài sản bảo đảm, nếu giá trị tài sản bảo đảm không

đủ thanh toán các khoản nợ sau khi thanh toán các khoản nợ lương, trợ cấp thôi

việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác của người lao động, nợ thuế; nếu giá

trị của tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được thu nhập vào giá

trị tài sản còn lại của doanh nghiệp nhằm tăng cường minh bạch các giao dịch,

góp phần giúp Nhà nước kiểm soát được các giao dịch trên thị trường.

- Cần có cơ chế và quy định trách nhiệm của Cơ quan đăng ký kinh

doanh kiểm tra tính chính xác đối với những nội dung được kê khai trong hồ

sơ giải thể của doanh nghiệp: Công khai toàn bộ thông tin khai báo của doanh

nghiệp ngay từ khi mới nhận hồ sơ trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký

doanh nghiệp; đài truyền hình tỉnh, thành phố nơi thực hiện giao dịch gần

nhất trong hồ sơ khai báo tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân có thể tiếp

cận thông tin về tình trạng pháp lý của doanh nghiệp qua đó phát huy vai trò

giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp.

- Pháp luật cần quy định rõ tiêu chí xác định chủ doanh nghiệp bỏ trốn

để làm cơ sở giải quyết cho giải thể các doanh nghiệp “mất tích” trong nền

kinh tế và bổ sung một số trường hợp giải thể doanh nghiệp vào Luật Doanh

nghiệp năm 2014 cho phù hợp với diễn biến thực tế của doanh nghiệp Việt Nam.

Đối với tiêu chí xác định một doanh nghiệp mất tích/chủ doanh nghiệp bỏ trốn,

Luật Doanh nghiệp cần quy định trong vòng bao nhiêu ngày người đại diện

của doanh nghiệp vắng mặt mà không có thông báo cho chính quyền sở tại và

không có ủy quyền hợp pháp cho người khác hoặc các cơ quan chức năng đã

có thông báo công khai mà chủ doanh nghiệp không có phản hồi thì được xem

là "chủ doanh nghiệp bỏ trốn". Khi đó, cơ quan chức năng được quyền thanh

62

lý tài sản của doanh nghiệp theo luật định để trả lương, bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế cho người lao động. Đồng thời, qua đó làm cơ sở cho người lao

động hoặc tổ chức Công đoàn khởi kiện, yêu cầu phá sản doanh nghiệp để

đảm bảo quyền lợi cho người lao động.

- Sửa đổi Khoản 3 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014 theo hướng

bổ sung quy định yêu cầu doanh nghiệp giải thể phải gửi quyết định giải thể

doanh nghiệp đến cơ quan Bảo hiểm xã hội bên cạnh các cơ quan hữu quan

khác. Theo đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết

định giải thể và Biên bản họp phải được gửi đến Cơ quan đăng ký kinh doanh,

cơ quan Thuế, cơ quan Bảo hiểm xã hội và người lao động trong doanh

nghiệp. Việc bổ sung chủ thể cơ quan Bảo hiểm xã hội được gửi/thông báo

quyết định giải thể nêu trên sẽ khắc phục các rào cản trong thủ tục giải thể

doanh nghiệp, đồng thời góp phần bảo vệ quyền lợi người lao động.

Thứ tư, sửa đổi quy định đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể có

liên quan trong quá trình giải thể doanh nghiệp

- Pháp luật cần quy định chế tài xử lý hành chính áp dụng đối với

doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp nếu thực hiện các hoạt động bị

cấm kể từ khi có quyết định giải thể doanh nghiệp được quy định tại Điều 205

Luật Doanh nghiệp 2014 bảo đảm đủ sức răn đe đối với người quản lý

doanh nghiệp.

- Khi ý thức pháp luật của doanh nghiệp chưa cao thì chế tài là một

trong những biện pháp hữu hiệu để đưa các doanh nghiệp vào khuôn khổ

pháp lý cần thiết. Do đó, cần tăng chế tài xử lý với các trường hợp không thực

hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp khi doanh nghiệp đã ngưng hoạt động đối

với những doanh nghiệp, cá nhân liên quan (người đại diện theo pháp luật,

các thành viên của công ty). Cụ thể cần thiết lập và quy định rõ các biện pháp

chế tài đối với chủ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh

nghiệp trong trường hợp không tuân thủ quy định về giải thể doanh nghiệp

63

khi doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng khó khăn, phải tạm dừng hoạt động.

Có thể tham khảo một số biện pháp chế tài như: Cấm thành lập công ty mới,

cấm đảm nhận chức vụ người đại diện theo pháp luật trong một thời gian nhất

định, cấm góp vốn cho các công ty khác…

- Thứ năm, do hậu quả của giải thể doanh nghiệp dẫn đếm chấm dứt sự

tồn tại của doanh nghiệp; điều này ảnh hưởng rất nhiều đến chính người lao

động cũng như công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Để áp áp

dụng giải thể doanh nghiệp một cách thống nhất, đặc biệt cách thức xác định

các điều kiện giải thể doanh nghiệp, theo quan điểm của tác giả cần thiết phải

ban hành một văn bản hướng dẫn các thủ tục giải thể doanh nghiệp (những

kiến nghị phía trên sẽ được tổng hợp và ghi nhận tại văn bản hướng dẫn).

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về điều

kiện giải thể doanh nghiệp

Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc hiện nay về việc giải thể của

doanh nghiệp, có thể nghiên cứu một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về quản lý Nhà

nước đối với doanh nghiệp cũng như pháp luật, chế tài xử phạt vi phạm về

giải thể, phá sản doanh nghiệp nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành

pháp luật của doanh nghiệp.

Thứ hai, hoàn thiện hơn nữa cơ chế, chính sách và nền tảng công nghệ

thông tin để Cổng thông tin quốc gia giữ vai trò đầu mối cung cấp, cập nhật

thông tin pháp lý về đăng ký doanh nghiệp, từ đó, tạo điều kiện cho mọi tổ

chức, cá nhân có thể tiếp cận dễ dàng các thông tin chính xác về tình trạng

pháp lý của doanh nghiệp, phát huy vai trò giám sát của xã hội đối với doanh

nghiệp, nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với lĩnh vực giải thể

doanh nghiệp nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung nhằm hướng đến

bảo vệ trật tự chung của nền kinh tế thị trường lành mạnh và phát triển ổn định,

bền vững.

64

Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát doanh nghiệp

Kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp là một trong những vai trò quan

trọng của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhằm bảo đảm việc tuân thủ

pháp luật của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Thông qua các

biện pháp kiểm tra, giám sát, các cơ quan có thẩm quyền có cơ sở để xác định

doanh nghiệp có vi phạm pháp luật và từ đó đưa ra các biện pháp xử lý kịp

thời. Tuy nhiên, việc kiểm tra, giám sát doanh nghiệp của cơ quan Nhà nước

có thẩm quyền trong khâu hậu kiểm doanh nghiệp cần tránh xâm phạm tới

quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ tư, hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp

Cần xây dựng một cơ chế phối hợp giữa Cục Thuế, Chi cục Thuế, Sở

Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan Công an, cơ quan Bảo hiểm xã hội để làm thủ

tục giải thể cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đăng ký thành lập thì Sở Kế

hoạch và Đầu tư làm đầu mối nhận hồ sơ, cấp mã số thuế, giấy chứng nhận

đăng ký doanh nghiệp và cả con dấu. Tương tự, khi doanh nghiệp giải thể thì

Sở Kế hoạch Đầu tư làm đầu mối nhận hồ sơ và gửi thông tin doanh nghiệp

cho các cơ quan liên quan. Nhằm hạn chế tình trạng doanh nghiệp phải nộp

cùng một bộ hồ sơ tới rất nhiều cơ quan liên quan, làm kéo dài thời gian giải

quyết giải thể doanh nghiệp.

Đẩy mạnh liên thông dữ liệu về tình hình doanh nghiệp với cơ quan

Thuế, cơ quan Thống kê và cơ quan Công an, cơ quan Bảo hiểm xã hội nhằm

tạo dựng một Cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất, tập trung, cung cấp cho

người dân và cơ quan Quản lý Nhà nước những thông tin chính xác, có giá trị

về tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Một khi chất lượng thông tin doanh

nghiệp được nâng cao, sẽ tránh hiện tượng doanh nghiệp thành lập và biến

mất trên thị trường, qua đó nâng cao được hiệu quả quản lý của cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền.

65

66

Tiểu kết Chương 3

Như chúng ta đã biết, pháp luật về các điều kiện giải thể doanh nghiệp

là một trong những nội dung pháp luật còn nhiều khó khăn, bất cập và cần

phải hoàn thiện trong thực tiễn để góp phần giúp cho doanh nghiệp gặp khó

khăn muốn được chấm dứt sự hoạt động cũng như góp phần vào sự ổn định,

phát triển của nền kinh tế. Với những vướng mắc trong quá trình thực thi

pháp luật về điều kiện giải thể đã được trình bày tại chương 3, học viên đã

đưa ra một số đề xuất nhằm khắc phục các vướng mắc trong quá trình doanh

nghiệp tiến hành giải thể. Hy vọng những đề xuất trên góp phần nhỏ vào việc

hoàn thiện pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thực thi pháp

luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

67

KẾT LUẬN

Có thể thấy pháp luật về giải thể doanh nghiệp là vấn đề không mới

nhưng qua các thời kỳ cũng có được điều chỉnh, sửa đổi để phù hợp hơn với

tình hình kinh tế thị trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện

nay. Theo kết quả cuộc tổng rà soát số lượng doanh nghiệp của Tổng cục

thống kê công bố từ năm 2014 đến năm 2019 thì số lượng doanh nghiệp giải

thể ngày càng gia tăng. Ngoài nguyên nhân doanh nghiệp gặp khó khăn do

suy thoái kinh tế, dẫn đến chấm dứt hoạt động, việc có quá nhiều doanh

nghiệp phải chờ làm thủ tục giải thể phần nào có nguyên nhân từ những bất

cập trong quy định của pháp luật hiện hành và hạn chế trong thực thi, chưa

theo kịp với sự biến đổi không ngừng của thị trường kinh tế. Việc sửa đổi quy

định pháp luật hiện hành là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp rút

khỏi thương trường một cách thuận lợi nhất, trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng

và đảm bảo lợi ích của các chủ thể có liên quan.

Trong phạm vi Luận văn thạc sĩ Luật học, học viên có đề xuất một số

giải pháp hoàn thiện về pháp luật cũng như các giải pháp khác nhằm nâng cao

hiệu quả áp dụng pháp luật giải thể doanh nghiệp trên thực tế. Pháp luật về

giải thể doanh nghiệp được hoàn thiện sẽ giúp các doanh nghiệp có thể chấm

dứt tồn tại trong trật tự của nền kinh tế, giúp nền kinh tế ổn định, tăng sức

cạnh tranh và nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước. Trong phạm vi cho

phép, đề tài không thể nghiên cứu một cách toàn diện và chi tiết tất cả các vấn

đề mà chỉ tập trung vào những khía cạnh cơ bản nhất. Tác giả hy vọng, những

thông tin của đề tài sẽ hữu ích trong quá trình xây dựng, hoàn hiện cũng như

thi hành pháp luật về giải thể doanh nghiệp góp phần cải thiện môi trường

kinh doanh Việt Nam.

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Ngọc Anh (2014), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam –

Thực trạng và hướng hoàn thiện.

2. Chính phủ (2015), Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.

3. Chính phủ (2015), Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy

định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp 2014

4. Chính phủ (2018), Nghị định 108/2018/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một

số điều của Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.

5. Nguyễn Thị Dung (2012), “Thực trạng pháp luật về giải thể doanh

nghiệp – Một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Luật học,

(10), 10-17.

6. Lê Văn Đài (2015), “Thứ tự thanh toán các khoản nợ khi giải thể doanh

nghiệp, nguồn: http://baochinhphu.vn/Tra-loi-cong-dan/Thu-tu-thanh-

toan-cac-khoan-no-khi-giai-the-doanh-nghiep/243163.vhp”.

7. Trương Thanh Đức (2016), Luận giải về Luật Doanh nghiệp năm 2014,

NXB Chính trị quốc gia

8. Vinh Hà (2018), “Xử lý chủ doanh nghiệp bỏ trốn: Chế tài phải nghiêm

khắc, https://nld.com.vn/cong-doan/xu-ly-chu-doanh-nghiep-bo-tron-

che-tai-phai-nghiem-khac-2018041513302536.htm”

9. Nguyễn Văn Hậu, Nguyễn Thị Như Hà, “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng XHCN trong điều kiện Việt Nam là thành viên

WTO”, NXB Chính trị quốc gia, năm 2009.

10. Hoàng Thị Huế (2013), Giải thể doanh nghiệp theo Pháp luật Việt Nam

và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần JM. Đại học Quốc gia Hà Nội,

Khoa Luật.

69

11. Hùng Lê (2019), “Đằng sau việc hơn 89.000 doanh nghiệp rời thị trường

năm 2019, https://www.thesaigontimes.vn/298828/dang-sau-viec-hon-

89000-doanh-nghiep-roi-thi-truong-nam-2019.html”

12. Hoàng Linh (2018) “Vì sao có đến gần 91.000 doanh nghiệp giải thể, ngừng

hoạt động năm 2018?,https://tintucvietnam.vn/vi-sao-gan-91000-doanh-

nghiep-giai-the-ngung-hoat-dong-nam-2018-d204054.html”

13. Đỗ Ngọc Minh (2016), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp và thực tiễn

áp dụng tại tỉnh Sơn La.

14. Trần Thị Hồng Minh (2017), “Bức tranh doanh nghiệp 2016 dưới góc

nhìn đăng ký kinh doanh”, tạp chí Kinh tế và Dự báo, (2+3).

15. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, tr. 250-270, NXB

Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

16. Thắng Nhi, “http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-

luan/ca-nuoc-co-khoang-8000-doanh-nghiep-mat-tich-no-bhxh-gan-

2000-ty-dong-139453.html, ngày 13/04/2018”

17. Quốc Hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

18. Kỳ Thành (2015), Năm 2015, hơn 9.400 doanh nghiệp giải thể, 71.300

doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, https://baodautu.vn/nam-2015-hon-

9400-doanh-nghiep-giai-the-71300-doanh-nghiep-tam-ngung-hoat-

dong-d37565.html,

19. Vi Quang Thanh (2018), Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh

nghiệp 2014 và thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn.

20. Tân Thịnh (2010), “Các giai đoạn của tiến trình kinh doanh,

http://www.hbi.org.vn/vi/tin-tuc/7-giai-doan”

21. Tổng cục thống kê (2018), “Tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2017,

http://tapchitaichinh.vn/bao-cao-va-thong-ke-tai-chinh/tinh-hinh-dang-

ky-doanh-nghiep-nam-2017-134246.html”

70

22. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thương mại, NXB

Công an nhân dân, Hà Nội.

23. Nguyễn Tuyền (2016), “Năm 2016, số doanh nghiệp phá sản tăng 32%

so với năm trước, https://dantri.com.vn/kinh-doanh/nam-2016-so-doanh-

nghiep-pha-san-tang-32-so-voi-nam-truoc-20161224162110302.htm,”

24. Viện đại học mở hà Nội (2013), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

25. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

26. Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng.

27. Tâm Vũ (2015), “Vướng mắc, bất cập trong thủ tục giải thể doanh

nghiệp hiện nay và biện pháp tháo gỡ,

http://thutuchanhchinh.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_de

tail.aspx?itemid=81”.

28. Lưu Khánh (2020), Xử lý nghiêm doanh nghiệp nợ bảo hiểm kéo dài,

https://www.baokhanhhoa.vn/xa-hoi/202008/xu-ly-nghiem-doanh-

nghiep-no-bao-hiem-keo-dai-8179284/

71