VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRƯỜNG SƠN
ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRƯỜNG SƠN
ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH LÝ
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.
Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất
kỳ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP VÀ
ĐIỀU KIỆN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ........................... 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về giải thể doanh nghiệp .................................................... 7
1.2. Một số vấn đề lý luận về điều kiện giải thể doanh nghiệp theo pháp luật .......... 25
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................... 31
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay .............................................................................................................. 31
2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp
ở Viện Nam ................................................................................................................ 47
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .......................................................................................................................... 58
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp ............. 58
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp ........................... 60
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 69
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy các chế
định pháp lý liên quan đến doanh nghiệp luôn nhận được sự quan tâm của
Chính phủ mỗi quốc gia. Hoàn thiện các chế định pháp lý liên quan đến doanh
nghiệp đồng nghĩa với việc tạo lập hành lang pháp lý thuận lợi để tăng cường
sự quản lý Nhà nước với doanh nghiệp và góp phần thúc đẩy sự ra đời, phát
triển của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát huy tốt nhất vai trò của nó đối
với nền kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế thị trường,
việc doanh nghiệp muốn chấm dứt hoạt động kinh doanh là một hiện tượng
tất yếu. Để tạo cơ sở pháp lý giúp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động kinh
doanh một cách hợp pháp và giảm thiểu tối đa những hệ lụy về mặt kinh tế,
xã hội thì pháp luật các quốc gia nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng
đều quan tâm và xây dựng chế định về giải thể doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, giải thể doanh nghiệp không phải là vấn đề pháp lý
mới vì chế định này đã được đề cập đến trong nhiều văn bản quy phạm pháp
luật từ Luật Công ty năm 1990 đến Luật Doanh nghiệp 2014 cùng hệ thống
các văn bản hướng dẫn thi hành; ngoài ra còn được quy định tại các văn bản
pháp luật chuyên ngành như Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật Kinh
doanh Bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2000), Luật Chứng khoán
2006….. Các văn bản pháp luật trên đã tạo ra khung pháp lý để chấm dứt sự
tồn tại của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường một cách
hợp pháp mà vẫn bảo vệ quyền lợi của các chủ thể có liên quan nhất là chủ
nợ, người lao động và những chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan khác.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức và thực hiện thủ tục giải thể doanh
nghiệp, một số quy định về giải thể doanh nghiệp đã bộc lộ những hạn chế
nhất định, như: quy định về điều kiện giải thể, thời hạn thanh lý hợp đồng,
thời hạn giải thể... Mặt khác, từ thực tế cho thấy có một lượng lớn doanh
1
nghiệp không còn hoạt động nhưng không thực hiện quy trình giải thể. Đây là
một tỷ lệ thấp dẫn tới việc Nhà nước thất thu, người lao động bị xâm hại
quyền lợi và làm sai lệch các thông tin thống kê về doanh nghiệp…… ảnh
hưởng tới sự minh bạch môi trường kinh doanh.
Những hạn chế từ các quy định pháp luật về giải thể doanh nghiệp và
những bất cập trong thực tế nói trên của doanh nghiệp nếu không khắc phục,
sửa đổi, hoàn thiện kịp thời sẽ gây ra những tác động xấu đến nền kinh tế - xã
hội. Xuất phát từ những lý do trên học viên quyết định chọn vấn đề “Điều
kiện giải thể doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài
luận văn thạc sĩ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ tầm quan trọng của chế định về giải thể doanh nghiệp đối
với nền kinh tế - xã hội nên trong thời gian vừa qua, vấn đề này đã nhận được
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước dưới các góc độ
và bình diện khác nhau, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như sau:
- Giáo trình, sách chuyên khảo: Trường Đại học Luật Hà Nội (2016)
Giáo trình Luật thương mại – tập 1, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Ngô Huy Cương
(2013), Giáo trình Luật thương mại: phần chung và thương nhân, Nxb Đại
học Quốc Gia Hà Nội; Lê Tài Triển (chủ biên), Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn
Tân “Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải”…….
- Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ: Hoàng Thị Huế (2015), Giải thể
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp
dụng tại công ty cổ phần JM, Luận văn thạc sĩ, Khoa luật đại học quốc gia; Lê
Ngọc Anh (2014), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam, thực trạng
và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Vi
Quang Thanh (2018), Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
2014 và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật
Hà Nội; …..
2
- Các bài báo, tạp chí khoa học: Nguyễn Thị Dung (2012), Thực trạng
pháp luật về giải thể doanh nghiệp - một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện,
Tạp chí Luật học số 10/2012; Lê Tự (2015), Một số vấn đề về giải thể doanh
nghiệp, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2015, Nguyễn Thị Diễm Hường
(2016), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp. Thực trạng và giải pháp, Tạp chí
Công Thương, số 7/2016; Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong Báo cáo tổng kết thi
hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong Báo cáo
tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2005, Hà Nội, 2013) đã đánh giá
mức độ thành công của Luật Doanh nghiệp năm 2005 trong đó có các quy
định về giải thể doanh nghiệp.
Phần lớn các công trình nghiên cứu, các bài viết trên tập trung phân
tích và đánh giá các quy định về giải thể doanh nghiệp theo quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2005. Từ đó nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về giải thể doanh nghiệp trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 có
hiệu lực. Một số công trình đã đề cập đến những quy định về giải thể doanh
nghiệp năm 2014 khi mới trong giai đoạn đầu triển khai nên khi đặt vào trong
tình hình kinh tế mới hiện nay thì chưa đánh giá được một cách đầy đủ và
toàn diện về điều kiện giải thể doanh nghiệp và thực trạng thi hành pháp luật
giải thể trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật về giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và những
văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, luận văn sẽ đưa ra các phương
hướng và giải pháp hoàn thiện hơn về điều kiện giải thể doanh nghiệp trong
xu thế hội nhập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích thực trạng các quy định của pháp luật
doanh nghiệp về điều kiện giải thể doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng tại tại
3
Việt Nam hiện nay. Qua đó, đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng
như nâng cao hiệu quả áp dụng về điều kiện giải thể doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay. Cụ thể:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp, đặc biệt là giải thể
doanh nghiệp. Xác định vấn đề giải thể doanh nghiệp là vấn đề trung tâm của
luận văn, cần đào sâu tìm hiểu một cách hệ thống và toàn diện.
- Nghiên cứu các vấn đề pháp lý đặc thù của giải thể doanh nghiệp,
trong đó tập trung vào vấn đề mang tính bản chất của giải thể doanh nghiệp.
- Phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng, thi hành pháp luật giải thể
doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
giải thể doanh nghiệp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn xác định thực hiện
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
(i) Làm rõ những vấn đề lý luận về giải thể doanh nghiệp, như: khái
niệm, đặc điểm của giải thể doanh nghiệp; các hình thức giải thể doanh
nghiệp; phân biệt giải thể với các hình thức chấm dứt doanh nghiệp khác; khái
niệm pháp luật về giải thể doanh nghiệp; vai trò và các bộ phận của pháp luật
về giải thể doanh nghiệp;
(ii) Nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về giải thể doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay, như: Lý do giải thể, điều kiện giải thể, thủ tục
giải thể, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục
doanh nghiệp…
(iii) Khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về
giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam sau khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 có
hiệu lực. Qua đó, chỉ ra những ưu điểm, những vấn đề còn bất cập, vướng
mắc và các nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện
pháp luật về giải thể doanh nghiệp.
4
(iv) Từ việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng, Luận
văn đề xuất phương hướng và các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về điều
kiện giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: các quy định của pháp luật hiện
hành về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả tập trung vào giai đoạn
chấm dứt hoạt động doanh nghiệp cụ thể là “giải thể doanh nghiệp” để làm rõ
các vấn đề còn tồn tại và sự cần thiết tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy
định pháp luật trong lĩnh vực này.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về giải
thể doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn 5 năm (từ năm 2014 - năm 2019).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Để làm rõ các vấn đề thuộc nhiệm vụ nghiên cứu, Luận
văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta
trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
- Phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết các vấn đề trong Luận văn
đặt ra, học viên sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
trong tất cả các chương cuẩ Luận văn để làm rõ những vấn đề thuộc về bản
chất, các quan điểm liên quan đến điều kiện giải thể doanh nghiệp, đánh giá
thực trạng. Qua đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật giải thể doanh
nghiệp và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở
Việt Nam.
5
+ Phương pháp thống kê: Được sử dụng để thống kê về kết quả thực
hiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam.
+ Phương pháp so sánh: Được sử dụng nhằm so sánh kinh nghiệm
pháp luật của một số quốc gia trên thế giới trong việc xây dựng pháp luật về
giải thể doanh nghiệp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận liên quan đến giải thể và pháp luật về giải thể
doanh nghiệp.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham
khảo, có giá trị trong nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện chế định pháp luật
về giải thể. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo cần thiết trong giảng
dạy và học tập của giảng viên cũng như sinh viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn được kết cấu 3
chương, như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải thể doanh nghiệp và điều kiện
giải thể doanh nghiệp theo pháp luật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải thể
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP VÀ
ĐIỀU KIỆN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT
1.1. Những vấn đề lý luận về giải thể doanh nghiệp
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chính sách chung của Đảng và
Nhà nước là đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tạo điều kiện cho mọi chủ thể
cùng tham gia phát triển kinh tế của đất nước. Trong đó, nhóm chủ thể kinh
doanh quan trọng nhất là các doanh nghiệp. Vậy, khái niệm doanh nghiệp
được hiểu như thế nào?
Dưới góc độ kinh tế: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành
lập để thực hiện các hoạt động thương mại nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Nó chỉ
mang tính chất như một vỏ bọc hình thức để hợp pháp hoá các giao dịch, chi
phí và hoạt động kinh doanh của các thành viên công ty. Người ta xem doanh
nghiệp như một cái áo khoác pháp lý để thực hiện ý tưởng kinh doanh [15,
tr.250]
Dưới góc độ pháp lý: Khái niệm “doanh nghiệp” đã được đề cập trong
quá trình xây dựng và phát triển pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam trên
cơ sở đảm bảo sự phù hợp với pháp luật quốc tế và điều kiện kinh tế - xã hội
của Việt Nam.
Tại Điều 4 của Luật Doanh nghiệp 2005 quy định thống nhất về doanh
nghiệp: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
7
Đến Khoản 7, Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014, quy định: “Doanh
nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký
thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” trên cơ sở
kế thừa từ các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và xác định đó là
bản chất pháp lý của doanh nghiệp và điều kiện doanh nghiệp tham gia giao
dịch trên thị trường đó là phải được đăng ký thành lập doanh nghiệp. Trong
phạm vi đề tài luận văn, tác giả tập trung vào nghiên cứu các doanh nghiệp tư
nhân, đặc biệt là mô hình công ty.
* Đặc điểm của doanh nghiệp:
Từ khái niệm doanh nghiệp được ghi nhận tại Điều 4 Luật Doanh
nghiệp 2014, có thể thấy doanh nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng. Theo đó, doanh
nghiệp trước hết phải là tổ chức kinh tế. Tổ chức kinh tế được thành lập ra bởi
một người hoặc trên cơ sở liên kết của hai hay nhiều người, tổ chức trên cơ sở
cùng chung mục đích, sự tin tưởng, vốn, …đã liên kết với nhau theo những
hình thức nhất định và tạo ra mô hình tổ chức kinh doanh – gọi chung là
doanh nghiệp với mục đích kinh doanh, tạo ra lợi nhuận cho những người
thành lập. Các doanh nghiệp đều có tên riêng - đây là cơ sở để Nhà nước thực
hiện quản lý đối với doanh nghiệp, đồng thời là cơ sở để phân biệt chủ thể
trong quan hệ giữa các doanh nghiệp khác nhau với khách hàng. Với việc có
tên riêng và là một tổ chức kinh tế độc lập, doanh nghiệp tự nhân danh mình
tham gia các giao dịch một cách độc lập.
Thứ hai, doanh nghiệp có tài sản:
Doanh nghiệp được thành lập ra với mục đích là kinh doanh, tìm kiếm
lợi nhuận và điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp hoạt động đó là có tài sản.
Khi thành lập doanh nghiệp, các thành viên phải thực hiện hoạt động góp vốn
tức là họ phải bỏ ra một số tài sản để góp vào doanh nghiệp tạo thành tài sản
của doanh nghiệp. Một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định đòi hỏi doanh
8
nghiệp phải đáp ứng số vốn pháp định nhất định để có thể kinh doanh. Tài sản
của doanh nghiệp bao gồm tài sản vô hình hoặc tài sản hữu hình và được hình
thành bởi nhiều cách thức khác nhau như: các thành viên sáng lập góp vốn
thành lập doanh nghiệp; phát hành chứng khoán huy động vốn trong quá trình
hoạt động doanh nghiệp……
Thứ ba, doanh nghiệp có trụ sở giao dịch ổn định.
Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa chỉ tiến hành các hoạt động kinh
doanh với các bên có liên quan. Trụ sở chính của doanh nghiệp phải được xác
định cụ thể, gồm: số nhà, tên phố/đường, (ngõ phố) hoặc tên xã, phường, thị
trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và địa chỉ này phải ở trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, trụ sở
doanh nghiệp còn là địa điểm giúp xác định mối quan hệ giữa doanh nghiệp
với cơ quan quản lý Nhà nước. Cơ quan quản lý sẽ thực hiện chức năng kiểm
tra, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp tại trụ sở để biết được thực tế
hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ tư, doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của pháp
luật. Đăng ký thành lập doanh nghiệp là việc doanh nghiệp tiến hành các thủ
tục theo luật định nhằm khai sinh về mặt pháp lý cho doanh nghiệp. Xét từ
phía cơ quan Nhà nước, nó thể hiện sự thừa nhận tư cách pháp lý của doanh
nghiệp. Với tư cách là một chủ thể trong nền kinh tế, doanh nghiệp được Nhà
nước thừa nhận và trao cho các quyền và nghĩa vụ nhất định cũng như sẽ
được bảo đảm về mặt pháp lý kể từ khi hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh.
Thứ năm, trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp: Khi tham gia vào các
quan hệ kinh tế, mỗi doanh nghiệp đều phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối
với các chủ thể khác, đặc biệt là trách nhiệm về tài chính và thanh toán các
khoản nợ. Hiện nay, trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp bao gồm: trách
nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vô hạn. Tùy từng doanh nghiệp với quy chế
pháp lý khác nhau mà họ phải chịu trách nhiệm về tài sản khác nhau. Đây
9
cũng chính là nội dung khi thành thành lập doanh nghiệp chúng ta cần đánh
giá để chỉ ra những ưu điểm cũng như hạn chế của từng loại trách nhiệm để
xem xét lựa chọn loại hình phù hợp nhất. Ví dụ: Công ty cổ phần chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của công ty đối với các nghĩa vụ tài chính và
khoản nợ (trách nhiệm hữu hạn); các thành viên của công ty, người đại diện
theo pháp luật của công ty không phải chịu trách nhiệm bằng tài sản cá nhân
của mình, mà phải chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với phần vốn góp của
mình; hay đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu
trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ tài chính, khoản nợ của doanh nghiệp
không chỉ bằng tài sản của doanh nghiệp mà còn bằng tài sản của cá nhân chủ
doanh nghiệp tư nhân cho đến khi thanh toán hết các khoản nợ.
Thứ sáu, mục đích của doanh nghiệp: Doanh nghiệp được thành lập để
thực hiện các hoạt động kinh doanh với mục đích lợi nhuận. Đây là cơ sở để
phân biệt pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Tuy nhiên, lợi
nhuận của doanh nghiệp đạt được bao nhiêu còn phụ thuộc vào hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp
cũng có thể thực hiện nhiều hoạt động khác không nhằm mục đích kinh doanh
như hoạt động xã hội từ thiện. Tuy nhiên các hoạt động này không phải là
mục tiêu, mục đích của doanh nghiệp mà được doanh nghiệp tiến hành để
phục vụ cho hoạt động kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn.
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm giải thể doanh nghiệp
* Khái niệm của giải thể doanh nghiệp
Trong một vòng đời của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh thì
thường được chia làm bảy giai đoạn, bao gồm [20]: Giai đoạn “gieo hạt”,
khởi động, phát triển, ổn định, mở rộng, suy thoái và cuối cùng là tan rã.
Trong đó, “tan rã” là giai đoạn mà chủ thể doanh nghiệp phải chấm dứt hoạt
động của doanh nghiệp, rút lui ra khỏi thị trường. Trong khoa học pháp lý,
10
việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp thông thường được thực hiện dưới
nhiều cách thức khác nhau và phổ biến hiện nay là giải thể doanh nghiệp.
Dưới góc độ ngôn ngữ:
Trong tiếng anh, khái niệm giải thể được sử dụng bởi nhiều thuật ngữ
như: “disband” hay “break up” nhưng thông dụng nhất và được sử dụng rộng
rãi nhất để chỉ sự chấm dứt tồn tại của một doanh nghiệp, tổ chức trong các
văn bản pháp lý là thuật ngữ “dissolution”.
Theo từ điển tiếng Việt, “giải thể có nghĩa là không còn hoặc làm cho
không còn đủ điều kiện tồn tại như một tổ chức nữa, các thành viên phân tán
đi” [25]. Theo đó, khi doanh nghiệp không còn hoặc bị làm cho không còn đủ
điều kiện tồn tại, các thành viên trong doanh nghiệp phân tán đi, không còn
liên kết với nhau nữa thì doanh nghiệp đó sẽ giải thể. Hay nói cách khác giải
thể doanh nghiệp là một cách “khai tử” cho doanh nghiệp.
Dưới góc độ pháp lý:
Theo từ điển Luật học, giải thể doanh nghiệp là “thủ tục chấm dứt sự
tồn tại của doanh nghiệp, với tư cách là một chủ thể kinh doanh bằng cách
thanh lý tài sản của doanh nghiệp để trả cho các chủ nợ”[26]. Giáo trình
Luật Doanh nghiệp – Trường Đại học Luật Hà Nội: “Giải thể doanh nghiệp là
quá trình chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện doanh nghiệp
có khả năng thanh toán hoặc bảo đảm thanh toán các nghĩa vụ tài sản của
doanh nghiệp” [22, tr.419]; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam của Viện Đại
học Mở Hà Nội: “Giải thể doanh nghiệp là một trong những thủ tục pháp luật
dẫn đến chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp”[24]
Qua đây, có thể thấy về cơ bản dưới góc độ pháp lý khái niệm giải thể
doanh nghiệp được hiểu khá tương đồng nhau. Theo đó, giải thể doanh nghiệp
là việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Đây không phải là một sự kiện
pháp lý mà là một quá trình theo quy định của pháp luật. Trong đó, pháp luật
quy định cụ thể các trường hợp giải thể, điều kiện giải thể doanh nghiệp khi
11
doanh nghiệp bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
cũng như các nghĩa vụ hợp đồng khác với các bên có liên quan; đồng thời
không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài;
thủ tục giải thế.
Như vậy, có thể thấy: giải thể doanh nghiệp là quá trình dẫn đến việc
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp khi đảm bảo thanh toán hết các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết
tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.
* Đặc điểm của giải thể doanh nghiệp
Chủ sở hữu doanh nghiệp tiến hành giải thể doanh nghiệp khi thấy sự
tồn tại của doanh nghiệp không còn cần thiết hoặc doanh nghiệp bị giải thể
theo quy định của pháp luật. Và để doanh nghiệp được giải thể thì phải tuân
theo một trình tự pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ,
các cổ đông hoặc thành viên của công ty khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt
động. Khi tìm hiểu về đặc điểm của giải thể doanh nghiệp thì có những
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, về hậu quả pháp lý, giải thể doanh nghiệp dẫn đến việc chấm
dứt sự tồn tại của doanh nghiệp về pháp lý và thực tế.
Giải thể doanh nghiệp dẫn đến tư cách pháp lý của doanh nghiệp bị
chấm dứt, tên của doanh nghiệp trong sổ đăng ký doanh nghiệp bị xóa, mọi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều bị dừng lại; các doanh nghiệp
phải tiến hành thanh lý tài sản, các khoản nợ và các nghĩa vụ khác của doanh
nghiệp. Điều này đồng nghĩa doanh nghiệp đó không còn tồn tại trên thị
trường từ thời điểm Cơ quan đăng ký kinh doanh hoàn thành thủ tục xóa tên
trong sổ đăng ký.
Thứ hai, thủ tục giải thể doanh nghiệp là một thủ tục hành chính.
Trái với thủ tục phá sản mang tính tố tụng tư pháp khi yêu cầu tòa án
tuyên bố chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thủ tục giải thể
12
doanh nghiệp là một thủ tục hành chính, được tiến hành theo trình tự, thủ tục
pháp luật quy định và do cơ quan hành chính thực hiện như: chấm dứt hiệu
lực của mã số thuế; nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp, hủy con dấu, xóa tên
doanh nghiệp trong sổ đăng ký doanh nghiệp,… Mục đích của hoạt động
hành chính này suy cho cùng là để đảm bảo lợi ích của các chủ nợ của doanh
nghiệp. Vì vậy, về nguyên tắc, khi doanh nghiệp chưa thanh toán hết các
khoản nợ mà Cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp thì chính cơ
quan này phải chịu trách nhiệm “trả nợ thay”.
Thứ ba, lý do giải thể:
Lý do giải thể có thể bị bắt buộc do doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp
luật hoặc từ ý chí tự nguyện của chủ doanh nghiệp. Cụ thể:
Giải thể doanh nghiệp mang tính tự nguyện xuất phát từ ý chí của các
chủ sở hữu doanh nghiệp (chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân; tất cả các thành
viên hợp danh của công ty hợp danh, Hội đồng thành viên của Công ty TNHH
hai thành viên trở lên, chủ sở hữu Công ty TNHH một thành viên, Đại hội
đồng cổ đông của Công ty cổ phần), chẳng hạn: chủ sở hữu doanh nghiệp
không muốn tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh nữa do tỷ suất lợi nhuận
không cao, mâu thuẫn nội bộ doanh nghiệp, triển vọng kinh tế trong lĩnh vực
ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp không có nhiều hứa hẹn trong
tương lai; kết thúc thời hạn hoạt động ghi trong điều lệ mà không có quyết
định gia hạn… Trong trường hợp này chủ sở hữu doanh nghiệp có thể đi đến
quyết định giải thể để thu hồi vốn hoặc chuyển sang kinh doanh những loại
hình doanh nghiệp khác, kinh doanh với những chủ thể khác.
Bên cạnh đó, cũng có trường hợp doanh nghiệp buộc phải giải thể theo
một quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi doanh
nghiệp có hành vi vi phạm, như: nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh
doanh là giả mạo; doanh nghiệp ngừng hoạt động kinh doanh 01 năm mà
không thông báo cho Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan Thuế… Trong
13
trường hợp này, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là chủ thể ra quyết định
giải thế doanh nghiệp chứ không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu doanh
nghiệp.
Thứ tư, điều kiện để cơ quan có thẩm quyền cho phép giải thể doanh
nghiệp: một doanh nghiệp chỉ được phép giải thể khi doanh nghiệp đó đảm
bảo thanh toán hết các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp; không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan
trọng tài.
Đây là một trong những đặc trưng khi giải thể doanh nghiệp. Doanh
nghiệp trước khi tiến hành chấm dứt sự tồn tại của mình trên thị trường phải
đảm bảo hoàn thành mọi nghĩa vụ tài chính, khoản nợ mà bên này xác lập đối
với các bên, các nghĩa vụ khác của hợp đồng theo thỏa thuận giữa các bên có
liên quan. Sau khi giải quyết mọi khoản nợ và nghĩa vụ khác của doanh
nghiệp thì mọi tài sản còn lại của doanh nghiệp được phân chia cho các thành
viên hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp.
Có thể thấy rằng, đây là một điều kiện tiên quyết, để cơ quan có thẩm
quyền chấp nhận việc giải thể của doanh nghiệp. Nếu không để chấm dứt sự
tồn tại của mình, doanh nghiệp chỉ có thể tiến hành theo thủ tục phá sản.
1.1.2. Các hình thức giải thể
Việc xác định các hình thức giải thể doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan
trọng, đó là cơ sở pháp lý đầu tiên để từ đó áp dụng pháp luật về giải thể. Đối
với các trường hợp giải thể, có thể chia thành hai hình thức giải thể doanh
nghiệp: giải thể tự nguyện và giải thể bắt buộc.
Thứ nhất, giải thể tự nguyện:
- Giải thể tự nguyện là việc giải thể mà do chính doanh nghiệp quyết
định trong quá trình tiến hành hoạt động của mình khi đã đạt được mục đích
kinh doanh và thấy rằng việc tồn tại của doanh nghiệp là không còn cần thiết
14
hoặc gặp khó khăn không thể khắc phục được… Hình thức này bao gồm các
trường hợp giải thể khi:
+ Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân;
của các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của Hội đồng thành
viên đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; của chủ sở
hữu đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; của Đại hội đồng
cổ đông đối với Công ty cổ phần.
Giải thể trong trường hợp này thể hiện sự tự nguyện, ý chí của chủ sở
hữu đối với doanh nghiệp của mình. Việc chủ doanh nghiệp không muốn tiếp
tục kinh doanh có thể bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau, như: lợi nhuận
thấp, thua lỗ kéo dài, có mâu thuẫn nội bộ, không còn phù hợp với mục đích
kinh doanh đề ra ban đầu và nhiều yếu tố thị trường khác. Trong trường hợp
này, chủ doanh nghiệp có thể quyết định giải thể doanh nghiệp để thu hồi
vốn hoặc chuyển sang kinh doanh những loại hình doanh nghiệp khác. Đây
là quyết định hoàn toàn mang tính tự nguyện và chủ động của chủ doanh
nghiệp.
+ Doanh nghiệp kết thúc hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà
không có quyết định gia hạn. Đây là trường hợp đã có sự thỏa thuận và là ý
chí của chủ sở hữu doanh nghiệp ngay từ khi thành lập doanh nghiệp. Trường
hợp Điều lệ công ty có quy định về thời hạn hoạt động, khi hết thời hạn hoạt
động được ghi trong Điều lệ công ty, nếu các thành viên không muốn xin gia
hạn hoạt động, thì công ty phải tiến hành giải thể. Việc quy định thời hạn hoạt
động của doanh nghiệp có thể do thỏa thuận của các thành viên, cổ đông sáng
lập, hoặc do sự cấp phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
Thứ hai, giải thể bắt buộc
- Giải thể bắt buộc là trường hợp giải thể không do ý chí chủ quan của
doanh nghiệp mà do cơ quan Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp phải tiến hành
15
giải thể. Điều này, xuất phát từ lý do doanh nghiệp không đáp ứng các điều
kiện nhất định mà pháp luật quy định hoặc có những hành vi vi phạm
pháp luật. Các trường hợp giải thể bắt buộc bao gồm như sau:
+ Công ty không còn đủ số lượng thành viên, cổ đông tối thiểu theo
quy định của Luật Doanh nghiệp trong thời hạn sáu tháng liên tục mà không
làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp phù hợp.
Có đủ số lượng thành viên, cổ đông tối thiểu là một trong những điều
kiện để công ty tồn tại và hoạt động. Pháp luật quy định số lượng thành viên
tối thiểu cho mỗi loại hình công ty khác nhau. Số lượng cổ đông tối thiểu theo
quy định đối với Công ty cổ phần là 03, đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn
có hai thành viên trở lên là 02. Đối với công ty hợp danh, pháp luật quy định
phải có ít nhất 02 cá nhân là thành viên hợp danh. Khi không có đủ số lượng
thành viên tối thiểu để tiếp tục tồn tại, công ty phải bổ sung thêm thành viên,
cổ đông cho đủ số lượng thành viên tối thiểu. Nếu trong thời hạn 6 tháng liên
tục mà công ty không tiến hành bổ sung thêm cổ đông, thành viên mà số
lượng thành viên không đủ hoặc không chuyển đổi sang loại hình doanh
nghiệp phù hợp thì công ty phải tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp.
+ Công ty bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp:
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày nhận được quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,
doanh nghiệp phải triệu tập họp để quyết định giải thể doanh nghiệp. Để
thành lập doanh nghiệp, người thành lập phải chuẩn bị hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp và nộp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời phải chịu trách
nhiệm về tính chính xác, trung thực và hợp pháp của hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp. Trên cơ sở hồ sơ hợp lệ, Cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ thực hiện
cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp, ghi nhận sự ra
đời, công nhận về mặt pháp lý sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thị trường.
Có thể nói, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chính là tấm giấy “thông
16
hành” để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động của mình trên thị
trường cũng như xác lập các quan hệ pháp lý với cơ quan Nhà nước. Do vậy,
bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng có nghĩa là Nhà nước
rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh đối với doanh nghiệp. Trong
trường hợp này, doanh nghiệp không còn được công nhận về địa vị pháp lý và
không còn được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khoản 1, Điều 211 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định 5 trường
hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, bao
gồm:
“a. Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo;
b. Doanh nghiệp do những người bị cấm thành lập doanh nghiệp theo
khoản 2 Điều 18 của Luật này thành lập;
c. Doanh nghiệp ngừng hoạt động kinh doanh 01 năm mà không thông
báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan Thuế;
d. Doanh nghiệp không gửi báo cáo theo quy định tại điều c khoản 1
Điều 209 của Luật này đến Cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 06
tháng, kể từ ngày hết hạn gửi báo cáo hoặc có yêu cầu bằng văn bản;
d. Trường hợp khác theo quyết định của Tòa án”.
1.1.3. Phân biệt giải thể với các hình thức chấm dứt doanh nghiệp khác
1.1.3.1. Phân biệt giải thể doanh nghiệp với phá sản doanh nghiệp
Giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp đều là thủ tục “khai tử”
để chấm dứt sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy
nhiên, về cơ bản, giải thể và phá sản doanh nghiệp vẫn có những điểm khác
biệt, cụ thể:
Thứ nhất, lý do giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp:
Lý do giải thể doanh nghiệp rộng hơn rất nhiều của phá sản doanh
nghiệp. Giải thể doanh nghiệp xuất phát từ nhiều lý do như từ ý chí của chủ
sở hữu doanh nghiệp khi mà mục đích của doanh nghiệp không đạt được hay
17
là do hoạt động của doanh nghiệp không đạt hiệu quả mà việc chấm dứt sự
tồn tại của doanh nghiệp là sẽ có lợi hơn. Chẳng hạn: Chủ doanh nghiệp tư
nhân quyết định giải thể doanh nghiệp; của các thành viên hợp danh quyết
định giải thể đối với công ty hợp danh…; Giải thể doanh nghiệp cũng có thể
xuất phát từ ý chí của cơ quan quản lý Nhà nước theo yêu cầu quản lý Nhà
nước khi mà doanh nghiệp không còn đủ điều kiện tồn tại như không còn đủ
số lượng thành viên tối thiểu trong 6 tháng liên tục mà không làm thủ tục thay
đổi mô hình doanh nghiệp, hay có vi phạm pháp luật. Trong khi đó, phá sản
doanh nghiệp chỉ có 01 lý do duy nhất là tình trạng doanh nghiệp, hợp tác xã
mất khả năng thanh toán và có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 4 của Luật Phá sản 2014: “Doanh nghiệp, hợp tác xã
mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa
vụ thanh toán được các khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn
thanh toán”
Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền quyết định giải thể doanh nghiệp và
phá sản doanh nghiệp.
Đối với giải thể doanh nghiệp thuộc quyền quyết định của chủ sở hữu
doanh nghiệp đối với những trường hợp giải thể tự nguyện hoặc do cơ quan
quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập doanh nghiệp quyết định
đối với trường hợp giải thể bắt buộc. Trong khi đối với phá sản doanh nghiệp,
chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định tuyên bố một
doanh nghiệp phá sản và tiến hành các thủ tục phá sản.
Thứ ba, tính chất của thủ tục giải thể và thủ tục phá sản doanh nghiệp.
Giải thể doanh nghiệp là thủ tục mang tính hành chính, chủ yếu do Cơ
quan đăng ký kinh doanh thực hiện theo trình tự, thủ tục được quy định tại
Luật Doanh nghiệp 2014. Đối với phá sản doanh nghiệp là thủ tục tư pháp, do
Tòa án thực hiện theo quy định của Luật Phá sản năm 2014.
Thứ tư, điều kiện giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp.
18
Đối với giải thể doanh nghiệp: doanh nghiệp chỉ được giải thể khi đảm
bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp
không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.
Trong khi đó, đối với phá sản, doanh nghiệp phải đảm bảo thanh toán
hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác không là điều kiện bắt buộc. Theo
quy định của Luật Phá sản 2014, doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục phá sản mất
khả năng thanh toán nợ; các chủ nợ sẽ được thanh toán các khoản nợ theo thứ
tự luật định trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp (từ doanh nghiệp tư
nhân và thành viên hợp danh công ty hợp danh). Trường hợp, giá trị tài sản
còn lại không thanh toán hết các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản thì các chủ nợ sẽ
được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ dựa trên thứ tự ưu
tiên. Như vậy, doanh nghiệp phá sản có thể thanh toán hết hoặc không thanh
toán các khoản nợ cho các chủ nợ.
Thứ năm, hậu quả pháp lý của việc áp dụng thủ tục giải thể doanh
nghiệp và phá sản doanh nghiệp.
Đối với giải thể doanh nghiệp, sau khi hoàn thành thủ tục giải thể, bị
xóa tên trong sổ đăng ký doanh nghiệp thì về mặt pháp lý doanh nghiệp
không còn tồn tại.
Đối với thủ tục phá sản doanh nghiệp, hậu quả pháp lý không phải luôn
là chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp, không phải trường hợp nào sau khi
mở thủ tục phá sản cũng dẫn đến doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Trên thực
tế, có những trường hợp sau khi thực hiện thủ tục phá sản doanh nghiệp, chỉ
làm thay đổi chủ doanh nghiệp mà thôi (ví dụ một người nào đó mua lại toàn
bộ doanh nghiệp để tiếp tục sản xuất kinh doanh) hoặc trong trường hợp Tòa
án áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong quá trình áp dụng thủ
tục phá sản. Nếu thủ tục phục hồi kinh doanh có hiệu quả thì Tòa án sẽ quyết
định đình chỉ thủ tục phá sản của doanh nghiệp, khi đó doanh nghiệp vẫn tiếp
tục tồn tại. Như vậy, sau khi áp dụng thủ tục phá sản thì về mặt pháp lý,
doanh nghiệp vẫn có thể tồn tại.
19
Thứ sáu, quyền của chủ doanh nghiệp sau khi giải thể hoặc phá sản.
Đối với doanh nghiệp bị giải thể, chủ doanh nghiệp có quyền thành lập
và quản lý, điều hành doanh nghiệp khác. Nhà nước không đặt ra bất kỳ một
sự hạn chế nào đối với quyền tự do kinh doanh của chủ doanh nghiệp bị giải thể
bởi lẽ, giải thể doanh nghiệp chủ yếu xuất phát từ ý chí của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đối với chủ doanh nghiệp bị phá sản không được phép thành
lập doanh nghiệp trong một thời gian nhất định kể từ ngày tuyên bố phá sản.
Điều này xuất phát từ nguyên nhân của việc áp dụng thủ tục phá sản là doanh
nghiệp hoạt động không hiệu quả, thua lỗ dẫn đến tình trạng không có khả
năng thanh toán nợ mà để dẫn đến tình trạng này là có việc quản lý điều hành
doanh nghiệp yếu kém, sai lầm. Trên cơ sở đó, mà chủ doanh nghiệp bị phá
sản sẽ bị hạn chế quyền thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, chủ doanh nghiệp
sẽ không bị hạn chế quyền trong trường hợp phá sản do những sự kiện bất khả
kháng, ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, như: hỏa hoạn, chiến tranh,
thiên tai, dịch bệnh, bạo loạn, đình công, khủng hoảng kinh tế, chính sách
pháp luật của Nhà nước thay đổi….dẫn đến doanh nghiệp bị khủng hoảng,
thiệt hại nặng nề và không có khả năng thanh toán mọi khoản nợ và buộc phải
tự yêu cầu Tòa án tiến hành thủ tục phá sản.
1.1.3.2. Phân biệt giải thể doanh nghiệp với các trường hợp tổ chức lại
doanh nghiệp
Trước khi phân biệt giải thể doanh nghiệp với các trường hợp tổ chức
lại doanh nghiệp, cần phải tìm hiểu các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 tổ chức lại doanh nghiệp là việc
chia, tách, hợp nhất, sáp nhập hoặc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, cụ thể:
- Chia doanh nghiệp là trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty
cổ phần có thể chia các cổ đông, thành viên và tài sản công ty để thành lập hai
hoặc nhiều công ty mới. Trong trường hợp chia doanh nghiệp, công ty bị chia
chấm dứt tồn tại, chấm dứt tư cách pháp nhân sau khi các công ty mới được
20
cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Các doanh nghiệp mới được
thành lập sau khi chia phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ,
nghĩa vụ tài chính trong hoạt động kinh doanh chưa được thanh toán, hợp
đồng lao động với người lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp bị chia hoặc thỏa thuận với đối tác và người lao động.
- Tách doanh nghiệp là trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công
ty cổ phần tách doanh nghiệp bằng cách chuyển một phần tài sản, quyền và
nghĩa vụ của công ty hiện có (sau đây gọi là công ty bị tách) để thành lập một
hoặc một số Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần mới (sau đây gọi
là công ty được tách) mà không chấm dứt tồn tại của công ty bị tách. Sau khi
tách doanh nghiệp, doanh nghiệp bị tách và doanh nghiệp được tách phải
cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính chưa thanh
toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị tách,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
- Hợp nhất doanh nghiệp là trường hợp hai hoặc một số công ty (sau
đây gọi là công ty bị hợp nhất) hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi
là công ty hợp nhất), đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.
Khi công ty mới được thành lập sẽ đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty
bị hợp nhất. Công ty mới thành lập được hưởng các quyền và lợi ích hợp
pháp, và đồng thời phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán,
hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.
- Sáp nhập doanh nghiệp là trường hợp một hoặc một số công ty (sau
đây gọi là công ty bị sáp nhập) sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là
công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại
của công ty bị sáp nhập. Doanh nghiệp nhận sáp nhập được hưởng các quyền
và lợi ích hợp pháp, cũng như phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa
21
thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị
sáp nhập.
- Chuyển đổi doanh nghiệp, là trường hợp chuyển đổi qua lại giữa các
loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển đổi
thành Công ty cổ phần hoặc ngược lại; doanh nghiệp tư nhân có thể được
chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn (chuyển đổi hình thức pháp
lý). Sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp được
chuyển đổi chấm dứt tồn tại; doanh nghiệp chuyển đổi được hưởng các quyền
và lợi ích hợp pháp, đồng thời chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh
toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp được
chuyển đổi. Như vậy, các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp về bản chất là
do chính chủ sở hữu doanh nghiệp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả trong
hoạt động kinh doanh.
* Phân biệt các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp với giải thể
doanh nghiệp:
Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền quyết định giải thể doanh nghiệp và
tổ chức lại doanh nghiệp.
Đối với giải thể doanh nghiệp, quyền quyết định có thể thuộc về của
chủ sở hữu doanh nghiệp đối với những trường hợp giải thể tự nguyện hoặc
thuộc về cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập doanh
nghiệp quyết định đối với trường hợp giải thể bắt buộc. Còn đối với hoạt động
tổ chức lại doanh nghiệp thì chủ thể quyết định chính là chủ sở hữu doanh
nghiệp với mục đích thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh
doanh.
Thứ hai, về thời điểm hoàn thành thủ tục của giải thể doanh nghiệp và
tổ chức giải thể doanh nghiệp.
22
Đối với giải thể doanh nghiệp, khi mà Cơ quan đăng ký kinh doanh xóa
tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký doanh nghiệp thì chính là thời điểm thủ tục
giải thể đã được hoàn thành. Khi đó các quyền và nghĩa vụ, cũng như tư cách
pháp lý của doanh nghiệp chấm dứt. Đối với tổ chức lại doanh nghiệp, có thể
doanh nghiệp sẽ bị xóa tên trong sổ đăng ký doanh nghiệp như khi chuyển
đổi, hợp nhất, chia doanh nghiệp nhưng không thể xem đây là thời điểm hoàn
thành thủ tục. Thủ tục chỉ được hoàn thành khi doanh nghiệp mới được thành
lập (được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc được ghi nhận trong
sổ đăng ký doanh nghiệp).
Thứ ba, hậu quả pháp lý của giải thể doanh nghiệp và tổ chức giải thể
doanh nghiệp.
Đối với giải thể doanh nghiệp, sau khi hoàn thành thủ tục giải thế,
doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại, các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
không được kế thừa. Nhưng đối với việc tổ chức lại doanh nghiệp, doanh
nghiệp được tổ chức lại không còn tồn tại về mặt pháp lý nhưng về bản chất
doanh nghiệp đó vẫn tồn tại nhưng trong một hình thức mới; các quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp đó vẫn được kế thừa trong doanh nghiệp mới được
hình thành.
1.1.3.3. Phân biệt giải thể doanh nghiệp với tạm ngừng kinh doanh
Thứ nhất, về bản chất pháp lý:
Giải thể doanh nghiệp được hiểu là quá trình dẫn đến sự chấm dứt tồn
tại của doanh nghiệp sau khi đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp đó. Còn tạm ngừng kinh doanh được hiểu là
trường hợp doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
khoảng một thời gian nhất định. Sau khoảng thời gian tạm ngừng đó, doanh
nghiệp trở lại hoạt động bình thường.
23
Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền quyết định giải thể doanh nghiệp và
tạm ngừng kinh doanh.
Giải thể doanh nghiệp có thể là quyền của doanh nghiệp nếu giải thể tự
nguyện, nhưng cũng là giải thể bắt buộc nếu doanh nghiệp đó vi phạm pháp
luật và bị Cơ quan đăng ký kinh doanh thu hồi giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp hoặc không đáp ứng đủ điều kiện hoạt động theo quy định của
pháp luật. Còn đối với tạm ngừng kinh doanh thì hoàn toàn do quyền của
doanh nghiệp trên cơ sở kết quả và mục đích kinh doanh.
Thứ ba, hậu quả pháp lý của giải thể doanh nghiệp và tạm ngừng kinh doanh.
Hậu quả pháp lý của giải thể doanh nghiệp bao giờ cũng là chấm dứt
hoạt động của doanh nghiệp, đóng mã số thuế của doanh nghiệp. Còn tạm
ngừng kinh doanh không làm chấm dứt hoàn toàn hoạt động của doanh
nghiệp; doanh nghiệp chỉ tạm ngừng kinh doanh trong một khoảng thời gian
nhất định, hết thời hạn đó, doanh nghiệp tiếp tục hoạt động bình thường; trong
thời hạn ngừng hoạt động, doanh nghiệp phải nộp đủ số thuế còn nợ, tiếp tục
thanh toán các khoản nợ, hoàn thành việc thực hiện hợp đồng đã ký với khách
hàng và người lao động, trừ trường hợp có quy định khác.
Thứ tư, đối với giải thể doanh nghiệp, doanh nghiệp phải trả các khoản
nợ và nghĩa vụ tài chính thì tạm ngừng kinh doanh là doanh nghiệp có thể bớt
đi nỗi lo về tiền lương cho người lao động, thuế, các khoản chi khác; nhờ đó,
doanh nghiệp tập trung được nhân lực và vật lực để giải quyết các khó khăn
còn tồn đọng; tìm cách huy động vốn từ các nhà đầu tư để tái cơ cấu lại doanh
nghiệp hoặc cũng có thể chờ đợi cơ hội mới tốt hơn. Một ưu điểm nổi bật của
việc tạm ngừng kinh doanh là khi doanh nghiệp hoạt động trở lại bình thường
thì thủ tục rất đơn giản, nếu hết thời hạn tạm ngừng thì doanh nghiệp tự hoạt
động trở lại còn nếu sớm hơn thời hạn tạm ngừng thì chỉ cần làm công văn
thông báo. Ngược lại, khi doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, không có
24
cơ hội để phát triển và thoát khỏi khủng hoảng thì nên chọn giải pháp giải thể
hoặc phá sản doanh nghiệp để chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp.
1.2. Một số vấn đề lý luận về điều kiện giải thể doanh nghiệp theo pháp luật
1.2.1. Khái niệm pháp luật về giải thể doanh nghiệp
Để đảm bảo doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường một cách có trật tự,
lành mạnh qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên
quan thì việc có sự điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật là cần thiết. Do đó,
các quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp đã được quan tâm và quy
định trong Luật Doanh nghiệp.
Pháp luật về giải thể doanh nghiệp bao gồm một hệ thống các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình giải quyết việc giải thể doanh nghiệp. Các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình giải quyết việc giải thể doanh nghiệp là quan hệ giữa
chủ sở hữu doanh nghiệp và doanh nghiệp, quan hệ giữa doanh nghiệp và đối
tác trong kinh doanh, quan hệ giữa doanh nghiệp và chủ nợ, quan hệ giữa
doanh nghiệp với người lao động, quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền.
Trước đây, pháp luật về giải thể doanh nghiệp được quy định tương
ứng với từng loại hình cụ thể: đối với doanh nghiệp Nhà nước, việc giải thể
được quy định tại Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995 và Luật doanh
nghiệp Nhà nước năm 2003; đối với các doanh nghiệp; còn đối với khối
doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì các quy định về giải thể doanh nghiệp
được ghi nhận tại Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm
1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999; Luật doanh nghiệp 2005 và hiện nay là
Luật Doanh nghiệp 2014 tại Chương IX.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về giải thể doanh nghiệp
Giải thể là quy luật mang tính tất yếu trong nền kinh tế thị trường, và
nó cũng có những ý nghĩa nhất định đối với kinh tế – xã hội. Các quy định
25
của Luật Doanh nghiệp về giải thể doanh nghiệp được ban hành không chỉ để
đào thải các doanh nghiệp yếu kém mà còn nhằm mục đích khôi phục lại sự
cân bằng về cán cân thanh toán thị trường. Điều này được thể hiện ở những
nội dung chủ yếu sau:
– Pháp luật về giải thể doanh nghiệp là công cụ bảo vệ một cách có
hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ:
Bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ trước tiên là bảo vệ các quyền về tài sản
của các chủ nợ. Khi doanh nghiệp mắc nợ không trả được nợ cho các chủ nợ
thì khi doanh nghiệp giải thể phải để bán toàn bộ tài sản còn lại của doanh
nghiệp để trả cho các chủ nợ.
- Pháp luật giải thể doanh nghiệp góp phần vào bảo vệ lợi ích của người
lao động:
Việc doanh nghiệp bị giải thể thì chính những người lao động trong
doanh nghiệp sẽ phải chịu hậu quả trực tiếp, họ sẽ bị mất việc làm, mất nguồn
thu nhập để đảm bảo đời sống. Sự bảo vệ của pháp luật giải thể đối với người
làm công thể hiện ở chỗ họ có quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương trước
các khoản nợ khác của doanh nghiệp, nợ thuế trước khi cơ quan ra quyết định
giải thể doanh nghiệp và xóa tên trong sổ đăng ký doanh nghiệp.
- Pháp luật giải thể doanh nghiệp góp phần bảo vệ trật tự trong xã hội:
Khi doanh nghiệp bị giải thể thì chủ nợ nào cũng muốn lấy được càng
nhiều càng tốt tài sản còn lại của doanh nghiệp bị giải thể. Như vậy nếu
không có Luật để đưa vấn đề phân chia tài sản của doanh nghiệp theo một trật
tự nhất định, nhằm bảo đảm sự công bằng và khách quan mà cứ để “mạnh ai
người ấy lấy” một cách vô tổ chức thì sẽ gây ra tình trạng lộn xộn, mất trật tự,
gây ra mâu thuẫn giữa chủ nợ với con nợ, giữa chủ nợ với nhau. Để có thể
giải quyết công bằng, thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ và con nợ
và giữa các chủ nợ với nhau, pháp luật về giải thể quy định cụ thể thứ tự ưu
26
tiên thanh toán góp phần giải quyết mâu thuẫn, hạn chế những căng thẳng có
thể có giữa họ với nhau, nhờ đó đảm bảo được trật tự của xã hội.
- Pháp luật giải thể góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, tái tạo tổ chức lại
doanh nghiệp:
Giải thể doanh nghiệp bao giờ cũng kéo theo những hậu quả về kinh tế
xã hội nhất định, nhưng không phải trong trường hợp nào giải thể doanh
nghiệp cũng mang lại những tiêu cực. Giải thể doanh nghiệp là một biện pháp
giúp cơ cấu lại nền kinh tế, giúp đào thải tự nhiên đối với doanh nghiệp làm
ăn yếu kém, thua lỗ góp phần duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh. Qua đó góp phần vào sự tăng
trưởng, phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa, pháp luật về giải thể doanh
nghiệp còn là công cụ răn đe buộc các nhà kinh doanh luôn luôn phải năng
động sáng tạo nhưng không được mạo hiểm và liều lĩnh.
Ta thấy việc quy định này là hết sức cần thiết bởi nó không chỉ tạo cơ
sở pháp lí để chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp, mà quan trọng hơn là còn
bảo vệ quyền lợi của những chủ thể có liên quan. Qua đó, góp phần cơ cấu lại
nền kinh tế, tái tạo tổ chức lại doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế đất nước
bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng.
1.2.3. Các nội dung điều chỉnh pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp
Một doanh nghiệp, từ khi ra đời cho đến khi chấm dứt hoạt động, luôn
có mối quan hệ với Nhà nước. Quan hệ mang tính tất yếu này thuộc phạm vi
quản lý của Nhà nước về Doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích chung cộng
đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của chính công ty và người thứ ba. Để đảm
bảo mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, mục đích
quản lý Nhà nước, mục đích điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước quy định
trình tự, thủ tục, điều kiện giải thể doanh nghiệp. Tại Việt Nam hiện nay,
pháp luật điều chỉnh về điều kiện giải thể doanh nghiệp được quy định trong
Luật Doanh nghiệp 2014, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp
27
2014 và các văn bản có liên quan khác. Các nội dung cơ bản của pháp luật
điều chỉnh pháp luật về điều kiện giải thể.
Thứ nhất, điều kiện về tình trạng của doanh nghiệp được phép giải thể:
Giải thể doanh nghiệp là sự kiện pháp lý làm chấm dứt tư cách pháp
nhân, chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc chấm dứt hoạt
động của doanh nghiệp nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể,
ảnh hưởng đến sự vận hành của thị trường, của nền kinh tế nên doanh nghiệp
muốn được giải thể thì phải đáp ứng điều kiện về tình trạng của doanh nghiệp
mới được giải thể. Pháp luật về doanh nghiệp quy định về tình trạng của
doanh nghiệp được phép giải thể trong 02 trường hợp sau:
- (i) Doanh nghiệp giải thể tự nguyện: đây là việc giải thể mà do chính
doanh nghiệp quyết định trong quá trình tiến hành hoạt động của mình khi
thấy rằng việc tồn tại của doanh nghiệp là không còn cần thiết, hoặc doanh
nghiệp không còn đủ khả năng duy trì hoạt động. Đây là trường hợp giải thể
pháp luật cho phép xuất phát từ quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo
hộ, mà quyền chấm dứt doanh nghiệp là một phần của quyền tự do kinh
doanh. Cụ thể: Doanh nghiệp mặc dù đang hoạt động nhưng theo quyết định
của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân, của tất cả thành viên hợp
danh đối với công ty hợp danh, của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty
đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông đối với Công
ty cổ phần thống nhất quyết định giải thể doanh nghiệp; hoặc, hết thời hạn
hoạt động theo Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn.
- (ii) Doanh nghiệp giải thể bắt buộc: là trường hợp giải thể do cơ quan
Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp phải tiến hành giải thể. Nhà nước yêu cầu
doanh nghiệp phải giải thể khi doanh nghiệp không đáp ứng được điều kiện
để một doanh nghiệp tồn tại và hoạt động theo quy định của pháp luật, cụ thể:
Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật
này trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình
doanh nghiệp hoặc bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Thứ hai, điều kiện về tài chính và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi giải thể
28
Một trong những hậu quả khi doanh nghiệp giải thể đó là việc phải giải quyết
xong các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp, cụ thể là đối với các thành viên, cổ
đông của doanh nghiệp; người thứ ba (trật tự công, người lao động, chủ nợ...).
Điều này, xuất phát từ quyền được bảo hộ tài sản hợp pháp của công dân. Pháp
luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam quy định điều kiện về thực hiện nghĩa
vụ thanh toán các khoản nợ cũng như các nghĩa vụ khác, cụ thể:
- (i) Doanh nghiệp đã thanh toán hết các khoản nợ
- (ii) Doanh nghiệp đã hoàn thành các nghĩa vụ tài sản khác.
- (iii) Doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án
hoặc cơ quan trọng tài. Các quy định về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể có
liên quan đến việc giải thể doanh nghiệp.
Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để cho phép hoặc bắt buộc một
doanh nghiệp giải thể. Bởi lẽ, nếu không giải quyết được vấn đề này thì
quyền lợi của người thứ ba sẽ bị xâm phạm.
Thứ ba, điều kiện về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp.
Pháp luật các nước cũng như Việt Nam đều quy định trình tự thủ tục giải
thể là bắt buộc. Đây là vấn đề quan trọng xác định lộ trình cụ thể để đảm bảo
thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan. Trình
tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp bao gồm: thông qua quyết định giải thể doanh
nghiệp, thanh lý tài sản, thông báo quyết định giải thể doanh nghiệp…..Ngoài
ra, đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực đặc thù như: doanh nghiệp bảo
hiểm, Ngân hàng, doanh nghiệp trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng….. thì bên
cạnh việc áp dụng các quy định mang tính chất chung như trên thì việc giải thể
còn áp dụng các quy định mang tính đặc thù nhằm đảm bảo tính hiệu quả của
việc giải thể các doanh nghiệp này.
29
Tiểu kết Chương 1
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh quan trọng và không thể thiếu
trong nền kinh tế hiện nay khi thực hiện các hoạt động kinh doanh để tạo ra
sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho các nhu cầu của toàn xã hội.
Trong quá trình hoạt động, có những doanh nghiệp có nhu cầu muốn chấm
dứt hoạt động; cũng có những doanh nghiệp bắt buộc phải chấm dứt hoạt
động và giải thể doanh nghiệp là một trong những cách thức để doanh nghiệp
chấm dứt hoạt động. Để đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh, giúp doanh nghiệp rút khỏi thị trường một
cách lành mạnh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác thì
cần có một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh về điều kiện giải thể doanh nghiệp.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định điều chỉnh về điều kiện
giải thể doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Các quy định đó bên cạnh giúp đạt được các mục đích nêu trên thì còn
là công cụ giúp Nhà nước nâng cao hiệu quả quản lý đối với việc hoạt động
của doanh nghiệp.
30
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Tổng quan pháp luật điều chỉnh về giải thể doanh nghiệp
Hiện nay ở Việt Nam các quy định về giải thể doanh nghiệp nói chung
được ghi nhận cơ bản trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 và hệ thống các
văn bản hướng dẫn thi hành, gồm những nội dung cơ bản sau: các trường hợp
và điều kiện giải thể doanh nghiệp; trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp và
các quy định về quyền, lợi ích của các chủ thể liên quan trong quá trình giải
thể doanh nghiệp. Cụ thể:
Thứ nhất, pháp luật về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp
Pháp luật Việt Nam quy định các trường hợp và điều kiện giải thể
doanh nghiệp tại khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014 với 04
trường hợp doanh nghiệp tiến hành thủ tục giải thế:
(i) Kết thúc thời gian hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không
có quyết định gia hạn. Điều lệ công ty hay chính là bản cam kết của tất cả
thành viên trong công ty về thành lập và hoạt động công ty, trong đó có thỏa
thuận về thời gian hoạt động của doanh nghiệp.“Kết thúc thời hạn hoạt động
đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn” có nghĩa là
khoảng thời gian doanh nghiệp tồn tại mà thành viên đã định ra với nhau đã
hết, mà các thành viên không muốn xin gia hạn hoạt động thì công ty đương
nhiên phải tiến hành giải thể;
(ii) Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư
nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của Hội đồng
31
thành viên, chủ sở hữu công ty đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn, của
Đại hội cổ đông đối với Công ty cổ phần.
(iii) Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định
của Luật này trong thời hạn 6 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi
loại hình doanh nghiệp.
(iv) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Bị thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng có nghĩa là Nhà nước rút lại sự công
nhận tư cách chủ thể của doanh nghiệp. Lúc này doanh nghiệp không còn
được tiến hành các hoạt động kinh doanh, mục đích thành lập của doanh
nghiệp đương nhiên sẽ không có cơ hội để thực hiện nói cách khác sự tồn tại
của doanh nghiệp sẽ không còn ý nghĩa. Vì vậy, pháp luật đã quy định trong
trường hợp này doanh nghiệp phải tiến hành giải thể.
Thứ hai, quy định về điều kiện giải thể doanh nghiệp
Tại Khoản 2 Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về điều
kiện giải thể doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo
đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp
không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.
Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm d khoản 1
Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.
Như vậy, mặc dù cho doanh nghiệp giải thể theo trường hợp nào, tự nguyện
hay bắt buộc thì cũng phải thỏa mãn các điều kiện trên. Nếu doanh nghiệp
không đáp ứng được điều kiện này thì doanh nghiệp không thể chấm dứt hoạt
động theo thủ tục giải thể. Đây cũng là một trong những tiêu chí để phân biệt
giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp.
Thứ ba, quy định về trình tự, thủ tục và giải thể doanh nghiệp
Trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp của pháp luật Việt Nam quy định
tại Điều 202 Luật Doanh nghiệp 2014 và Điều 59 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP
quy định về trình tự, thủ tục giải thể trong các trường hợp giải thể doanh nghiệp
32
(trừ trường hợp giải thể do bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp)
như sau:
- Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp
- Gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh, chủ nợ và
công khai quyết định này.
- Tổ chức thanh lý tài sản và thanh toán nợ.
- Gửi đề nghị giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan đăng
ký kinh doanh cấp nhận tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên cơ sở dữ
liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Sau thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải thể,
không nhận được ý kiến hoặc phản đối của bên có liên quan bằng văn bản
hoặc trong 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Cơ quan đăng ký
kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp dựa trên Cơ sở dữ
liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, đồng thời thông báo về việc giải thể
của doanh nghiệp.
Thứ tư, quy định về quyền, lợi ích của các chủ thể liên quan trong quá trình
giải thể doanh nghiệp
Pháp luật Việt Nam quy định về các hành vi bị nghiêm cấm kể từ khi
có quyết định giải thể Điều 201, Điều 205 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Kể từ ngày quyết định giải thể doanh nghiệp, nghiêm cấm doanh
nghiệp, người quản lý doanh nghiệp thực hiện các hoạt động cất giấu, tẩu tán
tài sản; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo
đảm thành các khoản nợ có đảm bảo bằng tài sản doanh nghiệp; ký kết hợp
đồng mới trừ trường hợp để thực hiện giải thể doanh nghiệp; cầm cố, thế
chấp, tặng cho, cho thuê tài sản; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
huy động vốn dưới mọi hình thức; tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, cá
nhân có hành vi vi phạm có thể xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu
33
trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường (Điều 205 Luật
Doanh nghiệp 2014).
Thứ năm, quy định về quản lý nhà nước về giải thể doanh nghiệp
Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý bằng hệ thống chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước, các chế tài về kinh tế - tài chính nhằm thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, nhằm thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định tình hình chính trị - xã hội của đất nước.
Đối với hoạt động giải thể doanh nghiệp, Nhà nước cũng bằng hệ thống pháp
luật về doanh nghiệp cùng các công cụ quản lý khác của Nhà nước để thực
hiện chức năng quản lý của Nhà nước về hoạt động giải thể doanh nghiệp.
Pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam quy định:
- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản
lý Nhà nước đối với doanh nghiệp trong phạm vi địa phương. Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn được phân công chịu trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trực
thuộc và Ủy ban nhân dân cấp huyện định kỳ gửi cho Cơ quan đăng ký kinh
doanh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính các thông tin theo quy định tại khoản 2
Điều này (Điều 208, Luật doanh nghiệp 2014).
- Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện giải thể doanh nghiệp là cơ
quan đăng ký kinh doanh. Theo điểm e, khoản 1 Điều 209 quy định Cơ quan
đăng ký kinh doanh có nhiệm vụ, quyền hạn: “Xử lý vi phạm các quy định về
đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thu hồi Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo quy
định của Luật này”. Như vậy, Cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền thu
hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm
thủ tục giải thể.
Ngoài ra, tại Điều 203, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định giải thể doanh
nghiệp trong trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc
34
theo quyết định của Tòa án. Theo đó Cơ quan đăng ký kinh doanh, phải thông
báo tình trạng doanh nghiệp đang làm thủ tục giải thể trên Cổng thông tin
quốc gia về đăng ký doanh nghiệp đồng thời với việc ra quyết định thu hồi
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc ngay sau khi nhận được quyết
định giải thể của Tòa án đã có hiệu lực thi hành. Kèm theo thông báo phải
đăng tải quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc
quyết định của Tòa án. Như vậy, Tòa án có thẩm quyền yêu cầu doanh nghiệp
giải thể.
2.1.2. Quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp
2.1.2.1. Điều kiện về tình trạng của doanh nghiệp được phép giải thể
Theo Khoản 1, Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2014, quy định của pháp
luật về giải thể bao gồm các trường hợp giải thể như sau:
Thứ nhất, kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà
không có quyết định gia hạn.
Điều lệ công ty được xem như là một đạo luật riêng của công ty. Tất cả
các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức, phương hướng hoạt động, cơ chế
giải quyết tranh chấp được quy định trong Điều lệ công ty trên cơ sở cam kết,
thỏa thuận của các thành viên sáng lập công ty và nội dung đó không trái với
quy định của pháp luật, có giá trị bắt buộc đối với công ty (bao gồm người sở
hữu, người quản lý và người lao động).
Ngay từ khi thành lập, doanh nghiệp có thể quyết định thời hạn hoạt
động của công ty và được ghi nhận trong Điều lệ công ty. Khi hết thời hạn
này thì doanh nghiệp sẽ phải giải thể, tuy nhiên không phải khi đến hạn này
thì việc giải thể bắt buộc phải thực hiện, mà doanh nghiệp có thể quyết định
việc tiếp tục tồn tại thông qua quyết định gia hạn. Về nguyên tắc, khi doanh
nghiệp hết thời hạn hoạt động mà không có quyết định gia hạn thì phải giải thể.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay nhiều Điều lệ công ty không phải ghi thời
gian hoạt động bởi không phải nội dung bắt buộc trong điều lệ, nên sẽ không
35
xuất hiện trường hợp giải thể khi kết thúc thời hạn được ghi trong Điều lệ
công ty. Ngoài ra, theo quy định của Luật Đầu tư 2014, một số trường hợp
thời hạn hoạt động lại được quy định trong Giấy chứng nhận đầu tư (Khoản 7
Điều 39 Luật Đầu tư); riêng dự án đầu tư có vốn nước ngoài mà thành lập tổ
chức kinh tế (doanh nghiệp) sẽ có thời hạn hoạt động và thời hạn này được
ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, chứ không phải ghi trong Điều lệ
công ty, điều này cho thấy sự không tương thích giữa Luật Đầu tư và Luật
Doanh nghiệp.
Thứ hai, theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư
nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của Hội đồng
thành viên, chủ sở hữu công ty đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại
hội đồng cổ đông đối với Công ty cổ phần
Quy định này của pháp luật thể hiện việc tôn trọng của Nhà nước đối
với chủ sở hữu trong việc định đoạt doanh nghiệp của mình, đồng thời cũng là
ví dụ thể hiện rõ quyền của chủ doanh nghiệp trong việc giải thể doanh
nghiệp. Đây là cách làm của nhiều chủ doanh nghiệp khi đứng trước các khó
khăn không thể tháo gỡ về kinh tế, nhân sự, là cách để bảo vệ quyền lợi của
doanh nghiệp cũng như bảo vệ quyền lợi của người lao động trước pháp luật.
Thứ ba, Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy
định của Luật này trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
Một trong những điều kiện cơ bản để thành lập doanh nghiệp chính là
phải có đủ số lượng thành viên tối thiểu. Hiện nay, không có một con số cụ
thể nào về số lượng thành viên tối thiểu đối với tất cả các loại hình doanh
nghiệp. Số lượng thành viên tối thiểu là bao nhiêu thì phải tùy thuộc vào loại
hình doanh nghiệp của công ty đó. Theo Luật Doanh nghiệp 2014, số lượng
thành viên yêu cầu tối thiểu đối với công ty hợp danh là 2 thành viên, con số
này cũng đúng đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên,
36
nhưng Công ty cổ phần thì số lượng cổ đông tối thiểu là 3 (điểm b, Điều 110,
Luật Doanh nghiệp 2014).
Như vậy, khi không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu để tiếp tục
tồn tại, công ty phải kết nạp thêm các thành viên cho đủ số lượng tối thiểu
trong thời hạn 6 tháng. Sau thời hạn trên, công ty không kết nạp thêm thành
viên dẫn đến không đủ điều kiện pháp lý cơ bản nhất cho việc tồn tại, mà
công ty cũng không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp thì công ty
phải giải thể. So với Luật Doanh nghiệp năm 2005 Luật Doanh nghiệp năm
2014 đã bổ sung thêm cụm từ “mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình
doanh nghiệp” vào điểm c khoản 1 Điều 201 quy định về công ty không còn
đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn 06
tháng liên tục. Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi vì số lượng thành viên tối
thiểu cho mỗi loại hình công ty là khác nhau và do pháp luật quy định; đồng
thời quy định này cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp khi chưa muốn giải
thể mà tiếp tục kinh doanh thì có thể làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay việc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền muốn
xác định được tính liên tục trong hoạt động của doanh nghiệp là rất khó khăn
bởi lẽ không có một căn cứ cụ thể nào để xác định được tính liên tục trong
hoạt động của doanh nghiệp hiện nay.
Thứ tư, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Công ty sẽ bị giải thế nếu bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp cũng là một trường hợp của bắt buộc giải thể doanh nghiệp. Trường
hợp thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được quy định tại Điều
211, Luật Doanh nghiệp 2014.
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là căn cứ pháp lý không thể
thiếu cho sự tồn tại và hoạt động của các doanh nghiệp nói chung, công ty nói
riêng. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là một dạng văn bản pháp quy
đảm nhận vai trò “giấy khai sinh” – ghi nhận ngày đăng ký kinh doanh lần
đầu và là căn cứ xác thực năng lực pháp lý cho một doanh nghiệp ngoài ra nó
37
còn là “giấy thông hành” để doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động của
mình và xác lập quan hệ đối với các cơ quan Nhà nước và các chủ thể khác.
Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng có nghĩa là Nhà
nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể của doanh nghiệp. Lúc này doanh
nghiệp không còn được tiến hành các hoạt động kinh doanh, mục đích thành
lập của doanh nghiệp đương nhiên sẽ không có cơ hội để thực hiện nói cách
khác sự tồn tại của doanh nghiệp sẽ không còn ý nghĩa. Vì vậy, pháp luật đã
quy định trong trường hợp này doanh nghiệp phải tiến hành giải thể.
Như vậy, khi doanh nghiệp rơi vào một trong các trường hợp đã nêu thì
có thể tiến hành giải thể doanh nghiệp. Có 02 trường hợp giải thể doanh
nghiệp là giải thể tự nguyện (điểm a, b) và 02 trường hợp là giải thể bắt buộc
theo quy định của pháp luật.
Qua đó thấy được rằng điều luật này đã khái quát một cách khá cụ thể
về các trường hợp và điều kiện để giải thể doanh nghiệp giúp cho doanh
nghiệp có thể chủ động nắm bắt khi nào thì được tiến hành giải thể.
2.1.2.2. Quy định điều kiện về tài chính và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi
giải thể
Tuy nhiên, dù là giải thể tự nguyện hay bắt buộc, theo quy định của
Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp chỉ được giải thể nếu thỏa mãn được
cả các điều kiện giải thể được quy định tại Khoản 2, Điều 201 “doanh nghiệp
chỉ có thể thực hiện thủ tục giải thể nếu tài sản của doanh nghiệp tại thời
điểm giải thể đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác,
đồng thời doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa
án hoặc cơ quan trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy
định tại điểm d khoản 1 Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản
nợ của doanh nghiệp”. Như vậy, vấn đề quan trọng nhất khi doanh nghiệp
muốn giải thể phải trả hết tất cả các khoản nợ, hoàn tất mọi nghĩa vụ tài sản
khác, nếu không đáp ứng được điều kiện đó, không thể tiến hành thủ tục giải
38
thể phải thực hiện một thủ tục pháp lý khác (thủ tục phá sản theo quy định của
Luật Phá sản) để châm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp không đang là nguyên đơn hoặc bị đơn (chủ yếu là bị
đơn) trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc Cơ quan trọng tài.
Việc quy định doanh nghiệp chỉ được giải thể “khi bảo đảm thanh toán hết
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình
giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài” là nhằm đảm bảo tối
đa quyền, lợi ích, của những người có liên quan tới hoạt động giải thể như
người lao động, chủ nợ.
Tuy nhiên, để tạo ra một cơ chế giúp Cơ quan đăng ký kinh doanh xác
định chính xác doanh nghiệp giải thể đã trả hết nợ hay chưa, đang trong quá
trình giải quyết tranh chấp hay không là một việc không hề đơn giản. Hơn
nữa, Luật Doanh nghiệp 2014 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa
hướng dẫn như thế nào được coi là “đảm bảo thanh toán” bởi “bảo đảm
thanh toán hết” và “thanh toán hết” là hai khái niệm với mức độ thực hiện
khác nhau; đồng thời thực tế các trường hợp doanh nghiệp và chủ nợ thỏa
thuận được về việc chuyển giao nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ của doanh
nghiệp thì người nhận chuyển giao nghĩa vụ có nghĩa vụ thanh toán các khoản
nợ của doanh nghiệp khi bị giải thể thì có được coi là đảm bảo thanh toán và đủ
điều kiện giải thể hay không? Hơn nữa tại Khoản 2 Điều 201 của Luật Doanh
nghiệp 2014 chỉ yêu cầu về nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp mà không quan
tâm đến các nghĩa vụ khác được thực hiện như thế nào chẳng hạn như nghĩa vụ
bảo vệ môi trường của những doanh nghiệp đặc thù, doanh nghiệp có các hoạt
động có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường như: doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực y tế, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dầu khí, hay doanh nghiệp
xử lí chất thải, doanh nghiệp kinh doanh hóa chất các loại…
2.1.2.3. Quy định về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp
39
Thứ nhất, trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp đối với các trường
hợp giải thể được quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 201 Luật Doanh
nghiệp 2014
Bước 1: Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp
Trong trường hợp việc giải thể doanh nghiệp được tiến hành theo quyết
định của chủ sở hữu doanh nghiệp, quyết định giải thể doanh nghiệp được
thông qua theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và điều lệ của từng
doanh nghiệp cụ thể. Nếu là doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp quyết
định; đối với công ty hợp danh, quyết định giải thể công ty phải được ít nhất
¾ tổng số thành viên hợp danh chấp thuận, trừ trường hợp Điều lệ công ty có
quy định khác đối với công ty cổ phần, quyết định giải thể công ty phải được
số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ
đông dự họp chấp thuận, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác; đối
với Công ty TNHH hai thành viên trở lên thì phải được số phiếu đại diện ít
nhất 75% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp chấp thuận...
Nội dung của quyết định giải thể doanh nghiệp bao gồm những nội
dung chủ yếu sau đây: Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; Lý do giải
thể; Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của
doanh nghiệp; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt
quá 06 tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể; Phương án xử lý các
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động; Họ, tên, chữ ký của người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông qua quyết định giải
thể, doanh nghiệp gửi thông báo về việc giải thể đến Phòng Đăng ký kinh
doanh, Cơ quan Thuế, người lao động trong doanh nghiệp, đăng quyết định
giải thể trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và phải được
niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh
nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo tình trạng doanh nghiệp
40
đang làm thủ tục giải thể trên Cổng Thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp ngay sau khi nhận được quyết định giải thể của doanh nghiệp. Kèm
theo thông báo phải có quyết định của chủ sở hữu công ty đối với Công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Quyết định và bản sao hợp lệ biên bản
họp của Hội đồng thành viên đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên, của Đại hội đồng cổ đông đối với Công ty cổ phần, của các thành
viên hợp danh đối với công ty hợp danh về việc giải thể doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thanh toán thì
phải gửi kèm theo quyết định giải thể phương án giải quyết nợ đến các chủ
nợ, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan. Thông báo phải có tên, địa
chỉ của chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó;
cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ.
Trên thực tế, khi thực hiện bước đầu tiên này hầu như các doanh nghiệp
giải thể chẳng bao giờ gửi Thông báo, Quyết định và Biên bản họp về việc
giải thể (kèm theo phương án giải quyết nợ nếu có) đến Cơ quan đăng ký kinh
doanh để đăng trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Cũng
không mấy doanh nghiệp thực hiện niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi
nhánh, văn phòng đại diện để cho người lao động, tổ chức, cá nhân có liên
quan biết về tình trạng của doanh nghiệp. Có chăng chỉ là việc liên hệ với cơ
quan Thuế để thực hiện nghĩa vụ thuế sau cùng trước khi giải thể doanh
nghiệp (nếu không có xác nhận hoàn tất nghĩa vụ thuế thì không được giải thể).
Do đó, Cơ quan đăng ký kinh doanh không thể nào kiểm soát được tình hình
thanh toán nợ của doanh nghiệp giải thể với các chủ nợ khác. Khi bản thân
các “chủ nợ” còn khó khăn trong việc nắm bắt tình hình đang làm thủ tục giải
thể của “con nợ” (trừ khi doanh nghiệp giải thể thông báo). Thậm chí, tình
trạng giải thể nếu có được đăng trên Cổng Thông tin quốc gia, các doanh
nghiệp chủ nợ cũng khó mà biết, bởi các họ không theo dõi cập nhật thường
xuyên tình trạng các doanh nghiệp giải thể để xem trong đó có “con nợ” của
41
mình hay không. Do đó, nhiều doanh nghiệp “chủ nợ” khi đi đòi nợ mới vỡ lẽ
“con nợ” đã giải thể từ thuở nào.
Bước 2: Doanh nghiệp giải thể tiến hành thanh lý tài sản và thanh toán
khoản nợ
Chủ doanh nghiệp tư nhân, Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công
ty, Hội đồng quản trị trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp, trừ
trường hợp Điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức thanh lý riêng. Các
khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự sau: (1) Các khoản
nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và
các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp
đồng lao động đã ký kết; (2) Nợ thuế; (3) Các khoản nợ khác. Sau khi đã
thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh nghiệp, phần còn lại
chia cho chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu
công ty theo tỷ lệ sở hữu phần vốn góp, cổ phần. Tuy nhiên, pháp luật không
quy định cụ thể về thứ tự ưu tiên hay không ưu tiên thanh toán đối với các
khoản nợ có bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ có đảm bảo trong
khi Pháp luật phá sản quy định rất rõ điều này.
Bước 3: Gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh
doanh để hoàn tất thủ tục giải thể doanh nghiệp
- Trước khi gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh
doanh thì doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế
theo thủ tục được quy định tại Điều 15 Thông tư 80/202/TT-BTC ngày
22/5/2012 hướng dẫn Luật Quản lý Thuế và Đăng ký Thuế. Đối với doanh
nghiệp sử dụng con dấu do Cơ quan Công an cấp, doanh nghiệp có trách
nhiệm trả con dấu, Giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu con dấu cho Cơ quan
Công an để được cấp Giấy chứng nhận đã thu hồi con dấu theo Thông tư
07/20210/TT-BCA ngày 05/2/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Nghị định số 58/2011/NĐ-CP ngày 24/8/2001 về quản lý và sử dụng con dấu
42
đã được sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 31/2009/NĐ-CP ngày
01/4/2009. Trong trường hợp này, con dấu và Giấy chứng nhận mẫu dấu
trong hồ sơ giải thể doanh nghiệp khi doanh nghiệp không còn đủ thành viên
tối thiểu trong 6 tháng liên tục mà không tiến hành chuyển đổi mô hình doanh
nghiệp thì được thay thế bằng Giấy chứng nhận đã thu hồi con dấu.
- Sau đó, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gửi đề nghị
giải thể (hồ sơ giải thể) cho Cơ quan đăng ký kinh doanh trong 05 ngày làm
việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp. Hồ sơ giải thể
của doanh nghiệp bao gồm: Thông báo về giải thể doanh nghiệp; Báo cáo
thanh lý tài sản doanh nghiệp; danh sách chủ nợ và số nợ đã thanh toán, gồm
cả thanh toán hết các khoản nợ về thuế và nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội,
người lao động sau khi quyết định giải thể doanh nghiệp (nếu có); Con dấu và
Giấy chứng nhận mẫu dấu (nếu có); Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
- Sau khi nhận được hồ sơ giải thể của doanh nghiệp, Phòng Đăng ký
kinh doanh gửi thông tin về việc doanh nghiệp đăng ký giải thể cho cơ quan
Thuế. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông tin của
Phòng Đăng ký kinh doanh, cơ quan Thuế gửi ý kiến về việc giải thể của
doanh nghiệp đến Phòng Đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn 05 ngày làm
việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Phòng Đăng ký kinh doanh chuyển tình
trạng pháp lý của doanh nghiệp trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký
doanh nghiệp sang tình trạng giải thể nếu không nhận được ý kiến từ chối của
cơ quan Thuế, đồng thời ra Thông báo về việc giải thể của doanh nghiệp. Như
vậy, chỉ khi cơ quan Thuế từ chối thì hồ sơ giải thể của doanh nghiệp mới có
thể bị trả lại. Như vậy, cơ chế kiểm soát nghĩa vụ thanh toán nợ của doanh
nghiệp giải thể được pháp luật quy định chỉ là nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
Còn đối với quyền lợi chính đáng của các tổ chức, cá nhân có liên quan Luật
Doanh nghiệp 2014 có quy định về “trách nhiệm cá nhân” đối với thành viên
Hội đồng quản trị Công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên Công ty
43
trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh, người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ
giải thể doanh nghiệp. Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo,
những người nêu trên phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa
thanh toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi của người lao động chưa được giải
quyết và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh
trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến Cơ
quan đăng ký kinh doanh. Điều đó có nghĩa là nếu hồ sơ giải thể có giả mạo,
thiếu trung thực (không liệt kê một số chủ nợ...), pháp luật quy định những
người chủ sở hữu hoặc người quản lý doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm
thanh toán khoản nợ chưa thanh toán đó bằng tài sản riêng của mình. Thời
hạn này như một biện pháp “chế tài”, buộc các chủ nợ cũng phải có ý thức
quan tâm đến đối tác, đến việc thu hồi công nợ của mình để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp đó một cách kịp thời và hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế khi
những người chịu trách nhiệm có hành vi “bỏ trốn” thì việc yêu cầu chịu
trách nhiệm hoặc trách nhiệm liên đới là chuyện không dễ dàng.
Thứ hai, trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp trong trường hợp bị thu
hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc theo quyết định của Tòa án.
Điều 203 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cụ thể về trình tự, thủ tục
giải thể doanh nghiệp trong trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp hoặc theo quyết định của Tòa án, cụ thể:
Bước 1: Cơ quan đăng ký kinh doanh, phải thông báo tình trạng doanh
nghiệp đang làm thủ tục giải thể trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký
doanh nghiệp đồng thời với việc ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp hoặc ngay sau khi nhận được quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực thi hành. Kèm theo thông báo phải đăng tải quyết định thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc quyết định của Tòa án;
44
Bước 2: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thu
hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc quyết định của Tòa án có
hiệu lực, doanh nghiệp phải triệu tập họp để quyết định giải thể. Quyết định
giải thể và bản sao quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực phải được gửi đến Cơ quan đăng ký
kinh doanh, Cơ quan Thuế, người lao động trong doanh nghiệp và phải được
niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi nhánh của doanh nghiệp. Đối với
trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định giải thể doanh
nghiệp phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba
số liên tiếp.
Trường hợp doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thanh toán thì
phải đồng thời gửi kèm theo quyết định giải thể của doanh nghiệp phương án
giải quyết nợ đến các chủ nợ, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan.
Thông báo phải có tên, địa chỉ của chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và
phương thức thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại
của chủ nợ.
Lưu ý: Các khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự
sau: (1) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định
của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao
động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết; (2) Nợ thuế; (3) Các khoản nợ
khác. Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh
nghiệp, phần còn lại chia cho chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ
đông hoặc chủ sở hữu công ty theo tỷ lệ sở hữu phần vốn góp, cổ phần.
Bước 3: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gửi đề nghị
giải thể cho Cơ quan đăng ký kinh doanh trong 05 ngày làm việc, kể từ ngày
thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp.
Bước 4: Sau thời hạn 180 ngày, kể từ ngày thông báo tình trạng giải
thể doanh nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều này mà không nhận phản đối
45
của bên có liên quan bằng văn bản hoặc trong 05 ngày làm việc kể từ ngày
nhận hồ sơ giải thể, Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý
của doanh nghiệp trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
2.1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi doanh nghiệp thực hiện thủ
tục giải thể doanh nghiệp
Hiện nay, pháp luật quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp.
Thứ nhất, các hoạt động bị cấm kể từ khi có quyết định giải thể
doanh nghiệp.
Quy định này được quy định tại Điều 204 Luật Doanh nghiệp 2014,
theo đó: kể từ khi có quyết định giải thể doanh nghiệp, nghiêm cấm doanh
nghiệp, người quản lý doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sau đây: Cất
giấu, tẩu tán tài sản; Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; Chuyển các khoản nợ
không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh
nghiệp; Ký kết hợp đồng mới trừ trường hợp để thực hiện giải thể doanh
nghiệp; Cầm cố, thế chấp, tặng cho, cho thuê tài sản; Chấm dứt thực hiện hợp
đồng đã có hiệu lực; Huy động vốn dưới mọi hình thức. Quy định này nhằm
mục đích bảo toàn tài sản của doanh nghiệp khi tiến hành giải thể doanh
nghiệp, tăng khả năng trả nợ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể có liên quan và qua đó xác định được điều kiện chấp thuận cho doanh nghiệp
giải thể.
Thứ hai, quy định trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp bị giải thể.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 204 Luật Doanh nghiệp, thành viên
Hội đồng quản trị Công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên Công ty
trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh, người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ
giải thể doanh nghiệp. Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo,
46
những người này phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa thanh
toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi của người lao động chưa được giải quyết
và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh trong
thời hạn 05 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến Cơ quan
đăng ký kinh doanh. Quy định này nhằm ràng buộc trách nhiệm nếu như có
sai sót và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể có liên quan.
Tuy nhiên, lại chưa có quy định về chế tài áp dụng với doanh nghiệp,
người quản lý doanh nghiệp nếu thực hiện các hoạt động bị cấm kể từ khi có
quyết định giải thể. Nghị định 155/2013/ND-CP ngày 11/11/2013 quy định xử
phạt hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư mới chỉ dừng lại quy định
xử phạt đối với hành vi không tiến hành thủ tục giải thể đối với doanh nghiệp
thuộc các trường hợp bị giải thể theo quy định của pháp luật (Điều 34), kinh
doanh dưới danh nghĩa doanh nghiệp khi đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp hoặc đã giải thể (điểm b, khoản 2, Điều 23),… Dẫn tới thực
tế, một số chủ doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở này và thực hiện các hoạt động bị
cấm. Hơn nữa, chế tài xử phạt còn chưa đủ răn đe, nhiều doanh nghiệp không
quan tâm đến nghĩa vụ giải thể doanh nghiệp.
* Lưu ý: Trước khi thực hiện thủ tục đăng ký giải thể doanh nghiệp,
doanh nghiệp phải làm thủ tục chấm dứt hoạt động các chi nhánh, văn phòng
đại diện, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp tại Phòng Đăng ký kinh
doanh nơi đặt chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh.
2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về điều kiện giải thể doanh
nghiệp ở Viện Nam
2.2.1. Những kết quả đạt được
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới, số lượng doanh nghiệp
giải thể trên tăng qua các năm là kết quả tất yếu của quy luật cạnh tranh, thanh
lọc, đào thải của thị trường; Nhiều doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận các nguồn lực như tín dụng, đất đai; hiện tượng nhũng
47
nhiễu, gây khó dễ cho doanh nghiệp vẫn còn xảy ra. Từ đó, những doanh
nghiệp yếu kém, năng lực quản trị kém, thiếu tư duy về thị trường; trình độ
ứng dụng khoa học công nghệ thấp; thiếu tính đổi mới sáng tạo trong sản
phẩm; chất lượng hàng hóa, quy mô sản xuất và năng suất lao động còn thấp
không đủ sức cạnh tranh sẽ bị loại bỏ để thay vào đó là những doanh nghiệp
mới với những ý tưởng kinh doanh mới có chất lượng hơn. Đặc biệt, trong bối
cảnh hội nhập, nền kinh tế Việt Nam lại là một nền kinh tế năng động, đang
có nhiều triển vọng, khoa học công nghệ không ngừng phát triển như hiện nay
thì sức ép đối với doanh nghiệp càng lớn, tính cạnh tranh, thanh lọc càng thể
hiện rõ rệt. Theo thống kê cho thấy từ năm 2014 đến nay số doanh nghiệp
giải thể, ngừng hoạt động tăng cao, cụ thể:
- Năm 2014: cả nước có 67.823 doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải
giải thể và 58.322 doanh nghiệp khó khăn phải ngừng hoạt động, tăng 14,5%
so với năm trước.
- Năm 2015: cả nước có hơn 9.400 doanh nghiệp giải thể và 71.391 doanh
nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước [18].
- Năm 2016: cả nước có số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là
12.478 doanh nghiệp, tăng 3.011 doanh nghiệp so với năm 2015 (tăng
31,8%). Số lượng doanh nghiệp giải thể phần lớn là những doanh nghiệp có
quy mô vốn đăng ký nhỏ dưới 10 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 93,1% trên tổng số đơn
vị kinh doanh bị giải thể của cả nước. Cũng theo Cục Quản lý Đăng ký kinh
doanh, Bộ KH&ĐT, tình hình doanh nghiệp giải thể trong năm 2016 tăng tại
một số vùng trong cả nước so với cùng kỳ năm 2015, cụ thể: vùng Tây
Nguyên có 1.186 doanh nghiệp, tăng 273%; vùng Đông Nam Bộ có 4.849
doanh nghiệp, tăng 41,9%; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có
1.898 doanh nghiệp, tăng 28,1%; vùng Đồng bằng Sông Hồng có 2.274 doanh
nghiệp, tăng 24,4%. Ở chiều ngược lại, Trung du và miền núi phía Bắc có 567
doanh nghiệp, giảm 6,3%; vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có 1.704 doanh
48
nghiệp, giảm 6,2%. Về cơ cấu các ngành, số DN trong ngành nông, lâm thủy
sản có số lượng DN giải thể nhiều nhất với khoảng trên 500 DN, tăng 107%
so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực có số DN giải thể nhiều thứ 2 là Y tế và
hoạt động trợ giúp xã hội có số DN giải thể tăng 90,9%; Kinh doanh bất động
sản tăng 69,6%; Khai khoáng tăng 61,5%... và cuối cùng ngành Thông tin và
truyền thông có 394 doanh [23].
- Năm 2017, cả nước có 126.859 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới
với tổng vốn đăng ký là 1.295,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% về số doanh
nghiệp. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong năm 2017 là 12.113
doanh nghiệp, giảm 2,9% so với năm trước, trong đó 11.087 doanh nghiệp có
quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 91,5%. Nếu phân theo loại hình doanh
nghiệp, trong tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, có 5.242 Công ty
trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 43,3%); 3.459 Công ty trách nhiệm
hữu hạn 2 thành viên (chiếm 28,6%); 1.806 doanh nghiệp tư nhân (chiếm
14,9%); 1.603 Công ty cổ phần (chiếm 13,2%) và 3 Công ty hợp danh [21].
- Năm 2018, cả nước có 131.275 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới.
Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp giải thể trong năm 2018 cũng lên 16.314
doanh nghiệp [12].
- Năm 2019 tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường
trong là 177.560 doanh nghiệp (tăng 7,4% so với năm 2018), bao gồm:
138.139 doanh nghiệp thành lập mới (tăng 5,2%) và 39.421 doanh nghiệp
quay trở lại hoạt động (tăng 15,9%). Tuy nhiên, trong năm 2019 cũng có đến
16.840 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể (tăng 3,2%). Trung bình mỗi
tháng có 7.440 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Và trong số 16.840 doanh
nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể thì doanh nghiệp hoạt động trong ngành kinh
doanh bất động sản cũng có tỷ lệ giải thể nhiều nhất (686 doanh nghiệp, tăng
39,4%); y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có 103 doanh nghiệp, tăng 47,1%;
và tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có 208 doanh nghiệp, tăng 30,8% [11]
49
Trong quá tình thực hiện các thủ tục hành chính để tiến hành giải thể
doanh nghiệp, về cơ bản các doanh nghiệp đã tuân theo các quy định của pháp
luật. Điều đó dẫn đến số lượng các doanh nghiệp hoàn tất các thủ tục giải thể
tăng qua các năm. Điều này xuất phát từ khung khổ pháp lý hiện hành về giải
thể doanh nghiệp khá rõ ràng, minh bạch để doanh nghiệp thực hiện; quy định
rõ số lượng bộ hồ sơ giải thể “01 bộ” và việc đăng báo quyết định giải thể của
doanh nghiệp cần sửa đổi theo hướng “đăng tập trung tại một hoặc một số tờ
báo nhất định, kể cả báo điện tử và cổng thông tin doanh nghiệp của Cơ quan
Quản lý Nhà nước về Kế hoạch và Đầu tư”.
2.2.2. Những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện pháp luật về
giải thể doanh nghiệp
- Thứ nhất, trong những năm gần đây số lượng doanh nghiệp tạm
ngừng kinh doanh hoặc chờ giải thể vẫn còn nhiều, cụ thể:
+ Năm 2016: cả nước có số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh
doanh có thời hạn là 19.917 doanh nghiệp, tăng 4.268 doanh nghiệp so với
cùng kỳ năm trước (27,3%). Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không
thời hạn hoặc chờ giải thể của cả nước là 40.750 doanh nghiệp, giảm gần
15.000 doanh nghiệp so với cùng kỳ (giảm 26,9%).
+ Năm 2017, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong năm 2017 là
60.553 doanh nghiệp, giảm 0,2% so với năm trước, bao gồm 21.684 doanh
nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 8,9% và 38.869 doanh
nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, giảm 4,6%.
+ Năm 2018, số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động tăng, trong đó:
27.126 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn; 63.525
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; trong số
63.525 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể,
có 44.730 doanh nghiệp ngừng hoạt động không đăng ký và 18.795 doanh
nghiệp chờ giải thể.
50
+ Năm 2019, có đến 28.731 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh
doanh có thời hạn (tăng 5,9%), 43.711 doanh nghiệp chờ giải thể (tăng
41,7%). Trong số 43.711 doanh nghiệp chờ giải thể có đến hơn 17.700 doanh
nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; gần 14.500 doanh
nghiệp đăng thông báo giải thể và hơn 11.500 doanh nghiệp chờ làm thủ tục
giải thể với cơ quan Thuế. Các doanh nghiệp chờ giải thể lớn nhất thuộc
ngành bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy với 15.996 doanh nghiệp,
chiếm 36,6%; xây dựng có 6.058 doanh nghiệp, chiếm 13,9%; công nghiệp
chế biến, chế tạo có 5.376 doanh nghiệp, chiếm 12,3% [11].
Như vậy, số liệu trên cho thấy giải thể doanh nghiệp đang nổi lên vấn
đề “tồn kho” một lượng rất lớn doanh nghiệp đã không còn hoạt động sản
xuất kinh doanh nhưng không nộp đơn giải thể, tạm ngừng kinh doanh không
đăng ký và đang chờ thực hiện thủ tục giải thể. Trong đó, có một lượng lớn
doanh nghiệp không còn hoạt động nhưng không thực hiện quy trình giải thể.
Đây phần nào phản ánh tính khả thi trong quy định của pháp luật về giải thể
doanh nghiệp. Thực trạng đó, khiến Nhà nước thất thu, người lao động bị xâm
hại quyền lợi và làm sai lệch các thông tin thống kê về doanh nghiệp, ảnh
hưởng tới sự minh bạch môi trường kinh doanh. Đặc biệt, việc doanh nghiệp
đã ngừng hoạt động nhưng vẫn gây hậu quả kéo dài đang thể hiện rõ với
những trường hợp chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, có thuê đất nhà
nước, còn nợ thuế, nợ khách hàng, nợ lương người lao động… nhưng chủ
doanh nghiệp đã bỏ trốn về nước nên không có người chịu trách nhiệm để
thực hiện các thủ tục giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật. Ngoài ra,
nguyên nhân khiến chủ doanh nghiệp tránh giải thể còn là vấn đề phức tạp
liên quan đến thủ tục giải thể tại cơ quan Thuế. Với mọi loại hình doanh
nghiệp, không kể thời gian thành lập được bao lâu, các thủ tục cơ bản khi xử
lý bên thuế, bao gồm: Nộp tờ khai thuế các quý; Quyết toán thuế thu nhập cá
nhân; Quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp; Báo cáo tài chính.
51
+ Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp chờ giải thể gia tăng là do việc
triển khai công tác rà soát đối với các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động tại
trụ sở từ lâu nhưng không đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh của các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, tình trạng doanh nghiệp bỏ trốn, “mất tích” trong nền kinh tế
vẫn còn diễn ra nhiều do Luật Doanh nghiệp năm 2014 chưa có quy định
kiểm soát.
Tại thời điểm tháng 04/2018, cả nước có khoảng 8.000 doanh nghiệp
"mất tích", với nợ bảo hiểm xã hội khoảng 2.000 tỷ đồng [16]. Điển hình là
vụ biến mất của Công ty TNHH Nam Phương (100% vốn Hàn Quốc tại khu
công nghiệp Tây Bắc Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh) vào thời điểm tháng 01/2018
đã gây ảnh hưởng đến quyền lợi của gần 600 công nhân. Hoặc trường hợp
Công ty TNHH BumJin Vina tại Khu công nghiệp Vĩnh Lộc, quận Bình Tân,
TP. Hồ Chí Minh mà Ông Park Kye Ho - Giám đốc, đại diện pháp luật của
công ty đã bỏ trốn vào ngày 10/02/2018 để lại khoản nợ bảo hiểm xã hội hơn
2,9 tỷ đồng chưa thanh toán hoặc Công ty KL Texwell Vina có trụ sở chính
tại tỉnh Đồng Nai cũng biến mất vào thời điểm tháng 02/2018 để lại khoản nợ
lương người lao động tháng 01/2018 gần 13,7 tỉ đồng và khoản nợ bảo hiểm
xã hội 17,5 tỉ đồng [8].
Tìm hiểu được biết, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc chủ doanh
nghiệp bỏ trốn. Trong đó chủ yếu là do các doanh nghiệp gặp khó khăn về
kinh tế dẫn đến trốn tránh nghĩa vụ về thuế. Thậm chí, có không ít doanh
nghiệp FDI kinh doanh không lành mạnh, lợi dụng kẽ hở của pháp luật Việt
Nam cũng như chính sách "trải thảm đỏ" trong thu hút đầu tư của nhà nước để
tận dụng ưu đãi, chiếm đoạt tiền lương, các khoản trợ cấp của người lao động
rồi bỏ trốn. Ngoài ra, việc các doanh nghiệp bỏ trốn sau một thời gian hoạt
động cũng có nguyên nhân từ việc quy định thành lập doanh nghiệp quá dễ
dàng như không cần vốn pháp định, vốn điều lệ chỉ cam kết đóng và không có
52
các quy định cũng như chế tài hậu kiểm tra việc góp vốn này. Bên cạnh đó
các quy định khi phá sản doanh nghiệp phức tạp cũng là một trong những lý
do khiến các doanh nghiệp không mặn mà với việc thực hiện các quy định
này. Trên thực tế cả nước hàng năm may ra chỉ có một vài vụ Tòa án thụ lý
việc phá sản doanh nghiệp. Để xảy ra tình trạng nói trên cũng phải kể đến một
phần trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước khi chưa phát hiện chưa kịp
thời vụ việc, đặc biệt là sự phối hợp giữa cơ quan thuế và BHXH; những hạn
chế trong đề ra các giải pháp phòng ngừa và thực hiện các chế tài xử phạt nợ
lương, BHXH… Tình hình này không chỉ gây lúng túng cho cơ quan quản lý
nhà nước về lao động mà còn khiến người lao động thiệt thòi cho quyền lợi.
Việc nhiều doanh nghiệp biến mất, bỏ trốn trong nền kinh tế Việt Nam
không còn là hiện tượng cá biệt nhưng các quy định về “doanh nghiệp bỏ trốn”
trong pháp luật hiện hành nói nói chung và Luật doanh nghiệp nói riêng gần như
đang bị “bỏ ngỏ”; chưa có các chế định cụ thể đối với hiện tượng này.
Thứ ba, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chưa quy định về thủ tục giải thể
doanh nghiệp bằng phương thức trực tuyến (online).
Trong thời đại công nghệ 4.0 như hiện nay thì việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào trong mọi hoạt động của đời sống xã hội đều được đẩy mạnh
đặc biệt là trong hoạt động quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, tiết giảm chi phí tài chính, thời gian,
công sức cho doanh nghiệp. Chúng ta đã ứng dụng công nghệ thông tin vào
việc thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp thông qua các quy định tại Nghị
định 78/2015/NĐ-CP và Nghị định 108/2018/NĐ-CP mang lại hiệu quả cao
và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính. Tuy nhiên, đối với thủ tục
giải thể doanh nghiệp, việc ứng dụng công nghệ thông tin vẫn là một bước lùi
so với thủ tục đăng ký doanh nghiệp so với bước phát triển của công nghệ
thời kỳ 4.0, cụ thể là Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn
chưa có hướng dẫn ứng dụng quy trình online để thực quy trình, thủ tục giải
thể doanh nghiệp. Cho đến thời điểm hiện nay, doanh nghiệp vẫn phải trực
53
tiếp nộp hồ sơ giải thể tại Cơ quan đăng ký kinh doanh. Thực trạng này dẫn
đến tình trạng sách nhiễu, quan liêu của cán bộ thực hiện khi thực hiện thủ
tục, từ đó đã phát sinh chi phí tài chính, thời gian, công sức cho nhà đầu tư
một cách không đáng có, đi ngược lại với xu thế chung của thế giới.
Thứ tư, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chưa có quy định về việc gửi
quyết định giải thể doanh nghiệp cho cơ quan Bảo hiểm xã hội để đảm bảo
nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động trước khi doanh nghiệp
chấm dứt hoạt động.
Tại Khoản 3 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định trong
thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể và biên
bản họp phải được gửi đến Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan Thuế, người
lao động trong doanh nghiệp, đăng quyết định giải thể trên Cổng thông tin
quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi
nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp. Trong khi đó, theo quy định của
Khoản 5 Điều 202 và Khoản 1 Điều 204 Luật Doanh nghiệp năm 2014, thứ tự
thanh lý tài sản của doanh nghiệp khi giải thể và trong hồ sơ giải thể doanh
nghiệp gửi về cho Cơ quan đăng ký kinh doanh luôn đề cập đến việc thanh
toán nợ bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vây, khi doanh nghiệp
giải thể luôn luôn phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động về việc đóng
đầy đủ bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2014 không quy định
quyết định giải thể được gửi đến cho cơ quan Bảo hiểm xã hội là không phù
hợp. Việc bỏ sót chủ thể được thông báo/gửi quyết định giải thể là cơ quan
Bảo hiểm xã hội như trên vô hình trung gây khó khăn không ít cho doanh
nghiệp trong quá trình giải thể, vì nếu cơ quan Bảo hiểm xã hội không nắm
được thông tin doanh nghiệp giải thể ngay từ đầu thì khó cho cơ quan này xác
nhận cho doanh nghiệp giải thể việc hoàn thành nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã
hội cho người lao động, do đó dễ dẫn đến việc ách tắc trong tiến trình giải thể
doanh nghiệp trên thực tế, quyền lợi củ người lao động bị ảnh hưởng. Điển
54
hình là trường hợp một số doanh nghiệp tại tỉnh Khánh Hoà như Công ty
TNHH Phong Đạt, Công ty TNHH Xây dựng Sao Sáng, Công ty TNHH Tư
vấn doanh nghiệp Thuận Nguyễn, …... Đây là những đơn vị, doanh nghiệp
nhiều tháng không đóng Bảo hiểm xã hội cho người lao động, với tổng số tiền
nợ gần 2 tỷ đồng.Tuy nhiên, các doanh nghiệp này đều đã được giải thể. Sau
khi giải thể, người lao động khởi kiện đến Toà án yêu cầu công ty đóng bảo
hiểm xã hội. Tình trạng này gây khó khăn trong quá trình đảm bảo quyền lợi
cho người lao động. Sau khi vụ việc này xảy ra, Toà án đã chuyển hồ sơ sang
phòng PC03 - Công an tỉnh vì những doanh nghiệp cố tình chây ì, có dấu hiệu
vi phạm Điều 216 Bộ luật Hình sự năm 2015 về “tội trốn đóng Bảo hiểm xã
hôi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động”. [28]
2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập hạn chế trong quá trình áp dụng
pháp luật về giải thể doanh nghiệp
Những khó khăn, vướng mắc trong vấn đề giải thể doanh nghiệp xuất
phát từ nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, nhận thức pháp luật nói chung của nhiều doanh nghiệp (cụ
thể là chủ doanh nghiệp, đại diện pháp luật của doanh nghiệp) còn thấp, ý
thức chấp hành các quy định về giải thể doanh nghiệp chưa cao.
Thứ hai, chế tài xử lý đối với các chủ doanh nghiệp, người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp khi họ không chấp hành các quy định chưa
đủ răn đe, dẫn tới nhiều chủ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật
không quan tâm tới nghĩa vụ giải thể. Giữa việc thực hiện quy định của pháp
luật (trình tự, thủ tục giải thể khá mất thời gian, công sức) và việc không thực
hiện quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp mà vẫn không phát sinh
trách nhiệm pháp lý gì cụ thể thì tất yếu họ chọn im lặng (không hành động và
biến mất không dấu vết).
Thứ ba, trong nhiều trường hợp, việc hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện
để doanh nghiệp hoàn thành nhanh chóng các thủ tục hành chính liên quan
theo quy trình giải thể tại một số cơ quan quản lý Nhà nước địa phương chưa
55
được tốt; Đặc biệt, thủ tục hoàn tất nghĩa vụ thuế còn gặp nhiều khó khăn,
thời gian kéo dài, tạo tâm lý mệt mỏi cho doanh nghiệp.
Thứ tư, cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và người lao
động trong trường hợp giải thể doanh nghiệp vẫn chưa được đặt ra một cách
thỏa đáng. Môi trường kinh doanh thông thoáng, thủ tục hành chính đơn giản
là mục tiêu mà cải cách hành chính hướng tới, tuy nhiên cần tăng cường công
tác “hậu kiểm” để tránh trường hợp nhiều doanh nghiệp ra đời chỉ để chờ
“giải thể hoặc phá sản” khi nợ nần đã chồng chất.
Thứ năm, một số quy định của pháp luật còn có sự mâu thuẫn, bất cập
(đã phân tích tại mục 2.2 Chương 2 Luận văn) dẫn đến quá trình giải thể
doanh nghiệp còn nhiều khó khăn.
56
Tiểu kết Chương 2
Như vậy, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định tương đối
hoàn chỉnh về các điều kiện giải thể doanh nghiệp để đảm bảo lợi ích của các
chủ thể có liên quan giúp doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường một cách văn
minh, trật tự và đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về doanh nghiệp. Tuy
nhiên, những quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về điều kiện giải thể
doanh nghiệp vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập; điều đó gây khó khăn,
cản trở cho doanh nghiệp tiến hành giải thể doanh nghiệp. Những hạn chế đó
thường do nhận thức pháp luật nói chung của nhiều doanh nghiệp còn thấp, ý
thức chấp hành các quy định về giải thể doanh nghiệp chưa cao; chế tài xử lý
đối với các doanh nghiệp khi họ không chấp hành các quy định chưa đủ răn
đe; cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và người lao động
trong trường hợp giải thể doanh nghiệp vẫn chưa được đặt ra một cách thỏa
đáng, một số quy định của pháp luật còn có sự mâu thuẫn, bất cập… Do đó,
cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như
hoàn thiện công tác thực thi pháp luật về giải thể doanh nghiệp.
57
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp
Nhìn chung, các quy định về giải thể doanh nghiệp được ghi nhận trong
Luật Doanh nghiệp năm 2014 và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành
đến nay đã khá hoàn thiện và đầy đủ, song pháp luật về doanh nghiệp nói
chung và pháp luật về giải thể doanh nghiệp nói riêng không phải không còn
những vấn đề bất cập cần nghiên cứu, bổ sung phù hợp, thống nhất, rõ ràng và
để thực hiện tốt thông điệp “Doanh nhân Việt Nam – Động lực phát triển đất
nước” việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp cũng như
các chính sách cho phát triển doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết. Trong
bối cảnh đó, pháp luật về giải thể doanh nghiệp cần được hoàn thiện tập trung
vào những định hướng cơ bản như sau:
Thứ nhất, cần quán triệt những quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng về vai trò của doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp; xác định “Doanh
nghiệp Việt Nam là động lực phát triển kinh tế của đất nước”.
Hoàn thiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp phải phù hợp với thực
tiễn nền kinh tế thị trường Việt Nam, hướng tới thị trường công khai, minh
bạch; bảo đảm chặt chẽ nhưng cũng đảm bảo linh hoạt mềm dẻo dễ thích ứng
với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, phát huy tối đa lợi ích, ý nghĩa,
vai trò của giải thể doanh nghiệp; hạn chế các biểu hiện tiêu cực, lợi dụng giải
thể doanh nghiệp gây ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
của tổ chức cá nhân. Các quy định của pháp luật phải tạo hành lang pháp lý
mà mọi doanh nghiệp đều muốn đồng hành cùng Nhà nước chứ không phải
muốn lảng tránh.
58
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp phải
đặt trong tổng thể hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về hoạt động của
doanh nghiệp.
Thứ ba, cần đặc biệt quan tâm đến nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
làm xây dựng luật cũng như cán bộ làm công tác đăng ký, quản lý doanh
nghiệp. Phát huy vai trò, sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, của các
chuyên gia tham gia xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật về doanh nghiệp;
cung cấp các thông tin về doanh nghiệp cho Nhà nước, tổ chức và ngược lại
Nhà nước cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân.
Thứ tư, cần chú trọng đến việc rà soát, xây dựng và hoàn thiện các quy
định pháp luật về doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp với mục tiêu của
nhiệm vụ này là hướng đến khuôn khổ pháp lý với nhiều đổi mới phù hợp,
nhằm xây dựng và vận hành hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh
bạch, khả thi, để tiếp cận việc hoàn thiện pháp luật về giải giải thể doanh
nghiệp không thể chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện các quy định trong Luật
Doanh nghiệp năm 2014 phải đồng bộ, thống nhất trong hệ thống văn bản
hướng dẫn thi hành cũng như các luật có liên quan như Luật Đầu tư năm
2014, Bộ luật Hình sự năm 2015…
Cần chú trọng đến việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật
về giải thể doanh nghiệp của các địa phương trong cả nước, lắng nghe doanh
nghiệp; thực tiễn phong phú, đa dạng của thị trường là chất liệu quan trọng
cho việc đề xuất các giải pháp phù hợp, khả thi.
Hoàn thiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp theo hướng công khai,
minh bạch, tin học và đơn giản hóa thủ tục. Cần sớm triển khai đồng bộ trong
cả nước thủ tục giải thể doanh nghiệp qua mạng Internet theo hướng đơn giản
hóa; một cổng kết nối, đặc biệt là những thủ tục hành chính mà doanh nghiệp
phải thực hiện tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm tạo điều kiện cho
doanh nghiệp rút khỏi thị trường một cách nhanh chóng và thuận tiện đúng
quy định, đảm bảo lợi ích của các bên liên quan.
59
Như vậy, mới tạo thuận lợi cho việc áp dụng các quy định về giải thể
doanh nghiệp được thực hiện một cách thống nhất; phục vụ đắc lực cho sự
phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế sâu rộng.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện giải thể doanh nghiệp
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện giải thể
doanh nghiệp
Thứ nhất, về các trường hợp giải thể của doanh nghiệp
- Nên bổ sung quy định về thời hạn hoạt động là một trong những nội
dung bắt buộc của Điều lệ công ty khi tiến hành đăng ký kinh doanh nhằm
đảm bảo tính khả thi của điểm a khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2014.
Vì trong thực tế, nhiều Điều lệ công ty không phải ghi thời gian hoạt động bởi
không phải nội dung bắt buộc trong điều lệ, nên sẽ không xuất hiện trường
hợp giải thể khi kết thúc thời hạn được ghi trong Điều lệ công ty.
- Bổ sung quy định điểm a khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2014
theo hướng ghi nhận các trường hợp hết thời hạn hoạt động trong Giấy chứng
nhận đầu tư của Luật Đầu tư 2014; Riêng dự án đầu tư có vốn nước ngoài mà
thành lập tổ chức kinh tế (doanh nghiệp) sẽ có thời hạn hoạt động và thời hạn
này được ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, chứ không phải ghi
trong Điều lệ công ty để bao quát tất cả các trường hợp giải thể của doanh
nghiệp có thời hạn hoạt động. Qua đó, bảo đảm tính thống nhất giữa Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
- Quy định rõ ràng các trường hợp Tòa án có quyền tuyên bố giải thể
doanh nghiệp; đồng thời hướng dẫn rõ thẩm quyền của Tòa án thống nhất với
thẩm quyền của Tòa án theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, theo hướng:
Khi Tòa án tuyên bố hủy toàn bộ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng
ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư thì doanh nghiệp phải thực hiện thủ
tục giải thể vì Tòa án chỉ có thẩm quyền tuyên bố hủy toàn bộ giấy chứng
60
nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đầu tư mà
không có thẩm quyền quyết định tuyên bố giải thể doanh nghiệp, chấm dứt
hoạt động của dự án đầu tư do vi phạm pháp luật. Sau khi Tòa án quyết định
đình chỉ hoạt động của doanh nghiệp thì phải chuyển quyết định cho Cơ quan
đăng ký kinh doanh để thực hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp. Bởi theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án không có thẩm quyền quyết
định tuyên bố giải thể doanh nghiệp hay chấp dứt hoạt động đầu tư.
Thứ hai, về điều kiện giải thể doanh nghiệp
- Hướng dẫn cụ thể việc như thế nào được coi là “đảm bảo thanh toán”;
đồng thời hướng dẫn cụ thể trường hợp doanh nghiệp và chủ nợ thỏa thuận
được về việc chuyển giao nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp
thì người nhận chuyển giao nghĩa vụ có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ của
doanh nghiệp khi bị giải thể. Qua đó góp phần thúc đẩy nhanh thủ tục giải thể
doanh nghiệp đồng thời, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sớm rút lui khỏi thị
trường khi mà sự tồn tại của doanh nghiệp không còn cần thiết đảm bảo ít chi
phí nhất và an toàn nhất cho chính doanh nghiệp và các chủ thể có quyền, lợi
ích hợp pháp liên quan.
Thứ ba, sửa đổi bổ sung trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp
- Hoàn thiện thủ tục giải thể doanh nghiệp theo hướng cho phép doanh
nghiệp giải thể qua mạng: bổ sung quy định thời hạn cơ quan Thuế xác nhận
quyết toán thuế cho doanh nghiệp. Xây dựng quy trình liên thông trong giải
quyết thủ tục giải thể doanh nghiệp trong đó xác định cơ quan đầu mối tiếp
nhận và trả kết quả là Cơ quan đăng ký doanh nghiệp.
- Cần đơn giản hóa những thủ tục hành chính của doanh nghiệp tại các
cơ quan Quản lý Nhà nước trước khi doanh nghiệp thực hiện nộp bộ hồ sơ
giải thể tại Cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong đó, tập trung đơn giản hóa
quy trình về kê khai và quyết toán thuế cho doanh nghiệp sau khi doanh
nghiệp quyết định giải thể. Tuy nhiên, cần thiết phải có một cơ chế pháp lý
61
đơn giản mà hiệu quả để tăng cường kiểm soát nghĩa vụ tài chính của doanh
nghiệp giải thể với các chủ nợ khác và người lao động.
- Bổ sung quy định về thủ tục thanh toán các khoản nợ có bảo đảm
nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ có đảm bảo theo hướng: Ưu tiên thanh
toán có bảo đảm bằng chính tài sản bảo đảm, nếu giá trị tài sản bảo đảm không
đủ thanh toán các khoản nợ sau khi thanh toán các khoản nợ lương, trợ cấp thôi
việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác của người lao động, nợ thuế; nếu giá
trị của tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được thu nhập vào giá
trị tài sản còn lại của doanh nghiệp nhằm tăng cường minh bạch các giao dịch,
góp phần giúp Nhà nước kiểm soát được các giao dịch trên thị trường.
- Cần có cơ chế và quy định trách nhiệm của Cơ quan đăng ký kinh
doanh kiểm tra tính chính xác đối với những nội dung được kê khai trong hồ
sơ giải thể của doanh nghiệp: Công khai toàn bộ thông tin khai báo của doanh
nghiệp ngay từ khi mới nhận hồ sơ trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký
doanh nghiệp; đài truyền hình tỉnh, thành phố nơi thực hiện giao dịch gần
nhất trong hồ sơ khai báo tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân có thể tiếp
cận thông tin về tình trạng pháp lý của doanh nghiệp qua đó phát huy vai trò
giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp.
- Pháp luật cần quy định rõ tiêu chí xác định chủ doanh nghiệp bỏ trốn
để làm cơ sở giải quyết cho giải thể các doanh nghiệp “mất tích” trong nền
kinh tế và bổ sung một số trường hợp giải thể doanh nghiệp vào Luật Doanh
nghiệp năm 2014 cho phù hợp với diễn biến thực tế của doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với tiêu chí xác định một doanh nghiệp mất tích/chủ doanh nghiệp bỏ trốn,
Luật Doanh nghiệp cần quy định trong vòng bao nhiêu ngày người đại diện
của doanh nghiệp vắng mặt mà không có thông báo cho chính quyền sở tại và
không có ủy quyền hợp pháp cho người khác hoặc các cơ quan chức năng đã
có thông báo công khai mà chủ doanh nghiệp không có phản hồi thì được xem
là "chủ doanh nghiệp bỏ trốn". Khi đó, cơ quan chức năng được quyền thanh
62
lý tài sản của doanh nghiệp theo luật định để trả lương, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế cho người lao động. Đồng thời, qua đó làm cơ sở cho người lao
động hoặc tổ chức Công đoàn khởi kiện, yêu cầu phá sản doanh nghiệp để
đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
- Sửa đổi Khoản 3 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014 theo hướng
bổ sung quy định yêu cầu doanh nghiệp giải thể phải gửi quyết định giải thể
doanh nghiệp đến cơ quan Bảo hiểm xã hội bên cạnh các cơ quan hữu quan
khác. Theo đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết
định giải thể và Biên bản họp phải được gửi đến Cơ quan đăng ký kinh doanh,
cơ quan Thuế, cơ quan Bảo hiểm xã hội và người lao động trong doanh
nghiệp. Việc bổ sung chủ thể cơ quan Bảo hiểm xã hội được gửi/thông báo
quyết định giải thể nêu trên sẽ khắc phục các rào cản trong thủ tục giải thể
doanh nghiệp, đồng thời góp phần bảo vệ quyền lợi người lao động.
Thứ tư, sửa đổi quy định đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể có
liên quan trong quá trình giải thể doanh nghiệp
- Pháp luật cần quy định chế tài xử lý hành chính áp dụng đối với
doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp nếu thực hiện các hoạt động bị
cấm kể từ khi có quyết định giải thể doanh nghiệp được quy định tại Điều 205
Luật Doanh nghiệp 2014 bảo đảm đủ sức răn đe đối với người quản lý
doanh nghiệp.
- Khi ý thức pháp luật của doanh nghiệp chưa cao thì chế tài là một
trong những biện pháp hữu hiệu để đưa các doanh nghiệp vào khuôn khổ
pháp lý cần thiết. Do đó, cần tăng chế tài xử lý với các trường hợp không thực
hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp khi doanh nghiệp đã ngưng hoạt động đối
với những doanh nghiệp, cá nhân liên quan (người đại diện theo pháp luật,
các thành viên của công ty). Cụ thể cần thiết lập và quy định rõ các biện pháp
chế tài đối với chủ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp trong trường hợp không tuân thủ quy định về giải thể doanh nghiệp
63
khi doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng khó khăn, phải tạm dừng hoạt động.
Có thể tham khảo một số biện pháp chế tài như: Cấm thành lập công ty mới,
cấm đảm nhận chức vụ người đại diện theo pháp luật trong một thời gian nhất
định, cấm góp vốn cho các công ty khác…
- Thứ năm, do hậu quả của giải thể doanh nghiệp dẫn đếm chấm dứt sự
tồn tại của doanh nghiệp; điều này ảnh hưởng rất nhiều đến chính người lao
động cũng như công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Để áp áp
dụng giải thể doanh nghiệp một cách thống nhất, đặc biệt cách thức xác định
các điều kiện giải thể doanh nghiệp, theo quan điểm của tác giả cần thiết phải
ban hành một văn bản hướng dẫn các thủ tục giải thể doanh nghiệp (những
kiến nghị phía trên sẽ được tổng hợp và ghi nhận tại văn bản hướng dẫn).
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về điều
kiện giải thể doanh nghiệp
Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc hiện nay về việc giải thể của
doanh nghiệp, có thể nghiên cứu một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về quản lý Nhà
nước đối với doanh nghiệp cũng như pháp luật, chế tài xử phạt vi phạm về
giải thể, phá sản doanh nghiệp nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành
pháp luật của doanh nghiệp.
Thứ hai, hoàn thiện hơn nữa cơ chế, chính sách và nền tảng công nghệ
thông tin để Cổng thông tin quốc gia giữ vai trò đầu mối cung cấp, cập nhật
thông tin pháp lý về đăng ký doanh nghiệp, từ đó, tạo điều kiện cho mọi tổ
chức, cá nhân có thể tiếp cận dễ dàng các thông tin chính xác về tình trạng
pháp lý của doanh nghiệp, phát huy vai trò giám sát của xã hội đối với doanh
nghiệp, nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với lĩnh vực giải thể
doanh nghiệp nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung nhằm hướng đến
bảo vệ trật tự chung của nền kinh tế thị trường lành mạnh và phát triển ổn định,
bền vững.
64
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát doanh nghiệp
Kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp là một trong những vai trò quan
trọng của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhằm bảo đảm việc tuân thủ
pháp luật của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Thông qua các
biện pháp kiểm tra, giám sát, các cơ quan có thẩm quyền có cơ sở để xác định
doanh nghiệp có vi phạm pháp luật và từ đó đưa ra các biện pháp xử lý kịp
thời. Tuy nhiên, việc kiểm tra, giám sát doanh nghiệp của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền trong khâu hậu kiểm doanh nghiệp cần tránh xâm phạm tới
quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp
Cần xây dựng một cơ chế phối hợp giữa Cục Thuế, Chi cục Thuế, Sở
Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan Công an, cơ quan Bảo hiểm xã hội để làm thủ
tục giải thể cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đăng ký thành lập thì Sở Kế
hoạch và Đầu tư làm đầu mối nhận hồ sơ, cấp mã số thuế, giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp và cả con dấu. Tương tự, khi doanh nghiệp giải thể thì
Sở Kế hoạch Đầu tư làm đầu mối nhận hồ sơ và gửi thông tin doanh nghiệp
cho các cơ quan liên quan. Nhằm hạn chế tình trạng doanh nghiệp phải nộp
cùng một bộ hồ sơ tới rất nhiều cơ quan liên quan, làm kéo dài thời gian giải
quyết giải thể doanh nghiệp.
Đẩy mạnh liên thông dữ liệu về tình hình doanh nghiệp với cơ quan
Thuế, cơ quan Thống kê và cơ quan Công an, cơ quan Bảo hiểm xã hội nhằm
tạo dựng một Cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất, tập trung, cung cấp cho
người dân và cơ quan Quản lý Nhà nước những thông tin chính xác, có giá trị
về tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Một khi chất lượng thông tin doanh
nghiệp được nâng cao, sẽ tránh hiện tượng doanh nghiệp thành lập và biến
mất trên thị trường, qua đó nâng cao được hiệu quả quản lý của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
65
66
Tiểu kết Chương 3
Như chúng ta đã biết, pháp luật về các điều kiện giải thể doanh nghiệp
là một trong những nội dung pháp luật còn nhiều khó khăn, bất cập và cần
phải hoàn thiện trong thực tiễn để góp phần giúp cho doanh nghiệp gặp khó
khăn muốn được chấm dứt sự hoạt động cũng như góp phần vào sự ổn định,
phát triển của nền kinh tế. Với những vướng mắc trong quá trình thực thi
pháp luật về điều kiện giải thể đã được trình bày tại chương 3, học viên đã
đưa ra một số đề xuất nhằm khắc phục các vướng mắc trong quá trình doanh
nghiệp tiến hành giải thể. Hy vọng những đề xuất trên góp phần nhỏ vào việc
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thực thi pháp
luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
67
KẾT LUẬN
Có thể thấy pháp luật về giải thể doanh nghiệp là vấn đề không mới
nhưng qua các thời kỳ cũng có được điều chỉnh, sửa đổi để phù hợp hơn với
tình hình kinh tế thị trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện
nay. Theo kết quả cuộc tổng rà soát số lượng doanh nghiệp của Tổng cục
thống kê công bố từ năm 2014 đến năm 2019 thì số lượng doanh nghiệp giải
thể ngày càng gia tăng. Ngoài nguyên nhân doanh nghiệp gặp khó khăn do
suy thoái kinh tế, dẫn đến chấm dứt hoạt động, việc có quá nhiều doanh
nghiệp phải chờ làm thủ tục giải thể phần nào có nguyên nhân từ những bất
cập trong quy định của pháp luật hiện hành và hạn chế trong thực thi, chưa
theo kịp với sự biến đổi không ngừng của thị trường kinh tế. Việc sửa đổi quy
định pháp luật hiện hành là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp rút
khỏi thương trường một cách thuận lợi nhất, trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng
và đảm bảo lợi ích của các chủ thể có liên quan.
Trong phạm vi Luận văn thạc sĩ Luật học, học viên có đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện về pháp luật cũng như các giải pháp khác nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật giải thể doanh nghiệp trên thực tế. Pháp luật về
giải thể doanh nghiệp được hoàn thiện sẽ giúp các doanh nghiệp có thể chấm
dứt tồn tại trong trật tự của nền kinh tế, giúp nền kinh tế ổn định, tăng sức
cạnh tranh và nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước. Trong phạm vi cho
phép, đề tài không thể nghiên cứu một cách toàn diện và chi tiết tất cả các vấn
đề mà chỉ tập trung vào những khía cạnh cơ bản nhất. Tác giả hy vọng, những
thông tin của đề tài sẽ hữu ích trong quá trình xây dựng, hoàn hiện cũng như
thi hành pháp luật về giải thể doanh nghiệp góp phần cải thiện môi trường
kinh doanh Việt Nam.
68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Ngọc Anh (2014), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam –
Thực trạng và hướng hoàn thiện.
2. Chính phủ (2015), Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.
3. Chính phủ (2015), Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy
định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp 2014
4. Chính phủ (2018), Nghị định 108/2018/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.
5. Nguyễn Thị Dung (2012), “Thực trạng pháp luật về giải thể doanh
nghiệp – Một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Luật học,
(10), 10-17.
6. Lê Văn Đài (2015), “Thứ tự thanh toán các khoản nợ khi giải thể doanh
nghiệp, nguồn: http://baochinhphu.vn/Tra-loi-cong-dan/Thu-tu-thanh-
toan-cac-khoan-no-khi-giai-the-doanh-nghiep/243163.vhp”.
7. Trương Thanh Đức (2016), Luận giải về Luật Doanh nghiệp năm 2014,
NXB Chính trị quốc gia
8. Vinh Hà (2018), “Xử lý chủ doanh nghiệp bỏ trốn: Chế tài phải nghiêm
khắc, https://nld.com.vn/cong-doan/xu-ly-chu-doanh-nghiep-bo-tron-
che-tai-phai-nghiem-khac-2018041513302536.htm”
9. Nguyễn Văn Hậu, Nguyễn Thị Như Hà, “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN trong điều kiện Việt Nam là thành viên
WTO”, NXB Chính trị quốc gia, năm 2009.
10. Hoàng Thị Huế (2013), Giải thể doanh nghiệp theo Pháp luật Việt Nam
và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần JM. Đại học Quốc gia Hà Nội,
Khoa Luật.
69
11. Hùng Lê (2019), “Đằng sau việc hơn 89.000 doanh nghiệp rời thị trường
năm 2019, https://www.thesaigontimes.vn/298828/dang-sau-viec-hon-
89000-doanh-nghiep-roi-thi-truong-nam-2019.html”
12. Hoàng Linh (2018) “Vì sao có đến gần 91.000 doanh nghiệp giải thể, ngừng
hoạt động năm 2018?,https://tintucvietnam.vn/vi-sao-gan-91000-doanh-
nghiep-giai-the-ngung-hoat-dong-nam-2018-d204054.html”
13. Đỗ Ngọc Minh (2016), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp và thực tiễn
áp dụng tại tỉnh Sơn La.
14. Trần Thị Hồng Minh (2017), “Bức tranh doanh nghiệp 2016 dưới góc
nhìn đăng ký kinh doanh”, tạp chí Kinh tế và Dự báo, (2+3).
15. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, tr. 250-270, NXB
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
16. Thắng Nhi, “http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-
luan/ca-nuoc-co-khoang-8000-doanh-nghiep-mat-tich-no-bhxh-gan-
2000-ty-dong-139453.html, ngày 13/04/2018”
17. Quốc Hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
18. Kỳ Thành (2015), Năm 2015, hơn 9.400 doanh nghiệp giải thể, 71.300
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, https://baodautu.vn/nam-2015-hon-
9400-doanh-nghiep-giai-the-71300-doanh-nghiep-tam-ngung-hoat-
dong-d37565.html,
19. Vi Quang Thanh (2018), Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật Doanh
nghiệp 2014 và thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn.
20. Tân Thịnh (2010), “Các giai đoạn của tiến trình kinh doanh,
http://www.hbi.org.vn/vi/tin-tuc/7-giai-doan”
21. Tổng cục thống kê (2018), “Tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2017,
http://tapchitaichinh.vn/bao-cao-va-thong-ke-tai-chinh/tinh-hinh-dang-
ky-doanh-nghiep-nam-2017-134246.html”
70
22. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thương mại, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
23. Nguyễn Tuyền (2016), “Năm 2016, số doanh nghiệp phá sản tăng 32%
so với năm trước, https://dantri.com.vn/kinh-doanh/nam-2016-so-doanh-
nghiep-pha-san-tang-32-so-voi-nam-truoc-20161224162110302.htm,”
24. Viện đại học mở hà Nội (2013), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
25. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
26. Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng.
27. Tâm Vũ (2015), “Vướng mắc, bất cập trong thủ tục giải thể doanh
nghiệp hiện nay và biện pháp tháo gỡ,
http://thutuchanhchinh.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_de
tail.aspx?itemid=81”.
28. Lưu Khánh (2020), Xử lý nghiêm doanh nghiệp nợ bảo hiểm kéo dài,
https://www.baokhanhhoa.vn/xa-hoi/202008/xu-ly-nghiem-doanh-
nghiep-no-bao-hiem-keo-dai-8179284/
71