BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
..…/….. …/…
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LỲ BÁ XỀNH
PHÁP LUẬT VỂ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ (QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA,
TỈNH ĐĂK NÔNG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK NÔNG - NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
……/…… …/…
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LỲ BÁ XỀNH
PHÁP LUẬT VỂ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ (QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐĂK NÔNG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. CAO HUY
ĐẮK NÔNG - NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực. Trong
luận văn đã sử dụng thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau và có trích
dẫn rõ nguồn gốc.
Tôi cam đoan rằng toàn bộ nội dung và số liệu trong luận văn này do tôi
tự nghiên cứu, khảo sát và thực hiện.
Tác giả luận văn
Lỳ Bá Xềnh
i
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia.
Tôi chân thành cảm ơn sâu sắc đến lãnh đạo Học viện Học viện Hành chính
Quốc gia, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên tại
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã tạo điều kiện mở lớp chuyên ngành
Luật hiến pháp và Luật hành chính tại Tây Nguyên để bản thân có điều kiện thuận
lợi tham gia học tập, nghiên cứu. Xin bày tỏ lòng cảm ơn đến quý thầy, cô tham gia
giảng dạy, đội ngũ viên chức làm công tác quản lý tại Học viện Hành chính Quốc
gia, Phân viện Tây Nguyên đã giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn, chân thành, sâu sắc tới TS. Cao Huy đã tận tình,
quan tâm, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm và hoàn thiện Luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân thành phố, các cán bộ,
công chức tại các phòng, ban, đơn vị; các cán bộ, công chức cấp xã thuộc thành phố
Gia Nghĩa đã tạo điều kiện giúp đỡ để tác giả thu thập tài liệu, nghiên cứu nghiệp
vụ để hoàn thành Luận văn.
Tác giả luận văn
Lỳ Bá Xềnh
ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC Cán bộ, công chức
QLNN Quản lý nhà nước
CNH - HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐTBD Đào tạo, bồi dưỡng
ThU Thành ủy
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
HĐND Hội đồng nhân dân
THPT Trung học phổ thông
CT Chỉ thị
NQ Nghị quyết
NĐ Nghị định
CTr Chương trình
KH Kế hoạch
QĐ Quyết định
QyĐ Quy định
ĐTBD Đào tạo, bồi dưỡng
iii
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng Trang Nội dung
Bảng 2.1 Số lượng cán bộ, công chức cấp xã thành phố Gia 47
Nghĩa giai đoạn 2020-2022
Bảng 2.2 Trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức cấp xã 50
giai đoạn 2020-2022
Bảng 2.3 Trình độ lý luận chính trị của cán bộ, công chức cấp 52
xã giai đoạn 2020-2022
Bảng 2.4 Trình độ quản lý nhà nước của cán bộ, công chức cấp 53
xã giai đoạn 2020-2022
Bảng 2.5 Trình độ tin học, ngoại ngữ của cán bộ, công chức cấp 54
xã giai đoạn 2020-2022
Bảng 2.6 Thâm niên công tác của cán bộ, công chức cấp xã giai 57
đoạn 2020-2022
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU………….………………………………………………………….……...01
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC CẤP XÃ………………………………..9
1.1. Cơ sở lý luận thực hiện Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã ………………………………………………………………....11
1.2. Nội dung pháp luật đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã…..…27
1.3. Yêu cầu và điều kiện pháp luật đào tạo, bồi dưỡng.……..……………..32
Tiểu kết chương 1
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ …….…..44
2.1. Tổng quan về tình hình thành phố Gia Nghĩa ………………………….44
2.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính thành phố Gia Nghĩa........................45
2.3. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã …………………………………………..……………47
2.5. Đánh giá thực hiện các quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã…………………………………... ………...…………58
Tiểu kết chương 2
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP
XÃ (QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK
NÔNG)…………………………………………………………….………..70
v
3.1. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho cán bộ, công
chức cấp xã ………………………………………………………………….70
3.2. Một số chỉ tiêu cụ thể thực hiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông giai đoan 2022 –
2026, định hướng đến năm 2030………………………………..……...…..76
3.3. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách về đào
tạo, bồi dương ………………………………………………………………77
3.4. Một số nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả ………………….………….. 82
3.5. Kiến nghị, đề xuất…………………………………….………………. 85
Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN ……….……………………………….……………………………….90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Thực hiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng về cán bộ, công chức là hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành, để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh, liên quan đến
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhằm đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ,
công chức chuyên nghiệp có năng lực, trình độ và phẩm chất để hoàn thiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng là cơ sở
pháp lý cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, thể hiện cam kết của Nhà nước về
nâng cao năng lực làm việc của mỗi cán bộ, công chức. Ngoài ra, nó còn là cơ
sở để quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức; nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng về
cán bộ, công chức đối với sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo đến công tác cán bộ các cấp, các ngành
đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Chúng ta biết rằng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, ổn định xã hội, giữ
vững quốc phòng an ninh phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước thì cần
phải chú trọng đến vấn đề xây dựng từ cấp cơ sở.
Cấp cơ sở bao gồm: xã, phường, thị trấn là nơi công dân cư trú, sinh
sống, là cầu nối trực tiếp toàn bộ hệ thống chính trị với nhân dân, là nơi tổ
chức vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc. Muốn xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ thường
xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Vì
vậy, cán bộ, công chức xã có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến
việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, là nhân tố tác động trực
1
tiếp đến sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước trong cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2021 - 2030, muốn xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có chất
lượng tốt cần tập trung vào 06 nội dung, đó là: Cải cách thể chế; Cải cách thủ
tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế
độ công vụ; Cải cách tài chính công và xây dựng, phát triển Chính phủ điện
tử, chính phủ số hiện nay.
- Mục tiêu của cải cách chế độ công vụ:
+ Xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và
thực tài; thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, dân chủ, công khai, minh
bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng công chức, để thu hút
người thật sự có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà
nước.
+ Phấn đấu đến năm 2026 định hướng năm 2030: 100% cán bộ, công
chức cấp xã có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính
trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc.
- Trên cơ sở định hướng, mục tiêu, cần phải đổi mới nội dung, phương
pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng và phẩm chất cho đội
ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở gắn với vị trí việc làm. Rà soát, sửa đổi, bổ
sung nội dung chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu
chuẩn ngạch công chức và yêu cầu vị trí việc làm, bảo đảm không trùng lắp,
tiết kiệm, hiệu quả; rà soát cắt giảm các chứng chỉ bồi dưỡng không cần thiết.
Do đó, nghiên cứu quy định Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ xã, phường nói riêng. Từ khi Đại hội
VI của Đảng (tháng 12/1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều
2
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật và những quy định về công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cấp. Đây là những định hướng quan
trọng để xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và
thực tài trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng công chức, để thu hút
người thật sự có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà
nước. Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị đã khẳng
định rằng: “Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý
là nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thấm
nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, học đi đôi với hành, lý luận
gắn với thực tiễn, gắn học tập với rèn luyện phẩm chất đạo đức, tư cách người
cách mạng”38,tr.2.
Trong các năm gần đây, có nhiều nhà khoa học thông qua việc xuất bản
sách, các công trình nghiên cứu khoa học đã đưa ra các quan điểm, ý kiến
đánh giá về thực trạng cũng như các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ cấp xã
nói riêng. Trong số này đáng chú ý là:
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phùng Thị Quyên (2012): “Đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa”. Luận văn đã đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã; đưa giải pháp đào tạo bồi dưỡng kiến
thức pháp luật cho cán bộ công chức cấp xã; qua đó, đưa ra các nhiệm vụ, giải
pháp thực hiện có hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 3, tr84.
Luận án tiến sĩ Chính trị học của tác giả Cầm Thị Lai (2012): “Đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị, hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp
xã ở các tỉnh Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay”. Trong công trình này, tác
giả đã phân tích và làm rõ thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
3
chính trị, hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây
Bắc, đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong công tác này. Từ đó, đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị, hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây
Bắc đến năm 20207, tr58.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị lao động của tác giả Hà Thị Nhung (2013):
“Đào tạo cán bộ, công chức xã, phường của huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội”. Luận văn đã làm rõ các vấn đề liên quan đến đào tại nguồn cán bộ
công chức cấp xã, phường và việc sử dụng đội ngũ này sau đào tạo; đã hệ
thống hóa các quy định của pháp luật về đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp
xã, phường và các quy định có liên quan đến cán bộ, công chức cấp xã sau
đào tạo; đã đánh giá thực trạng việc đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã
và việc sử dụng nguồn cán bộ sau đào tạo của huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về
đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã cũng như các giải pháp nâng cao hiệu
quả sử dụng nhân lực sau đào tạo12,tr.57.
Luận văn thạc sĩ chính sách công: Thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk
Nông” của tác giả Trần Duy Tráng. Luận văn đã làm rõ vấn đề thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã; đánh giá thực trạng đào tạo,
bồi dưỡng công chức qua thực tiễn trên địa bàn huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk
Nông. Luận văn cũng đã đề xuất mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cơ bản nâng
cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CBCC
cấp xã 5, tr.85.
Luận án Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh khu vực III của tác giả Trương Thị Bạch Yến (2014), “Tạo nguồn
4
cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn
hiện nay”.
Tác giả Đặng Khắc Ánh với bài “Đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc
làm - Những khó khăn và kiến nghị”, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2/2012 đã
phân tích rõ sự cần thiết pháp đào tạo, bồi dưỡng gắn với đề án vị trí việc làm
của cán bộ, công chức. Tạp chí đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức ở nước ta trong thời gian qua. Hạn chế chủ yếu
là nội dung chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục còn nặng về cung cấp
kiến thức và kỹ năng mang tính chung chung chưa gắn với kiến thức và kỹ
năng theo từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức. Do vậy, cần tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo vị trí việc làm. Xuất phát từ các lập
luận trên bài viết đưa ra một số kiến nghị: Khẩn trương tiến hành phân tích
tổng thể và phận loại các vị trí việc làm trong bộ máy công vụ; xây dựng và
hoàn thiện hệ thống bảng mô tả công việc; định kỳ khảo sát nhu cầu đào tạo,
bồi dưỡng; thiết kế lại các chương trình đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới hoạt
động đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; nâng cao chất lượng các cơ sở
làm nhiệm vụ đào tào, bồi dưỡng.
Nhìn chung, các công trình trên đã tập trung nghiên cứu các vấn đề lý
luận: Lý luận về công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói
chung; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nói riêng. Một số công
trình cũng tập trung nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của giáo dục lý luận
chính trị cho cán bộ, công chức cấp cơ sở ở nước ta hiện nay, thực trạng và
những vấn đề đặt ra, từ đó đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và thực hiện hiệu quả pháp luật, đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu trực tiếp Pháp
luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố
5
Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông). Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài này mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu
quả pháp luật của hệ thống chính trị ở thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận về thực hiện pháp luật về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; đánh giá pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng; trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp thực hiện hiệu quả Pháp luật về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố Gia Nghĩa,
tỉnh Đắk Nông) trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, Lý luận về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Thứ hai, Thực trạng pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã (qua thực tiễn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông).
Thứ ba, Giải pháp để nâng cao chất lượng pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, thực trạng thực hiện
quy pháp luật, giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả pháp luật
về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố Gia
Nghĩa, tỉnh Đắk Nông).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu được thực hiện cán bộ, công chức
cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông.
Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng thực hiện quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
6
cấp xã (qua tiễn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông) giai đoạn 2020 - 2022,
đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả pháp luật về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông
trong thời gian tới.
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu toàn bộ các nội dung thực hiện pháp
luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố
Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông) phạm vi cán bộ, công chức cấp xã theo quy định
Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật
cán bộ, công chức và Luật viên chức năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận: Luận văn thực hiện dựa trên phương pháp luận chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chủ trương
của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định của Chính
phủ, các văn bản liên quan đên công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
nói chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng.
Về phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận và
phương pháp cụ thể: Phương pháp logic, lịch sử, quan sát, mô hình hóa, phân
tích - tổng hợp, phân tích thống kê và xử lý tài liệu…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, trên cơ sở hệ thống hóa về lý luận và cơ sở pháp lý luận văn
đã làm rõ được nội hàm của các khái niệm cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức nói chung, cán bộ công chức cấp xã nói riêng. Luận văn có thể
làm tài liệu tham khảo có ích cho việc nghiên cứu, học tập hoặc cho những ai
quan tâm đến lĩnh vực Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp
xã.
7
Về thực tiễn, các kết luận cũng như các giải pháp được đề xuất trong
luận văn là căn cứ khoa học có thể có hữu ích cho các nhà quản lý để hoàn
thiện Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta hiện
nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 03 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã.
Chương 2: Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk
Nông).
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả pháp
luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố
Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông) trong thời gian tới.
8
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1. 1. Cơ sở lý luận về pháp luật đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
a) Pháp luật là gì
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị và làm nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình.
b) Khái niệm pháp luật được thể hiện bằng 4 ý sau
Thứ nhất, pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung, nói đến pháp luật là nói đến tính quy phạm phổ biến.
Thứ hai, Pháp luật là do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận.
Thứ ba, Pháp luật đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Pháp
luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó các
biện pháp cưỡng chế nhà nước rất nghiêm khắc như phạt tiền, phạt tù có thời
hạn, tù chung thân … Với sự bảo đảm của nhà nước đã làm cho pháp luật
luôn được các tổ chức và cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, có
hiệu quả trong đời sống xã hội.
Thứ tư, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều hành các
quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
c) Khái niệm về cán bộ và cán bộ cấp xã
Nước ta đang trong giai đoạn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa vừa xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa (XHCN) vừa xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
9
Vì vậy, cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo, có chất lượng đồng bộ,
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đặc biệt là cán bộ, công
chức cấp xã, phường. Cán bộ là một thuật ngữ quen thuộc không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở các nước trên thế giới. Riêng ở nước ta, thuật ngữ cán bộ được
sử dụng từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) và được sử dụng
phổ biến từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dùng để chỉ
một lớp người là chiến sỹ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian
khổ, hy sinh, gắn bó với Nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Tên gọi cán bộ đã để lại dấu ấn đẹp trong
lịch sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đất nước.
Theo từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng
(năm 2006), “cán bộ được hiểu là người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn
trong cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể; người làm công tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ”
44,tr.105.
Trong tác phẩm Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa do Nguyễn
Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) thì: “Cán bộ là khái niệm chỉ
những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có
tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức”
39,tr.20.
Tại Điều 4, Luật CBCC được Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực từ ngày
01 tháng 01 năm 2010 quy định: Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan
của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
10
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Ở nước ta
hiện nay, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị được chia thành nhiều cấp:
cấp Trung ương; cấp tỉnh, thành phố; cấp quận, huyện và cấp xã, phường, thị
trấn. Cán bộ ở xã, phường, thị trấn được gọi chung là cán bộ cấp cơ sở.
Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn bó chặt chẽ với các
quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội, huyết thống, phong tục tập quán và những
sinh hoạt chung khác. Cấp cơ sở có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị ở
nước ta, đó là nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước với
Nhân dân; cụ thể hóa các chỉ thị, Nghị quyết, hướng dẫn của cấp trên. Người
lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ đó ở cơ sở chính là đội ngũ cán
bộ ở cơ sở hay cán bộ, công chức cấp xã.
Tại Khoản 3, Điều 4 của Luật CBCC năm 2008 quy định rõ: Cán bộ xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được
bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư,
Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.
Tại Điều 61 của Luật Cán bộ, công chức và Khoản 3, Điều 1 của Nghị
định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số
lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị
trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thì cán bộ cấp xã
gồm có các chức danh sau đây:
- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND;
- Chủ tịch ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam;
- Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam;
11
- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt
Nam).
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
d) Khái niệm về công chức, công chức cấp xã
Ở bất kỳ quốc gia nào, nhà nước muốn tổ chức và quản lý xã hội tốt đều
phải coi trọng việc xây dựng và quản lý đội ngũ công chức. Công chức là khái
niệm được sử dụng phổ biến ở các nền công vụ trên thế giới, dùng để chỉ những
người thừa hành quyền lực nhà nước để quản lý xã hội. Thuật ngữ “công chức”
được quy định có sự khác nhau ở các quốc gia do điều kiện lịch sử, văn hóa truyền
thống, thể chế chính trị, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước... Nền công vụ Pháp
quy định "Công chức bao gồm toàn bộ những người được nhà nước hoặc cộng
đồng lãnh thổ (công xã, tỉnh, vùng) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong
một công sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện và được biên chế vào một
ngạch của nền hành chính công" [19]. Theo cách hiểu này, công chức Pháp gồm 3
loại: Công chức hành chính nhà nước, công chức trực thuộc cộng đồng lãnh thổ và
công chức trực thuộc các công sở tự quản. Ở Anh, khái niệm công chức chỉ bao
hàm những nhân viên công tác trong ngành hành chính. Ở Mỹ, tất cả các nhân
viên trong bộ máy hành chính của Chính phủ đều được gọi chung là công chức,
bao gồm những người được bổ nhiệm về chính trị (còn gọi là công chức chính trị),
những người đứng đầu bộ máy độc lập và những quan chức của ngành hành
chính.
Ở châu á như Nhật Bản công chức được xác định trong Luật Công
chức, theo đó bao gồm toàn bộ những người làm công ăn lương do Ủy ban
Nhân sự quốc gia quản lý. Công chức ở Nhật Bản bao gồm tất cả những
người làm việc trong các cơ quan nhà nước, và các đơn vị sự nghiệp nhà nước
12
như các bệnh viện công, trường học công. Tuy nhiên, số bệnh viện công,
trường học công và các đơn vị sự nghiệp khác ở Nhật Bản rất ít do sự phát
triển mạnh mẽ của khu vực tư nhân. Ở nước ta, khái niệm công chức được
hình thành gắn liền với sự phát triển của nền hành chính nhà nước. Trải qua
các giai đoạn phát triển của nền hành chính nhà nước thì khái niệm này được
hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Do đặc điểm cấu trúc hệ thống chính trị ở nước ta nên quan niệm về
công chức ở Việt Nam cũng có những đặc thù. Khái niệm công chức cũng đã
được quan tâm xây dựng và ngày càng hoàn thiện. Theo quy định của pháp
luật hiện hành thì, công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp
và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung
là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật [24].
Con người luôn là nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển
của bất cứ tổ chức nào, bởi chỉ có thông qua con người, tổ chức mới có thể
đạt được mục tiêu của mình. Con người trong cơ quan nhà nước càng có vai
trò quan trọng hơn, đây là lực lượng lao động đặc biệt trong xã hội, là nhân tố
quyết định sự thành công hay thất bại của mọi công việc trong quản lý nhà
13
nước, là lực lượng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền hành chính
quốc gia. Vì vậy lúc sinh thời Bác Hồ luôn quan tâm tới đến côn g tác cán bộ đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC.
Công chức là một khái niệm được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia
trên thế giới để chỉ các công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên
trong các cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương. Nhưng do đặc
thù của từng quốc gia nên quan niệm về công chức là không đồng nhất.
Ngày 13/11/2008, Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII,
kỳ họp thứ 4 thông qua Luật CBCC, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010.
Công chức quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm
2008 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 như sau: Công
chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo
chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.”.[2,tr.1].
Để quy định cụ thể về công chức, ngày 25 tháng 01 năm 2010, Chính
phủ ban hành Nghị định 06/2010/NĐ-CP quy định: “Công chức là công dân
Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong
biên chế, hưởng lương từ ngân sách hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn
vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”[34,tr.9]; Nghị định
114/NĐ-CP về CBCC xã, phường, thị trấn. Nghị định này quy định về chức
danh, tiêu chuẩn, nghĩa vụ quyền lợi, những việc không được làm, chế độ
14
chính sách và quản lý CBCC xã, phường, thị trấn (gọi chung là CBCC cấp
xã). Theo Luật CBCC và Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định khái niệm
CBCC cấp xã như sau:
Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo
nhiệm kỳ, trong thường trực HĐND, UBND, người đứng đầu các tổ chức
chính trị - xã hội trong biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Gồm:
- Bí thư, phó bí thư Đảng ủy
- Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân
- Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân
- Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam.
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam [29].
+ Khái niệm công chức cấp xã:
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương
năm 2016, Chính quyền địa phương gồm hai loại là chính quyền địa phương
nông thôn và chính quyền địa phương đô thị. Trong đó chính quyền địa
phương ở nông thôn bao gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã.
Với việc phân chia loại hình đơn vị hành chính cơ sở như trên thì xã là
loại hình chính quyền thấp nhất trong hệ thống các cấp hành chính nhà nước,
là bộ máy quản lý nhà nước ở cơ sở, được tổ chức ở khu vực nông thôn.
Theo khoản 3, điều 4 luật cán bộ công chức năm 2008: “Công chức cấp
xã là công dân nước Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên
15
môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước” [7,tr1].
Tiêu chuẩn chung của công chức cấp xã: Hiểu biết về lý luận chính trị,
nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước; có năng lực tổ chức vận động nhân dân ở địa phương thực
hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước; có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm, có đủ năng lực và sức khỏe để hoàn
thành nhiệm vụ được giao; am hiểu và tôn trọng phong tục, tập quán của cộng
đồng dân cư trên địa bàn công tác.
Từ các lập luận trên cho ta hiểu rằng (Công chức xã là công dân Việt
Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
UBND xã trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được xác
định cụ thể về số lượng, tên gọi, chức năng hoạt động gắn với từng vị trí việc
làm đã được pháp luật quy định nhằm thực hiện nhiệm vụ của bộ máy chính
quyền ở xã).
Công chức cấp xã do huyện quản lý. Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã
hội, quy mô, đặc điểm của địa phương thì Chính phủ sẽ quy định cụ thể số
lượng CBCC cấp xã.
e) Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động quan trọng trong công tác quản lý,
phát triển nguồn nhân lực của các cơ quan nhà nước, tổ chức nhằm xây dựng
và phát triển một đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, thành thạo về chuyên môn,
vững vàng về năng lực quản lý. Đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ công chức phải
dựa trên cơ sở xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của từng vị trí công tác,
năng lực thực hiện công việc của cán bộ, công chức.
16
Theo Từ điển tiếng Việt, đào tạo được hiểu là việc "làm cho trở thành
người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [46,tr.279]. Theo đó: Đào
tạo theo một nghĩa chung nhất được hiểu là quá trình tác động đến con người
làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một
cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho họ thích nghi với cuộc sống và khả năng
nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào phát triển
xã hội [30].
Như vậy, Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính là quá trình tác
động đến đối tượng làm cho họ có trình độ, năng lực thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt bồi dưỡng là việc "làm cho tăng thêm
năng lực hoặc phẩm chất "[46,tr505]. Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP về
đào tạo bồi dưỡng công chức thì bồi dưỡng được hiểu là "hoạt động trang bị,
cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc" [13]. Như vậy bồi dưỡng
kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã là làm tăng thêm lượng kiến thức pháp
luật để giải quyết các công việc trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình một cách có hiệu quả nhất. Bồi dưỡng được thực hiện thông qua
hình thức chính thống đó là lớp học, ngoài ra còn được thực hiện thông qua
nhiều hình thức khác, nhưng mục đích cuối cùng đều hướng tới việc nâng cao
kiến thức pháp luật, kỹ năng giải quyết, vận dụng pháp luật trong thực tiễn
nhằm thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của CBCC ở cơ sở.
Theo sự phân tích trên cho thấy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đào tạo đã
bao hàm trong đó cả nghĩa bồi dưỡng bởi cả hai đều hướng tới mục đích trang
bị kiến thức pháp luật, kỹ năng vận dụng pháp luật cho CBCC cấp cơ sở. Tuy
nhiên, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì đào tạo kiến thức pháp luật là quá trình
trang bị những kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện pháp luật cho CBCC
chưa qua đào tạo. Còn bồi dưỡng kiến thức pháp luật là quá trình nâng cao
17
kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện pháp luật một cách thường xuyên trên
cơ sở những kiến thức, kỹ năng đã có. Bồi dưỡng kiến thức pháp luật thường
được tổ chức trong quỹ thời gian ngắn hơn so với đào tạo; tuy nhiên, nó lại
được thực hiện một cách thường xuyên hơn để cập nhật, trang bị mới những
kiến thức pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Sau khi
đào tạo, bồi dưỡng xong thì đào tạo sẽ được cấp bằng hoặc chứng chỉ để
chứng nhận trình độ được đào tạo, còn bồi dưỡng chỉ được cấp chứng chỉ để
chứng nhận đã qua khóa học bồi dưỡng. Mặc dù đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho CBCC có một số điểm khác nhau nhưng về cơ bản cả hai hoạt
động này đều hướng đến mục đích cuối cùng là trang bị kiến thức pháp luật
và vận dụng những kiến thức đó vào giải quyết các công việc cụ thể trong
quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Từ đó có thể đưa ra khái niệm chung về
pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC như sau:
Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC là quá trình tác động có tổ
chức, có kế hoạch, có chương trình cụ thể nhằm làm cho đội ngũ CBCC lĩnh
hội, nắm vững một cách có hệ thống và tăng thêm vốn kiến thức pháp luật, kỹ
năng thực hiện pháp luật trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
đồng thời góp phần tuyên truyền, phổ biến và nâng cao ý thức chấp pháp luật,
hành pháp luật của nhân dân địa phương.
1.1.2. Sự khác nhau giữa đào tạo và bồi dưỡng:
Thực tế đào tạo và bồi dưỡng là hai khái niệm trọn vẹn khác nhau, tuy
nhiên, chúng lại có chung một mục tiêu, đó là làm cho nguồn nhân lực hoàn
toàn có thể nâng cao được trình độ trình độ, năng lực giải quyết và xử lý được
việc làm cũng sẽ được cải tổ và đặc biệt quan trọng là năng lượng công tác
làm việc cũng sẽ tốt hơn sau khi được huấn luyện và đào tạo bồi dưỡng. Và
cũng có nhiều hoạt động giải trí khó mà hoàn toàn có thể phân loại được
chúng là bồi dưỡng hoặc giảng dạy, bởi chúng là hai thể thức có tính xen kẽ
18
và thừa kế lẫn nhau để tạo ra được một thể thống nhất.
Trong những hoạt động giải trí thực tiễn, không gồm có những cơ sở
giảng dạy thuộc mạng lưới hệ thống giáo dục mang tầm “quốc dân”, thì
những cơ sở đào tạo và giảng dạy còn lại vẫn chỉ coi việc giảng dạy bồi
dưỡng giống như một quy trình và chỉ cấp bằng hoặc chứng từ gộp chung đào
tạo và giảng dạy và bồi dưỡng. Đào tạo bồi dưỡng là gì Chính thế cho nên mà
việc đưa ra những đánh giá và nhận định độc lập giữa bồi dưỡng và huấn
luyện và đào tạo thì cũng sẽ chỉ mang đặc thù tương đối, nó không trọn vẹn
xác được đúng chuẩn. Vì khi tham gia vào chương trình chỉ huy quản trị thì
người lao động sẽ có thời cơ vừa được giảng dạy vừa được học bồi dưỡng
nâng cao năng lượng, tức là trong huấn luyện và đào tạo có bồi dưỡng và
ngược lại.
Trong hoạt động thực tiễn, trừ một số cơ sở đào tạo thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân, có cấp bằng học theo cấp học, bậc học, còn lại nhiều cơ sở giáo
dục đào tạo vẫn coi việc đào tạo và bồi dưỡng là một quá trình và cấp chứng
chỉ hoặc bằng cấp bao gồm cả hai quá trình đào tạo và bồi dưỡng. Trên thế
giới, cơ quan hành chính của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan,
Singapore… không đặt ra nhiệm vụ tổ chức đào tạo các trình độ trung cấp,
cao đẳng, đại học và sau đại học cho công chức. Điều này được giải nghĩa:
khi được tuyển dụng và bổ nhiệm vào một vị trí nhất định, người công chức
đã phải đáp ứng các tiêu chuẩn của vị trí đó, trong đó có tiêu chuẩn về trình
độ đào tạo. Khi cần nguồn nhân lực có trình độ cao hơn, họ sẽ tổ chức tuyển
dụng những đối tượng đã được đào tạo trình độ họ cần mà không tổ chức
hoặc cử công chức đi đào tạo.
Ngoài ra, những tổ chức triển khai cơ quan hành chính quốc tế, tại một
số ít vương quốc lớn như: Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ,... thì sẽ không đặt ra
những pháp luật phải bồi dưỡng nhân lực vì khi được trúng tuyển hay được
19
chỉ định vào một vị trí nào thì ứng viên này đều đã phân phối được hết những
yên cầu cũng như nhu yếu của vị trí đó, mà không cần phải học bồi dưỡng.
Tức là, khi họ cần đến nguồn nhân lực có trình độ cao hơn thì sẽ triển khai
công tác làm việc tuyển dụng người đạt được tiêu chuẩn cũng như nhu yếu mà
họ đề ra. Như vậy, việc phân định độc lập giữa đào tạo và bồi dưỡng hiện nay
cũng chỉ mang tính chất tương đối, trong nhiều trường hợp không hoàn toàn
xác định chính xác khi nào diễn ra quá trình đào tạo, khi nào thực hiện bồi
dưỡng. Chẳng hạn, một công chức được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo sẽ được
học chương trình đào tạo bồi dưỡng.
Tóm lại, đào tạo bồi dưỡng chính là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có
hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp bậc đào tạo,
đồng thời vừa trang bị, cập nhật, rèn luện để nâng cao kiến thức, kỹ năng cần
thiết cho một đối tượng học tập. Thông qua quá trình đào tạo bồi dưỡng, đối
tượng được học tập có thể đạt được một trình độ kiến thức, chuyên môn, nghề
nghiệp nhất định và đồng thời làm cho họ sử dụng tốt hơn các khả năng, tiềm
năng vốn có để phát huy hết năng lực làm việc của họ.
1.1.3. Đặc điểm Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng
Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài đó là Pháp luật
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, đồng thời có căn cứ để phân
biệt với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng khác, cần xác định rõ những đặc điểm
sau đây:
- Chủ thể đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công
chức cấp xã
Tại khoản 3 Điều 63 Luật CBCC quy định: "Việc đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã phải căn cứ vào tiêu chuẩn của từng chức vụ, chức
danh, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ, công chức" [29].
Như vậy tùy thuộc vào từng vị trí, chức danh CBCC để nhà nước quy định
20
thẩm quyền ĐTBD kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã.
Hiện nay, chủ thể có chức năng đào tạo chuyên ngành luật cho CBCC
cấp xã gồm: Khoa Luật, trường Đại học Quốc gia Hà Nội; trường Đại học
Luật Hà Nội; trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; các trường đại
học khác có đào tạo chuyên ngành luật; một số trường đào tạo chuyên ngành
trung cấp luật và các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng CBCC của các bộ, các
ngành. Đã đào tạo một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao sẵn sàng bổ sung cho lực lượng CBCC cấp xã. Không chỉ đào tạo dưới
hình thức chính quy mà các trường này còn liên kết với các trường Chính trị
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, và các trường khác của tỉnh để mở các
lớp đào tạo chuyên ngành Luật với các hệ Đại học và Trung cấp dưới hình
thức đào tạo vừa học vừa làm. Các lớp học này đã thu hút được lực lượng
không nhỏ là CBCC cấp xã theo học. Ngoài các chủ thể nêu trên còn có một
chủ thể có vai trò rất quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho CBCC cấp xã đó là các trường Chính trị tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định
số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Quy định số 09-QĐ/TW,
ngày 13/11/2018 về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường Chính trị
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chức năng của trường Chính trị tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương là: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ công chức ở địa phương
về lý luận chính trị - hành chính, đường lối. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ về
công tác xây dựng Đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
21
trị xã hội, kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực
khác. Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp luật trường
Chính trị tỉnh Đắk Nông đã có các hệ đào tạo như: trung cấp lý luận chính trị -
Hành chính; trung học Hành chính - Văn thư…; ngoài ra còn có các lớp bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước; bồi dưỡng đại biểu HĐND; bồi dưỡng chủ
tịch HĐND; UBND; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng... ở những lớp này đã
dành một lượng thời gian không nhỏ cho việc giảng dạy môn Nhà nước và
pháp luật.
- Đối tượng đào tạo bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ công
chức cấp xã
Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã
chính là đội ngũ CBCC cấp xã, tùy thuộc vào sự phân loại xã để xác định số
lượng CBCC cấp xã.
Đối với xã loại 1: không quá 45 người
Đối với xã loại 2: không quá 40 người
Đối với xã loại 3: không quá 35 người
Để công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã
có hiệu quả thì phải xác định được đặc điểm cơ bản của đội ngũ CBCC cấp
xã. Cụ thể bao gồm các đặc điểm sau đây:
Một là, cán bộ chuyên trách làm việc ở cấp xã hiện nay hoàn toàn phụ
thuộc vào lá phiếu bầu cử của cử tri nên thiếu tính ổn định, dễ thay đổi sau
mỗi lần bầu cử. Đặc điểm này đã dẫn đến tình trạng có những cán bộ đã được
đào tạo, bồi dưỡng nhưng vì lý do khác nhau không trúng cử buộc phải nghỉ,
thay vào đó là những người hoàn toàn mới, để thực hiện được chức năng,
nhiệm vụ của mình phải được đào tạo, bồi dưỡng nhất là về kiến thức pháp
luật. Điều đó dẫn đến tình trạng cán bộ cấp xã chưa thực sự quan tâm hoặc chỉ
22
quan tâm tới việc học tập, bồi dưỡng nâng cao về trình độ chuyên môn cũng
như kiến thức pháp luật khi có khả năng chắc chắn giữ được vị trí của mình.
Hai là, đội ngũ CBCC cấp xã hiện nay còn thiếu tính chuyên nghiệp.
Điều này xuất phát từ một số lý do sau đây:
- Đây là đội ngũ mới được pháp luật về CBCC điều chỉnh từ năm 2003
nên cần có thời gian để hoàn thiện về kiến thức cũng như kỹ năng quản lý.
- Do hậu quả của việc thay đổi nhân sự qua bầu cử.
- Nguồn của CBCC cấp xã chủ yếu là người hiện đang sinh sống tại địa
phương, bộ đội xuất ngũ, thương binh... trong đó có nhiều người đi lên từ hoạt
động phong trào, đoàn thể phần nhiều không được đào tạo chính quy, bài bản
dẫn tới năng lực thực hiện công việc bị hạn chế.
- Trình độ văn hóa, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ không
đồng đều điều đó tạo ra sự không đồng bộ, thống nhất trong quá trình quản lý
nhà nước ở địa phương.
Ba là, thu nhập của CBCC cấp xã là tương đối thấp. Từ sau khi Pháp
lệnh sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh CBCC năm 2003 có hiệu lực thì
CBCC cấp xã đã được hưởng lương thay cho chế độ sinh hoạt phí, từ đó đến
nay nhà nước đã có nhiều quy định mới liên quan đến chế độ của đối tượng
này nhưng nhìn chung trên thực tế thu nhập của họ vẫn còn rất hạn hẹp, trong
khi khối lượng công việc lại nhiều. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc
đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức cấp xã.
Bốn là, trong công việc CBCC cấp xã thường bị ảnh hưởng tác động
của các quan hệ dòng họ, văn hóa ứng xử truyền thống, phong tục tập quán và
lối sống riêng của địa phương. Bởi phần lớn họ xuất thân từ địa phương, trực
tiếp sống và làm việc ngay tại địa phương. Với đặc điểm này một mặt, thể
hiện ưu điểm trong quá trình thực thi công vụ, nhiệm vụ dễ nắm bắt tâm tư
nguyện vọng của nhân dân, từ đó có những biện pháp phù hợp để thu yết phục
23
nhân dân thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Mặt khác nó làm cho CBCC cấp xã bị ràng buộc bởi những quan hệ họ
hàng, anh em, làng xóm nên nhiều khi nể nang, né trách đấu tranh hoặc ngược
lại vì quan hệ dòng họ mà tạo ra phe cánh gây mất đoàn kết nội bộ. Đó là một
trong những lý do cản trở CBCC thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn
của mình theo đúng quy định của pháp luật.Xuất phát từ những đặc điểm nêu
trên đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đặc biệt quan tâm tới công tác đào tạo,
bồi dưỡng pháp luật cho CBCC cấp xã, nhằm mục đích nâng cao kiến thức
pháp luật giúp họ khắc phục những khó khăn, hạn chế và phát huy tốt vai trò
của mình trong quản lý nhà nước ở địa phương.
1.1.4. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng
Theo quy định tại Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của
Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định
số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
Đào tạo tập trung bao gồm cả tập trung dài hạn và tập trung ngắn hạn.
Đối với tập trung ngắn hạn thời gian học là từ 6 tháng đến một năm, đối
với lớp dài hạn thời gian học trên một năm. Trong thời gian học, học viên
không phải đảm nhận công việc ở cơ quan và tập trung học liên tục theo thời
gian đã định. Hình thức này thường áp dụng cho đối tượng CBCC trẻ, dự
nguồn CBCC. Với hình thức đào tạo này người học sẽ được đào tạo một cách
chính quy, bài bản, tiếp nhận những nội dung trong chương trình học một
cách liên tục có hệ thống để có đủ năng lực đảm đương được những công việc
lâu dài.
Đào tạo bán tập trung là hình thức đào tạo dành cho nhu cầu chuẩn hóa,
nâng của trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công chức.
24
Đào tạo vừa học vừa làm là đào tạo không tập trung, dành cho những
người đã có thời gian làm việc hoặc phục vụ tại địa phương, cơ quan, doanh
nghiệp từ 12 tháng trở lên. Đây là một hình thức đào tạo mà được rất nhiều
CBCC cấp xã lựa chọn, một mặt để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của mình mặt khác vẫn đảm bảo được công việc tại cơ quan, đơn vị nơi mình
đang làm việc. Với hình thức này đã góp một phần không nhỏ trong công tác
đào tạo CBCC cấp xã nói chung và công tác đào tạo kiến thức pháp luật nói
riêng góp phần đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ CBCC cấp xã.
Đào tạo từ xa là quá trình giáo dục mà trong đó phần lớn hoặc toàn bộ
quá trình giáo dục - đào tạo có sự tách biệt giữa ngườì học và người dạy về
mặt không gian hoặc thời gian.
Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã được thực hiện thông
qua hình thức chủ yếu là các lớp bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn nhưng lại
được thực hiện một cách thường xuyên để kịp thời cập nhật những văn bản
quy phạm pháp luật mới ban hành hoặc mới được sửa đổi, bổ sung.
1.1.5. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Phương pháp là biện pháp, cách thức mà giảng viên sử dụng để truyền
đạt những kiến thức, kỹ năng cho người học. Tùy thuộc vào mục đích, nội
dung, đối tượng, thời gian để các giảng viên lựa chọn phương pháp giảng dạy
cho phù hợp. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều chỉ dẫn về quy
trình, cách thức, phương pháp đào tạo, huấn luyện CBCC. Người cho rằng
việc cốt yếu là làm cho người học hiểu được vấn đề nhưng để hiểu thấu, hiểu
sâu có hiều cách dạy. Có cách dạy tỉ mỉ tốn nhiều thời gian, có cách dạy bao
quát điều đó phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh. Song điều quan trọng ở chỗ
dạy như thế nào để người học từ chỗ hiểu đúng, hiểu thấu vấn đề đi đến vận
dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Có như vậy đội ngũ CBCC mới vừa đảm
bảo có tri thức, vừa có những kỹ năng cần thiết để giải quyết công việc. Trong
25
nhiều bài viết của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh "Học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội".
Bởi theo quan niệm của người "học mà không hành thì học vô ích, hành mà
không học thì hành không trôi chảy". Học không chỉ trong sách vở, trong nhà
tr ường mà còn phải "học lẫn nhau và học trong nhân dân" [18, tr. 39].
Kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta
hiện nay chủ trương thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học sử dụng
phương pháp ĐTBD thích hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là
trong đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã, đây là chủ thể
trực tiếp tiếp xúc với dân, trực tiếp giải quyết các yêu cầu của công dân. Vì
vậy trong quá trình ĐTBD không chỉ là cung cấp thông tin về pháp luật mà
phải biết dụng những phương pháp tích cực phát huy tính chủ động, tư duy
sáng tạo của người học tăng cường đối thoại, trao đổi thông tin, kiến thức,
kinh nghiệm giữa giảng viên với học viên, giữa học viên với nhau thông qua
phương pháp sử dụng tình huống để họ cùng nhau tìm ra phương án giải
quyết tối ưu nhất. Từ đó dần dần hình thành kỹ năng trong giải quyết công
việc thực tiễn, đem lại hiệu quả cao nhất trong quản lý nhà nước, quản lý xã
hội ở địa phương.
Xuất phát từ đối tượng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho
CBCC cấp xã chính là đội ngũ CBCC cấp xã. Nên khi lựa chọn phương pháp
giảng dạy cần lưu ý một số điểm sau đây:
- Đội ngũ CBCC cấp xã là những người có trình độ văn hóa, lý luận
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật không đồng đều, tính
chất công việc của mỗi người lại hoàn toàn khác nhau. Do đó khi lựa chọn
phương pháp giảng dạy phải tính đến yếu tố đặc thù của từng đối tượng.
Tránh tình trạng nhàm chán hoặc có một số người không tiếp thu được những
thông tin mà giảng viên truyền đạt. Phương pháp đã được sử dụng có hiệu quả
26
hay không nó được đánh giá bằng kết quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn
của người học.
- Đội ngũ CBCC cấp xã là những người hiện đang làm việc ở các cơ
quan, tổ chức ở cấp xã nên chủ yếu là họ tham gia học dưới hình thức đào tạo
vừa học vừa làm hay những lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật ngắn ngày.
Hình thức này giúp họ duy trì được hoạt động thực hiện nhiệm vụ thường
xuyên vừa đáp ứng được nguyện vọng, nhu cầu trang bị kiến thức pháp luật
để hoàn thành tốt công việc quản lý ở địa phương. Khi lựa chọn phương pháp
giảng dạy ngoài việc căn cứ vào nội dung, mục đích, đối tượng, thời gian…
giảng viên còn phải biết kết hợp giữa lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật ở
chính địa phương đó.
1.2. Nội dung pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã
Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ quyền hạn của mình và đạt được
hiệu quả cao trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương.
Đội nguc cán bộ, công chức cấp xã cần phải được đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật một cách toàn diện và có hệ thống. Tuy nhiên, để tránh
tính trạng đào tạo, bồi dưỡng một cách dàn trải, thiếu tập trung, cần phải lựa
chọn những nội dung có liên quan trực tiếp tới nhiệm vụ, quyền hạn của
CBCC cấp xã cụ thể bao gồm các nội dung sau:
1.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức
cấp xã về cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính
quyền cấp xã
Cán bộ, công chức cấp xã là những người đang trực tiếp làm việc tại
các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Muốn cho hệ thống
chính trị cấp cơ sở hoạt động một cách có hiệu quả, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng hoạt động
27
của HĐND, UBND, bản thân CBCC cấp xã phải hiểu rõ về cơ cấu, tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp xã và nhiệm vụ, quyền
hạn của mình. Chỉ có như vậy thì mới có cơ sở về mặt pháp lý để họ thực hiện
tốt chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội theo thẩm quyền, Tránh tình
trạng lạm dụng quyền hạn hoặc không dám làm những việc thuộc trách
nhiệm, quyền hạn của mình do thiếu hiểu biết về pháp luật. Như vậy, đào tạo,
bồi dưỡng các kiến thức pháp luật về cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cấp xã là trang bị cho họ những kiến thức lý luận cơ bản, là
nền tảng quyết định hiệu quả thực thi pháp luật ở cơ sở.
1.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức
cấp xã về trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước thuộc
thẩm quyền của cấp xã
Do điều kiện lịch sử để lại CBCC cấp xã mới được pháp luật về CBCC
điều chỉnh và có quy định chuẩn hóa về chất lượng từ năm 2003 trở lại đây.
Đội ngũ CBCC cấp xã chủ yếu là do bộ đội xuất ngũ chuyển qua làm
công tác quản lý ở địa phương hoặc là những người vì nhiều lý do khác nhau
không thoát ly khỏi đại phương ở nhà tham gia công tác quản lý, có những
người đi lên từ hoạt động phong trào, đoàn thể. Do vậy họ còn thiếu tính
chuyên nghiệp trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Những sản phẩm mà
họ đạt được chủ yếu là sản phẩm của lòng nhiệt tình kết hợp với kinh nghiệm
cá nhân. Họ có khả năng nhìn nhận nắm bắt và vận dụng kinh nghiệm cá nhân
để giải quyết công việc một cách nhanh chóng, phù hợp với tập quán của địa
phương. Tuy nhiên khi thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước thuộc chức
năng, nhiệm vụ của mình thì họ lại lúng túng trong việc vận dụng những quy
định của pháp luật và kiến thức khoa học để giải quyết các công việc theo luật
định và phù hợp với thực tiễn. Cụ thể như giải quyết các tình huống phát sinh
trong quá trình quản lý như các tranh chấp về đất đai, hôn nhân gia đình, dân
28
sự, hoạt động đăng ký và quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, hộ tịch, chứng thực;
các vấn đề liên quan đến chế độ chính sách, quyền và nghĩa vụ của công dân;
kỹ năng soạn thảo văn bản còn yếu, nhiều văn bản ban hành sai thẩm quyền,
sai thể thức, ngôn ngữ trong văn bản chưa rõ ràng chuẩn xác. Tất cả những
vấn đề đó làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lòng
tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước đồng thời đó là điểm yếu giúp cho
một số đối tượng lợi dụng sự thiếu hiểu biết về pháp luật của CBCC cấp xã để
thực hiện những hành vi trái pháp luật vì mục đích cá nhân. Vì những lý do
nêu trên mà trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật
cho CBCC cấp xã cần phải quan tâm tới nội dung về trình tự, thủ tục thực
hiện các hoạt động quản lý nhà nước thuộc thẩm quyền của họ. Có như vậy,
mới từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động quản lý của
CBCC cấp xã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng yêu
cầu trong thời kỳ đổi mới, hội nhập hiện nay.
1.2.3. Đào tạo, bồi pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã về quyền
tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân
CBCC cấp xã có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hướng dẫn cho
công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Thông qua
hoạt động của CBCC cấp xã sẽ xuất hiện thông tin hai chiều một mặt đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước sẽ được triển
khai thực hiện trong thực tế,, mặt khác những tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân sẽ được phản ánh với Đảng và Nhà nước từ đó có những chính sách phù
hợp với thực tiễn quản lý. Muốn thực hiện được vai trò là nối cầu nối giữa
Đảng, nhà nước và nhân dân thì bản thân CBCC cấp xã phải được đào tạo, bồi
dưỡng các kiến thức pháp luật về quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của
công dân để thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, chỉ rõ cho công
dân những việc pháp luật cấm và những việc mà pháp luật không cấm đồng
29
thời hướng dẫn cho họ làm như thế nào, làm đến đâu để tự bảo về quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó CBCC cấp xã là người thay mặt cho
nhân dân tham gia và các cơ quan nhà nước trực tiếp bảo đảm cho những
quyền tự do, dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong phạm vi
địa phương mình quản lý.
1.2.4. Đào tạo kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã về
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân, là một cách để nhân
dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, tham gia quản lý nhà n ước, quản lý xã
hội. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định:
"Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào". Vì vậy,
đòi hỏi nhà nước phải thiết lập cơ chế bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo một cách có hiệu quả. Thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
công dân đã tham gia một cách tích cực vào hoạt động giám sát các cơ quan
công quyền và CBCC. Thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo để Nhà
nước nắm được nguyện vọng của nhân dân, thấy được hành vi của các cơ
quan nhà nước, tổ chức và CBCC có đúng pháp luật không. Từ đó, có những
biện pháp chấn chỉnh kịp thời trong hoạt động quản lý Nhà nước nhằm tăng
cường hoạt động của cơ quan nhà nước, CBCC để bộ máy nhà nước ngày
càng hoàn thiện hơn và hoạt động hiệu quả hơn.
Đội ngũ CBCC cấp xã là những người hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với
nhân dân trực tiếp giải quyết những yêu cầu, thắc mắc của nhân dân. Do đó
nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo của chính quyền cấp xã là
một yêu cầu đặt ra.Vì vậy trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng các kiến
thức pháp luật cho CBCC cấp xã cần phải quan tâm tới việc hướng dẫn cho
30
học viên về thẩm quyền, trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo để họ kịp thời giải
quyết đúng về thời gian, đúng về thẩm quyền, đưa ra được cách giải quyết tối
hợp lý, hạn chế tình trạng khiếu nại đông người, khiếu nại vượt cấp gây mất
ổn định về chính trị tại địa phương. Có như vậy yêu cầu, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân mới được thực hiện. Từ đó, tạo ra lòng tin của nhân dân
vào Đảng, Nhà nước, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội là động lực thúc đẩy mọi người cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và làm
tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước.
1.2.5. Đào tạo kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã về
thực hiện dân chủ ở cơ sở
Dân chủ chính là quyền làm chủ của con người trong xã hội về chính
trị, dân sự, kinh tế, gắn liền với mỗi cá nhân không thể chuyển dịch cho người
khác đồng thời nó gắn liền với trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân. Dân chủ
là quá trình vận động liên tục thông qua mối quan hệ giữa nhà nước và công
dân mối quan hệ đó đòi hỏi phải được quy định và điều chỉnh bằng pháp luật.
Pháp luật là cơ sở pháp lý quy định và ảm bảo cho các quyền tự do dân chủ
của công dân được thực hiện trong thực tế. Pháp luật về thực hiện dân chủ ở
Việt Nam được hình thành từ rất sớm ngay từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến
pháp năm 2013 và được cụ thể hóa bằng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn (gọi tắt là pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở) để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh vật chất tinh thần to lớn của
nhân dân. Vì vậy, phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã
được cụ thể hóa trong nội dung của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ ở. Việc
áp dụng như thế nào cho có hiệu quả vào điều kiện cụ thể của từng địa
phương đòi hỏi phải nâng cao nhận thức cho toàn thể nhân dân đặc biệt là cho
đội ngũ CBCC cấp xã. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở phải được triển
khai toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
31
địa phương. Quyền tự do dân chủ của nhân dân muốn thực hiện được thì phải
thông qua chính quyền cấp xã mà trực tiếp là đội ngũ CBCC là những người
trực tiếp giải quyết những yêu cầu, vướng mắc của nhân dân. Muốn thực hiện
tốt điều đó thì họ phải được trang bị một cách có hệ thống và bổ sung kịp thời
các quy định của pháp luật về trách nhiệm, quyền hạn của mình cũng như
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ đó thực hiện việc tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, có biện pháp bảo đảm cho những quyền và nghĩa vụ đó
được thực hiện. Là tiền đề quan trọng cho ý thức và thực tiễn dân chủ tồn tại
và phát triển.
Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở là
một nội dung quan trọng trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho CBCC cấp xã. Từ đó giúp họ nhận thức một cách đầy đủ về mối
quan hệ "Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" đây là ba yếu
tố không thể tách rời trong mọi phương hướng cũng như hoạt động ở mỗi địa
phương. Vai trò của Đảng có phát huy cao độ, nhà nước có quản lý tốt thì
nhân dân mới có thể thực hiện được quyền dân chủ của mình.
Tóm lại nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC
cấp xã cần phải được xây dựng trên nhu cầu thực tiễn về quản lý nhà nước, về
thực trạng trạng kiến thức pháp luật của CBCC cấp xã. Để sau khi được đào
tạo, bồi dưỡng họ có thể vận dụng ngay vào hoạt động quản lý ở địa phương.
Những kiến thức pháp luật được trang bị sau mỗi khóa học cùng với kinh
nghiệm công tác sẽ giúp họ củng cố thêm kiến thức, nâng cao trình độ, năng
lực, giải quyết các tình huống phát sinh trong quá trình quản lý tại địa phương
một cách nhanh chóng, chính xác và khoa học hơn.
1.3. Yêu cầu và điều kiện đào tạo, bồi dưỡng
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN,
nên việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã là
32
một yêu cầu cấp bách hiện nay. Bởi một trong những đặc trưng cơ bản của
nhà nước pháp quyền đó là tính tối cao của luật. Thông qua pháp luật quyền
tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được đảm bảo thực hiện
và nó thể hiện quan hệ đồng trách nhiệm giữa nhà nước và công dân. Đứng
trước yêu cầu đó hoạt động đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho
đối tượng CBCC cấp xã phải đáp ứng được một số yêu cầu sau đây.
- Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp
xã nhằm nâng cao ý thức pháp luật để họ thực hiện tốt vai trò quản lý nhà
nước, quản lý xã hội ở địa phương.
Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật để tập trung xây dựng một
đội ngũ CBCC cấp xã có đầy đủ những kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức
và tinh thần trách nhiệm trước Nhà nước, trước nhân dân, thực sự là một bộ
phận gương mẫu nổi trội hơn so với nhân dân địa phương về trình độ hiểu biết
pháp luật và nhất là thái độ, hành vi tuân thủ và chấp hành pháp luật. Đây là
một trong những yêu cầu cơ bản của đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp
luật cho CBCC cấp xã bởi họ là những người gần dân nhất, có trách nhiệm
lãnh đạo nhân dân, định hướng cho nhân dân thực hiện đúng quy định của
pháp luật nên đòi hỏi họ phải luôn có ý thức và hành động gương mẫu, tiên
phong trong việc chấp hành pháp luật ở địa phương.
Đội ngũ CBCC cấp xã không chỉ hiểu biết pháp luật để chấp hành đúng
pháp luật giống như mọi công dân khác, mà họ còn phải có trách nhiệm tuyên
truyền, giáo dục và tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện pháp luật. Do đó ý
thức và hiểu biết về pháp luật của CBCC cấp xã phải cao hơn quần chúng
nhân dân, để có được điều đó thì họ phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách
nghiêm túc, bài bản nhằm chấm dứt tình trạng CBCC điều hành công việc
không dựa vào quy định của pháp luật mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của
bản thân. Đào tạo, bồi dưỡng pháp luật cho CBCC cấp xã là trang bị cho họ
33
một lượng kiến thức pháp luật cần thiết để thực hiện tốt vai trò quản lý nhà
nước, quản lý xã hội ở địa phương.
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
giúp họ thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và
đưa ra được phương án giải quyết tối ưu nhất đối với những tình huống cụ thể
phát sinh trong quá trình quản lý Pháp luật là công cụ, phương tiện chủ yếu
để CBCC nói chung cũng như CBCC cấp xã thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình, đồng thời là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mỗi
cá nhân. Vấn đề nhận thức, vận dụng công cụ pháp luật như thế nào cho đúng
đắn để khai thác, phát huy hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã hội của
pháp luật lại là điều không đơn giản. Muốn thực hiện được điều này thì
CBCC cấp xã phải có kiến thức pháp luật vững vàng.
Để xác định được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy
định của pháp luật và biết mình được làm gì, không được làm gì, làm đến đâu,
làm như thế nào trong từng trường hợp cụ thể. Có như vậy, năng lực hoạt
động của chính quyền cấp xã mới đảm bảo và ngày càng được nâng cao,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân mới được đảm bảo, lòng tin của
nhân dân vào Đảng và nhà nước mới được củng cố.
Việc đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã giúp
họ có vốn kiến thức pháp luật vững vàng, hạn chế được những hành vi, vi
phạm pháp luật. Điều quan trọng hơn cả là sau khi được đào tạo, bồi dưỡng
các thì bản thân mỗi CBCC cấp xã phải vận dụng những nội dung kiến thức
pháp luật được tiếp thu để phục vụ cho công tác quản lý theo đúng chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
- Thông qua đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công
chức cấp xã để chính quyền cấp xã thực sự là cầu nối giữa nhà nước và nhân
dân và đảm bảo tính khả thi của pháp luật Cấp xã là cấp chính quyền cơ sở, là
34
nền tảng cho hệ thống chính trị ở nước ta. Nhà nước có thực hiện được vai
trò quản lý, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân có được đảm bảo hay
không phụ thuộc rất nhiều vào chính quyền cấp xã, nó được thể hiện thông
qua hoạt động của đội ngũ CBCC cấp xã. Bằng chính những hoạt động cụ
thể khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình CBCC cấp xã thực sự trở
thành cầu nối giữa nhà nước và công dân.
Được đào tạo, bồi dưỡng các nâng cao hiểu biết pháp luật, CBCC cấp
xã phải biết vận dụng những nội dung đã được học để phục vụ cho công tác
quản lý của mình, đưa đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước vào cuộc sống. Trong quá trình đưa ra chủ trương đường lối
chính sách của Đảng, ban hành pháp luật của nhà nước thì cấp xã là khâu đầu
tiên trong việc thu nhận thông tin, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân. Bằng những hiểu biết pháp luật của mình CBCC cấp xã phải biết chọn
lọc những yêu cầu nào của công dân là hợp pháp, hợp lý để đề xuất, kiến nghị
với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung kể cả
ban hành mới những văn bản pháp luật đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính
đáng của công dân. Ngược lại với những yêu cầu không hợp pháp, không hợp
lý thì cũng phải vận dụng quy định của pháp luật hiện hành để giải thích cho
công dân hiểu tránh tình trạng có thái độ, phản ứng không đúng chuẩn mực
gây sự bất bình trong nhân dân, thậm chí trở thành "điểm nóng" gây mất ổn
định về chính trị trên địa bàn địa phương. Vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng các các
kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã là một trong những biện pháp, cách
thức hữu hiệu nhất xích gần khoảng cách giữa nhà nước và công dân, củng cố
lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Đây là một biện pháp đảm bảo
tính khả thi của pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và phản ánh thực
trạng xã hội vào pháp luật.
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
35
phải theo tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý và bồi dưỡng theo
vị trí làm việc CBCC cấp xã được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trình
độ học vấn và chuyên ngành đào tạo khác nhau, hiểu biết về pháp luật của họ
cũng khác nhau. Tùy thuộc vào vị trí, tính chất công việc mà mỗi CBCC cấp
xã đảm nhiệm thì yêu cầu, góc độ kiến thức pháp luật mà họ cần tiếp cận là
khác nhau.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng các CBCC, điều cốt yếu nhất trong công tác đào tạo, bồi dưỡng các
CBCC là phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và phải đáp ứng đúng nhu cầu
đó. Người nhấn mạnh: "Huấn luyện là phải đúng nhu cầu… huấn luyện cán
bộ cho các ngành công tác: Đoàn thể, Mặt trận, Chính quyền, Quân đội. Các
ngành công tác như người tiêu thụ hàng. Ban huấn luyện như người làm ra
hàng. Làm ra hàng phải đúng với nhu cầu tiêu thụ"[25,tr48]. Trong quá trình
đào tạo, bồi dưỡng các phải: "Làm việc gì học việc ấy, cán bộ môn nào phải
học cho thạo môn ấy"[24tr270]. Điều đó như một định hướng cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng nói chung và đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật
cho CBCC cấp xã nói riêng trong mọi thời kỳ.
Chính vì vậy, ngoài những kiến thức pháp luật cơ bản, mang tính tổng
thể ra trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho đội ngũ
CBCC cấp xã phải đặc biệt quan tâm tới những nội dung. Nội dung đó phải
phù hợp với từng vị trí, từng chức danh, chức vụ công tác của CBCC. Để sau
khi được đào tạo, bồi dưỡng họ có thể sử dụng ngay những kiến thức pháp
luật đó để phục vụ cho công tác quản lý của mình.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công
chức cấp xã phải đảm bảo tính hệ thống đồng thời phải cập nhật được các văn
bản quy phạm pháp luật mới ban hành Pháp luật là một trong những yếu tố
thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, pháp luật phát sinh tồn tại trên cơ sở hạ
36
tầng xã hội và do cơ sở hạ tầng quyết định, với sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước, sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ. Đứng trước yêu cầu đó Nhà nước đã sửa
đổi bổ sung và ban hành mới hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật nhằm
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước.
Thực tế cho thấy, hiện nay công tác xây dựng pháp luật được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện,
tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Những văn bản quy phạm pháp luật đó
có được triển khai thực hiện trong thực tế hay không phụ thuộc rất nhiều vào
đội ngũ CBCC cấp xã. Vì vậy trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp
xã nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải mang tính tổng thể nhưng vẫn phải đi
vào từng nội dung cụ thể phù hợp với đối tượng. Điều quan trọng hơn cả là
phải cập nhật được những văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành để
họ nắm bắt và vận dụng ngay vào công việc cụ thể của mình. Tránh tình trạng
văn bản quy phạm pháp luật mới đã được ban hành nhưng lại không được
triển khai thực hiện trong thực tế gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính
đáng của công dân. Việc cập nhật những văn bản quy phạm pháp luật mới
được ban hành vừa là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
các đơn vị đào tạo và của chính bản thân mỗi cán bộ, công chức. Cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức pháp luật để giới thiệu, tuyên truyền nội dung của những văn bản quy
phạm pháp luật mới được ban hành, các đơn vị đào tạo phải có trách nhiệm
cập nhật và đưa những thông tin pháp luật mới đưa vào trong chương trình
đào tạo, bồi dưỡng, bản thân mỗi cán bộ, công chức phải luôn có ý thức cập
nhật những văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành bằng nhiều cách
thức khác nhau hoặc là thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng hoặc là bằng
37
cách tự học hỏi để kịp thời tiếp cận và nắm bắt những văn bản quy phạm pháp
luật mới phục vụ cho công tác quản lý ở cơ sở đạt được hiệu quả cao. Đây
chính là con đường ngắn nhất đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống.
Đây là một yêu cầu quan trọng trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã. Nếu yêu cầu này được thực hiện tốt là
điều kiện để CBCC và nhân dân địa phương sử dụng đúng quy định của pháp
luật hiện hành làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, xã hội và của bản thân góp phần đảm bảo trật tự quản lý nhà nước,
quản lý xã hội, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Điều kiện đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công
chức cấp xã
Để hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã
đạt được hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu đổi mới hiện nay, cần phải đáp
ứng một số điều kiện sau đây.
+ Có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ công chức cấp xã
hoàn thiện Luật CBCC năm 2008, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật
cán bộ, công chức, viến chức năm 2019, đã dành riêng một chương quy định
về CBCC cấp xã. Những nội dung đó đã được Chính phủ cụ thể hóa thông
qua một số văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định số112/2011/NĐ -CP
ngày 05 tháng 12năm 2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn;
Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4năm 2019 của Chính phủ sửa
đổi bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố; Nghị định số
92/2009/NĐ-CP quy định về chức danh, số lượng và một số chính sách đối
với CBCC cấp xã. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tuyển
dụng, quản lý và sử dụng CBCC cấp xã. Tuy nhiên pháp luật về CBCC cấp
38
xã vẫn cần phải hoàn thiện hơn nữa về một số nội dung như tuyển dụng, các
chế độ chính sách đối với cán bộ chuyên trách không trúng cử sau mỗi lần
bầu cử cần phải rõ ràng cụ thể hơn. Điều đó sẽ làm cho CBCC yên tâm hơn
khi học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kiến thức
pháp luật. Từ đó làm cho họ luôn luôn mong muốn phấn đấu không ngừng
học tập, rèn luyện thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình trong mọi hoàn
cảnh.
+ Phải có đội ngũ giảng viên, báo cáo viên pháp luật có trình độ chuyên
môn cao, có nghiệp vụ sư phạm tốt, được trang bị đầy đủ kiến thức về lý luận
và thực tiễn.
Để thực hiện tốt chương trình đào tạo, bồi dưỡng pháp luật cho CBCC
cấp xã cần phải có một đội ngũ giảng viên, báo cáo viên pháp luật được đào
tạo một cách chính quy, bài bản ở một số trường đào tạo chuyên ngành luật.
Tuy nhiên, để trở thành một giảng viên, báo cáo viên tốt mới chỉ có
trình độ chuyên môn vững vàng thì chưa đủ mà còn cần phải có kỹ năng sư
phạm tốt tức là phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp với đối tượng, thời
điểm, địa điểm và phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn ở
mỗi một địa phương cụ thể.
Thông thường giảng viên dạy pháp luật ở các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp và một số đơn vị có chức năng đào tạo, bồi dưỡng phải được đào
tạo ở các trung tâm đào tạo chuyên ngành luật như: Khoa Luật trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, trường Đại học Luật Hà Nội, trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh… trong thực tế hiện nay, vẫn còn một bộ phận giảng viên
giảng dạy môn pháp luật nhưng lại không được đào tạo chuyên ngành luật.
Ngược lại có một số giảng viên được đào tạo chính quy, bài bản tại các
trường đại học đào tạo chuyên ngành luật nhưng lại không có nghiệp vụ sư
phạm. Đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp tới chất
39
lượng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật. Để nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC nói chung cũng như CBCC cấp
xã nói riêng thì nhà nước phải có những quy định cụ thể để chuẩn hóa đội ngũ
giảng viên giảng dạy pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới. Đã
phân tích nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho
CBCC phải phù hợp với đối tượng, thời gian, hình thức đào tạo. Mà đối tượng
học viên ở đây là CBCC cấp xã cho nên ngoài kiến thức lý luận còn đòi hỏi
giảng viên phải tích lũy một lượng kiến thức thực tiễn phong phú, đặc biệt là
phải kịp thời nắm bắt được những thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội, phong tục tập quán của từng địa phương. Từ đó hướng dẫn cho
học viên biết cách vận dụng những quy định của pháp luật để giải quyết các
tình huống cụ thể phát sinh trong quá trình quản lý phù hợp với đặc thù của
mỗi địa phương.
Muốn có đội ngũ giảng viên đảm bảo chất lượng về chuyên môn và
nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp thì nhà nước phải có chính sách quan tâm
thỏa đáng tới đời sống về vật chất lẫn tinh thần của họ, đồng thời cần có chính
sách tạo điều kiện cho họ được học tập nâng cao chất lượng về chuyên môn,
nghiệp vụ nhằm phát huy hơn nữa khả năng của họ trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức.
Đứng trước yêu cần đổi mới hiện nay và đảm bảo tính bền vững
trongđào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã, đòi hỏi phải
có đội ngũ giảng viên kế cận để sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi yêu cầu thực tế
đặt ra.
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức phải
có nội dung, hình thức và phương pháp phù hợp với đối tượng đào tạo, bồi
dưỡng nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ,
công vụ, góp phần xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp có đủ năng lực
40
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Ở phần đặc điểm của đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC
cấp xã đã phân tích đối tượng CBCC cấp xã được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau có trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, tuổi đời …
khác nhau Có người có trình độ ở bậc đại học, một số ít có trình độ ở bậc sau
đại học nhưng bên cạnh đó vẫn một bộ phận lớn người có trình độ ở bậc sơ
cấp hoặc chưa qua đào tạo. Xuất phát từ đối tượng như vậy nên việc lựa chọn
nội dung phương pháp cho phù hợp là hết sức khó khăn. Nội dung và phương
pháp giảng dạy một mặt phải đảm bảo được lượng thông tin đưa ra, mặt khác
phải làm cho người có trình độ cao không thấy chán, người có trình độ thấp
dễ tiếp thu. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp giảng dạy của
giảng viên sao cho nội dung trở nên sinh động, hấp dẫn người biết rồi, hiểu
rồi vẫn thấy mới và vẫn muốn nghe. Cũng xuất phát từ đối tượng là CBCC
cấp xã là những người hiện đang làm việc tại các c ơ quan, tổ chức ở cấp xã
nên hình thức đào tạo, bồi dưỡng là vấn đề mà họ quan tâm. Theo Nghị định
số Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày
18/10/2021 của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức có bốn hình thức đó là tập trung, bán tập trung, vừa
học vừa làm và đào tạo từ xa.Trong bốn hình thức này thì vừa học vừa làm là
hình thức được CBCC cấp xã lựa chọn nhiều nhất bởi nó phù hợp với điều
kiện thực tế họ vừa có thể học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
kiến thức pháp luật đồng thời vừa thực hiện được những công việc tại cơ
quan, đơn vị theo chức năng nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp cơ sở.
41
+ Phải có cơ sở vật chất đầy đủ để phục vụ cho việc nghiên cứu, học
tập và giảng dạy kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã. Tham gia
vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng pháp luật cho CBCC cấp xã, yếu tố con
người là quyết định. Nhưng sự thành công của sự nghiệp giáo dục, đào tạo
còn có sự đóng góp không nhỏ của yếu tố vật chất. Một giảng viên muốn
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình năng lực bản thân thôi chưa đủ mà còn cần
rất nhiều yếu tố hỗ trợ khác như tài liệu, sách, báo, thư viện, mạng
internet…ngoài ra muốn tổ chức được lớp học còn phải có kinh phí, giảng
đường, loa đài, máy chiếu, máy tính…như vậy vật chất là yếu tố không thể
thiếu trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã
trong điều kiện thực tế hiện nay.
Hiện nay nhà nước đã có một số chính sách cụ thể quy định về kinh phí
đào tạo, bồi dưỡng CBCC tạo điều kiện cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
CBCC cấp xã ngày càng có hiệu quả hơn.
Tóm lại, với vai trò quan trọng của đội ngũ CBCC cấp xã, việc đào tạo,
bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho đối tượng này là vấn đề cấp thiết hiện
nay nhằm nâng cao ý thức pháp luật, kỹ năng giải quyết các tình huống, năng
lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội của CBCC cấp xã để họ thực sự trở
thành cầu nối giữa nhà nước và nhân dân
42
Tiểu kết chương 1
Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng đối với CBCC là cơ sở lý luận, nội dung
pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức để thực hiện đồng bộ các
nội dung cải cách hành chính nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu hiện đại
hóa nền hành chính ở nước ta hiện nay. Trước yêu cầu của Cải cách thể chế;
Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước;
Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính công và xây dựng, phát triển
Chính phủ điện tử, chính phủ để đạt được mục tiêu Xây dựng nền công vụ
chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài; thực hiện cơ chế cạnh
tranh lành mạnh, dân chủ, công khai, minh bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán
bộ và tuyển dụng công chức, để thu hút người thật sự có đức, có tài vào làm
việc trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Trong chương 1 tác giả đã tập trung nghiên cứu các khái niệm liên quan
đến công tác đào tạo, bồi dưỡng những lý luận chung về pháp luật đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức trên cơ sở đó phân tích làm rõ những yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Toàn bộ các nội dung lý
luận ở chương 1, sẽ được sử dụng làm căn cứ khoa học để tiến hành phân tích,
đánh giá thực trạng pháp luật thực hiện quy định pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng đối với cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn tại thành phố Gia
Nghĩa, tỉnh Đăk Nông) trong chương 2 và đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật
và thực hiện hiệu quả pháp luật trong chương 3.
43
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ (QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐĂK NÔNG)
2.1. Tổng quan về tình hình thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và dân cư
Thị xã Gia Nghĩa được thành lập theo Nghị định số 82/2005/NĐ-CP
ngày 27/6/2005 của Chính phủ; ngày 17/12/2019 tại Nghị quyết số 835/NQ-
UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nâng cấp lên nay là thành
phố Gia Nghĩa được thuộc tỉnh Đắk Nông; có diện tích tự nhiên trên
28.411.92 ha, gồm 08 đơn vị hành chính cấp xã, 21 thôn, 06 bon, 35 tổ dân
phố, dân số trên 71 ngàn người với 31 dân tộc anh em cùng sinh sống, dân tộc
thiểu số chiếm trên 11,6% dân số toàn thành phố.
2.1.2. Về vị trí địa lí
Thành phố Gia Nghĩa nằm ở phía Nam của tỉnh Đắk Nông, cách thành
phố Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk 120 km; thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình
Phước 110km; trên giao điểm quốc lộ 14 và quốc lộ 28; có diện tích
284,11km2, có nhiều địa hình phức tạp, bao gồm nhiều dãy đồi núi mấp mô
xen kẽ nhiều khe suối tự nhiên lớn, nhỏ tạo thành dạng địa hình chia cắt
mạnh.
- Đặc điểm về kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh - trật tự
Những năm qua, các lĩnh vực về văn hóa xã hội được cấp ủy, chính
quyền địa phương quan tâm nên ngày càng cải thiện về chất lượng trên các
lĩnh vực. Công tác giáo dục và đào tạo trên địa bàn thành phố có nhiều
chuvển biến tích cực về quy mô, chất lượng dạy học, cơ sở vật chất được
quan tâm đầu tư. Toàn thành phố có 45 cơ sở giáo dục (Trong đó 09 trường
mẫu giáo công lập; 06 trường mẫu giáo tư thục; 13 trường tiểu học; 08 trường
THCS; 04 trường THPT (01 trường phổ thông dân tộc nội trú, 01 trường
44
THPT chuyên, 02 trường THPT Công lập); 01 Trường Chính trị tỉnh; 01
trường cao đẳng; 01 trường trung cấp, 01 Trung tâm Ngoại ngữ, Tin học;
Tổng khoản hơn 29.650 học sinh, sinh viên các cấp; trong đó có khoảng hơn
6.000 học sinh dân tộc thiểu số. Tỷ lệ xét công nhận hoàn thành chương trình
bậc tiểu học hàng năm đạt trên 99%; xét công nhận tốt nghiệp THCS đạt trên
98%; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Nông tổ chức tốt các kỳ
thi THPT Quốc gia bình quân khoản 96%.
Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao chào
mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước và địa phương phản ánh kịp thời
các sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa
bàn thành phố.
- Về quốc phòng - an ninh
Đảng bộ thành phố Gia Nghĩa có 36 tổ chức cơ sở đảng (trong đó 11
Đảng bộ trực thuộc và 25 chi bộ trực thuộc) với 136 chi bộ trực thuộc đảng bộ
cơ sở; tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ thành phố Gia Nghĩa là 2.875
đảng viên (trong đó đảng viên nữ có 1.049 đồng chí; đảng viên là người dân
tộc thiểu số 156 đồng chí; đảng viên là người có đạo 36 đồng chí).
Nhìn chung, các lĩnh vực giáo dục, văn hóa xã hội được quan tâm, triển
khai kịp thời, hiệu quả; công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
được chú trọng; thực hiện hiệu quả chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo; tình
hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn được đảm bảo, an ninh nông thôn được
giữ vững. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được xử lý kịp thời đúng theo
trình tự thủ tục, hạn chế các vụ việc khiếu kiện đông người trên địa bàn thành
phố. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện,
đạt kết quả tích cực.
2.2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy hành chính nhà nước thành phố Gia
Nghĩa, tỉnh Đăk Nông
45
UBND TP GIA NGHĨA
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CƠ QUAN CHUYÊN MÔN
UBND XÃ
ĐẮK NIA
VP HĐND - UBND
BQLDA&PTQĐ ĐẤT
ĐĂK R’MOAN
TT DV KT NN
P. TC – KẾ HOẠCH
NGHĨA TÂN
P. NỘI VỤ
TTVH-TT&TT
NGHĨA TRUNG
P. TN & MT
ĐQLTTCQ
NGHĨA PHÚ
P. NN &PTNT
P. VH & TT
NGHĨA THÀNH
P. QUẢN LÝ ĐÔ THỊ
QUẢNG THÀNH
P. LĐ, TB & XH
NGHĨA ĐỨC
THANH TRA
P. Y TẾ
P. TƯ PHÁP
P. GIÁO DỤC & ĐT
P. KINH TẾ
46
2.3. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
2.1.1) Số lượng CBCC cấp xã
Bảng 2.1. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã giai đoạn 2020 - 2022
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022
Số lượng
Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
Số lượng (người) 161 Số lượng (người) 160 Số lượng (người) 169
83 78 80 80 86 83
104 57 99 61 64,6 35,4 61,9 38,1 110 59 65,0 34,9
15 125 29 8,9 73,9 17,2 5,7 43,1 1,3 9 69 02 09 68 02
5,6 42,2 1,2 (Nguồn: UBND thành phố Gia Nghĩa) 1.Tổng số BCC 2.Chức danh Cán bộ chủ chốt Công chức 3. Giới tính Nam Nữ 4. Độ tuổi Dưới 35 tuổi Từ 35 đến 50 tuổi Trên 50 tuổi
Nhận xét: Số liệu của bảng 2.1 ta thấy số lượng CBCC có sự biến động
theo chiều hướng giảm dần: Năm 2020 đến 2021 giảm từ 161 xuống còn 160;
năm 2021 đến năm 2022 tăng từ 160 lên 169 CBCC. Số lượng CBCC đa phần
còn trẻ tính tỷ lệ năm 2022: dưới 35 tuổi là 8,9 % ; dưới 50 chiến 73,9 %; tỷ
lệ CBCC lớn tuổi trên 50 tuổi chỉ chiếm bình quân là 17,2 %. Số lượng CBCC
nam giới chiếm tỷ lệ cao (năm 2020: 104 người; năm 2021: 99 người; năm
2022: 110 người). Như vậy, trong 3 năm nghiên cứu từ năm 2020 đến 2021
cho thấy số lượng, CBCC giảm dần đến năm 2022 tăng lên 09 người; số
lượng CBCC đa phần trẻ và chủ yếu là nam giới do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Năm 2020 đến năm 2021 số lượng CBCC giảm do thực hiện
theo quan điểm của Đảng tại Nghị quyết 39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm
2015 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tinh giảm biên chế và cơ cấu
47
lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 18 -NQ/TW ngày 25
tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả. Năm 2021 đến năm 2022 số lượng CBCC tăng 09 người do tuyển
dụng bổ sung vào biên chế các xã trên địa bàn thành phố.
Thứ hai: Thành phố Gia Nghĩa nằm ở phía nam của khu vực Tây
Nguyên, là thành phố mới thành lập, nghèo nhất các tỉnh Tây Nguyên có
08/08 xã, phường nên số đa phần CBCC là nam giới, nữ giới tâm lý ngại vào
công tác ở những xã khó khăn.
Thứ ba: Là thành phố mới thành lập nên tỉ lệ CBCC đa phần còn trẻ
mới ra trường và một số lấy nguồn là người dân tộc tại chỗ.
Nhìn chung, cơ cấu giới tính của CBCC cấp xã tại thành phố Gia Nghĩa
là mất cân đối số lượng cán bộ, công chức nam giới chiếm tỷ lệ cao, trong lúc
cán bộ, công chức nữ giới chỉ chiếm dưới 40%; số lượng cán bộ trẻ chiếm đa
phần, là điều kiện tốt về sức khỏe và lòng nhiệt tình, để xây dựng thành phố
Gia Nghĩa ngày càng phát triển, sớm thoát khỏi danh sách các thành phố
nghèo nhất của cả nước.
2.1.2. Thực hiện các quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã
a) Đào tạo về trình độ văn hóa: Do là thành phố mới thành lập, người
dân tộc thiểu số chiếm trên 11,6% nên lực lượng đội ngũ CBCC cấp xã của
thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông nhìn chung có mặt bằng trình độ văn
hoá ở mức tốt. Theo thống kê số liệu đến năm 2022, có 01/169 CBCC cấp xã
có trình độ tốt nghiệp Trung học cơ sở, chiếm 0,6%; 168/169 CBCC cấp xã
có trình độ văn hoá tốt nghiệp THPT, chiếm 99,4%. Số CBCC có trình độ tốt
nghiệp Trung học cơ sở chủ yếu là những người dân tộc thiểu số, người dân
tộc khác lớn tuổi giữ những chức vụ trưởng các đoàn thể chính trị như: Chủ
48
tịch Hội Cựu chiến binh, Chủ tịch Hội Phụ nữ; Chủ tịch Hội Nông dân...
Trong thời gian sắp tới cần vận động số cán bộ có trình độ văn hóa Trung học
cơ sở tham gia học bổ túc văn hóa bậc THPT để có điều kiện hoàn thiện về
tiêu chí chức danh cán bộ theo yêu cầu hiện nay.
b) Đào tạo về trình độ chuyên môn: Gia Nghĩa là thành phố mới được
thành lập nên số công chức đa phần còn trẻ được đào tạo cơ bản về chuyên
môn, nghiệp vụ. Do vậy đáp ứng tốt theo vị trí việc làm được quy định tại các
văn bản của Đảng, nhà nước. Tuy nhiên đối với cán bộ một số chỉ làm theo
kinh nghiệm, thực tiễn do gắn bó với địa phương từ lâu và thực hiện theo
chính sách bố trí cán bộ là người dân tộc thiểu số nên tỷ lệ cán bộ người dân
tộc thiểu số người M’Nông, Mạ đa phần chưa qua đào tạo. Theo thống kê
năm 2020 tỷ lệ chưa qua đào tạo là 2,4%; năm 2021 tỷ lệ chưa qua đào tạo là
1,25% điều này là một thách thức lớn trong vận hành bộ máy nhà nước ở cấp
cơ sở và công tác sắp xếp bố trí cán bộ của Đảng. Cụ thể được thống kê theo
bảng số liệu về trình độ chuyên môn giai đoạn 2020 – 2022 như sau:
Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn Năm 2021
Năm 2020
Năm 2022
Đối tượng
Trình độ chuyên môn
Số lượng (người)
Tỷ lệ (%)
Số lượng (người)
Tỷ lệ (%)
Số lượng (người)
Tỷ lệ (%)
Chưa qua đào tạo
02
Cán bộ
11 67 3 2,4 13,2 80,7 3,6 1 5 69 6 1,25 6,25 86,25 7,5 3 78 5 3,5 90,7 5,8
Công chức 4 79 4,8 95,1
Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng, đại học Sau đại học Chưa qua đào tạo Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng, đại học Sau đại học 6 69 4 4 74 1
5 7,7 92,5 88,5 1,25 5,1 (Nguồn: UBND thành phố Gia Nghĩa)
49
Qua bảng 2.2. Ta thấy trình độ chuyên môn của CBCC cấp xã như sau:
Đối với cán bộ cấp xã: Đối với cán bộ chưa qua đào tạo là 02 người
(năm 2020) chiếm tỷ lệ là 2,4% và giảm dần qua các năm đến năm 2021 số
cán bộ chưa qua đào tạo chỉ còn 01 người tương đương với 1,25%. Số cán bộ
đã qua đào tạo trung cấp; cao đẳng và đại học có xu hướng ngày càng tăng
qua các năm 2020 có 67 người chiến 80,7%, năm 2021 có 69 người chiến
86,25% và Năm 2022 là 78 người chiến tỷ lệ 90,7% và tăng dần qua các năm.
Cán bộ cấp xã có trình độ cao học chiếm tỷ lệ 5,8%. Toàn thành phố năm
2020 có 03 người; năm 2021 có 06 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sỹ,
đến năm 2022 có 05 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sỹ. Nhìn chung số
lượng cán bộ cấp xã có trình độ thạc sĩ có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, năm
2021 đến năm 2022 giảm 01 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sĩ do điều
chuyển lên làm lãnh đạo cấp trên.
50
Đối với công chức cấp xã: Qua bảng 2.2 trên cho ta thấy không có công
chức nào chưa qua đào tạo; Công chức có trình độ trung cấp năm 2020 có 6
người chiếm tỷ lệ 7,7%, đến năm 2021, năm 2022 có 4 người chiến tỷ lệ 4,8%
trong cơ cấu trình độ chuyên môn. Từ bảng 2.2 trên ta thấy các công chức có
trình độ trung cấp có xu hướng giảm dần, chứng tỏ chất lượng công chức
ngày càng được chú trọng và nâng cao hơn. Công chức có trình độ chuyên
môn cao đẳng, đại học chiếm tỷ lệ cao trong toàn cơ cấu và có xu hướng ngày
càng tăng năm 2020 là 69 người chiếm tỷ lệ 88,5%; năm 2021 có 74 người
chiếm tỷ lệ 92,5%; công chức cấp xã có trình độ thạc sỹ năm 2020 có 4 người
chiến tỷ lệ 5,1%, năm 2021 có 1 người chiến tỷ lệ 1,25%, năm 2022 không có
công chức có trình độ thạc sĩ. Lý do công chức cấp xã có trình độ thạc sĩ giảm
dần từ năm 2020 đến năm 2022 là do công chức có trình độ năng lực chuyên
môn điều làm lãnh đạo quản lý ở cấp xã và cấp phòng của thành phố.
Nhìn chung, số cán bộ cấp xã chưa qua đào tạo cao hơn rất nhiều so với
công chức. Bên cạnh đó số công chức cấp xã được đào tạo ở bậc cao như cao
đẳng, đại học lại lớn hơn rất nhiều so với các cán bộ cấp xã. Trình độ chuyên
môn của CBCC cấp xã thành phố Gia Nghĩa, vẫn còn ở mức trung bình so với
mặt bằng chung của tỉnh Đăk Nông và theo quy định chức danh cán bộ, công
chức. Đặc biệt là số lượng; cán bộ năm 2020 còn có 02 người chưa qua đào
tạo, đây là thách thức lớn cho việc vận hành bộ máy nhà nước ở cấp cơ sở
nhất là việc cải cách hành chính nền công vụ hiện nay. Trong thời gian sắp tới
Thành ủy cần tăng cường lãnh đạo chỉ đạo, có nhiều Nghị quyết chuyên đề về
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
nói chung và cấp xã nói riêng. Đặc biệt là sự thiếu hụt nguồn cán bộ cho Đại
hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 – 2030 và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân nhiệm kỳ 2026-2031.
c) Đào tạo về lý luận chính trị:
51
Bảng 2.3: Trình độ lý luận chính trị
Năm 2021
Đối tượng
Trình độ lý luận chính trị
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Năm 2020 Số lượng (người)
Số lượng (người)
Năm 2022 Số lượng (người)
Cán bộ 68 65 65
18 18
Chưa qua đào tạo Sơ cấp Trung cấp Cao cấp Chưa qua đào tạo Sơ cấp 81,25 17,5 3,1 17,5 11 30 79,1 20,9 13,2 36,1 78,3 21,7 19,2 38,5 14 5 28 15 30
Công chức Trung cấp 78,1 42 44,5 43,6 125 34
Cao cấp 2,5 2 0
(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Gia Nghĩa)
Nhận xét: Đối với cán bộ cấp xã: Qua bảng 2.3 trên, thống kê chúng ta
thấy trình độ lý luận chính trị của cán bộ cấp xã trên địa bàn thành phố Gia
Nghĩa, tỉnh Đăk Nông, nhìn chung nằm ở mức trung bình, chủ yếu đã tốt
nghiệp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, không có cán bộ chưa đào tạo
qua các năm. Năm 2020 có 65 cán bộ có lý luận chính trị trung cấp, chiến
78,3%, có 18 cán bộ có lý luận chính trị cao cấp chiếm tỷ lệ 21.7 % đến năm
2022 có 68 người có lý luận chính trị trung cấp chiến 79,1%; theo bảng 2.3
thống kê không có cán bộ cấp xã có trình độ cử nhân lý luận. So với thành
phố còn nhiều khó khăn thì tỷ lệ cán bộ có trình độ Trung cấp lý luận năm
2021 chiếm 81,25% là thuận lợi rất lớn. Bởi cán bộ cấp cơ sở là cầu nối,
tuyên truyền các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước với nhân dân; đồng thời họ đại điện cho quần chúng nhân dân tham
gia xây dựng, đóng góp vào các đường lối, chủ trương của đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước. Trong hơn 18 năm thành lập thị xã Gia Nghĩa (nay là
thành phố Gia Ngĩa), đã gần 04 năm thành lập thành phố với đội ngũ cán bộ
được trang bị về lý luận chính trị giúp cho họ có lập trường, tư tưởng kiên
52
định, vững vàng tham gia lãnh đạo hệ thống chính trị tại địa phương trên địa
bàn thành phố Gia Nghĩa vững về chính trị, ổn định về trật tự an toàn xã hội.
Làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhất là “tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Mục tiêu cuối cùng là làm mất vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đối với công chức cấp xã: Công chức cấp xã của thành phố Gia Nghĩa,
tỉnh Đăk Nông có trình độ lý luận chính trị còn thấp, tỷ lệ chưa qua đào tạo
năm 2020 là 15 người chiếm 19,2% qua các năm có giảm. Năm 2022 trước
thực trạng trên Thành ủy đã cho chủ trương mở lớp sơ cấp chính trị cho công
chức cấp xã theo đề án 124 của Bộ Nội vụ với tổng số 43 công chức cấp thành
phố, cấp xã tham gia sơ cấp lý luận, (trong đó cấp xã có 2 người tham gia).
Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay với số lượng công chức chưa dược trang
bị về lý luận chính trị từ trung cấp trở lên là rất khó khăn trong việc rèn luyện
ý thức trách nhiệm thực thi công vụ. Đồng thời còn là lỗ hổng lớn trong khâu
bố trí cán bộ kế cận tại các kỳ Đại hội nhất là nhân sự cho đại hội các cấp
nhiệm kỳ 2020 - 2025, nhân sự bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021 - 2026, vì thiếu tiêu chí về lý luận chính trị.
d) Đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước
Bảng 2.4: Trình độ quản lý nhà nước
Trình độ quản lý nhà nước
Năm 2020 Tỷ lệ (%) 9,9 84,5 Số lượng (Người) 16 136 Năm 2021 Tỷ lệ (%) 8,75 83,6 Số lượng (Người) 14 134 Năm 2022 Tỷ lệ (%) 5,9 87 Số lượng (Người) 10 147
9 5,6 12 7,5 12 7,1
Chưa qua đào tạo Chuyên viên Chuyên viên chính Tổng số 161 169
160 (Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Gia Nghĩa)
Nhận xét: Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước trên địa
bàn thành phố Gia Nghĩa từ 2020 đến năm 2022 đạt thấp. Cụ thể năm 2020,
53
chuyên viên đặt 84,5%, chuyên viên chính chỉ đạt 5,6% trong tổng số cán bộ,
công chức chưa qua đào tạo về quản lý nhà nước là 16 người chiến 9,9%, đây
là hạn chế lớn cho đội ngũ cán bộ, công chức bởi đội ngũ này thường xuyên
giải quyết công việc hành chính và quản lý nhà nước ở cấp cơ sở.
Trước tình hình hiện nay dự kiến cuối năm 2022 UBND thành phố sẽ
mở 01 lớp theo đề án 124 của Bộ Nội vụ gồm 45 học viên về đào tạo lớp
chuyên viên dành cho công chức cấp huyện, cấp xã (trong đó, cấp xã có 4
người tham gia).
Tuy nhiên trước tình hình hội nhập, xây dựng chính phủ điện tử, Chính
phủ số, vấn đề cải cách thủ tục hành chính như hiện nay thì yêu cầu về đào
tạo, bồi dưỡng chương trình quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức cấp xã
là rất cần thiết. Vừa đảm bảo các tiêu chí theo yêu cầu công tác cán bộ, vừa
trang bị kiến thức để giúp bộ máy chính quyền ở cấp cơ sở hoạt động hiệu
lực, hiệu quả đồng bộ.
e) Đào tạo, bồi dưỡng về tin học, ngoại ngữ
Bảng 2.5. Trình độ tin học, ngoại ngữ
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022
Trình độ
Số lượng (Người) Số lượng (Người) Số lượng (Người) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
Tin học 161 100 160 100 163 96,4
Ngoại ngữ 155 96,3 154 96,25 154 91,1
Tổng 161 160 169
(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Gia nghĩa)
Nhận xét: Để đáp ứng nhu cầu phát triển của một nền hành chính hiện
nay, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ngoài việc cần trang bị kiến thức và kĩ
năng, chuyên ngành đào tạo còn cần có trình độ về ngoại ngữ, tin học. Qua
54
bảng 2.5 thống kê, chúng ta thấy đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa
bàn thành phố Gia Nghĩa có chứng chỉ trình độ tin học và ngoại ngữ chiếm tỷ
lệ cao. Tuy nhiên qua các đoàn kiểm tra của thành phố và tỉnh xuống các xã
cho thấy năng lực thực sự về sử dụng công nghệ thông tin của cán bộ công
chức còn yếu; các chứng chỉ là hình thức trong khâu tuyển dụng công chức
còn khả năng áp dụng vào công việc chưa hiệu quả. Tại Nghị quyết số 26 -
NQ/TW, ngày 19/ 5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ thì định hướng tương lai cần có đủ khả
năng làm việc trong môi trường quốc tế. Do vậy đội ngũ cán bộ công chức
cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về tin
học và ngoại ngữ để đáp ứng nhu cầu công việc trong tình hình mới.
f) Bồi dưỡng các kiến thức pháp luật
Trong thời gian từ 2020 - 2022 đã phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có
chức năng đào tạo, bồi dưỡng như: Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thành phố
và các cơ quan, tổ chức đoàn thể khác mở các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên
ngành để phát triển kinh tế - xã hội cho cán bộ, công chức cấp xã:
- 4 lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành cho hơn 280 lượt người
(trong đó có các lĩnh vực xây dựng, Tư pháp - Hộ tịch, Tài chính - kế hoạch
và đầu tư, Văn thư - Lưu trữ, Tôn gíáo, Dân vận, An ninh … ở cấp xã);
- 5 lớp khuyến nông, khuyến lâm cho CBCC cấp xã, các hội viên hội
nông dân các thôn, bon, tổ dân phố với 351 người;
- 03 lớp bồi dưỡng trật tự an toàn xã hội cho trưởng, phó trưởng công
an, Công an viên của 8 xã với 300 người;
- 03 lớp bồi dưỡng an ninh quốc phòng cho cán bộ, công chức cấp xã
với 150 người;
- 01 lớp bồi dưỡng cho chủ tịch, phó chủ tịch, hội viên hội phụ nữ các
55
xã với 150 người;
Căn cứ vào Quyết định số 458/QĐ-BTP ngày 28/3/2022 của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp ban hành 03 Kế hoạch thực hiện các Đề án về phổ biến, giáo dục
pháp luật; hoà giải ở cơ sở hàng năm, Kế hoạch của UBND tỉnh, Phòng Tư
pháp thành phố là cơ quan thường trực trực tiếp chủ trì triển khai thực hiện
các đề án hòa giải ở cơ sở trên địa thành phố Gia Nghĩa. Theo nguồn tài liệu
do Phòng Tư pháp thành phố cung cấp qua 03 năm thực hiện (2020-2022) đề
án đã đạt kết quả như sau:
* Năm 2020,
- 4 lớp tập huấn cho các bộ, công chức, viên chức về phòng, chống dịch
Covid-19 trên địa bàn thành phố với hơn 200 lượt người tham gia;
- Trước tình hình bùng nổ dịch Covid-19 phức tạp trên cả nước nói
chung, trên địa bàn thành phố gia nghĩa nói riêng; trong tổ chức các lớp bồi
dưỡng các kiến thức pháp luật về đào tạo bồi dưỡng thành phố không thực
hiện tổ chức lớp nào.
* Năm 2021:
- Tập huấn 01 lớp cho 45 cán bộ các xã về đề án hòa giải ở cơ sở trên
địa thành phố Gia Nghĩa.
* Năm 2022:
- Mở được 03 lớp tập huấn cho Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch, Chủ tịch
Mặt trận Tổ quốc, công chức tư pháp, văn phòng thống kê, tài chính kế toán,
địa chính, văn hóa xã hội, Trưởng, phó Công an, Chỉ huy trưởng, phó chỉ huy
trưởng Quân sự các xã và các tổ hòa giải viên ở thôn, bon, tổ dân phố… với
với hơn 968 lượt người tham gia. Nội dung của các lớp tập huấn gồm: Những
nội dung cơ bản về tổ chức và hoạt động của HĐND, UBND và Tư pháp cấp
xã; Nghiệp vụ đăng ký và quản lý hộ tịch ở cấp xã; Những nội dung cơ bản về
công chứng, chứng thực; Nghiệp vụ về công tác thi hành án dân sự; Một số
56
vấn đề về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; cải cách hành chính; tiếp
dân; giải quyết khiếu nại tố cáo; xử lý vi phạm hành chính tại UBND cấp xã;
Nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật; một số vấn đề về trợ giúp pháp lý;
xây dựng hương ước và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Luật giao
thông đường bộ; Luật phòng chống bạo lực gia đình; Pháp lệnh hòa giải ở cơ
sở; Luật bồi thường của Nhà nước….
2.1.3. Về thâm niên công tác của CBCC cấp xã
Bảng 2.6. Thâm niên công tác CBCC cấp xã giai đoạn 2020 - 2022
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022
Thâm niên công tác
Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Số lượng (người) Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Số lượng (người)
Dưới 5 năm 20 12,4 13 8,1 19 11,2
Từ 5- 10 năm 83 51,6 73 45,6 60 35,5
Từ 10 đến dưới 30 năm 52 32,3 66 41,3 64 37,9
Từ 30 năm trở lên 6 3,7 13 8,1 26 15,4
(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Gia Nghĩa)
Nhận xét: Theo bảng 2.6 thống kê về thâm niên công tác của cán bộ,
công chức cấp xã thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông, ta thấy số cán bộ,
công chức cấp xã có thâm niên công tác từ 5 -10 năm 2020 chiếm tỷ lệ cao
nhất với 12,4%. Bởi trong thành phố Gia Nghĩa khi đó mới thành lập được
hơn 17 năm nên đa phần cán bộ, công chức đều rất trẻ. Tuy nhiên sau ba năm
2020 đến năm 2022 thì số cán bộ, công chức có thâm niên từ 10 đến dưới 30
lại chiếm ưu thế đó là 37,9%; số cán bộ, công chức có thâm niên công tác từ
30 năm trở lên tỷ lệ thấp 15,4%. Số thâm niên công tác trung bình của cán bộ,
công chức thành phố Gia Nghĩa nằm trung bình khoảng 10 đến 15 năm là chủ
yếu. Như vậy với thâm niên công tác trên họ là những cán bộ, công chức trẻ
57
năng động, nhiệt tình trong công việc. Tuy nhiên về kinh nghiệm xử lý những
tình huống khó, phức tạp thì còn lúng túng, bị động.
2.2. Đánh giá thực hiện các quy định của pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
2.2.1. Kết quả đạt được
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ, UBND thành phố trong giai
đoạn 2020 - 2022, đứng trước những thách thức lớn cả nước chung tay phòng,
chống dịch bệnh Covid-19, thành phố Gia Nghĩa đã nổ lực thực hiện tốt các
quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của
thành phố Gia Nghĩa các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành để góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương
cho cán bộ, công chức cấp xã được 15 lớp tập huấn với sự tham gia 1.081 lượt
người; thực hiện các Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật; hoà giải ở cơ sở
hàng năm được 8 lớp với 1213 lượt người tham gia.
Nếu như chỉ dừng lại ở việc đào tạo CBCC cấp xã để làm cho họ "trở
thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" mà không tiếp tục
bồi dưỡng cho họ để "tăng thêm năng lực" thì những gì mà họ hu được trong
quá trình đào tạo mất dần đi. Đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo các kiến thức
pháp luật, vì hiện nay Việt Nam đang trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
các văn bản quy phạm pháp luật liên tục được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
để tạo ra hành lang pháp lý vững chắc phù hợp với quá trình hội nhập. Nhận
thức rõ điều này nên song song với việc đào tạo kiến thức pháp luật, Đảng bộ,
chính quyền thành phố Gia Nghĩa cũng hết sức quan tâm tới công tác bồi
dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã.
Nhìn chung, các lớp tập huấn do Phòng Tư pháp tổ chức đã thu hút
tương đối đầy đủ các chức danh CBCC cấp xã, đáp ứng được nhu cầu tìm
hiểu, bổ sung kiến thức pháp luật mới trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước ở
58
cấp xã góp phần tạo được sự chuyển biến về nhận thức của chính quyền và
cán bộ địa phương. Thông qua các chương trình này, CBCC cấp xã thành phố
Gia Nghĩa ngoài việc được trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản về
chuyên môn, nghiệp vụ cho từng chức danh thì còn được cung cấp những kiến
thức pháp luật cần thiết cho mỗi công việc cụ thể của họ. Với sự quan tâm
đúng mức của Thành uỷ, UBND thành phó, công tác bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho CBCC cấp xã đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận góp
phần nâng cao kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã. Đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - văn hoá của thành phố nhà.
2.2.2. Những tồn tại hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông vẫn
còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới, cụ thể:
- Một số cấp ủy chưa triển khai kịp thời các Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức từ công tác quy hoạch để cử cán bộ, công chức đi đào tạo bồi
dưỡng đúng đối tượng. Khi thực hiện kế hoạch chiêu sinh, một số đơn vị vẫn
còn tình trạng cử cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng chưa đúng, thành
phần, đối tượng với chức danh cán bộ hoặc công chức.
- Trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức ở các cấp, một số lớp, khóa học mở ra còn có sự trùng lắp,
chồng chéo về đối tượng giữa các cơ quan, ban, ngành gây lãng phí thời gian
và kinh phí, đồng thời tạo nên tâm lý nhàm chán, thiếu hứng thú học tập cho
học viên. Vẫn còn tình trạng kế hoạch xây dựng chưa đánh giá được nhu cầu,
nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và thực trạng năng lực, trình độ của đội ngũ cán
bộ, công chức; chưa quan tâm đào tạo, bồi dưỡng công chức có trình độ, năng
lực cao trong những lĩnh vực trọng điểm của từng xã.
59
- Chương trình bồi dưỡng do Ban Tuyên giáo tỉnh ủy hướng dẫn hàng
năm còn chậm, nội dung bồi dưỡng nhiều chương trình chậm đổi mới
(chương trình bồi dưỡng cho khối đoàn thể); Nội dung còn nặng về lý luận,
bác học gây nhàm chán cho đội ngũ cán bộ tham gia bồi dưỡng đặc biệt là cán
bộ người dân tộc thiểu số.
- Nội dung bồi dưỡng một số cơ quan tham mưu xây dựng kế hoạch
một cách chủ động làm gấp rút về thời gian nên khiến cho các cơ sở đào tạo
còn bị động, lúng túng và không nhất quán trong triển khai thực hiện kế
hoạch. Đặc biệt, phần bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ và xử lý tình huống thực
hiện cho cán bộ, công chức tại các xã chưa quan tâm đúng mức, còn thiếu hụt
những nội dung cập nhật thông tin, kiến thức về pháp luật, tình hình chính trị,
kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế.
- Hình thức đào tạo, bồi dưỡng; công tác quản lý đào tạo; đội ngũ giảng
viên, báo cáo viên chưa theo kịp quá trình đổi mới của cải cách thể chế; Cải
cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải
cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính công và xây dựng, phát triển Chính
phủ điện tử, chính phủ nên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật hiệu quả
thấp. Hình thức đối thoại trực tiếp, trao đổi ít được áp dụng. Hình thức nghiên
cứu, trao đổi, học tập kinh nghiệm thực tế thường nghiêng về tham quan, ít
mang lại hiệu quả thiết thực. Hình thức đào tạo lại cũng chưa được quan tâm
đúng mức, tạo nên tình trạng thiếu hụt về tri thức, đặc biệt là tri thức về kinh
tế thị trường, về tiến bộ khoa học công nghệ, các kiến thức về toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế đối với cán bộ, công chức.
- Một số giảng viên, báo cáo viên còn hạn chế về phương pháp sư
phạm, kỹ năng chuyên môn, kiến thức thực tiễn, tri thức khoa học mới nên
chất lượng giảng dạy còn thấp, chưa lôi cuốn, thu hút, kích thích học viên
tham gia học tập. Nhiều tổ chức đoàn thể khi mở lớp chỉ chú trọng tới số
60
lượng học viên để báo cáo lên cấp trên, chưa quan tâm đến mục đích, chất
lượng học tập, chưa bám sát tình hình thực tế, gây nhiều khó khăn cho các xã
trong bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức đi bồi dưỡng.
- Định mức sử dụng kinh phí mang, nặng tính bình quân trên một học
viên, mà chưa chú trọng tới tính chất phức tạp của từng đối tượng, nội dung,
hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác nhau đòi hỏi chi phí khác nhau.
2.2.3. Nhận xét chung về công tác đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức
pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
Trong thời gian qua cùng với chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước đặc biệt là Quyết định số 163/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai
đoạn 2016 - 2025; tỉnh Đắk Nông đã thường xuyên quan tâm tới công tác đào
tạo, bồi dưỡng CBCC bằng những hoạt động cụ thể như hàng năm đã ban
hành Quyết định về việc quy định chế độ trợ cấp đối với CBCC, viên chức
được cử đi đào tạo, bồi dưỡng trong đó có CBCC cấp xã. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng CBCC cấp xã của thành phố Gia Nghĩa đã được mở rộng về quy
mô, đa dạng về hình thức, việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng có nề nếp, gắn đào tạo, bồi dưỡng với nhu cầu sử dụng, đảm
bảo cho CBCC thường xuyên được cập nhật kiến thức, kỹ năng thực hiện
công vụ và tổ chức điều hành. Các lớp đào tạo, bồi dưỡng được tổ chức khoa
học, hợp lý thiết thực, bám sát thực tế, đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng dạy
và học. Do làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật của CBCC cấp xã ngày càng được
nâng lên, bộ máy chính quyền cấp xã hoạt động ngày càng hiệu quả, thúc đẩy
cải cách hành chính, góp phần quan trọng trong việc quản lý, đẩy mạnh phát
triển kinh tế - văn hoá, xã hội đảm bảo an ninh quốc phòng ở địa phương.
Mặc dù hoạt động đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho CBCC cấp
61
xã đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhưng bên cạnh đó vẫn còn có
những điểm hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục. Cụ thể:
Thứ nhất: Về xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã Hầu hết các cơ quan, các
ngành, các cấp đã làm tốt từ khâu điều tra khảo sát thực tế đến tổng hợp đánh
giá để làm căn cứ xây dựng kế hoạch, đã thiết lập được cơ chế quản lý đồng
bộ, chặt chẽ từ tỉnh đến huyện và cơ sở, tạo được mối quan hệ giữa cơ quan
quản lý nhà nước vềđào tạo, bồi dưỡng với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng để
vừa tập trung đầu mối thống nhất quản lý vừa tạo mối quan hệ phối hợp cộng
đồng trách nhiệm, phát huy nội lực và tính năng động, sáng tạo của mỗi cấp,
mỗi ngành. Tuy nhiên việc xây dựng kế hoạch công tác đào tạo, bồi dưỡng ở
một số đơn vị còn bị động, lúng túng, chưa sát với thực tế, chưa gắn kết công
tác đào tạo, bồi dưỡng với với bố trí công việc sau đào tạo, bồi dưỡng.
Thứ hai: Về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng.
Như trên đã đề cập, ngoài một số ít CBCC cấp xã được đào tạo chuyên
ngành Luật ở các bậc đào tạo, còn lại CBCC cấp xã được tiếp nhận kiến thức
pháp luật được lồng ghép trong chương trình đào tạo của các chuyên ngành
khác và chủ yếu thông qua các lớp bồi dưỡng. Trong thời gian vừa qua, nội
dung kiến thức pháp luật trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng đã có nhiều
sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các văn bản quy phạm pháp luật và
gắn nội dung đào tạo, bồi dưỡng với thực tiễn quản lý nhà nước ở cơ sở, góp
phần nâng cao chất lượng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã.
Tuy nhiên, các cơ sở đào tạo vẫn áp dụng chương trình chung thống
nhất trong toàn quốc hoặc chương trình chung của tỉnh mà chưa mang tính
đặc thù phù hợp với từng vùng, miền khác nhau hay đối tượng khác nhau.
Nội dung kiến thức pháp luật được lồng ghép trong các chương trình
đào tạo, bồi dưỡng còn quá ít, chủ yếu mang tính lý luận, thời gian dành cho
62
phần xử lý bài tập tình huống ít, trong khi đây lại là phần rất cần thiết đối với
CBCC cấp xã. Qua khảo sát đối với một số CBCC cấp xã trên địa bàn thành
phố, cho kết quả như sau:
- Về thời gian học phần kiến thức pháp luật của các lớp đào tạo, bồi
dưỡng có người cho rằng thời gian học quá dài chiếm 4,1%; người cho rằng
thời gian học phần kiến thức pháp luật là vừa phải chiếm 38%; người cho
rằng thời gian học quá ít chiếm 57,9%.
- Về nội dung phần kiến thức pháp luật cho mỗi một khoá học của các
lớp đào tạo, bồi dưỡng có người cho rằng nội dung học là quá ít chiếm 4,1%;
người cho rằng nội dung học là vừa đủ chiếm 27,2%; người cho rằng nội
dung học là quá ít chiếm 68,7%
- Có người cho rằng nội dung kiến thức pháp luật được giảng dạy đã
kịp thời cập nhật nội dung của những văn bản quy phạm pháp luật mới và
thiết thực cho công việc của CBCC cấp xã chiếm 67,7%; người cho rằng nội
dung kiến thức pháp luật chưa kịp thời cập nhật những văn bản quy phạm
pháp luật mới và không thiết thực cho công việc của CBCC cấp xã chiếm
32,3%.
Nhìn chung, qua kết quả khảo sát, kiến thức pháp luật trong chương
trình đào tạo, bồi dưỡng cơ bản đã cập nhật được nội dung mới của các văn
bản pháp luật, bổ sung kịp thời lượng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã,
đã có phần xử lý bài tập tình huống qua đó rèn luyện kỹ năng xử lý tình
huống, phục vụ thiết thực cho công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở
cơ sở. Nhưng vẫn có đến 57,9% cho rằng thời gian học là quá ít và 68,7% cho
rằng lượng kiến thức vẫn còn quá ít so với yêu cầu thực tế. Vì vậy cần phải bổ
sung thêm cả về thời gian và lượng kiến thức pháp luật vào chương trình của
các lớp đào tạo, bồi dưỡng dành cho CBCC cấp xã.
Thứ ba: Về phương pháp đào tạo. Hiện nay phương pháp đào tạo, bồi
63
dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã trên địa bàn thành phố Gia
Nghĩa đã có nhiều đổi mới, phương pháp tình huống, tích cực đã được sử
dụng trong quá trình giảng dạy. Nhưng chủ yếu chỉ được áp dụng ở một số
lớp đào tạo chính quy còn lại đa số các lớp đào tạo không chính quy và các
lớp bồi dưỡng chủ yếu vẫn áp dụng phương pháp truyền thống, một chiều.
Điều đó xuất phát từ một số lý do sau đây:
- Do cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy không đáp ứng được yêu cầu
thực tế, thiết bị phục vụ cho giảng dạy không đầy đủ. Đây là một khó khăn
làm hạn chế khả năng áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực của giảng
viên. Bởi trong trong quá trình giảng dạyđể thực hiện được những phương
pháp này đòi hỏi phải có công cụ hỗ trợ như: máy tính, máy chiếu, mạng
intenet…
- Số lượng học viên tại các lớp đào tạo, bồi dưỡng là khá đông (70-
120 người), đối tượng học viên mang tính đặc thù nên việc tiếp nhận những
phương pháp giảng dạy mới nhiều còn hạn chế, hơn nữa một bộ phận học
viên còn chưa tự giác, tích cực trong học tập. Đây là nguyên nhân rất lớn cản
trở việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã.
- Do một bộ phận giảng viên chưa có nghiệp vụ sư phạm lại không
được thường xuyên bồi dưỡng để nâng cao kỹ năng về sư phạm, do đó không
thực hiện được hoặc thực hiện không tốt các phương pháp tích cực trong
giảng dạy pháp luật. Từ đó dẫn đến hiệu quả trong đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức pháp luật cho CBCC cấp xã không cao.
Thứ tư: Về hình thức đào tạo
Để đáp ứng yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho
CBCC cấp xã, thành phố Gia Nghĩa đã mở rộng các loại hình đào tạo theo
quy định của pháp luật như đào tạo tập trung, bán tập trung, vừa học vừa làm
64
và từ xa. Còn đối với bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã cũng
được thực hiện dưới nhiều hình thức như: mở các lớp bồi dưỡng, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Với việc đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng đã tạo điều kiện
rất thuận lợi cho CBCC cấp xã có thể học tập nâng cao trình độ về chuyên
môn, nghiệp vụ cũng như kiến thức pháp luật của mình để phục vụ cho hoạt
động quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương. Với những quy định đối
với người dưới 35 tuổi phải tham gia học các lớp tập trung để được đào tạo
một cách chính quy, bài bản đảm bảo chất lượng cũng như tính bền vững
trong hoạt động của chính quyền cấp xã. Với những người trên 35 tuổi họ có
thể theo học ở các lớp vừa học vừa làm một mặt để đảm bảo hoạt động
thường xuyên, liên tục của chính quyền cấp xã mặt khác họ vẫn có thể học tập
để bổ sung thêm những kiến thức cần thiết phục vụ cho công việc của mình
và đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ CBCC trong giai đoạn hiện nay. Tuy
nhiên trong thực tế với những hình thức đào tạo không tập trung được các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp trong và n goài tỉnh mở một cách ồ ạt đã
bộc lộ rất nhiều hạn chế như: chất lượng đào tạo không cao, thời gian kéo dài,
nội dung kiến thức không tập trung do phụ thuộc vào lịch giảng dạy của giảng
viên… điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ CBCC cấp
xã.
2.2.4. Nguyên nhân
- Nguyên nhân của kết quả: Cấp ủy, chính quyền địa phương rất quan
tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trên địa bàn thành
phố. Đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về hoạt động nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của địa phương nhằm thực hiện tốt xu thế hội nhập và xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cụ thể hóa các chương trình
hành động của Thị ủy Gia Nghĩa về phát triển nguồn nhân lực; Quvết định
65
của UBND thành phố Gia Nghĩa về việc ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, giai đoạn
2014 - 2021 và các văn bản chỉ đạo khác đã tác động mạnh mẽ đến công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố. Mặc dù
còn nhiều khó khăn nhưng hàng năm UBND thành phố đã bố trí kinh phí đào
tạo, bồi dưỡng cho các cơ sở tham gia hoạt động mở lớp trên địa bàn thành
phố. Đội ngũ cán bộ, công cức đã khắc phục khó khăn thử thách, đa số có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí tiến thủ, luôn chủ động trong công tác,
không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn; trình độ lý luận chính trị
và các kỹ năng khác, do đó sau mỗi năm số lượng đạt chuẩn về các tiêu chí
này ngày càng cao.
Tinh thần chủ động, trách nhiệm công tác của các bộ phận tham mưu
như Ban Tổ chức Thành ủy, Phòng Nội vụ, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị
thành phố trong việc đề ra chương trình, tổ chức thực hiện kế hoạch về đào
tạo, bồi dưỡng. Đội ngũ giảng viên kiêm chức, giảng viên chuyên trách, báo
cáo viên nhiệt tình có trình độ lý luận và am hiểu thực tiễn đã góp phần vào
kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong những năm vừa
qua.
- Nguyên nhân của những hạn chế: Số lượng cán bộ, công chức xuất
phát điểm về trình độ văn hóa, chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà
nước thấp nên nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng lớn. Trong khi nguồn kinh phí đào
tạo, bồi dưỡng hạn chế. Hơn nữa, cán bộ, công chức cấp xã có sự biến động
thường xuyên. Mặc dù đã được xác định theo vị trí việc làm. Công chức
chuyên môn xác định là làm việc ổn định nhưng trên thực tế qua mỗi nhiệm
kỳ đều điều động, luân chuyển sang đảm nhiệm những chức danh cán bộ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã chậm được đổi mới về
nội dung và hình thức. Chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
66
công chức còn mang tính hình thức, chưa làm rõ mục đích, đối tượng được
đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch, sử dụng cán bộ, công chức trong giai đoạn
kế cận sau đào tạo. Nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ,
công chức cấp xã nhiều cấp ủy, chính quyền các xã chưa quan tâm đúng mức.
Trách nhiệm của học viên trong việc học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn, lý luận chính trị; kiến thức quốc phòng và an ninh; kiến thức, kỹ
năng quản lý nhà nước; kiến thức quản lý chuyên ngành, chuyên môn, nghiệp
vụ; đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; kiến thức hội nhập quốc tế; tiếng
dân tộc, tin học, ngoại ngữ…. còn có tư tưởng tham gia học tập không phải để
hướng tới việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, công việc được giao, mà chủ yếu
là để có bằng cấp, chứng chỉ để đủ điều kiện chuyển ngạch, nâng lương, bổ
nhiệm, hoàn chỉnh hồ sơ cán bộ, công chức. Do đó khi tham gia các lớp học
không thực sự tích cực học tập, nên bằng cấp nhiều nhưng kiến thức, năng lực
thực tế không có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực, tương xứng.
Một số cán cán bộ, công chức là người dân tộc thiếu số đời sống còn
nhiều khó khăn, tâm lý còn e ngại tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng. Bởi
đội ngũ này xuất phát điểm ban đầu thấp thiếu hụt nhiều điều kiện tiêu chuẩn
quy định chức danh cán bộ; trong lúc đó kinh phí hỗ trợ còn hạn chế.
Công tác kiểm soát hiệu quả hoạt động về đào tạo, bồi dưỡng còn nhiều
hạn chế. Mặc dù, đã được cấp ủy, chính quyền địa phương phối hợp với các
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài tỉnh tăng cường công tác kiểm soát
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa,
do chủ quan của một số đối tượng học viên tham gia các khóa học mang hình
thức học cho có bằng cấp, chứng chỉ để đủ điều kiện chuyển ngạch, nâng
lương, bổ nhiệm, hoàn chỉnh hồ sơ. Kết quả đánh giá việc học tập của một số
cán bộ, công chức sau khóa học đạt kết quả hạn chế.
67
Tiểu kết chương 2
Nội dung Chương 2 của luận văn đã khái quát tổng thể về điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng cũng như tình hình đội ngũ CBCC
cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa trong giai đoạn 2020 - 2022. Trong
đó, tập trung phân tích, làm rõ các nội dung trọng tâm: Những ảnh hưởng của
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đến việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã
ở thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông; thực trạng thực hiện quy định pháp
luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã thành phố gia nghĩa như: trình độ
văn hóa, trình độ chuyên môn; về lý luận chính trị; quản lý nhà nước, công tác
thực hiện các quy định hiện hành của pháp luật về daod tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức. Từ cơ sở đó chỉ ra những tồn tại hạn chế cần khắc phục trong
thời gian tới. Đồng thời nêu những nguyên nhân của kết quả và hạn chế của
thực tiễn pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã trên địa bàn thành phố
Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông. Đó là những minh chứng cụ thể để đề giải pháp
hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả pháp luật cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng CBCC của thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông trong những năm tiếp
theo được luận giải trong Chương 3. Nhằm xây dựng nền công vụ chuyên
nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài; thực hiện cơ chế cạnh tranh lành
mạnh, dân chủ, công khai, minh bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển
dụng công chức, để thu hút người thật sự có đức, có tài vào làm việc trong các
cơ quan hành chính nhà nước. Phấn đấu đến năm 2030: 100% cán bộ, công
chức cấp xã có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính
trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy
chính quyền cơ sở đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Đặc biệt là hoàn thiện
những tiêu chuẩn còn thiếu cho CBCC thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông.
68
Chương 3.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Thành phố Gia Nghĩa sau hơn 19 năm thành lập đã có sự phát triển trên
nhiều lĩnh vực từ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng được giữ vững. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng được cấp ủy, chính quyền địa phương đặc biệt quan
tâm. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức
bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính
công và xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, chính phủ để xây dựng nền
công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài, vào làm việc
trong các cơ quan hành chính nhà nước của quá trình công nghiệphóa, hiện
đại hoá đất nước là nội dung mang tính cấp thiết. Để đảm bảo thực hiện đúng
mục tiêu đã đặt ra, trong quá trình thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng các kiến
thức pháp luật cho CBCC cấp xã phải nắm vững và thực hiện đúng các quan
điểm sau đây.
3.1. Mục đích đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho cán
bộ, công chức cấp xã
Đào tạo, bồi kiến các thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã phải
nhận thức sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, nhằm xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng
động và thực tài; thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, dân chủ, công khai,
minh bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng công chức, để thu hút
người thật sự có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà
nước. Công tác nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và mang tầm
chiến lược để phát triển đất nước. Điều này được cụ thể hóa tại Quy định số
69
89-QĐ/TW ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh,
định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Luật
Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật viên chức năm 2008; Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức năm 2019 và Luật Viên chức
năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP
ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức, Nghị định số 89/2021/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức; đã quy định cụ thể nội dung, chương trình, tài liệu và
hình thức bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và
đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý nói riêng; Quyết định số
163/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2025;
Như vậy, trên cơ sở các quan điểm đường lối của Đảng, pháp luật của
nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có nhắc đến nhiều
nội dung cụ thể trong đó đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng
các kiến thức pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã, nhằm đáp ứng yêu cầu
quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố
Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông có trình độ chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị,
tinh thông nghiệp vụ, có đủ năng lực xây dựng hệ thống chính trị, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiên tiến, hiện đại, đáp ứng công cuộc CNH,
HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Cấp ủy, chính quyền địa phương cần thực
hiện chủ trương đó, trong những năm qua côngtác đào tạo, bồi dưỡng CBCC
các xã trên địa bàn tỉnh thành phố Gia Nghĩa đã được Đảng và các cấp chính
quyền quan tâm, trong đó đặc biệt chú ý tới việc nâng cao kiến thức pháp
luật cho CBCC cấp xã. Tuy nhiên để đáp ứng những yêu cầu trong công cuộc
70
đổi mới đất nước, cần phải quan tâm và tăng cường hơn nữa việc nâng cao
kiến thức pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã, đây là yêu cầu trong công tác
đào tạo, bồi dưỡng hiện nay, xuất phát từ một số lý do sau đây:
Thứ nhất: Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, và vì dân. Do bản
chất chế độ chính trị ở nước ta là nền dân chủ nhân dân, mọi quyền lực đều ở
nơi dân. Nhà nước là thiết chế quyền lực nhằm đảm bảo và thực hiện nền
dânchủ đó. Muốn vậy trong hoạt động quản lý xã hộicủa nhà nước ngay từ cơ
sở phải bảo đảm duy trì và thực hiện nghiêm pháp luật - ý chí của nhân dân.
Chính từ đó trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN đó là đảm bảo tính
tối cao của luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước có nhiệm
vụ tuân thủ pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; hành vi của mọi công
dân, tổ chức đều bị chi phối bởi pháp luật. Vì vậy công tác ĐTBD nâng cao
kiến thức pháp luật cho CBCC là một việc làm rất quan trọng và cần thiết, bởi
CBCC là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, gắn liền với vận mệnh của
nhà nước. Thông qua những hoạt động cụ thể của CBCC thì chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước mới được thực hiện trong thực tế. CBCC cấp xã là
người trực tiếp giải quyết theo thẩm quyền các yêu cầu của công dân, lắng
nghe những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, trực tiếp triển khai thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước và đưa những
quy định đó vào thực tiễn cuộc sống tạo ra sự ổn định về mọi mặt kinh tế, văn
hoá - xã hội, hành chính - chính trị, an ninh - quốc phòng; là những "tuyên
truyền viên" pháp luật góp phần nâng cao trình độ dân trí, ý thức pháp luật
của nhân dân tạo điều kiện cho người dân sống và làm việc theo Hiến pháp và
71
pháp luật. Đây là một trong những yêu cầu cơ bản khi xây dựng nhà nước
pháp quyền.
Thứ hai: Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao các kiến thức pháp luật cho cán
bộ, công chức cấp xã do đòi hỏi khách quan của công cuộc đổi mới sau hơn
19 năm đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội thì đổi mới trong công
tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở thành phố Gia Nghĩa thực sự đã có
bước chuyển biến đáng kể. Mọi thành viên trong xã hội đặc biệt là đội ngũ
CBCC cấp xã đã có trình độ hiểu biết nhất định về pháp luật và có thái độ
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Với đặc điểm, vai trò, tính chất công việc
và ý thức pháp luật của CBCC cấp xã đã tác động một cách mạnh mẽ, sâu
rộng đến nhân dân địa phương. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn theo đúng quy định của pháp luật của CBCC cấp xã góp phần vào việc
duy trì kỷ cương phép nhà nước, thực hiện dân chủ hoá xã hội, bảo về quyền
và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nếu CBCC cấp xã có trình độ hiểu biết
pháp luật một cách toàn diện, sâu sắc, có thái độ tôn trong pháp luật, có hành
vi thực hiện pháp luật tích cực thì chất lượng, hiệu quả hoạt động sẽ cao tạo
điều kiện phát triển về kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, đảm bảo
trật tự an toàn xã hội, nâng cao ý thức pháp luật, củng cố các quan hệ xã hội
dựa trên c ơ sở pháp luật. Ngược lại, nếu ý thức pháp luật của CBCC cấp xã
kém, vi phạm pháp luật thì sẽ tác động xấu đến quá trình quản lý nhà nước,
quản lý xã hội ở địa phương dẫn tới không duy trì được trật tự kỷ cương, phép
nước, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy kiến
thức pháp luật phải được coi là một nội dung quan trọng trong các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng. Khi thực hiện tốt nội dung này sẽ xây dựng được
một đội ngũ CBCC cấp xã hiểu biết pháp luật một cách sâu sắc, từ đó đưa
pháp luật đến với nhân dân góp phần xây dựng Thanh Hoá trở thành một tỉnh
phát triển về kinh tế, ổn định về chính trị - xã hội.
72
Thứ ba: Xuất phát từ trình độ nhận thức pháp luật của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã. Theo số liệu thống kê của Phòng Nội vụ thành phố năm
2020 tổng số CBCC cấp xã là 161 người, trong đó cán bộ chuyên trách là 83
người, công chức chuyên môn là 78 người.
Nhìn chung, trong những năm gần đây chất lượng CBCC cấp xã đã
từng bước được nâng lên cả về văn hoá lẫn chuyên môn.
Về trình độ văn hóa, Đối với cán bộ chưa qua đào tạo là 02 người (năm
2020) chiếm tỷ lệ là 2,4% và giảm dần qua các năm đến năm 2021 số cán bộ
chưa qua đào tạo chỉ còn 01 người tương đương với 1,25%. Số cán bộ đã qua
đào tạo trung cấp; cao đẳng và đại học có xu hướng ngày càng tăng qua các
năm 2020 có 67 người chiến 80,7%, năm 2021 có 69 người chiến 86,25% và
Năm 2022 là 78 người chiến tỷ lệ 90,7% và tăng dần qua các năm. Cán bộ cấp
xã có trình độ cao học chiếm tỷ lệ 5,8%. Toàn thành phố năm 2020 có 03
người; năm 2021 có 06 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sỹ, đến năm
2022 có 05 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sỹ. Nhìn chung số lượng cán
bộ cấp xã có trình độ thạc sĩ có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, năm 2021 đến
năm 2022 giảm 01 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sĩ do điều chuyển lên
làm lãnh đạo cấp trên.
Thực tế cho thấy, đa số CBCC cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa
có bản lĩnh chính trị vững vàng; kiên định với đường lối, chủ trương của
Đảng; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của nhà nước. Họ là
những người nhiệt tình trong công tác; biết khắc phục khó khăn trong công
việc; luôn có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, gần gũi với nhân dân, thực
sự vì nhân dân; là những người có lối sống giản dị, trong sáng, không vụ lợi.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận CBCC cấp xã có biểu hiện quan
liêu, của quyền, hách dịch do ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung vẫn còn đọng lại. Một số khác lại không đứng vững trước sự cám dỗ của
73
đồng tiền, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có những hành vi tham
nhũng, vụ lợi, vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, của
tập thể gây mất lòng tin ở nhân dân. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân
trong đó có nguyên nhân do hiểu biết về pháp luật chưa cao, ý thức chấp hành
pháp luật chưa nghiêm. Vì vậy cần phải bổ sung, cập nhật những nội dung
kiến thức pháp luật mới trong các chương trình đào tạo đồng thời xây dựng
chương trình bồi dưỡng kiến thức pháp luật phù hợp cho CBCC cấp xã để
quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Thứ tư: Xuất phát từ yêu cầu, tính chất công việc của mỗi vị trí, chức
danh của cán bộ, công chức cấp xã. Đào tạo, bồi dưỡng là một hoạt động quan
trọng trong công tác quản lý, phát triển nguồn nhân lực của các cơ quan hà
nước, tổ chức nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ CBCC chuyên nghiệp,
thành thạo về chuyên môn. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC
phải dựa trên cơ sở xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của từng vị trí công
tác, năng lực thực hiện công việc để giúp CBCC cấp xã nâng cao năng lực
hoạt động và làm tốt công việc được giao theo đúng chức năng nhiệm vụ mà
pháp luật quy định.
Trong thực tế hiện nay kiến thức pháp luật, kiến thức quản lý nhà nước
được CBCC cấp xã được tích luỹ thông qua việc học tập ở các tr ường chuyên
nghiệp, trường Chính trị, qua các lớp bồi dưỡng theo chức danh và phần lớn
là qua tự học hỏi, qua kinh nghiệm thực tiễn của cá nhân.Vì vậy việc đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức pháp luật một cách có hệ thống cho CBCC cấp xã là yêu
cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Bởi bất cứ một công việc chuyên môn
hay một vị trí công tác nào cũng cần đến những kiến thức pháp luật có liên
quan đế công việc mà CBCC đó đang đảm nhiệm.
Thứ năm: Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế
74
Ngày nay, hội nhập quốc tế đang là xu hướng phát triển chung của các
quốc gia trên thế giới. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, có rất nhiều quan hệ
có yếu tố nước ngoài phát sinh với nhiều chủ thể khác nhau cùng tham gia,
trong đó có chính quyền cấp xã. Trên địa bàn thành phố, do có nhiều dự án
đầu tư, đặc biệt là khu kinh tế công nghệ cao đã thu hút được một lượng vốn
đầu tư tương đối lớn, từ đó kéo theo hàng loạt các quan hệ phát sinh trong quá
trình quản lý nhà nước. Đòi hỏi mỗiCBCC cấp xã không chỉ vững về chuyên
môn nghiệp vụ mà còn phải hiểu biết về pháp luật trong nước và pháp luật
quốc tế để kịp thời giải quyết công việc cũng như các tình huống có thể xảy
ra, hạn chế những xung đột pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích về kinh tế
cho nhà nước, tổ chức và cá nhân đồng thời giữ vững mối quan hệ hợp tác
quốc tế
Nhìn chung, trong thời kỳ đổi mới, đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố
Gia Nghĩa đã có nhiều chuyển biến trong việc thực thi pháp luật; trong quá
trình cải cách hành chính; mở rộng dân chủ ở cơ sở làm cho chất lượng chất
quản lý nhà nước, quản lý xã hội ngày càng được nâng cao. Với những lý do
nêu trên, cần phải tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm
nâng cao kiến thức pháp luật, để xây dựng một đội ngũ CBCC cấp xã không
chỉ kiên định về lập trường chính trị; vững vàng về chuyên môn mà còn hiểu
biết một cách sâu sắc về pháp luật để thực sự là cầu nối giữa nhà nước với
nhân dân và đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Một số chỉ tiêu cụ thể thực hiện pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng CBCC cấp xã giai đoạn 2022 - 2026 định hướng đến năm 2030
Về trình độ văn hóa: 100% CBCC có trình độ tốt nghiệp trung học phổ
thông trở lên.
Về chuyên môn nghiệp vụ: Phấn đấu 95% CBCC cấp xã được đào tạo
75
về chuyên môn nghiệp vụ trình độ đại học; có từ 15 -20% CBCC có trình độ
thạc sĩ.
Về lý luận chính trị: 100% CBCC cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng trình
độ sơ cấp LLCT, trong đó 80 - 90% có trình độ trung cấp chính trị; 20 - 25%
có trình độ cao cấp LLCT.
Về tập huấn quản nhà nước: 100% công chức được tập huấn về nghiệp
vụ quản lý nhà nước.
Về tinh thần thái độ, trách nhiệm đối với công việc: 100% cán bộ, công
chức cấp xã có tinh thần thái độ, trách nhiệm đối với công việc, đây là vấn đề
rất quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần cho đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phát huy tinh thần tự học, tự rèn luyện đối với
đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp. Xây dựng nền công vụ chuyên
nghiệp, trách nhiệm, năng động, thực tài, kỷ cương, liêm chính, sáng tạo đủ
khả năng vận hành, có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, gắn với xây dựng
nền hành chính tiên tiến, xây dựng Chính phủ kiến tạo, đáp ứng yêu cầu phục
vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
3.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và các
chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Đảm bảo cho đội ngũ CBCC cấp xã được trang bị, bổ sung những kiến
thức cần thiết và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạnm trách nhiệm được giao, từng bước đáp ứng được yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Để làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ
CBCC cấp xã cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cụ
thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng
CBCC cấp xã trong đó có nội dung về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật.
cụ thể như:
76
- Chế độ, chính sách đối với người tham gia các khóa dào tạo, bồi
dưỡng
- Trách nhiệm của CBCC cấp xã đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật
- Trách nhiệm và quyền lợi của các đơn vị có chức năng đào tạo, bồi
dưỡng CBCC cấp xã.
Trên cơ sở những văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng
CBCC cấp xã, thành phố Gia Nghĩa cần xây dựng một quy chế riêng về công
tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã trên địa bàn
thành phố cho phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương phải làm tốt các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh việc rà soát, hệ thống hoá, nhất là tập hợp hóa
các quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, nâng cao
chất lượng của pháp luật đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức trong tình hình mới. Trước hết phải tổ chức rà soát, tổng kết, đánh giá
đúng thực trạng đời sống pháp luật, xác định rõ nhu cầu điều chỉnh pháp luật,
trên cơ sở đó hình thành kế hoạch xây dựng và thực hiện pháp luật phù hợp,
tiến tới xây dựng chiến lược pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Coi trọng tổng kết thực tiễn thực thi pháp luật, nâng cao chất lượng xây
dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với những quy định chi tiết, dễ
hiểu, dễ thực hiện. Đồng thời, tổng kết và đánh giá đó bao gồm nhiều nội
dung theo các tiêu chí sau: Mức độ đầy đủ của pháp luật hiện hành về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, xác định rõ những biểu hiện thừa và thiếu pháp
luật để có biện pháp khắc phục. Có thể nói, đội ngũ cán bộ, công chức hiện
nay được đào tạo, bồi dưỡng khá nhiều nhưng hiệu quả chưa cao. Do vậy,
trong các văn bản quy định chi tiết việc thực hiện các quy định của Luật Cán
77
bộ, công chức cần chú ý quy định các lớp bồi dưỡng kỹ năng có tính chất khu
biệt cho từng nhóm công chức sao cho sát với vị trí việc làm của họ. Đồng
thời, Nhà nước cũng xác đinh rõ hơn vị trí việc làm của công chức để có căn
cứ đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Thứ hai, củng cố các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xây dựng pháp
luật để thể chế hóa đúng, kịp thời đường lối chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức trong tình hình mới.
Cần có sự đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
Chính phủ, Bộ Nội vụ và các cơ quan khác, đồng thời tạo đủ những điều kiện
cần thiết cho hoạt động xây dựng pháp luật. Củng cố cơ quan pháp chế ngành,
bảo đảm cho cơ quan này có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ phù hợp,
tham gia tích cực vào quá trình xây dựng hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức của ngành. Cần xây dựng cơ chế thu hút đông đảo
các nhà khoa học, giảng viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
và các cán bộ quản lý đào tạo, bồi dưỡng thực tiễn tham gia vào quá trình xây
dựng pháp luật. Ngoài ra cần mở rộng dân chủ trong quá trình xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức để mọi tầng lớp nhân
dân có thể tham gia tích cực và có chất lượng trong việc đóng góp ý kiến vào
nội dung các bản dự thảo. Có chính sách đãi ngộ, động viên khuyến khích đối
với cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật. Nhà nước cần có chính sách
chăm lo điều kiện làm việc, lợi ích vật chất và tinh thần cho những người làm
công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quy trình, nội
dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho từng
nhóm, loại cán bộ, công chức. Đây là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao
78
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay. Trên cơ sở xác
định nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phù hợp với từng nhóm
công chức để từ đó xác định hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công
chức phù hợp với nội dung là giải pháp quan trọng mang tính đột phá.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến quản lý
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, có biện pháp khuyến khích
công chức tự đào tạo: Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
là một công việc quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Do vậy, hoàn thiện các quy định pháp luật về quản
lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức để việc cử người đi đào tạo
được đúng với quy định, việc đào tạo và sử dụng cán bộ, công chức sau đào
tạo, bồi dưỡng có hiệu quả.
Thứ năm, củng cố, hoàn thiện các điều kiện thực tế bảo đảm thực hiện
có hiệu quả các quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức. Nhà nước ta cần đầu tư về vật chất và con người cho công tác tổ chức
thi hành pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Điều này đã được
Đảng ta nhấn mạnh là “đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức
thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa”[2]. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhất là những người làm công tác nghiên
cứu lý luận pháp lý, những người trực tiếp giảng dạy, đào tạo... Sự đầu tư
không chỉ đòi hỏi về vật chất mà cả thời gian, công sức, trí tuệ và con người
cho các hoạt động nói trên. Ngoài ra còn phải đầu tư cho các hoạt động xã hội
khác để tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi bảo đảm pháp luật về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã đạt hiệu quả cao.
Thứ sáu, tổ chức sắp xếp lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức; có thể nói, hiện nay trừ các trường của Đảng có nguồn học viên dồi dào,
79
còn lại các trường khác đều không đào tạo, bồi dưỡng hết công suất (khả
năng) của mình và như vậy lãng phí về đội ngũ cán bộ quản lý và giảng dạy,
lãng phí về cơ sở vật chất; để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực về nhân lực
và vật chất đang có các cơ sở đào tạo này buộc phải mở rộng các chuyên
ngành đào tạo sang những lĩnh vực không đúng với sứ mạng (chức năng,
nhiệm vụ) của cơ sở mình khi được thành lập; việc đào tạo như vậy không
những không đúng với chức năng, nhiệm vụ của các trường mà chắc chắn
chất lượng đào tạo sẽ không cao vì không đúng sở trường của các cơ sở nêu
trên.
Do vậy, cần quy hoạch lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức theo hướng tổ chức lại thành ba nhóm: (i) Hệ thống các
trường của Đảng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đảng; (ii) Hệ thống các trường
đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức nhà nước; (iii) Hệ thống các trường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hội cho các tổ chức chính trị xã hội còn lại.
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức cần có sự
phối hợp chặt chẽ với nhau về chương trình đào tạo, về việc sử dụng đội ngũ
giảng viên để có thể công nhận, kế thừa những nội dung đã được đào tạo ở
các cơ sở khác; tất cả các cơ sở đều phải chuyển sang đào tạo theo tín chỉ, học
viên học xong môn học nào thì tổ chức thi, đánh giá và cấp chứng chỉ đã học
đạt yêu cầu môn học đó. Sau này nếu có phải đào tạo, bồi dưỡng theo chương
trình khác thì những môn học nào, những bộ phận kiến thức nào đã được tích
lũy đủ thì sẽ không phải học lại, tiết kiệm cho cán bộ, công chức, viên chức
lãnh đạo và quản thời gian, công sức, tiền của trong việc phải học đi, học lại
những môn học, những bộ phận kiến thức trùng lặp.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng công chức. Cần sửa đổi Chương IV (Giảng viên) Nghị định số
101/2017/NĐ- CP theo hướng bổ sung quy định về sự luân chuyển giảng viên
80
giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Sự luân chuyển giảng viên như vậy vừa
giúp cho giảng viên có điều kiện nâng cao trình độ lý luận khi làm việc tại cơ
sở đào tạo (khi giảng dạy tại cơ sở giảng viên có thể vừa giảng dạy vừa tham
gia nghiên cứu khoa học hoặc học thêm trình độ cao hơn như thạc sĩ, tiến sĩ),
vừa giúp họ có điều kiện nâng cao tay nghề khi trực tiếp thi hành công vụ tại
các cơ quan, đơn vị.
Thứ tám, tuyển dụng, tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức
đúng với chuyên môn mà họ đã được đào tạo, bồi dưỡng: Các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội chú trọng những người đã được đào tạo, bồi dưỡng
đúng chuyên môn và có chất lượng vào đúng vị trí việc làm; trên cơ sở
nguyên tắc ứng viên để được tuyển chọn, tuyển dụng làm công chức phải
được đào tạo có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với vị trí việc làm
cần tuyển chọn, tuyển dụng.
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Để thực hiện có hiệu quả pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông đặt được mục
tiêu đề ra giai đoạn 2022 - 2026 định hướng đến năm 2030, tác giả xin đưa ra
một số nhóm giải pháp cụ thể như sau:
3.4.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý bồi dưỡng
Một là, nâng cao chất lượng tài liệu bồi dưỡng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn của học viên, khung chương
trình bồi dưỡng cần được chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp trong từng giai
đoạn cụ thể. Những chuyên đề có nhiều nội dung, liên quan đến nhiều ngành,
lĩnh vực phải được chia thành nhiều chuyên đề khác nhau; hoặc thiết kế theo
dạng mô đun để trong những trường hợp nhất định, giảng viên và học viên có
sự lựa chọn về các nội dung cụ thể trong mô đun đó.
81
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy phải phù hợp
với từng đối tượng CBCC cấp xã theo từng vùng miền (vùng dân tộc thiểu
số...), theo từng giai đoạn phát triển đến năm 2026. Cử giảng viên tham gia
các lớp tập huấn để sử dụng những bộ tài liệu bồi dưỡng cho các chức danh
công chức cấp xã do Bộ Nội vụ ban hành và cập nhật những văn bản mới cho
những năm tiếp theo.
Hai là, tăng cường thời lượng dành cho việc rèn luyện, nâng cao các kỹ
năng cho cán bộ, công chức cấp xã
Để có nhiều cơ hội cho học viên được thực hành các kỹ năng cần xem
xét lại quy mô lớp học, tránh tình trạng các lớp học quá đông người như trong
thời gian vừa qua, với những lớp học có số lượng học viên nhiều cần áp dụng
theo hình thức báo cáo chuyên đề. Đồng thời, có những chuyên đề nếu điều
kiện cho phép thì nên tổ chức học tập, trao đổi ở theo mô hình “Hội nghị đầu
bờ”.
Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
Giảng viên của các lớp bồi dưỡng CBCC cấp xã phải kết hợp giữa
những người am hiểu lý luận và những người làm công tác thực tiễn, do vậy
cần tập huấn cho đội ngũ giảng viên để có sự trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và
kỹ năng giảng dạy. Ở những chuyên đề đòi hỏi tính chuyên sâu cao, bao gồm
nhiều lĩnh vực, diễn ra trên phạm vi rộng có thể bố trí hai giảng viên cùng lên
lớp (01 giảng viên cơ hữu và 01 giảng viên kiêm chức). Tổ chức bồi dưỡng
phải đảm bảo cho đội ngũ giảng viên cơ hữu và kiêm chức vững vàng về
chuyên môn, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống và kỹ năng sư phạm.
Xây dựng các tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chính sách và chế độ đãi ngộ phù
hợp để thu hút những CBCC đã được đào tạo cơ bản, có kinh nghiệm thực
tiễn, có năng lực giảng dạy đang công tác tại các cơ quan, đơn vị tham gia
giảng dạy theo chế độ kiêm chức. Kiện toàn tổ chức, biên chế, bổ sung lực
82
lượng giảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã
đặt ra.
Bốn là, nâng cao chất lượng các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức.
Tiến hành khảo sát, lựa chọn các trường, các trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng CBCC đảm bảo quy mô, chất lượng cơ sở vật chất và đội ngũ giảng
viên, tài liệu, giáo trình phù hợp với với nhu cầu để hợp đồng triển khai công
tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã lâu dài và ổn định. Tăng cường đầu tư
cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBCC để đáp ứng yêu cầu
giảng dạy và học tập đối với CBCC nói chung; CBCC cấp xã nói riêng.
Năm là, triển khai hình thức đào tạo trực tuyến có lựa chọn.
Đào tạo trực tuyến là một xu hướng phổ biến hiện nay, vừa giảm bớt
chi phí, vừa tạo độ phủ lớn. Bởi vì, với đặc thù của bồi dưỡng CBCC cấp xã
là tập trung vào rèn luyện kỹ năng, do vậy triển khai trên diện rộng việc bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng công nghệ thông tin theo phương thức trực tuyến
(E-Learning) cần cẩn trọng trong việc lựa chọn chuyên đề, lựa chọn nội dung
bồi dưỡng. Nên có sự kết hợp phương thức trực tuyến và phương thức trực
tiếp để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng CBCC cấp xã.
3.4.2. Nhóm giải pháp đối với chính quyền địa phương
Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, quán triệt tinh thần Quyết định số
163/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2025. UBND các cấp
cần chủ động xây dựng kế hoạch hoặc chương trình hành động cụ thể để tổ
chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã. Làm tốt công tác
quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng và bố trí CBCC cấp xã một các hợp lý.
Hai là, tổ chức rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã, trên
cơ sở đó xây dựng quy hoạch bố trí sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng từng chức
83
danh công chức.
Ba là, đưa công tác đánh giá CBCC cấp xã đi vào nề nếp, gắn quy
hoạch với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng. Tổ chức tốt việc tuyển dụng,
bổ nhiệm mới đối với CBCC cấp xã theo hướng phải đáp ứng tiêu chuẩn
chuyên môn theo chức danh quy định. Rà soát bảo đảm đúng tiêu chuẩn về
chức danh, chức vụ, không bố trí cán bộ, tuyển dụng công chức cấp xã không
đạt chuẩn về chuyên môn, chưa có bằng chuyên môn và tuổi cao, năng lực
yếu.
Bốn là, xác định rõ việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã đem lại kết
quả như kỳ vọng, đòi hỏi các cấp, các ngành và các địa phương phải có những
chiến lược dài hạn căn cứ vào thực tiễn phát triển KT-XH ở các địa phương
và thực tiễn hoạt động bồi dưỡng CBCC cấp xã trong những năm qua.
3.5. Kiến nghị, đề xuất
3.5.1. Đối với các cơ quan Trung ương
Các Bộ, ngành Trung ương sớm nghiên cứu sửa đổi bộ sung một số văn
bản quy phạm pháp luật như: Luật đất đai năm 2013; Nghị định số
09/1998/NĐ-CP ngày 01/01/1998 của Chính phủ, Nghị định 162/2017/NĐ-
CP của Chính phủ về quy định chi tiết một điều và biện pháp thi hành Luật tín
ngưỡng, tôn giáo, vì một số Điều không còn phù hợp với tình hình hiện nay;
chú trọng lồng ghép các lớp có cùng trình độ trung cấp, để sau khi tốt nghiệp
có thể có cả bằng chuyên môn và chính trị như: Trung cấp lý luận chính trị -
hành chính.
- Các bộ ngành có liên quan (Bộ Nội vụ), Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư...) trên cơ sở các quy định của Nhà nước
sớm ban hành các Quyết định, các thông tư hướng dẫn cụ thế về việc thực
hiện chế độ, chính sách đối với công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã, phù hợp với điều kiện hiện nay.
84
- Bổ sung chỉ tiêu định biên chức danh công chức làm việc tại Văn
phòng Đảng ủy cấp xã để nâng cao chất lượng xem xét, giải quyết công việc
tại cấp ủy cơ sở.
3.5.2. Đối với tỉnh tỉnh Đăk Nông
Sau khi có các văn bản hướng dẫn của Trung ương về công tác đào tạo
bồi dưỡng CBCC, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, tổ chức
triển khai, quán triệt để các đơn vị cơ sở thực hiện. Xây dựng hệ thống giáo
trình về đào tạo CBCC cấp xã phù hợp với điều kiện hiện nay.
- Đề nghị với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh tiếp tục quan tâm, tạo điều
kiện cho Trường chính trị tỉnh mở lớp trung cấp, làm việc với các trường Đại
học , Học viện hành chính Quốc gia mở các lớp về chuyên ngành chuyên môn
nhằm tạo điều kiện cho công chức cấp xã được học tập nâng cao trình độ, kể
cả những công chức xã chưa thuộc diện quy hoạch và tiếp tục ban hành chính
sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao về công tác các địa phương.
- Tỉnh uỷ, UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thống nhất một
cơ sở đào tạo cán bộ, công chức trong tỉnh. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng theo
chức danh và cập nhật kiến thức cho cán bộ, công chức cấp cơ sở; có các giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ,
công chức cấp cơ sở.
- Để kịp thời triển khai việc tổ chức mở các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ
cán bộ, công chức và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Thành phố Gia Nghĩa theo Quyết định số 163/2016/QĐ-TTg; Quyết định số
263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 kính đề nghị UBND tỉnh các Sở, ban ngành có
liên quan sớm có các chính sách, đề án hỗ trợ nguồn kinh phí để bảo đảm thực
hiện hiệu quả hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trên địa
bàn thành phố.
3.5.3. Đối thành phố Gia Nghĩa
85
- Cần quan tâm tạo điều kiện về cơ chế chính sách, thời gian đối với
cán bộ, công chức được cử đi học. Thực hiện tốt công tác cán bộ ở tất cả các
khâu, thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện học tập của người được
cử đi học. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác Đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng; chủ
động trong việc phát triển kinh tế xã hội. Đảm bảo các kế hoạch đề ra trong
giai đoạn từ nay đến năm 2030. Từ đó tạo được nguồn lực về kinh tế và con
người, giúp cho công tác quản lý cũng thuận lợi hơn.
- Công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức cấp xã phải được thành
phố thực hiện thường xuyên và hiệu quả. Biện pháp luân chuyển cán bộ giữa
các xã lân cận cũng cần phải chú trọng, để giảm thiểu các tiêu cực trong hoạt
động quản lý và cũng giúp cho các cán bộ có thêm kinh nghiệm thực tế khi
làm việc ở môi trường khác nhau.
3.5.4. Đối với các xã
Tổ chức thực hiện tốt công tác quy hoạch, sử dụng CBCC cấp xã theo
phân cấp quản lý. Tạo điều kiện về thời gian để CBCC tham gia các khóa đào
tạo, bồi dưỡng. Hàng năm tổ chức rà soát tiêu chuẩn vị trí các chức danh theo
quy định báo cáo về UBND thành phố để lập kế hoạch cử cán bộ tham gia
học tập. Thường xuyên đánh giá hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, trên cơ
sở đó kiến nghị đề xuất những khó khăn vướng mắc về cấp có thẩm quyền.
Khuyến khích động viên để đội ngũ CBCC, đặc biệt là CBCC người dân tộc
thiểu số nâng cao ý thức tự giác học tập để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ công tác đáp ứng tốt nhiệm vụ được giao.
86
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình KT-XH, quốc
phòng an ninh và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, đồng thời tập trung số
liệu để phân tích, đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân
kết quả, nguyên nhân hạn chế pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông về thực trạng
trình độ chuyên môn; trình độ lý luận chính trị; quản lý nhà nước, kỹ năng
ngoại ngữ, tin học, công tác bồi dưỡng các kiến thức pháp luật. Đã được nêu
tại chương 2; Chương 3 tập trung đề ra mục tiêu giải pháp hoàn thiện pháp
luật và thực hiện hiệu quả pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC
cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa trong những năm tiếp theo. Đồng
thời đưa ra các nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt khâu đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về chức danh cán bộ theo quy
định số 08-QĐ/ThU, ngày 18 tháng 12 năm 2020 của Thành ủy Gia Nghĩa về
tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Thường vụ
Thành ủy quản lý và một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Trong
nội dung Chương 3 tác giả cũng mạnh dạn đề xuất với các cấp, các ngành có
liên quan kịp thời điều chỉnh những chính sách trong đào tạo, bồi dưỡng; theo
dõi quản lý, sử dụng CBCC sau khi đào tạo để thực hiện tốt về chính cán bộ
của địa phương.
87
KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới đang đặt ra nhiều thách thức
đòi hỏi chúng ta phải tích cực chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nói chung
và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng. Đây không chỉ là nhiệm vụ trước mắt
mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Bởi trong quá trình thực thi công vụ, yêu cầu của
cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay cũng như yêu cầu thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức đặc biệt quan trọng, nhằm
đạt mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời để từng
bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, liêm chính, năng
động, sáng tạo có trình độ cao và có nhân cách tốt, đủ khả năng vận hành xây
dựng Chính phủ kiến tạo, chính phủ điện tử đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân
dân, phát triển đất nước, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được
xem là một yêu cầu hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Luận văn
“Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (Qua thực tiễn
thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông)” đã tập trung giải quyết được các vấn
đề sau:
Luận văn đã trình bày có hệ thống các vấn đề về lý luận có liên quan
đến cán bộ, công chức cấp xã và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã trên góc độ nhìn nhận về luật hiến pháp và luật hành chính. Đó là
cơ sở để phân tích, nhận định, đánh giá thực trạng, phân tích những nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công
chức.
Luận văn đã đánh giá thực trạng, phân tích các kết quả đạt được và
những tồn tại hạn chế cần khắc phục, trên cơ sở đó nêu rõ nguyên nhân của
88
những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế để làm cơ sở cho việc đề ra những
mục tiêu, giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng pháp luật về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh
Đăk Nông trong thời gian tới. Để thực hiện tốt các mục tiêu, định hướng đề ra
trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của thành phố.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã trên địa thành phố Gia Ngĩa, tỉnh Đăk Nông. Luận
văn cũng mạnh dạn đưa ra các giải pháp thiết thực cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk
Nông trong những năm tiếp theo. Nhằm từng bước hình thành được đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, các kỹ năng về quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học
đáp ứng tốt yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính công vụ tại thành phố Gia
Nghĩa nói riêng và tỉnh tỉnh Đắk Nông nói chung.
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) (2017), Nghị quyết số 18-
NQ/TW ngày 25/10/2017 về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
2. Ban Chấp hành Trung Ương (2018), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến
lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;
3. Bộ Nội vụ (2018), Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08/01/2018
của Bộ Nội vụ về Hướng một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày
01 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức;
4. Chính phủ (2005), Nghị định số 82/2005/NĐ-CP ngày 27/6/2005
của Chính phủ về việc thành lập thị xã Gia Nghĩa; thành lập các phường, xã
thuộc thị xã Gia Nghĩa và đổi tên huyện Đắk Nông thành huyện Đắk Glong,
tỉnh Đắk Nông;
5. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009
của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn;
6. Chính phủ (2010), Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của
Chính phủ về quy định những người là công chức;
7. Chính phủ (2017), Nghị định số 101/2017/NĐ/CP, ngày 01/09/2017
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức để quy định;
8. Chính phủ (2020), Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020
của Chính phủ về Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;
9. Chính phủ (2021), Nghị định số 89/2021/NĐ-CP, ngày 18/10/2021
90
về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày
01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức;
10. Đảng bộ tỉnh Đăk Nông (2015), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Đăk Nông lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015-2020;
11. Đảng bộ tỉnh Đăk Nông (2020), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Đăk Nông lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020-2025;
12. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2019), Nghị quyết số
10/2019/NQ-HĐND, ngày 19/7/2019 về việc quy định mức chi cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh (Hội đồng nhân dân
tỉnh Đắk Nông);
13. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013;
14. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức năm 2008;
15. Quốc hội (2019), Luật cán bộ, công chức, viên chức sửa đổi bổ sung năm
Thủ tướng Chính phủ (2004), Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg ngày 09/11/2004
của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu
số đối với CBCCVC công tác ở vùng dân tộc, miền núi;
16. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày
07/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại
các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan
trong hệ thống chính trị đến năm 2030;
17. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2019), Nghị quyết số 835/NQ-
UBTVQH14 ngày 17/12/2019 của về việc thành lập thành phố Gia Nghĩa trực
thuộc tỉnh Đắk Nông;
18. UBND thành phố Gia Nghĩa (2016), Kế hoạch về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2016 – 2021;
19. UBND thành phố Gia Nghĩa (2016), Kế hoạch về đào tạo, bồi dưỡng
91
cán bộ, lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2021 – 2026;
20. UBND thành phố Gia Nghĩa (2016), Báo cáo tổng kết 07 năm thực
hiện Đề án “Củng cố và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức xã, phường,
thị trấn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2014 - 2021”.
92
Phụ lục 1
BẢNG TỔNG HỢP GIỚI TÍNH VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐĂK NÔNG GIAI ĐOẠN 2020 - 2022
Đơn vị tính: người
NĂM
2020 2022 2021 XÃ
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
Đắk R’Moan 17 8 8 15 8 16
Đăk Nia 16 6 5 17 5 17
Nghĩa Đức 19 4 5 15 5 18
Nghĩa Thành 20 5 6 18 6 19
Nghĩa Tân 18 7 6 17 6 17
Nghĩa Phú 16 7 6 15 6 17
5 Quảng Thành 18 6 14 6 17
Nghĩa Trung 20 11 22 9 22 9
Tổng cộng 145 53 143 51 133 51
Nguồn: Phòng Nội vụ năm 2022
93
Phụ lục 2
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ SỐ LƯỢT NGƯỜI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ THAM GIA BỒI DƯỠNG GIAI ĐOẠN NĂM 2020- 2022
Đơn vị tính: người
Nội dung Số lượt Stt
Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức tài chính – kế 21 01
toán
02 Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức địa chính xây 45
dựng
Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức văn hóa – xã hội 37 03
Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức Tư pháp – hộ tịch 42 04
Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chứcVăn phòng – 38 05
thống kê
Bồi dưỡng nghiệp vụ cho Trưởng Công an 27 06
Bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chỉ huy trưởng Quân sự 28 07
Bồi dưỡng Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy 28 08
Bồi dưỡng cán bộ Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam 42 09
Bồi dưỡng cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí 70 10
Minh
Bồi dưỡng cán bộ Hội LHPN Việt Nam 70 11
Bồi dưỡng cán bộ Hội Cựu chiến binh Việt Nam 42 12
Bồi dưỡng cán bộ Hội Nông dân Việt Nam 65 13
Bồi dưỡng cán bộ Hội Cựu chiến binh Việt Nam 42 13
Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh 715 14
Bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân 208 15
Nguồn: Phòng Nội vụ năm 2022
94
Phụ lục 3 BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐÁNH GIÁ CỦA
NGƯỜI DÂN LIÊN QUAN ĐẾN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐĂK NÔNG NĂM 2021
Đơn vị tính: Tỷ lệ %
Stt Các chỉ tiêu đánh giá Mức độ đánh giá
- Đánh giá tốt hơn nhiều : 5,6%
- Tốt hơn: 48,8% Cải cách thủ tục hành 01 - kém hơn: 15,2% chính - bằng mức năm 2017: 21,6%
- Khó trả lời: 8,8%
- Đánh giá tốt hơn nhiều : 1,6%
- Tốt hơn: 26,4% Về cải thiện môi trường 02 - kém hơn: 8% đầu tư kinh doanh - bằng mức năm 2017: 45,6 %
- Khó trả lời: 18,4%
- Đánh giá tốt hơn nhiều : 2,4%
- Tốt hơn: 30,4% Công tác giải quyết đơn 03 - kém hơn: 16,8% thư, tố cáo - bằng mức năm 2017: 35,2 %
- Khó trả lời: 15,2%
- Đánh giá tốt hơn nhiều : 4,8%
Về hiệu quả điều hành - Tốt hơn: 42,4%
04 của chính quyền địa - kém hơn: 13,6%
phương - bằng mức năm 2017: 31,2 %
- Khó trả lời: 25%
Về tinh thần, thái độ - Đánh giá tốt hơn nhiều : 3,2% 5 phục vụ nhân dân của cán - Tốt hơn: 42%
95
bộ, công chức - kém hơn: 16,7%
- bằng mức năm 2017: 28,6 %
- Khó trả lời: 9,5%
Nguồn: Ban Tuyên giáo Thành ủy năm 2021
96
Bản đồ hành chính thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông (Nguồn: http://www.daknong.gov.vn)
(Nguồn: http://ipcdaknong.com.vn)