BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- TRẦN THÚY AN

NGƯỜI PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI QUA CÁI NHÌN CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN NỮ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với tất cả các thầy cô giáo đã dạy dỗ tôi

trong quá trình học Cao học tại Trường Đại học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh.

Tôi xin đặc biệt cảm ơn PGS.TS. Huỳnh Như Phương, người đã hướng dẫn tôi

làm luận văn này. Chính thầy đã gợi ý đề tài, cung cấp tài liệu, đọc luận văn và góp ý

nhiều lần để luận văn được hoàn thiện như ngày hôm nay.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Giám đốc Sở GDĐT Tp. HCM, Trưởng phòng

GDĐT Quận 1, Ban giám hiệu Trường THCS Trần Văn Ơn Quận 1 và các đồng

nghiệp ở bộ môn văn đã quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi được đi học.

Tôi xin cảm ơn các nhà văn Dạ Ngân, Lý Lan, Võ Thị Hảo đã trả lời phỏng

vấn; cảm ơn các nhà văn Phong Điệp, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà đã cung cấp tư liệu để

luận văn có thêm sức thuyết phục.

Xin cảm ơn gia đình đã là điểm tựa vững chắc để tôi hoàn thành nhiệm vụ học

tập.

Xin chân thành cảm ơn tất cả!

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Trong xã hội Việt Nam xưa, người phụ nữ có duyên với nghiệp văn chương rất

hiếm. Hiếm bởi người Việt Nam quan niệm đàn bà con gái sinh ra là để làm vợ, làm

mẹ, chứ không phải để thi thố tài năng. Họ không được học hành nên hầu như không

biết chữ. Cái quan niệm ấy ăn sâu vào máu thịt con người bởi ngay từ khi con còn

trong nôi mẹ đã ru rằng:

Gái thời giữ việc trong nhà

Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa

Trai thời đọc sách ngâm thơ

Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa

Ấy thế mà vẫn có những nữ sĩ được lưu danh muôn thuở. Đó là những gương

mặt thi ca đặc biệt xuất chúng mà có thể kể ra đây hai đại diện tiêu biểu: Hồ Xuân

Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Các nhà nghiên cứu văn học của ta đã tốn không ít

giấy mực để viết về cuộc đời và sáng tác thơ văn của hai bậc nữ lưu kì tài này.

Cùng với thời gian, quan niệm của xã hội về người phụ nữ có những thay đổi.

Con số phụ nữ viết văn, làm thơ tăng dần lên. Hoài Thanh trong cuốn “Thi nhân Việt

Nam” xuất bản năm 1942 đã giới thiệu bảy nhà thơ nữ trên tổng số 46 nhà thơ. Sau

1945, ở miền Bắc, số lượng các cây bút nữ tăng lên nhiều. Theo tác giả Châm Khanh

trong bài “Phụ nữ và văn chương” đăng tải trên trang báo điện tử tienve.org, trong cả

thảy hơn 750 hội viên chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam từ 1957 đến 1997 có

hơn 70 tác giả nữ, chiếm tỉ lệ chưa tới 10% nhưng đã cao hơn trước. Còn theo Võ

Phiến trong cuốn “Văn học Miền Nam, tổng quan” thì ở miền Nam từ 1954 đến 1975

trong số khoảng 60 tác giả tương đối có tiếng tăm, các cây bút nữ chiếm tỉ lệ 17%.

Những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, văn đàn Việt Nam chứng kiến sự

bùng nổ về số lượng các nhà văn, nhà thơ nữ. Khó mà thống kê được con số chính

xác, nhưng lượng tác phẩm của họ nhiều không kém gì các đồng nghiệp nam. Có

người đặt câu hỏi : Tại sao thời điểm hiện nay lại xuất hiện nhiều cây bút nữ như

vậy? Câu hỏi này đã có nhiều người tìm cách lí giải, nhưng khó mà tìm ra câu trả lời

thấu đáo. Đó cũng là một trong những lí do khiến chúng tôi chọn nghiên cứu sáng tác

của các nhà văn nữ. Cũng phải nói rằng, tuy là phụ nữ, nhưng cũng như các nhà văn

nam giới, họ khai thác những vấn đề đa dạng, đa chiều của hiện thực cuộc sống muôn

màu muôn vẻ. Thế nhưng vì thuộc phái nữ nên trang văn của họ đậm chất nữ tính:

trắc ẩn, khoan dung, tinh tế và đằm thắm. Nhân vật chính của họ khá đa dạng với mọi

kiểu người ở những lứa tuổi khác nhau, nhưng nổi lên vẫn là những thân phận phụ nữ

bé nhỏ giữa dòng chảy ào ạt của cuộc đời. Tất nhiên, những nhà văn nam giới cũng

để nhiều tâm huyết viết về phụ nữ, nhưng nhân vật phụ nữ dưới cái nhìn của các nhà

văn nữ giới vẫn có nét độc đáo riêng, là một đề tài hấp dẫn, cần được quan tâm

nghiên cứu.

2. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Tên đề tài là Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn của một số nhà văn nữ cho

thấy phạm vi chúng tôi khảo sát nằm trong các sáng tác của các nhà văn nữ có tiếng

vang trong thời kì hiện nay.

Thuật ngữ “hiện đại” có hai nghĩa: 1) Hiện đại chỉ một giai đoạn phát triển

trong lịch sử nhân loại gắn liền với thời đại công nghiệp cổ điển; 2) Hiện đại đồng

nghĩa với đương đại, cái hiện thời, hiện kim. Thuật ngữ “hiện đại” trong đề tài của

luận văn được hiểu ở nghĩa thứ hai. “Người phụ nữ hiện đại” trong đề tài nghiên cứu

của chúng tôi là những người phụ nữ ở thời điểm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, chứ

không phải là những nhân vật nữ thời Tự lực văn đoàn, thời chống Pháp, chống Mỹ.

Và cụm từ “một số nhà văn nữ” cũng nhắm đến những nhà văn hiện còn đang sáng

tác, đang sống trong bầu không khí nghệ thuật của văn đàn Việt Nam đương thời.

Do số lượng nhà văn nữ của chúng ta hiện nay rất đông đảo, nên chúng tôi sẽ

không thể khảo sát được sáng tác của tất cả những nhà văn nữ. Vì vậy, chúng tôi sẽ

lựa chọn một số gương mặt tiêu biểu, đó là những nhà văn lấy người phụ nữ hiện đại

làm đối tượng thẩm mĩ. Ngay cả ở những nhà văn này, chúng tôi cũng sẽ lựa chọn

những tác phẩm tiêu biểu của họ về đề tài người phụ nữ hiện đại. Những nhà văn nữ

sau đây đã được chúng tôi cân nhắc lựa chọn làm đối tượng để khảo sát:

- Y Ban

- Võ Thị Xuân Hà

- Võ Thị Hảo

- Phạm Thị Hoài

- Nguyễn Thị Thu Huệ

- Lý Lan

- Trần Thùy Mai

- Bích Ngân

- Dạ Ngân

- Thuận

Ngoài ra chúng tôi sẽ tham khảo thêm tác phẩm của các nhà văn lớp trước như:

Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Minh Dậu, Lê Minh Khuê, Phạm Thị Ngọc Liên, Nguyễn

Thị Anh Thư, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Trần Thị Trường.

Sự lựa chọn trên đây có thể làm cho một vài người không khỏi băn khoăn.

Những câu hỏi có thể xuất hiện, chẳng hạn như: “Tại sao những cây bút có bản sắc

riêng như Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư lại không có mặt?”, hay “Tại sao lại

chọn nhà văn này vào đối tượng khảo sát chính, trong khi nhà văn kia lớn hơn nhiều

mà chỉ được đặt ở phạm vi tham khảo?”. Theo suy nghĩ của chúng tôi, mọi sự chọn

lựa đều có tính chất tương đối. Vả lại, rất nhiều nhà văn nữ nổi tiếng của chúng ta lại

không lấy người phụ nữ hiện đại làm đối tượng thẩm mĩ, mà cái nhìn của họ hướng

về những đối tượng khác, những vấn đề khác. Với khả năng còn hạn hẹp của mình,

chúng tôi chỉ dám lựa chọn một mảng nhỏ trong sáng tác của các nhà văn nữ để

nghiên cứu. Mọi sự tiếc nuối về một giới hạn buộc phải đặt ra ở luận văn này xin

dành lại cho một công trình khác có quy mô lớn hơn trong tương lai.

3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Ngay tựa đề của luận văn đã cho thấy đối tượng mà luận văn hướng tới là

“người phụ nữ hiện đại”, đó là vấn đề của “cái ngày hôm nay”, do đó những công

trình nghiên cứu về nó thật ra chưa đủ nhiều để góp thành lịch sử. Vấn đề mà chúng

tôi nghiên cứu chỉ là một phần nhỏ trong mảng đề tài lớn: “Người phụ nữ Việt Nam

trong sáng tác của các nhà văn nữ” hoặc lớn hơn nữa: “Người phụ nữ Việt Nam

trong văn học”. Đã có một vài công trình nghiên cứu về đề tài người phụ nữ Việt

Nam trong văn học. Chúng tôi xin điểm qua một số bài viết và công trình nghiên cứu

mà chúng tôi may mắn có trong tay.

Trên các báo và tạp chí:

Cách đây tròn bốn mươi năm, Tạp chí Văn học số 9 năm 1967 đã đăng bài viết nhan

đề “Nhân vật phụ nữ nông thôn trong truyện ngắn của Vũ Thị Thường” và sau đó

một năm, lại tiếp tục đăng bài “Nhân vật phụ nữ ba đảm đang qua sáng tác của một

số nhà văn nữ” của cùng một tác giả là Lê Thị Đức Hạnh. Mười năm sau, Tạp chí

Văn học dành hẳn một số (số 1 năm 1978) giới thiệu những cây bút nữ nghiên cứu

văn học. Trong số này có nhiều bài đáng quan tâm về đề tài phụ nữ như “Nhìn qua

những tác phẩm viết về đề tài phụ nữ trong văn học chữ Hán thế kỉ XVIII đến đấu thế

kỉ XIX” của Trần Thị Băng Thanh hay “Người phụ nữ Việt Nam xã hội chủ nghĩa và

cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật trong văn học” của Đoàn Thị Hương. Đến số

tháng 3 năm 1979, Tạp chí Văn học lại đăng bài “Đề tài phụ nữ trong văn học yêu

nước thời cận đại” của Trịnh Thu Tiết. Nhìn lại quá khứ, chúng tôi nhận thấy đề tài

người phụ nữ trong văn học đã được nhiều người quan tâm nhưng ngay ở tựa đề các

bài viết trên cũng cho chúng ta thấy rằng đối tượng thẩm mĩ của các nhà văn là người

phụ nữ thời phong kiến, thời chống Pháp, chống Mỹ. Bẵng đi một thời gian, Tạp chí

Văn học số 6 năm 1996 có bài tường thuật của Vương Trí Nhàn tập hợp ý kiến của

các cây bút phê bình: Đặng Anh Đào, Văn Tâm, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân,

Phạm Xuân Nguyên; hai nhà văn: Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo; hai nhà thơ: Ngô Thế

Oanh và Đặng Minh Châu. Cuộc trao đổi xoay quanh những vấn đề: chỗ mạnh và chỗ

yếu của nhà văn nữ; triển vọng của họ đối với nghề văn; cây bút nữ nào đang nổi

lên? có đóng góp gì? và ai có thể đi xa? Vương Trí Nhàn cho rằng phụ nữ bắt mạch

thời đại nhanh hơn nam giới bởi họ có sự nhạy cảm riêng. Họ luôn gần với cái lỉnh

kỉnh, dở dang của đời sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có – tốt, dịu dàng, rộng

lượng thì không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng, từng

cây bút phụ nữ tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm. Cùng chung

suy nghĩ này với Vương Trí Nhàn còn có Văn Tâm, khi ông nhấn mạnh rằng từ khi

mới xuất phát, các cây bút nữ thường đã đạt đến độ chín. Đặng Anh Đào, một

chuyên gia về văn học phương Tây, nhưng lại có nhiều bài viết phê bình sắc sảo về

văn học Việt Nam đương đại thì lại thấy điểm mạnh của phụ nữ chính là ở chỗ họ

đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trang sách. Còn nhà văn nữ Lê Minh Khuê khi

nghĩ về những người viết cùng giới với mình lại bị chi phối bởi một cảm giác nước

đôi: Một mặt, nhiều chị em bộc lộ một tài năng rõ rệt, không lèm nhèm, không mờ

nhạt. Mặt khác, sao vẫn cảm thấy, đặt trong hoàn cảnh chung, rồi mỗi người cũng

đến thế thôi, không bao giờ có cái gọi là đồ sộ, vĩ đại ở những cây bút nữ này cả.

Trong tất cả các ý kiến đó, chúng tôi cảm thấy tâm đắc nhất với những nhận xét của

nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Theo ông, xu thế dân chủ hóa đời sống,

mà người ta hay nói, vào trong văn chương, bộc lộ ra thành một quan niệm cới mở về

nghề văn: văn chương như một trò chơi, ai thử cũng được, khi nào còn thích thì làm,

không thích thì bỏ… có lẽ cái sự cởi mở ấy đã được nhiều chị em phụ nữ cảm thấy

một cách đầy đủ, sâu sắc, và họ đã viết. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý là có những người

viết với một quan niệm hẳn hoi, như Pham Thị Hoài, hoặc ở Phan Thị Vàng Anh các

trang viết có một bề dày văn hóa rõ rệt. Rồi ông kết luận đội ngũ các nhà văn nữ hiện

nay khá đa dạng, mỗi người có một gam riêng, chứ không thuần bản năng như có

người nghĩ. Nhìn chung, những người tham gia bộc lộ một cách khá thẳng thắn quan

điểm của mình về những vấn đề nêu trên, nhiều ý kiến tỏ ra có sự theo dõi sát sao con

đường đi của các nhà văn nữ, nhưng vì là một cuộc trò chuyện văn chương, nên

những vấn đề chỉ được nêu mà chưa được bàn sâu.

Báo Nông nghiệp Việt Nam, số 138 năm 2001, tác giả Văn Chinh có bài giới

thiệu “Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam” với tiêu đề “Văn nữ thế kỉ XX – một tuyển tập

đáng quý”. Trong bài viết, ngoài việc giới thiệu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu,

Văn Chinh đã khái quát nên một số đặc điểm của văn nữ Việt Nam như: “nữ tính

được miêu tả thật hơn, sâu hơn”; “giữa cái tốt, cái xấu trải ra rộng hơn và lắm cung

bậc hơn”; “khi các nhà văn nam đang cảm thấy mệt mỏi, bế tắc thì sự xuất hiện của

các nhà văn nữ đã mang đến cho văn xuôi sự tươi tắn, trẻ trung có vẻ như do nữ tính

của họ phát tiết và được nhìn dưới ánh sáng của trí tuệ thời đại”.

Báo Văn Nghệ, số 10 năm 2007, tác giả Dương Thuấn có bài “Văn học dân tộc

thiểu số ngày càng thêm nhiều cây bút nữ”. Trong bài viết, tác giả chỉ ra được các

gương mặt nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học là nữ của các dân tộc thiểu số.

Có khoảng 13 nhà thơ, 15 nhà văn và một người làm nghiên cứu. Tuy vậy trong số

những cái tên đó chỉ có Vi Thùy Linh (dân tộc Tày) và Dư Thị Hoàn (dân tộc Hoa) là

được nhiều người biết tới với tư cách một nhà thơ. Bài viết ghi nhận những đóng góp

của các cây bút nữ này tuy còn ở mức độ khá khiêm tốn.

Trên các trang báo điện tử, có một số bài viết về sáng tác của các nhà văn nữ

đương đại Việt Nam nhưng rất ngắn gọn, chỉ dừng lại ở mức độ cảm nhận, như “Cảm

nhận về văn xuôi của các cây bút nữ” của Bích Thu (www.hanoi.vnn.vn). Trong bài

viết của mình, Bích Thu đã nêu tên một số nhà văn nữ đã thành danh và đang khẳng

định mình như: Vũ Thị Thường, Lê Minh, Nguyễn Thị Cẩm Thạnh, Bích Thuận,

Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Hoàng Ngọc Hà, Đoàn Lê, Lê Minh

Khuê, Dạ Ngân, Vũ Thị Hồng, Trần Thị Thắng, Trần Thị Trường, Phạm Thị Minh

Thư, Nguyễn Minh Dậu, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Y Ban, Phan Thị Vàng

Anh, Phạm Sông Hồng, Võ Thị Xuân Hà, Hồ Thị Hải Âu, Trần Thanh Hà… Bài viết

“Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới” trên

www.hanoi.vnn.vn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát diện mạo các nhân vật nữ trong

một giai đoạn mà nền văn học Việt Nam khởi sắc trên tinh thần đổi mới. Cũng viết về

đề tài nhân vật phụ nữ trong văn học thời kì đổi mới, Đào Đồng Điện có tiểu luận

“Phụ nữ là … đàn bà” đăng trên www.tuoitre.com. Trong bài viết này, tác giả chỉ ra

điểm khác biệt cơ bản của nhân vật nữ trong văn xuôi đổi mới và trong văn xuôi cách

mạng. “Khi nhìn nhận người phụ nữ ở những cái thuộc về thiên tính, các nhà văn

hôm nay quan tâm vẻ đẹp cơ thể của người phụ nữ và những nhu cầu bản năng của

họ. Những “lạch đào nguyên”, những “tòa thiên nhiên” là vẻ đẹp tự nhiên mà tạo

hóa ban cho người phụ nữ. Đây cũng là một điểm khác biệt cơ bản của nhân vật nữ

trong văn xuôi đổi mới và trong văn xuôi cách mạng. Con người nói chung và người

phụ nữ nói riêng trong văn học cách mạng đều rất đẹp nhưng đó là vẻ đẹp tâm hồn,

vẻ đẹp toát ra từ những phẩm chất cao quí như lòng dũng cảm, sự hi sinh... Dễ nhận

thấy khi mô tả ngoại hình nhân vật nữ, nhà văn cách mạng thường chọn mô tả mái

tóc. Đây là bộ phận vừa thể hiện được vẻ đẹp nữ tính lại vừa “an toàn”. Hơn nữa

mái tóc dài đối với người phụ nữ VN truyền thống đã nhuốm vẻ đẹp tinh thần và có

tính tượng trưng cao. Trong xã hội hôm nay, tóc tai không còn nhiều giá trị khu biệt

về giới tính nữa. Cho nên các nhà văn quan tâm hơn đến làn da, bầu vú, cặp mông,

đôi chân, những đường cong cơ thể…” Đây là những so sánh rất thú vị, gợi cho

người đọc những suy ngẫm về xu hướng tìm lại con người ở những đặc trưng bản thể

và khát khao trần thế của văn học Việt Nam hiện nay. Tiểu luận “Phụ nữ và văn

chương” của Châm Khanh trên www.tienve.org có tính chất tổng kết và lí giải hiện

tượng nhà văn nữ ngày càng đông và nhà văn nữ chỉ tập trung viết văn xuôi. Dù tác

giả tỏ ra rất thấu hiểu văn học nữ Việt Nam cả ở trong nước và hải ngoại, nhưng bài

viết chỉ đi đến một kết luận là một cây bút nữ hẳn phải viết khác một cây bút nam.

Về các công trình nghiên cứu chuyên sâu:

Chúng tôi có trong tay luận văn Thạc sĩ của Hồ Thị Liễu với đề tài “Khảo sát

truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam từ 1986 đến 1996”, bảo vệ tại trường Đại Học

Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn năm 2002. Luận văn cung cấp một cái nhìn hệ thống

về truyện ngắn nữ Việt Nam 10 năm thời kì đổi mới 1986 -1996, bước đầu đưa ra

những nhận định về đặc điểm nội dung và nghệ thuật cũng như những đóng góp của

các nhà văn nữ. Về mặt nội dung, luận văn khảo sát truyện ngắn của các nhà văn nữ

theo đề tài: chiến tranh, cuộc sống đời thường, khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Về mặt

nghệ thuật, luận văn tìm hiểu các đặc điểm về nhân vật, kết cấu và ngôn ngữ. Nói

chung tác giả có các nhận định khá quyết đoán và có sức thuyết phục. Tuy nhiên,

luận văn chỉ dừng lại ở những tác phẩm ra đời vào năm 1996 trở về trước. Từ bấy

đến nay, đã hơn 10 năm trôi qua, đã có thêm một số gương mặt nữ trẻ tỏa sáng; đã có

một số tác giả nữ Việt kiều có sách xuất bản trong nước như Thuận, Phạm Hải Anh,

Phan Việt, Đoàn Minh Phương; đã có những tác phẩm mới có tiếng vang của Dạ

Ngân, Võ Thị Xuân Hà, Thùy Dương, Võ Thị Hảo được xuất bản. Vì vậy, cần có

những công trình nghiên cứu mới có tính chất cập nhật hơn.

Bên cạnh đó, chúng tôi tìm thấy luận văn Thạc sĩ của Lê Thị Tâm Hoài bảo vệ

tại Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh năm 2005 với đề tài: “Cái nhìn nghệ thuật về

người phụ nữ trong một vài tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 của Hội Nhà văn Việt

Nam”. Công trình này cũng nghiên cứu về người phụ nữ trong văn học, nhưng chỉ

giới hạn trong ba tiểu thuyết của ba nhà văn nam: Nguyễn Khắc Trường, Dương

Hướng, Bảo Ninh.

Với việc điểm qua những bài viết trên, chúng tôi nhận thấy hình tượng người

phụ nữ trong sáng tác của các nhà văn nữ đã từng được quan tâm theo dõi. Các tác

giả đề cập đến vấn đề người phụ nữ trong văn học ở các mức độ, góc độ khác nhau,

nhưng chưa có ai nhắc đến hình ảnh người phụ nữ hiện đại trong sáng tác của các nhà

văn nữ. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn góp một chút công sức nhỏ

bé của mình vào không khí “trăm nhà đua tiếng” của nghiên cứu, phê bình văn học

hiện nay.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp lịch sử: Được dùng để làm rõ sự tác động của hoàn cảnh

lịch sử, xã hội đến đời sống văn học. Cần phải đặt các tác phẩm trong bối cảnh xuất

hiện của nó để nhìn thấy những đóng góp mà các tác giả đem lại so với thời kì trước

đó cũng như những hạn chế của thời đại mà các tác giả không thể vượt qua.

- Phương pháp phân tích: Trước hết được dùng để phân tích tác phẩm văn

học nhằm tìm ra những đặc điểm tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật. Tiếp theo,

chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích để phân tích nhân vật với mục đích tìm

ra những mô hình tính cách, những tổ chức phẩm hạnh từ đó khái quát những chân

dung con người được thể hiện qua sác tác văn học.

- Phương pháp so sánh: Một hiện tượng văn học không bao giờ tồn tại một

cách biệt lập. Cho nên muốn tìm hiểu nó, chúng ta không thể chỉ mổ xẻ phân tích nó

một cách biệt lập, mà ta phải tìm hiểu các mối quan hệ đa dạng và đa chiều của nó.

Chúng tôi dùng phương pháp so sánh để đối chiếu một hiện tượng văn học với các

hiện tượng cùng loại, và ở cấp độ nhỏ hơn: để thấy được sự tương đồng và khác biệt

giữa nhà văn này với nhà văn khác.

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Với việc thực hiện đề tài này, luận văn sẽ cố gắng để đạt được những mục tiêu

sau đây:

- Cung cấp cho người đọc cái nhìn của các nhà văn nữ, chủ thể sáng tạo,

về người phụ nữ hiện đại, đặc biệt là những quan niệm của họ về trách nhiệm của nhà

văn khi viết về người phụ nữ.

- Phác họa chân dung người phụ nữ hiện đại trong cách ứng xử với những

mối quan hệ gia đình và xã hội, với những khao khát về tình yêu, hạnh phúc; những

nỗi cô đơn, trăn trở, day dứt trước cuộc đời. Từ những số phận rất khác nhau ấy, luận

văn hi vọng cung cấp cái nhìn đa diện về người phụ nữ Việt Nam trong thời điểm đất

nước có nhiều biến chuyển phức tạp như hiện nay.

Làm sáng tỏ những điểm độc đáo về bút pháp mà các nhà văn nữ đã thể -

hiện qua những trang viết đầy trắc ẩn của mình.

6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

MỞ ĐẦU

1.Chương 1: Các nhà văn nữ: cái nhìn của chủ thể sáng tạo

1.1.Người phụ nữ hiện đại trong quan niệm sống của nhà văn nữ

1.2.Người phụ nữ hiện đại trong quan niệm văn chương của nhà văn nữ

1.3.Vấn đề giới

2. Chương 2: Người phụ nữ hiện đại: đối tượng thẩm mĩ của các nhà

văn nữ

2.1. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với xã hội

2.2. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với gia đình

2.3. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với bản thân

3.Chương 3: Giá trị thẩm mĩ: từ cái nhìn đến bút pháp

3.1. Điểm nhìn trần thuật

3.2. Tâm lí nhân vật

3.3. Ngôn ngữ văn xuôi

KẾT LUẬN

PHỤ LỤC

CHƯƠNG 1

CÁC NHÀ VĂN NỮ:

CÁI NHÌN CỦA CHỦ THỂ SÁNG TẠO

Người phụ nữ đời nào cũng vậy, là tặng phẩm tuyệt diệu của tạo hóa. Nhưng

sự phản ánh họ trong văn học qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn thì mỗi thời mỗi

khác. Trong một giai đoạn mà cảm hứng công dân chi phối sát hoạt động sáng tác,

người phụ nữ trong văn học Cách mạng Việt Nam 1945-1975 ít được nhìn nhận ở

những đặc trưng giới tính. Họ thường mang trong mình một phẩm chất chung xác

định giá trị con người là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu, thành tích cống hiến cho tập

thể. Họ được ca ngợi là những người “giỏi việc nước đảm việc nhà”.

Trong xu hướng tìm lại con người ở những đặc trưng bản thể và khát khao trần

thế, các nhà văn thời kỳ đổi mới nhìn nhận người phụ nữ nghiêng về những gì thuộc

về thiên tính, thiên chức của họ. Văn học đổi mới không còn nhiều những phụ nữ sắt

đá, kiên cường nữa mà thay vào đó là những con người yếu đuối, nhẹ dạ cả tin, đa

cảm, đa đoan...

Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta được gặp gỡ đủ loại phụ nữ trong truyện

ngắn của các nhà văn nữ. Bằng kinh nghiệm bản thân, các nhà văn này thoải mái đã

phô bày đời sống của người phụ nữ ở tầng sâu bản thể. Họ đem đến cho văn học

những trải nghiệm mới, những hiểu biết mới về người phụ nữ. Họ cho ta cảm nhận về

người phụ nữ hiện đại, những con người thật đa sự. Sự bất ổn trong nội tâm của họ là

do “bản tính” của họ mà ra chứ không do ai khác gây ra. Viết văn đòi quyền lợi cho

người phụ nữ hoặc phản ánh tình trạng mất bình quyền nam nữ cũng là mục đích

sáng tác của nhiều cây bút nữ thời nay.

Trong văn giới Việt Nam, chúng ta thường nghe câu nói "Văn là người".

Chúng tôi không cho rằng nhà văn sống ngoài đời ra sao thì sống trong tác phẩm

cũng như thế. Văn không phải là tấm gương phản chiếu thành thật con người tác giả.

Tuy nhiên, để hiểu sâu sắc tác phẩm của nhà văn thì một việc nhất thiết phải làm là

tìm hiểu quan niệm của nhà văn về đối tượng thẩm mĩ mà họ hướng đến. Chính vì

vậy, chương 1 của luận văn dành để tổng hợp một số quan niệm của các nhà văn nữ

về người phụ nữ để từ đó chúng ta hiểu biết thêm về nhà văn với tư cách là chủ thể

sáng tạo.

1.1. Người phụ nữ hiện đại trong quan niệm sống của nhà văn nữ

Phải thấy rằng, những nhà văn nữ mà chúng tôi đang nói đến trước hết cũng là

những người phụ nữ hiện đại. Họ có một nghề nghiệp với những va chạm phức tạp.

Họ có một gia đình với những mối quan hệ bề bộn. Họ còn phải, nói như nhà văn Võ

Thị Hảo, mang trên vai cả một gánh “hành trang của người đàn bà Âu Lạc”. Trước

đây, họ là đối tượng để cho các nhà văn, hầu hết là nam giới, phân tích, mổ xẻ. Nay

họ đã đủ tự tin để tự nói về mình, mà còn nói một cách chân thực, tinh tế nữa.

Nhà văn Dạ Ngân, người vừa cho ra đời tiểu thuyết Gia đình bé mọn được giải

thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội 2005, đã bày tỏ những suy nghĩ rất thú vị của mình

về người phụ nữ hiện đại. Chị thuộc thế hệ phụ nữ sinh ra và lớn lên trong chiến

tranh, trưởng thành khi đất nước hòa bình. Cuộc đời Dạ Ngân cũng lắm thăng trầm,

truân chuyên, nhưng chị vẫn vượt qua tất cả bằng một nghị lực phi thường. Dạ Ngân

là một ví dụ tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam vượt qua những ngăn trở,

những định kiến của xã hội để giành lấy hạnh phúc. Theo chị, người phụ nữ hiện đại

nếu được giải phóng triệt để về mặt tự do cá nhân sẽ có tất cả năng lực như nam giới.

Họ có thể rất xuất sắc trong các vị trí mà trước đây chỉ nam giới là có quyền đảm

nhận như chính khách, nhà khoa học, tướng lĩnh và các cương vị chuyên môn khác.

Tuy vậy, nhà văn Dạ Ngân vẫn nhấn mạnh chức năng làm vợ, làm mẹ của người phụ

nữ, chị còn cho rằng chính tính nữ trong đời sống hôn nhân và trong tình mẫu tử sẽ

làm cho người phụ nữ hiện đại thành đạt “một cách có hương vị”. Bằng sự từng trải

của một người phụ nữ trí thức đứng tuổi, Chị thấy rằng: “So với phụ nữ Hàn, phụ nữ

Nhật, phụ nữ đạo Hồi, phụ nữ các nước Nam Á, phụ nữ Việt Nam nói chung rất có ý

thức vùng dậy… Vai trò người phụ nữ trong từng gia tộc rất lớn, rất phi thường. Phụ

nữ Việt Nam rất có uy với cộng đồng của mình”. [95] Những nhận định này được chị

thể hiện rất thành công qua hai nhân vật trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn là cô Tư

Ràng: “quan tòa của gia tộc”, có quyền sinh quyền sát đối với lũ con cháu mà cô

không hề mang nặng đẻ đau và bà mẹ của nhân vật Đính: rất yêu con nhưng cũng là

“bà trời” với các con, các cháu.

Trong khi nhà văn Dạ Ngân chú trọng đến năng lực và ảnh hưởng của người

phụ nữ hiện đại đối với cộng đồng, thì nhà văn Võ Thị Hảo lại quan tâm đến tính

năng động và độc lập của người phụ nữ. Theo chị, “người phụ nữ hiện đại là người

luôn nắm bắt được thông tin, kiến thức và hành xử cập nhật thời đại. Đồng thời,

không nô lệ trong suy nghĩ, không lệ thuộc lối mòn, tôn trọng nhân phẩm và nhân

quyền của chính mình”. [89] Ở điểm này, suy nghĩ của nhà văn Võ Thị Hảo gặp gỡ

với nhà văn Lý Lan. Theo Lý Lan, “người phụ nữ hiện đại là người độc lập, tự do”.

[94]

Thiết nghĩ, hai từ “độc lập”, “tự do” bao quát rất nhiều lĩnh vực: trong lao động

sáng tạo, trong đời sống gia đình, trong các quan hệ xã hội; và cốt lõi nhất là người

phụ nữ phải tự ý thức được sự tự do trong tư tưởng của mình.

Nhà văn Trần Thị Trường, người ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc với những

cuốn tiểu thuyết Lời cuối cho em, Kẻ mắc chứng điên, hoặc những tập truyện ngắn

Hoa mưa, Thời gian ngoảnh mặt... được coi là nữ văn sĩ của những thân phận phụ

nữ. Chị đã từng sống và làm việc ở Châu Âu, Mỹ. Với vốn sống phong phú, chị đưa

ra nhận xét của mình về phong cách sống của phụ nữ Việt Nam trong sự so sánh với

phụ nữ phương Tây:

Phụ nữ ngày nay phải đi làm, thậm chí gánh vác nhiều hơn cả đàn ông

ở trong xã hội lẫn gia đình. Một thời sống ở Châu Âu và mấy năm vừa rồi sang Mỹ,

tôi thấy đàn ông người Âu hay người Mỹ đi làm về là chia đôi việc nhà với vợ. Nếu

người đàn ông chủ động bỏ vợ, sẽ phải bồi thường... Và tôi thấy phụ nữ Việt Nam nói

riêng, phụ nữ Châu Á nói chung quả là rất khổ. Ngày càng có nhiều đàn ông Châu

Âu, Châu Mỹ muốn lấy phụ nữ Châu Á làm vợ, và người vợ đó rất được yêu chiều.

Họ kể rằng, họ yêu và muốn cưới vì phụ nữ Châu Á bây giờ vừa có khả năng làm việc

như đàn ông, vừa rất dịu dàng và chăm chỉ. Con rể tôi (R.Michael - người Mỹ) cũng

bảo hình ảnh đẹp nhất của phụ nữ Việt Nam là lúc nấu cơm tối và thêu thùa bên bếp

lửa. [102]

Cùng nói về khả năng tiềm tàng của người phụ nữ hiện đại, nhà văn Nguyễn

Thị Bích Thuận có những ý kiến khá trùng khớp với nhà văn Dạ Ngân. Chị cho rằng:

Trong xã hội hiện đại, người phụ nữ có được những quyền lợi bình

đẳng như là nam giới. Họ nhận thức được vai trò của mình trong xã hội hiện đại và

tự tin với khả năng của mình. Họ không ngừng học hỏi, nghiên cứu, trau dồi khả

năng lãnh đạo và không ít người trong số họ đã đạt đến những địa vị rất cao trong xã

hội. Trong gia đình cũng vậy, người phụ nữ hiện đại vẫn giữ được vai trò truyền

thống làm vợ, làm mẹ, nhưng bên cạnh đó họ vẫn luôn phấn đấu cho sự bình đẳng

trong quan hệ giữa vợ và chồng. Họ muốn đưa ra những quyết định để xây dựng gia

đình. Họ muốn quan tâm, chia sẻ những công việc cơ quan của chồng thay vì chỉ lo

chăm sóc chồng, con, nghe lời chồng như một người nô tỳ. Ngoài ra, người phụ nữ

hiện đại là người biết đấu tranh cho lý tưởng của mình, không quá phụ thuộc vào

nam giới. Họ luôn phấn đấu không ngừng để chứng tỏ một điều rằng không phải chỉ

có nam giới mới là người có khả năng lãnh đạo. [71]

Qua những ý kiến trên, có thể dễ dàng nhận thấy các nhà văn nữ của chúng ta

nhận thức rất đầy đủ về khả năng và những lợi thế của người phụ nữ. Hơn ai hết, họ ý

thức được ảnh hưởng của mình trong gia đình, trong xã hội. Ý kiến của các nhà văn

nữ nói trên hầu hết gặp nhau ở một điểm: người phụ nữ hiện đại có năng lực chẳng

kém gì nam giới, song họ còn có những nghĩa vụ, trách nhiệm của người vợ, người

mẹ. Những công việc thuộc về nữ tính thiên phú làm cho họ có ít thời gian dành cho

công việc hơn. Đó là thiệt thòi của nhà văn nữ nói riêng và cũng là thiệt thòi của phụ

nữ Việt Nam nói chung.

Đến với nhà văn Y Ban, chúng ta sẽ hiểu người phụ nữ hơn trong sự so sánh

giữa các thế hệ. Chị cũng là một mẫu phụ nữ hiện đại năng động, từng giảng dạy

trường Đại học Y Thái Bình trước khi viết văn. Chị cũng từng phải đi bán gà tần, đi

buôn đất để có tiền nuôi con trong những lúc khó khăn. Chính vì vậy, cái nhìn của chị

về người phụ nữ rất thực tế. Nhìn vào ba thế hệ phụ nữ trong gia đình mẹ chị, chị,

con gái, chị nhận thấy những khác biệt của cuộc sống hôm nay.

Mẹ tôi, tôi và con gái tôi đều là những người phụ nữ mạnh mẽ. Tôi cảm nhận

rằng mạnh mẽ là một điểm nổi bật trong phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, dù

nhìn vẻ ngoài họ là những phụ nữ nhu mì, cam chịu. Họ đã phải nén cảm xúc của

mình hàng nghìn năm và lúc nào họ cũng có nguy cơ bùng nổ. Mẹ tôi phải nuôi một

bầy con khi bố tôi đi chiến trường. Bà chèo chống với thời kỳ đói nghèo để nuôi gia

đình. Tôi là thế hệ giao thời, với những buồn - vui, sướng - khổ không rành rẽ. Giống

như mẹ tôi, tôi luôn coi trọng việc học hành của con cái. Thời của mẹ tôi, nghèo khó

nhưng không phải lo lắng nhiều về cái gọi là đạo đức của con gái mình. Tôi đầy đủ

hơn nhưng lại luôn lo lắng. Con gái tôi mười lăm tuổi và lúc nào tôi cũng tự hỏi cháu

sẽ tránh khỏi những cám dỗ của đời sống hiện đại ồn ào như thế nào. Nhưng con gái

tôi khác biệt với tôi và mẹ tôi một điểm lớn, đó là tính độc lập. [81]

Chị còn tâm sự:

Tôi thích viết về phụ nữ và những vấn đề của phụ nữ hiện đại. Tôi cũng rất

thích mổ xẻ đến tận cùng tâm lý của người đàn bà hiện đại. Họ thông minh, giỏi

giang nhưng vẫn luôn cần một cuộc sống tình cảm phong phú. Tôi không thích sự cực

đoan và cô đơn. Tôi thích người phụ nữ có trách nhiệm với gia đình, nhưng người đó

cũng yêu và hiểu về tình yêu. [80]

Ý kiến của Y Ban có điểm gặp gỡ với các nhà văn chúng ta đã nói ở trên ở

những nhận xét về người phụ nữ: mạnh mẽ, thông minh, giỏi giang, độc lập… nhưng

chị lại để ý đến một đặc điểm rất “phụ nữ” là “họ luôn cần một đời sống tình cảm

phong phú”. Cũng như vậy với Nguyễn Thị Thu Huệ, trong khi các nhà văn khác nói

về các khả năng tiềm tàng của người phụ nữ làm cho họ chẳng thua kém gì các đấng

mày râu thì từ những trải nghiệm của chính mình, chị cho rằng: “Khác với nhiều

người nghĩ, thực ra người đàn bà lúc nào cũng muốn nương tựa. Bất đắc dĩ mới phải

tự mình đứng thẳng, vì bị xô đẩy mà phải gánh vác việc của đàn ông và người đàn

ông phải hiểu điều đó”. [92]

Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ là một người phụ nữ có nhan sắc, và cũng rất

thành đạt vừa trên cương vị một nhà văn, đồng thời lại là giám đốc một hãng phim

truyền hình. Ý kiến của Thu Huệ không đối lập với các bạn văn của mình, mà nó có

tính chất bổ sung. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, họ luôn muốn nương tựa dưới một

bóng tùng quân nào đó. Mạnh mẽ, giỏi giang ở đâu đó nhưng vẫn muốn có một bờ

vai vững chãi để dựa vào những khi yếu lòng. Và có lẽ chính đặc điểm này làm nên

nét nữ tính của phái đẹp, là một thế mạnh không thể có được ở các đấng nam nhi.

Thế nhưng không phải người phụ nữ nào cũng có được hạnh phúc là sự nương

tựa. Trong số những nhà văn nữ đương đại của Việt Nam, nhà văn Võ Thị Hảo có

cuộc sống riêng khá vất vả. Chị vừa là nhà văn nổi tiếng, vừa là một nhà báo sắc sảo

và là mẹ của hai đứa con gái tuổi cập kê. Chị tâm sự:

Tôi vốn là người đàn bà thích được che chở. Nhưng oái oăm thay, số

phận không cho tôi điều đó. Tôi luôn phải gánh vác những công việc của đàn ông từ

khi mới lớn đến tận bây giờ… Gánh đã chất trên vai, muốn sống thì phải gánh, vậy

thôi. Cũng có lúc mệt mỏi, chùn bước lại đứng dậy, buộc phải gánh tiếp. Nhưng

trong tôi vẫn khắc khoải là mình sinh ra để làm đàn bà – mong được là một “dây leo

đẹp” bên một “cây đại thụ”. [16]

Một người bạn của chị đã viết về chị như sau:

Gần gũi chị, nhiều lúc cũng cảm thấy xót xa khi thấy chị phải gánh

vác quá nhiều trong gia đình bốn người. Người phụ nữ nào, dù giỏi đến đâu, nhiều

lúc vẫn cần có cảm giác được dựa vào tình yêu lớn của một người đàn ông thực sự.

Là đàn bà, thật hạnh phúc khi thấy mình thực sự bé nhỏ trong vòng tay của một

người đàn ông của riêng mình. Một cánh tay chở che, cảm giác được chia sẻ tri âm

với người bạn đời, với chị Hảo trong một cuộc đời làm vợ hầu như không có. Không

chỉ bây giờ khi chỉ còn ba mẹ con chị cũng luôn phải cố gắng để vừa làm mẹ, vừa

làm bố cho hai con.. Chị bảo: “Hạnh phúc là do cách người ta quan niệm và lựa

chọn”. Giờ đây, có lẽ chị đang hạnh phúc vì thanh thản… [90]

Mỗi người có một câu chuyện, mỗi người là một dòng sông, nó chảy từ nguồn

ra tới biển. Dòng sông là thứ chúng ta không thể cắt khúc, rồi xóa đi khúc này khúc

nọ được, nó cần có sự liên tục. Trò chuyện với các nhà văn, lĩnh hội ý kiến của họ

cũng như soi bóng mình xuống dòng sông tư tưởng của họ. Có thể dòng sông này

hiền hòa, êm ả, dòng sông kia nhiều ghềnh thác hoặc ngay trên môt dòng sông cũng

có khúc dịu dàng, có khúc dữ dội nhưng chính những nét khác biệt đó lại tạo nên sự

cuốn hút mãnh liệt.

Quan điểm của các nhà văn nữ có thể có những điểm tương đồng, cũng có thể

khác biệt, điều đó không có gì khó hiểu. Qua những phát biểu đó, chúng ta hiểu về

người phụ nữ hiện đại trong tác phẩm của họ hơn, nhờ vậy, tác phẩm của họ đến gần

với độc giả hơn.

1.2. Người phụ nữ hiện đại trong quan niệm văn chương của nhà

văn nữ

Nhà văn cho ra đời một tác phẩm văn học, cũng như người mẹ sinh thành một

đứa con, đều muốn đứa con của mình lớn lên khỏe mạnh và có ích cho xã hội. Từ

những quan niệm, những suy nghĩ về người phụ nữ trong cuộc sống, họ đã xây dựng

nên những chân dung phụ nữ trong văn chương với những lời nhắn gửi thiết tha tới

những người đồng giới nói riêng và xã hội nói chung. Y Ban tâm sự:

Thực ra, khi viết về những người phụ nữ hôm nay, mổ xẻ và phân tích

thân xác cũng như thân phận của họ, tôi muốn rằng các tác phẩm của tôi sẽ là thứ để

họ vin vào và đứng dậy. Tôi muốn chỉ ra rằng, đàn bà chúng ta, họ đau khổ và phức

tạp hơn, ngay từ trong ý nghĩ. Họ bị hành hạ bởi những suy nghĩ, có khi chỉ là rất

nhỏ nhoi, như một phút xao lòng. Tôi muốn chỉ cho họ một lối đi, để họ hiểu rằng,

cuộc sống là thế đấy, đàn bà là thế đấy, đừng dằn vặt bản thân mình, đừng hỏi tại

sao”. Từ các câu chuyện của mình, tôi cũng có thêm tham vọng là chỉ cho phụ nữ

những ranh giới, để họ biết dừng lại, khi họ là phụ nữ. Đó là con đường mà các nhà

văn nữ trước tôi và cả các bạn nữ viết văn sau này vẫn sẽ tiếp nối nhau. Những nhà

văn nữ thực sự đang đóng góp cho sự tiến bộ của xã hội, bằng các tác phẩm của

mình. Bắt đầu từ việc họ thay đổi chính mình, tiến bộ hơn, văn minh hơn. Tôi muốn

xã hội hãy đọc tác phẩm của nhà văn nữ như một sự lắng nghe, một sự thấu hiểu. Vì

đó chính là tiếng lòng của họ, là những khát khao tự giải phóng bản thân mình. [81]

Những định hướng như vậy đã giúp nhà văn Y Ban thành công trong khá nhiều

truyện ngắn viết về những phút giây xao lòng của người phụ nữ trước người đàn ông

không phải là chồng mình. Những người phụ nữ trong truyện ngắn Sau chớp là bão

giông và Người đàn bà và những giấc mơ của chị đều có những cơ hội để có thể

ngoại tình, nhưng họ đã biết dừng lại đúng lúc để giữ gìn mái ấm gia đình bền vững.

Cái níu giữ họ lại với gia đình có thể là những chăm sóc chu đáo tận tình của chồng

hay tiếng gọi của những đứa con nhắc nhở họ trách nhiệm của người làm mẹ. Truyện

ngắn của Y Ban, ngoài tác dụng cảnh tỉnh chị em phụ nữ đừng chạy theo những tình

cảm nông nổi, bồng bột, thoáng qua, còn nhắc nhở những người đàn ông hãy biết giữ

lấy người phụ nữ của mình. Hạnh phúc gia đình trong thời buổi này thật quá mong

manh. Khi được hỏi: “Trong văn học thời kỳ trước đây, có rất ít cảnh phụ nữ ngoại

tình. Nhưng trong các tác phẩm của chị, và nhiều nhà văn đương đại khác, hình ảnh

người đàn bà ngoại tình (có thể chỉ là trong tư tưởng) lại hơi... nhiều. Vì sao vậy?”

Chị đã nói rằng:

Xã hội nào thì hoàn cảnh đấy. Và thân phận của người phụ nữ thể

hiện rõ nhất hoàn cảnh xã hội mà chị ta đang sống. Trong xã hội phong kiến, trong

chiến tranh, thế giới quan của người phụ nữ chỉ bó gọn trong một gia đình, một cái

làng nhỏ, phải đối diện với những lề thói, hủ tục, sự soi mói của người đời nên rất

khó để người phụ nữ thay đổi cuộc sống của mình. Nhưng trong xã hội hiện đại đã

khác đi nhiều. Người phụ nữ độc lập, tự chủ hơn. Họ có xu hướng sống cho bản thân

mình, chiều chuộng cảm xúc của chính mình. Khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ

thể hiện ở khát vọng chinh phục người đàn ông. Và chinh phục người khác giới cũng

chính là để chinh phục chính mình. [81]

Là một nhà văn nữ, nhiều truyện ngắn của Y Ban được viết ra nhằm giảm bớt

“tai nạn” của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Những truyện ngắn như Thiên

đường và địa ngục, Cái điềm con thỏ trắng, Sự vô tội của Ađam và Êva... là những

“câu chuyện cảnh giác” chị viết dành riêng cho các cô gái trẻ, khuyên họ chớ yêu mù

quáng, chớ quá tin vào đàn ông mà rước họa vào thân. Các cô gái trong những truyện

này đều chịu chung cảnh “trống thủng vì chưng kẻ nặng dùi” hay “cả nể cho nên hóa

dở dang”. Khi “tai nạn” không may đã xảy ra với họ, chị lại viết Bức thư gửi mẹ Âu

Cơ đòi mẹ phải quan tâm đến họ.Từ những tên sách của chị: Người đàn bà có ma

lực, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Đàn bà xấu thì không có quà... có thể thấy phụ nữ là đề

tài mà chị quan tâm nhất. Có thể nói, Y Ban đang tự vẽ chân dung người đồng giới

mình. Khi đặt bút viết về thân phận một người đàn bà nào đó, chị đã hóa thân vào họ,

kể lại những câu chuyện của họ. Chị tâm sự rằng: “Tôi chỉ có một gương mặt. Còn

hình tượng người phụ nữ trong các tác phẩm của tôi có nhiều gương mặt khác nhau.

Tất nhiên, trong các gương mặt ấy có một phần gương mặt của tôi. Vì vậy, có thể tôi

viết chưa hay, chưa tới, nhưng tôi không viết giả tạo”. [81]

Với Y Ban, viết về người phụ nữ là để làm điểm tựa cho họ “vin vào và đứng

dậy”, để “chỉ cho phụ nữ những ranh giới, để họ biết dừng lại, khi họ là phụ nữ”. Võ

Thị Hảo cũng có những suy nghĩ tương tự, chỉ khác nhau ở cách diễn đạt mà thôi.

Phóng viên Nguyên Hằng trong bài phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo với nhan đề Suốt

đời chỉ mơ một giấc đã viết về chị như sau: “Vào nghề viết văn chưa lâu, song Võ

Thị Hảo đã nhanh chóng được người đọc biết đến. Chị được xếp vào hàng những cây

bút sắc sảo và giàu nữ tính. Những thân phận đàn bà, những con người nhỏ bé trước

bão lũ cuộc đời, “những gì rất riêng tư mà chẳng riêng tư chút nào”… [22] là điều

mà chị luôn trăn trở trên các trang viết của mình. Võ Thị Hảo đã dùng cụm từ “những

thân phận bé mọn” để chỉ những người phụ nữ, “những người mà tôi đã không quên

họ, nếu họ sống thì cũng vẫn tiếp thân phận bé mọn, vẫn ngơ ngác, lạc lõng, hẳn phải

có rất nhiều thời gian để vực dậy, đánh thức họ sang giấc mơ khác, cả với tôi cũng

vậy. Có thể suốt đời chỉ mơ một giấc mà thôi.” [22]

Những ý tưởng của chị được cụ thể hóa qua hình tượng các nhân vật nữ luôn

khát khao hạnh phúc mà hạnh phúc với họ chỉ là những ngôi sao xa không bao giờ

với tới được. Đó là Trang, một cô gái xinh đẹp và đoan trang yêu đêm đầu tiên và thất

tình ngay trong đêm đầu tiên để rồi trở thành một “người đàn bà cẩm thạch” với đôi

bàn tay và ánh mắt giá băng. (Bàn tay lạnh). Đó là Thuận, góa phụ đen kì bí, nguy

hiểm và quyến rũ tưởng như đã tìm được tình yêu nhưng rồi cái chết của người tri kỉ

trên môt chuyến bay đã vĩnh viễn cướp đi hạnh phúc muộn mằn (Góa phụ đen). Đó

là Hạnh, người phụ nữ luôn được đàn ông săn đuổi nhưng đã tự thu mình vào ốc đảo

cô đơn sau cuộc hôn nhân tan vỡ (Tiếng vạc đêm). Tất cả đều xinh đẹp, quyến rũ và

lương thiện. Nhưng tất cả họ đều rất cô đơn, cô đơn đến cùng cực trong sự săn đuổi

và những ánh mắt ngưỡng vọng của người khác giới.

Trong khi Y Ban và Võ Thị Hảo viết về phụ nữ một cách đầy ý thức thì Võ Thị

Xuân Hà lại viết rất hồn nhiên. Phóng viên Hiền Hòa đã nói về chị với một sự so sánh

thú vị: “Đôi mắt to với cái nhìn vừa cay nghiệt vừa dịu dàng, vừa trần trụi vừa mơ

mộng, Võ Thị Xuân Hà biến ảo và khó nắm bắt như màu sắc một hạt cườm dưới ánh

mặt trời. Những trang viết của chị cũng lóng lánh y hệt một thứ nhà gương mà người

ta có thể nhận diện đủ loại gương mặt của mình, để rồi lúc thì bật cười, lúc lại sợ

hãi.” [85]

Trong bài trả lời phỏng vấn ông Trần Quý Phiệt, Giáo sư khoa Tiếng Việt

trường Đại học Northeastern University, Hoa Kỳ, khi được hỏi: “Chị có viết với tư

cách nhà văn phụ nữ như các nhà văn phụ nữ tranh đấu cho nữ quyền có ở phương

Tây không?”, chị bày tỏ:

Khi ngồi vào bàn viết, tôi nghĩ mình viết về những con người, cho

những con người, nhưng vì tôi là phụ nữ nên việc thể hiện những xúc cảm nội tại sẽ

thiên giọng nữ hơn. Đã là nhà văn thì phải đấu tranh cho và vì quyền con người. Nếu

những tác phẩm của tôi góp phần tranh đấu cho hạnh phúc của một hay hàng vạn chị

em phụ nữ thì cũng đơn giản vì tôi là một nhà văn. Tôi không có ý chia thế giới ra

làm hai phần và xác định mình phải viết để tranh đấu cho một phần hai thế giới là

phụ nữ như mình. Chính bởi vì tôi không thích bất cứ một sự thương xót nào mà

người ta có thể quan niệm về sự tự ti, sự yếu đuối, sự kêu gọi thương hại từ phía phụ

nữ. [88]

Câu trả lời của Xuân Hà cho thấy rõ ràng chị không “ưu ái” nhân vật nữ. Chị

không xác định phải đấu tranh cho nữ quyền bằng việc chia thế giới ra làm hai phần

và xác định mình phải viết để đấu tranh cho một phần hai thế giới là phụ nữ như

mình. Thế nhưng, thế giới nhân vật của chị chủ yếu là những người đàn bà. Đó là một

cô Diễm biệt danh cáo Ecmơlin, thường gọi bố chồng là đồ tể, thích nghiền ngẫm

khoái cảm xác thịt và thường mơ những giấc mơ quái gở. Thế giới của Diễm là sự

pha trộn giữa cõi sống và cõi chết, giữa cõi âm và cõi dương và có vẻ gì đó không

bình thường. Nhưng hình như cũng nhờ thế mà người ta có thể hiểu nhau hơn (Đàn

sẻ ri bay ngang rừng). Đó là một cô gái theo đuổi nghề viết văn với tâm trạng nửa

bụi bặm, nửa thánh thiện, nửa muốn phá phách, nửa muốn xây dựng, nửa muốn sống

theo bản năng, nửa lại bị khuôn vào những phép tắc, những quy ước xã giao, những

định kiến xã hội (Người đàn bà và những con rối). Và nữa, một người đàn bà tên

Linh. Nàng không bao giờ thoả mãn với tình yêu và luôn muốn tìm cảm giác mới.

Nàng đã tự đánh giá mình quá cao và rồi chợt tỉnh ra khi nhìn thấy những nốt mụn đỏ

dưới chân mình (Mùa biển)... Những người đàn bà của Võ Thị Xuân Hà dù ngoan

ngoãn hay vụng trộm, phá phách cũng đều có một đặc điểm giống nhau: mặc kệ cuộc

sống nghèo khó hay sung túc, họ luôn bị trộn lẫn giữa thực tại và mộng tưởng, bị ám

ảnh bởi một quá khứ mông lung, một tương lai đầy bất trắc. Hà Phạm Phú trong bài

viết Ngôi nhà gương của Võ Thị Xuân Hà, đăng trên tạp chí “Người đẹp Việt Nam”,

đã có một sự tổng kết về hình tượng những người phụ nữ trong sáng tác văn chương

của Võ Thị Xuân Hà như thế. Ông viết: “Thế giới đàn bà của Hà là một thế giới

riêng, không lẫn vào ai. Những người đàn bà của chị hình như cũng là sự xáo trộn

giữa cái tốt và cái xấu, đầy lòng vị tha nhưng cũng ích kỉ, rất tự tin nhưng cũng dễ bị

cám dỗ, sống yên phận nhưng lại không chịu yên với số phận đã an bài. Mỗi người

phụ nữ là một bí ẩn”. [57]

Thật khó mà tìm ra một chân dung phụ nữ ổn định trong sáng tác của mỗi nhà

văn, bởi trong trang viết của họ có rất nhiều cuộc đời, rất nhiều số phận phụ nữ.

Nhưng tôi cho rằng khi đặt bút viết về những người đồng giới với mình, các nhà văn

nữ của chúng ta hẳn phải gửi gắm nhiều điều, mà những điều đó không nằm ngoài

việc mong muốn cho cuộc sống của người phụ nữ tốt đẹp hơn lên. Nhưng, những ý

tưởng tốt đẹp ấy có trở thành hiện thực hay không lại cần có một điều kiện. Đó là nhà

văn phải gặp được bạn đọc tri âm của mình. Hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện nay vẫn

còn có những trở ngại cho việc đó. Theo nhà văn Dạ Ngân là “do dân trí thấp, mà số

thấp lại nằm phần lớn ở phụ nữ, đó là thiệt thòi của nhà văn nữ nói riêng và cũng là

thiệt thòi của phụ nữ Việt Nam nói chung”. [95] Còn nhà văn Lý Lan thì cho rằng đối

với chị, “trong thời điểm hiện nay, khó khăn nhứt là việc đưa tác phẩm của mình vượt

qua cơ chế xuất bản, hệ thống phát hành, sự rụt rè của giới nghiên cứu phê bình, sự

hờ hững của công chúng, để đến được bạn đọc tri âm”. [94]

Thiết nghĩ, những khó khăn này không phải chỉ của riêng nhà văn nữ. Và dẫu

có khó khăn, hầu hết họ vẫn trung thành với các nhân vật là nữ. Nhà văn Dạ Ngân đã

tâm sự:

Tôi tiếp tục chung thủy với những nhân vật trung tâm là nữ. Nhưng

những tiểu thuyết tôi đang nghĩ tới tính xã hội rộng hơn, nhân vật nam không lép vế.

Ví như tôi đang thai nghén một tiểu thuyết về đề tài hậu chiến và hòa giải dân tộc,

nam và nữ đều được chăm sóc như nhau. Ví như sẽ có cuốn về cuộc chiến tranh 10

năm ở Campuchia, ở đó những nhân vật là người lính. Tôi đang cố gắng rời chất tự

truyện trong sáng tác của mình để tầm bao quát có thể rộng hơn. [95]

Chị đang cố gắng để tự vượt mình, vượt khỏi một sự thật thường thấy cả ở Việt

Nam cũng như trên thế giới là “các tiểu thuyết gia nữ thường đưa yếu tố tự truyện

vào”; vượt khỏi cái lối nghĩ của ai đó về nhà văn nữ rằng: “viết mãi thì cũng không ra

khỏi thân phận người nữ như chạy trời không khỏi nắng”. Đối với nhà văn Võ Thị

Hảo, vấn đề không phải ở đề tài vì đề tài nào cũng liên quan đến phụ nữ, mà ở thời

gian để viết ra nó mà thôi. Còn nhà văn Lý Lan thì “bật mí” rằng chị sắp xuất bản tiểu

thuyết Đàn bà.[94] Chẳng cần phải nói nhiều, chỉ cái tên tiểu thuyết cũng đã thể hiện

phần nào đó nội dung của tác phẩm.

Bằng kinh nghiệm, ai cũng biết nam giới và nữ giới khác nhau trong rất nhiều

phương diện, từ cách ăn, cách mặc, cách giải trí đến cách cảm xúc, cách suy nghĩ và

cách ứng xử trong cuộc sống... Nếu giữa hai phái tính có một sự khác biệt sâu rộng

như vậy thì trong lãnh vực văn chương liệu họ có khác nhau không? Theo nhà văn Dạ

Ngân, điểm khác biệt giữa một cây bút nam và một cây bút nữ khi viết về phụ nữ

được chính là lợi thế về giới tính của các cây bút nữ. “Sự tinh tế trong phát hiện chi

tiết, trong chiều sâu tâm lí và sự chân thực trong tính cách nhân vật… đó là thế mạnh

không ai giành được ở nhà văn nữ. Trên hết, sự trải nghiệm và chiêm nghiệm cá

nhân của người nữ mặc nhiên sẽ có sự đồng cảm lớn lao với nhân vật của mình, từ

đó khoảng cách giữa nhà văn với độc giả, nhất là độc giả nữ sẽ ngắn hơn nhiều”.

[95] Ý kiến của Võ Thị Hảo cũng tương tự như vậy khi chị cho rằng: “Về cơ bản là

giống nhau, chỉ khác ở chỗ phụ nữ viết về chính giới của mình thì sẽ phát hiện ra

nhiều nỗi đau hơn của phụ nữ và cảm thấy tình yêu ở một khía cạnh khác hơn là khía

cạnh hưởng thụ và chiêm ngưỡng như nam giới thường hay quan tâm trong các tác

phẩm của họ”. [89] Trong khi đó Lý Lan không thấy có sự khác biệt giữa cây bút nữ

và cây bút nam viết về phụ nữ mà chị chỉ thấy “sự khác biệt giữa người viết giỏi và

người viết không giỏi mà thôi”. [94]

Có lẽ mọi người đều có thể đồng ý là một cây bút nữ hẳn phải viết khác một

cây bút nam. Thế nhưng, không phải ai cũng cho rằng nhà văn nữ gặp nhiều khó khăn

trong nghề nghiệp hơn nhà văn nam giới. Tìm ra lí lẽ thuyết phục không phải là một

công việc dễ dàng. Chúng ta sẽ có dịp bàn về vấn đề này ở tiểu mục sau.

1.3.Vấn đề giới

Viết văn là một công việc rất khó. Dù là nam hay nữ, đã theo đuổi nghiệp văn

chương là phải đương đầu với nhiều thử thách. Tuy nhiên, có những khó khăn mà chỉ

nhà văn nữ mới vấp phải. Đó trước hết là những vất vả do thiên chức làm vợ, làm mẹ

mang đến cho người phụ nữ. Kế tiếp là trong một xã hội còn ít nhiều dấu ấn của tư

tưởng trọng nam khinh nữ như Việt Nam thì sự đánh giá của dư luận dành cho nhà

văn nữ còn khắt khe. Nhà văn Dạ Ngân và nhà văn Võ Thị Hảo đã chỉ rất rõ điều này

khi nói về những khó khăn của nhà văn nữ trong thời điểm hiện nay. Theo Dạ Ngân,

khó khăn cụ thể là thời gian. “Người phụ nữ bị xẻ đôi, xẻ ba cho nhiều nghĩa vụ:

nghĩa vụ công sở, nghĩa vụ gia tộc, nghĩa vụ gia đình”. Chị nhấn mạnh, nếu người

đó là nhà văn nữa thì sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa bởi, “người họ lúc nào

cũng căng như sợi dây đàn, chạm đến là rung mà cũng có thể đứt bất cứ lúc nào”.

Chị cho rằng, khó khăn chung của tất cả các nhà văn nữ là áp lực xã hội khi phán xét

họ: viết thế nào là vừa liều lượng để không bị kêu là hay chính trị hoá, hoặc viết về

tình dục sao cho không bị kêu là quá lộ liễu, hoặc viết sao cho không mang tiếng

“đem đời mình và những người chung quanh ra bới”.[95]

Với Võ Thị Hảo vấn đề không chỉ là thời gian mà còn ở quan niệm của người

đàn ông về nghề viết văn. Họ không coi đó là nghề nghiệp của phụ nữ mà lại cho

rằng ngồi vào bàn viết là một hành động phí phạm thời gian. Với nhiều người đàn

ông, chỗ của phụ nữ là ở trong bếp. Và do đó: “Phụ nữ Việt Nam rất khó để trở thành

nhà văn chuyên nghiệp vì phải gánh trên vai quá nhiều trách nhiệm trong gia đình và

trong xã hội”. [89] Thực ra, đây không chỉ là vấn đề của nhà văn nữ Việt Nam, mà ở

nhiều nước khác người phụ nữ cũng phải đối mặt với khó khăn này. Iran là một ví dụ.

Những người phụ nữ viết tiểu thuyết ở Iran thường phải chấp nhận một cuộc sống gò

bó, khuôn khổ hơn các đồng nghiệp nam giới của mình. Họ không được khuyến

khích trong việc bày tỏ những tâm tư nguyện vọng của bản thân thông qua việc viết

lách. Hôn nhân, gia đình, chồng con là những gì ngăn cản người phụ nữ đến với nghề

viết: "Tôi thường xuyên phải tranh cãi với chồng vì anh ấy luôn cho rằng văn chương

không thể coi là một nghề được", Fariba Vafi, 43 tuổi, người từng giành 3 giải

thưởng quan trọng của Iran cho cuốn tiểu thuyết My Bird tâm sự. Một nhà văn nữ ở

Iran thường phải đối mặt với hai trở ngại chính: chính quyền và gia đình. Ở phía

chính quyền, Bộ Văn hóa nước này sẽ kiểm duyệt tất cả các tác phẩm trước khi xuất

bản. Cơ quan kiểm duyệt sẽ loại trừ tất cả các tác phẩm đề cập đến sex. Những từ như

"nude", "ngực", "vú" đều phải loại trừ ra khỏi tác phẩm, bất kể nó được viết dưới

hình thức ẩn dụ hay không nhằm mục đích ám chỉ đến cơ thể con người. Và thế là

trong quá trình viết, các nhà văn nữ đã phải “lách” để tránh các từ “phạm húy”. Trở

ngại thứ hai đối với các nhà văn nữ Iran là những phản ứng từ phía gia đình, bởi họ

hàng của nhà văn thường tự liên hệ những câu chuyện được mô tả trong tác phẩm với

những nhân vật và câu chuyện có thật trong cuộc sống. Vafi kể: "Tôi thường xuyên

nhận được những cú điện thoại từ những người họ hàng của mình, kiểu như: "Tôi

biết cô đang viết về ai rồi đấy nha", còn chồng tôi thì phàn nàn: "Em chẳng giữ được

chút gì bí mật trong đời sống của chúng mình cả”. [45]

Theo chúng tôi nghĩ, so với cách đây mấy chục năm, người phụ nữ Việt Nam

đã có nhiều cơ hội để khẳng định mình. So với phụ nữ thế giới, phụ nữ Việt Nam

cũng không phải là những người bị phân biệt đối xử quá đáng như phụ nữ các nước

đạo Hồi. Tuy nhiên, qua chuyện trò với các nhà văn nữ, chúng tôi vẫn nhận thấy

trong xã hội Việt Nam hiện đại, người phụ nữ vẫn chưa hoàn toàn bình đẳng với nam

giới. Đó là lí do mà nhà văn Dạ Ngân phải dùng cụm từ “nếu được giải phóng triệt để

về mặt tự do cá nhân” và nhà văn Bích Thuận dùng cụm từ “không quá phụ thuộc

vào nam giới”. Để cải thiện tình hình này, sự vùng vẫy của những người phụ nữ sẽ

chẳng đi đến đâu nếu không có sự trợ giúp của những người đàn ông. Nhà văn Y Ban

khi được hỏi về vai trò của người đàn ông trong công cuộc giải phóng phụ nữ đã nói

rằng:

Tôi có suy nghĩ là, mỗi người phụ nữ phải luôn luôn có ý thức tự cởi

trói cho mình khỏi những ràng buộc. Họ sẽ phải giải quyết những vấn đề của chính

mình trên con đường đi tới sự thừa nhận của toàn xã hội. Ở nước ta, và nhiều nước

khác, kể cả những nước phát triển, nơi phụ nữ được phát huy tối đa quyền bình đẳng

của mình, vẫn có các ủy ban, các hiệp hội bảo vệ phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Nhìn, để thấy rằng, phụ nữ, dù thế nào cũng là những người yếu đuối và cần được

bảo vệ, được chia sẻ. Phụ nữ cần nhận được từ phía những người đàn ông sự khích

lệ, tình yêu thương. Đó còn là trách nhiệm của người đàn ông, vì họ hiểu hơn ai hết,

rằng người phụ nữ mang một sứ mệnh quan trọng, có ảnh hưởng lớn với người đàn

ông và những đứa con. Chính là những người đàn ông sẽ góp phần tạo ra một thế

Qua lời phát biểu của nhà văn Y Ban, chúng ta thấy chị hoàn toàn ý thức được

giới bình đẳng hơn”. [81]

vấn đề “tự cởi trói”. Nhưng có một nhà văn tuy nhận thức rất rõ vấn đề nhưng lại

không dám sống khác đi, đó là nhà văn Trần Thị Trường. Chị từng giãi bày:

Có một điều chắc chắn rằng tôi đã sống một cuộc sống đầy mâu

thuẫn. Tôi tận mắt thấy những biểu hiện văn hoá của người xứ khác, nhưng không

dám thay đổi và bước theo những ước muốn của mình. Tôi cố trải mình trong mọi nỗi

vất vả của một người phụ nữ Việt Nam, chấp nhận bất công. Có thể khao khát thay

đổi và muốn người khác, thế hệ khác có cuộc sống khác đi, công bằng hơn, văn minh,

văn hoá hơn đã khiến tôi say mê viết về những thân phận phụ nữ”.[102]

Cũng như Trần Thị Trường, các nhà văn nữ của chúng ta bằng việc viết về

người phụ nữ đều đã có những đóng góp đáng kể trong công cuộc giải phóng phụ nữ.

Trong một số truyện ngắn của Võ Thị Hảo, tiếng nói đòi nữ quyền thể hiện rất mạnh

mẽ. Ở những truyện dạng này, nhà văn thường dùng hư cấu khi sáng tạo ra những

nhân vật nữ không có thực trong cuộc đời để gửi gắm ý đồ nghệ thuật của mình.

Truyện ngắn Hành trang của người đàn bà Âu Lạc là tiếng kêu thương của người

phụ nữ Việt Nam về gánh nặng quá sức mà họ đang phải mang ở trên vai. Theo nhà

văn, chính những người đàn ông phải chịu trách nhiệm về nỗi khổ đau của phụ nữ.

Thời phong kiến, để kìm giữ người đàn bà, họ đặt ra triết lí, đặt ra tôn ti, đặt ra công,

dung, ngôn, hạnh. Đến thế kỉ giải phóng phụ nữ, tưởng như túi hành trang của người

đàn bà vơi bớt phần nào, nhưng chẳng những không vơi bớt đi, mà còn nặng thêm bởi

những mĩ từ của thời đại mới. “Túi đầy những mĩ từ ca ngợi đàn bà. Và mỗi mĩ từ lại

óc ách đầy những giọt mồ hôi, nước mắt và cả máu của đàn bà, những sợi tóc bạc,

những vệt nhăn nheo trước tuổi…”. Và cho đến thời hiện đại, người đàn bà phải rơi

nước mắt, bởi họ ý thức được gánh mình mang trên vai sẽ mỗi ngày chỉ nặng hơn mà

thôi. “Người đàn bà Âu Lạc hiện đại khóc. Nàng nhấc hành trang lên vai. Hành

trang của nàng nặng hơn của bà Dạ Dần và mẹ Âu Cơ, vì trong gánh của bà Dạ Dần

và mẹ Âu Cơ chưa có triết lí, chưa có bình đẳng và những mĩ từ”. [25]

Bằng tác phẩm của mình, nhà văn Võ Thị Hảo đã chứng minh vai trò của nhà

văn nữ trong công cuộc giải phóng phụ nữ. “Họ là những người tiên phong, nhu cầu

này nằm trong máu của họ…”. Chị thấy đáng buồn khi đa phần mọi người đều hiểu

bình đẳng giới là việc “mấy mụ đàn bà đòi quyền làm chồng”. Thật là hoàn toàn sai

lầm nếu hiểu như vậy. “Bình đẳng giới không cho riêng ai. Nó là nhu cầu tự thân về

những tổn thương xẩy ra do sự mất cân bằng của xã hội đem lại. Khi những kẻ yếu bị

kẻ mạnh ức hiếp, rồi chính kẻ mạnh cũng đến lượt bị tổn thương gián tiếp vì không

một kẻ mạnh nào có thể tách rời hoàn toàn được những kẻ yếu...” [89] Những tác

phẩm của các chị đã giúp người phụ nữ hiểu mình hơn, có tiếng nói mạnh mẽ hơn với

bất công. Nhưng không biết những truyện ngắn của họ đến được tay bao nhiêu phụ

nữ? Theo nhà văn Dạ Ngân thì so với phụ nữ Hàn, phụ nữ Nhật, phụ nữ đạo Hồi, phụ

nữ các nước Nam Á, phụ nữ Việt Nam nói chung rất có ý thức vùng dậy. Nhưng tác

dụng của nhà văn nữ trong xã hội Việt Nam chưa cao vì số dân trí thấp nằm phần lớn

ở phụ nữ. Nhà văn Lý Lan cũng nghĩ rằng lẽ ra nhà văn nữ có thể đóng một vai trò

lớn hơn thực tế hiện nay.

Cũng là một khía cạnh của vấn đề giới, viết về tình dục là một lĩnh vực khá

nhạy cảm trong các sáng tác của các nhà văn. Một nhà văn nam nếu có quá tay một

chút thì cũng không sao, nhưng nếu là với một nhà văn nữ thì rất có thể họ sẽ bị đánh

giá thế này thế nọ về mặt đạo đức. Nhà văn Dạ Ngân từng nói một cách cay đắng là

hình như có lúc chị từng bị kêu là “con này vén cao váy quá”. [95] Thật đáng ngạc

nhiên khi người ta dịch, in và đọc ào ào tác phẩm của các nhà văn nữ trẻ của Trung

Quốc, những người viết về tình dục bạo liệt hơn nhiều lần các nhà văn Việt Nam thì

chẳng thấy ngăn cấm gì, thế mà đối với các nhà văn nữ Việt Nam thì dường như bị

“soi” quá kĩ. Thế mới biết dư luận xã hội Việt Nam còn khe khắt hơn cả Trung Quốc,

nơi xuất phát của những tư tưởng Nho giáo hà khắc trói buộc người phụ nữ trong suốt

thời kì phong kiến. Xã hội Trung Quốc ngày nay đang mất dần đi những giáo điều để

trở lại với những nhu cầu tự nhiên trần tục. Xã hội như một cỗ máy chạy hết tốc lực

cốt làm ra của cải vật chất, còn con người phải tìm lấy một cách để tự lo cho mình, và

việc đó được chung quanh sẵn sàng khuyến khích, miễn nó không đi ngược trào lưu

chung và ngăn cản tự do người khác, tức là không vi phạm pháp luật. So với xã hội

Trung Hoa cũ đầy húy kị và khuôn mẫu ràng buộc con người, thì tinh thần chủ yếu

chi phối xã hội hiện đại là tinh thần giải phóng. Lớp trẻ không giấu diếm rằng họ

muốn được giàu sang sung sướng, muốn được nếm trải mọi niềm lạc thú trên đời.

Hơn thế nữa, họ muốn khẳng định mình, muốn tự khám phá và trình ra cho thế giới

thấy mình là người thế nào, muốn nổi tiếng bằng mọi giá có thể có. Viết văn là một

trong những cách làm để nổi tiếng. Một số bạn trẻ Trung Hoa viết truyện về chính

mình, và họ đã nổi tiếng bởi họ nói lên tiếng nói của lớp trẻ Trung Hoa thời hiện đại.

Trong tác phẩm của mình, họ không ngần ngại phô bày những khao khát bản năng.

Thiếu nữ đánh cờ vây của Sơn Táp, Điên cuồng như Vệ Tuệ của Vệ Tuệ, Búp bê

Bắc Kinh của Xuân Thụ, Xin lỗi, em chỉ là con đĩ của Tào Đình đều nói về tình dục

ở những mức độ đậm nhạt khác nhau. Dù có nhiều trang tả cảnh ái ân, song không

thể nói những trang truyện này mang tính cách khiêu dâm. Cũng có một số người

Trung Quốc lo lắng, họ cho rằng tự do sẽ làm cho lớp trẻ hư hỏng. Nhưng xem ra

những người ấy đã lo quá xa. Vốn từ thời trung đại đã có sự giao lưu rộng rãi với cả

thế giới, giờ đây, văn minh Trung Hoa lại đang tiếp tục làm giàu cho bản sắc của

mình bằng những cuộc đối thoại thông minh với mọi nền văn minh khác.

Thế nhưng ở Việt Nam, xã hội vẫn chưa cởi trói hoàn toàn cho các nhà văn,

đặc biệt là nhà văn nữ. Sau Đỗ Hoàng Diệu, Y Ban cũng thường nhận được những

phản ứng khá gay gắt từ phía dư luận xã hội và cả từ phía các nhà phê bình. Mới đây

nhất, tập truyện I am đàn bà của chị đã bị ngưng phát hành. Nhưng đọc những bài trả

lời phỏng vấn của chị về vấn đề này, chúng tôi thấy chị có định hướng rất rõ ràng khi

viết về sex.

Theo tôi, tình dục cổ xưa như loài người vậy, bởi nó trước hết là con

đường duy trì nòi giống cho nhân loại. Nhưng sex không chỉ dừng lại ở đó. Để có một

em bé, người ta cần đến "x lần", hai em bé - "2x lần"… nhưng trong một đời người,

có đến hàng trăm, hàng nghìn cái "x lần" như vậy. Đâu phải tất cả đều nhằm để duy

trì nòi giống. Vậy thì sex còn là phương tiện giải trí và văn hóa. Văn chương, theo tôi

cần tôn trọng sex ở khía cạnh đó. Còn viết về sex tục hay không tục là do câu chữ.

Nếu mình viết trực tiếp, thẳng tuột về nó như một thứ nhu cầu bản năng, kích động ở

người đọc những ý nghĩ không lành mạnh, không trong sáng thì tác phẩm sẽ trở nên

phản cảm. Nhưng nếu tác giả khéo léo, thay thế những khái niệm về các bộ phận, các

hành vi của con người bằng nhiều cách diễn đạt văn chương hơn, phủ lên chi tiết

“tục” những ý nghĩa rất người, đưa trí tưởng tượng của độc giả đến các vấn đề nhân

văn thì khi đó, người đọc sẽ không "lăn tăn" đến chuyện đề tài nữa”. [83]

Hầu như các nhà văn đều xác định được sẽ viết khéo léo và chừng mực, tóm lại

là thể hiện một cách có nghệ thuật, mang tính thẩm mĩ. Nhưng trên trang viết, cái

ranh giới giữa thanh và tục thật quá mong manh, nên phải nói rằng, viết về lĩnh vực

này nhà văn cần đến một bản lĩnh vững vàng và chỉ như thế thôi cũng vẫn chưa đủ,

mà xã hội cũng cần phải có một cái nhìn “thoáng” hơn đối với họ. Nhà văn Dạ Ngân

đã nói: “Xã hội Nho giáo Việt Nam vẫn chưa cởi mở bằng Nho giáo gốc là Tàu, vì

vậy cái trần cho nhà văn Việt Nam vẫn rất thấp”. [95] Quả đúng như vậy! Dường

như nền văn học của chúng ta còn có một khoảng cách khá xa so với thế giới. Một

trong những cách khắc phục là nâng cao cái trần cho nhà văn của chúng ta rộng

đường sáng tạo. Trên thực tế, xã hội Việt Nam cũng đã có những bước chuyển để hòa

nhập với nền văn hóa toàn cầu. Đây đó trên các phương tiện thông tin đại chúng,

người ta đã bàn luận công khai về những vấn đề mà bao lâu nay vẫn được cho là cấm

kị. Trong một bài phỏng vấn có tên “Vẻ đẹp dâng hiến” được phóng viên Thảo

Nguyên thực hiện đăng trên www.dddv.com.vn, chúng ta được biết ý kiến một số

nhà văn nữ về sex, một lĩnh vực đã trở nên quá cũ với thế giới, nhưng ở Việt Nam

vẫn còn được nhìn nhận một cách khá dè dặt.

Các nhà văn nữ Việt Nam được hỏi đều cho rằng: văn chương thời hội nhập đề

cập nhiều đến sex bởi đó là nhu cầu tự thân của văn học. Nhà văn Thùy Dương, tác

giả tiểu thuyết Ngụ cư được giải thưởng của Hội nhà văn 2005 là người đầu tiên

khẳng định điều đó. Chị viện dẫn những lí lẽ rất xác đáng từ truyền thống văn hóa:

“nhiều hội làng ở vùng Đồng bằng sông Hồng trước đây vẫn có tục lệ rước và diễn

tả hoạt động tình dục để cầu cho mưa thuận gió hòa cho con người và mùa màng

sinh sôi nảy nở” cho đến thực tế cuộc sống: “thử tưởng tượng cuộc sống nếu thiếu

tình dục, sẽ không còn cuộc sống nữa với đúng nghĩa của nó” và đi đến kết luận:

“Tôi cho rằng không có cái gì của con người lại xa lạ với văn chương. Bởi thế sex là

nhu cầu tự thân của văn học”. [103] Theo chị, trong thời hội nhập, nhà văn đề cập

đến sex nhiều hơn chẳng qua vì môi trường xã hội có cởi mở và ít thiên kiến hơn.

Nhà văn Y Ban và Võ Thị Xuân Hà cũng đồng tình với Thùy Dương. Theo các chị,

thời Hồ Xuân Hương, thời Nguyễn Du chưa có khái niệm gì về hội nhập mà các cụ

cũng viết rất bạo dạn. Đó không hẳn là chuyện sex mà còn là chuyện đời.

Bên cạnh đó, các nhà văn bày tỏ quan điểm của mình về dụng ý nghệ thuật khi

sử dụng các cảnh có sex trong tác phẩm của mình. Với Y Ban, khi đưa sex vào trong

tác phẩm chị nhằm cả mục đích lẫn phương tiện.

Mục đích mượn cái nọ để nói cái kia là rõ rồi. Còn phương tiện?

Trước đây một thời gian dài trong văn chương nước ta dường như các nhà văn đều

né tránh nói đến sex, mà có nói đến thì nhà xuất bản cũng cắt đi. Sex là một đề tài bị

bỏ ngỏ trong nhiều thập niên của văn học nước nhà. Khi nó bị bỏ trống quá lâu thì

nó sẽ được khai thác trở lại. [103]

Với Thùy Dương thì sex chỉ là phương tiện và luôn luôn chỉ là phương tiện để

nhà văn tìm đường đến với mục đích của mình.

Không bao giờ lầm lẫn giữa phương tiện và mục đích. Và tất nhiên

liều lượng cũng tùy mỗi người, tùy từng phong cách thể hiện. Với tôi đề cập đến sex

để thể hiện lòng khao khát sống, tính cách mạnh mẽ, nỗi buồn đau hay chính hạnh

phúc... của nhân vật. [103]

Chúng ta đang sống trong một xã hội hội nhập, văn học cũng không nằm ngoài

quy luật ấy. Trong dòng chảy của văn học dịch hiện nay ở nước ta, các tác phẩm của

các cây bút nữ Trung Quốc đã thực sự khiến các nhà văn nữ quan tâm. Không ít trong

số họ đã trăn trở suy nghĩ để tìm ra một hướng bứt phá cho văn học nữ trong nước.

Nhà văn Trần Thùy Mai không ngại ngần khi bày tỏ chị thích Vệ Tuệ bởi “văn cô ấy

rất bạo nhưng đầy nữ tính” [98]. Nhà văn Trần Thanh Hà cũng thích Vệ Tuệ, chị cảm

nhận được nét tính cách tự do và tự tin qua những trang văn của cô.

Đọc Vệ Tuệ thấy đời sống đô thị Trung Quốc, thấy những vấn đề của

giới trẻ, đặc biệt của nữ giới, hiện lên sinh động và sắc nét. Đặc biệt là khía cạnh

tình dục trong sinh hoạt của lớp trẻ Trung Quốc hiện nay. Tôi coi đây là một thái độ

cởi mở, giải phóng, không phải là khuyến khích thị hiếu thấp hèn như ta thường nghĩ,

mà là tự do, tự tin, cho rằng những cái gì thuộc về con người thì không xa lạ với con

người. [91]

Nhà văn Võ Thị Hảo lại thích Cửu Đan hơn vì chị đánh giá Cửu Đan lớn hơn

nhiều đồng nghiệp ở chỗ văn có tư tưởng và có tính nhân loại. Nhìn chung các nhà

văn nữ Việt Nam đều không phê phán yếu tố sex trong văn chương của các đồng

nghiệp nữ Trung Quốc. Trái lại họ còn cho rằng đó là sự phản ánh cuộc sống như nó

đang tồn tại chứ không phải như người ta muốn nó tồn tại. Chính cách phản ánh cuộc

sống như vậy tạo nên nét hấp dẫn của văn chương. Các chị cho rằng văn học nữ trong

nước cũng có những động thái tương tự, nhiều dấu hiệu cho thấy các nhà văn, nhất là

các nhà văn trẻ, đang tìm cách bứt phá để vượt qua ngưỡng của thời đại, mà trước hết

là vượt qua mặc cảm hổ thẹn của phái nữ. Nhưng về mặt này, so với các đồng nghiệp

nữ Trung Quốc, các nhà văn nữ Việt Nam còn rất dè dặt. Dè dặt đối với bản thân và

đối với xã hội. Chỉ với một vài thử nghiệm, một vài phá cách, chưa phải là táo bạo gì

lắm, nhưng họ đã bị răn đe, nhắc nhở, và có lẽ họ cũng tự thấy xấu hổ với mình nên

thôi luôn. Vả lại, mạnh dạn và bứt phá thì không kém, nhưng quyết định hay dở và

lớn nhỏ lại là nền văn hóa, "khoảng thảo nguyên" sau lưng các nhà văn, và đương

nhiên, tài năng từng người một. Các nhà văn nữ Việt Nam cũng nhận thấy xã hội Việt

Nam và Trung Quốc quá khứ và hiện tại có nhiều điểm tương đồng. Nhưng theo nhà

văn Trần Thanh Hà thì “vấn đề là cái nữ quyền ở xã hội ta hiện nay chưa mạnh, do

đó nữ quyền trong văn chương nữ cũng chưa mạnh”. [91] Cuối cùng, điều mà tất cả

chúng ta mong muốn cũng sẽ giống như nhà văn Trần Thùy Mai là “mọi sự bứt phá

phải dẫn đường đến cái đẹp, và văn học nữ dù trực diện, chát chúa cũng trực diện,

chát chúa một cách đáng yêu”. [98]

Có lẽ bản chất của tình dục đã hấp dẫn (hình như không một cái gì có thể vừa

ám ảnh vừa bất thường hơn thế), nên cứ đưa được nó vào tác phẩm một cách nguyên

lành cũng đã là một thành công. Nhà văn Thuận, một nhà văn Việt Nam hiện đang

sinh sống ở Pháp đã từng nói: “Thật sai lầm khi bắt tình dục phải đeo kính, đội mũ,

trịnh trọng đóng vai các nhà tư tưởng, các nhà triết học, các nhà nữ quyền...” [101]

Với tầm hiểu biết rộng do có nhiều năm sinh sống ở Nga, ở Pháp, cái nhìn của

Thuận về vấn đề này mang chúng ta đến gần với thế giới hơn. “Tôi không ngạc nhiên

khi một số nhà văn nữ ở Việt Nam đòi quyền tự do phát biểu về tình dục. Nhưng sinh

sống tại một nơi coi sex như cơm ăn nước uống hàng ngày, tôi chẳng có lý do nào để

phải đấu tranh cho nó. Công việc đó, các nhà văn nữ Tây Âu đã thực hiện từ thế kỉ

trước. Chính vì vậy, tôi chỉ có quyền coi tình dục như những đề tài sáng tác khác.

Nếu viết về nó, tôi cũng bắt buộc phải tìm ra một nghệ thuật riêng. Sự dũng cảm

trong trường hợp của tôi là không cần thiết, thậm chí nực cười”. [101]

Viết về tình dục, mở được cánh cửa nội tâm con người. Nó bày được những

trạng thái tâm, sinh lý thường nhật. Phụ nữ viết về sex để diễn đạt những cảm quan

của mình. Họ cũng có trí tưởng tượng như nam giới nhưng xã hội đã dạy họ rằng phụ

nữ chỉ được quyền làm cái này, tránh làm cái kia, hoặc làm như thế mới là người phụ

nữ tốt. Viết về ngôn ngữ thân xác giúp cho phụ nữ giải tỏa những ẩn ức đó. Đồng

thời nó cũng là một kinh nghiệm sống trong vô vàn những kinh nghiệm sống khác mà

người viết đưa vào tác phẩm của họ. Hơn thế nó là một hình thức nghiệm sinh, một

hành trình qua đó con người tìm ra căn cước tình dục mà cũng là căn cước con người

đích thực của mình. Ngoài ra, nó còn phô bày được hiện thực xã hội, khía cạnh của

đời sống thực thường được ẩn giấu sau màng lưới thanh lọc của quy luật văn chương

hay xã hội. Quy luật văn chương hay xã hội này được thiết lập trên đặc quyền nam

tính, nó không những trói tay, buộc chân người viết nữ nói chung mà còn vây hãm

người phụ nữ Việt Nam trong những giáo điều khe khắt nói riêng.

Trong kho tàng văn học Việt Nam thời xưa, người viết nữ đề cập đến tình dục

nhiều nhất là nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bà dùng thơ ca để phản kháng mãnh liệt sự đối

xử bất công của xã hội đã chèn ép, đánh giá thấp thân phận người phụ nữ qua bản

thân của chính bà. Ngày nay những tác phẩm văn chương của bà được xã hội chấp

nhận, ca tụng nhưng dĩ nhiên vào thời của bà, ắt chịu nhiều dè bỉu và phê bình gay

gắt. Ở miền Nam trước năm 1975, các nhà văn nữ như Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn

Thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Trùng Dương… đã không ngại ngần khi có những trang

viết về tình dục. Nhưng viết về sex là một thử thách dành cho những cây bút nhiều

năng lực và bản lĩnh. Người viết non tay dễ dàng cho những dòng chữ mình viết rơi

xuống sự khiêu dâm thấp kém. Ngược lại, với người viết cao tay, có thể soi rọi và

làm thăng hoa những ẩn ức bí mật chìm sâu trong thế giới tâm linh, bản năng khuất

lấp thân phận con người. Phạm Thị Hoài là một nhà văn nữ nằm trong số ít người

viết cao tay đó. Đọc Man Nương, Ám thị của chị, người đọc không hề thấy gợn lên

cảm giác gợi dục thấp hèn. Chị là nhà văn viết có quan niệm hẳn hoi. Ai đã từng đọc

tiểu luận Viết như một phép ứng xử (Tạp chí Sông Hương số 39 – 1989), Một trò

chơi vô tăm tích (Báo Văn Nghệ ngày 17-2-1990) của chị sẽ thấy rõ điều đó. Trên

thực tế, tình dục chỉ là một khía cạnh của đời sống. Viết về tình dục là viết về một

khía cạnh nhân bản của đời sống con người và là lựa chọn riêng của người viết.

Người viết nữ Việt Nam chọn viết về tình dục là chọn con đường chông gai nhiều tai

tiếng và sóng gió so với những con đường thênh thang khác.

Tóm lại, các nhà văn nữ Việt Nam hiện nay có quan niệm khá rõ ràng về người

phụ nữ hiện đại. Tuy trong một số vấn đề, ý kiến của họ còn có những điểm khác

biệt, nhưng nhìn chung họ đều đánh giá cao khả năng của người phụ nữ. Với tư cách

là người phụ nữ, họ nhìn ra được những niềm hạnh phúc của người phụ nữ thường

song hành với sự hi sinh. Người phụ nữ Việt Nam có nhiều phẩm chất tốt đẹp: chăm

chỉ, cần kiệm, thông minh, chung thủy, năng động… nhưng có nhược điểm là còn thụ

động, không dám thay đổi. Nhiều người có hiểu biết rộng, muốn thay đổi vị thế của

mình, nhưng vẫn không dám sống như mình mong muốn, mà chấp nhận trải mình

trong mọi nỗi vất vả của một người phụ nữ Việt Nam. Với tư cách là nhà văn nữ, họ

nhận ra những vinh quang và cay đắng của nghề nghiệp. Họ đều chung thủy với

nghiệp văn chương và đang miệt mài phấn đấu để khẳng định mình. Họ có một điểm

giống nhau là ít để ý đến dư luận, ít quan tâm đến các giải thưởng văn học. Những

tâm sự của các nhà văn nữ đã giúp chúng ta hiểu về họ hơn và từ đó, đến gần hơn với

những hình tượng văn học mà họ dồn nhiều tâm huyết sáng tạo nên.

CHƯƠNG 2

NGƯỜI PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI:

ĐỐI TƯỢNG THẨM MĨ CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ

Với tiêu đề Người phụ nữ hiện đại: Đối tượng thẩm mĩ của các nhà văn nữ,

chúng tôi muốn đề cập đến một trong rất nhiều dạng nhân vật trong sáng tác của các

nhà văn nữ: đó là những người phụ nữ sinh sống và làm việc ở thành thị, có nếp sống,

nếp nghĩ của con người thời đại hôm nay.

Một điều không thể phủ nhận là xã hội Việt Nam đương đại đã có cái nhìn cởi

mở hơn đối với người phụ nữ. Chính vì vậy, các nhà văn nữ có điều kiện xông xáo

vào nhiều lĩnh vực của hiện thực để đem đến những trang văn về cuộc sống đa chiều,

họ cũng có đủ trình độ chuyên môn để đưa ra những tìm tòi đổi mới về nghệ thuật.

Các nhà văn nữ có khả năng hóa thân vào nhiều kiểu nhân vật khác nhau, và nhờ vậy,

đối tượng thẩm mĩ của họ là vô cùng phong phú.

Đất nước ta đã bước ra khỏi cuộc chiến tranh giành độc lập được hơn ba mươi

năm và đang từng bước hội nhập với thế giới. Người phụ nữ của xã hội hiện đại hôm

nay đã khác xưa rất nhiều. Họ có thể nắm giữ các vị trí cao hơn trong bộ máy nhà

nước nhưng cũng phải cố gắng nhiều để vừa hoàn thành công việc xã hội, vừa làm

tròn nghĩa vụ của mình với gia đình. Người phụ nữ hiện đại cũng không chỉ biết sống

cho người khác như thủa xưa, mà họ cũng đã biết trân trọng, yêu quý bản thân mình

hơn. Chính những điểm tương đồng và khác biệt với hình ảnh người phụ nữ truyền

thống đã tạo nên nét hấp dẫn cho người phụ nữ hiện đại. Có lẽ cũng vì lí do này mà

họ đã trở thành đối tượng thẩm mĩ của nhiều nhà văn, đặc biệt là các nhà văn nữ.

2.1. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với xã hội

Con người chúng ta, không ai có thể sống mà tách khỏi môi trường xã hội.

Trước kia, người phụ nữ chỉ quanh quẩn với chợ búa, bếp núc. Những con người mà

họ thường xuyên tiếp xúc chủ yếu là anh em họ hàng và những người hàng xóm.

Ngày nay, người phụ nữ đã được đi học, đi làm và gánh vác những trọng trách. Các

mối quan hệ xã hội của họ dần trở nên phức tạp hơn khiến cho đời sống tâm hồn cũng

phong phú hơn. Các nhà văn nữ đương thời bằng vào sự trải nghiệm, chiêm nghiệm

của cá nhân đã chứng tỏ ưu thế của mình trong việc mô tả những trăn trở, thao thức,

dằn vặt nội tâm của người phụ nữ trong các mối quan hệ xã hội chồng chéo.

Về tiểu thuyết, các tác phẩm tiêu biểu cho mảng đề tài này có các Gia đình bé

mọn của Dạ Ngân, Tường thành của Võ Thị Xuân Hà, Lời cuối cho em của Trần

Thị Trường, Phố Tầu và Paris 11 tháng 8 của Thuận.Về truyện ngắn có: Miền bọt,

Vũ điệu địa ngục của Võ Thị Hảo,Tai nạn của Lý Lan, Nghề giáo của Võ Thị Xuân

Hà, Hồ đêm thăm thẳm của Trần Thùy Mai và Nô tì được trang sức của Trần Thị

Trường.

Với tiểu thuyết Gia đình bé mọn, nhà văn Dạ Ngân đã xây dựng thành công

nhân vật phụ nữ mạnh mẽ và tự chủ giữa những biến cố lớn lao của xã hội Việt Nam.

Nhân vật Mỹ Tiệp cho ta cái nhìn về người phụ nữ Việt Nam qua các giai đoạn lịch

sử đáng nhớ: thời chiến tranh giành độc lập, thời xây dựng chính quyền non trẻ, thời

kì bao cấp cho đến ngày nay mở cửa hội nhập. Mười bốn tuổi, cô tham gia Cách

mạng, sống những ngày tháng mà lằn ranh của sự sống và cái chết vô cùng mỏng

manh. Chiến tranh, khói lửa, giặc giã đẩy cô tới hôn nhân mà ngay từ hồi mới cưới cô

đã nhận ra sự chênh vênh, bất ổn của nó. “Hồi mới cưới, con tim nàng không chiụ

rung động, nó cứ lên tiếng rằng đây không phải người đàn ông của mình, đây là cuộc

xô đẩy của chiến tranh, của bom đạn giặc giã nước lụt bụi cây sạp xuồng”. Đất nước

hoà bình, Tiệp cũng như bao người dân Nam bộ mong chờ một cuộc sống tốt đẹp, no

ấm hơn. Nhưng thực tế đã hoàn toàn ngược với sự tưởng tượng của họ. Như tất cả

mọi công chức trong cơ quan, cô cũng trải qua một cuộc sống vô cùng thiếu thốn về

vật chất trong một căn phòng của khu gia binh ngụy có “lũ chuột chạy rồ rồ trên mái

nhà”, với cái giường chín tấc và chiếc chiếu lác loại rẻ nhất. Vốn sinh ra và lớn lên ở

nơi miền Tây quanh năm không biết đến thiếu đói, cô cũng phải đối mặt hàng ngày

với sự kham khổ thời bao cấp: gạo sổ vón cục và bo bo hầm. Những thiếu thốn về vật

chất thời ấy đã làm cho con người phải vật lộn để tồn tại, nhưng cách ứng xử với

thiếu đói làm họ khác nhau. Tuyên, chồng Tiệp trở nên thực dụng hơn. Anh đã biết

lợi dụng vị trí công tác của mình để xoay sở lúc bao cám, lúc buồng chuối để có cuộc

sống thoải mái hơn. Trái lại, Tiệp sống nặng về tình cảm, nghèo khổ mà lương thiện.

Và cũng chính trong hoàn cảnh khó khăn đó, Tiệp nhận ra mình không thể hòa hợp

được với người chồng “quý heo hơn quý con” ấy. Tiệp thực sự nhận diện được bi

kịch của mình và từ đây, cô đã cố hết sức vùng vẫy để cầm nắm trong tay tình yêu và

hạnh phúc thực sự.

Tiệp đã chứng tỏ mình là một người phụ nữ dũng cảm khi dám chống lại cả gia

tộc đầy quyền uy của mình để sống ly thân với chồng. Cô cũng rất thẳng thắn và

trung thực khi đưa ra lý do rằng đã có người đàn ông khác để đòi ly hôn. Cô dám đi

tới tận cùng bằng cách kiên quyết ra khỏi nhà để lại hầu hết tài sản có giá trị, dắt theo

hai con đến cơ quan tá túc. Hơn ai hết, Tiệp hoàn toàn ý thức được những khó khăn

chồng chất mà mình sẽ phải đối mặt: trước hết là đời sống vật chất khó khăn, sau đó

là cuộc sống tinh thần nhiều bão tố. Nhưng cô đã chứng minh cho mọi người thấy cô

có thể vượt qua tất cả: vẫn sống được bằng đồng lương nhà văn còm cõi, bằng tiền

bán đá lẻ, bằng sự chắt chiu tính đếm quá sớm của đứa con gái nhỏ khi chỉ đi chợ

trưa, mua rau héo để duy trì cuộc sống đạm bạc cho ba mẹ con. Hơn nữa, cô vẫn tìm

được niềm vui sống từ nghiệp văn chương giờ đây đã trở thành lẽ sống.

Ở vào hoàn cảnh như Tiệp, phần lớn phụ nữ Việt Nam thời xưa sẽ không dám

bứt phá, mà sẽ chọn một cuộc sống phẳng lặng trong cam chịu. Nhưng giữa một bất

hạnh vững bền và một hạnh phúc mong manh, Tiệp đã dám đưa tay ra với lấy hạnh

phúc mong manh cho dù cái giá phải trả là quá đắt. Bên cạnh sự lên án gay gắt, rồi

ghẻ lạnh, và cuối cùng là sự từ bỏ của gia tộc máu thịt của mình, cô cũng phải đương

đầu với búa rìu dư luận. Là một nhà văn, cô rất có ý thức về lòng tự trọng, về nhân

phẩm của mình, nhưng không ít đồng nghiệp nhìn nhận thiếu thiện cảm. Có người im

lặng không nói ra, nhưng cũng có người đã thẳng thừng, như cô bạn gái Hiếu Trinh:

“Mình thấy Tiệp thiệt là nhầy nhụa, nhầy nhụa từ đầu tới chân!” làm cho “Tiệp cảm

thấy mình bị tát qua tát lại tới tấp”. Rồi cô còn phải trân mình chịu một trận đòn hội

đồng của “bốn ông thường vụ” mà các lí do khác chỉ là cái cớ cho việc cô đã dám

viết văn để nổi tiếng, mà lại nổi tiếng hơn cả thủ lĩnh Hai Khâm của họ. Tiệp phải

sống trong các mối quan hệ xã hội phức tạp, với những bon chen, kèn cựa giăng mắc

giữa cấp trên với cấp dưới; những ghen tị, nhỏ nhen giữa đàn bà với đàn bà. Trong

những lúc cuộc đời thử thách cô, may mà cũng còn có những người thông cảm, sẻ

chia. Đó chính là nguồn động lực giúp cô đứng dậy, đi tiếp con đường tìm kiếm hạnh

phúc. “Em đừng bao giờ khóc lóc trước mặt họ, khi người ta nhân danh đạo đức để

ném đá một người đàn bà thì Chúa cũng không cứu vớt nổi linh hồn họ”. Cô đã làm

theo lời khuyên của người đồng nghiệp tốt bụng, và không những cô không khóc mà

còn dám chống trả một cách can trường.

Như hầu hết phụ nữ trí thức thời nay, Tiệp còn là một phụ nữ dám sống chết

với nghề nghiệp mình đã lựa chọn. Lúc đầu, thời mới ở Cứ ra, Tiệp sống theo phác

đồ của chồng, tức là đi theo con đường Học viện chính trị, rồi phó giám đốc “và lên,

lên nữa, lên mãi”, nhưng rồi cô nhanh chóng nhận ra khả năng của mình và xin sang

Hội văn nghệ tỉnh. Một người phụ nữ dám từ bỏ con đường công danh trải đầy hoa

hồng ở trước mặt để đi theo văn chương dù biết rằng nhiều khi đó chỉ là “một trò

chơi vô tăm tích” , quả thật đáng cho ta nể phục. Tiệp đã chứng tỏ mình dám sống

chết với sự nghiệp mình đã lựa chọn. “Văn chương với nàng giống một thứ tín

ngưỡng hơn là thứ phương tiện”. Hồi bao cấp, Tiệp nuôi tín ngưỡng của mình trên

một chiếc bàn viết bằng gỗ thao lao trống hộc cùng với nỗi lo về cơm áo gạo tiền cho

các con. Sau này, khi đã tạm vơi nỗi lo vật chất, cô lại nuôi dưỡng văn chương bằng

việc tạm thời xa cách người mình yêu để tìm lại nỗi cô đơn cố hữu của người nghệ sĩ

khi sáng tạo nghệ thuật. Mỹ Tiệp luôn biết cách đạp bằng khó khăn để được sống với

đúng với bản chất của mình: một phụ nữ trong sáng, yêu ghét rạch ròi, hết lòng yêu

thương các con, biết trân trọng nghề nghiệp của mình và trên hết là ý chí can trường

vượt qua mọi rào chắn để cầm nắm trong tay hạnh phúc trong tình yêu với người đàn

ông của định mệnh.

Nếu như nhân vật Mỹ Tiệp là kiểu phụ nữ từng trải qua nhiều biến cố xã hội

lớn lao trong lịch sử thì những cô gái trong tiểu thuyết Tường thành của Võ Thị

Xuân Hà lại là kiểu phụ nữ của xã hội đương đại. Cuộc đời của các cô không có bom

đạn, không trải qua thời bao cấp nên không biết đến thiếu đói. Thế nhưng đây vẫn là

câu chuyện của những phụ nữ trăn trở tìm lẽ sống cho mình trong xã hội hiện đại đầy

rẫy những cạm bẫy và đố kị. Hai cô gái Cầm Kỳ và Phương Nam là hai nhà báo trẻ

có năng lực và đều rất yêu nghề. Họ đều là những cô gái từ tỉnh lẻ lên Hà Nội lập

nghiệp. Trong khi Cầm Kỳ phải chật vật mưu sinh bởi cô sống đứng đắn, mẫu mực

theo chuẩn đạo đức truyền thống thì Phương Nam lại biết dùng nhan sắc trời phú của

mình để có một cuộc sống vật chất sung túc. Trong khi Cầm Kỳ đến với tình yêu một

cách hồn nhiên như bao người con gái khác và tìm kiếm ở đó một nơi trú ẩn bình yên

thì Phương Nam mang trong lòng một nỗi thù hận sâu sắc với thế giới đàn ông. Bi

kịch thời thiếu nữ đã cướp đi nét hồn nhiên, trong sáng của cô hoa khôi, thay vào đó

là sự thất vọng tận cùng về đàn ông, sự chao đảo niềm tin về con người, sự hốt hoảng

đối với xã hội về chữ CHÂN khập khiễng, chữ THIỆN suy đồi, chữ MỸ nham nhở.

Hai cô gái khác nhau nhiều đến vậy lại là một đôi bạn thân. Họ đến được với nhau

bởi sự đồng điệu trong quan niệm về nghề nghiệp. Với họ, nghề báo là lẽ sống, là

phương tiện thực thi công bằng xã hội. Thông minh, dũng cảm, kiên định lập trường

là những phẩm chất đáng quý ở những nhà báo chân chính ấy.

Cầm Kỳ chứng tỏ sự tháo vát, năng động của người phụ nữ hiện đại không

khuất phục trước thử thách nghề nghiệp khi cô mở quán cà phê để mưu sinh trong lúc

bị treo bút. Trong khi viết phóng sự về tham nhũng, cô đã không ngại ngần động

chạm tới các vị chức trọng quyền cao. Cầm Kỳ kinh doanh để hiểu hơn về cuộc sống,

để nuôi dưỡng niềm đam mê nghề nghiệp. Cô vẫn âm thầm viết báo dưới nhiều bút

danh khác. Cô đã chứng tỏ dù ở bất kì hoàn cảnh nào cũng vươn lên đứng thẳng một

cách đầy kiêu hãnh. Mạnh mẽ, cứng rắn trong các quan hệ xã hội là thế, nhưng Cầm

Kỳ cũng rất nhạy cảm với nỗi đau. Những cảnh ngang trái, thương tâm mà cô thường

xuyên tiếp xúc đã luôn làm trái tim cô đau nhói. Là một con người có lối sống mẫu

mực, Cầm Kỳ đòi hỏi ở tình yêu sự chung thủy tuyệt đối nhưng rồi lại tỏ ra bao dung

khi biết tha thứ cho người yêu. Có thể nói, Cầm Kỳ là hình mẫu lí tưởng của người

phụ nữ hiện đại: thông minh, năng động, mạnh mẽ nhưng cũng đầy nữ tính.

Khác với Cầm Kỳ, Phương Nam rất phóng túng trong lối sống nhưng cô cũng

là một phụ nữ dám dấn thân trong nghề nghiệp. Để có một phóng sự chân thực, cô

sẵn sàng tiếp xúc với đủ hạng người: từ dân nghiện hút, đĩ điếm, cánh chủ nhà hàng,

sòng bạc đến giới chức chính trị. Phương Nam có biệt tài tìm kiếm thông tin và tỏ ra

vô cùng sắc sảo khi đưa ra những câu hỏi phỏng vấn. Cô là kiểu phụ nữ mà cánh đàn

ông vừa thích, vừa sợ: thích bởi cô quá đẹp và quyến rũ, sợ bởi cô quá thông minh và

thực dụng. Một ông Tổng biên tập đã nói về cô như sau: “Chữ của con bé thì đúng là

chữ vàng chữ bạc. Mà con bé này nó có thâm thù gì với cánh đàn ông thì phải. Tiền

thì nó nhận. Tình nó cũng nhận để quy ra tiền. Nhưng tâm thì nó phanh phui tận gốc

rễ. Nó rặt bênh vực chị em với dân đen. Thành ra nó vẫn cứ là một nhà báo chân

chính.” Có thể nói nhận xét này đã khái quát được toàn bộ con người Phương Nam.

Thật đáng tiếc cho một cô gái tài sắc nhường ấy đã bị khát vọng trả thù làm cho cô

trở thành con người bất chấp tất cả, kể cả hi sinh hạnh phúc đích thực của mình.

Phương Nam cũng là một kiểu mẫu khác của người phụ nữ hiện đại: sống phóng

khoáng, thực dụng nhưng cũng dám đi đến cùng để đạt mục đích đã đề ra.

Nhân vật Cẩm trong truyện ngắn Tai nạn của Lý Lan giống Mỹ Tiệp, Cầm Kỳ

và Phương Nam ở tính cách mạnh mẽ và tự chủ. Là một công chức bình thường trong

một thành phố lớn, Cẩm dễ bị lẫn vào đám đông bởi dáng vóc và nghề nghiệp không

mấy đặc sắc. “Cẩm độc thân, cao một mét năm tám, nặng bốn bảy ký, toàn bộ con

người kể cả áo quần giày nón, chỉ có cái mũi là đẹp. Chị làm việc trong phòng máy

tính của một công ty, công việc cụ thể là nhập dữ liệu vào máy tính. Lương một triệu

tư, lễ tết và ngày phụ nữ thì có tiền thưởng và quà”. Cẩm sống thờ ơ, lãnh đạm với

cuộc đời một phần bởi cha mẹ chị mất sớm, không còn ai thân thích. Chị có nghề

nghiệp, có một căn nhà chung cư, và bằng lòng với những gì mình có… cho đến khi

gặp Thanh. Thanh nhỏ tuổi hơn Cẩm, rủ chị đi chơi, lúc trở về gặp mưa, bị Cẩm chê

là “đồ lại cái”. Anh tự ái, chứng minh bản lĩnh đàn ông. Sự việc xảy ra ngoài ý muốn

của cả hai. Cẩm có thai. Sau bao cân nhắc, đắn đo, Cẩm quyết định làm một người

mẹ đơn thân mặc dư luận xã hội. “Cẩm không cần công bố cũng không coi đó là bí

mật. Đằng nào thì chỉ có chị là người sống cuộc đời của chị mà thôi”.

Cẩm tưởng như là một phụ nữ bình thường, nhưng thực ra vô cùng bản lĩnh. Ở

chị có sự chín chắn của một phụ nữ có học, có phong thái bình thản ung dung của con

người độc lập, tự do. Chị là người phụ nữ hiện đại theo đúng quan niệm của nhà văn

Lý Lan, biết mình cần gì và từ chối những gì phù phiếm. Cẩm khác Thanh một trời

một vực. Thanh không độc lập, bởi Thanh phải ở đậu, việc làm bấp bênh. Thanh

không tự do bởi còn gánh nặng cha mẹ và em út nơi quê nhà. Trong khi Cẩm biết bỏ

qua dư luận để sống cuộc đời của mình thì Thanh lại rất sợ lời ong tiếng ve của thiên

hạ. Hơn ai hết, Cẩm hiểu rõ hai người không thể là một cặp. Cẩm ý thức rõ mình

không yêu, không trọng, cũng không hòa hợp được với Thanh. Vậy mà, thật bất ngờ,

cuối cùng chị lại chấp nhận lời cầu xin hôn nhân của Thanh đồng nghĩa với việc đánh

mất sự độc lập, tự do mà trước nay chị luôn có. Nếu cô Cẩm kia là một người phụ nữ

phương Tây, có lẽ cô ta sẽ không chấp nhận kết hôn trong trường hợp như vậy.

Người phụ nữ phương Tây rất tôn trọng tự do cá nhân. Họ cũng không bị trói buộc

bởi những định kiến khắt khe về trinh tiết, về “không chồng mà chửa”. Nhưng ở Việt

Nam, cho dù chúng ta đang sống giữa xã hội hiện đại, pháp luật đã công nhận quyền

có con ngoài giá thú của người phụ nữ thì họ cũng không tránh khỏi búa rìu dư luận.

Vì đâu cô Cẩm chấp nhận lấy một người mình không yêu, không trọng, cũng không

hòa hợp? Vì tội nghiệp cho Thanh? Vì lo sợ đứa con sau này không có cha? Hay vì

không thể đi ra ngoài cái quỹ đạo thông thường của người phụ nữ Việt Nam là phải

có lấy một tấm chồng cho mình? Cho dù Cẩm quyết định như thế nào thì với bản lĩnh

của người phụ nữ quen tự lập, chắc rằng chị sẽ biết cách thu xếp cuộc đời mình ổn

thỏa.

Người phụ nữ trong xã hội hiện đại có thể đứng ở nhiều cương vị xã hội khác

nhau. Có thể là nhà văn, nhà báo, công chức văn phòng như những nhân vật trên,

cũng rất nhiều trong số họ làm nghề dạy học, một nghề mà người phụ nữ Việt Nam

trong xã hội phong kiến không dám mơ tưởng. Truyện ngắn Nghề giáo của Võ Thị

Xuân Hà cho chúng ta cái nhìn về một người phụ nữ hiện đại làm nghề giáo. Cô giáo

Thùy có chồng là bộ đội, một mình dạy học và nuôi hai con nhỏ ở một thị xã ven

biển. Giữa thời buổi nghề giáo lên ngôi bởi thu nhập cao từ dạy thêm, chị đã tỏ ra rất

bản lĩnh khi dứt khoát không tham gia vào cái công việc dạy thêm đó. Không phải chị

không cần tiền để nuôi con, mà vì chị cảm thấy “có cái gì đó vương vướng sạn sạn

trong việc dạy thêm kiếm tiền. Cầm đồng tiền bát gạo do lũ trẻ nộp học, chị thấy

mình không nên không phải thế nào”. Có lẽ nhiều giáo viên cũng từng trăn trở, băn

khoăn như vậy, nhưng đồng lương nhà nước ít ỏi đã buộc họ phải chọn dạy thêm như

một cách kiếm sống lương thiện. Không giống phần lớn đồng nghiệp, chị dám gạt tự

ái sang một bên để đẩy xe hàng tạp hóa ra phố bán rong. Chị bướng bỉnh một cách

kiêu hãnh về cái cách làm thêm của mình, bởi cha chị, một ông đồ nho mực thước đã

dạy chị rằng: “Ở đời có hai nghề làm phúc cho đời là nghề y và nghề dạy học.”

Chính những buổi bán hàng rong khắp thị xã đã làm cho Thùy hòa mình vào

với những người lao động lam lũ, cực nhọc. Là một cô giáo có trái tim người mẹ, chị

đã xúc động nghẹn ngào trước những đứa trẻ thất học bụi đời lang thang khắp phố

phường, tồn tại bằng đủ mọi nghề từ bán báo, bán vé số, đánh giày đến móc túi. Tâm

sự thèm khát biết chữ của một cậu bé bị cha mẹ bỏ rơi đã thôi thúc Thùy mở một lớp

học tình thương cho các em. Chị phải đối mặt với bao khó khăn để gây dựng được

lớp học, từ việc lo cơm ăn, áo mặc, chỗ ngủ nghỉ đến đối phó với sự hạch sách của

chính quyền địa phương. Những việc làm của chị chứng tỏ chị là một con người dịu

dàng, nhân hậu nhưng cũng đầy tự tin, bản lĩnh. Chị là một trong số vô vàn người tốt

thầm lặng không thích nêu gương trên báo đài nhưng có ảnh hưởng rất lớn tới những

người xung quanh, làm cho họ phải tự nhìn lại mình và sống tốt hơn.

Trên đây là chân dung những người phụ nữ hiện đại biết thích ứng với cuộc

sống. Họ có một điểm chung là sống mạnh mẽ, tự chủ, dám nghĩ dám làm, không lạc

lõng trước thời cuộc. Thế nhưng ở một số tác phẩm khác, chúng ta lại bắt gặp hình

ảnh của những người phụ nữ sống giữa xã hội hiện đại mà không thích ứng được với

những tính toán, những ứng xử được cho là của con người thời kinh tế thị trường. Đó

là chị Thư trong Hồ đêm thăm thẳm của Bích Ngân, chị Phan trong Miền bọt của Võ

Thị Hảo. Thư cảm thấy lạc lõng giữa những người bạn cũ khi gặp lại nhau sau bao

năm xa cách họ chỉ nói chuyện kiếm tiền, mua đất, làm ông chủ. Chị hoài nhớ về một

thời tất cả họ đều nghèo nhưng trong sáng và lãng mạn. Chị hụt hẫng bởi những say

mê dành cho văn chương một thời gắn kết họ với nhau nay bị bạn bè coi là “ba cái

trò vớ vẩn”. “Thư không chịu nổi ý nghĩ tất cả rồi cũng sẽ bị vùi lấp, mất hút và rơi

vào lãng quên, dù đó là cả một miền kí ức, là một phần đời của mình. Thư thấy phấp

phỏng trước cái nguy cơ dẫn đến sự lãng quên và càng không chịu nổi nếu đó là sự

lãng quên của chính mình. Rồi cô cảm thấy sợ. Sợ sự lãng quên.” Đó là tâm trạng rất

đáng trân trọng của con người sống giữa xã hội đủ đầy về vật chất mà nhạt nhòa tình

người. Đó là nỗi sợ hãi đầy nhân tính của con người hiện đại trước sự xơ cứng tâm

hồn. Có lẽ nào sự lãng mạn không còn chỗ đứng trong cuộc sống xô bồ, gấp gáp này?

Cũng với tâm trạng hoài nhớ về vẻ đẹp tình bạn thủa xưa, Phan trong Miền bọt

không thể chịu đựng nổi khi chứng kiến cảnh ba người đàn ông, trong đó có người

bạn trai hai mươi năm về trước, ôm ấp các cô tiếp viên khi được họ rủ đi hát karaoke.

Khoan, người bạn của Thư, nay đã trở thành một chuyên viên Luật có hạng của một

Bộ, vẫn dáng vóc ấy, gương mặt quyến rũ ấy, nhưng bản chất đã thay đổi. Anh đã

hòa nhập trọn vẹn với cuộc sống hiện đại, đã thành đạt nhưng cũng bị nó làm cho sa

đọa. Trong khi đó, Phan không có thần kinh thép như một số cô bạn khác của Khoan

khi chứng kiến cảnh những trí thức nam giới khuất phục trước khoái cảm nhục dục.

Chị đẩy cửa chạy ra ngoài, muốn tìm sự thanh thản trước biển đêm bao la, nhưng

chính tại đây, chị lại choáng váng khi nhận ra biển đêm không lãng mạn và thanh

khiết như chị tưởng. “Đám capốt da người, đám ngón tay nhơn nhớt, vỏ lon bia, vỏ

những quả cam Trung Quốc, đám vỏ ruột cá, chiếc váy ngắn sũng nước của cô ca

ve… tất cả ập sâu vào bờ biển. Rồi trong tiếng rì rầm của gió, tiếng nhạc và tiếng hát

của mấy chục nhà hàng, khách sạn nằm san sát trên bờ biển bỗng lớn tiếng, ánh ỏi

chảy tràn ra biển như một dòng sông nhờn mỡ bao phủ lên tất cả”. Chị đã thức tỉnh

được anh, nhưng chính chị lại thấy lòng ê chề buồn đau: buồn vì ảo ảnh về anh tan

vỡ, đau vì nhận thấy sức mạnh của đồng tiền có thể làm biến chất con người và hủy

hoại thiên nhiên.

Những người phụ nữ như Thư, như Phan giấu bên trong cái vẻ ngơ ngác, lỗi

nhịp với cuộc sống hiện đại là một trái tim phụ nữ nhạy cảm và tinh tế, biết gìn giữ

những giá trị tốt đẹp mà cuộc sống dẫu có tân tiến đến đâu thì con người cũng không

được phép lãng quên.

Không thích ứng được với lối sống gấp của xã hội hiện đại, dù sao Thư và

Phan vẫn tìm được một chỗ đứng thích hợp để sống đúng với bản chất của mình. Thế

nhưng trong tác phẩm của các nhà văn nữ còn có một kiểu phụ nữ chẳng những

không tìm cho mình được một chỗ đứng thích hợp mà còn bị vòng xoáy thực dụng

của xã hội hiện đại chà đạp lên nhân phẩm, làm cho cuộc đời không còn có tương lai.

Họ là nạn nhân của một xã hội đang trên đường phát triển có nhiều bất cập và tệ nạn.

Sự vô cảm, tàn nhẫn, sòng phẳng của người đời đẩy họ vào vòng tha hóa, có khi đã

chấp nhận thỏa hiệp với cái xấu rồi mà vẫn không có đường sống. Nhân vật Thùy

Châu trong truyện ngắn Vũ điệu địa ngục của Võ Thị Hảo là một cô gái đã tốt nghiệp

đại học, lại xinh đẹp, nhưng cô đi khắp nơi không tìm được việc làm, đơn giản bởi cô

không có tiền để chạy vạy. Mấy năm thất nghiệp mài mòn dần sự kiên nhẫn của cô,

cho tới một ngày cô quyết định lấy tài sản duy nhất của mình là sự trinh bạch để đổi

lấy một việc làm cũng bị người ta lừa gạt. Cô đã tự chọn một cách tự hủy thê thảm

trước khi phải chết trong đau đớn bởi chứng bệnh suy tủy do bán máu quá nhiều.

Cũng xinh đẹp và có học, nhân vật “Tôi” trong truyện ngắn Nô tỳ được trang

sức của Trần thị Trường lại có sự chọn lựa khác. Cô sinh ra trong một gia đình gia

giáo, đã tốt nghiệp múa ba lê và nhạc kịch nhưng những chỗ cô đến xin việc người ta

chỉ cần “những âm thanh cực mạnh, những vũ điệu điên cuồng”. Cô chấp nhận làm

một dạng nô lệ kiểu mới: lau chùi nhà cửa, nấu cơm, giặt giũ và cả đáp ứng nhu cầu

bản năng của một anh tiến sĩ kinh tế học ở phương Tây về. Với công việc ấy, cô có

nhiều tiền, nhưng cũng có nhiều nỗi ê chề nhục nhã. Anh ta bảo rằng: “để thích nghi,

con vượn nhờ vào công cụ sản xuất và trải qua lao động để tiến hóa thành người, bây

giờ công cụ sản xuất không đào đâu ra, không có việc làm, để thích nghi con người

lại tiến hóa thành… con vượn”. Kết truyện, cô gái tự hỏi một cách cay đắng: mình đã

thành vượn chưa?

Với những tác phẩm nêu trên, có thể khẳng định rằng: bằng những trang viết

của mình, các nhà văn nữ đã bộc lộ tính độc lập, khả năng làm chủ ngòi bút, tầm nhìn

và thế giới nội cảm của họ với tất cả các chiều kích, cung bậc, sắc độ. Văn chương

của phái đẹp hôm nay đã không thi vị hóa những chuyến đi, không tỏ ra đài các hoặc

đa cảm trong giọt lệ khóc chồng hay giấc mộng phù du mà sắc sảo và sâu sắc khi tiếp

cận và khai thác đề tài thế sự, đời tư, với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết dịu

dàng mà bén ngọt, riết róng mà đồng cảm, sẻ chia với những thân phận, những kiếp

người sống quanh mình. Ngày nay, nhiều nhà văn nữ không còn chỉ quẩn quanh ở nơi

mình sinh ra và lớn lên, mà họ đã có điều kiện đi đây đi đó ra ngoài lãnh thổ quốc

gia. Với những trải nghiệm thực tế của mình họ xây dựng được những nhân vật nữ

Việt Nam bước ra thế giới.

Đó là chị Thương trong tiểu thuyết Lời cuối cho em của Trần Thị Trường.

Nhiều năm sống ở ngoại quốc, từng qua lại nhiều lần các nước Nga, Tiệp, Bun, Đức,

Canada làm cho chị trở thành người phụ nữ từng trải. Cũng vì đi nhiều, chị đã từng

phải xấu hổ “muốn hóa thành ruồi” khi chứng kiến cảnh những người lao động xuất

khẩu Việt Nam bị người bản xứ khinh bỉ về thói xấu tham lam vơ vét, gian dối khi

khai báo hải quan. Chị làm việc và có một số vốn kha khá. Tuy cũng như bao người

Việt Nam ở hải ngoại phải chật vật để mưu sinh, nhưng chị vẫn giữ được phong thái

lịch lãm của một phụ nữ trí thức có nhan sắc. Chị làm cho người nước ngoài hiểu

đúng hơn về Việt Nam, và qua chị, họ yêu mến con người Việt Nam hơn. Trở về

nước, dù cuộc sống khó khăn nhưng chị vẫn ứng xử với cuộc đời bằng một tấm lòng

nhân hậu bao dung. Quan niệm của chị về tình yêu và hôn nhân không giống với hầu

hết phụ nữ trong nước. “Chị yêu ai chị sẽ sống với họ như một người vợ có trách

nhiệm, bằng khả năng của mình mà họ cũng ưng. Có con cũng được. Nuôi. Không có

cũng được, vẫn yêu. Khi nào họ chán mình thì họ đi. Mình chán họ thì mình im lặng

đến khi họ tự phát hiện. Khi phát hiện được họ vẫn muốn sống với mình thì họ không

được làm phiền mình”. Rõ ràng, người phụ nữ Việt Nam trên bước đường hội nhập

với thế giới đã có nhiều thay đổi, trong đó dễ thấy nhất là quan niệm sống của họ có

những điểm giống với phụ nữ các nước phát triển.

Bằng những hiểu biết, chiêm nghiệm những phụ nữ từng đi nhiều, hiểu nhiều

về các nền văn hóa, nếu Trần Thị Trường cung cấp cho chúng ta cái nhìn về người

“phụ nữ bôn ba” thì nhà văn Thuận do có lợi thế là đang định cư ở nước ngoài, lại

đưa chúng ta đến với những thân phận “phụ nữ tha hương”. Hai cuốn tiểu thuyết Phố

Tầu và Paris 11 tháng 8 của chị có những nhân vật trung tâm là phụ nữ Việt Nam

mưu sinh tại Pháp. Họ đến Pháp bằng nhiều con đường khác nhau, có người xác định

sẽ ở lại hẳn, có người chỉ du học nhưng đều giống nhau ở một điểm là phải rất vất vả

trong kiếm sống. Do trải qua nhiều nghề, giao tiếp được bằng ngôn ngữ của người

bản xứ, những người phụ nữ này tỏ ra có hiểu biết về xã hội Pháp hiện đại và họ cố

gắng để hòa nhập với nó. Nhưng cả ba nhân vật chính đều có cuộc sống bấp bênh bởi

họ không có người thân ở đây. Tất cả họ đều cô đơn và không mong đợi một kết cục

tươi sáng cho cuộc đời mình. Qua tác phẩm của Thuận, chúng ta có thể hiểu hơn về

người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Họ có thể rất mạnh mẽ, tự tin trên quê hương mình,

nhưng khi sống nơi xứ người, tách mình ra khỏi nền văn hóa gốc, họ dễ trở nên

những con người dửng dưng và chai sạn.

Tóm lại, qua tác phẩm của một số nhà văn nữ, chúng ta có thể thấy được những

hình mẫu khá tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam hiện đại từ những người bước ra

từ khói lửa chiến tranh đến những người sinh ra và lớn lên trong thời bình, từ những

người mang theo những quan niệm sống mới ở phía trời Tây đến những người đã bị

“Tây hóa”. Mỗi người có một số phận, một tính cách riêng tạo nên một thế giới phụ

nữ muôn hình muôn vẻ. Điều đáng ghi nhận là qua những suy nghĩ, hành động của họ

chúng ta hiểu rõ hơn về con người và thời đại mình đang sống. Nói cách khác, chúng

ta có thể nghe thấy tiếng vọng của thời thế qua mỗi thân phận đàn bà.

2.2. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với gia đình

Người phụ nữ thời nào cũng vậy, luôn là linh hồn của gia đình. Xã hội càng

phát triển, các quan hệ trong gia đình càng trở nên phức tạp hơn, và do vậy càng đòi

hỏi nhiều hơn ở người phụ nữ. Dễ nhận thấy trong sáng tác của các cây bút nữ nổi bật

đề tài gia đình mà ở đó nhân vật nữ được thể hiện gắn với niềm vui và nỗi buồn, hi

vọng và thất vọng, hạnh phúc và bất hạnh. Với ưu thế giới tính của mình, các nhà văn

cũng là những người phụ nữ hiện đại hiểu hơn ai hết những khó khăn mà họ gặp phải

trong các quan hệ với cha mẹ, anh em của cái gia đình thứ nhất sinh ra họ; trong quan

hệ với chồng, con của cái gia đình thứ hai, “gia đình hạt nhân” mà chính họ tạo nên.

Với trải nghiệm của bản thân, sự nhạy cảm trước những nỗi đau quanh mình, sự tinh

tế trong phát hiện chi tiết và khả năng phân tích nhạy bén cuộc sống qua thế giới tâm

hồn, hình ảnh những người phụ nữ hiện lên vô cùng sinh động như đang thầm thì kể

với chúng ta câu chuyện gia đình của họ. Và chẳng có gì phải ngạc nhiên khi đây đó

có những độc giả nữ tìm thấy hình bóng của mình trong nhân vật cũng như ta nhìn

thấy hình bóng cuộc đời của nhà văn qua nhân vật mà họ đã dồn bao tâm huyết tạo

nên.

Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu hình ảnh người phụ nữ hiện đại trong quan

hệ với người chồng của họ. Tình cảm vợ chồng là lĩnh vực các nhà văn dành nhiều

tâm huyết để miêu tả, qua đó làm nổi bật tính cách nhân vật nữ. Thật đáng ngạc nhiên

khi những nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của nhà văn nữ thường không được hưởng

hạnh phúc trong cuộc sống vợ chồng. Phải chăng, giới cầm bút nữ thường nhạy cảm

với nỗi đau hơn là với niềm vui? Hay cái hạnh phúc viên mãn thường khó diễn đạt

thành lời? Thật khó tìm được một câu trả lời chính xác, nhưng có một thực tế là

những nhân vật phụ nữ dưới cái nhìn của các nhà văn nữ thường không cảm thấy

hạnh phúc. Hoặc họ bị thiếu thốn về vật chất, hoặc họ bị đầy đọa về tinh thần. Có khi

trước mắt mọi người họ làm ra vẻ hạnh phúc nhưng khi đối diện với bản thân mình

lại chỉ thấy cô đơn.

Các truyện ngắn thuộc mảng đề tài này là: Tân cảng của Nguyễn Thị Thu Huệ,

Dòng sông buổi chiều và Bài hát chim nhồng xanh của Ngô Thị Kim Cúc, Cái

rùng mình của vũ trụ của Bích Ngân, Ngày không mút tay của Võ Thị Hảo, Dù

phải sống ít hơn của Dạ Ngân, Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai.

Điển hình cho những người phụ nữ có cuộc sống gia đình đầy đủ về vật chất

mà đau khổ về tinh thần là hai nhân vật nữ chính trong truyện ngắn Dòng sông buổi

chiều của Ngô Thị Kim Cúc và Tân cảng của Nguyễn Thị Thu Huệ. Ở truyện của

Kim Cúc, người phụ nữ là một kĩ sư nông nghiệp, bị người chồng bắt buộc phải lựa

chọn giữa công việc và gia đình: “Giữa anh và công việc em phải chọn một”. Anh

chồng không thể thông cảm với công việc thường xuyên phải đi xa, lên những nông

trường ở những chốn “khỉ ho cò gáy”. Anh ta muốn chị chuyển về thành phố để làm

tròn vai trò người vợ, người mẹ của một gia đình sung túc và hòa thuận. Với khát

khao được sống là mình, được làm công việc yêu thích và có ích cho bao người, chị

đã buộc phải chấp nhận li hôn . Chị đã phải trả một giá quá đắt để có tự do. Tự do với

một trái tim đau đớn vì mất một đứa con, đứa còn lại phải để ở với chồng. Chị đã trải

qua những phút giây tuyệt vọng: “Tôi sẽ tự tay chấm dứt đời mình chăng? Có lẽ nào

như thế. Lẽ nào tôi lại bỏ đi trong khi tôi còn cha mẹ, bạn bè, công việc, và nhất là

còn có con tôi. Chẳng lẽ rồi chính Lân lại có thể định đoạt tất cả, dù tôi đã thoát ra

khỏi nhà tù quyền lực của anh, sau khi tôi đã phải đánh đổi tự do bằng việc xa cách

con mình”. Thế rồi chị đã tự vượt mình, vẫn vươn lên để tiếp tục sống có ích. Đây

không chỉ là câu chuyện về một người phụ nữ tự chủ, dám dũng cảm chịu đựng mất

mát để sống như mình mong muốn mà còn là câu chuyện về cuộc đấu tranh giữa hai

quan niệm, hai lối sống. Người chồng thực dụng, ích kỉ, chỉ biết vun vén hạnh phúc

cá nhân trong khi người vợ sống có lí tưởng, mong muốn cống hiến trí tuệ của mình

cho khoa học để giúp cuộc sống của những người nông dân bớt cơ cực. Trong thời

đại ngày nay, khó mà tìm được những người phụ nữ như vậy, và câu chuyện sẽ trở

nên khiên cưỡng, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được khi nó được viết ra vào

năm 1983. Tuy nhiên, vấn đề tác phẩm đặt ra vẫn mang tính thời sự, bởi ở những năm

đầu thế kỉ 21 này vẫn có những người phụ nữ phải lựa chọn giữa công việc mình yêu

thích và cuộc sống gia đình theo ý tưởng của người đàn ông.

Cũng kết thúc bằng một cuộc li hôn, nhưng mối quan hệ vợ chồng trong truyện

ngắn Tân cảng lại đích thực là chuyện vợ chồng thời nay. Thu Huệ kể về cuộc ra đi

của người phụ nữ “Ban đầu là thể xác. Rồi đến tinh thần”. Hai vợ chồng lấy nhau

mười năm thì tám năm nghèo. Đến thời mở cửa, anh có việc làm hái ra tiền, xây một

biệt thự đẹp như một cung điện. Anh có chị, có hai thằng bé với một căn nhà như

thiên đường trên mặt đất và tưởng thế là đủ. Anh vẫn say mê kiếm tiền, đi sớm, về

khuya. “Anh không nghe thấy tiếng thở dài tức ngực của người chưa đến bốn mươi

tuổi, da thịt mát lạnh, thơm tho của sự đầy đủ, nhàn hạ dần đang cần sự yêu chiều ve

vuốt. Anh không kịp thấy chị đợi anh bằng chiếc váy sa tanh bóng mát lịm như miếng

thạch mới mua. Và anh cũng chẳng kịp thấy một lọ hoa chị cắm góc phòng đang dịu

dàng toả hương. Tất cả. Tất cả đều đầy đủ và hoàn thiện. Chỉ đợi có anh”. Cho đến

khi chị đi, đi hẳn, anh mới bừng tỉnh. Một cuộc sống đầy đủ về vật chất, một người

chồng thành đạt và hai đứa con ngoan không giữ nổi người phụ nữ. Chị còn có những

đòi hỏi rất chính đáng về tinh thần và thể xác. Chị dễ dàng tìm thấy những gì chồng

mình không có ở những người đàn ông khác trong các quan hệ công tác của mình.

Chính chị cũng không hiểu nổi tại sao mọi sự lại diễn ra như vậy. “Từ đâu nhỉ? Chắc

là từ hôm chị bay ra Hà Nội họp. Một hợp đồng ký thành công với phía đối tác và chị

là người đóng góp không nhỏ. Đêm liên hoan. Chị uống rượu. Ba ly rượu vang khai

vị chua chua. Nhẹ nhàng say lúc nào không biết. Chị lâng lâng tỉnh và thấy mình

đang ngồi ghế sau trong một chiếc ôtô sang trọng. Bên cạnh một chàng người Pháp

đẹp trai, lịch lãm. Vô thức nói. Vô thức cười. Vô thức thấy lòng chộn rộn. Vô thức

thấy rạo rực đôi môi. Và tim vô thức đập nhanh. Mọi thứ đều vô thức. Chắc tại một

thứ không vô thức là bản năng đàn bà khao khát trỗi dậy bên trong. Gặp rượu vô

thức. Gặp trời Hà Nội se lạnh vô thức. Gặp những động chạm thân xác vô thức. Nó

bỗng thành ý thức đánh thức chị dậy. Đến khi chỉ còn chị và người đàn ông đó, mọi

thứ như nổ tung ra”. Chị bay sang Pháp với người chồng mới và đứa con trai lớn.

Anh ở lại “cung điện” của mình với đứa con trai nhỏ và một người phụ nữ khác sắp

chuyển đến. Tất cả họ cùng hụt hẫng và tan nát: cả chị, cả anh, cả hai đứa nhỏ. Câu

nói của anh lúc chia tay là một lời cảnh tỉnh cho những người đàn ông khác: "Tôi mới

là người có lỗi. Cái lỗi của tôi... là sống với cô mà không hiểu cô cần gì... Nên cô mới

bỏ đi...”. Với câu chuyện của mình, dường như nhà văn muốn nói với chúng ta rằng:

Ngày nay, người phụ nữ đã khác xưa rất nhiều, họ có thể cùng một lúc sống với nhiều

mối quan hệ tình cảm khác nhau mà quan hệ nào cũng chân thành, cũng chính đáng

cả. Họ đem lại cho chúng ta một xúc cảm thẩm mĩ mới, xúc cảm có được khi con

người tự khám phá ra bản thân mình, hơn là đem lại một ý niệm đạo đức.

Cũng cùng típ phụ nữ như vậy, nhưng nhân vật Hạnh trong truyện ngắn Cái

rùng mình của vũ trụ của Bích Ngân lại được đánh thức bởi một sự tác động rất

ngẫu nhiên của môi trường sống. Khi con người phải đối mặt với khả năng mình có

thể chết chỉ vì một sự đỏng đảnh của thiên nhiên thì họ mới cảm thấy cuộc sống này

quý giá biết bao. Chính cái rùng mình của vũ trụ ấy cho Hạnh hiểu thêm về tình cảm

của người đàn ông mà chị yêu thương trong suốt mấy năm qua. Chị cứ ngỡ chỉ có

người đó mới đem lại hạnh phúc cho mình nhưng những cuộc điện thoại thảng thốt

gọi tìm sau trận động đất làm cho chị nhận ra người chồng cũ mới là người thực lòng

yêu thương chị. Hạnh thấy mình hụt hơi vì đuổi theo những giấc mơ đứt nối. Chị

muốn quay trở về với người chồng cũ nhưng mọi cố gắng đều đã muộn.

Thế giới nội tâm của người phụ nữ hiện đại thật phức tạp. Thời thế cho họ sự

mạnh mẽ, tự chủ để quyết định cuộc đời mình nhưng khi quyết định rồi họ lại vẫn

không thấy hạnh phúc. Ở họ vẫn có những day dứt, dằn vặt, thậm chí hối tiếc vì một

phút yếu đuối, nông nổi. Thông qua các nhân vật nữ, các nhà văn đã khái quát được

nhiều biến đổi của gia đình Việt Nam, cũng như mối quan hệ gia đình và xã hội dẫn

đến sự phá vỡ mô hình gia đình truyền thống. Họ mang đến cho chúng ta một câu

hỏi: Mỗi con người, mỗi gia đình cần phải sống như thế nào và xã hội cần phải quan

tâm trở lại như thế nào.

Xã hội có biết bao cảnh đời trái ngược nhau. Nếu như những tác phẩm nói trên

kể về những đòi hỏi về tinh thần của những người phụ nữ có cuộc sống vật chất no

đủ, thì lại có những tác phẩm phác họa chân dung người phụ nữ như là một trụ cột

trong một gia đình nghèo đói. Họ là những con người biết hi sinh bản thân mình cho

những người họ yêu thương là chồng và các con. Đó là chị Ngần có chồng bị tai nạn

lao động, không thể nuôi sống gia đình bằng nghề bán ốc luộc đã phải đi bán máu cho

đến ngất xỉu cho các con có được một ngày không phải mút tay vì đói. (Ngày không

mút tay – Võ Thị Hảo) Đó là người phụ nữ “thèm khát thứ hạnh phúc bình thường

đến xoàng xĩnh” là có một mái ấm, có chồng và con, đã phải trốn chồng đi làm gái

điếm để mua cho chồng từng tấm áo, manh quần. (Bài hát chim nhồng xanh – Ngô

Thị Kim Cúc) Họ tuy ít học, nhưng sự chịu thương chịu khó và đức hi sinh thầm lặng

của họ làm rung động trái tim mỗi chúng ta. Với những người phụ nữ ấy, mong muốn

lớn nhất của họ là chồng con được đủ ăn, đủ mặc. Tuy nghèo đói, nhưng cái mà họ

nhận được là tình thương yêu của người chồng. Họ có một gia đình nguyên lành,

những đứa con không phải chia li. Họ là những ví dụ cụ thể cho thấy trong xã hội

hiện đại này vẫn còn những hình mẫu của người phụ nữ truyền thống: tần tảo, hi sinh,

nhẫn nhục và cam chịu cho đến suốt đời.

Cũng là những người phụ nữ quên mình vì chồng, nhưng sự hi sinh của chị

Niềm trong truyện ngắn Dù phải sống ít hơn của Dạ Ngân và chị Hạnh trong truyện

ngắn Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai lại nghiêng về lĩnh vực tinh thần.

Niềm và Thịnh yêu nhau. Anh ra Bắc tập kết, chị ở nhà chung thủy đợi chờ. Hai

mươi năm sau anh trở về, nhưng đã có người vợ miền Bắc cùng hai đứa con. Mặc dù

chị muốn coi anh như bạn, gia đình chị và cả gia đình anh “đòi anh lại cho chị” và

coi đó là một hành động thuận đạo lí. Họ vẫn còn rất yêu nhau, với chị, anh thấy

mình “không chỉ phải sống mà còn được sống”. Nhưng chị đã quá tuổi, không thể có

con được nữa. Ban đầu chỉ là ý định nuôi con của chồng, chị viết thư mời “cô ấy”

cùng hai con vào chơi. Sau đó, chứng kiến tâm trạng khổ sở của người vợ sau cùng

hai đứa trẻ, sự khó xử của anh khi buộc phải chia tay, chị đi đến quyết định dọn ra ở

riêng, “nhường” chồng cho người ấy, đơn giản bởi vì “phía em chỉ có em cần anh,

còn phía cô ấy, có tới ba người cần anh”. Sự hi sinh cao cả của chị được đền đáp

bằng tình cảm yêu thương và trân trọng của cả cái gia đình nhỏ bé của anh, trong đó

những đứa con anh coi chị như má ruột. Đây là một bi kịch gia đình được tạo nên bởi

chiến tranh nhưng nó được hóa giải bởi trái tim nhân hậu, bao dung của người phụ

nữ. Người phụ nữ ấy đã biết sống, biết yêu, biết cho và được nhận.

Thế nhưng cuộc sống thật trớ trêu khi không phải ai biết sống, biết yêu, biết

cho thì cũng được nhận. Chị Hạnh (Trăng nơi đáy giếng) có chồng là một Hiệu

trưởng nổi tiếng quản lí giỏi. Chị yêu chồng, chiều chồng, chăm sóc từng bữa ăn, giấc

ngủ. Chồng chị cũng tỏ ra yêu chị, ông từng nói: “Với tôi, chỉ cần mình vui lòng, tôi

chấp nhận mất tất cả”. Cuộc sống vợ chồng thật êm đềm, chi tiếc là họ không có con

nên vì thế mà chồng chị lúc nào cũng buồn. Thương chồng, chị kiếm cho chồng một

cô thôn nữ khỏe mạnh, định bụng sẽ nuôi đứa nhỏ là con của chồng với cô ta. Nhưng

sự việc không đơn giản như vậy. Chồng chị có địa vị xã hội, dư luận không cho phép

ông có vợ lớn vợ nhỏ. Chị đã viết đơn ly hôn để không ảnh hưởng đến uy tín của

chồng. Đã ly hôn rồi, chị đâu còn được phép sống với chồng, vì ông đã là chồng của

người khác. Chi lại gom góp tiền tiết kiệm mua nhà ở ngoại thành để ông đón cô thôn

nữ lên sống chung vì cô đã lại có thai. Chị nuôi đứa con đầu của ông, coi nó như con,

chắt chiu dành dụm từng quả trứng cho nó. Cai sữa cho đứa thứ hai, cô vợ sau đến

xin chị cho thằng bé về ăn Tết không hẹn ngày trở lại. Đến lúc này, chị vẫn chưa ý

thức một cách đầy đủ mất mát của mình. Chỉ đến khi nhớ con quá, đến thăm, mẹ nó

dạy con không được kêu chị bằng mẹ, lại chứng kiến cảnh người chồng chị vốn tôn

thờ như một ông thánh, lúc còn ở với chị chưa bao giờ động chân động tay làm việc

nhà, đang ngồi chò hõ giặt quần áo cho vợ cho con bên bể nước, chị mới dần dần ngộ

ra. Đến khi khám phá ra sự thật, rằng mọi việc tưởng như do chị tự nguyện sắp xếp

thực ra là kết quả của một âm mưu được tính toán kĩ lưỡng của chồng mình và người

đàn bà ấy, chị hoàn toàn suy sụp. Chị đã hi sinh tất cả cho chồng, nhưng chẳng nhận

lại được gì ngoài nỗi cay đắng trước thói đời phụ bạc, lòng người đổi trắng thay đen.

Thương thay cho những người đàn bà phải chịu bất hạnh chính bởi tấm lòng nhân

hậu và một trái tim yêu thương vô bờ bến.

Dạo chơi trong khu vườn truyện ngắn ngạt ngào hương sắc của các nhà văn nữ,

chúng ta dễ dàng nhận thấy mỗi nhân vật phụ nữ như một bông hoa mang một mùi

hương riêng biệt. Bông hoa nào cũng muốn vươn lên để đón nắng, đón gió, đón

những giọt mưa để có được vẻ đẹp lộng lẫy nhất dâng cho đời. Nhưng không phải cứ

muốn là được. Có bông hoa may mắn được mọc lên ở khoảng đất màu mỡ, được

chăm sóc và vun xới nhưng cũng có bông mọc nơi đất khô cằn mà lại không được

chăm bón, nâng niu. Người phụ nữ cũng như những bông hoa, họ được sinh ra trong

những gia đình khác nhau. Ở nơi gia đình xuất phát ấy, họ có cha mẹ, anh chị em.

Những hoàn cảnh sống và sự giáo dục của gia đình khác nhau, tạo nên tính cách khác

nhau. Cách ứng xử của con người trước hoàn cảnh sống tạo nên số phận.

Trong những truyện ngắn tiếp theo đây, chúng ta sẽ hiểu thêm về hình ảnh

người phụ nữ hiện đại trong mối quan hệ mẹ-con, anh-chị-em trong đại gia đình của

họ: Hậu thiên đường, Thiếu phụ chưa chồng và Của để dành của Nguyễn Thị Thu

Huệ, Mẹ và con và Cô con gái của Lý Lan, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ Y Ban, Khoảng

trời phía sau nhà của Nguyễn Thị Ngọc Tú, Mưa đời sau của Trần Thùy Mai, Nhà

có ba chị em của Võ Thị Xuân Hà, Hạnh của Nguyễn Thị Minh Dậu.

Hậu thiên đường, một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Thị Thu Huệ, kể về

sự thức tỉnh muộn mằn của một người phụ nữ khi chứng kiến đứa con gái duy nhất là

kết quả của sự nhẹ dạ thời con gái đang đi lại vết xe đổ của mình năm xưa. Chị hối

hận vì mình đã chạy theo những cuộc tình chớp nhoáng tạm bợ, đã lăn lóc ở vũ

trường trong vòng tay hào hoa giả tạo của những người đàn ông chỉ coi chị như một

trạm nghỉ, một chỗ trú chân khi trời mưa mà “để tuổi thơ của con gái trôi qua trong

nỗi buồn của sự cô đơn, và hứng chịu nỗi cay đắng của người đàn bà bị phụ bạc”. Cả

chị và con gái đều bị cuộc sống hiện đại, xô bồ cuốn vào vực xoáy mà lẽ ra họ đã có

thể nương tựa vào nhau để cùng vươn lên. Lỗi thuộc về chị, một người mẹ đã sinh

con ra, không để con đói khổ về vật chất nhưng lại không gần gũi nâng đỡ con bước

vào đời. Chị không nhận ra con gái là người cần mình nhất, mong chờ và yêu thương

mình nhất. Đến hôm nay, khi chị tỉnh khỏi cơn mê thì mọi sự đã muộn. Con gái chị

đã trở thành đàn bà ở tuổi mười sáu. Chị đã trải qua tâm trạng của người con gái đang

yêu, đang “đi trên chín tầng mây mười tầng gió, không nhìn thấy ai hết, không biết

gì hết ngoài việc thấy mình đang hạnh phúc” nên chị biết mình không thể làm gì để

cản bước chân con. Chị bất lực nhìn con gái mình đang sa chân xuống vực.

Cả người mẹ và đứa con gái trong tác phẩm đều là những người phụ nữ của

cuộc sống hiện đại. Giữa họ có cả một khoảng cách thế hệ, nhưng lại rất giống nhau ở

khát vọng kiếm tìm hạnh phúc và những bồng bột, nông nổi trong bước chân hân

hoan bước vào tình yêu đầu đời. Qua việc mô tả tâm trạng hai mẹ con, nhà văn nói

với chúng ta một quy luật của quá trình nhận thức cuộc sống: mỗi người phải tự mình

trải nghiệm mới rút ra được bài học, phải sống mới thấy được cuộc sống không chỉ có

ngọt ngào mà còn nhiều lắm những đắng cay. Phải bước chân vào thiên đường mới

biết đằng sau thiên đường còn có cái gọi là “hậu thiên đường” nữa.

Từ xưa, người phụ nữ Việt Nam vẫn được ca ngợi là những người hết lòng yêu

thương con. Ấy thế mà trong cuộc sống hiện đại ngày nay, đây đó vẫn có những bà

mẹ không dành cho con sự quan tâm đúng mực, để rồi khi nhận ra thì đã quá muộn.

Người mẹ trong Hậu thiên đường không coi cái sự được làm mẹ của mình là một

diễm phúc. Đứa con của chị không phải là kết quả của một tình yêu chân chính. Bởi

vậy, chị hững hờ với nó, để cho nó phải tự loay hoay tìm lấy đường mà đi trong xã

hội đầy cạm bẫy. Cô thiếu nữ ấy không có một gia đình bình thường, đã không có cha

lại có một người mẹ chỉ biết sống cho mình nên sự sa ngã của cô là khó tránh khỏi.

Thế nhưng có những cô thiếu nữ khác, có cả một gia đình hòa thuận đủ đầy cha

mẹ mà vẫn lỡ bước sa chân. Truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của nhà văn Y Ban

kể về một cô gái từng chửa hoang viết thư gửi mẹ Âu Cơ để giãi bày nỗi lòng mình.

Người mẹ là một công chức nhà nước, chắc quá bận rộn chuyện mưu sinh và cũng là

người vô tâm nên không gần gũi chỉ bảo cho con gái những chuyện tế nhị của phụ nữ.

Hai mươi tư tuổi, cô gái chưa có chồng mà lỡ có thai, bà mẹ bắt cô phá thai để rồi từ

đó cô trở thành người phụ nữ vĩnh viễn không thể có con được nữa. Trong lá thư, cô

gái bộc lộ một tâm trạng đau đớn xót xa cho thân phận của mình và những người

đồng cảnh ngộ. Cô trách người mẹ đã không chỉ dạy, để cô tự lớn lên hồn nhiên như

hoa cỏ. “Mẹ ơi, ai đã dạy cho con ư? Đất đấy, thiên nhiên đấy, màu vàng của lúa,

màu xanh của cây, miền quê con sống ấy đã kiến tạo nên tâm hồn con, để con biết

khóc trong mưa, biết cười trong nắng, biết múa hát trong tiếng cây cỏ trỗi dậy sau

mỗi trận mưa rào”. Và cô gái thay mặt các bạn đồng trang lứa của mình lên tiếng đòi

sự quan tâm của người mẹ. Cô đòi phải được dạy những điều mà xã hội chúng ta hay

né tránh không nói thật với trẻ con. Có những kiến thức đó, người con gái mới có đủ

hành trang để bước vào cuộc sống nhiều cạm bẫy; để biết đam mê và biết dừng lại ở

vạch an toàn. Tác phẩm cũng nói về nỗi đau của người mẹ khi có những đứa con gái

bị cho là hư hỏng, nhưng nỗi đau ấy không thể sánh bằng nỗi đau của người mẹ trẻ

buộc phải giết đứa hài nhi còn trong trứng nước rồi buộc phải chịu cảnh người đàn bà

góa bụa dưới vỏ bọc của cô thiếu nữ kén chồng. Đoạn cuối tác phẩm là tiếng nói đòi

quyền bình đẳng, đòi được yêu thương và chia sẻ. “Mẹ Âu Cơ sinh được năm mươi

người con trai, năm mươi người con gái. Con trai của mẹ thì thành anh hùng, thi sĩ;

con gái của mẹ thì trở thành những bà mẹ. Đất nước anh hùng, ngoại xâm, thiên tai

liên miên nên mẹ quan tâm đến những anh hùng, thi sĩ. Mẹ đã không chú ý đến những

cô gái vốn đã dịu dàng, nhu mì, không mấy đòi hỏi mẹ. Nhưng bây giờ thì con đòi

hỏi. Mẹ ơi, mẹ hãy quan tâm đến chúng con, đến nỗi đau của những cô gái, những bà

mẹ”.

Ở thời điểm ra đời (năm 1989), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ được xem là một “dự

báo xã hội” cho tình trạng bi kịch của nhiều cô gái vị thành niên hiện nay.

Với hai truyện ngắn có thể nói xuất sắc nhất của mình, Thu Huệ và Y Ban đã

xây dựng thành công những mối quan hệ giữa mẹ và con gái, trong đó người mẹ

không có sự quan tâm đúng mức tới con dẫn đến hậu quả tai hại cho những cô gái trẻ.

Trong hai tác phẩm nêu trên, hình ảnh người phụ nữ hiện đại không được nhìn nhận ở

góc độ tính cách, mà ở góc độ tâm trạng. Qua hai nhân vật người mẹ, chúng ta tưởng

như đã chạm được vào những nỗi đau thầm kín của người phụ nữ: nỗi đau của người

phụ nữ bị ruồng bỏ, nỗi đau của người mẹ biết mình có đứa con hư. Thế nhưng điều

đọng lại trong tâm trí người đọc dường như lại là hình ảnh những cô gái trẻ đang

chập chững trước ngưỡng cửa cuộc đời. Họ chính là thế hệ phụ nữ của tương lai.

Chẳng cô gái nào có lỗi. Họ sống hồn nhiên, hành động theo sự mách bảo của trái tim

nhưng đã phải chịu đau khổ. Lỗi thuộc về những người mẹ đã không cho họ một

hành trang đủ để vào đời. Quả thật, cuộc sống hiện đại đòi hỏi rất nhiều ở người phụ

nữ.

Cũng viết về người phụ nữ trong mối quan hệ với gia đình, có một số truyện

ngắn khác khắc họa hình ảnh những người mẹ suốt đời sống vì con nhưng không

được đền đáp xứng đáng. Trong truyện ngắn Của để dành, Nguyễn Thị Thu Huệ đưa

chúng ta đến với không gian nhỏ hẹp của một gia đình Hà Nội giữa đô thị sầm uất..

“Bà Vy có ba con. Hai trai, một gái. Đều học hành đến nơi đến chốn và xinh đẹp cả.

Thằng Cả làm giám đốc công ty may. Thằng Hai làm kế toán trong một nhà máy.

Còn cô Út, là diễn viên của một đoàn kịch. Hàng tháng, con cả đưa bà năm trăm

ngàn tiền ăn chung, ba trăm tiền gạo và hai trăm tiền điện. Con thứ góp năm trăm vị

chi ăn bữa tối. Còn cô út, cười xòa: “Giàu con út, khó con út. Các anh ấy kiếm tiền

dễ, chứ con mua danh ba vạ bán danh ba hào, tiền lương không đủ hai bộ váy”. Bà

Vy làm được một việc mà không phải người phụ nữ nào cũng thành công là nuôi dạy

con khôn lớn, có công ăn việc làm ổn định. Bà phục vụ các con một cách vô điều

kiện, tận tụy chăm chỉ, và bà tìm thấy niềm hạnh phúc trong những công việc ấy. Thế

nhưng, oái oăm thay bà Vy lại chính là nạn nhân của lối suy nghĩ “nước mắt chảy

xuôi” của mình. Cái chết của bà là một hồi chuông cảnh tỉnh cho những bà mẹ hãy

dạy cho các con biết sống vì người khác. Có như vậy, con cái mới là “của để dành”

của cha mẹ. Những đứa con của bà Vy không thể nói là không thương mẹ, nhưng

chúng quá coi trọng công việc và sự tự do của riêng mình. Chúng không hiểu rằng mẹ

cần chính sự chăm sóc của chúng, chứ không phải chỉ là tiền bạc. Lời ông bác sĩ có lẽ

sẽ ám ảnh những đức con của bà Vy cho đến suốt đời: “Nạng sắt đâu có đỡ được

mãi. Mẹ cháu chỉ có thể dựa vào các cháu thôi. Mà các cháu không cho dựa thì mới

ra nông nỗi này”.

Giống với bà Vy, bà Nội trong truyện ngắn Khoảng trời phía sau nhà của

Nguyễn Thị Ngọc Tú cũng lấy con làm lẽ sống cho mình. Trong công việc ở cơ quan,

bà luôn hoàn thành xuất sắc, được mọi người quý mến, nhưng trong gia đình, bà lại là

một người phụ nữ nhu nhược. Bà trở thành cái bóng của đứa con gái lúc nào cũng

không biết: mặc quần áo của con thải ra, ăn đồ ăn thừa của con và bạn bè nó bỏ lại,

che chắn cho lối sống phóng túng của con trước những cặp mắt phán xét của bà con

hàng xóm. Bà hoàn thành công việc xã hội, một mình nuôi đứa con gái với người

chồng chết cách đây đã hơn hai mươi năm. Bà đã cho con một mái nhà êm ấm, nơi có

một người mẹ tảo tần, đoan trang, hiền hậu, luôn dõi theo mỗi bước con đi. Thế

nhưng sự chiều chuộng quá đáng của bà làm cho cô gái trở nên một con người ích kỉ.

Cô là tín đồ của lối sống “sành điệu” của một bộ phận giới trẻ thời hiện đại: ăn chơi,

rượu chè, nhảy nhót, cặp bồ lung tung. Cô chỉ biết sống cho mình, làm những gì mình

thích, không cần quan tâm đến người khác, thậm chí đó là mẹ mình. Cô từng phản

ứng với mẹ khi mẹ tỏ ra quan tâm: “Mẹ lạ thật, cái gì cũng muốn biết, cũng tò mò,

thắc mắc. Người hiện đại bây giờ không ai sống thế. Nào, nào mẹ xem, con có bao

giờ thắc mắc là mẹ làm những gì, mẹ bạn bè với ai và có ông nào đang “bắn”

mẹ…”. Bà Nội sáng suốt hơn bà Vy ở chỗ bà đã nhận ra sai lầm và tìm cách sửa

chữa. Bà thay đổi, đã biết sống cho mình. Bà may áo mới, một cái áo cổ lỗ nhưng

hợp với bà. Bà mua guốc mới, một đôi guốc của người già. Bà đi thăm bạn bè thay vì

đứng ở cửa ngóng chờ con về. Bà không phần cơm khi con về trễ. Tất cả những thay

đổi đó của bà đã làm cho cô con gái phải suy nghĩ lại. “Con người hiện đại sống

phóng túng lâu nay chẳng cần cái gì. Chẳng quan tâm tới ai. Bỗng nhiên Ngân cảm

thấy một nỗi sợ hãi. Lần đầu tiên, Ngân thấy gian nhà trống vắng đến ghê người –

ngôi nhà và nỗi trống vắng mà mẹ cô đã phải sống bao nhiêu năm trời”. Câu chuyện

của bà Nội làm cho chúng ta nghĩ về những đòi hỏi mà xã hội hiện đại yêu cầu ở

người phụ nữ. Hoàn thành tốt công việc xã hội, nuôi con khỏe và chung thủy với

chồng thôi chưa đủ, còn phải biết dạy con nên người. Người phụ nữ của xã hội ngày

hôm nay không phải chỉ biết sống vì con, mà còn phải biết sống cho mình. Dung hòa

được hai nhu cầu ấy, người phụ nữ sẽ có nhiều cơ may để trở thành người đàn bà

thành đạt và hạnh phúc.

Nếu như với đề tài mẹ - con, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Thị Ngọc Tú và Y

Ban tập trung vào vấn đề sự quan tâm đến nhau, thì Lý Lan lại khai thác khía cạnh

khoảng cách thế hệ. Truyện ngắn Mẹ và con của chị kể về hai người phụ nữ: người

mẹ đã sáu mươi tuổi, suốt ngày quanh quẩn với những công việc nội trợ “ngày hai

buổi quét lá tấp vô gốc mận, nấu hai bữa cơm, lau nhà hai lần, đóng cửa cổng cho

con gái đi và về” và cô con gái trên ba mươi tuổi “mười mấy năm nay lăn lộn chốn

thương trường, không biết đến chữ nhịn, không chấp nhận chữ thua”. Cả hai mẹ con

đều rất thương yêu nhau, bà mẹ coi việc mình hi sinh cả đời cho con gái là lẽ sống

duy nhất, còn cô con gái đã làm hết sức mình để mẹ có được những ngày cuối đời

thảnh thơi. Thế nhưng bà mẹ không hề thảnh thơi bởi “nếu không kiếm ra công việc

để cặm cụi làm suốt ngày thì bà không chịu được” và cô con gái cũng không thấy

hạnh phúc vì sự hi sinh của mẹ dành cho mình mà trái lại còn cảm thấy mệt mỏi. “Khi

bước qua tuổi ba mươi, Quyên nghĩ mẹ có cần thiết phải hi sinh như vậy không?

Người ta cần trung thực sống cuộc đời của mình, hay cứ huyễn hoặc mình bằng cuộc

sống cho người khác? Quyên đã nhận ra rằng khi một người biến người khác thành

lẽ sống của mình là đã chất một gánh nặng tồi tệ nhất lên vai người đó. Quyên càng

ngày càng mệt mỏi với cái gánh nặng đó”. Giữa hai mẹ con có một khoảng cách

không thể rút ngắn lại: đó là khoảng cách của thói quen, của nếp nghĩ, của quan niệm

về sự trật tự ngăn nắp giữa một người mẹ Việt Nam truyền thống và một cô gái Việt

Nam thời hiện đại. Cuối cùng, cô gái cố gắng tìm cách để đến gần với mẹ, bởi cô biết

cô không có gì khác ngoài ngôi nhà và mẹ, nhưng cố gắng của cô trở thành vô vọng

bởi những thói quen, những quan niệm thẩm mĩ của họ đã khác nhau rất xa. Câu

chuyện như một tiếng thở dài của con người thời hiện đại. Họ thấy cô đơn ngay cả

khi đang sống bên người mà mình yêu thương nhất.

Cũng nói về khoảng cách nhưng không chỉ dừng lại ở khoảng cách thế hệ,

truyện ngắn Cô con gái còn kể với chúng ta câu chuyện về khoảng cách được tạo bởi

nền văn hóa giữa mẹ và con gái. Một người phụ nữ có thai với người yêu. Mối tình

này bị ngăn cấm, chị vượt biên đến Mỹ sinh sống và sinh con ở Mỹ. Cô gái lớn lên

hòa nhập với nền văn hóa Mỹ, xa mẹ dần bởi mẹ không đủ vốn tiếng Anh để nói

chuyện với con, và bởi cả lối sống “tự do kiểu Mỹ” khác xa với quan niệm “tự do

trong khuôn khổ” của người Việt Nam. Đến năm hai mươi tuổi, cô nhận thức được

mình cần phải biết về nền văn hóa Việt, vì cô là người gốc Việt. Và có lẽ cũng chính

trong thời gian này, cô nung nấu quyết tâm tìm ra người cha của mình bởi cô không

muốn trở thành một “người Mỹ không căn cước”. Người mẹ lúc đầu nói dối con về

người cha của nó, bà cho rằng đấy là lời nói dối vô hại, vả lại bà không muốn khơi lại

nỗi đau thời con gái. Nhưng trước sự đòi hỏi quyết liệt của con, bà phải nhượng bộ.

“Mẹ có quyền giữ trong lòng nỗi riêng của mẹ. Nhưng con có quyền biết con là ai”.

Có lẽ là người được sống giữa hai nền văn hóa Việt Nam và Mỹ, Lý Lan có

điều kiện chứng kiến những sự khác biệt về phong cách sống của một người phụ nữ

Việt đã bị “Mỹ hóa” với người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Cùng đề tài với Mẹ và

con và Cô con gái, chị còn có truyện ngắn Ba người đàn bà. Những tác phẩm của

chị cho chúng ta một độ lùi nhất định để hiểu người phụ nữ Việt Nam thấu đáo hơn.

Lý Lan rất kiệm lời, không đao to búa lớn mà cứ nhẹ nhàng, tinh tế dẫn dụ người đọc

đến với những nỗi đau của con người thời hiện đại. Tác phẩm của chị làm cho người

ta phải lắng lòng để suy ngẫm về những con người nhỏ bé với những vui buồn chẳng

phải của riêng ai.

Góp thêm một tiếng nói với Lý Lan, Trần Thùy Mai có truyện ngắn Mưa đời

sau. Chị kể với chúng ta câu chuyện về sự chọn lựa trong tình yêu của mẹ và con gái.

Người mẹ đã từ bỏ tình yêu đích thực của mình chỉ bởi gia đình chị cho rằng nghiệp

âm nhạc của người chị yêu quá bấp bênh để sống cả một đời yên ổn nhưng không

nồng thắm với người bây giờ là cha cô gái. Còn cô gái, con chị, lại từ chối một anh

bạn Việt kiều xứng đôi vừa lứa để đến với một người đàn ông hơn cả tuổi mẹ mình vì

cô tin đã tìm được đúng người mình mong đợi. Người mẹ là một kiểu phụ nữ của thời

trước, thích sự ổn định, không dám đi đến tận cùng đam mê. Còn cô gái là kiểu phụ

nữ của ngày nay, dám mơ ước, dám quyết định, dám chịu trách nhiệm với tương lai

của mình. Cô gái đã không muốn phải lựa chọn giữa cha mẹ và người yêu. Cô thuyết

phục để có cả hai. “Con yêu ba mẹ, và con cũng yêu ông Lãm, hai điều đó không loại

trừ nhau”. Tôi giận dỗi hỏi con: “Trên đời hết đàn ông rồi sao?” Nhím mở to mắt

như muốn soi thấu cả tim can tôi: “Mẹ đã biết, nhân loại rất đông nhưng chẳng có ai

thay thế được ai”. Thật may mắn, giữa mẹ và con, hai con người của hai thế hệ, đã

tìm được tiếng nói chung. Người mẹ với tấm lòng độ lượng bao dung, với sự từng trải

của người từng chịu mất mát trong tình yêu đã tán thành quyết định của con gái. Đó

là một cách ứng xử thông minh và đúng đắn. Như vậy, so với người mẹ, cô con gái

đã đi được một bước dài. Trước kia, mẹ cô phải chọn lựa giữa gia đình và tình yêu.

Bà đã không thuyết phục, mà chọn gia đình, hi sinh tình yêu để dần dần nhận ra con

thuyền tình yêu của mình chưa bao giờ cập bến. Nay, cô gái đã có cả cha mẹ, cả tình

yêu và sự nghiệp. Cô gái là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ ngày hôm nay: mạnh mẽ,

tự tin, đầy bản lĩnh đối diện với thế giới.

Ở những tác phẩm vừa phân tích, hình ảnh người phụ nữ đã được nhìn nhận

dưới ánh sáng của tình mẫu tử. Mỗi tác giả kể với chúng ta một câu chuyện khác

nhau, và qua từng hoàn cảnh cụ thể, với những con người cụ thể, chúng ta hiểu hơn

về người phụ nữ của hai thế hệ. Ở họ vẫn có những điểm giống nhau về cá tính, về

niềm khao khát vươn tới hạnh phúc nhưng đã khác nhau rất xa ở cách ứng xử với

cuộc sống.

Tình cảm chị em cũng là một mảng đề tài trong sáng tác của các nhà văn nữ.

Qua mối quan hệ với những người thân trong gia đình, hình ảnh người phụ nữ hiện

đại hiện lên một cách toàn diện hơn. Cùng sinh ra trong một gia đình, cùng được cha

mẹ nuôi dạy trong một môi trường nhưng tính cách của mỗi người một khác. Có

người phụ nữ hi sinh hạnh phúc của mình cho người thân, nhưng ngược lại cũng có

người lại giành giật hạnh phúc từ chính người ruột thịt. Có những gia đình, chị em lấy

tình thương ra để đối xử với nhau, nhưng ngược lại, ở những gia đình khác, chị em

nhìn nhau bằng ánh mắt thù hận. Dường như lời nhắc nhở của cha ông ta: “Anh em

như thể tay chân”, “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” hay “Khôn ngoan đá đáp

người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” không còn đúng với nhiều trường

hợp. Chẳng lẽ trong xã hội hiện đại, những giá trị đạo đức lại xuống cấp đến mức

nghiêm trong vậy sao?

Truyện ngắn Thiếu phụ chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ và Hạnh của

Nguyễn Thị Minh Dậu khắc họa hình ảnh hai chị em gái khác hẳn nhau về tính cách

cũng như quan niệm sống. Người chị có tấm lòng nhân hậu, nhường nhịn, hi sinh cho

em nhưng lại phải chịu nhiều thiệt thòi mà kết cục là cái chết. Còn cô em gái được

hưởng tình yêu thương của chị lại cướp chồng của chị với mong ước có cuộc sống

đầy đủ về vật chất, gây nên nỗi nhục loạn luân. Có nội dung na ná nhau, nhưng hoàn

cảnh của từng truyện có khác. Cô Hảo trong truyện của Thu Huệ đã có một gia đình

hạnh phúc trên thành phố với người chồng đẹp trai và thành đạt mới ở nước ngoài về.

Cô em gái quyết tâm thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn bằng cách quyến rũ chồng chị.

Cô sẵn sàng dẫm đạp lên thuần phong mĩ tục, lên tình cảm chị em gắn bó bấy lâu nay

để đạt được mục đích của mình. Với cô, sự sung sướng của mình là trên hết, ngoài ra,

không cần quan tâm đến những lời khuyên nặng tình nặng nghĩa của chị. “Thời của

tôi khác thời của chị rồi. Sống như các mẹ, các chị để mà ngớ ngẩn à?... Chẳng lẽ cái

đời tôi chỉ có ăn với ngủ là xong thôi à?”. Cô nuông chiều cái con người bản năng

của mình: cần ăn ngon, mặc đẹp, thỏa mãn nhu cầu tình dục. Cô đã chiếm được

chồng chị, nhưng vẫn quan hệ với người đàn ông khác để thỏa cảm giác mới lạ. Cuối

cùng cái giá mà cô phải trả là việc sinh ra một đứa con “không có bàn tay và thiếu

một mắt”. Và người chị của cô, sau khi lặng lẽ lui về sống ở quê, cũng đã chết vì

bệnh tật và đau buồn. Một cô gái có xuất thân từ nông thôn mà hành động và suy nghĩ

như vậy có lẽ cũng không nhiều, nhưng nhân vật này là một ví dụ cụ thể cho thấy lối

sống thực dụng kiểu thành thị đã len lỏi tới những vùng quê xa.

Nếu như Hảo cùa Thu Huệ là một người chị đã nhường chồng cho em, nhận

phần thiệt thòi về mình nhưng hành động hi sinh của chị ít nhiều có tính chất bắt

buộc, thì chị Hạnh trong truyện ngắn cùng tên của Minh Dậu đã tự nguyện hi sinh sự

nghiệp, tuổi trẻ, tình yêu của mình cho em. Năm mười tám tuổi, Hạnh đã phải một

mình nuôi hai đứa em nhỏ. Cô rời bỏ giảng đường Đại học, chở xe than đi bán khắp

ngang cùng ngõ hẻm. Nay đã hai mươi chín tuổi, cô vẫn chưa lấy chồng, vẫn tất bật

với những lo lắng chạy vạy để xin cho em môt việc làm. Hạnh và em gái khác hẳn

nhau. Hạnh xinh xắn và trầm lặng, còn em gái thì sôi nổi, tươi rói và hừng hực sức

sống. Em gái của Hạnh đã tốt nghiệp trường Sư phạm nhưng chưa có chỗ dạy, mới

hai mươi mốt tuổi nhưng có vẻ lọc lõi, từng trải. Cô từng cãi lại chị: “Con gái con

đứa thế kỉ hai mốt nó thế chị Hạnh ạ”. Cô sẵn sàng làm tất cả để thay đổi số phận, kể

cả việc chiếm đoạt người yêu của chị, anh chàng mà cũng nhờ chị cô mới có ngày

hôm nay. Ở Hạnh có đức hi sinh, lòng tin vào những người thân yêu của mình nhưng

cuối cùng cô nhận thấy mình “chẳng khác nào con dã tràng”. Truyện ngắn để lại

trong lòng độc giả một dư vị xót xa khi trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ này, đôi

lúc, cái xấu xa, thấp hèn lại chiếm ưu thế so với cái cao cả, đẹp đẽ. Có một câu hỏi

dường như trở đi trở lại trong những tác phẩm này: Để tồn tại trong cõi nhân gian

chật chội, con người buộc phải tàn nhẫn thế sao?

May mắn là không phải mối quan hệ chị em nào cũng nhuốm màu bon chen

thực dụng như ở hai truyện ngắn nói trên. Nhà có ba chị em của Võ Thị Xuân Hà kể

về ba chị em gái rất yêu thương nhau, dù mỗi người ở trong một cảnh ngộ chẳng lấy

gì làm sung sướng. Cô chị làm giáo viên đã quá lứa nhỡ thì, sống lặng lẽ và an phận.

Cô em thứ hai là nhà báo, có chồng con nhưng không tìm thấy hạnh phúc trong đời

sống vợ chồng. Cô em út đã có hai đời chồng mà vẫn không toại nguyện, vẫn đang

trên con đường tìm kiếm người đàn ông giàu có để được ấm thân. Chẳng ai trong số

họ hạnh phúc, nhưng họ luôn nghĩ đến nhau, chia sẻ những khó khăn về vật chất và

những bí mật tâm hồn. Tình cảm chị em gắn bó là thế nhưng vẫn không đủ sức mạnh

kéo họ lại gần với nhau. Cuối cùng, cô chị cả ở lại nhà, hi vọng vào một hạnh phúc

muộn mằn; cô chị thứ hai chọn cái chết để giải thoát khỏi mối tình ngang trái với một

chàng trai trẻ; còn cô em út lấy chồng Tây và tự biến mình thành một con búp bê

trong lồng kính nơi phương trời xa lạ. Mỗi người đi trên con đường số phận mình, họ

vĩnh viễn xa nhau.

Với dung lượng ngắn gọn của thể loại truyện ngắn, những tác phẩm trên đã cho

chúng ta những nhận thức về người phụ nữ hiện đại trong từng mối quan hệ: với

chồng, với con, với đấng sinh thành và với anh chị em trong gia đình. Bởi vì chỉ chú

trọng vào một mối quan hệ, nên nhân vật được miêu tả có độ sâu của tính cách, tâm

trạng và cũng vì chỉ chọn một khía cạnh của hiện thực để khám phá nên những ý

tưởng mà các nhà văn gửi gắm có sức thuyết phục cao. Là một “lát cắt” của hiện thực

cuộc sống, mỗi truyện ngắn đưa chúng ta đến với người phụ nữ trong một thời điểm

nào đó của cuộc đời họ. Nhiều truyện với nhiều cảnh đời tạo nên một bức tranh toàn

cảnh về người phụ nữ của xã hội hiện đại.

Với lợi thế về dung lượng, tiểu thuyết có thể kể với chúng ta câu chuyện về

một đời người. Đời người phụ nữ phải đương đầu với biết bao biến cố xã hội, phải

ứng xử với biết bao mối quan hệ phức tạp trong gia tộc, trong gia đình. Cuốn tiểu

thuyết Gia đình bé mọn cùa Dạ Ngân kể một câu chuyện như vậy.

Như tên gọi cuốn tiểu thuyết, Gia đình bé mọn trước hết là tác phẩm kể

chuyện gia đình. Có lẽ bất kì ai có quan hệ mật thiết với tác giả đều nhận thấy một

cách lồ lộ bóng dáng của chị qua nhân vật chính Mỹ Tiệp. Theo Hoài Nam trong bài

báo Gia đình bé mọn” – “bản dập” cuộc đời Dạ Ngân? thì “đây là câu chuyện về

những gia đình của nhân vật nữ nhà văn tên Tiệp”.

“Gia đình 1: Đây là gia đình mà Tiệp đã sinh ra và lớn lên từ đó, gia đình của

những người đàn bà góa chồng hoặc không chồng, cái gia đình luôn phải gồng mình

lên để gánh chịu nỗi bất hạnh và cả sự kiêu hãnh của một mái nhà thiếu hơi ấm

người đàn ông.

Gia đình 2: “Gia đình hạt nhân”, gia đình mà Tiệp và người chồng tên Tuyên

là những vật liệu xây dựng tỏ ra đã chẳng có chút kết dính nào ở những phẩm chất

nhân tính cơ bản, và vì thế, tan vỡ là kết cục tất yếu của nó.

Gia đình 3: “Tập hai” trong “lịch sử đời sống vợ chồng” của Tiệp. Cùng với

Tiệp làm nên gia đình này là “gã” nhà văn lãng tử có tên Đính, người đã cùng Tiệp

đi qua cái “đích lịch trình khổ nạn” là 11 năm yêu đương trong cảnh người Bắc kẻ

Nam, trong cái nghèo đói đáng rùng mình của một thời bao cấp, trong cả những điều

tiếng tàn nhẫn của dư luận xã hội. Con đường đời của Tiệp là đi từ gia đình 1 đến

gia đình 3”.

Tiệp đã đi những bước vất vả khó nhọc trên đường đời không hề bằng phẳng

của mình. Ở gia đình 1, Tiệp có một người mẹ hết mực thương con, một người cô uy

quyền suốt đời nghĩ tới hạnh phúc của những đứa cháu, và những người chị mỗi

người một tính nhưng đều thương em theo cách của mình. Theo nghiệp văn chương,

Tiệp đã là một đứa con lạc loài của dòng họ. Bỏ chồng, Tiệp chịu tiếng làm ô danh

gia đình. Từ gia đình ấy, Tiệp bước ra cuộc sống, bị gia đình từ bỏ, rồi cuối cùng lại

được trở về. Gia đình và dòng sông Hậu luôn mở rộng vòng tay bao la ôm ấp và chở

che cho những đứa con của mình. Qua nhân vật Tiệp, ta có thể nhận thấy người phụ

nữ và gia tộc của mình có mối quan hệ gắn bó bền chặt vô cùng. Dù có lúc này, lúc

kia, mối quan hệ ấy phải chịu đựng thử thách, nhưng cuối cùng rồi những người thân

cũng sẽ đón người phụ nữ trở về và đứa con lưu lạc ấy lại thấy mình bé nhỏ trong

tình thương vô bờ bến của những người ruột thịt.

Ở gia đình 2, Tiệp tỏ ra cứng cỏi với người chồng bao nhiêu thì lại yếu đuối

trước những đứa con bấy nhiêu. Chị luôn phải dằn vặt bản thân vì cân nhắc giữa việc

sống cho con và sống cho mình. “…nàng muốn được gào khóc, được đào bới, nàng

muốn vạch đất xé trời để được nhìn thấy các con… Để được sống với người mình yêu

cũng có nghĩa là phải thường xuyên gào khóc với lương tâm làm mẹ như vầy sao, cái

giá này nàng đã ước lượng được hết chưa và phải trả đến bao giờ?”. Chính vì vậy,

khi đã có gia đình 3, gia đình mà Tiệp phải vượt qua bao gian nan thử thách, bao

“miệng lằn lưỡi mối” của dư luận trong suốt mười một năm trời mới có được thì chị

cũng không cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc.

Cuối cùng, chúng ta nhìn thấy hình bóng của một người phụ nữ nữa trong tác

phẩm, đó là cô con gái Tiệp. Cô là đứa con của một gia đình mà cha mẹ chia tay nhau

để thành lập nên những gia đình mới. Cô được tự do sống trong căn hộ chung cư mẹ

để lại, có điều kiện theo lối “sống thử” của thanh niên đương thời với một chàng bạn

học đẹp trai. Có người mẹ rất thương con nhưng lại ở quá xa, có người cha giàu có và

quyền thế, hoa mắt trước thế giới bổng lộc của cha và tiếng gọi quyến rũ của tình yêu

tuổi trẻ, cô đã phải từ bỏ giảng đường Đại học để lập gia đình. Ở phần kết truyện,

nhân vật chính của chúng ta nhận ra rằng: “Tình duyên lận đận, học hành dở ương,

con cái nhỏ dại, cái vòng tròn của nàng chưa khép lại mà vòng tròn của con gái nàng

đã chồng lên…”. Dường như đây không còn là những suy nghĩ của nhân vật mà

chính là những chiêm nghiệm của nhà văn về cuộc đời những người phụ nữ, nhưng

người mẹ trên cõi đời này: Hành trình một đời người phụ nữ, hành trình của tình mẫu

tử quá dài, “nó trải ra, thác ghềnh, sông ngòi, biển cả và tận cùng chắc chắn sẽ là

một nắm đất, nhưng cho dù có là một nắm đất mệt nhoài đi nữa thì hành trình ấy

chắc gì đã kết thúc”.

Đời người phụ nữ có nhiều gánh nặng và niềm vui, vinh danh và cay đắng. Với

Gia đình bé mọn, nhà văn Dạ Ngân đã xây dựng một mẫu hình phụ nữ chủ động lèo

lái con thuyền cuộc đời mình, một kiểu phụ nữ kiên nhẫn đến cùng để sống thật và

sống đẹp với chính nhu cầu tinh thần của mình. Và ở phương diện này, phải chăng

Gia đình bé mọn chính là thiên tiểu thuyết tiếp tục cái mạch mà tiểu thuyết Tự Lực

văn đoàn rất hứng thú: khẳng định cá nhân, ca ngợi những con người dám đương đầu

với tất cả để bảo vệ hạnh phúc, bảo vệ phẩm giá của mình?

2.3. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với bản thân

Không phải cho đến ngày nay, các nhà văn mới chú ý đến nhu cầu sống cho

mình của người phụ nữ. Nhưng phải đợi đến ngày nay, với sự xuất hiện của nhiều

nhà văn nữ thì những khao khát về hạnh phúc của người phụ nữ mới được bày tỏ ở

tầng sâu bản thể. Bằng sự trải nghiệm của bản thân, bằng những hiểu biết cặn kẽ về

những nhu cầu, đòi hỏi của người phụ nữ, các nhà văn đã mở ra trước mắt chúng ta

một thế giới tâm hồn phong phú, một “cõi” riêng phức tạp đến lạ kì. Dưới cái nhìn

sâu sắc, tinh tế, có khả năng phát hiện ra những ngõ sâu trong tâm hồn con người,

người phụ nữ của xã hội hiện đại hiện ra trên trang viết của các nhà văn nữ với nhiều

hoàn cảnh, nhiều số phận. Mỗi người mỗi vẻ, mỗi con đường, mỗi thế giới tâm linh

riêng…

Y Ban với Sau chớp là bão dông, Người đàn bà và những giấc mơ, Người

đàn bà đứng trước gương, Một phần ba cuộc đời, Đàn bà xấu thì không có quà…;

Võ Thị Hảo với Góa phụ đen, Bàn tay lạnh, Máu của lá, Làn môi đồng trinh…;

Phạm Thị Hoài với Người đàn bà với hai con chó nhỏ, Hai mươi năm sau, Thiên

sứ…; Nguyễn Thị Thu Huệ với Mại, Giai nhân…; Bích Ngân với Bồng bềnh thiên

sứ ; Phạm Thị Ngọc Liên với Biển hôm nay nhiều nắng; Nguyễn Thị Ngọc Tú với

Dưới ánh đèn nhiều màu; Nguyễn Thị Anh Thư với Không nhan sắc ; Lê Minh

Khuê với Cơn mưa cuối mùa là các tác giả có những tác phẩm viết về người phụ nữ

hiện đại với những mối quan tâm hướng về bản thân mình.

Người phụ nữ Việt Nam xưa bị bó buộc bởi lễ giáo phong kiến hà khắc. Họ

không tự quyết định được số phận của mình mà phải phụ thuộc vào những người đàn

ông trong gia đình. Chúng ta hẳn ai cũng biết câu chuyện về cuộc đời một người con

gái đẹp người đẹp nết có số phận bất hạnh: nàng Vũ Thị Thiết trong truyện cổ tích Vợ

chàng Trương mà sau này Nguyễn Dữ sáng tạo lại thành truyện truyền kì Chuyện

người con gái Nam Xương. Nàng Vũ Nương ở nhà chờ chồng nuôi mẹ già và con

nhỏ, một lòng thủy chung, hiếu thảo, mà cuối cùng chỉ vì cơn ghen mù quáng của

người chồng ít học, vũ phu đã làm cho nàng không còn con đường sống. Người phụ

nữ xưa, khi bị chồng đánh đập, đuổi đi thì cầm như chỉ cách vào chùa đi tu hoặc chọn

cái chết để giải thoát. Ngày nay, người phụ nữ đã được quyền định đoạt cuộc đời

mình. Đã xa rồi cái cảnh “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.

Trong truyện ngắn của các nhà văn nữ nổi bật hình tượng người phụ nữ tự chủ

trong cuộc sống. Chính họ chứ không phải ai khác chọn cho mình một lối sống, một

con đường tạo nên số phận cho mình. Có thể họ chọn cho mình một cuộc sống độc

thân, suốt đời thiếu vắng đàn ông như Mại trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn

Thị Thu Huệ, Trang trong Bàn tay lạnh, Thuận trong Goá phụ đen của Võ Thị Hảo.

Có người quyết định lập gia đình khi đã ý thức rất rõ những phiền phức có thể sẽ gặp

phải như Cẩm trong Tai nạn của Lý Lan. Có người lại quyết tâm thoát ra khỏi cuộc

hôn nhân khi thấy không còn tình yêu với người chồng mà trước đây chính họ đã lựa

chọn như Phượng trong truyện ngắn cùng tên của Lý Lan, hay như Tiệp trong tiểu

thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân mà chúng tôi đã nhắc đến ở phần trên. Lại có

những người quyết tâm làm lại cuộc đời sau khi nhận thấy những sai lầm của mình

trong quá khứ như Thi trong Bồng bềnh thiên sứ của Bích Ngân, Tường trong Biển

hôm nay nhiều nắng của Phạm Thị Ngọc Liên… Mỗi người mỗi cảnh nhưng họ đều

giống nhau ở khát vọng hạnh phúc trong tình yêu và hôn nhân. Đối với những phụ nữ

này, cả đời họ là cuộc rượt đuổi để kiếm tìm hạnh phúc, nhưng với họ đó là một khái

niệm quá xa xôi, quá mơ hồ luôn vuột khỏi tầm tay với.

Có những trang viết rất xúc động về ước mơ làm mẹ của người phụ nữ. Đó là

những xao động, những run rẩy trong tâm hồn của một phụ nữ khi biết mình sắp được

làm mẹ: “Dấu hiệu có mang thì Thi biết rất rõ… Thi không e dè cho Khả nhìn thấy,

cảm thấy những dấu hiệu cấn thai. Trước tiên là hai bầu vú. Chúng đã bắt đầu căng

lên như sẵn sàng tích sữa. Mỗi khi đôi tay Khả chạm vào bầu vú mân mê là mỗi lần

Thi có cái cảm giác đau nhức sung sướng của một thân cây như mầm, một cơ thể

đang khai hoa, một người đàn bà sắp được làm mẹ”. Chị day dứt, dằn vặt khi buộc

phải bỏ đi giọt máu của tình yêu: “Thi chới với. Khả quay ngoắt, vội vã như thể anh

ta vừa vứt Thi vào một bãi rác khổng lồ chứ không phải là bệnh viện, nơi mà tất cả

đàn bà con gái đến đây, trừ những người được hạnh phúc làm mẹ, còn lại, họ không

chỉ chịu đựng đớn đau về thể xác, mà còn đeo đẳng sự tổn thương nơi tâm hồn bởi

những giọt máu mà họ không thể cưu mang”. Và cuối cùng chị đi đến quyết định giữ

lại đứa trẻ cho riêng mình: “Thi đứng dậy, bước ngược ra cổng, thấy trào thương cái

sinh linh đang bám chặt máu thịt mình” (Bồng bềnh thiên sứ - Bích Ngân).

Được làm mẹ có lẽ là mong ước của mọi phụ nữ. Đối với những người phụ nữ

bình thường, việc lập gia đình rồi sinh con đẻ cái là việc làm hợp lẽ, và nếu mọi việc

diễn ra dễ dàng và suôn sẻ thì cái việc được làm mẹ trẻ con thường gắn với những

trách nhiệm nặng nề mà nhiều khi còn làm cho người ta mệt mỏi. Những hạnh phúc

bình thường, ít sóng gió ấy thường không tạo được cảm hứng cho các nhà văn, mà

những chuyện tình éo le, dị biệt thì lại được chú ý khai thác. Trong các tác phẩm về

đề tài này, khao khát được làm mẹ của người phụ nữ thường được các nhà văn nữ đặc

biệt quan tâm. Trong cuộc sống ngày nay con người có nhiều lí do để sống chung với

nhau khi chưa là vợ chồng. Và khi đó, đứa con không được phép ra đời vì nó sẽ là vật

cản cho sự tự do, cho lạc thú và trói buộc những người trong cuộc vào biết bao nhiêu

trách nhiệm và nghĩa vụ. Thế nhưng, phụ nữ muôn đời vẫn thế. Có thể một lúc nào đó

họ mềm lòng thả trôi mình trong vào một mối quan hệ vợ chồng không chính thức,

nhưng nếu thực sự yêu, họ sẽ muốn có một đứa con mang gương mặt tình yêu. Nhu

cầu được chính danh trong họ sẽ hối thúc họ bày tỏ với người đàn ông họ yêu. Và

thông thường trong những hoàn cảnh éo le đó, nhu cầu được làm mẹ trỗi dậy rất

mãnh liệt. Những cảm xúc rất đặc biệt này khi được viết lên từ chính những trải

nghiệm của người phụ nữ, nó chân thật, tinh tế đến nghẹn ngào. Do có khả năng nhạy

bén trong miêu tả tâm trạng nên các nhà văn nữ đưa nhân vật của mình đến gần với

độc giả hơn. Đằng sau những chuyện không đâu vào đâu, đằng sau những "vùng

lặng" lại là những nốt nhấn thấm đến tận tâm can người đọc. Chắc rằng nhiều độc giả

nữ cũng tìm thấy mình trong những rung động, những xúc cảm của nhân vật trải ra

trên trang giấy. Đây chính là thế mạnh nổi bật của các cây bút nữ.

Cuộc sống nội tâm của phụ nữ thời nay hiện lên trên trang văn thật vô cùng

phức tạp. Có người cả đời khao khát được làm vợ, làm mẹ mà không toại nguyện, có

người đã nắm chắc trong tay một gia đình yên ấm lại có những phút giây xao lòng

đẩy cuộc hôn nhân của mình vào tình trạng điêu đứng. Ngày trước, những chuyện

như vậy thường được người ta gói ghém và cất kĩ vào đáy sâu của tâm hồn. Còn ngày

nay, những chuyện ngoại tình được bày tỏ một cách công khai, như một lời tâm sự

của người phụ nữ về những nhu cầu tình cảm không thể nói là không chính đáng.

Truyện ngắn Sau chớp là bão dông của Y Ban kể về cuộc đấu tranh nội tâm

của người phụ nữ khi chị “phải lòng” một người đàn ông cùng đoàn trong một

chuyến công tác xa. Thoát khỏi những lo toan bề bộn đời thường, người phụ nữ trở

nên tươi tắn, đằm thắm đầy quyến rũ. Một ánh nhìn mê hoặc, một sự chăm sóc dịu

dàng âu yếm, một câu tán dương đúng lúc có đủ sức mạnh làm cho người phụ nữ

thủy chung, sắt đá nhất vương vào lưới tình. Họ nhìn lại cuộc hôn nhân của mình và

nhiều khi thấy người chồng đầu gối tay ấp bao năm sao mà nhạt nhẽo, những cảm

xúc yêu đương với chồng không còn nồng thắm như thủa đầu mà đã bị năm tháng

mài mòn đi. May mà cả hai người đã biết dừng lại đúng lúc. Thời gian cho họ tỉnh táo

nhìn lại những tình cảm của mình và nhận thức được trách nhiệm của mình với người

bạn đời và những đứa con, những người không hề có lỗi. “Sau một tháng vật vã với

chính những cảm xúc trái ngược, nàng dần cân bằng trở lại bằng chính sự chăm sóc

của chồng”. Những phút giây xao động “ngoài chồng vợ” đó được hai người ví với

tia chớp lúc trời sắp bão dông. “Ơn trời nàng đã vượt qua được cơn bão đó”. Truyện

ngắn này của Y Ban làm cho chúng ta liên tưởng đến một truyện tương tự của nhà

văn Lê Minh Khuê, truyện Cơn mưa cuối mùa. Trong một chuyến công tác, Mi gặp

Bình, và tình yêu đến với họ. Họ tiếc là gặp nhau quá trễ, khi cả hai đều đã có gia

đình, tuy vậy, họ vẫn có những tháng ngày thật đẹp bên nhau, tưởng rằng không thể

sống thiếu nhau. Cho đến khi trở về với gia đình riêng của mình, mỗi người mới nhận

ra rằng: “Mọi thứ đã xong xuôi rồi”. Cái gia đình mà họ đang có là một lô cốt bền

vững không dễ gì phá bỏ. Cơn bão lòng cũng theo thời gian mà lắng dần.

Những nhân vật phụ nữ của Y Ban thường là phụ nữ trí thức, nên có những

mối quan hệ rộng rãi do công việc mang lại. Những nhu cầu tình cảm của người phụ

nữ trí thức không đơn giản. Họ có đòi hỏi cao về cuộc sống tinh thần và thường rất

nhạy cảm. Do điều kiện công việc, họ được tiếp xúc với nhiều người đàn ông, và

không thiếu gì những người tài hoa hâm mộ họ. Những nhân vật nữ trí thức thường

cân nhắc, suy xét rất kĩ càng và thường không buông thả mình trôi theo cảm xúc bồng

bột mà biết dừng lại để bảo tồn những gì đang có trong tay. Tuy biết tự kiềm chế

trong các mối quan hệ, nhưng có lẽ bản tính lãng mạn làm cho những người phụ nữ

kiểu này thường không thôi khao khát và mơ ước đến sự hoàn hảo. Họ luôn sợ sự cũ

kĩ trong cảm xúc, nhàm chán trong thói quen mà một cuộc hôn nhân lâu bền thường ít

khi tránh khỏi. “Nàng đã từng rất yêu chồng và chưa từng ngủ với ai khác ngoài

chồng. Trong cuộc hành trình chồng nàng cũng nhiều lần làm cho nàng thỏa mãn.

Thực tế trong lòng không bao giờ nàng muốn ngủ với người đàn ông khác ngoài

chồng. Nhưng anh đã không còn làm nàng xốn xang được nữa. Khi anh động vào

nàng, nàng không còn cảm giác rùng mình rồi tan biến đi. Trong khi đó những người

đàn ông mà nàng đã ngoại tình lại mang đến cho nàng các cảm giác mới mẻ như

thủa ban đầu. Trong cuộc sống, nàng càng không vừa lòng bao nhiêu thì nàng hay

trốn vào các giấc ngủ bấy nhiêu. Giấc ngủ sẽ bao che cho nàng, mà trong đó nàng

luôn được thỏa mãn, sự thỏa mãn không bao giờ có hình bóng”. Có những người đàn

bà như vậy, họ gửi gắm những ao ước thầm kín của mình trong những giấc mơ mỗi

khi giận dỗi hay thất vọng về chồng. “Rồi bao nhiêu đêm trôi qua. Rồi bao nhiêu

người đàn ông nàng đã ngoại tình, nàng cũng không nhớ nữa” . Và cuối cùng, người

phụ nữ cũng đã tỉnh lại nhờ đứa con, cái hình hài máu mủ được tạo ra bởi tình yêu

với chồng. “Từ ngày ấy, nàng không bao giờ còn phản bội chồng và các con nữa.

Nàng sống yêu thương chồng con và làm tròn bổn phận của mình”. (Người đàn bà

và những giấc mơ)

Truyện ngắn Một phần ba của cuộc đời của Y Ban lại là lời tâm sự của một cô

gái đã có chồng, con và một gia đình hạnh phúc vẫn đau đáu về người đàn ông xưa.

Tuy thế nhưng cô lại không thể “đánh đổi sự bình yên mà em phải đấu tranh bao

nhiêu ngày tháng mới giành giật được”. Cuối cùng cô đã chọn giải pháp ghép anh

vào cuộc đời hiện tại của mình: “Anh, chồng em, con em”. Đó quả là sự lựa chọn của

người phụ nữ hiện đại!

Bằng rất nhiều tác phẩm về đề tài này, Y Ban đã chỉ ra trăm ngàn lí do dẫn đến

sự ngoại tình trong tâm tưởng của người phụ nữ, những lí do không khỏi làm cho

người đàn ông phải suy nghĩ. Có thể nói rằng chị đã cất lên tiếng nói vừa như bày tỏ,

vừa như thanh minh cho người phụ nữ lại vừa như chỉ ra những ranh giới cho người

phụ nữ biết để mà dừng lại. Và trong quá trình viết luận văn này, chúng tôi cảm thấy

rất thú vị khi phát hiện ra rằng dường như mỗi nhà văn nữ khi viết về người phụ nữ

hiện đại thường tâm đắc với một kiểu nhân vật. Trở đi trở lại trong những tác phẩm

của Y Ban hình ảnh người phụ nữ ngoại tình, ở Võ Thị Hảo: người phụ nữ “tắt lửa

lòng”, ở Lý Lan: người phụ nữ tự chủ, ở Bích Ngân và Phạm Thị Ngọc Liên: người

phụ nữ lụy tình, ở Nguyễn Thị Thu Huệ: người phụ nữ dở dang duyên phận… Mỗi

nhà văn với nét đặc sắc riêng của mình đã hé mở cánh cửa dẫn vào thế giới tâm hồn

đa cảm đến khó cắt nghĩa của người phụ nữ thời đại ngày nay.

Trên con đường nhận diện bản thân, nhiều nhân vật phụ nữ nhìn thấy mình đã

từng rơi vào ảo tưởng. Đó có thể là ảo tưởng về sức mạnh của nhan sắc hoặc là cả tài

năng và nhan sắc nhưng phần nhiều là ảo tưởng về tình yêu. Trong truyện ngắn Giai

nhân của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng ta chứng kiến tâm trạng buồn bực của cô Sao,

một cô gái đẹp từng được nhiều chàng trai săn đón trong cái ngày nhận ra mình đã bị

“thất sủng”. “Hết rồi. Tất cả thế là hết. Cách đây mười lăm phút, Sao đã đập tan

chiếc máy điện thoại. Ba ngày trước, bỗng nhiên Sao thấy hụt hẫng một cách vô cớ,

lòng dạ hoang vắng, nhạt thếch. Mùi bún chả nướng từ hàng xóm bay sang nhắc cho

Sao thấy đã qua một ngày. Sao mới chợt nhận ra ngày hôm nay cái điện thoại im

phăng phắc như thể bị đứt dây hoặc là không tồn tại trong ngôi nhà này. Mới hôm

qua, và dài đằng đẵng những năm trước đó, nó liên tục kêu réo như một con dê bị đói

triền miên. Bảy giờ sáng, đã reng reng, mười hai giờ đêm cũng còn reng reng. “A lô,

em đấy à, anh đón em đi ăn sáng nhé”. “A lô, Sao ơi, cái lão Thanh cơ quan tao cứ

dứt khoát bắt tao đón mày đến dự sinh nhật lão tối nay. Mày vì tao mà đến nhé, tao

đang nhờ lão một việc”. “A lô, trưa nay em đi ăn cơm với tôi nhé, tôi cần em”. “A lô,

chiều nay lên hồ Tây bơi thuyền được không cô bạn nhỏ?”. “A lô… chúc em bé của

anh ngủ ngon”. “Em là của anh hồi nào vậy?”. “Bây giờ thì chưa nhưng sắp”. Cười.

A lô, A lô, A lô. “Vào mùa sen rồi, hoa thì chưa có nhiều, mới chỉ có những ống nụ

đen đen thôi nhưng chiều nay anh sẽ lên Phủ Tây Hồ mua cho em một bó nhé, thơm

tuyệt vời”… A lô… Thế rồi. Bỗng dưng. Im bặt…”. Hồi trẻ, Sao có sắc đẹp, trí thông

minh, nhưng lại thừa lòng tự cao và sự hiếu thắng. Cô đi qua nhiều cuộc tình, cũng có

nhiều chàng trai muốn tính chuyện lâu dài với cô, nhưng cô đã luôn lắc đầu từ chối.

Cô còn dám phá bỏ giọt máu của tình yêu để được tiếp tục hưởng thụ tuổi trẻ và cuộc

sống, được “sáng lấp lánh giữa những người xung quanh”. Đối với cô, tài sản quý

giá nhất là nhan sắc. Cô chỉ biết đến ngày hôm nay, mà không nghĩ đến một ngày sắc

đẹp mĩ miều rồi cũng sẽ phải tàn phai… để đến một ngày, ngắm mình trong gương,

Sao nhận ra “mí mắt sụp sụp, dưới mắt mòng mọng sưng, hai vành môi đã bắt đầu

đen và lỗ chân lông trên mặt to ra như những đầu tăm” Sao hụt hẫng, chới với thì đã

muộn. Sao vẫn chờ một người đàn ông đến gõ cửa nhà cô, nhưng xem ra hạnh phúc

còn ở quá xa. Sao đã phải trả giá cho sự hoang phí tuổi trẻ và tình yêu của mình. Tâm

trạng của cô gái này có nhiều điểm tương đồng với người phụ nữ trong truyện ngắn

Người đàn bà đứng trước gương của Y Ban. Cũng tưởng mình còn đẹp, còn quyến

rũ, nhưng khi ngắm mình trước gương, cô ta nhận ra “một sự xấu xí đến rùng mình”.

Người chồng cũ, người tình mới và cả sự thành đạt mà cô hằng tự hào giờ đây đều trở

thành vô nghĩa. Với cô, lúc này chỉ có hai đứa con là quan trọng. Chúng không cần

một người mẹ xinh đẹp, một người mẹ danh giá. “Chắc nó cần một người mẹ làm

con thỏ sứt môi hơn là một người mẹ danh giá nhiều”. Dù sao cô cũng còn là một

người phụ nữ may mắn, bởi cô đã tỉnh táo để nhận ra mình, và khi đã ra khỏi ảo

tưởng, cô vẫn còn cái để mà trở lại với cuộc sống bình dị thường ngày.

Viết về ảo tưởng trong tình yêu, truyện ngắn Dưới ánh đèn nhiều màu của

Nguyễn Thị Ngọc Tú kể với chúng ta câu chuyện cuộc đời của một người phụ nữ có

tên là Nhạn. Chị đã trải qua hai cuộc hôn nhân, người chồng thứ hai biết chiều

chuộng chị và xây đắp gia đình, là niềm mơ ước của nhiều phụ nữ. Nhưng chị vẫn

cảm thấy thế là chưa đủ. Chị chạy theo một anh chàng “mọt sách” đã có vợ con bởi

“anh lịch lãm, anh có tâm hồn, anh không giống hai người chồng của chị”. Chị cảm

thấy như đã tìm được anh, như anh đến từ nỗi khao khát, mong chờ của chị bấy lâu.

Chị cung phụng cho anh đủ thứ, chị trốn chồng trốn con để mỗi tháng bay ra Hà Nội

một lần với anh. Cuộc tình vụng trộm bao giờ cũng có dư vị ngọt ngào. Chị tìm mọi

cách li dị chồng, bỏ lại đứa con, bỏ Sài Gòn để ra ở hẳn Hà Nội với anh. Và khi ấy,

chị mới biết mình dại dột, mình bỏ tất cả để đến với anh trong khi anh vẫn muốn có

vợ cái con cột, được lên lương, được phân đất, và nhất là anh chỉ muốn mãi mãi sống

vụng trộm với chị bởi anh sợ bị chê cười. Chị tỉnh ra khỏi ảo ảnh tốt đẹp về anh,

muốn quay về với chồng con sống yên phận, nhưng “tình cảm như bát nước đổ đi

không đong lại được”. Và thế là chị lại trượt dài vào cuộc sống già nhân ngãi, non vợ

chồng với những người đàn ông khác, chẳng hề nghĩ đến tương lai các con, cũng

chẵng nghĩ đến một ngày kia sắc đẹp héo tàn. “Chị rõ ràng, sòng phẳng, dám sống

và dám chịu trách nhiệm về mình. Khi đã yêu, chị biết hi sinh cho tình yêu. Đó là

những tính tốt. Nhưng sai lầm này bắt nguồn từ đâu? Và vì sao?” Tác giả để ngỏ câu

hỏi hóc búa này. Phải chăng do chị không biết cân nhắc và chọn lựa, không biết nuôi

dưỡng hạnh phúc bền vững với những đứa con ngoan mà suốt đời đứng núi này trông

núi nọ. Câu chuyện cuộc đời chị là một bài học cho những phụ nữ khác hãy biết trân

trọng và yêu mến những gì mình đang có.

Cũng là cái dõi mắt vào thế giới tâm hồn sâu thẳm đầy sóng gió của người phụ

nữ, ngòi bút của Phạm Thị Hoài tỏ ra có tính khái quát hơn so với các chị em bạn văn

của mình. Chị cũng viết về ảo tưởng của người phụ nữ trong tình yêu, nhưng không

chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những sai lầm, ngộ nhận thường thấy trong cuộc sống mà

chị khái quát nên những quy luật của tình cảm mà lí trí của con người không thể kiểm

soát, không thể cưỡng lại được. Truyện ngắn Hai mươi năm sau của chị kể về cuộc

gặp gỡ của hai người yêu nhau sau hai mươi năm xa cách. Hồi trẻ, họ buộc phải chia

tay nhau “nhân danh trách nhiệm và lòng nhân đạo đối với những người tử tế và vô

tội khác, nhân danh sự tôn trọng tự do cho mỗi cá nhân, nhân danh lí trí sáng suốt và

nhân danh cả đức tin, họ đã khẳng định rằng họ thuộc về nhau không ở kiếp này thì

kiếp khác, và sự xa cách chỉ là một thử thách xứng đáng cho những tính cách mãnh

liệt”. Nhưng sau hai mươi năm, khi đã có đủ tự do để được sống với tình yêu, họ gặp

lại để rồi nhận ra “Tình yêu cần sự hiện diện. Chúng mình chỉ là những người bình

thường, chẳng phải thần thánh, cũng chẳng phải cái gì ghê gớm lắm để có thể dành

dụm mình cho một khái niệm vô hình suốt hai mươi năm. Đừng cưỡng lại thời gian.

Đừng làm điều trái tự nhiên ấy nữa. Tội nghiệp”. Phải cần tới hai mươi năm để chị

nhận ra thân phận tội nghiệp của tình yêu mà thời trẻ chị ngỡ là vĩnh hằng. Chị biết,

đó không phải là lỗi của ai cả. Mọi người đều thế cả thôi. Không thể có cái gì tồn tại

mãi trong cùng một trạng thái, và tình yêu cũng giống như một cái cây, không thể

tươi xanh nếu không được thường xuyên chăm sóc và vun xới. Con người sẽ biến đổi

theo năm tháng, cả về thể chất lẫn tinh thần. Và họ chia tay. “Lần này chia tay, họ

chẳng nhân danh điều gì, và cả hai đều có cảm giác gần như nhẹ nhõm”. Họ nhẹ

nhõm bởi đã thoát khỏi ảo tưởng tình yêu.

Trong Người đàn bà với hai con chó nhỏ, tình yêu lại mang một khuôn mặt

khác. Hai người đã có chồng, có vợ gặp nhau: một nam nhà văn tài hoa và một nữ

họa sĩ nổi tiếng. Biển nên thơ, hai con chó nhỏ xinh xắn, chị đẹp thanh cao và những

nét vẽ run rẩy, xiêu vẹo đến thắt lòng. Họ tưởng như tìm được con người mà cả đời

ao ước. Họ yêu nhau ngay trên chiếc ghế đá trông ra biển, giữa tiếng cho sủa ngập

ngừng vào những tia mặt trời cuối cùng trên bãi cỏ đầy hơi thở của biển. Họ dự định

một ngày nào đó sẽ ra đi vì tình yêu chân chính. Về Hà Nội, họ gặp lại nhau, lúc ở

công viên, khi ở quán trọ hôi mùi chiếu mốc. Họ cùng nuôi dưỡng tình yêu, nhưng

bất chấp mọi cố gắng của họ, tình yêu có nguy cơ chết yểu. Thế rồi cái gì đến sẽ phải

đến. “Trong lúc yêu nhau – lần chót - ở căn phòng ngột ngạt mùi hôi và chiếu mốc

ấy, cả hai đều hiểu rõ, họ có thể đánh đổi tất cả để một lần nữa được chứng kiến

vầng mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống ấy, tiếng chó ấy, bãi cỏ ấy”. Họ chia tay, vì

cả hai đều là nạn nhân của chủ nghĩa duy mĩ, cả hai đều không quên nổi buổi chiều

trên chiếc ghế đá hôm nào. Họ càng bám vào nó, cái kỉ niệm ấy càng xa vời, mỏng

mảnh như tia nắng cuối cùng, chấp chới đầy báo động. Họ tưởng rằng tình yêu sẽ mãi

đẹp như buổi ban đầu ấy, nhưng thực ra đó chỉ là những giấy phút thăng hoa hiếm hoi

của cảm xúc, khi con người đạt được sự hòa nhập tuyệt đối với thiên nhiên. Đó chỉ là

một ánh sao băng, cháy lên một lần rồi lụi tàn vĩnh viễn. Tình yêu đẹp vĩnh cửu - đó

chỉ là ảo tưởng mà thôi.

Chúng ta đã đi qua những mong ước, khát khao của những người phụ nữ bình

thường: một mong muốn về mái nhà đầm ấm với tiếng trẻ con nô đùa, một thoáng

xao lòng với người đàn ông không phải là chồng mình, một nỗi sợ hãi về sự nhàm

chán trong hôn nhân, một chút ảo tưởng về sắc đẹp và tài năng, một sự ngộ nhận về

tình yêu vĩnh cửu… Tất cả những điều đó không xa lạ với người phụ nữ ở mọi thời

đại. Nhưng điều đáng bàn ở đây là trong thời đại ngày nay, dưới ánh sáng của sự bình

đẳng, dân chủ và cởi mở, các nhà văn nữ đã bày tỏ những diễn biến nội tâm thầm kín

của giới nữ, làm cho những độc giả nữ cảm thấy như được giải tỏa những ẩn ức, còn

những độc giả nam hiểu người phụ nữ của ngày hôm nay hơn.

Có một điều mà chúng ta đáng phải ghi nhận ở đây là các nhà văn nữ không

chỉ chú ý đến những nhu cầu bản thân của một người nữ bình thường, mà còn quan

tâm đến những người phụ nữ không bình thường. Có thể họ bị thiếu hụt về nhan sắc

như Hương trong truyện ngắn Không nhan sắc của Nguyễn Thị Anh Thư hay nàng

Nấm trong truyện dài Đàn bà xấu thì không có quà của Y Ban. Có thể họ thiếu một

đôi mắt để nhìn ra thế giới như Hằng trong truyện ngắn Làn môi đồng trinh của Võ

Thị Hảo. Có thể họ bị tật nguyền như cô bé Tân trong truyện ngắn Máu của lá của

Võ Thị Hảo hay cô bé Hoài trong tiểu thuyết Thiên sứ của Phạm Thị Hoài. Tất cả họ

đều mang một hình hài không đẹp, nhưng những ước mơ, khao khát về tình yêu và

hạnh phúc đều rất đẹp, đều bình thường như tất cả mọi phụ nữ trên đời. Ở một mức

độ nhất định, các nhà văn đã hóa thân vào nhân vật, nói lên tiếng nói của nỗi đau, nỗi

bất hạnh, để kêu gọi một sự đồng cảm từ cuộc đời. Với tình thương đong đầy trong

những trái tim phụ nữ đa cảm, các nhà văn đi sâu vào đời sống tâm lí, tình cảm với

những giằng xé nội tâm hơn là những biểu hiện bên ngoài. Khi chạm vào nỗi đau của

con người, ngòi bút của các nhà văn dường như lắng lại để nghĩ suy, chiêm nghiệm.

Họ nhắc chúng ta rằng: được sinh ra là một con người bình thường đã là một niềm

hạnh phúc. Vì vậy, hãy biết yêu quý chính bản thân mình.

Với khối lượng khổng lồ tác phẩm viết về người phụ nữ, chúng ta có thể gặp ở

đây đủ kiểu người. Cũng giống như cuộc sống phong phú muôn màu, ta thấy trong đó

không chỉ có những người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, cao thượng, dám hi sinh mà

còn có cả những nhân vật phụ nữ ăn ở hai lòng, hoặc nông cạn, hời hợt, tham vàng bỏ

ngãi. Không giống như văn học một thời đòi hỏi người viết phải bày tỏ quan điểm

khen chê một cách rõ ràng, các nhà văn của chúng ta không có dụng ý xây dựng một

nhân vật điển hình tốt để cho phụ nữ lấy làm tấm gương để soi chung, cũng không lên

giọng phê phán gay gắt một kiểu phụ nữ xấu xa, tệ bạc nào đó. Các nhà văn chỉ dẫn

dắt chúng ta đến những tình huống, những hoàn cảnh của cuộc sống và mô tả từng

bước sự phát triển tính cách và tâm trạng của nhân vật nữ. Họ giãi bày hơn là phán

xét. Mỗi nhà văn một phong cách, tạo nên những tiếng nói riêng, những hương sắc

riêng trong khu vườn văn học Việt Nam đương đại.

CHƯƠNG 3 GIÁ TRỊ THẨM MĨ:

TỪ CÁI NHÌN ĐẾN BÚT PHÁP

3.1. Điểm nhìn trần thuật

Khảo sát tác phẩm của các nhà văn nữ về đề tài người phụ nữ hiện đại, chúng

tôi nhận thấy nghiên cứu “điểm nhìn” là một công việc cần thiết và quan trọng. Nó

cho biết vị trí của người kể chuyện đối với sự việc được trần thuật, từ đó giúp chỉ ra

thái độ của người kể chuyện với việc trần thuật. Ở một chừng mực nào đó, “điểm

nhìn” giúp chúng ta thấy được quan điểm tác giả trong tác phẩm. Tuy nhiên, đây là

một khái niệm còn đang được các nhà nghiên cứu văn học tranh luận, nhiều ý kiến

chưa thống nhất, nên việc đưa ra một cách hiểu để từ đó đi sâu vào từng tác phẩm cụ

thể là một việc nên làm.

Thuật ngữ “điểm nhìn” ở Việt Nam được dùng tương đương với cụm từ “le

point de vue” (Tiếng Pháp), “the point of view”, “the out look” (tiếng Anh). Thuật

ngữ này được dùng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, có nghĩa là

điểm hay chỗ đứng để xem xét, bình giá một sự vật, một sự kiện, một hiện tượng tự

nhiên hay xã hội.

Ở Âu Mĩ, “điểm nhìn” là một trong số những thuật ngữ được bàn cãi nhiều

nhất trong thế kỉ XX với nhiều cách hiểu khác nhau, với những tên gọi khác nhau:

“phối cảnh” (perspective) hay “góc nhìn” (angle of vision) trong lí thuyết hội họa,

điện ảnh, tương đương “aspect” (thể, diện) (T.Todorov), “tiêu điểm tự sự” (Brooks &

Warren, “tiêu điểm” (focalisation) (G.Genette) v.v…

Ở đây, chúng tôi xin được chọn cách hiểu của Gérard Genette, bởi cách hiểu

này hiện được nhiều nhà nghiên cứu văn học tán thành. Theo Genette, “điểm nhìn

nghệ thuật” là thuật ngữ dùng để chỉ vị trí của người trần thuật (người nói) trong

tương quan với nhân vật”.

Định nghĩa này được ngầm hiểu là chỉ áp dụng cho văn xuôi. Cũng theo

Genette, có ba điểm nhìn (tiêu điểm)

- Tiêu điểm zero (focalisation zero): Người kể biết trước tất cả, không bị một

hạn chế và không có một khoảng cách nào với sự việc được kể. Đây là mô hình chủ

yếu của tự sự truyền thống.

- Tiêu điểm nội quan (focalisation interne): người kể thông qua nhân vật mà

xác lập tiêu cự, sự biết của anh ta ngang với nhân vật và chỉ kể những gì mà nhân vật

cảm biết. Có ba dạng tiêu cự bên trong: a) dạng cố định - một nhân vật kể mọi việc;

b) dạng bất định - nhiều nhân vật kể những chuyện khác nhau; c) dạng đa thức -

nhiều nhân vật cùng kể về một sự việc.

- Tiêu điểm ngoại quan (focalisation externe): Người kể xác lập tiêu cự bên

ngoài đối với nhân vật và cảnh vật, chỉ miêu tả lời nói và hành động nhân vật một

cách khách quan, không miêu tả nội tâm, không phân tích tâm lí, không đánh giá chủ

quan.

3.1.1. Tiêu điểm nội quan

Khi viết về người phụ nữ, hầu hết các nhà văn nữ đều đứng ở tiêu điểm nội

quan để quan sát, nhìn nhận và miêu tả. Nhà văn thường hóa thân vào nhân vật, và

chỉ nói những gì nhân vật biết mà thôi. Tác phẩm thường có dạng độc thoại nội tâm,

tuy ở các mức độ đậm nhạt khác nhau.

Dạng tiêu điểm bên trong cố định (một nhân vật kể mọi việc) được các nhà văn

nữ lựa chọn nhiều hơn cả. Người kể chuyện được biểu thị trực tiếp bằng đại từ ở ngôi

thứ nhất đồng thời cũng là nhân vật (tôi) như trong tiểu thuyết Phố Tầu và các truyện

ngắn: Hậu thiên đường, Dưới ánh đèn nhiều màu, Vũ điệu địa ngục, Cơn mưa

cuối mùa, Nô tì được trang sức, Bàn tay lạnh, Dòng sông buổi chiều, Mưa đời

sau… hoặc người kể chuyện ở ngôi thứ ba chính là một nhân vật trong tác phẩm như

tiểu thuyết Gia đình bé mọn (nhân vật Tiệp), các truyện ngắn: Miền bọt (nhân vật

Phan), Ngày không mút tay (Ngâu), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (đứa con), Người đàn

bà và những giấc mơ, Sau chớp là bão dông, Người đàn bà đứng trước gương

(nàng), Bồng bềnh thiên sứ (Thi), Bài hát chim nhồng xanh (anh), Hồ đêm thăm

thẳm (Thư), Cái rùng mình của vũ trụ (Hạnh), Nghề giáo (Thùy)…

Trong những truyện kể mà người kể chuyện xuất hiện trực tiếp thì phối cảnh và

nói năng thuộc về cùng một cá nhân. Khi đó, người kể chuyện vừa mang tiêu điểm

(nhân vật tiêu điểm hoá, phản ánh điểm nhìn của tác giả), vừa là chủ thể của ngôn từ

được sử dụng (người kể chuyện = người tiêu điểm hóa = “tôi”).

“Con tôi lớn thật rồi. Sao đến bây giờ tôi mới biết điều đó nhỉ? Những người

đàn ông đi qua đời tôi như thể bất chợt họ gặp cơn mưa rào, mà họ thì không mang

vải nhựa để che. Tôi là một cái hiên rộng để họ chạy vào đó, yên tâm, tưng tửng chờ

cho qua cơn mưa, rồi về nhà. Hóa ra lâu nay, tôi đi đường tôi, còn con gái tôi thì tự

tìm đường mà đi. Liệu nó có đi lại con đường của tôi không?... Mười một giờ. Đồng

hồ nhà hàng xóm đang đưa thả nhịp. Con gái vẫn chưa về. Thì ra lâu nay nó đã đi và

thường xuyên về muộn. Tôi lại không hề biết vì tôi cũng thường về muộn sau nó.

Lòng tôi nóng như lửa đốt. Chẳng có một lí do gì để nó có thể về khuya đến như vậy

được. Sinh nhật từ chiều cơ mà. Xung quanh hàng xóm ngủ im thin thít. Đường vắng

hoe hoắt. Tôi quay vào nhà. Đến gần bàn học của con gái, định ngồi xuống nhưng tự

nhiên cảm thấy hãi hãi trước những gì con ghi trong sổ. Thôi, thà không đọc nữa còn

hơn là phải biết những gì khủng khiếp đang xảy ra với con mình. Tôi hồi hộp đợi nó

về gần như hồi hộp chờ người tình giờ hò hẹn. (Hậu thiên đường – Nguyễn Thị Thu

Huệ )

Ở đây, nhân vật “tôi” vừa là người tiêu điểm hóa – người có những suy nghĩ,

cảm nhận, lại vừa là người kể chuyện, kể những gì đang xảy ra xung quanh: “Mười

một giờ. Đồng hồ nhà hàng xóm đang đưa thả nhịp… Xung quanh hàng xóm ngủ im

thin thít. Đường vắng hoe hoắt…” và đồng thời cũng kể lại chính những cảm nhận,

những diễn biến tâm trạng của mình. Ở trường hợp này, “tôi” là nhân vật chính, kể lại

chuyện của mình. Điểm nhìn từ bên trong giúp cho câu chuyện được kể một cách tự

nhiên, như lời tâm sự. Người đọc hiểu đến tận chân tơ kẽ tóc nhân vật của mình bởi

nhân vật bộc lộ trực tiếp cảm xúc, suy nghĩ. Màu sắc độc thoại nội tâm thể hiện rất rõ.

Trong một số trường hợp khác, “tôi” cũng là một nhân vật, nhưng không phải

nhân vật chính, không kể chuyện của mình mà câu chuyện chỉ có liên quan tới anh ta.

Từ điểm nhìn của mình, “tôi” kể lại những điều anh ta chứng kiến, kèm theo những

đánh giá của anh ta về những sự việc đang xảy ra. “Tôi giới thiệu hai người với nhau.

Một cái gì mau lẹ, bàng hoàng đang xảy ra giữa họ… Mi đang đi lại về phía chúng

tôi, tay cầm cái ví tung tẩy. Cái áo sơ mi có hai sọc trắng kẻ bên trái ngực làm thân

thể cô như một ngọn cây vươn về phía mặt trời. Nét mặt rạng rỡ, hạnh phúc bất ngờ.

Tôi thoáng hiểu. Mọi biến đổi mau lẹ kia là do Bình. Tôi chưa thấy người đàn bà đẹp

này bao giờ. Mi đưa tay cho Bình để anh đỡ cô ngồi xuống một trong ba chiếc ghế.

Bình ngồi ghế bên cạnh, không nhìn tôi… Khuôn mặt Mi tràn trề gió mát, sương đêm

và ánh trăng. Hạnh phúc làm cô thở không được bình thường. Cô nhẹ nhàng ngồi

xuống. Cô là một vật thể bắt được điện ở vật thể khác, và cô tỏa sáng, tỏa sáng mãi,

mỗi lúc một sáng chói làm cho ta kinh ngạc”. (Cơn mưa cuối mùa – Lê Minh Khuê)

Nhân vật “tôi” không kể chuyện của mình, và ở vị trí người bạn chứng kiến câu

chuyện tình của Bình và Mi, anh ta có những nhận xét tinh tế và tỉnh táo. Những biểu

hiện thay đổi của Mi, có lẽ Mi không nhận thấy, vì Mi là người trong cuộc, Mi đang

say đắm trong tình yêu. Nhưng “tôi” nhìn thấy, và tả lại bằng cảm nhận của bản thân,

bằng con mắt so sánh của một người bạn từng biết trước đây Mi lôi thôi như thế nào

khi nuôi con nhỏ. Trong trường hợp này, “tôi” là người thứ ba, có khoảng cách với

hai nhân vật chính, nhưng lại là người tiêu điểm hóa, người kể chuyện, kể lại câu

chuyện ở ngôi thứ nhất, không hề có một khoảng cách nào khi trực tiếp bộc lộ suy

nghĩ, đánh giá của mình về những sự việc đang diễn ra. Với điểm nhìn như vậy, câu

chuyện được kể lại vẫn rất khách quan mà vẫn có sức thuyết phục.

“Cần lưu ý rằng, chỉ khi người kể chuyện là một tác nhân thì anh ta

mới đồng thời là người tiêu điểm hóa. Còn khi chỉ đóng vai trò dẫn truyện, cái nhân

vật xưng “tôi” này không mang tiêu điểm, tức là “tôi” không phải chủ thể cảm nhận,

quan sát, anh ta chỉ có nhiệm vụ kể chuyện”. [74]

Chúng ta cũng gặp kiểu nhân vật xưng “tôi” này trong sáng tác của các nhà văn

nữ, nhưng rất hiếm hoi. Thông thường, nhưng truyện như vậy thường thể hiện sự tìm

tòi, đổi mới trong kĩ thuật trần thuật. Người kể chuyện, thường là nhà văn, xuất hiện

để đối thoại trực tiếp với người đọc, tự bày tỏ suy nghĩ của mình về cách sắp xếp tình

tiết câu chuyện, hoặc thiết kế phần kết của câu chuyện. Với kiểu trần thuật này, người

đọc có cảm tưởng nhà văn đang “chơi bài ngửa” với họ. Nguyễn Huy Thiệp từng áp

dụng thành công kiểu nhân vật xưng “tôi” này trong các truyện ngắn Vàng lửa,

Phẩm tiết, Tội ác và trừng phạt, Văn Như Cương cũng thành công với Hoa chanh

trái vụ. Còn trong số các nhà văn nữ được khảo sát trong luận văn, Phạm Thị Hoài là

người đi tiên phong với đoạn mở đầu và đoạn kết có sự xuất hiện của nhân vật “tôi”,

người kể chuyện không mang tiêu điểm. “Để nghiêm khắc với mình và tự động viên,

tôi xin hứa sẽ mở đầu và kết thúc chu đáo, còn phần giữa chắc chắn sẽ tuột khỏi tầm

kiểm soát của tôi, như mọi việc thường diễn ra trong cuộc đời”. (Trích đoạn mở đầu)

“Để câu chuyện có một kết thúc thật sự cổ điển, tôi chỉ còn cách cho nhân vật chính

của chúng ta phiêu bạt thêm vài năm nữa ở thủ đô và cả Huế, Sài Gòn nếu cần…”.

(Trích đoạn kết Một chuyện cổ điển – Phạm Thị Hoài)

Như vậy, trong trường hợp này, không có nhân vật nào trong truyện mang tiêu

điểm. Các nhân vật hành động dưới sự quan sát của một người tiêu điểm hóa giấu

mặt, rõ ràng không phải là người dẫn chuyện xưng “tôi” như phần trích truyện ngắn

của Phạm Thị Hoài, cũng không giống một chút gì với người dẫn chuyện đồng thời là

người tiêu điểm hóa “tôi” trong Hậu thiên đường và Cơn mưa cuối mùa đã phân

tích ở trên.

Cũng thuộc dạng tiêu điểm bên trong, cố định, nhưng khi câu chuyện được kể

ở ngôi thứ ba thì điểm nhìn được đặt vào nhân vật và người kể chuyện hàm ẩn đã

mượn điểm nhìn của nhân vật để kể chuyện. Người kể chuyện đã hòa vào nhân vật

đến mức ta khó phân biệt được giọng kể của anh ta với giọng kể của nhân vật và như

thế, người kể chuyện dễ dàng thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật.

“Có lẽ ý nghĩ mở lớp học cho lũ trẻ lang thang đến trong đầu Thùy khi chị

nhìn thấy thằng bé bán xổ số mân mê cây bút máy với nỗi thèm khát thơ trẻ. Đài báo

có nói nhiều đến việc mở lớp như vậy. Nhưng ở đâu đó xa xôi, chứ ở đây thì… Thùy

lại gạt phắt những suy nghĩ xáo trộn trong đầu, nhẫn nại đẩy xe hàng chậm rãi rảo

bước trên hè phố. Chị phải nuôi hai đứa con thay người chồng đang đóng quân ở tận

mãi đâu trên biên giới. Thỉnh thoảng nhận được thư anh gửi về, với nỗi nhớ thương

vợ con, chị hiểu không ai ngoài chị cần phải giơ vai gánh vác việc nhà. Mà việc nhà

thì đâu có đơn giản chỉ là giặt giũ cơm nước”. (Nghề giáo – Võ Thị Xuân Hà)

Trong tác phẩm này, câu chuyện được kể từ điểm nhìn của cô giáo Thùy,

người tiêu điểm hóa là Thùy. Nhưng người kể chuyện không phải là Thùy mà chỉ tựa

vào điểm nhìn của Thùy để kể lại câu chuyện. Chính vì vậy, nội dung câu chuyện vẫn

có sự khách quan do người kể chuyện dường như đang đứng ở đâu đó quan sát Thùy,

kể về Thùy, chứ Thùy không thể tự kể về mình như thế này: “Thùy lại gạt phắt những

suy nghĩ xáo trộn trong đầu, nhẫn nại đẩy xe hàng chậm rãi rảo bước trên hè phố”.

Nhưng bằng việc để cho Thùy kể câu chuyện từ điểm nhìn của mình, người đọc dễ

dàng hiểu được tâm tư tình cảm của Thùy, những ý nghĩ được nhân vật tự bộc lộ ra:

“Đài báo có nói nhiều đến việc mở lớp như vậy. Nhưng ở đâu đó xa xôi, chứ ở đây

thì…”, “ Mà việc nhà thì đâu có đơn giản chỉ là giặt giũ cơm nước”. Và cũng do

điểm nhìn đặt ở nhân vật Thùy nên những sự việc được kể, được tả có màu sắc chủ

quan của cô. Từ đó, chúng ta có thể thấy, tính cách, bản chất của nhân vật được bộc

lộ qua chính nhãn quan của họ. “Những buổi bán hàng rong khắp thị xã, Thùy đã hòa

mình vào những người lao động lam lũ, cực nhọc. Chị gặp không ít những cảnh đời

éo le. Những người bốc vác mặt mũi đen đúa, hốc hác lầm lũi nai lưng lên xuống bến

cảng. Những cô gái già trước tuổi, mặt trát bự phấn, õng ẹo nối nhau đứng ngồi

trước cửa những nhà hàng, quán bia, những góc vườn hoa cỏ giả bốc mùi tanh tưởi.

Những đứa trẻ không ngày hè lang thang kiếm sống bằng đủ thứ nghề…” Qua cái

nhìn của Thùy về những cảnh đời xung quanh, chúng ta có thể cảm thấy ở cô một con

người có trái tim tràn đầy lòng nhân hậu, bao dung. Cô cũng phải kiếm sống rất vất

vả, nhưng cô không hề bị “xơ hóa” tâm hồn. Cô là cô giáo, một nghề nghiệp mà sự

mô phạm dễ làm cho cái nhìn trở nên thiên kiến, nhưng đối với những người thuộc

hạng “gái nhà hàng”, “gái bán bia”, cô vẫn chỉ thấy thương cảm, không hề ghê tởm.

Còn rất nhiều các tác phẩm khác, trong đó tác giả sử dụng điểm nhìn nội quan

kiểu như trên. Câu chuyện thường được kể từ điểm nhìn của nhân vật chính, do đó

người đọc có thể dễ dàng hình dung mối quan hệ của những nhân vật khác với nhân

vật chính, không cần phải giới thiệu .“Những chiều đầu hè tôi thường ngồi một mình

trong sân vắng. Nhà tôi ở nội thành, vườn rộng. Lúc hoàng hôn xuống tiếng ễnh

ương ran lên như giàn hợp xướng của ao hồ. Chu thường về muộn, buổi chiều anh đi

uống với bạn. Từ lúc Nhím đi, chỉ còn tôi với những khóm tầm xuân đầy hoa tím mà

ngày nào con bé đã trồng. Đã đi xa mấy năm, mỗi lần mail về cho tôi, nó luôn nhắc:

Me ơi, nhớ tưới dùm con những cây tầm xuân”. (Mưa đời sau – Trần Thùy Mai) Và

cũng vì vậy, giọng kể thiên về giọng tâm tình, thế giới nội tâm người phụ nữ được tự

bộc lộ hết sức chân thật, tự nhiên. “Đêm ấy chồng nàng lại về muộn. Hai con nàng

ngủ say êm đềm. Nàng thao thức và nàng nhớ lại người khách ngoại quốc buổi sáng.

Nàng rất thích xem phim nước ngoài. Những ngôi nhà đẹp, sạch sẽ với đầy đủ tiêng

nghi. Những bãi biển đẹp và cái nắng cũng như đẹp hơn ở nước nhà. Những miền đất

lạ lẫm. Và như trong một bộ phim nàng và người khách kia là nhân vật chính. Một bộ

phim tình cảm. Trong mơ, lần đầu tiên nàng mơ thấy ngủ với một người đàn ông

khác và đạt tới cảm giác mạnh. Nàng tỉnh giấc khoan khoái vẫn giữ nguyên tâm

trạng như trong bộ phim”. (Người đàn bà và những giấc mơ – Y Ban)

Thông thường chuyện kể từ điểm nhìn của nhân vật nào thì những sự việc diễn

ra được nhìn theo quan điểm của nhân vật tiêu điểm hóa ấy hay nói một cách cụ thể

hơn, nhân vật có điều kiện để bày tỏ, để giải thích, thậm chí thanh minh cho hành

động và suy nghĩ của mình. Có những truyện điểm nhìn đặt vào những nhân vật vẫn

bị những định kiến xã hội cho là xấu như những cô gái trót lỡ dại phải đi phá thai,

những người phụ nữ ngoại tình, thậm chí những kẻ giết người… Khi đó, do được tự

bộc lộ, nhân vật trở nên “người” hơn bởi tự nó lí giải, biện minh cho mình. Người

đọc có thể căm ghét, nhưng không chỉ căm ghét mà có đôi phần cảm thông bởi họ

hiểu nguồn cơn của hành động. Cô Tiệp trong Gia đình bé mọn (Dạ Ngân) kể về

những tình cảm ngoài hôn nhân của mình không được pháp luật và dư luận xã hội

công nhận, nhưng ta không thấy cô xấu xa, “nhầy nhụa”. Cô gái trong Bức thư gửi

mẹ Âu Cơ (Y Ban), người mẹ trong Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), cô

“gái bao” trong Nô tì được trang sức (Trần Thị Trường), cô nhà báo Phương Nam

trong Tường thành (Võ Thị Xuân Hà)… tất cả đều được hiện lên với đúng bản chất

của mình. Họ là những người phụ nữ đáng trân trọng. Các nhà văn không trực tiếp

nói lên điều đó, mà để nhân vật tự thuyết phục chúng ta bằng cách nhìn nhận của họ

về cuộc sống và con người; bằng những tâm tư tình cảm ẩn kín, mà nếu không tự bộc

lộ thì người ngoài khó lòng đoán định được. Chính điểm nhìn nội quan từ nhân vật đã

góp phần không nhỏ vào thành công này.

Ở tiêu điểm nội quan, ngoài dạng cố định (một nhân vật kể mọi việc) như đã

phân tích ở trên, còn dạng thứ hai nữa nhưng rất hiếm gặp: dạng bất định (nhiều nhân

vật kể những chuyện khác nhau), chúng ta có thể tìm thấy trong truyện ngắn Nhân

cách của Phạm Thị Ngọc Liên. Tác phẩm chia thành năm phần (có đánh số). Tất cả

đều đặt dưới điểm nhìn của nhân vật “tôi” nhưng ta thấy rõ năm nhân vật “tôi” này là

những người khác nhau. “Tôi” ở phần thứ nhất không rõ là nam hay nữ, không rõ tên

tuổi, lại lịch, kể với người đọc về những suy nghĩ của mình trong những đêm không

ngủ. “Tôi” thứ hai là một phụ nữ, kể về mối quan hệ “già nhân ngãi, non vợ chồng”

của mình với một người đàn ông. “Tôi” thứ ba là một người đàn ông, có lẽ là người

yêu của “Tôi” 2, kể về tâm trạng của anh ta sau khi người tình dứt áo ra đi. “Tôi” thứ

tư là một phụ nữ đã có chồng kể về mối quan hệ vợ chồng của mình. “Tôi” thứ năm

là một người đàn ông ngoại tình kể về tâm trạng của anh ta khi người tình có bầu.

Tuy là những nhân vật khác nhau, kể về những sự việc khác nhau, nhưng mạch

truyện vẫn có sự kết dính. Đó đều là tâm sự của những người trong cuộc về tình yêu

và hôn nhân, những người không may mắn có được một cuộc hôn nhân hạnh phúc:

hoặc yêu mà không thể tiến tới hôn nhân do bị ngăn trở; hoặc có vợ, có chồng nhưng

không hạnh phúc, phải đi tìm niềm an ủi nơi khác… Chúng tôi cho rằng truyện ngắn

này thể hiện sự tìm tòi, đổi mới về bút pháp, nhưng còn cần có thời gian để những thể

nghiệm này đạt đến mức độ nhuần nhuyễn, đủ tạo nên hiệu quả thẩm mĩ.

Còn một dạng thứ ba của tiêu điểm nội quan, dạng đa thức (nhiều nhân vật

cùng kể về một sự việc). Dạng này chúng ta có thể tìm thấy trong tiểu thuyết Cơ hội

của Chúa của Nguyễn Việt Hà. Trong tác phẩm này, chúng ta có thể nhận thấy cùng

một nhân vật, cùng một sự việc được soi chiếu dưới những điểm nhìn khác nhau của

những nhân vật khác nhau. Hiệu quả thu được là chân dung nhân vật hiện lên hết sức

đa dạng, đôi khi được vẽ rất khác nhau, người đọc tha hồ phán đoán, tha hồ đánh giá.

Chưa có tác phẩm của nhà văn nữ nào viết về người phụ nữ hiện đại có mô hình tự sự

này.

3.1.2. Tiêu điểm zero

Theo lí thuyết, tiêu điểm zero được thiết lập khi điểm nhìn được đặt ở bên trên,

ở đằng sau trong đó cái nhìn của người trần thuật giống như cái nhìn của Thượng đế

đối với các nhân vật của mình. Đây là điểm nhìn khi mà người kể chuyện biết nhiều

hơn nhân vật, người kể chuyện biết tất cả, nhân vật không che giấu được điều gì. Các

tác phẩm của các nhà văn nữ viết về người phụ nữ hiện đại thuộc kiểu điểm nhìn này

có thể kể đến tiểu thuyết Paris 11 tháng 8, và các truyện ngắn Không nhan sắc,

Hành trang của người đàn bà Âu Lạc, Cô con gái, Tai nạn, Mẹ và con, Dù phải

sống ít hơn, Thiếu phụ chưa chồng, Tân cảng, Nhà có ba chị em, Hai mươi năm

sau, Góa phụ đen, Người đàn bà với hai con chó nhỏ, Trăng nơi đáy giếng, Mại,

Khoảng trời phía sau nhà, Hạnh… Điểm nhìn này rất quen thuộc với các nhà văn

Việt Nam những năm trước đây, nó là mô hình chủ yếu của tự sự truyền thống. Số

lượng các tác phẩm thuộc mô hình tự sự này trong sáng tác của các nhà văn nữ không

nhiều, chứng tỏ họ đã có những tìm tòi, đổi mới về thi pháp sáng tác, và cũng có thể

thấy rằng kiểu mô hình tự sự này không đáp ứng được nhu cầu tự bộc lộ nội tâm của

nhân vật nữ, mà nhu cầu này lại cũng là của chính những nhà văn nữ, hơn nữa còn là

sở trường của họ. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của kiểu điểm nhìn

này. Lợi thế của tiêu điểm zero là có khoảng cách nhất định giữa người kể và toàn bộ

cốt truyện. Người kể đứng ở vị trí khách quan, “giả vờ” không dính líu đến câu

chuyện, “thờ ơ” trước biến cố xảy ra của hiện thực. Điều đó hướng người đọc đến các

sự kiện, nhân vật thể hiện tính cách và cả tâm trạng qua lời nói và hành động. Người

đọc có những suy nghĩ, đánh giá tự do, không bị màu sắc chủ quan của người tiêu

điểm hóa chi phối. Nhà văn Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố là những bậc thầy

trong kiểu trần thuật này. Trong các nhà văn nữ của chúng ta, nhà văn Lý Lan có vẻ

thành công hơn cả. Với lối hành văn ngắn gọn, chị không chú trọng nhiều đến việc

mô tả diễn biến tâm lí bên trong nhân vật mà như một người biết tất cả về nhân vật,

chị chọn lọc những hành động, lời nói “đắt” nhất để làm nổi bật tính cách.

“Mưa tạnh. Cẩm và Thanh rời quán, không ai nói gì với ai suốt con đường vào

thành phố, cho đến khi về đến cửa phòng Cẩm. Chị đứng ở cửa còn khoá nói cảm ơn

Thanh về một ngày vui, nếu trời không mưa. Thanh có vẻ áy náy, nhưng không có vẻ

vì cơn mưa làm cuộc đi chơi mất vui, mà vì mưa gió làm bộ dạng của anh không

được chỉnh tề: tóc tai ướt dính bết da đầu, áo quần ướt dính bết da người, không còn

đâu vẻ thư sinh nho nhã thường ngày. Anh đứng nhìn Cẩm mở khoá cửa.

“Cẩm ở một mình sao?”

“Một mình”.

“Không sợ à?”

“Không”.

“Thờ chủ nghĩa độc thân hả?”

“Không”.

“Vậy kiếm một người đàn ông đi”.

“Kiếm rồi. Mới kiếm ra một người, nhè đâu là đồ lại cái”.

Cẩm bước vào nhà đóng cửa lại. Thanh cầm khăn giấy lau mặt mũi cổ và tay. Anh vò

viên chiếc khăn trong lòng bàn tay, quăng nó qua hành lang, gõ cửa. Cẩm mở cửa ra

hỏi gì vậy. Thanh nói cho anh đi nhờ toa-lét. Cẩm bất đắc dĩ để anh vào. Anh ở trong

toa-lét mười phút rồi bước ra trần trụi, chỉ quấn ngang hông cái khăn tắm của Cẩm.

Chị kinh ngạc đến nỗi không có một phản ứng nào. Thanh ôm chị vật xuống giường,

môi anh chà miết da thịt chị.

“Phải thử mới biết thằng nào lại cái”.

Cẩm không ngờ.

Thanh cũng không ngờ...” (Tai nạn – Lý Lan)

Người kể chuyện đặt nhân vật trước một tình huống (hai vợ chồng người bán

quán đang cãi nhau, chỉ chờ một sự can ngăn nào đó để dừng lại). Qua cách ứng xử

của anh ta (Thanh đã nép vào hiên trốn mưa mà không can gián), người đọc hiểu

được bản chất con người Thanh (chuộng hình thức, thiếu dũng cảm, không đáng mặt

nam nhi). Qua những lời đối thoại giữa Thanh và Cẩm, người đọc hiểu được tính

cách Cẩm (mạnh mẽ, dứt khoát, kín đáo, ít lời) và thái độ của Cẩm dành cho Thanh

(coi thường: “đồ lại cái”). Nhưng điểm nhìn không phải được đặt vào Cẩm. Bởi

“Cẩm bước vào nhà đóng cửa lại” nên không thể thấy “Thanh cầm khăn giấy lau mặt

mũi cổ và tay. Anh vò viên chiếc khăn trong lòng bàn tay, quăng nó qua hành lang,

gõ cửa”. Phải có một người nào đó, chứng kiến tất cả, và kể lại hành động đó của

Thanh với chúng ta. Cũng phải là người ở trên cao, biết tất cả, mới hiểu được tâm

trạng của cả hai nhân vật. “Cẩm không ngờ.

Thanh cũng không ngờ”. Lựa chọn điểm nhìn này, người kể chuyện đã chỉ làm một

công việc là mô tả hiện thực một cách khách quan còn đánh giá về nhân vật như thế

nào là tùy người đọc. Chẳng hạn, có người cho rằng Thanh làm như vậy với Cẩm chỉ

là một sự trả thù hèn hạ, nhưng cũng có người lại thấy qua hành động đó, Thanh cũng

là một chàng trai mạnh mẽ, không phải là “đồ lại cái” như Cẩm Nghĩ. Và ở hoàn cảnh

của Thanh lúc ở quán nước, nên tránh đám đánh nhau ấy đi là hơn kẻo “chẳng phải

đầu cũng phải tai”. Người đọc được cảm nhận câu chuyện như nó vốn có, không cần

tác giả thêm thắt vào. Câu chuyện không chỉ được cảm nhận bằng sự hiển ngôn của

lời văn mà chính ở sự hàm ngôn của nó. Điểm nhìn zero này còn tỏ ra rất thích hợp

cho những câu chuyện “luận đề” mang hơi hướng huyền thoại dạng như Hành trang

của người đàn bà Âu Lạc, Nàng tiên xanh xao, Nữ hoàng cô đơn mà nhà văn Võ

Thị Hảo dày công sáng tạo. Chỉ cần đọc những dòng đầu tiên, người đọc đã có thể

cảm nhận tính chất “khách quan, vô tư” của người kể chuyện. “Có người con gái mồ

côi sống lẻ loi trong rừng sâu. Một buổi sáng, nghe chim hót, nàng bừng mắt dậy.

Nghiêng mình quấn lại mái tóc dài đen mượt rồi nàng mở cửa”. (Nàng tiên xanh

xao) “Có những chàng trai tài mạo song toàn, ưa làm những việc khác người và

cũng rất khó tính trong việc tìm bạn trăm năm”. (Nữ hoàng cô đơn) “Người đàn bà

Âu Lạc xuất hiện không sớm cũng không muộn. Trên bãi lầy gần biển có một khoảng

đất mọc đầy sú, vẹt. Có một hôm đất chỗ đó sủi lên. Có một người thoát ra từ chỗ đó.

Người đàn bà đầu tiên”. (Hành trang của người đàn bà Âu Lạc). Những truyện này

mang dáng dấp của truyện cổ tích được kể lại dưới cái nhìn từ trên cao của người

“biết tất cả”. Đây cũng là một thủ pháp “lạ hóa” mà các nhà văn nữ của chúng ta thể

hiện khá thành công.

3.1.3. Điểm nhìn thay đổi

Có một số tác phẩm, điểm nhìn trần thuật không cố định ở một tiêu điểm nào

mà di động từ tiêu điểm này sang tiêu điểm khác. Nhà văn Sơn Táp của Trung Quốc

đã rất thành công với tiểu thuyết Thiếu nữ đánh cờ vây khi chọn cách kể chuyện với

điểm nhìn thay đổi lần lượt theo hai nhân vật chính. Nếu ở chương này, “tôi” là cô

gái, thì ở chương sau, “tôi” sẽ là chàng trai. Cùng một sự việc, nhưng dưới cái nhìn

của hai nhân vật, chúng ta thấy có những nét khác biệt rõ rệt. Tác phẩm này đã dược

trao giải thưởng Goncourt cho giới trẻ (Prix Goncourt des Lycéens) năm 2001. Ở

Việt Nam, chưa có tác phẩm nào dó được thành công như vậy. Và việc sử dụng điểm

nhìn thay đổi như một yếu tố nghệ thuật mới chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm, nhưng

không phải là không có. Ví như tiểu thuyết Tường thành (Võ Thị Xuân Hà): chương

1 có tiêu điểm zero, chương 2: tiêu điểm nội quan (nhân vật Cầm Kỳ xưng “tôi”),

chương 3 và 4 trở lại với tiêu điểm zero, chương 5 lại có tiêu điểm nội quan như

chương 2. Điểm nhìn liên tục thay đổi cũng góp phần tạo nên “kết cấu như một khối

ru bích hoặc như một mê cung hình xoáy ốc” như dụng ý của tác giả. [19]

Tóm lại, nghiên cứu về điểm nhìn là một công việc rất lí thú, nhưng không hề

đơn giản. Vấn đề điểm nhìn có quan hệ gắn bó với vấn đề người kể chuyện, điểm

nhìn cũng chi phối tới giọng điệu của tác phẩm. Vấn đề điểm nhìn cũng có mối tương

quan với vấn đề không gian, thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Không gian, thời gian

của câu chuyện phụ thuộc vào điểm quy chiếu “bây giờ” của người kể chuyện. Câu

chuyện có thể thuộc về thời quá khứ song vẫn được kể với điểm nhìn của thời hiện

tại… Đây là những vấn đề lí luận quan trọng của tự sự hiện đại, người viết e rằng

chưa có đủ độ chín để lạm bàn. Để kết lại tiểu mục này, chúng tôi có thể đi đến một

kết luận sơ bộ rằng các nhà văn nữ của chúng ta thường chọn điểm nhìn nội quan khi

viết về người phụ nữ. Mô hình tự sự này phù hợp với kiểu nhân vật tự bày tỏ, và cũng

tạo điều kiện cho các nhà văn dễ dàng đi sâu mô tả nội tâm nhân vật một cách tự

nhiên.

3.2. Tâm lí nhân vật

Miêu tả tâm lí nhân vật là một trong những phương tiện để thể hiện nhân vật.

Trong bốn loại nhân vật: nhân vật chức năng, nhân vật “loại hình”, nhân vật tính cách

và nhân vật tư tưởng thì việc miêu tả tâm lí nhân vật có vai trò cực kì quan trọng

trong việc khắc họa nhân vật tính cách.

Nhân vật tính cách là một kiểu nhân vật phức tạp… Trong nghĩa hẹp,

tính cách là một loại nhân vật được mô tả như một nhân cách, một cá nhân có cá tính

nổi bật. Trong nhân vật tính cách, cái quan trọng không chỉ là cái đặc điểm, thuộc

tính xã hội này nọ mà người ta có thể liệt kê ra được. Tính cách còn thể hiện ở tương

quan của các thuộc tính đó với nhau, tương quan giữa các thuộc tính đó với môi

trường, tình huống. Nhân vật tính cách thường có những mâu thuẫn nội tại, những

nghịch lí, những chuyển hóa, và chính vì vậy, tính cách thường có một quá trình tự

phát triển, và nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính nó. [46]

Theo chúng tôi thấy, hầu hết tác phẩm của các nhà văn nữ viết về người phụ nữ

hiện đại đều có loại hình nhân vật tính cách. Các nhà văn hiện nay ít chú trọng đến

việc xây dựng những tính cách hoàn toàn thiện hay hoàn toàn ác, cũng không quan

trọng lắm cái việc phải xác định rõ đâu là nhân vật phản diện, đâu là nhân vật chính

diện, nhân vật ấy có điển hình hay không. Nhân vật của họ có cá tính, có bản sắc

riêng, là “con người này”, chứ không đại diện, hay nhân danh ai khác. Tất nhiên cũng

có một số trường hợp ngoại lệ, như một số nhân vật của Phạm Thị Hoài. Nhưng tựu

chung lại, có thể nói rằng một trong những đóng góp quan trọng của các nhà văn nữ

cho văn học Việt Nam hiện đại là khám phá và mô tả thế giới nội tâm muôn hình

muôn vẻ của người phụ nữ. Mỗi nhà văn thường thể nghiệm nhiều cách miêu tả tâm

lí nhân vật, cách mà họ thành công nhất chính là sở trường của họ.

3.2.1. Để cho nhân vật tự phơi bày thế giới nội tâm của mình bằng cách từ

điểm nhìn của mình kể lại tâm trạng, suy nghĩ là cách mà hầu hết nhà văn nữ lựa

chọn. Truyện ngắn của các chị thường khó kể lại được, vì cốt truyện không thật tiêu

biểu, nếu có thì đó là “cốt truyện bên trong”, “cốt truyện tâm lí” nhằm diễn tả những

tâm trạng điển hình của nhân vật. Y Ban là một trong những nhà văn sử dụng điểm

nhìn nội quan một cách rất có ý thức. Chị nói rằng:

Tôi hay kể chuyện ở ngôi thứ nhất, để tự đặt mình vào vị trí của những

nhân vật người đàn bà trong truyện. Tôi cảm thấy, điều đó cho phép tôi khai thác nội

tâm nhân vật một cách triệt để và biểu hiện nó một cách sâu sắc hơn. Với những

truyện ngắn có cốt truyện nặng về tâm lý, tôi thường kể ở ngôi thứ nhất. Còn với

những tác phẩm cần cái nhìn tỉnh táo, bàng quan, tôi hay kể ở ngôi thứ ba. [83]

Y Ban thường để cho nhân vật tự kể lại tâm trạng của mình. Những cuộc độc

thoại nội tâm trong truyện ngắn của chị thường rất dài, có khi triền miên từ đầu đến

cuối truyện. Kiểu nhân vật tự bạch của Y Ban làm cho văn của chị nhiều khi là những

dòng chảy nội tâm miên man tưởng chừng vô tận. Truyện của chị ít những đoạn đối

thoại. Có những truyện từ đầu đến cuối nhân vật chính chỉ kể lại tâm trạng của mình:

kể về những day dứt, dằn vặt đang diễn ra; kể về những trạng thái cảm xúc trong quá

khứ. Các nhân vật khác được định hình dưới cái nhìn của nhân vật chính thường kèm

theo những nhận xét, đánh giá chủ quan. Những đoạn đối thoại, có lẽ cũng chỉ như

một sự minh họa cho diễn biến tâm lí của nhân vật.

Đây là một đoạn người phụ nữ kể về tâm trạng của mình khi còn là một cô gái

trẻ lần đầu được một người con trai tỏ tình. Cảm xúc được diễn tả rất chân thực, tinh

tế.“Từ lúc người đàn ông về, ta chẳng làm được việc gì nữa. Ta trở nên vụng về. Suy

nghĩ tản mạn, đứt đoạn. Rơi vỡ và vấp váp. Cứ một lúc ta lại mang gương ra nắng

soi và tự hài lòng… Ta cảm thấy bối rối… Ta chợt cảm thấy sợ hãi… Ta lắng nghe và

rùng mình tan biến vào không gian. Ta không còn nhìn thấy gì nữa, nghe thấy gì nữa.

Ta cảm giác lần đầu tiên được nghe tiếng yêu. Rồi cảm giác ấy qua đi, nhường chỗ

cho sự ương bướng”. (Người đàn bà có ma lực) Người phụ nữ nào đã từng trải qua

những rung động đầu đời như vậy đều nhận thấy hình bóng của mình. Nhà văn cao

hơn những người bình thường ở chỗ họ biết diễn tả bằng lời những cảm xúc mà

người khác chỉ có thể cảm thấy, chứ khó nói lên một cách rành mạch. Trong những

truyện ngắn khác của Y Ban, chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp kiểu mô tả tâm lí nhân

vật như vậy. Có thể ngôi kể thay đổi nhưng cũng là kiểu nhân vật tự bạch. Chị hóa

thân vào nhân vật một cách hoàn hảo, có thể nhảy từ thái cực này sang thái cực khác,

từ một cô gái mới lớn: “Mẹ ơi, từ bấy đến nay hai mẹ con chúng ta cùng mang nỗi

đau. Mẹ mang nỗi đau của người mẹ, nỗi đau có đứa con hư hỏng. Con đau nỗi đau

của con, và cũng là nỗi đau của người mẹ. Tháng thứ nhất con mơ hồ, tháng thứ hai

lo sợ, tháng thứ ba có cái gì đó thắng nỗi lo sợ… cái gì đó ấm áp, dịu dàng… Giờ thì

không còn nữa. Nỗi đau đớn của người mẹ đã không bảo vệ nổi con mình, những nỗi

đau như thế của con chắc mẹ hiểu” (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ) , đến những người phụ

nữ từng trải: “Nhưng tại sao nàng lại muốn ngả vào ngực người ta kia chứ? Nàng –

một người đàn bà già dặn trong trường đời. Cuộc sống với bao nhiêu khổ đau, hạnh

phúc thất bại và thành công tới tấp bủa vây nàng. Để bây giờ nàng nhận ra cái chân

của cuộc sống rằng: Ở đời chẳng có phân giới nào cho hạnh phúc hay bất hạnh,

sung sướng và khổ đau của mình. Nhưng cuộc sống đâu để cho nàng tự do trong cảm

giác của mình như thế. Con tạo luôn tạo ra tình huống để thử thách nàng…” (Sau

chớp là bão dông). Từ những phụ nữ có sức quyến rũ mê hồn (Người đàn bà có ma

lực) đến những người phụ nữ tạo hóa trót khắt khe ban cho một nhan sắc quá đỗi tầm

thường (Biển và người đàn bà xấu xí, Đàn bà xấu thì không có quà). Từ những

người đàn bà giàu tham vọng (Con quỷ nhỏ trong tôi) đến những người phụ nữ chỉ

mơ đến một hạnh phúc bình thường, giản dị (Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm).

Hiếm người nào có thể hiểu nhiều về người phụ nữ như chị. Sự hòa mình vào với

nhân vật ở Y Ban thật đến nỗi sự xuất hiện của nhân vật xưng tôi khiến có người đọc

đồng nhất nhân vật với nhà văn. Thực ra, dù khách quan đến mấy, nhân vật cũng ít

nhiều sẽ có một chút “tôi - nhà văn” ở trong đó. Chị đã nói rằng "phần tôi" của chị

thể hiện trong nhân vật ở tâm trạng nhân vật, ở sự dẫn dắt đường đi nước bước của

nhân vật. Chị thích những cốt truyện hợp logic, những hành động có thể lý giải được

một cách biện chứng. Chính vì vậy, chị hay đặt mình vào nhân vật để dự đoán xem

nhân vật sẽ suy nghĩ ra sao, sẽ làm điều gì trong từng hoàn cảnh nhất định. Cũng bởi

vậy, các nhân vật của chị được đánh giá là rất thực, có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc

sống. [83]

Y Ban có một lối riêng của mình, chị chú ý khai thác, thể hiện những

tâm trạng điển hình của nhân vật trong những tình huống tiêu biểu – những tâm

trạng trong đó được nâng lên thành những tâm thế có ý nghĩa nhân sinh… Cái được

của truyện ngắn Y Ban là người viết không triết lí suông hay vụn vặt mà mọi ý tưởng

đều được chắt lọc, thăng hoa từ những tình cảnh của đời sống. Truyện của Y Ban có

thể xếp vào dạng “truyện tâm tình” – không đặc sắc về cốt truyện và tình tiết song lại

có khả năng lắng đọng ở người đọc bởi chiều sâu tâm lý của tính cách, bởi cái da

diết của tình đời, tình người. [64]

Cách mô tả tâm lí nhân vật của Y Ban có điểm gần với Phạm Thị Ngọc Liên.

Truyện của Ngọc Liên cũng thường không có cốt truyện, chỉ là những lời tự bộc lộ

tâm trạng, cảm xúc của nhân vật chính. Chỉ khác là Y Ban thường dùng đại từ

“nàng”, còn “Ngọc Liên dùng từ “cô”. Truyện của Ngọc Liên thường rất ngắn về

dung lượng. Nó thường diễn tả những khoảnh khắc tâm trạng của một nhân vật nữ

yêu hết mình mà không được đền đáp xứng đáng. Thường thì người phụ nữ chọn

cách ra đi đầy tự trọng để thoát khỏi mối quan hệ ngang trái, nhưng tâm hồn đau đớn

bởi vết thương lòng không thể nào lành được. (Một nửa sự thật, Hoa cải hương,

Biển hôm nay nhiều nắng, Nhân cách) “Mình với ổng, ai thương ai hơn? Chắc là

mình rồi. Mình lại còn sợ ổng nữa, bất cứ một thái độ, cử chỉ gì của ổng cũng dễ làm

cho mình lo sợ. Cái cảm giác nô lệ đó cứ tăng trưởng, tăng trưởng mãi. Mình vừa

yêu, vừa sợ, vừa thán phục, vừa chán ghét, vừa cần thiết, vừa chán nản... lẫn lộn lung

tung. Có lẽ cái vòng ma thuật này còn ám mình suốt đời nếu như ngày đó ổng không

phát ngôn ra câu nói kinh tởm làm mình choáng váng đến buồn nôn, đến phát bịnh

ấy”. (Biển hôm nay nhiều nắng) Có rất nhiều đoạn độc thoại nội tâm như thế trong

truyện ngắn Phạm Thị Ngọc Liên. Chị tạo ra những tình huống tâm lí, đặt nhân vật

vào đó để cho họ tự bày tỏ một cách tự nhiên nhất. Nhân vật không được nhấn mạnh

bằng hành động, lời nói mà gây ấn tượng ở nội tâm sâu thăm thẳm. Người đọc bị hút

vào giọng điệu tâm tình của tác phẩm bởi nhân vật đã trải lòng mình lên trang giấy và

dường như chờ đợi một sự sẻ chia. Những truyện ngắn dạng này thường đòi hỏi sự

hòa nhập rất cao độ của nhà văn vào nhân vật. Có lẽ cũng chính vì thế mà văn

chương đòi hỏi nhà văn phải sống trong nhiều cuộc đời, nhiều cảnh ngộ. Và không

thể không kể đến sự trải nghiệm của chính bản thân nhà văn nữa.

Nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá cũng đã từng nhận ra lợi thế trong việc

mô tả tâm lí nhân vật của kiểu “truyện tâm tình”. Khi nhận xét về truyện ngắn của

nhà văn nữ trẻ Nguyễn Thị Châu Giang, ông đã viết:

Em không chú ý nhiều lắm đến cốt truyện. Hầu hết các truyện đều

không có chuyện, hay nói khác đi, đều là truyện tâm tình và được kể ở ngôi thứ nhất.

Do đó, người viết có điều kiện đi vào các ngóc ngách tình cảm lắm khi chập chờn,

chông chênh, hư thực”. [60]

3.2.2. Một yếu tố khá quan trọng góp phần dẫn đến thành công trong miêu tả

tâm lí nhân vật ở các nhà văn nữ là họ thường đưa cuộc đời và tâm hồn họ vào trang

sách. Ở điểm này, tác phẩm của một số nhà văn có sự hoà quyện giữa tính chất trung

thực của tự truyện và tính chất hư cấu của văn xuôi nghệ thuật. Sự bộc lộ của thi pháp

hư cấu trong Phố Tầu có lẽ dễ nhận thấy nhất qua bề mặt câu chữ là cái cách trùng

khít giữa tiểu sử tác giả in trên bìa sách với tiểu sử của nhân vật chính. Hình như cả

“tôi” và Thuận đều có “Mười bảy năm chè đỗ đen óc lợn hấp nồi cơm Hà Nội. Năm

năm bắp cải thịt cừu căng tin đại học tổng hợp Leningrad. Mười năm sáng bánh mì

ăn liền, trưa bánh mì, tối bánh mì hoặc mì ăn liền, Paris và các vùng lân cận”. Người

đọc cứ thế mà cảm giác như chính mình đang đọc cuộc đời tác giả phơi bày ra trên

trang sách... Ở nhiều chi tiết khác, Thuận cũng tỏ ra rất tinh quái, cô sử dụng tiểu sử

bản thân, lý lịch cá nhân mình như một loại chất liệu “hiện thực” để chế nhào nặn,

đục đẽo, căn chỉnh nên Phố Tầu.

Với Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, chúng ta cũng có thể nhận thấy một cách

khá rõ nét hình bóng cuộc đời tác giả. Đặc biệt là mối tình dai dẳng và sóng gió mà

dường như định mệnh đã buộc vào (hay ban phát?) cho cuộc đời nhân vật trung tâm

của tác phẩm là Tiệp, thì quả thực, đó là bản dập từ chính thực tế cuộc đời của tác

giả, từ chính mối tình mười một năm vào Nam ra Bắc với đầy những nồng nàn và

khổ ải của bà và chồng - nhà văn Nguyễn Quang Thân. Không thể phủ nhận là chính

nhờ sự trải nghiệm của bản thân nên Dạ Ngân rất thành công trong việc miêu tả sâu

sắc và tinh tế những cảm giác, cảm xúc rất phụ nữ của Tiệp khi nghĩ về Đính và được

sống bên Đính – người tình của nàng, cũng như tâm trạng dằn vặt đến quặn thắt của

một người mẹ luôn mặc cảm không sống hết mình cho con. Chính sự bấp bênh, mâu

thuẫn ấy là mảnh đất tốt để Dạ Ngân thể hiện sở trường của mình: nắm bắt và miêu tả

cảm giác nhân vật.

Nhà văn Võ Thị Xuân Hà cũng ở trong tình trạng tương tự khi nhân vật Cầm

Kỳ trong Tường thành có nhiều nét rất giống với nhà văn, nhà báo Võ Thị Xuân Hà

ở ngoài đời. Chị từng tâm sự là “Những đắng cay trong nghề viết, cuộc sống vất vả

mưu sinh đã được tôi trải ra trong những trang sách. “Đời viết” của tôi cũng có một

đôi đoạn giống Cầm Kỳ. Tôi đã lấy bút danh viết báo của mình đặt cho nhân vật

này”. [19] Cũng nhờ từng mở quán cà phê mà chị viết được truyện ngắn Cà phê yêu

dấu mà chị rất tâm đắc: “Tôi đâu biết có ngày mình đi bán cà phê. Đâu biết cà phê

trở thành tri âm tri kỉ, làm chứng nhân cho một đoạn đường đi tìm sự hạnh ngộ của

một đời người. Tôi chỉ đơn giản muốn thoát ra khỏi sự bức bối của một đời công

chức, muốn có tiền để đi du lịch đó đây”. Chúng ta tưởng như đang đọc tâm sự của

chính nhà văn Võ Thị Xuân Hà vậy.

3.2.3. Miêu tả đồ vật, môi trường cũng là một phương tiện quan trọng để các

nhà văn nữ thể hiện tâm lí nhân vật. Trong truyện ngắn Tân cảng, Nguyễn Thị Thu

Huệ đã diễn tả rất tài tình tâm trạng của người chồng, người vợ và hai đứa con trước

giờ phút buộc phải xẻ đôi gia đình để đi về hai hướng. Để diễn tả tâm lí nhân vật, nhà

văn không chỉ để nhân vật tự bộc lộ, mà còn để ngôn ngữ nhân vật lên tiếng, và cả

những tác động của ngoại cảnh.

“Chị nói. Giọng khản đặc "Sang đó, ba năm tôi có thể đón con". Anh lắc đầu,

cười rất nhạt trong những quầng khói đục: "Đến ngày mai thế nào còn chẳng dám

nói trước huống hồ những ba năm sau". "Con ở với mẹ vẫn tốt hơn". Chị cố gắng.

Anh lắc đầu. Cười mai mỉa chế giễu trên khuôn mặt trắng bệch. Và bấm nút điều

khiển tivi. Kênh VTV1 của đài THVN đang phát những hình ảnh về cuộc chiến ở Nam

Tư. Từng đoàn người chạy tản cư sang các nước bạn và ách tắc ở biên giới. Nhà cửa,

đồ đạc bỏ lại. Họ lếch thếch chạy thoát thân. Chạy để tìm cuộc sống.

Lần này thì chính chị đứng lên và tắt tivi. Những người dân Nam Tư đó. Những

cuộc di tản khốc liệt dưới bầu trời đầy bom đó không quan trọng với chị bằng việc

chỉ còn một giờ đồng hồ nữa. Chị phải đi khỏi căn nhà này. Phải xa những gì lâu nay

là máu thịt của chị. Xa đứa con trai bé bỏng thơm như một chiếc bánh ga tô mới ra

lò. Không có một điều gì làm chị xúc động hơn chính bản thân bão tố trong lòng chị

lúc này. Chiến tranh đã nổ ra. Bom đã rơi vào chính chị. Và chị cũng phải chạy đi.

Đến một cảng mới để làm lại từ đầu.

Xung quanh họ. Bỗng im lặng đáng sợ. Ngoài vườn. Có tiếng gió rất nhẹ. Nhẹ

đủ để thỉnh thoảng lùa vào làm những nan thuỷ tinh va lanh tanh. Im lặng đến nỗi

thập thõm ở đâu đó, có lẽ rất xa, tiếng dương cầm của một bé gái đang tập. Chỉ một

vài nốt nhạc bắt đầu của một bản nhạc. Lúc nặng, lúc nhẹ. Vẳng đến rồi lại mất đi”.

Nhà văn tả cảnh người chồng bật ti vi. Ngẫu nhiên thôi, ti vi đang phát chương

trình thời sự. “Kênh VTV1 của đài THVN đang phát những hình ảnh về cuộc chiến ở

Nam Tư. Từng đoàn người chạy tản cư sang các nước bạn và ách tắc ở biên giới.

Nhà cửa, đồ đạc bỏ lại. Họ lếch thếch chạy thoát thân. Chạy để tìm cuộc sống”. Cho

đến khi nhân vật nữ chính liên hệ những sự kiện tưởng như chẳng hề có một mối

quan hệ nào với bản thân mình đến việc ra đi ngày mai của chị “Chiến tranh đã nổ

ra. Bom đã rơi vào chính chị. Và chị cũng phải chạy đi. Đến một cảng mới để làm lại

từ đầu.” thì chúng ta nhận thấy rõ ràng nhà văn tả có dụng ý. Tác giả đã dùng ngoại

cảnh như một chiếc đòn bẩy để dòng suy nghĩ của nhân vật bật ra một cách tự nhiên.

Và ở đoạn văn sau đó, tác giả tả một không gian im lặng. Im lặng đến mức nghe thấy

cả tiếng gió ngoài vườn, tiếng những nan thủy tinh của cây đèn chùm va vào nhau

kêu lanh tanh. Im lặng đến mức nghe thấy vài nốt nhạc của một bé gái đang tập đàn

vang lên thập thõm. Chao ôi, với họ, không gian ấy sao mà thanh bình và quen thuộc

đến thế! Vậy mà họ sắp phải chia tay, một cuộc chia tay được báo trước. Tự nguyện.

Có gì níu kéo không? Có gì nuối tiếc không? Sự im lặng làm cho tâm hồn cả hai

người lắng lại. Họ lắng nghe trái tim mình lên tiếng. Chắc hẳn lòng họ không thể

phẳng lặng mà trào dâng những nỗi niềm…

Các nhà văn nữ của chúng ta tỏ ra rất tinh tế khi chọn lựa miêu tả những chi

tiết bên ngoài nhằm mục đích diễn tả tâm lí nhân vật. Có thể đó là một cơn mưa:

“Trời vẫn mưa, rất nhẹ. Tôi rùng mình. Cơn mưa vẫn muôn đời bao dung. Cơn mưa

uyên ương một đời tôi đã quên, mong manh mà vĩnh cửu”. (Mưa đời sau – Trần

Thùy Mai) Có khi là những cây lá quen thuộc: “Vẫn có màu xanh um của cây mận

già ngoài khung cửa và tiếng chim sâu nhíu nhít thân quen. Vào những đêm thu, vẫn

có hương hoa mận ngầy ngà trong căn phòng thiếu vắng làm chị đắm mình trong kỉ

niệm không nguôi”. (Dù phải sống ít hơn – Dạ Ngân) Có khi chỉ là một mùi vị:

“Ngày thứ hai trôi qua. Im lặng. Mùi thịt nướng đến giờ lượn qua khung cửa, ban

đầu thì lãng đãng, sau đậm dần lên. Hôm nay chắc dư dật tiền nên mua thịt nạc, khói

đặc và khét khô chứ không nồng nàn ngào ngạt như hôm trước. Sao giật mình vì biết

lại một ngày qua đi đến nơi rồi. Sao không ai đến, cũng không ai gọi điện như thể

một cơn lốc đã cuốn đi hết và thả họ xuống một vùng khác?”. (Giai nhân – Nguyễn

Thị Thu Huệ)

Khung cảnh là cái nền để cho con người bộc lộ tâm trạng. Những bức tranh

cảnh vật trong nhiều trường hợp đã trở thành bức tranh tâm cảnh. Sự vật cũng có một

ngôn ngữ. Ở trong một ngữ cảnh thích hợp, nó nói thay cho con người. Dưới ngòi bút

của một nhà văn tài hoa, ngôn ngữ của cảnh vật, đồ vật hàm súc và sâu lắng hơn

nhiều so với lời tự bạch của nhân vật. Thêm vào đó, nó còn gợi nhiều liên tưởng tùy

theo sự cảm nhận của từng đối tượng độc giả. Những trang viết về thiên nhiên thường

được các nhà văn chăm chút khá kĩ lưỡng. Cách đây hơn nửa thế kỉ, Thanh Tịnh đã

viết “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những

đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỉ niệm mơm man của buổi tựu

trường”. (Tôi đi học). Thạch Lam cũng từng viết: “Tiếng trống thu không trên cái

chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây đỏ rực

như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước

mặt đen lại và cắt hình rõ rệt nền trời. Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru,

văng vẳng tiếng ếch kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng

hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi

mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn

ngây thơ của cô; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái

giờ khắc của ngày tàn”. (Hai đứa trẻ) Những câu văn miêu tả cảnh trau chuốt, mượt

mà, chất chứa đầy tâm trạng. Cảnh dưới ngòi bút của các nhà văn thời tiền chiến

thường là cảnh làng quê, thanh bình, nên thơ, đượm buồn. Thời kì đổi mới, nền văn

học của chúng ta cũng xuất hiện một số bậc thầy trong việc dụng cảnh tả tình. Trong

Mùa lá rụng trong vườn, Ma Văn Kháng có những đoạn tả khu vườn đầy ám ảnh.

Khu vườn nhà đối với Phượng là một người bạn để gửi gắm bao nỗi niềm. Và những

lay động của cây, của lá phải chăng cũng chính là những rung động tinh tế của một

tâm hồn nhân hậu đang ngân lên những tiếng reo vui. “Chẳng ai hưởng ứng lời

Phượng. Chỉ có khu vườn nhỏ bỗng ào ào rung lá và lộp độp buông sương. Cây

trong đêm có một ngôn ngữ riêng. Hình như chúng mừng rỡ. Mùa lá rụng sắp qua

rồi”.

3.2.4. Ngôn ngữ nhân vật cũng là một biện pháp miêu tả tâm lí, xuất hiện như

một yếu tố của quá trình phát triển tâm lí nhân vật. Trong các nhà văn nữ Việt Nam,

nhà văn Lý Lan đã tạo nên được nhiều đoạn đối thoại hay trong tác phẩm của mình.

“Một buổi tối chuông điện thoại reo.

- Có phải Cẩm đang… đang…

- Có thai.

- Đó là… là…

- Con của Thanh.

- Tại sao không nói cho tôi biết?

- Rốt cuộc làm sao Thanh biết?

(Im lặng)

- Cẩm nghĩ tôi là một thằng đốn mạt sao?

(Im lặng)

- Tôi không phải là một thằng vô trách nhiệm. Một thằng đớn hèn. Một thằng

đểu…

(Im lặng)

- Cẩm, anh yêu em.

- Tôi không yêu anh.

- Cẩm, hãy tin anh.

- Không phải vấn đề khả tín của lời tỏ tình qua điện thoại. Vấn đề là tôi không

yêu anh” (Tai nạn)

Đằng sau những lời thoại ngắn gọn, người đọc nhận thấy tâm trạng của hai

nhân vật. Cẩm bình tĩnh, tự chủ, quyết đoán. Bão tố đã đến với chị, và đến giờ này,

chị đã lấy lại được thăng bằng. Chị đã quyết định một mình nuôi con, không quan

tâm đến những người xung quanh nghĩ gì, kể cả cha đứa trẻ. Có những khoảng im

lặng của hai nhân vật. Im lặng đầy ngụ ý. Sự im lặng của Cẩm như muốn nói lên sự

kiên định lập trường của chị, nhưng trái lại, nó làm gia tăng tâm trạng căng thẳng của

người đang đối thoại với chị. Chúng ta cũng như đang đọc được những cảm xúc của

Thanh qua lời thoại của anh. Ban đầu là sự dè dặt, sau đó là áy náy, rồi sợ người khác

coi thường mình nên phải thanh minh. Thanh quyết định chuộc lỗi bằng lời cầu hôn.

Nó được thốt ra bất ngờ và chóng vánh. Nhưng chắc hẳn trước đó anh ta phải có

nhiều đêm trăn trở, băn khoăn đo đếm sự được mất của mình để đi đến quyết định

cứu vãn danh dự này. Chỉ bằng những câu thoại rất kiệm lời mà phơi bày được quá

trình diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.

“Phú ngắm Phượng:

- Bà càng ngày càng hấp dẫn. Biên, mày điên hay bất lực?

Biên dừng li bia đang đưa lê kề môi, buông xuống bàn, rủ đầu giữa hai vai,

khóc.

Phú sững sờ:

- Cái gì vậy, Biên? Biên!” (Phượng)

Qua câu nói của Phú, chúng ta thấy được diễn biến tâm lí của anh. Đầu tiên là

ngạc nhiên, bất ngờ, không hiểu tại sao: “Cái gì vậy, Biên?”. Chỉ cần thay đổi dấu

câu, từ dấu chấm hỏi sang dấu chấm cảm: “Biên!”, Lý Lan đã diễn tả được một quá

trình diễn biến tâm lí của nhân vật Phú: chuyển từ ngạc nhiên đến sững sờ sang xúc

động đến nghẹn ngào, và cả áy náy vì đã chạm vào nỗi đau của bạn.

Đọc truyện của Lý Lan, tôi nhớ tới lời nhận xét của Bùi Việt Thắng: “Truyện

ngắn Lý Lan vừa như cái gì liên tục mà đứt đoạn, mơ hồ mà rõ ràng – có thể đó là lối

viết dựa vào dòng ý thức. Lý Lan không quá chuyên chú miêu tả chính xác các hiện

tượng đời sống mà thường cố gắng “ướm” mình vào nhân vật và hay “giả sử” để xử

sự trong mọi trường hợp”. [64]

Một số nhân vật nữ của Lý Lan có cách xử sự, có kiểu đối thoại mang bóng

dáng của chính tác giả: một người rất có ý chí, độc lập nhưng ít cởi mở và rất kiệm

lời. Lối viết của chị gần giống với bút pháp tự sự dòng ý thức (miêu tả đời sống thông

qua dòng chảy của trạng thái suy tư, các dằn vặt diễn ra trong đời sống nội tâm của

nhân vật) mà hai truyện ngắn Chơi Hạ Long và Biển trong mưa là ví dụ tiêu biểu.

Đằng sau lối kể chuyện tự do, lối tự sự “đứt nối, lộn xộn, bột phát” là những quan

niệm và lối sống của mỗi cá nhân riêng biệt. Đằng sau những phát ngôn của nhân vật

là những trạng thái tâm lí, những suy ngẫm về cuộc đời và con người. Đây là một

đóng góp quan trọng của nhà văn này. Thật đáng tiếc là không nhiều nhà văn nữ có

được khả năng xây dựng đối thoại nhân vật như Lý Lan.

Tóm lại, xây dựng tâm lí nhân vật trong văn học là một yêu cầu không thể

thiếu để tái hiện cuộc sống con người toàn vẹn. Về một chừng mực nào đó, có thể nói

miêu tả tâm lí nhân vật là đặc điểm tiêu biểu của văn học hiện đại. Bởi truyện kể dân

gian chỉ chú ý kể hành động của nhân vật. Trong các thể loại văn học trung đại như

truyền kì, truyện Nôm, nội tâm nhân vật cũng chưa được miêu tả một cách trực tiếp.

Đến những năm đầu thế kỉ XX, với sự ra đời các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh,

Phạm Duy Tốn… nội tâm của con người đã bắt đầu được miêu tả, song không vượt

lên khỏi hạn chế của tiểu thuyết chương hồi, không chiếu sáng được sự phân tích tâm

lí vào nhân vật và hành động. Việc thể hiện tâm lí nhân vật trong tiểu thuyết Tự Lực

văn đoàn có những thành công nhất định. Các nhà văn Tự Lực văn đoàn có nét độc

đáo trong việc miêu tả tâm lí nhân vật là họ nêu lên hàng đầu thế giới cảm giác của

nhân vật. “Chính việc quan niệm thế giới nội tâm là thế giới cảm giác đã đổi thay thi

pháp tiểu thuyết, đổi thay điểm nhìn trần thuật của tác phẩm”.[78] Nhưng việc miêu

tả tâm lí nhân vật chưa phải là mặt thành công nhất của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn.

Sự thành công về mặt này, xét trong tiến trình văn học phải kể đến các nhà văn hiện

thực như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng sau này. Các nhà văn nữ của

chúng ta hôm nay đã kế thừa và phát huy những thành tựu của thế hệ đi trước. Họ đã

phát hiện một thế giới tâm lí con người hiện đại đầy biến động, hư ảo với nhiều cảm

giác bất ngờ, vô cớ, trái ngược. Rất có thể trong một số nhân vật cụ thể, việc miêu tả

tâm lí chưa thành công, một đôi chỗ còn sa vào kể lể vụn vặt, nhưng xét trong toàn bộ

thì đội ngũ này đã có đóng góp đáng ghi nhận.

3.3. Ngôn ngữ văn xuôi

Nhà nghiên cứu văn học Huỳnh Như Phương đã từng chỉ ra tầm quan trong của

ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Theo ông, “Cấu trúc ngôn từ của tác

phẩm văn học là hệ thống những phương thức tạo hình và biểu cảm của ngôn ngữ

hoạt động trong văn bản và được tạo ra trong quá trình xây dựng tác phẩm. Chính

nhời những phương thức ngôn ngữ này mà hệ thống hình tượng và nội dung tư tưởng

được bộc lộ”. [58]

Tiếp đó, trong một bài viết về ngôn ngữ văn xuôi sau 1975, tác giả Nguyễn Thị

Bình cũng nêu nhận xét:“Một nhà văn đích thực phải ý thức về mình như một nhà

ngôn ngữ vì ngôn ngữ là “yếu tố đầu tiên quy định cung cách ứng xử” của anh ta, là

phương tiện bắt buộc để anh ta giao tiếp với bạn đọc. Đối với văn chương, ngôn ngữ

không chỉ là “cái vỏ của tư duy” mà còn là tài năng, cá tính và quan điểm nghệ

thuật…” [6]

Ngôn ngữ ngày càng có một vị trí quan trọng trong nghiên cứu văn học. Đến

với văn chương, trước hết là đến với trò chơi ngôn ngữ của nhà văn. Ngôn ngữ văn

xuôi tiết lộ nhiều điều về nhà văn, về thời đại. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một số

quan niệm khá cơ bản về ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là yêu cầu và tiêu chuẩn bắt buộc

không thể thiếu được, dù là trên hình thức. Khác với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đã là

chữ nghĩa văn chương thì nhất thiết phải hay, phải đẹp, phải “văn hoa”, tao nhã. Lời

văn nghệ thuật có thể ví với lời “nhả ngọc phun châu”. Cùng với thời gian, quan niệm

ấy dần dần thay đổi. Văn xuôi thời kì 1930-1945 còn mang dáng dấp của văn biền

ngẫu, nhưng đã có cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh trau chuốt, mẫu mực, tạo ra được

một khoảng cách giữa văn viết với lời nói hàng ngày. Nếu như với cái nhìn đậm tính

sử thi, văn xuôi thời kì 1945-1975 giàu chất thơ, có xu hướng được mĩ lệ hóa thì với

khát vọng diễn đạt chân thật cái đời sống phồn tạp, đa chiều, văn xuôi thời kì đổi mới

lại chọn thứ ngôn ngữ thô nhám, xù xì. Không còn bị buộc chặt vào những đối tượng

cao cả, thánh thiện để nhà văn thành kính chiêm ngưỡng, ngôn ngữ văn xuôi ngày

nay bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào đón mà gần gũi với đời thường,

thẳng thắn trong cách định danh, định tính, suồng sã trong giọng điệu, thành phần

khẩu ngữ gia tăng, cú pháp linh hoạt, mềm mại hơn.

3.3.1. Các nhà văn nữ của chúng ta cũng có những nỗ lực đáng kể để đổi mới

ngôn ngữ văn xuôi. Ngôn ngữ của các chị có những đặc điểm chung của ngôn ngữ

văn xuôi đương đại: mang nhãn quan hiện thực – đời thường. Khoảng cách giữa văn

nói và văn viết được thu hẹp. Lối nói trần trụi, những tiếng chửi tục, chửi thề, tiếng

lóng… xuất hiện nhiều trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật:

“Họa lừ mắt:

-Mấy con ranh kia. Gọi ông chủ ra đây.

Cô Lan mạnh dạn:

-Ông chủ em đi vắng rồi ạ.

-Đi xuống âm ti địa ngục cũng phải gọi về ngay. Không thì đừng trách. Cút hết

những thằng chó chết nào đang sử dụng cái phòng “nhất dạ đế vương” đi. Dọn sạch

dớt dãi. Tập hợp hết những con thú xịn nhất, phục vụ hai tiếng trả hai mươi triệu. Ba

mươi phút sau phải xong tất cả. Nhớ chưa?” (Tường thành - Võ Thị Xuân Hà )

-“Chị đừng có dạy tôi như bà dạy cháu ấy. Cái đời sống này có nghĩa lí gì?

Tôi, từ lúc sinh ra đã bị quăng vào cái vòng quay của một cuộc sống cùng quẫn, mãi

mãi tôi là một thứ đồ chơi của số phận hay sao? Tôi muốn tự do và sung sướng,

muốn là bà chủ ngôi nhà này và Dương. Cái kiếp đàn bà thật khốn nạn. Mẹ yêu quý

của chúng ta ra rả dậy tôi rằng: Khi bé thì phải vâng lời bố mẹ. Lớn lên lấy chồng thì

phải theo chồng, chồng chết phải theo con. Chỉ có vâng lời và vâng lời. Chắc chị và

cả cái nhà này thích tôi sẽ lấy một thằng lực điền chân đất mắt toét như một con trâu

tốt để rồi tống tiễn tôi về nhà nó và ồ ạt đẻ những đứa con như gà chứ gì? Sao các

người ích kỉ thế?” (Thiếu phụ chưa chồng – Nguyễn Thị Thu Huệ)

Lại có những lời thoại được bê nguyên xi từ ngoài đời vào trang văn, đọc lên là

biết ngay nó được phát ra từ dạng người nào:

"Này này em gì ơi, học hả?" Ðấy là bà chủ tiệm đang lách bụng và mông qua

đám con gái. Bà vừa lật lật một quyển vở mép cong tướn vừa nói: "Một trăm hai

mươi kiểu nam nữ âu phục dân tộc phổ biến thời trang nhất hiện nay, sơ cấp hai trăm

rưởi, trung cấp bốn trăm, cả trung cả sơ thì sáu trăm giảm năm chục, cao cấp thì áo

dài com-lê, thực hành ngay trên vải giáo viên vào loại tín nhiệm, nào em tên là gì?”.

"Nào em tên gì?”. Tôi nghĩ chắc bà bận lắm nên lễ nhập học của tôi phải xong ngay

trong một tràng tiếng Việt cực trong sáng như thế…”

“Tôi từ trên gác bước thẳng vào giữa câu của cô: "... xong không dọn bàn là,

là xong không rút ra đấy, cút để gái già này vác bụng đi hầu mấy con đĩ non kia thì xí

xớn học chả học, may lên bờ xuống ruộng đơm cúc vênh váo như các 1 cái khuyết

thùa toe toét chỉ xí xớn tôi thì đuổi tuốt, nhà này là nhà làm ăn tử tế toàn là người có

học có văn thơ hẳn hoi chứ là cái nhà thổ à, không phải cái nhà thổ à, không phải cái

nhà thổ, không phải cái chợ ai muốn ra thì ra vào thì vào, thời buổi này không ai

nuôi không ai, tôi đây chẳng thương thì chó nó thương...”.(Tiệm may Sài Gòn –

Phạm Thị Hoài)

Những đoạn đối thoại như trên không nhiều, nhưng phải nói rằng, ngôn ngữ

“vỉa hè” được đưa vào văn chương làm cho con người được sống thật hơn. Theo nhà

nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến thì chính M.Gorki đã gọi “khẩu ngữ là máu của văn

xuôi nghệ thuật”. Như vậy, nó không chỉ đóng vai trò nguồn nuôi dưỡng mà còn làm

nên thần thái, khí sắc, đặc tính mĩ học của văn xuôi. Vả lại, lối nói, lối kể theo đúng

lời ăn tiếng nói tự nhiên hàng ngày không qua công thức, tu sửa, không qua “nghệ

thuật hóa”, “bác học hóa” sẽ giữ được vẻ tươi mới lâu bền. Nhiều nhà nghiên cứu văn

học đã chỉ ra rằng: thứ ngôn ngữ trau chuốt, gọt gũa quá kĩ lưỡng sẽ chóng cũ hơn lời

văn dân dã đời thường và lời kể của những truyện cười, truyện tiếu lâm luôn có vẻ

“hiện đại”. Tất nhiên, nếu đưa thứ ngôn ngữ bình dân “đầu đường xó chợ” vào quá

liều lượng sẽ gây phản cảm cho người đọc, nhất là khi người đọc đồng thời là những

nhà đạo đức.

Cùng với đặc tính gia tăng khẩu ngữ, các nhà văn nữ cũng tăng cường sử dụng

các đại từ nhân xưng. “Y”, “hắn”, “gã”, “thị”, “ả”… làm thành giọng điệu suồng sã,

bỡn cợt, phá vỡ tính mực thước quen thuộc của văn xuôi: “Gần như Ngâu biết rõ vợ

hắn làm gì trong ngày ấy. Hắn mường tượng mồn một, đến đau đớn, khuôn mặt đẹp

võ vàng của vợ hắn đang bị phủ dưới bản mặt của một gã lạ hoắc nào đó. Xong việc.

Một nắm tiền còm” (Ngày không mút tay – Võ Thị Hảo); “Ả muốn thời gian không

gian ngưng lại hết. Ả ước ao tay trong tay cho đến khi nào ả chẳng còn cảm nhận

được gì nữa cả”. (Đàn bà sinh ra từ bóng đêm – Y Ban). Trái lại “chàng”, “nàng”

làm cho văn phong mềm mại, đầy nữ tính: “Khoan khoái sau một giấc ngủ say, sâu,

êm đềm, không mộng mị, nàng mở mắt nhìn qua cửa sổ. Đã giũa thu, nắng thủy tinh

rờ rỡ ngoài trời. Những cái lá trên cây xanh sạch sẽ mơn mởn sau trận mưa đêm

đang làm duyên dưới nắng. Ồ, một buổi sáng mới thanh bình làm sao. Nàng vùng dậy

chạy vào nhà tắm. Ồn ào tiếng nước xối xả vào nàng. Nhẹ nhõm, nàng chạy ra đứng

trước gương”. (Người đàn bà đứng trước gương – Y Ban)

3.3.2. Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và triết luận là một đặc

điểm nữa của các ngòi bút nữ. Tính tốc độ thể hiện ở lối kể liệt kê như Phạm Thị

Hoài, ở sự đậm đặc các chi tiết như Thuận, ở các đoạn đối thoại dồn dập như Lý Lan,

ở câu văn xô lệch ngữ pháp như Nguyễn Thị Thu Huệ và cả ở lối văn tung phá rất trẻ

trung của Phan Thị Vàng Anh… Lượng thông tin đạt đến mức tối đa nằm ở một thứ

ngôn ngữ phức điệu, đa thanh, mang tinh thần tiểu thuyết: “Tôi chẳng biết bây giờ Vũ

đã đội chiếc mũ phớt thứ bao nhiêu trong đời, Lâm đã lầm bầm nguyền rủa bao

nhiêu lưỡi dao cạo. Một hôm nào đó gần đây tôi chợt trông thấy Vũ dắt chiếc một-

linh-ba mặt mũi đầy tự trọng kiểu trí thức thuộc địa, và theo sau một quãng nghi binh

là một nàng đeo kính cố tách khỏi môi trường. Tóc nàng để rất dụng ý. Khoé miệng

thì chán chường căng thẳng. Những phụ nữ hạng siêu việt này chỉ có một mục đích

trong cuộc đời là săn tìm một người đàn ông có thể hiểu được mình. Họ quả là không

đơn giản chút nào. Tôi mừng cho Vũ từ đằng sau. Thế là nó đã tìm được ai đó đáng

cho nó nói chuyện, thế là nó đã trưởng thành, đã có một đời sống xã hội thật rồi, cứ

nhìn cách nó chọn xe pháo thì biết. Còn Lâm đôi ba lần lướt qua sát mũi tôi nhưng

tôi chẳng kịp đánh hơi xem nó bây giờ là ai. Mà tôi chắc cũng không bốc mùi V.I.P.

khiến nó phải miễn cưỡng ngoảnh lại. Nó đã quệt vỡ đèn xi nhan bên trái của tôi để

lách lên chui qua chiếc chắn tàu ở đầu đường Khâm Thiên. Nó tỏ ra biết quý thời

gian ở tình huống chắn tàu như phần lớn người Hà Nội hiện đại và cũng như họ, nó

không xin lỗi. Thế cũng là một trưởng thành”. (Man nương – Phạm Thị Hoài) Khả

năng thông tin thể hiện ở việc nhà văn biết dung nạp những thành phần ngôn ngữ

mới, biết sử dụng các “điển cố” văn học mới, mở rộng khả năng diễn đạt của ngôn từ.

Cái cách nhà văn làm cho các từ “mũ phớt”, “lưỡi dao cạo”, “V.I.P.” trở nên đa

nghĩa; cái cách miêu tả xen lẫn bình luận: “…mặt mũi đầy tự trọng kiểu trí thức thuộc

địa, và theo sau một quãng nghi binh là một nàng đeo kính cố tách khỏi môi trường.

Tóc nàng để rất dụng ý. Khoé miệng thì chán chường căng thẳng” làm cho ngôn ngữ

trở nên đa thanh, hàm chứa nhiều ẩn ý.

Hứng thú triết luận không chỉ là hứng thú của những nhà văn nam giới như

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh

Thái, Nguyễn Việt Hà… Những nhà văn nữ của chúng ta cũng rất ưa triết luận. Tính

triết luận thể hiện qua những thành phần ngôn ngữ có tính khái quát, trừu tượng.

Ngôn ngữ cũng bớt đi phần kể, phần tả để xen vào một vài đoạn triết luận ngắn,

nhưng có ý nghĩa khái quát cao.“Thiên đường. Hình như ai trong đời cũng đã từng

đặt chân tới đó. Chỉ khác nhau là thiên đường của họ là cái gì, và đem lại hạnh phúc

cho họ ra sao. Có người thì chạy hết từ thiên đường này tới thiên đường khác, có khi

vừa lao vào rồi lại chạy tọt ra ngay vì kinh hãi”. (Hậu thiên đường – Nguyễn Thị

Thu Huệ) “Tôi nhìn ảnh Ma-ra-đô-na. Không hiểu sao tôi thấy lo lắng khi nhìn thấy

con người này đang đứng trên đỉnh cao chót vót, trong khi cả hành tinh nhìn vào anh

ta. Không vui gì khi phải giữ thăng bằng trên cao, và tất cả mọi người bắt anh ta

phải đứng như thế theo ý họ. Nếu là tôi, tôi sẽ biến mất, sẽ trốn đi, hoặc sẽ ngừng to

tiếng khi đã lên đến đỉnh. Không một người nào lên mãi mãi, vĩ đại mãi mãi được.

(Cơn mưa cuối mùa – Lê Minh Khuê)

3.3.3. Ở nhiều tác giả, ngôn ngữ thật sự là một cuộc trình diễn của cá tính

nghệ sĩ. Trong số các nhà văn nữ Việt Nam hiện nay, người có ý thức trong việc sử

dụng ngôn ngữ nhất có lẽ là Phạm Thị Hoài.

Chị từng nói rằng: “Nhà văn là kẻ đã ngầm ký một hợp đồng nào đó với các

con chữ, đôi khi là một hợp đồng rất khắt khe. Càng ở lâu trong nghề thì hợp đồng ấy

càng dày lên và phức tạp hơn, khiến việc viết càng khó khăn hơn. Đương nhiên là

nhà văn có điều gì đó muốn nói, nhưng ai cũng có điều gì đó muốn thổ lộ, bất kể ai,

từ một đứa trẻ sơ sinh trở đi. Song với người bình thường, chỉ có bản thân nhu cầu

thổ lộ ấy là quan trọng, họ làm tất cả để thoả mãn nhu cầu ấy, cách nào cũng được,

miễn là thổ lộ, nhiều khi họ cũng dùng cách viết và có được hiệu quả cần thiết. Nhà

văn là kẻ chỉ có thể đáp ứng nhu cầu thổ lộ của mình một cách cao nhất trong việc

viết. Thậm chí hạn hẹp hơn nữa: hắn chỉ có thể được thoả mãn trong một vài lối

viết”. [11] Chị viết với một quan niệm rất rõ ràng, “viết như một phép ứng xử toàn

diện, trước hết là ứng xử với bản thân mình, sau là ứng xử với môi trường, và môi

trường ở đây là toàn bộ những gì tự nhiên và con người tạo ra, kể cả di sản của quá

khứ và những tín hiệu dù còn mơ hồ về tương lai”. [31]

Tác phẩm của Phạm Thị Hoài là một dòng thác ngôn từ. Truyện ngắn của chị

đầy rẫy những phép liệt kê, khiến cho người đọc vừa cảm thấy thích thú với vốn kiến

thức sâu rộng của chị về đối tượng được miêu tả, vừa choáng ngợp bởi khả năng biểu

cảm phong phú của tiếng Việt. Hãy nghe nhà văn mượn lời một nhân vật làm “ôsin”

kể về cô chủ của mình để phô diễn lớp từ vựng mà người Việt Nam dùng để phân

biệt các loại mĩ phẩm:

“Hai năm qua tôi thu thập những thứ đẹp cô Cam bỏ đi như sau: lọ dầu gội

giã biệt gầu; lọ dầu gội cho loại tóc cực kỳ mẫn cảm; lọ dầu xả táo tầu jujube để tóc

không bị tổn thương khi chải và hết hẳn chẻ ngọn; lọ sữa tắm vòi hoa sen gật gù; lọ

sữa tắm bồn bầu dục; lọ sữa rửa mặt; lọ sữa thoa mềm da toàn thân; vô số lọ nước

hoa; hộp kem làm sạch mụn cám, mụn đầu đen, tẩy lớp sừng hoá dưới da, thông

thoáng lỗ chân lông; hộp kem dưỡng da siêu hạng dùng cho loại da mỏng dễ dị ứng;

hộp kem chống nắng, không trôi khi gặp nước; hộp kem một bước đột phá trong việc

trị nám và tàn nhang; hộp kem bào chế từ thực vật của hãng mỹ phẩm Kanebo nổi

tiếng nhất ở Nhật; hộp kem làm tan mỡ bụng, làm thon và săn chắc vùng đùi, trị các

vết rạn nứt trên bụng; hộp kem làm mượt da vùng ngực, tẩy thâm đầu ngực và làm

hồng nhũ hoa... Chúng đều bền và nắp đóng rất khít. Để đựng kim chỉ cúc áo linh

tinh, hạt cườm, ghim băng, chun buộc tóc, khuyên tai, mì chính, cau khô, muối tinh,

ớt bột... cho sạch. Tôi còn chưa kể vô vàn túi giấy bóng và hộp giấy cứng một mình

cô Cam thải ra, đủ cho cả huyện Mường Lặt nhà tôi dùng mọt đời. Những thứ sau

đây cô Cam bỏ đi tôi không giữ: tuýp kem lột nhẹ da mặt; tuýp kem đắp mặt nạ thư

giãn và sảng khoái; tuýp kem tẩy lông tay vĩnh viễn; tuýp kem nền; vô số ống

mascara và ống son; lọ dung dịch dưỡng dài và dày lông mi lông mày, làm mắt long

lanh; lọ nước hoa khô; lọ nước hoa xịt; lọ thuốc bôi móng tay; lọ dung dịch tẩy thuốc

bôi móng tay; lọ keo tẩy da móng tay; lọ keo xịt tóc giữ nguyên hình dáng cả ngày; lọ

nước xịt miệng thơm cả ngày; hộp kem đặc trị túi mỡ mắt, xoá nhăn mắt và quầng

thâm dưới mắt; hộp phấn đánh quầng mắt mười hai mầu, hộp sáp giữ môi mềm ẩm...

Cũng đẹp nhé mà vô dụng, trẻ con không thèm chơi, đồng nát không thèm nhặt. Ai

cũng như cô Cam thì chết cả nút trong rác đẹp”.

Hãy nghe nhà văn tả người. Với số lượng từ ngữ tối thiểu, chân dung nhân vật

hiện lên sắc nét, ấn tượng một cách tối đa:

“Cô Cam cao tới một mét bẩy, lưỡng quyền cao, mũi cao, cổ cao, mặt dài,

lông mi dài, tóc dài, ngón tay dài, móng tay dài, chân dài. Những lúc uể oải yểu điệu

cũng ra cây liễu. Còn bình thường như cây sào”.

Hãy nghe nhà văn kể về các đồ vật của người Việt để thấy vốn ngôn ngữ của

người Việt ta quả là đáng nể:

“Cái gùi mầu khói hun nâu sẫm ở tận Sa Pa đem về treo ở góc phòng khách,

bên trong chỉ đựng nửa dải thắt lưng lụa hoa hiên, nửa kia buông lơi bên ngoài hờ

hững. Chiếc quạt mo che ngang miệng một cái vại da lươn cực lớn, bảo là vại đời

vua gì gì. Bên cạnh lố nhố chĩnh, cóng, chum, khạp, ấm, nậm, áng, âu. Những thứ

người ta dẹp gọn vào gầm giường, góc bếp, gốc chuối, thì cô cậu giăng ra, rồi phàn

nàn là thiếu không gian”.

Còn đây là các loại vải:

“Tôi chỉ biết gộp những thứ cô Cam mặc trên người thành bốn loại, một là

giặt máy bằng nước lạnh, hai là giặt máy bằng nước ấm, ba là giặt tay, bốn là giặt

khô ở tiệm. Cô chia sẵn, bảo việc này không giao cho mày được. Ủi cũng giao cho

tiệm, sau khi tôi làm cháy một chiếc tất siêu sợi và chăm chỉ là phẳng những nếp gấp

li ti của một chiếc khăn lụa nhăn. Tôi tưởng cô Cam sợ nhăn. Cậu an ủi cô, may mà

nó chưa cắt hết mấu của cái áo khoác bằng vải lanh sùi. Tôi nghe tên vải mà hoảng

hốt. Vải bông, cô cậu gọi là cốt tông, nghe mấy chục lần còn nhớ. Như siu, soa, sẹc,

ka tê, lai cờ rơ, tuýt xi, giơ xi, mút xơ lin, cát xơ mia, la tếch, cờ rếp, vít cớt, với thun

bò, thun gân, thun lưới, thun nhún, nhung chìm, nhung sổ, nhung sẹo, len dê, len cừu,

len cào, len tuyết... thì chịu, mỗi loại một chế độ chăm sóc, một kiểu thưởng thức, một

cách sáng tạo, một chức năng thẩm mỹ, một đời sống, một linh hồn, như cô cậu tuyên

bố. Hàng trăm linh hồn khoác ngoài da như thế là văn minh. Chín mươi vía người

Mường giấu bên trong thì đại phản động”.(Cam tâm – Phạm Thị Hoài)

Còn đây là một đoạn văn khác, bản sưu tập những dấu sắc nghe muốn thủng lỗ

tai: “Cả bọn hai chục đứa tên toàn dấu sắc nghe phát ngốt. Tuất, Bích, Trúc, Ðát,

Phúc, Thoát, Ngát, Thấm, Bắc... Bà chủ là Tuyết, cô con gái Xuyến, hai cô con dâu

Phấn, Ðức, bốn thầy Quýt, Túc, Chiến, Thắng. Ở tầng trên suốt ngày vang vang chia

mông cộng ngực trừ nách, mông ngực nách”. (Tiệm may Sài Gòn – Phạm Thị Hoài)

Người đọc bị nhà văn dẫn vào mê hồn trận của câu chữ. Chuyện tưởng như

chẳng có gì, nhưng khi Phạm Thị Hoài nhúng tay vào, lại thành ra có truyện. Truyện

của chị, khác với phần lớn các nhà văn nữ, không thấy có bóng hình cuộc đời chị,

nhưng cái cá tính sáng tạo hiện lên rất rõ. Chị không giấu mình trong tác phẩm mà

luôn tìm cách mách người đọc rằng, chuyện mà chị đang kể sở dĩ là như vậy vì chị là

người kể. Càng về sau này, các sáng tác của Phạm Thị Hoài càng cung cấp cho người

đọc những kinh nghiệm đọc mới. Đọc Phạm Thị Hoài, không nên đặt ra câu hỏi: “Tác

giả định nói lên điều gì qua tác phẩm này?”, bởi chính nhà văn cho rằng đó là cách

cảm thụ nghệ thuật đã lỗi thời.

Bên cạnh Phạm Thị Hoài, một gương mặt nữ nhà văn có ngôn ngữ văn xuôi

đầy cá tính nữa là Nguyễn Thị Thu Huệ. Nếu như Phạm Thị Hoài để lại dấu ấn của

mình trong văn xuôi bằng từ vựng và chất giọng giễu nhại đầy ám ảnh thì dấu ấn của

Nguyễn Thị Thu Huệ nằm trong cú pháp. Câu văn của chị thường cố ý sai ngữ pháp.

Chúng thường bị xé vụn, dồn ý tưởng vào các thành phần phụ.

“Bỗng dưng. Chiều nay. Tất cả ùa về. Đầy ắp ứ như thể có ai đó đã thu gom

mọi thứ vào một cái bao tải to tướng, buộc chặt nút lại. Và nay, đem mở òa ra trước

tôi. Đủ đầy. Nguyên vẹn” (Hậu thiên đường)

“Năm giờ.

Chị ngồi bệt dưới thảm. Nhìn ra vườn.

Chiều xuống thong thả. Nhẹ nhàng. Khu vườn nhuộm màu vàng sậm, ánh chút

đỏ phía góc trời”. (Tân cảng)

Không thiếu những cụm từ chỉ thời gian, không gian được đặt thành hẳn một

câu, thường là ở đầu đoạn: “Ba giờ.”, “Mùa hè.”, “Năm giờ.”, “Buổi sáng”. “Phi

trường.”, “Phía sau.”, “Trên máy bay.”… (Tân cảng)

Câu văn ngắn, bị bẻ vụn. Đoạn văn cũng ngắn. Có những đoạn chỉ một câu, có

khi vài ba câu. Sáu bảy đoạn ngắn như vậy liền nhau. Nhiều chỗ xuống dòng, tạo ra

nhiều khoảng giấy trống. Chị tạo được nhiều khoảng cách cho câu chữ của mình, và

cũng tạo được nhiều khoảng không gian xa, gần, cao, thấp cho những sự việc đang

được miêu tả. Nhân vật là những khối rời, cô đơn, khó hòa nhập.

Không giống như Nguyễn Thị Thu Huệ, với Y Ban, câu văn thường dài, dàn

trải theo dòng tâm trạng của nhân vật. Y Ban cũng thường dùng từ “hòa nhập”: “Một

người đàn ông nàng không thể nào nắm bắt và hoà nhập được”. “Đầu óc nàng miên

man và cơ thể thì không hoà nhập được với khối óc”. “Hoà nhập đến thế là cùng”.

[4]

Nhà văn Thuận tuy chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam với ba tiểu thuyết nhưng

cũng đã bước đầu xây dựng cho mình được một phong cách ngôn ngữ độc đáo.

“Ngổn ngang và tung tóe như những mảnh của một trò chơi ghép hình, không

chương hồi liền một mạch suốt hơn 200 trang sách, bề bộn những suy ngẫm, hình

tượng, chi tiết nhấn đi nhấn lại bất tận đến thành ám ảnh, như lưỡi dao cùn nhay mãi

không đứt, như cái đĩa hát cũ bị vấp rãnh, cuốn sách đậm đặc một thứ humour xót xa

và không thiếu những yếu tố mà giờ đây người ta gọi là hậu hiện đại này nhiều lúc

làm tôi như nhập đồng”. [69] Nhà văn Dương Tường đã có những nhận xét như vậy

về văn phong của tiểu thuyết Phố Tầu. Còn đây là một đoạn trong Paris 11 tháng 8:

“ Hai người vừa đi vừa nói chuyện. Tay bà váy đỏ chém vào không khí. Tay giáo viên

chém vào không khí. Bên ngoài sơ mi tím than là một áo khoác cũng màu tím than.

Cả cây tím than nhìn từ xa vẫn không hết nghiêm trang và năng động. Liên tự hỏi có

nên trốn vào gốc cây bên cạnh thì cả hai đã đi qua. Giầy cao gót mà bước nhanh

ghê. Phăm, phăm, phăm. Cứ như không có gì dưới đất. Những phụ nữ quan trọng

như thế chắc không bao giờ vấp ngã. Không nhìn xuống đất cũng không bị vấp ngã.

Những phụ nữ kém quan trọng thì không đi guốc cao gót cũng vấp ngã. Bác gác cổng

khu nhà Liên ở chẳng hạn, hay vấp ngã đến nỗi bạc cả mũi giày. Bà đưa thư cũng vài

lần vấp ngã, từ cổng đến hộp dựng thư có mấy bước chân mà cũng vấp ngã, không

hiểu thế nào. Hai cô nhân viên siêu thị Franprix tuần trước bê sọt rau xà lách va

phải chiếc xe đẩy, cả người cả hàng đổ kềnh đổ càng. Các cụ già thì thường xuyên

vấp ngã, nhất là trong buồng tắm, móng tay dài cào rách da Liên. Con bé Cuba có vẻ

rắn rỏi thế mà cũng vấp ngã, nó bảo nhà cửa ở đây kinh thật, toàn kính là kính, lại

lau trong veo, nhiều khi tưởng không có gì cứ thế lao đi, may mà kính năm li chứ

không đền sạt nghiệp. Bà hàng xóm của Liên thì sau đợt vấp ngã một mạch từ tầng

bảy xuống tầng năm còn ngã thêm một lần nữa, cũng vì giẫm nhầm vỏ chuối, nhưng

đến tầng sáu thì dừng lại, cái chổi vẫn leo xuống đến tầng trệt”. Văn của chị có nhịp

điệu: lúc nhịp nhàng “Tay bà váy đỏ chém vào không khí. Tay giáo viên chém vào

không khí”, khi gấp gáp: “Phăm, phăm, phăm”, có khi do sự hoà phối âm thanh bằng

trắc, bay bổng lên xuống cứ như thơ: “cả người cả hàng đổ kềnh đổ càng” . Nhiều từ

được nhay đi nhay lại tạo ấn tượng cho người đọc ( hai lần cụm từ “chém vào không

khí”, ba lần từ “tím than”, chín lần từ “vấp ngã”) . Lời gián tiếp của người kể chuyện,

lời trực tiếp của nhân vật (“Giầy cao gót mà bước nhanh ghê” – lời Liên, “ở đây kinh

thật, toàn kính là kính, lại lau trong veo, nhiều khi tưởng không có gì cứ thế lao đi,

may mà kính năm li chứ không đền sạt nghiệp” – lời nhân vật khác qua lời kể của

Liên) hòa quyện vào nhau rất giống với kiểu văn của Nam Cao trong Chí Phèo.

Trong một chừng mực nào đó, ngôn ngữ địa phương cũng tạo nên nét khác biệt

trong ngôn ngữ văn xuôi của từng nhà văn, dù nó chưa đủ để tạo nên một phong cách.

Bên cạnh đó, nó còn tiết lộ với chúng ta vùng đất mà nhà văn ấy sinh ra và lớn lên.

Văn của Nguyễn Ngọc Tư có cái duyên dáng của thổ ngữ vùng đồng bằng sông Cửu

Long. Lời văn nghệ thuật Dạ Ngân, và Lý Lan cũng vậy. Những phương ngữ Nam

Bộ xuất hiện nhiều trong ngôn ngữ nhân vật. Trong văn Dạ Ngân chúng ta hay gặp

những từ “nầy”, “chớ”, “vầy”, “rỉ rả”, “ngầy ngà”, “chụp giựt”; còn Lý Lan lại rất ưa

dùng từ “nhứt” và cách nói “bả”, “ổng”, “ảnh”.

Tóm lại, các cây bút nữ đều có ý thức cá tính hóa về mặt ngôn ngữ, đồng thời

có xu hướng tiệm cận ngôn ngữ đời sống với sự gia tăng thành phần khẩu ngữ trong ý

thức đưa tác phẩm đến gần hơn với người đọc. Tuy vậy, có người tạo được ấn tượng,

tiến dần tới tạo ra một bút pháp riêng, cũng có những người còn mờ nhạt, chìm khuất.

Bằng một nhãn quan ngôn ngữ mới, các chị góp phần vào việc phá vỡ tính khuôn

định trong cách sử dụng ngôn từ. Ngôn ngữ mực thước, trang trọng không còn là lựa

chọn duy nhất. Dường như, văn xuôi nữ Việt Nam nói riêng và văn xuôi Việt Nam

nói chung đang cố bắt kịp với văn xuôi thế giới, tiệm cận với xu thế hậu hiện đại, nơi

mà ranh giới giữa tính chất bình dân và tính chất bác học hàn lâm bị xóa nhòa.

KẾT LUẬN

Gần ba trăm năm trước, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm viết Đền thiêng ở cửa bể kể

chuyện về nàng Nguyễn Cơ quý phi của Trần Duệ Tông. Đây có thể nói là tác phẩm

văn xuôi đầu tiên của một nhà văn nữ viết về người phụ nữ. Bẵng đi hơn một trăm

năm sau, mới có các nữ sĩ Đạm Phương, Tương Phố đủ thấy dòng văn học nữ khởi

nguyên thật chật vật. Nhưng từ nửa cuối thế kỉ qua, khi văn nữ chảy thành dòng với

các tác giả Mộng Sơn, Thanh Hương, Vũ Thị Thường, Nguyễn Thị Ngọc Tú… thì nó

lại mạnh mẽ, ào ạt với hàng loạt tác giả ngang ngửa với nhà văn phái mạnh. Và trong

khoảng hai mươi năm trở lại đây, các nhà văn nữ đã không ngừng xuất hiện trên bục

nhận giải nhất văn chương trong các cuộc thi lớn. Điều đó chứng tỏ có một dòng văn

học nữ Việt Nam đang cuộn chảy và ngày càng lớn mạnh trong lòng dân tộc.

Người phụ nữ Việt Nam nói chung và các nhà văn nữ Việt Nam nói riêng đang

có một khoảng trời tự do ở phía trước để học tập, phấn đấu và tự khẳng định mình.

Đội ngũ viết văn nữ ngày càng đông lên, do những người phụ nữ đã có đủ vốn tri

thức để thi thố với chữ nghĩa, và cũng còn bởi ngày nay quan niệm về nghiệp văn

chương không còn nhiều khe khắt, giáo điều như trước. Cơ chế xuất bản cũng thông

thoáng hơn. Văn chương thực sự trở thành một sân chơi rộng lớn, nơi bất kì ai cũng

có thể tham dự một cách tự do và bình đẳng. Người phụ nữ nào cũng có thể thử sức

mình trong lĩnh vực văn chương, nếu thành công thì họ ở lại, nếu thất bại thì họ ra đi.

Ngay cả khi đã ở lại họ cũng có thể chọn cho mình con đường trở thành nhà văn

chuyên nghiệp, hay chỉ là một người viết nghiệp dư, nghĩa là khi nào thích thì viết,

mệt thì nghỉ. Hầu như không có nhà văn Việt Nam nào sống được bằng nhuận bút,

nên các nhà văn nữ thường kiêm nhiệm nhiều việc, thường là những việc có liên quan

đến chữ nghĩa văn chương như làm báo, làm biên tập viên văn học, làm xuất bản…

để có thể nuôi sống nghiệp văn. Nghề tiếp xúc nhiều với chữ mang đến cho họ tầm

hiểu biết rộng; nỗi lo mưu sinh rèn luyện cho họ trở thành những con người thực tế;

thiên chức làm vợ, làm mẹ khiến cho họ gần gũi với những cái lỉnh kỉnh, lặt vặt của

cuộc sống đời thường. Tất cả những thứ đó cộng lại tạo nên một lối viết ít tô vẽ, rất

“đời” nhưng cũng rất giàu nữ tính.

Đọc tác phẩm của các nhà văn nữ hiện nay viết về đề tài người phụ nữ hiện đại,

chúng ta sẽ tìm thấy được những đặc điểm về tính cách của người phụ nữ hiện đại

trong mối quan hệ với xã hội, với gia đình và bản thân. Cuộc sống muôn màu muôn

vẻ cộng với cá tính sáng tạo của từng nhà văn đã tạo nên nhiều hình ảnh khác nhau về

người phụ nữ Việt Nam ở cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI. Chúng ta gặp ở đây những

gương mặt phụ nữ ở đủ mọi tính cách, đủ mọi lứa tuổi. Đó có thể là những người phụ

nữ đẹp, tự tin, năng động mà cũng có thể là những người phụ nữ nhan sắc bình

thường mà lại nhẹ dạ, cả tin. Đó có thể là những người mẹ suốt đời hi sinh cho con,

hay những người mẹ chỉ biết sống cho riêng mình. Đó còn là những người phụ nữ

thành đạt trong công việc, có một gia đình hạnh phúc nhưng vẫn không ngừng khát

khao một cuộc sống tinh thần luôn phong phú, tươi mới. Đó còn là những người phụ

nữ nghèo khó gánh trên vai một gánh gia đình, lúc nào cũng loay hoay với những câu

hỏi về mưu sinh. Đó còn là hình ảnh của những cô thiếu nữ đang chập chững bước

vào đời luôn băn khoăn với những câu hỏi về tình yêu, về lẽ sống… Những người

phụ nữ ấy hiện lên dưới cái nhìn của các nhà văn nữ đều rất sống động với thế giới

nội tâm phức tạp, với những nét tính cách rất chân thực, không tô vẽ. Lấy giá trị nhân

bản làm gốc, những trang truyện của các nhà văn nữ đi sâu lí giải, trân trọng từng nỗi

khát khao; cảm thông với những lầm lẫn, ngô nhận; nâng đỡ từng số phận sa ngã; yêu

quý từng cuộc đời đơn lẻ. Các nhà văn với thế mạnh là những người cùng giới, hiểu

tường tận những nỗi niềm của người phụ nữ hiện đại, thể hiện nó trên những trang

văn làm cho nam giới hiểu phụ nữ hơn, và chính phụ nữ cũng hiểu mình hơn.

Các nhà văn nữ ngày nay đã được trang bị học vấn và những tri thức toàn diện

về đời sống. Nhờ biết tiếp thu những yếu tố nội sinh của văn học dân tộc và tiếp biến

kĩ thuật hiện đại của thế giới, chất lượng nghệ thuật trong tác phẩm của họ mỗi ngày

một nâng cao. Họ biết lựa chọn những điểm nhìn thích hợp để bày tỏ cái tôi nội cảm

của nhân vật một cách tự nhiên và thuyết phục. Tiêu điểm nội quan được lựa chọn

nhiều nhất, và có thể nói đây là một lựa chọn thích hợp, là một trong những yếu tố

góp phần tạo nên thành công cho hệ thống tác phẩm viết về người phụ nữ. Cái nhìn từ

bên trong tạo thuận lợi cho việc miêu tả tâm lý nhân vật, phù hợp với kiểu “truyện

tâm tình”, không chú trọng nhiều đến tình tiết và cốt truyện mà hướng đến những

khoảnh khắc tâm trạng.

Tâm lý nhân vật được mô tả bằng nhiều thủ pháp. Có khi các nhà văn để cho

nhân vật tự bộc lộ, tự giãi bày. Cũng có khi các nhà văn áp dụng biện pháp vẽ cảnh

để tả tình, nhờ thiên nhiên nói hộ lòng người. Ngôn ngữ nhân vật cũng là một trong

những phương tiện để nhân vật bộc lộ tính cách và tâm trạng.

Về ngôn ngữ văn xuôi, các nhà văn cũng có những đóng góp nhất định trong

việc làm cho ngôn ngữ văn chương gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Khẩu ngữ được

gia tăng, làm cho nhân vật sống thật hơn, gần với người đọc hơn. Ngoài ra, ngôn ngữ

văn xuôi của các nhà văn nữ cũng mang những đặc điểm có tính thời đại: tăng cường

tính tốc độ, thông tin và triết luận. Có những nhà văn đã bước đầu tạo ra được dấu ấn

ngôn ngữ riêng trong lòng độc giả.

Bên cạnh những thành công nêu trên, văn chương nữ Việt Nam ở thời điểm

cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định.

Thứ nhất, nội dung đề tài còn chưa thật sự phong phú, phần nhiều xoay quanh

những mảnh đời nhỏ bé của người phụ nữ giữa dòng chảy cuồn cuộn của cuộc đời.

Tác phẩm của họ chưa có tầm khái quát cao và ít tác phẩm “đứng” được lâu trong

lòng độc giả.

Thứ hai, các nhà văn nữ thường lấy cuộc đời mình ra làm chất liệu cho những

sáng tạo nghệ thuật. Việc làm này có những lợi thế như sự chân thực trong cảm xúc,

chiều sâu trong những chiêm nghiệm về cuộc đời, nhưng ngược lại có những bất lợi,

mà như cách nói của nhà thơ Đặng Minh Châu “viết mà xài đến vốn rồi, lấy cả cuộc

đời mình ra viết, như thế, về mặt làm nghề mà xét phải rất tài, nếu không chóng hết

lắm”. [55]

Thứ ba, không phải tất cả, nhưng một số nhà văn nữ đang có nguy cơ lặp lại

mình. Sự lặp lại thể hiện trong việc chọn lựa đề tài, cách dàn dựng kết cấu, cách chọn

lựa lối hành văn cho tác phẩm. Tất nhiên trên một chặng đường dài của sáng tạo nghệ

thuật, chúng ta không thể đòi hỏi các nhà văn lúc nào cũng ở trong trạng thái cảm xúc

thăng hoa để tạo nên những thành công, nhưng chúng ta cũng mong muốn được

thưởng thức những tác phẩm văn chương thực sự có giá trị, chịu được thử thách khắc

nghiệt của thời gian.

Để phát huy những mặt tích cực và hạn chế đi những nhược điểm của mình,

không có con đường nào khác là các nhà văn nữ Việt Nam phải tăng cường học hỏi

và rèn luyện tay nghề. Như một “người trong cuộc” đã nói: “Chúng ta đang ở một

thời mà người cầm bút buộc lòng phải có một giao tiếp nhất định với sản phẩm tinh

thần và nghệ thuật toàn thế giới. Tôi cho rằng, ngày nay, một nhà văn thực sự không

được phép xin lỗi cho sự thiếu hiểu biết của mình về hoạt động của các đồng nghiệp

xuất sắc trên thế giới nữa…”. [31]

Để nâng mình lên một tầm cao mới, cố gắng của cá nhân là chưa đủ. Nhà

nước, xã hội và gia đình cũng cần chắp đôi cánh để các nhà văn nữ của chúng ta bay

cao, bay xa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Duy Anh (2006), “Tôi thích tự huyễn hoặc mình đấy”, Tường thành, Nhà

xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

2. Nhuệ Anh (2006), “Các nhà văn nữ của “thế kỉ nàng”, Văn nghệ, (21).

3. Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ (2002),

Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội.

4. Y Ban (2005), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Thanh

Niên, Hà Nội.

5. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí

Văn học, (9).

6. Nguyễn Thị Bình (2003), “Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu – Một thành công

đáng chú ý của văn xuôi sau 1975”, Tự sự học: một số vấn đề lí luận và

lịch sử, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội.

7. Xuân Cang, “Y Ban và những thân phận đàn bà”, www.hanoi.vnn.vn.

8. Văn Chinh (2001), “Văn nữ thế kỉ XX, một tuyển tập đáng quý”, Nông nghiệp

Việt Nam, (138).

9. Trương Chính (1990), “Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự

lực văn đoàn”, Tạp chí Văn học,(5).

10. Ngô Thị Kim Cúc (1996), Thảm cỏ trên trời, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản

Công an nhân dân.

11. Phạm Việt Cường , “Hợp đồng ngầm với các con chữ”, www.talawas.org.

12. Trần Ngọc Dung (2006), “Đời sống thể loại văn học sau 1975”, Nghiên cứu

văn học,(2).

13. Hạnh Đỗ, “Không nên tước đi bản năng tự nhiên của nhân vật”, Tường thành,

Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

14. Đào Đồng Điện, Phụ nữ là đàn bà, tuoitre online.com.vn.

15. Nhị Hà (2005), “Tôi ngồi bệt trên đất và viết”, Người sót lại của rừng cười,

Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.

16. Minh Hà (2005), “Tôi vốn là người đàn bà thích che chở”, Hồn trinh nữ, Nhà

xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.

17. Võ Thị Xuân Hà (2002), Truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà, Nhà xuất bản Phụ nữ,

Hà Nội.

18. Võ Thị Xuân Hà (2006), Chuyện của con gái người hát rong, Tập truyện ngắn,

Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

19. Võ Thị Xuân Hà (2006), Tường thành, Tiểu thuyết, Nhà xuất bản Hội nhà văn,

Hà Nội.

20. Lê Thị Đức Hạnh (1967), “Nhân vật phụ nữ nông thôn trong truyện ngắn Vũ

Thị Thường”, Tạp chí Văn học, (9).

21. Lê Thị Đức Hạnh (1968), “Nhân vật phụ nữ ba đảm đang qua sáng tác của một

số nhà văn nữ”, Tạp chí Văn học,(7).

22. Nguyên Hằng (2005), “Suốt đời chỉ mơ một giấc”, Người sót lại của rừng

cười, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.

23. Võ Thị Hảo (2005), Người sót lại của rừng cười, Tập truyện ngắn, Nhà xuất

bản Phụ Nữ, Hà Nội.

24. Võ Thị Hảo (2005), Hồn trinh nữ, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Phụ Nữ, Hà

Nội.

25. Võ Thị Hảo (2005), Góa phụ đen, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Phụ Nữ, Hà

Nội.

26. Hoàng Ngọc Hiến, “Không chỉ là một “Gia đình bé mọn”, www.hanoi.vnn.vn.

27. Hoàng Ngọc Hiến (2003), “Kể lại nội dung và viết nội dung”, Tự sự học: một

số vấn đề lí luận và lịch sử, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội.

28. Đỗ Đức Hiểu (1990), “Đọc Phạm Thị Hoài”, Văn Nghệ ngày nay, (50).

29. An Hoa, “Văn chương một thời để nhớ”, www.cpv.org.vn.

30. Nguyễn Thái Hòa (2003), “Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và Điểm nhìn

nghệ thuật trong truyện”, Tự sự học: một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nhà

xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội.

31. Phạm Thị Hoài (1989), “Viết như một phép ứng xử”, Tạp chí Sông Hương,

(39).

32. Phạm Thị Hoài (1989), Mệ lộ, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Tổng hợp Phú

Khánh.

33. Phạm Thị Hoài (1990), “Một trò chơi vô tăm tích”, Văn Nghệ (50).

34. Phạm Thị Hoài (1995), Thiên sứ, Tiểu thuyết, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà

Nội.

35. Phạm Thị Hoài, “Hư cấu thật, hiện thực giả”, www.talawas.org.

36. Phạm Thị Hoài, Cam tâm, truyện ngắn, www.thoivan.com.

37. Phạm Thị Hoài, Man nương, truyện ngắn, www.evan.com.vn.

38. Phạm Thị Hoài, Ám thị, truyện ngắn, www.thoivan.com.

39. Lê Thị Tâm Hoài (2005), Cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ trong một vài

tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 của Hội nhà văn Viêt Nam, Luận văn Thạc

sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh.

40. Đoàn Thị Hương (1978), “Người phụ nữ Việt Nam xã hội chủ nghĩa và cuộc

cách mang khoa học kĩ thuật trong văn học”, Tạp chí Văn học,(1).

41. Châm Khanh: “Phụ nữ và văn chương”, www.tienve.org.

42. Bích Khuê, “Tọa đàm về tác phẩm nhà văn nữ được giải thưởng 2005”, Văn

Nghệ (24).

43. Lý Lan (2006), Người đàn bà kể chuyện, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn

Nghệ. Tp. Hồ Chí Minh.

44. Hồ Thị Liễu (2002), Khảo sát truyện ngắn các nhà văn nữ Việt nam từ 1986

đến 1996, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh.

45. Hà Linh, “Phụ nữ viết văn trong xã hội Iran”, www.evan.com.vn.

46. Phương Lựu chủ biên (1997), Lí Luận văn học , Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà

Nội.

47. Trần Thùy Mai (2003), Biển đời người, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Công

an nhân dân.

48. Trần Thùy Mai (2005), Mưa đời sau, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn

Nghệ.

49. Hoài Nam, “Bốn lới bình về “Gia đình bé mọn” của Dạ Ngân”,

www3.thanhnien.com.vn.

50. Lê Thanh Nga: “Ngụ cư” và thân phận người phụ nữ”, Văn Nghệ, (24).

51. Bích Ngân (2005), Truyện ngắn Bích Ngân, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố

Hồ Chí Minh.

52. Bích Ngân (2005), Người đàn bà bơi trên sóng, Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản

Văn Nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

53. Dạ Ngân (1995), “Dù phải sống ít hơn”, Truyện ngắn chọn lọc 14 tác giả nữ,

Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

54. Dạ Ngân (2006), Gia đình bé mọn, Tiểu thuyết, Nhà xuất bản Phụ Nữ, Hà Nội.

55. Vương Trí Nhàn (1996), “Phụ nữ và sáng tác văn chương”, Tạp chí Văn học,

(6).

56. Đỗ Hải Phong (2003), “Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện đại”,

Tự sự học: một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm

Hà Nội.

57. Hà Phạm Phú (2002), “Ngôi nhà gương của Võ Thị Xuân Hà”, Truyện ngắn Võ

Thị Xuân Hà, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.

58. Huỳnh Như Phương, Nguyễn Văn Hạnh (1995), Lí luận văn học: vấn đề và suy

nghĩ, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

59. Huỳnh Như Phương (1995), “Trong sân chơi của Vàng Anh”, Khi người ta trẻ,

Nhà xuất bản Hội nhà văn.

60. Trần Hữu Tá (1994), “Về cây bút trẻ ấy”, Phụ nữ TP. Hồ Chí Minh,(9).

61. Thanh Tâm (2006), “Ưu thế tiểu thuyết của Võ Thị Xuân Hà?”, Tường thành,

Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

62. Hồ Anh Thái, Wayne Karlin chủ biên (2004), Tình yêu sau chiến tranh (Love

after War), Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội.

63. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn

xuôi”, Tạp chí Văn học, (2).

64. Bùi Việt Thắng (2002), “Tứ tử trình làng”, Truyện ngắn bốn cây bút nữ , Nhà

xuất bản Văn học, Hà Nội.

65. Bùi Việt Thắng (1998), “Một giọng nữ trầm trong văn chương”, Văn hóa,

(397).

66. Bích Thu, “Cảm nhận về văn xuôi của các cây bút nữ”, www.hanoi.vnn.vn.

67. Lý Hoài Thu (2006), “Về tiểu thuyết “Tường thành” của Võ Thị Xuân Hà”,

Văn Nghệ (24).

68. Dương Thuấn (2007), “Văn học dân tộc thiểu số ngày càng thêm nhiều cây bút

nữ”, Văn Nghệ (10).

69. Thuận (2005), Phố Tầu, Tiểu thuyết, Nhà xuất bản Đà Nẵng.

70. Thuận (2005), Paris 11 tháng 8, Tiểu thuyết, Nhà xuất bản Đà Nẵng.

71. Nguyễn Thị Bích Thuận, “Người phụ nữ hiện đại luôn tin vào khả năng của

mình”, www.322duc.org.

72. Lê Hương Thủy (2006), “Truyện ngắn sau 1975 – Một số đổi mới về thi pháp”,

Nghiên cứu văn học, (11).

73. Trịnh Thanh Thủy, “Sex”, VIETWEEKLY,

http://65.45.193.26:8026/cms/acct/vietweekly/issues/vw4n05/.

74. Nguyễn Thị Thu Thủy (2003), “Về khái niệm “Truyện kể ở ngôi thứ ba” và

“Người kể chuyện ở ngôi thứ ba”, Tự sự học: một số vấn đề lí luận và lịch

sử, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội.

75. Trịnh Thu Tiết (1979), “Đề tài phụ nữ trong văn học yêu nước thời cận đại”,

Tạp chí Văn học (3).

76. Trần Thị Trường (2005), Lời cuối cho em, Tiểu thuyết, Nhà xuất bản Hội nhà

văn, Hà Nội.

77. Lê Dục Tú (2007), “Thể loại truyện rất ngắn trong đời sống văn học đương

đại”, Nghiên cứu văn học, (2).

78. Lê Dục Tú (1994), “Miêu tả nội tâm trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn”, Tạp

chí Văn học, (8).

79. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập

niên 90, Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí

Minh.

80. Phỏng vấn Y Ban, Y Ban viết về nỗi đau rất đàn bà, www.thotre.com.

81. Phỏng vấn Y Ban, “Hãy lắng nghe tác phẩm của nhà văn nữ”,

www.evan.com.vn.

82. Phỏng vấn Y Ban, “Y Ban và lối viết phá cách về tình yêu”,

www.Vnexpress.net.

83. Phỏng vấn Y Ban, “Sex là giải trí và văn hóa”, www.Vnexpress.net.

84. Phỏng vấn Y Ban, “Tình yêu được tôi chắt chiu và dùng dè xẻn”,

www.vnexpress.net.

85. Phỏng vấn Võ Thị Xuân Hà, “Viết để đỡ đau đớn hơn khi nhìn thực tế”,

www.vnexpress.net.

86. Phỏng vấn Võ Thị Xuân Hà, “Nhà văn Võ Thị Xuân Hà phiêu lưu”,

www.hatay.gov.vn.

87. Phỏng vấn Võ Thị Xuân Hà, “Có thể con tôi chân không dài lắm nhưng nó vẫn

xinh”, www.thotre.com.

88. Phỏng vấn Võ Thị Xuân Hà, “Trả lời phỏng vấn giáo sư Trần Quý Phiệt”,

Truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.

89. Phỏng vấn Võ Thị Hảo do tác giả luận văn thực hiện, Phụ lục của luận văn.

90. Phỏng vấn Võ Thị Hảo (2005), “Gương mặt Võ Thị Hảo”, Góa phụ đen, Nhà

xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.

91. Phỏng vấn Võ Thị Hảo và Trần Thanh Hà, Nữ quyền trong văn chương nữ

Việt nam chưa mạnh, www.tuoitre.com.vn.

92. Phỏng vấn Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Thị Thu Huệ muốn tận hưởng tình

yêu đích thực, www.vnexpress.net.

93. Phỏng vấn Nguyễn Thị Thu Huệ, Tôi không hạ bệ đàn ông,

www.vnexpress.net.

94. Phỏng vấn Lý Lan do tác giả luận văn thực hiện, Phụ lục của luận văn.

95. Phỏng vấn Dạ Ngân do tác giả luận văn thực hiện, Phụ lục của luận văn.

96. Phỏng vấn Dạ Ngân, Viết văn như xây nhà, hanoi.vnn.vn.

97. Phỏng vấn Trần Thùy Mai, Trần Thùy Mai: một cái nhìn khai phóng về cuộc

sống, www.tuoitre .com.vn.

98. Phỏng vấn Trần Thùy Mai, Với đôi cánh tình yêu, www.tuoitre.com.vn.

99. Phỏng vấn Trần Thùy Mai, Nếu có siêu thị đàn ông, www.hue.vnn.vn.

100. Phỏng vấn Trần Thùy Mai, Viết văn là một cách thương yêu,

www.tuoitre.com.vn.

101. Phỏng vấn Thuận, Phỏng vấn Thuận (tác giả Made in Vietnam),

www.tienve.org.

102. Phỏng vấn nhà văn Trần Thị Trường, Nhà văn Trần Thị Trường: say mê

viết về thân phận phụ nữ, www.hanoi.vnn.vn.

103. Phỏng vấn nhiều nhà văn, Vẻ đẹp dâng hiến, www.dddv.com.vn.

104. “Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn xuôi Việt Nam thời kì đổi

mới”, www.hanoi.vnn.vn.

105. “Tường thành” – Thế giới đa diện của những người làm báo”,

www.evan.com.vn.

106. Nhiều tác giả (1999), Truyện ngắn nữ thập niên 90, Nhà xuất bản Phụ Nữ,

Hà Nội.

107. Nhiều tác giả (2006),Văn chương một thời để nhớ, Tập truyện ngắn, Nhà

xuất bản Văn học, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo*

1. Xin cho biết quan niệm của chị về người phụ nữ Việt Nam hiện đại?

- Người phụ nữ hiện đại là người luôn nắm bắt được thông tin, kiến thức và

hành xử cập nhật thời đại. Đồng thời, không nô lệ trong suy nghĩ, không lệ thuộc lối

mòn, tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền của chính mình.

2. Khi viết về người phụ nữ, theo chị có điểm khác biệt giữa một cây bút

nữ với một cây bút nam không?

- Cơ bản là giống nhau. Chỉ khác ở chỗ phụ nữ viết về chính giới của mình thì

sẽ phát hiện ra nhiều nỗi đau hơn của phụ nữ và cảm thấy tình yêu ở một khía cạnh

khác hơn là khía cạnh hưởng thụ và chiêm ngưỡng như nam giới thường hay quan

tâm trong các tác phẩm của họ.

3. Theo chị, đâu là những khó khăn của nhà văn nữ trong thời điểm hiện

nay?

- Vẫn ở vấn đề thời gian và quan niệm. Phụ nữ Việt Nam rất khó để trở thành

nhà văn chuyên nghiệp vì phải gánh trên vai quá nhiều trách nhiệm trong gia đình và

trong xã hội. Và việc cô ta ngồi vào bàn viết văn như là một hành động phí phạm thời

gian đối với nhiều người đàn ông: Chỗ của cô ta là trong bếp hoặc bôn ba đi kiếm

tiền để nuôi cả nhà thì "phải lẽ hơn".

4. Đóng góp của nhà văn nữ trong công cuộc giải phóng phụ nữ?

- Đương nhiên, họ là những người tiên phong, khi nhu cầu này nằm trong máu

của họ và khi đó, cây bút viết nên nỗi đau, nỗi tổn thương. Bình đẳng giới, đáng buồn

là đa phần mọi người đều hiểu đó là việc mấy mụ đàn bà đòi quyền làm chồng. Hoàn

toàn sai lầm nếu hiểu như vậy. Bình đẳng giới không cho riêng ai. Nó là nhu cầu tự

thân về những tổn thương xẩy ra do sự mất cân bằng của xã hội đem lại, Khi những

kẻ yếu bị kẻ mạnh ức hiếp, rồi chính kẻ mạnh cũng đến lượt bị tổn thương gián tiếp vì

không một kẻ mạnh nào có thể tách rời hoàn toàn được những kẻ yếu...

5. Những dự định của chị có liên quan đến các nhân vật là nữ?

- Tôi còn nhiều đề tài để viết tiểu thuyết. Vấn đề là dành thời gian để viết ra

nó. Đề tài nào thì cũng liên quan đến phụ nữ. Và đương nhiên, cả đàn ông.

Phỏng vấn nhà văn Lý Lan*

1. Xin cho biết quan niệm của chị về người phụ nữ hiện đại?

- Là người phụ nữ độc lập, tự do.

2. Khi viết về người phụ nữ, theo chị, có điểm nào khác biệt giữa một cây bút

nữ với một cây bút nam?

- Tôi không thấy khác biệt giữa cây bút nữ và cây bút nam viết về phụ nữ - tôi thấy sự

khác biệt giữa người viết giỏi và người viết không giỏi mà thôi.

3. Những khó khăn của nhà văn nữ Việt Nam trong thời điểm hiện nay?

- Tôi không thể nói thay cho các nhà văn khác, phần tôi, trong thời điểm hiện nay,

khó khăn nhứt là việc đưa tác phẩm của mình vượt qua cơ chế xuất bản, hệ thống

phát hành, sự rụt rè của giới nghiên cứu phê bình, sự hờ hững của công chúng, để

đến được bạn đọc tri âm.

4. Đóng góp của nhà văn nữ trong công cuộc giải phóng phụ nữ / bình đẳng

giới?

- Lẽ ra có thể đóng một vai trò lớn hơn thực tế hiện nay.

5. Những dự định tương lai của chị có liên quan đến đề tài người phụ nữ?

- Xuất bản tiểu thuyết "Đàn Bà".

Phỏng vấn nhà văn Dạ Ngân*

1. Xin cho biết quan niệm của chị về người phụ nữ Việt Nam hiện đại?

- Người phụ nữ hiện đại nếu được giải phóng triệt để về mặt tự do cá nhân, họ

sẽ có tất cả năng lực như nam giới. Chính khách ư, nhà khoa học ư, các cương vị

chuyên môn xã hội học ư, tướng lĩnh ư… tôi tin họ làm được hết và còn làm xuất sắc.

Thế giới ngày càng nhiều chính khách chủ chốt là nữ đã nói lên tiềm năng của nữ

giới. Tuy vậy, không người phụ nữ nào có thể nhạt đi vai trò làm vợ làm mẹ, tính nữ

trong đời sống hôn nhân và tình mẫu tử bao quát càng khiến cho người phụ nữ hiện

đại thấu đáo hơn, tức là thành đạt một cách có hương vị.

2. Khi viết về người phụ nữ, theo chị có điểm khác biệt giữa một cây bút

nữ với một cây bút nam không?

- Dĩ nhiên khi viết về phụ nữ thì nhà văn nữ đã sẵn lợi thế hơn cây bút nam. Sự

tinh tế trong phát hiện chi tiết, trong chiều sâu tâm lí và sự chân thực trong tính cách

nhân vật… đó là thế mạnh không ai giành được ở nhà văn nữ. Trên hết, sự trải

nghiệm và chiêm nghiệm cá nhân của người nữ mặc nhiên sẽ có sự đồng cảm lớn lao

với nhân vật của mình, từ đó khoảng cách giữa nhà văn với độc giả, nhất là độc giả

nữ sẽ ngắn hơn nhiều.

3. Theo chị, đâu là những khó khăn của nhà văn nữ trong thời điểm hiện

nay?

- Khó khăn cụ thể là thời gian. Họ bị xẻ đôi, xẻ ba cho nhiều nghĩa vụ: nghĩa

vụ công sở, nghĩa vụ gia tộc, nghĩa vụ gia đình. Và nếu người đó là nhà văn nữa thì

ôi thôi, người họ lúc nào cũng căng như sợi dây đàn, chạm đến là rung mà cũng có

thể đứt bất cứ lúc nào. Trên hết, khó khăn chung vẫn là áp lực xã hội khi phán xét họ:

viết thế nào là vừa liều lượng để không bị kêu “con này hay chính trị hoá” (tôi hay bị

kêu như vậy), hoặc viết về tình dục sao cho “con này vén cao váy quá đấy” (hình như

tôi cũng có bị kêu), hoặc viết sao cho không mang tiếng “đem đời mình và những

người chung quanh ra bới” (trên thế giới nhiều tiểu thuyết gia nữ thường đưa yếu tố

tự truyện vào, đó là đặc điểm nữ). Xã hội Nho giáo Việt Nam vẫn chưa cởi mở bằng

Nho giáo gốc là Tàu, vì vậy cái trần cho nhà văn Việt Nam vẫn rất thấp.

4. Đóng góp của nhà văn nữ trong công cuộc giải phóng phụ nữ?

- So với phụ nữ Hàn, phụ nữ Nhật, phụ nữ đạo Hồi, phụ nữ các nước Nam Á,

phụ nữ Việt Nam nói chung rất có ý thức vùng dậy. Đó là do nhu cầu tự thân của xã

hội chiến trận Việt Nam. Vai trò người phụ nữ trong từng gia tộc rất lớn, rất phi

thường. Phụ nữ Việt Nam rất có uy với cộng đồng của mình. Nhà văn nữ cũng nằm

trong số đó, tuy vậy, độc giả nữ ở Việt Nam lại không đông như nam giới, vì vậy tác

dụng của nhà văn nữ trong xã hội Việt Nam chưa cao. Do dân trí thấp, mà số thấp lại

nằm phần lớn ở phụ nữ. Đó là thiệt thòi của nhà văn nữ nói riêng và cũng là thiệt

thòi của phụ nữ Việt Nam nói chung.

5. Những dự định của chị có liên quan đến các nhân vật là nữ?

- Tôi tiếp tục chung thủy với những nhân vật trung tâm là nữ. Nhưng những

tiểu thuyết tôi đang nghĩ tới tính xã hội rộng hơn, nhân vật nam không lép vế. Ví như

tôi đang thai nghén một tiểu thuyết về đề tài hậu chiến và hòa giải dân tộc, nam và

nữ đều được chăm sóc như nhau. Ví như sẽ có cuốn về cuộc chiến tranh 10 năm ở

Campuchia, ở đó những nhân vật là người lính. Tôi đang cố gắng rời chất tự truyện

trong sáng tác của mình để tầm bao quát có thể rộng hơn.

* Phỏng vấn do tác giả luận văn thực hiện vào tháng 4 năm 2007.

______________________________