BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

..…/….. …/…

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LỲ BÁ XỀNH

PHÁP LUẬT VỂ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

CẤP XÃ (QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA,

TỈNH ĐĂK NÔNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK NÔNG - NĂM 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

……/…… …/…

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LỲ BÁ XỀNH

PHÁP LUẬT VỂ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ (QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐĂK NÔNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. CAO HUY

ĐẮK NÔNG - NĂM 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực. Trong

luận văn đã sử dụng thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau và có trích

dẫn rõ nguồn gốc.

Tôi cam đoan rằng toàn bộ nội dung và số liệu trong luận văn này do tôi

tự nghiên cứu, khảo sát và thực hiện.

Tác giả luận văn

Lỳ Bá Xềnh

i

LỜI CẢM ƠN

Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia.

Tôi chân thành cảm ơn sâu sắc đến lãnh đạo Học viện Học viện Hành chính

Quốc gia, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên tại

thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã tạo điều kiện mở lớp chuyên ngành

Luật hiến pháp và Luật hành chính tại Tây Nguyên để bản thân có điều kiện thuận

lợi tham gia học tập, nghiên cứu. Xin bày tỏ lòng cảm ơn đến quý thầy, cô tham gia

giảng dạy, đội ngũ viên chức làm công tác quản lý tại Học viện Hành chính Quốc

gia, Phân viện Tây Nguyên đã giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Tác giả xin gửi lời cảm ơn, chân thành, sâu sắc tới TS. Cao Huy đã tận tình,

quan tâm, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm và hoàn thiện Luận văn.

Xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân thành phố, các cán bộ,

công chức tại các phòng, ban, đơn vị; các cán bộ, công chức cấp xã thuộc thành phố

Gia Nghĩa đã tạo điều kiện giúp đỡ để tác giả thu thập tài liệu, nghiên cứu nghiệp

vụ để hoàn thành Luận văn.

Tác giả luận văn

Lỳ Bá Xềnh

ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBCC Cán bộ, công chức

QLNN Quản lý nhà nước

CNH - HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐTBD Đào tạo, bồi dưỡng

ThU Thành ủy

UBND Ủy ban nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

HĐND Hội đồng nhân dân

THPT Trung học phổ thông

CT Chỉ thị

NQ Nghị quyết

NĐ Nghị định

CTr Chương trình

KH Kế hoạch

QĐ Quyết định

QyĐ Quy định

ĐTBD Đào tạo, bồi dưỡng

iii

DANH MỤC BẢNG

Tên bảng Trang Nội dung

Bảng 2.1 Số lượng cán bộ, công chức cấp xã thành phố Gia 47

Nghĩa giai đoạn 2020-2022

Bảng 2.2 Trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức cấp xã 50

giai đoạn 2020-2022

Bảng 2.3 Trình độ lý luận chính trị của cán bộ, công chức cấp 52

xã giai đoạn 2020-2022

Bảng 2.4 Trình độ quản lý nhà nước của cán bộ, công chức cấp 53

xã giai đoạn 2020-2022

Bảng 2.5 Trình độ tin học, ngoại ngữ của cán bộ, công chức cấp 54

xã giai đoạn 2020-2022

Bảng 2.6 Thâm niên công tác của cán bộ, công chức cấp xã giai 57

đoạn 2020-2022

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG

MỞ ĐẦU………….………………………………………………………….……...01

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI

DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC CẤP XÃ………………………………..9

1.1. Cơ sở lý luận thực hiện Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã ………………………………………………………………....11

1.2. Nội dung pháp luật đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã…..…27

1.3. Yêu cầu và điều kiện pháp luật đào tạo, bồi dưỡng.……..……………..32

Tiểu kết chương 1

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ …….…..44

2.1. Tổng quan về tình hình thành phố Gia Nghĩa ………………………….44

2.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính thành phố Gia Nghĩa........................45

2.3. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã …………………………………………..……………47

2.5. Đánh giá thực hiện các quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã…………………………………... ………...…………58

Tiểu kết chương 2

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP

XÃ (QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK

NÔNG)…………………………………………………………….………..70

v

3.1. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho cán bộ, công

chức cấp xã ………………………………………………………………….70

3.2. Một số chỉ tiêu cụ thể thực hiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

công chức trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông giai đoan 2022 –

2026, định hướng đến năm 2030………………………………..……...…..76

3.3. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách về đào

tạo, bồi dương ………………………………………………………………77

3.4. Một số nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả ………………….………….. 82

3.5. Kiến nghị, đề xuất…………………………………….………………. 85

Tiểu kết chương 3

KẾT LUẬN ……….……………………………….……………………………….90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

vi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Thực hiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng về cán bộ, công chức là hệ

thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành, để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh, liên quan đến

hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhằm đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ,

công chức chuyên nghiệp có năng lực, trình độ và phẩm chất để hoàn thiện

nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng là cơ sở

pháp lý cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, thể hiện cam kết của Nhà nước về

nâng cao năng lực làm việc của mỗi cán bộ, công chức. Ngoài ra, nó còn là cơ

sở để quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức; nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng về

cán bộ, công chức đối với sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, Đảng và

Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo đến công tác cán bộ các cấp, các ngành

đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Chúng ta biết rằng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, ổn định xã hội, giữ

vững quốc phòng an ninh phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước thì cần

phải chú trọng đến vấn đề xây dựng từ cấp cơ sở.

Cấp cơ sở bao gồm: xã, phường, thị trấn là nơi công dân cư trú, sinh

sống, là cầu nối trực tiếp toàn bộ hệ thống chính trị với nhân dân, là nơi tổ

chức vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc. Muốn xây dựng đội ngũ

cán bộ, công chức cấp xã có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ thường

xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Vì

vậy, cán bộ, công chức xã có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến

việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, là nhân tố tác động trực

1

tiếp đến sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước trong cải cách hành chính

nhà nước giai đoạn 2021 - 2030, muốn xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có chất

lượng tốt cần tập trung vào 06 nội dung, đó là: Cải cách thể chế; Cải cách thủ

tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế

độ công vụ; Cải cách tài chính công và xây dựng, phát triển Chính phủ điện

tử, chính phủ số hiện nay.

- Mục tiêu của cải cách chế độ công vụ:

+ Xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và

thực tài; thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, dân chủ, công khai, minh

bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng công chức, để thu hút

người thật sự có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà

nước.

+ Phấn đấu đến năm 2026 định hướng năm 2030: 100% cán bộ, công

chức cấp xã có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính

trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc.

- Trên cơ sở định hướng, mục tiêu, cần phải đổi mới nội dung, phương

pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng và phẩm chất cho đội

ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở gắn với vị trí việc làm. Rà soát, sửa đổi, bổ

sung nội dung chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu

chuẩn ngạch công chức và yêu cầu vị trí việc làm, bảo đảm không trùng lắp,

tiết kiệm, hiệu quả; rà soát cắt giảm các chứng chỉ bồi dưỡng không cần thiết.

Do đó, nghiên cứu quy định Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cho

cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ xã, phường nói riêng. Từ khi Đại hội

VI của Đảng (tháng 12/1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều

2

đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật và những quy định về công tác

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cấp. Đây là những định hướng quan

trọng để xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và

thực tài trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng công chức, để thu hút

người thật sự có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà

nước. Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị đã khẳng

định rằng: “Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý

là nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thấm

nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, học đi đôi với hành, lý luận

gắn với thực tiễn, gắn học tập với rèn luyện phẩm chất đạo đức, tư cách người

cách mạng”38,tr.2.

Trong các năm gần đây, có nhiều nhà khoa học thông qua việc xuất bản

sách, các công trình nghiên cứu khoa học đã đưa ra các quan điểm, ý kiến

đánh giá về thực trạng cũng như các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ cấp xã

nói riêng. Trong số này đáng chú ý là:

Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phùng Thị Quyên (2012): “Đào

tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn

tỉnh Thanh Hóa”. Luận văn đã đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức

pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã; đưa giải pháp đào tạo bồi dưỡng kiến

thức pháp luật cho cán bộ công chức cấp xã; qua đó, đưa ra các nhiệm vụ, giải

pháp thực hiện có hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội

ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 3, tr84.

Luận án tiến sĩ Chính trị học của tác giả Cầm Thị Lai (2012): “Đào tạo,

bồi dưỡng lý luận chính trị, hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp

xã ở các tỉnh Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay”. Trong công trình này, tác

giả đã phân tích và làm rõ thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận

3

chính trị, hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây

Bắc, đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong công tác này. Từ đó, đề

xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lý luận

chính trị, hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây

Bắc đến năm 20207, tr58.

Luận văn Thạc sĩ Quản trị lao động của tác giả Hà Thị Nhung (2013):

“Đào tạo cán bộ, công chức xã, phường của huyện Chương Mỹ, thành phố

Hà Nội”. Luận văn đã làm rõ các vấn đề liên quan đến đào tại nguồn cán bộ

công chức cấp xã, phường và việc sử dụng đội ngũ này sau đào tạo; đã hệ

thống hóa các quy định của pháp luật về đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp

xã, phường và các quy định có liên quan đến cán bộ, công chức cấp xã sau

đào tạo; đã đánh giá thực trạng việc đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã

và việc sử dụng nguồn cán bộ sau đào tạo của huyện Chương Mỹ, thành phố

Hà Nội và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về

đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã cũng như các giải pháp nâng cao hiệu

quả sử dụng nhân lực sau đào tạo12,tr.57.

Luận văn thạc sĩ chính sách công: Thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk

Nông” của tác giả Trần Duy Tráng. Luận văn đã làm rõ vấn đề thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã; đánh giá thực trạng đào tạo,

bồi dưỡng công chức qua thực tiễn trên địa bàn huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk

Nông. Luận văn cũng đã đề xuất mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cơ bản nâng

cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CBCC

cấp xã 5, tr.85.

Luận án Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh khu vực III của tác giả Trương Thị Bạch Yến (2014), “Tạo nguồn

4

cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn

hiện nay”.

Tác giả Đặng Khắc Ánh với bài “Đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc

làm - Những khó khăn và kiến nghị”, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2/2012 đã

phân tích rõ sự cần thiết pháp đào tạo, bồi dưỡng gắn với đề án vị trí việc làm

của cán bộ, công chức. Tạp chí đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức ở nước ta trong thời gian qua. Hạn chế chủ yếu

là nội dung chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục còn nặng về cung cấp

kiến thức và kỹ năng mang tính chung chung chưa gắn với kiến thức và kỹ

năng theo từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức. Do vậy, cần tổ chức đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo vị trí việc làm. Xuất phát từ các lập

luận trên bài viết đưa ra một số kiến nghị: Khẩn trương tiến hành phân tích

tổng thể và phận loại các vị trí việc làm trong bộ máy công vụ; xây dựng và

hoàn thiện hệ thống bảng mô tả công việc; định kỳ khảo sát nhu cầu đào tạo,

bồi dưỡng; thiết kế lại các chương trình đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới hoạt

động đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; nâng cao chất lượng các cơ sở

làm nhiệm vụ đào tào, bồi dưỡng.

Nhìn chung, các công trình trên đã tập trung nghiên cứu các vấn đề lý

luận: Lý luận về công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói

chung; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nói riêng. Một số công

trình cũng tập trung nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của giáo dục lý luận

chính trị cho cán bộ, công chức cấp cơ sở ở nước ta hiện nay, thực trạng và

những vấn đề đặt ra, từ đó đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

và thực hiện hiệu quả pháp luật, đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu trực tiếp Pháp

luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố

5

Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông). Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài này mang ý

nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu

quả pháp luật của hệ thống chính trị ở thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận về thực hiện pháp luật về đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; đánh giá pháp luật về đào tạo, bồi

dưỡng; trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp thực hiện hiệu quả Pháp luật về đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố Gia Nghĩa,

tỉnh Đắk Nông) trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, Lý luận về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

Thứ hai, Thực trạng pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã (qua thực tiễn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông).

Thứ ba, Giải pháp để nâng cao chất lượng pháp luật về đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, thực trạng thực hiện

quy pháp luật, giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả pháp luật

về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố Gia

Nghĩa, tỉnh Đắk Nông).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về không gian: Nghiên cứu được thực hiện cán bộ, công chức

cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông.

Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu tập trung phân tích, đánh giá thực

trạng thực hiện quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

6

cấp xã (qua tiễn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông) giai đoạn 2020 - 2022,

đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả pháp luật về đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông

trong thời gian tới.

Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu toàn bộ các nội dung thực hiện pháp

luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố

Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông) phạm vi cán bộ, công chức cấp xã theo quy định

Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật

cán bộ, công chức và Luật viên chức năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Về cơ sở lý luận: Luận văn thực hiện dựa trên phương pháp luận chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chủ trương

của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định của Chính

phủ, các văn bản liên quan đên công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

nói chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng.

Về phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận và

phương pháp cụ thể: Phương pháp logic, lịch sử, quan sát, mô hình hóa, phân

tích - tổng hợp, phân tích thống kê và xử lý tài liệu…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận, trên cơ sở hệ thống hóa về lý luận và cơ sở pháp lý luận văn

đã làm rõ được nội hàm của các khái niệm cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức nói chung, cán bộ công chức cấp xã nói riêng. Luận văn có thể

làm tài liệu tham khảo có ích cho việc nghiên cứu, học tập hoặc cho những ai

quan tâm đến lĩnh vực Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp

xã.

7

Về thực tiễn, các kết luận cũng như các giải pháp được đề xuất trong

luận văn là căn cứ khoa học có thể có hữu ích cho các nhà quản lý để hoàn

thiện Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta hiện

nay.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được chia làm 03 chương

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã.

Chương 2: Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk

Nông).

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả pháp

luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn thành phố

Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông) trong thời gian tới.

8

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ

1. 1. Cơ sở lý luận về pháp luật đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã

1.1.1. Các khái niệm cơ bản

a) Pháp luật là gì

Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do

Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của

giai cấp thống trị và làm nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù

hợp với lợi ích của giai cấp mình.

b) Khái niệm pháp luật được thể hiện bằng 4 ý sau

Thứ nhất, pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt

buộc chung, nói đến pháp luật là nói đến tính quy phạm phổ biến.

Thứ hai, Pháp luật là do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận.

Thứ ba, Pháp luật đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Pháp

luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó các

biện pháp cưỡng chế nhà nước rất nghiêm khắc như phạt tiền, phạt tù có thời

hạn, tù chung thân … Với sự bảo đảm của nhà nước đã làm cho pháp luật

luôn được các tổ chức và cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, có

hiệu quả trong đời sống xã hội.

Thứ tư, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều hành các

quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.

c) Khái niệm về cán bộ và cán bộ cấp xã

Nước ta đang trong giai đoạn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa vừa xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa (XHCN) vừa xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

9

Vì vậy, cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo, có chất lượng đồng bộ,

đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đặc biệt là cán bộ, công

chức cấp xã, phường. Cán bộ là một thuật ngữ quen thuộc không chỉ ở Việt

Nam mà còn ở các nước trên thế giới. Riêng ở nước ta, thuật ngữ cán bộ được

sử dụng từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) và được sử dụng

phổ biến từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dùng để chỉ

một lớp người là chiến sỹ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian

khổ, hy sinh, gắn bó với Nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,

giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Tên gọi cán bộ đã để lại dấu ấn đẹp trong

lịch sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đất nước.

Theo từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng

(năm 2006), “cán bộ được hiểu là người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn

trong cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể; người làm công tác có chức vụ

trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ”

44,tr.105.

Trong tác phẩm Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa do Nguyễn

Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) thì: “Cán bộ là khái niệm chỉ

những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có

tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo,

chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức”

39,tr.20.

Tại Điều 4, Luật CBCC được Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt

Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực từ ngày

01 tháng 01 năm 2010 quy định: Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử

phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan

của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung

10

ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp

huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Ở nước ta

hiện nay, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị được chia thành nhiều cấp:

cấp Trung ương; cấp tỉnh, thành phố; cấp quận, huyện và cấp xã, phường, thị

trấn. Cán bộ ở xã, phường, thị trấn được gọi chung là cán bộ cấp cơ sở.

Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn bó chặt chẽ với các

quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội, huyết thống, phong tục tập quán và những

sinh hoạt chung khác. Cấp cơ sở có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị ở

nước ta, đó là nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước với

Nhân dân; cụ thể hóa các chỉ thị, Nghị quyết, hướng dẫn của cấp trên. Người

lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ đó ở cơ sở chính là đội ngũ cán

bộ ở cơ sở hay cán bộ, công chức cấp xã.

Tại Khoản 3, Điều 4 của Luật CBCC năm 2008 quy định rõ: Cán bộ xã,

phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được

bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư,

Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.

Tại Điều 61 của Luật Cán bộ, công chức và Khoản 3, Điều 1 của Nghị

định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số

lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị

trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thì cán bộ cấp xã

gồm có các chức danh sau đây:

- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;

- Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND;

- Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND;

- Chủ tịch ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam;

- Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

- Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam;

11

- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị

trấn có hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt

Nam).

- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

d) Khái niệm về công chức, công chức cấp xã

Ở bất kỳ quốc gia nào, nhà nước muốn tổ chức và quản lý xã hội tốt đều

phải coi trọng việc xây dựng và quản lý đội ngũ công chức. Công chức là khái

niệm được sử dụng phổ biến ở các nền công vụ trên thế giới, dùng để chỉ những

người thừa hành quyền lực nhà nước để quản lý xã hội. Thuật ngữ “công chức”

được quy định có sự khác nhau ở các quốc gia do điều kiện lịch sử, văn hóa truyền

thống, thể chế chính trị, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước... Nền công vụ Pháp

quy định "Công chức bao gồm toàn bộ những người được nhà nước hoặc cộng

đồng lãnh thổ (công xã, tỉnh, vùng) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong

một công sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện và được biên chế vào một

ngạch của nền hành chính công" [19]. Theo cách hiểu này, công chức Pháp gồm 3

loại: Công chức hành chính nhà nước, công chức trực thuộc cộng đồng lãnh thổ và

công chức trực thuộc các công sở tự quản. Ở Anh, khái niệm công chức chỉ bao

hàm những nhân viên công tác trong ngành hành chính. Ở Mỹ, tất cả các nhân

viên trong bộ máy hành chính của Chính phủ đều được gọi chung là công chức,

bao gồm những người được bổ nhiệm về chính trị (còn gọi là công chức chính trị),

những người đứng đầu bộ máy độc lập và những quan chức của ngành hành

chính.

Ở châu á như Nhật Bản công chức được xác định trong Luật Công

chức, theo đó bao gồm toàn bộ những người làm công ăn lương do Ủy ban

Nhân sự quốc gia quản lý. Công chức ở Nhật Bản bao gồm tất cả những

người làm việc trong các cơ quan nhà nước, và các đơn vị sự nghiệp nhà nước

12

như các bệnh viện công, trường học công. Tuy nhiên, số bệnh viện công,

trường học công và các đơn vị sự nghiệp khác ở Nhật Bản rất ít do sự phát

triển mạnh mẽ của khu vực tư nhân. Ở nước ta, khái niệm công chức được

hình thành gắn liền với sự phát triển của nền hành chính nhà nước. Trải qua

các giai đoạn phát triển của nền hành chính nhà nước thì khái niệm này được

hiểu theo nhiều cách khác nhau.

Do đặc điểm cấu trúc hệ thống chính trị ở nước ta nên quan niệm về

công chức ở Việt Nam cũng có những đặc thù. Khái niệm công chức cũng đã

được quan tâm xây dựng và ngày càng hoàn thiện. Theo quy định của pháp

luật hiện hành thì, công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ

nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt

Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;

trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,

quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị

thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp

và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung

là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách

nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự

nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp

công lập theo quy định của pháp luật [24].

Con người luôn là nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển

của bất cứ tổ chức nào, bởi chỉ có thông qua con người, tổ chức mới có thể

đạt được mục tiêu của mình. Con người trong cơ quan nhà nước càng có vai

trò quan trọng hơn, đây là lực lượng lao động đặc biệt trong xã hội, là nhân tố

quyết định sự thành công hay thất bại của mọi công việc trong quản lý nhà

13

nước, là lực lượng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền hành chính

quốc gia. Vì vậy lúc sinh thời Bác Hồ luôn quan tâm tới đến côn g tác cán bộ đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC.

Công chức là một khái niệm được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia

trên thế giới để chỉ các công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên

trong các cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương. Nhưng do đặc

thù của từng quốc gia nên quan niệm về công chức là không đồng nhất.

Ngày 13/11/2008, Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII,

kỳ họp thứ 4 thông qua Luật CBCC, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010.

Công chức quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm

2008 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 như sau: Công

chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,

chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp

huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ

quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị

thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo

chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ

ngân sách nhà nước.”.[2,tr.1].

Để quy định cụ thể về công chức, ngày 25 tháng 01 năm 2010, Chính

phủ ban hành Nghị định 06/2010/NĐ-CP quy định: “Công chức là công dân

Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong

biên chế, hưởng lương từ ngân sách hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn

vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”[34,tr.9]; Nghị định

114/NĐ-CP về CBCC xã, phường, thị trấn. Nghị định này quy định về chức

danh, tiêu chuẩn, nghĩa vụ quyền lợi, những việc không được làm, chế độ

14

chính sách và quản lý CBCC xã, phường, thị trấn (gọi chung là CBCC cấp

xã). Theo Luật CBCC và Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định khái niệm

CBCC cấp xã như sau:

Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo

nhiệm kỳ, trong thường trực HĐND, UBND, người đứng đầu các tổ chức

chính trị - xã hội trong biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Gồm:

- Bí thư, phó bí thư Đảng ủy

- Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân

- Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân

- Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam

- Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị

trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân

Việt Nam.

- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam [29].

+ Khái niệm công chức cấp xã:

Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương

năm 2016, Chính quyền địa phương gồm hai loại là chính quyền địa phương

nông thôn và chính quyền địa phương đô thị. Trong đó chính quyền địa

phương ở nông thôn bao gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã.

Với việc phân chia loại hình đơn vị hành chính cơ sở như trên thì xã là

loại hình chính quyền thấp nhất trong hệ thống các cấp hành chính nhà nước,

là bộ máy quản lý nhà nước ở cơ sở, được tổ chức ở khu vực nông thôn.

Theo khoản 3, điều 4 luật cán bộ công chức năm 2008: “Công chức cấp

xã là công dân nước Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên

15

môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân

sách nhà nước” [7,tr1].

Tiêu chuẩn chung của công chức cấp xã: Hiểu biết về lý luận chính trị,

nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp

luật của Nhà nước; có năng lực tổ chức vận động nhân dân ở địa phương thực

hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của

Nhà nước; có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp

với yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm, có đủ năng lực và sức khỏe để hoàn

thành nhiệm vụ được giao; am hiểu và tôn trọng phong tục, tập quán của cộng

đồng dân cư trên địa bàn công tác.

Từ các lập luận trên cho ta hiểu rằng (Công chức xã là công dân Việt

Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc

UBND xã trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được xác

định cụ thể về số lượng, tên gọi, chức năng hoạt động gắn với từng vị trí việc

làm đã được pháp luật quy định nhằm thực hiện nhiệm vụ của bộ máy chính

quyền ở xã).

Công chức cấp xã do huyện quản lý. Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã

hội, quy mô, đặc điểm của địa phương thì Chính phủ sẽ quy định cụ thể số

lượng CBCC cấp xã.

e) Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động quan trọng trong công tác quản lý,

phát triển nguồn nhân lực của các cơ quan nhà nước, tổ chức nhằm xây dựng

và phát triển một đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, thành thạo về chuyên môn,

vững vàng về năng lực quản lý. Đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ công chức phải

dựa trên cơ sở xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của từng vị trí công tác,

năng lực thực hiện công việc của cán bộ, công chức.

16

Theo Từ điển tiếng Việt, đào tạo được hiểu là việc "làm cho trở thành

người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [46,tr.279]. Theo đó: Đào

tạo theo một nghĩa chung nhất được hiểu là quá trình tác động đến con người

làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một

cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho họ thích nghi với cuộc sống và khả năng

nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào phát triển

xã hội [30].

Như vậy, Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính là quá trình tác

động đến đối tượng làm cho họ có trình độ, năng lực thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật.

Cũng theo Từ điển tiếng Việt bồi dưỡng là việc "làm cho tăng thêm

năng lực hoặc phẩm chất "[46,tr505]. Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP về

đào tạo bồi dưỡng công chức thì bồi dưỡng được hiểu là "hoạt động trang bị,

cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc" [13]. Như vậy bồi dưỡng

kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã là làm tăng thêm lượng kiến thức pháp

luật để giải quyết các công việc trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của mình một cách có hiệu quả nhất. Bồi dưỡng được thực hiện thông qua

hình thức chính thống đó là lớp học, ngoài ra còn được thực hiện thông qua

nhiều hình thức khác, nhưng mục đích cuối cùng đều hướng tới việc nâng cao

kiến thức pháp luật, kỹ năng giải quyết, vận dụng pháp luật trong thực tiễn

nhằm thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của CBCC ở cơ sở.

Theo sự phân tích trên cho thấy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đào tạo đã

bao hàm trong đó cả nghĩa bồi dưỡng bởi cả hai đều hướng tới mục đích trang

bị kiến thức pháp luật, kỹ năng vận dụng pháp luật cho CBCC cấp cơ sở. Tuy

nhiên, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì đào tạo kiến thức pháp luật là quá trình

trang bị những kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện pháp luật cho CBCC

chưa qua đào tạo. Còn bồi dưỡng kiến thức pháp luật là quá trình nâng cao

17

kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện pháp luật một cách thường xuyên trên

cơ sở những kiến thức, kỹ năng đã có. Bồi dưỡng kiến thức pháp luật thường

được tổ chức trong quỹ thời gian ngắn hơn so với đào tạo; tuy nhiên, nó lại

được thực hiện một cách thường xuyên hơn để cập nhật, trang bị mới những

kiến thức pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Sau khi

đào tạo, bồi dưỡng xong thì đào tạo sẽ được cấp bằng hoặc chứng chỉ để

chứng nhận trình độ được đào tạo, còn bồi dưỡng chỉ được cấp chứng chỉ để

chứng nhận đã qua khóa học bồi dưỡng. Mặc dù đào tạo, bồi dưỡng kiến thức

pháp luật cho CBCC có một số điểm khác nhau nhưng về cơ bản cả hai hoạt

động này đều hướng đến mục đích cuối cùng là trang bị kiến thức pháp luật

và vận dụng những kiến thức đó vào giải quyết các công việc cụ thể trong

quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Từ đó có thể đưa ra khái niệm chung về

pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC như sau:

Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC là quá trình tác động có tổ

chức, có kế hoạch, có chương trình cụ thể nhằm làm cho đội ngũ CBCC lĩnh

hội, nắm vững một cách có hệ thống và tăng thêm vốn kiến thức pháp luật, kỹ

năng thực hiện pháp luật trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình

đồng thời góp phần tuyên truyền, phổ biến và nâng cao ý thức chấp pháp luật,

hành pháp luật của nhân dân địa phương.

1.1.2. Sự khác nhau giữa đào tạo và bồi dưỡng:

Thực tế đào tạo và bồi dưỡng là hai khái niệm trọn vẹn khác nhau, tuy

nhiên, chúng lại có chung một mục tiêu, đó là làm cho nguồn nhân lực hoàn

toàn có thể nâng cao được trình độ trình độ, năng lực giải quyết và xử lý được

việc làm cũng sẽ được cải tổ và đặc biệt quan trọng là năng lượng công tác

làm việc cũng sẽ tốt hơn sau khi được huấn luyện và đào tạo bồi dưỡng. Và

cũng có nhiều hoạt động giải trí khó mà hoàn toàn có thể phân loại được

chúng là bồi dưỡng hoặc giảng dạy, bởi chúng là hai thể thức có tính xen kẽ

18

và thừa kế lẫn nhau để tạo ra được một thể thống nhất.

Trong những hoạt động giải trí thực tiễn, không gồm có những cơ sở

giảng dạy thuộc mạng lưới hệ thống giáo dục mang tầm “quốc dân”, thì

những cơ sở đào tạo và giảng dạy còn lại vẫn chỉ coi việc giảng dạy bồi

dưỡng giống như một quy trình và chỉ cấp bằng hoặc chứng từ gộp chung đào

tạo và giảng dạy và bồi dưỡng. Đào tạo bồi dưỡng là gì Chính thế cho nên mà

việc đưa ra những đánh giá và nhận định độc lập giữa bồi dưỡng và huấn

luyện và đào tạo thì cũng sẽ chỉ mang đặc thù tương đối, nó không trọn vẹn

xác được đúng chuẩn. Vì khi tham gia vào chương trình chỉ huy quản trị thì

người lao động sẽ có thời cơ vừa được giảng dạy vừa được học bồi dưỡng

nâng cao năng lượng, tức là trong huấn luyện và đào tạo có bồi dưỡng và

ngược lại.

Trong hoạt động thực tiễn, trừ một số cơ sở đào tạo thuộc hệ thống giáo

dục quốc dân, có cấp bằng học theo cấp học, bậc học, còn lại nhiều cơ sở giáo

dục đào tạo vẫn coi việc đào tạo và bồi dưỡng là một quá trình và cấp chứng

chỉ hoặc bằng cấp bao gồm cả hai quá trình đào tạo và bồi dưỡng. Trên thế

giới, cơ quan hành chính của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan,

Singapore… không đặt ra nhiệm vụ tổ chức đào tạo các trình độ trung cấp,

cao đẳng, đại học và sau đại học cho công chức. Điều này được giải nghĩa:

khi được tuyển dụng và bổ nhiệm vào một vị trí nhất định, người công chức

đã phải đáp ứng các tiêu chuẩn của vị trí đó, trong đó có tiêu chuẩn về trình

độ đào tạo. Khi cần nguồn nhân lực có trình độ cao hơn, họ sẽ tổ chức tuyển

dụng những đối tượng đã được đào tạo trình độ họ cần mà không tổ chức

hoặc cử công chức đi đào tạo.

Ngoài ra, những tổ chức triển khai cơ quan hành chính quốc tế, tại một

số ít vương quốc lớn như: Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ,... thì sẽ không đặt ra

những pháp luật phải bồi dưỡng nhân lực vì khi được trúng tuyển hay được

19

chỉ định vào một vị trí nào thì ứng viên này đều đã phân phối được hết những

yên cầu cũng như nhu yếu của vị trí đó, mà không cần phải học bồi dưỡng.

Tức là, khi họ cần đến nguồn nhân lực có trình độ cao hơn thì sẽ triển khai

công tác làm việc tuyển dụng người đạt được tiêu chuẩn cũng như nhu yếu mà

họ đề ra. Như vậy, việc phân định độc lập giữa đào tạo và bồi dưỡng hiện nay

cũng chỉ mang tính chất tương đối, trong nhiều trường hợp không hoàn toàn

xác định chính xác khi nào diễn ra quá trình đào tạo, khi nào thực hiện bồi

dưỡng. Chẳng hạn, một công chức được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo sẽ được

học chương trình đào tạo bồi dưỡng.

Tóm lại, đào tạo bồi dưỡng chính là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có

hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp bậc đào tạo,

đồng thời vừa trang bị, cập nhật, rèn luện để nâng cao kiến thức, kỹ năng cần

thiết cho một đối tượng học tập. Thông qua quá trình đào tạo bồi dưỡng, đối

tượng được học tập có thể đạt được một trình độ kiến thức, chuyên môn, nghề

nghiệp nhất định và đồng thời làm cho họ sử dụng tốt hơn các khả năng, tiềm

năng vốn có để phát huy hết năng lực làm việc của họ.

1.1.3. Đặc điểm Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng

Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài đó là Pháp luật

về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, đồng thời có căn cứ để phân

biệt với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng khác, cần xác định rõ những đặc điểm

sau đây:

- Chủ thể đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công

chức cấp xã

Tại khoản 3 Điều 63 Luật CBCC quy định: "Việc đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã phải căn cứ vào tiêu chuẩn của từng chức vụ, chức

danh, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ, công chức" [29].

Như vậy tùy thuộc vào từng vị trí, chức danh CBCC để nhà nước quy định

20

thẩm quyền ĐTBD kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã.

Hiện nay, chủ thể có chức năng đào tạo chuyên ngành luật cho CBCC

cấp xã gồm: Khoa Luật, trường Đại học Quốc gia Hà Nội; trường Đại học

Luật Hà Nội; trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; các trường đại

học khác có đào tạo chuyên ngành luật; một số trường đào tạo chuyên ngành

trung cấp luật và các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng CBCC của các bộ, các

ngành. Đã đào tạo một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ

cao sẵn sàng bổ sung cho lực lượng CBCC cấp xã. Không chỉ đào tạo dưới

hình thức chính quy mà các trường này còn liên kết với các trường Chính trị

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, và các trường khác của tỉnh để mở các

lớp đào tạo chuyên ngành Luật với các hệ Đại học và Trung cấp dưới hình

thức đào tạo vừa học vừa làm. Các lớp học này đã thu hút được lực lượng

không nhỏ là CBCC cấp xã theo học. Ngoài các chủ thể nêu trên còn có một

chủ thể có vai trò rất quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức

pháp luật cho CBCC cấp xã đó là các trường Chính trị tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính

phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định

số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một

số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Quy định số 09-QĐ/TW,

ngày 13/11/2018 về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường Chính trị

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chức năng của trường Chính trị tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương là: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh

đạo quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ công chức ở địa phương

về lý luận chính trị - hành chính, đường lối. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ về

công tác xây dựng Đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính

21

trị xã hội, kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực

khác. Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp luật trường

Chính trị tỉnh Đắk Nông đã có các hệ đào tạo như: trung cấp lý luận chính trị -

Hành chính; trung học Hành chính - Văn thư…; ngoài ra còn có các lớp bồi

dưỡng kiến thức quản lý nhà nước; bồi dưỡng đại biểu HĐND; bồi dưỡng chủ

tịch HĐND; UBND; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng... ở những lớp này đã

dành một lượng thời gian không nhỏ cho việc giảng dạy môn Nhà nước và

pháp luật.

- Đối tượng đào tạo bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ công

chức cấp xã

Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã

chính là đội ngũ CBCC cấp xã, tùy thuộc vào sự phân loại xã để xác định số

lượng CBCC cấp xã.

Đối với xã loại 1: không quá 45 người

Đối với xã loại 2: không quá 40 người

Đối với xã loại 3: không quá 35 người

Để công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã

có hiệu quả thì phải xác định được đặc điểm cơ bản của đội ngũ CBCC cấp

xã. Cụ thể bao gồm các đặc điểm sau đây:

Một là, cán bộ chuyên trách làm việc ở cấp xã hiện nay hoàn toàn phụ

thuộc vào lá phiếu bầu cử của cử tri nên thiếu tính ổn định, dễ thay đổi sau

mỗi lần bầu cử. Đặc điểm này đã dẫn đến tình trạng có những cán bộ đã được

đào tạo, bồi dưỡng nhưng vì lý do khác nhau không trúng cử buộc phải nghỉ,

thay vào đó là những người hoàn toàn mới, để thực hiện được chức năng,

nhiệm vụ của mình phải được đào tạo, bồi dưỡng nhất là về kiến thức pháp

luật. Điều đó dẫn đến tình trạng cán bộ cấp xã chưa thực sự quan tâm hoặc chỉ

22

quan tâm tới việc học tập, bồi dưỡng nâng cao về trình độ chuyên môn cũng

như kiến thức pháp luật khi có khả năng chắc chắn giữ được vị trí của mình.

Hai là, đội ngũ CBCC cấp xã hiện nay còn thiếu tính chuyên nghiệp.

Điều này xuất phát từ một số lý do sau đây:

- Đây là đội ngũ mới được pháp luật về CBCC điều chỉnh từ năm 2003

nên cần có thời gian để hoàn thiện về kiến thức cũng như kỹ năng quản lý.

- Do hậu quả của việc thay đổi nhân sự qua bầu cử.

- Nguồn của CBCC cấp xã chủ yếu là người hiện đang sinh sống tại địa

phương, bộ đội xuất ngũ, thương binh... trong đó có nhiều người đi lên từ hoạt

động phong trào, đoàn thể phần nhiều không được đào tạo chính quy, bài bản

dẫn tới năng lực thực hiện công việc bị hạn chế.

- Trình độ văn hóa, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ không

đồng đều điều đó tạo ra sự không đồng bộ, thống nhất trong quá trình quản lý

nhà nước ở địa phương.

Ba là, thu nhập của CBCC cấp xã là tương đối thấp. Từ sau khi Pháp

lệnh sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh CBCC năm 2003 có hiệu lực thì

CBCC cấp xã đã được hưởng lương thay cho chế độ sinh hoạt phí, từ đó đến

nay nhà nước đã có nhiều quy định mới liên quan đến chế độ của đối tượng

này nhưng nhìn chung trên thực tế thu nhập của họ vẫn còn rất hạn hẹp, trong

khi khối lượng công việc lại nhiều. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc

đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức cấp xã.

Bốn là, trong công việc CBCC cấp xã thường bị ảnh hưởng tác động

của các quan hệ dòng họ, văn hóa ứng xử truyền thống, phong tục tập quán và

lối sống riêng của địa phương. Bởi phần lớn họ xuất thân từ địa phương, trực

tiếp sống và làm việc ngay tại địa phương. Với đặc điểm này một mặt, thể

hiện ưu điểm trong quá trình thực thi công vụ, nhiệm vụ dễ nắm bắt tâm tư

nguyện vọng của nhân dân, từ đó có những biện pháp phù hợp để thu yết phục

23

nhân dân thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước. Mặt khác nó làm cho CBCC cấp xã bị ràng buộc bởi những quan hệ họ

hàng, anh em, làng xóm nên nhiều khi nể nang, né trách đấu tranh hoặc ngược

lại vì quan hệ dòng họ mà tạo ra phe cánh gây mất đoàn kết nội bộ. Đó là một

trong những lý do cản trở CBCC thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn

của mình theo đúng quy định của pháp luật.Xuất phát từ những đặc điểm nêu

trên đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đặc biệt quan tâm tới công tác đào tạo,

bồi dưỡng pháp luật cho CBCC cấp xã, nhằm mục đích nâng cao kiến thức

pháp luật giúp họ khắc phục những khó khăn, hạn chế và phát huy tốt vai trò

của mình trong quản lý nhà nước ở địa phương.

1.1.4. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng

Theo quy định tại Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của

Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định

số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một

số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

Đào tạo tập trung bao gồm cả tập trung dài hạn và tập trung ngắn hạn.

Đối với tập trung ngắn hạn thời gian học là từ 6 tháng đến một năm, đối

với lớp dài hạn thời gian học trên một năm. Trong thời gian học, học viên

không phải đảm nhận công việc ở cơ quan và tập trung học liên tục theo thời

gian đã định. Hình thức này thường áp dụng cho đối tượng CBCC trẻ, dự

nguồn CBCC. Với hình thức đào tạo này người học sẽ được đào tạo một cách

chính quy, bài bản, tiếp nhận những nội dung trong chương trình học một

cách liên tục có hệ thống để có đủ năng lực đảm đương được những công việc

lâu dài.

Đào tạo bán tập trung là hình thức đào tạo dành cho nhu cầu chuẩn hóa,

nâng của trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công chức.

24

Đào tạo vừa học vừa làm là đào tạo không tập trung, dành cho những

người đã có thời gian làm việc hoặc phục vụ tại địa phương, cơ quan, doanh

nghiệp từ 12 tháng trở lên. Đây là một hình thức đào tạo mà được rất nhiều

CBCC cấp xã lựa chọn, một mặt để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ

của mình mặt khác vẫn đảm bảo được công việc tại cơ quan, đơn vị nơi mình

đang làm việc. Với hình thức này đã góp một phần không nhỏ trong công tác

đào tạo CBCC cấp xã nói chung và công tác đào tạo kiến thức pháp luật nói

riêng góp phần đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ CBCC cấp xã.

Đào tạo từ xa là quá trình giáo dục mà trong đó phần lớn hoặc toàn bộ

quá trình giáo dục - đào tạo có sự tách biệt giữa ngườì học và người dạy về

mặt không gian hoặc thời gian.

Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã được thực hiện thông

qua hình thức chủ yếu là các lớp bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn nhưng lại

được thực hiện một cách thường xuyên để kịp thời cập nhật những văn bản

quy phạm pháp luật mới ban hành hoặc mới được sửa đổi, bổ sung.

1.1.5. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

Phương pháp là biện pháp, cách thức mà giảng viên sử dụng để truyền

đạt những kiến thức, kỹ năng cho người học. Tùy thuộc vào mục đích, nội

dung, đối tượng, thời gian để các giảng viên lựa chọn phương pháp giảng dạy

cho phù hợp. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều chỉ dẫn về quy

trình, cách thức, phương pháp đào tạo, huấn luyện CBCC. Người cho rằng

việc cốt yếu là làm cho người học hiểu được vấn đề nhưng để hiểu thấu, hiểu

sâu có hiều cách dạy. Có cách dạy tỉ mỉ tốn nhiều thời gian, có cách dạy bao

quát điều đó phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh. Song điều quan trọng ở chỗ

dạy như thế nào để người học từ chỗ hiểu đúng, hiểu thấu vấn đề đi đến vận

dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Có như vậy đội ngũ CBCC mới vừa đảm

bảo có tri thức, vừa có những kỹ năng cần thiết để giải quyết công việc. Trong

25

nhiều bài viết của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh "Học đi đôi với

hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội".

Bởi theo quan niệm của người "học mà không hành thì học vô ích, hành mà

không học thì hành không trôi chảy". Học không chỉ trong sách vở, trong nhà

tr ường mà còn phải "học lẫn nhau và học trong nhân dân" [18, tr. 39].

Kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta

hiện nay chủ trương thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học sử dụng

phương pháp ĐTBD thích hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là

trong đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã, đây là chủ thể

trực tiếp tiếp xúc với dân, trực tiếp giải quyết các yêu cầu của công dân. Vì

vậy trong quá trình ĐTBD không chỉ là cung cấp thông tin về pháp luật mà

phải biết dụng những phương pháp tích cực phát huy tính chủ động, tư duy

sáng tạo của người học tăng cường đối thoại, trao đổi thông tin, kiến thức,

kinh nghiệm giữa giảng viên với học viên, giữa học viên với nhau thông qua

phương pháp sử dụng tình huống để họ cùng nhau tìm ra phương án giải

quyết tối ưu nhất. Từ đó dần dần hình thành kỹ năng trong giải quyết công

việc thực tiễn, đem lại hiệu quả cao nhất trong quản lý nhà nước, quản lý xã

hội ở địa phương.

Xuất phát từ đối tượng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho

CBCC cấp xã chính là đội ngũ CBCC cấp xã. Nên khi lựa chọn phương pháp

giảng dạy cần lưu ý một số điểm sau đây:

- Đội ngũ CBCC cấp xã là những người có trình độ văn hóa, lý luận

chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật không đồng đều, tính

chất công việc của mỗi người lại hoàn toàn khác nhau. Do đó khi lựa chọn

phương pháp giảng dạy phải tính đến yếu tố đặc thù của từng đối tượng.

Tránh tình trạng nhàm chán hoặc có một số người không tiếp thu được những

thông tin mà giảng viên truyền đạt. Phương pháp đã được sử dụng có hiệu quả

26

hay không nó được đánh giá bằng kết quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn

của người học.

- Đội ngũ CBCC cấp xã là những người hiện đang làm việc ở các cơ

quan, tổ chức ở cấp xã nên chủ yếu là họ tham gia học dưới hình thức đào tạo

vừa học vừa làm hay những lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật ngắn ngày.

Hình thức này giúp họ duy trì được hoạt động thực hiện nhiệm vụ thường

xuyên vừa đáp ứng được nguyện vọng, nhu cầu trang bị kiến thức pháp luật

để hoàn thành tốt công việc quản lý ở địa phương. Khi lựa chọn phương pháp

giảng dạy ngoài việc căn cứ vào nội dung, mục đích, đối tượng, thời gian…

giảng viên còn phải biết kết hợp giữa lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật ở

chính địa phương đó.

1.2. Nội dung pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã

Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ quyền hạn của mình và đạt được

hiệu quả cao trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương.

Đội nguc cán bộ, công chức cấp xã cần phải được đào tạo, bồi dưỡng

kiến thức pháp luật một cách toàn diện và có hệ thống. Tuy nhiên, để tránh

tính trạng đào tạo, bồi dưỡng một cách dàn trải, thiếu tập trung, cần phải lựa

chọn những nội dung có liên quan trực tiếp tới nhiệm vụ, quyền hạn của

CBCC cấp xã cụ thể bao gồm các nội dung sau:

1.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức

cấp xã về cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính

quyền cấp xã

Cán bộ, công chức cấp xã là những người đang trực tiếp làm việc tại

các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Muốn cho hệ thống

chính trị cấp cơ sở hoạt động một cách có hiệu quả, nâng cao năng lực lãnh

đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng hoạt động

27

của HĐND, UBND, bản thân CBCC cấp xã phải hiểu rõ về cơ cấu, tổ chức,

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp xã và nhiệm vụ, quyền

hạn của mình. Chỉ có như vậy thì mới có cơ sở về mặt pháp lý để họ thực hiện

tốt chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội theo thẩm quyền, Tránh tình

trạng lạm dụng quyền hạn hoặc không dám làm những việc thuộc trách

nhiệm, quyền hạn của mình do thiếu hiểu biết về pháp luật. Như vậy, đào tạo,

bồi dưỡng các kiến thức pháp luật về cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của cấp xã là trang bị cho họ những kiến thức lý luận cơ bản, là

nền tảng quyết định hiệu quả thực thi pháp luật ở cơ sở.

1.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức

cấp xã về trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước thuộc

thẩm quyền của cấp xã

Do điều kiện lịch sử để lại CBCC cấp xã mới được pháp luật về CBCC

điều chỉnh và có quy định chuẩn hóa về chất lượng từ năm 2003 trở lại đây.

Đội ngũ CBCC cấp xã chủ yếu là do bộ đội xuất ngũ chuyển qua làm

công tác quản lý ở địa phương hoặc là những người vì nhiều lý do khác nhau

không thoát ly khỏi đại phương ở nhà tham gia công tác quản lý, có những

người đi lên từ hoạt động phong trào, đoàn thể. Do vậy họ còn thiếu tính

chuyên nghiệp trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Những sản phẩm mà

họ đạt được chủ yếu là sản phẩm của lòng nhiệt tình kết hợp với kinh nghiệm

cá nhân. Họ có khả năng nhìn nhận nắm bắt và vận dụng kinh nghiệm cá nhân

để giải quyết công việc một cách nhanh chóng, phù hợp với tập quán của địa

phương. Tuy nhiên khi thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước thuộc chức

năng, nhiệm vụ của mình thì họ lại lúng túng trong việc vận dụng những quy

định của pháp luật và kiến thức khoa học để giải quyết các công việc theo luật

định và phù hợp với thực tiễn. Cụ thể như giải quyết các tình huống phát sinh

trong quá trình quản lý như các tranh chấp về đất đai, hôn nhân gia đình, dân

28

sự, hoạt động đăng ký và quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, hộ tịch, chứng thực;

các vấn đề liên quan đến chế độ chính sách, quyền và nghĩa vụ của công dân;

kỹ năng soạn thảo văn bản còn yếu, nhiều văn bản ban hành sai thẩm quyền,

sai thể thức, ngôn ngữ trong văn bản chưa rõ ràng chuẩn xác. Tất cả những

vấn đề đó làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lòng

tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước đồng thời đó là điểm yếu giúp cho

một số đối tượng lợi dụng sự thiếu hiểu biết về pháp luật của CBCC cấp xã để

thực hiện những hành vi trái pháp luật vì mục đích cá nhân. Vì những lý do

nêu trên mà trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật

cho CBCC cấp xã cần phải quan tâm tới nội dung về trình tự, thủ tục thực

hiện các hoạt động quản lý nhà nước thuộc thẩm quyền của họ. Có như vậy,

mới từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động quản lý của

CBCC cấp xã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng yêu

cầu trong thời kỳ đổi mới, hội nhập hiện nay.

1.2.3. Đào tạo, bồi pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã về quyền

tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân

CBCC cấp xã có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hướng dẫn cho

công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Thông qua

hoạt động của CBCC cấp xã sẽ xuất hiện thông tin hai chiều một mặt đường

lối, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước sẽ được triển

khai thực hiện trong thực tế,, mặt khác những tâm tư, nguyện vọng của nhân

dân sẽ được phản ánh với Đảng và Nhà nước từ đó có những chính sách phù

hợp với thực tiễn quản lý. Muốn thực hiện được vai trò là nối cầu nối giữa

Đảng, nhà nước và nhân dân thì bản thân CBCC cấp xã phải được đào tạo, bồi

dưỡng các kiến thức pháp luật về quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của

công dân để thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, chỉ rõ cho công

dân những việc pháp luật cấm và những việc mà pháp luật không cấm đồng

29

thời hướng dẫn cho họ làm như thế nào, làm đến đâu để tự bảo về quyền và

lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó CBCC cấp xã là người thay mặt cho

nhân dân tham gia và các cơ quan nhà nước trực tiếp bảo đảm cho những

quyền tự do, dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong phạm vi

địa phương mình quản lý.

1.2.4. Đào tạo kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã về

khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo

Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân, là một cách để nhân

dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, tham gia quản lý nhà n ước, quản lý xã

hội. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định:

"Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,

tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào". Vì vậy,

đòi hỏi nhà nước phải thiết lập cơ chế bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại, tố

cáo một cách có hiệu quả. Thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo

công dân đã tham gia một cách tích cực vào hoạt động giám sát các cơ quan

công quyền và CBCC. Thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo để Nhà

nước nắm được nguyện vọng của nhân dân, thấy được hành vi của các cơ

quan nhà nước, tổ chức và CBCC có đúng pháp luật không. Từ đó, có những

biện pháp chấn chỉnh kịp thời trong hoạt động quản lý Nhà nước nhằm tăng

cường hoạt động của cơ quan nhà nước, CBCC để bộ máy nhà nước ngày

càng hoàn thiện hơn và hoạt động hiệu quả hơn.

Đội ngũ CBCC cấp xã là những người hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với

nhân dân trực tiếp giải quyết những yêu cầu, thắc mắc của nhân dân. Do đó

nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo của chính quyền cấp xã là

một yêu cầu đặt ra.Vì vậy trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng các kiến

thức pháp luật cho CBCC cấp xã cần phải quan tâm tới việc hướng dẫn cho

30

học viên về thẩm quyền, trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo để họ kịp thời giải

quyết đúng về thời gian, đúng về thẩm quyền, đưa ra được cách giải quyết tối

hợp lý, hạn chế tình trạng khiếu nại đông người, khiếu nại vượt cấp gây mất

ổn định về chính trị tại địa phương. Có như vậy yêu cầu, nguyện vọng chính

đáng của nhân dân mới được thực hiện. Từ đó, tạo ra lòng tin của nhân dân

vào Đảng, Nhà nước, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý

xã hội là động lực thúc đẩy mọi người cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và làm

tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước.

1.2.5. Đào tạo kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã về

thực hiện dân chủ ở cơ sở

Dân chủ chính là quyền làm chủ của con người trong xã hội về chính

trị, dân sự, kinh tế, gắn liền với mỗi cá nhân không thể chuyển dịch cho người

khác đồng thời nó gắn liền với trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân. Dân chủ

là quá trình vận động liên tục thông qua mối quan hệ giữa nhà nước và công

dân mối quan hệ đó đòi hỏi phải được quy định và điều chỉnh bằng pháp luật.

Pháp luật là cơ sở pháp lý quy định và ảm bảo cho các quyền tự do dân chủ

của công dân được thực hiện trong thực tế. Pháp luật về thực hiện dân chủ ở

Việt Nam được hình thành từ rất sớm ngay từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến

pháp năm 2013 và được cụ thể hóa bằng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn (gọi tắt là pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở) để phát huy

quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh vật chất tinh thần to lớn của

nhân dân. Vì vậy, phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã

được cụ thể hóa trong nội dung của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ ở. Việc

áp dụng như thế nào cho có hiệu quả vào điều kiện cụ thể của từng địa

phương đòi hỏi phải nâng cao nhận thức cho toàn thể nhân dân đặc biệt là cho

đội ngũ CBCC cấp xã. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở phải được triển

khai toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của

31

địa phương. Quyền tự do dân chủ của nhân dân muốn thực hiện được thì phải

thông qua chính quyền cấp xã mà trực tiếp là đội ngũ CBCC là những người

trực tiếp giải quyết những yêu cầu, vướng mắc của nhân dân. Muốn thực hiện

tốt điều đó thì họ phải được trang bị một cách có hệ thống và bổ sung kịp thời

các quy định của pháp luật về trách nhiệm, quyền hạn của mình cũng như

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ đó thực hiện việc tuyên truyền,

giáo dục pháp luật, có biện pháp bảo đảm cho những quyền và nghĩa vụ đó

được thực hiện. Là tiền đề quan trọng cho ý thức và thực tiễn dân chủ tồn tại

và phát triển.

Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở là

một nội dung quan trọng trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức

pháp luật cho CBCC cấp xã. Từ đó giúp họ nhận thức một cách đầy đủ về mối

quan hệ "Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" đây là ba yếu

tố không thể tách rời trong mọi phương hướng cũng như hoạt động ở mỗi địa

phương. Vai trò của Đảng có phát huy cao độ, nhà nước có quản lý tốt thì

nhân dân mới có thể thực hiện được quyền dân chủ của mình.

Tóm lại nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC

cấp xã cần phải được xây dựng trên nhu cầu thực tiễn về quản lý nhà nước, về

thực trạng trạng kiến thức pháp luật của CBCC cấp xã. Để sau khi được đào

tạo, bồi dưỡng họ có thể vận dụng ngay vào hoạt động quản lý ở địa phương.

Những kiến thức pháp luật được trang bị sau mỗi khóa học cùng với kinh

nghiệm công tác sẽ giúp họ củng cố thêm kiến thức, nâng cao trình độ, năng

lực, giải quyết các tình huống phát sinh trong quá trình quản lý tại địa phương

một cách nhanh chóng, chính xác và khoa học hơn.

1.3. Yêu cầu và điều kiện đào tạo, bồi dưỡng

Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN,

nên việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã là

32

một yêu cầu cấp bách hiện nay. Bởi một trong những đặc trưng cơ bản của

nhà nước pháp quyền đó là tính tối cao của luật. Thông qua pháp luật quyền

tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được đảm bảo thực hiện

và nó thể hiện quan hệ đồng trách nhiệm giữa nhà nước và công dân. Đứng

trước yêu cầu đó hoạt động đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho

đối tượng CBCC cấp xã phải đáp ứng được một số yêu cầu sau đây.

- Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp

xã nhằm nâng cao ý thức pháp luật để họ thực hiện tốt vai trò quản lý nhà

nước, quản lý xã hội ở địa phương.

Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật để tập trung xây dựng một

đội ngũ CBCC cấp xã có đầy đủ những kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức

và tinh thần trách nhiệm trước Nhà nước, trước nhân dân, thực sự là một bộ

phận gương mẫu nổi trội hơn so với nhân dân địa phương về trình độ hiểu biết

pháp luật và nhất là thái độ, hành vi tuân thủ và chấp hành pháp luật. Đây là

một trong những yêu cầu cơ bản của đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp

luật cho CBCC cấp xã bởi họ là những người gần dân nhất, có trách nhiệm

lãnh đạo nhân dân, định hướng cho nhân dân thực hiện đúng quy định của

pháp luật nên đòi hỏi họ phải luôn có ý thức và hành động gương mẫu, tiên

phong trong việc chấp hành pháp luật ở địa phương.

Đội ngũ CBCC cấp xã không chỉ hiểu biết pháp luật để chấp hành đúng

pháp luật giống như mọi công dân khác, mà họ còn phải có trách nhiệm tuyên

truyền, giáo dục và tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện pháp luật. Do đó ý

thức và hiểu biết về pháp luật của CBCC cấp xã phải cao hơn quần chúng

nhân dân, để có được điều đó thì họ phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách

nghiêm túc, bài bản nhằm chấm dứt tình trạng CBCC điều hành công việc

không dựa vào quy định của pháp luật mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của

bản thân. Đào tạo, bồi dưỡng pháp luật cho CBCC cấp xã là trang bị cho họ

33

một lượng kiến thức pháp luật cần thiết để thực hiện tốt vai trò quản lý nhà

nước, quản lý xã hội ở địa phương.

- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã

giúp họ thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và

đưa ra được phương án giải quyết tối ưu nhất đối với những tình huống cụ thể

phát sinh trong quá trình quản lý Pháp luật là công cụ, phương tiện chủ yếu

để CBCC nói chung cũng như CBCC cấp xã thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của mình, đồng thời là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mỗi

cá nhân. Vấn đề nhận thức, vận dụng công cụ pháp luật như thế nào cho đúng

đắn để khai thác, phát huy hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã hội của

pháp luật lại là điều không đơn giản. Muốn thực hiện được điều này thì

CBCC cấp xã phải có kiến thức pháp luật vững vàng.

Để xác định được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy

định của pháp luật và biết mình được làm gì, không được làm gì, làm đến đâu,

làm như thế nào trong từng trường hợp cụ thể. Có như vậy, năng lực hoạt

động của chính quyền cấp xã mới đảm bảo và ngày càng được nâng cao,

quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân mới được đảm bảo, lòng tin của

nhân dân vào Đảng và nhà nước mới được củng cố.

Việc đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã giúp

họ có vốn kiến thức pháp luật vững vàng, hạn chế được những hành vi, vi

phạm pháp luật. Điều quan trọng hơn cả là sau khi được đào tạo, bồi dưỡng

các thì bản thân mỗi CBCC cấp xã phải vận dụng những nội dung kiến thức

pháp luật được tiếp thu để phục vụ cho công tác quản lý theo đúng chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

- Thông qua đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công

chức cấp xã để chính quyền cấp xã thực sự là cầu nối giữa nhà nước và nhân

dân và đảm bảo tính khả thi của pháp luật Cấp xã là cấp chính quyền cơ sở, là

34

nền tảng cho hệ thống chính trị ở nước ta. Nhà nước có thực hiện được vai

trò quản lý, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân có được đảm bảo hay

không phụ thuộc rất nhiều vào chính quyền cấp xã, nó được thể hiện thông

qua hoạt động của đội ngũ CBCC cấp xã. Bằng chính những hoạt động cụ

thể khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình CBCC cấp xã thực sự trở

thành cầu nối giữa nhà nước và công dân.

Được đào tạo, bồi dưỡng các nâng cao hiểu biết pháp luật, CBCC cấp

xã phải biết vận dụng những nội dung đã được học để phục vụ cho công tác

quản lý của mình, đưa đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật

của nhà nước vào cuộc sống. Trong quá trình đưa ra chủ trương đường lối

chính sách của Đảng, ban hành pháp luật của nhà nước thì cấp xã là khâu đầu

tiên trong việc thu nhận thông tin, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân

dân. Bằng những hiểu biết pháp luật của mình CBCC cấp xã phải biết chọn

lọc những yêu cầu nào của công dân là hợp pháp, hợp lý để đề xuất, kiến nghị

với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung kể cả

ban hành mới những văn bản pháp luật đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính

đáng của công dân. Ngược lại với những yêu cầu không hợp pháp, không hợp

lý thì cũng phải vận dụng quy định của pháp luật hiện hành để giải thích cho

công dân hiểu tránh tình trạng có thái độ, phản ứng không đúng chuẩn mực

gây sự bất bình trong nhân dân, thậm chí trở thành "điểm nóng" gây mất ổn

định về chính trị trên địa bàn địa phương. Vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng các các

kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã là một trong những biện pháp, cách

thức hữu hiệu nhất xích gần khoảng cách giữa nhà nước và công dân, củng cố

lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Đây là một biện pháp đảm bảo

tính khả thi của pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và phản ánh thực

trạng xã hội vào pháp luật.

- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã

35

phải theo tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý và bồi dưỡng theo

vị trí làm việc CBCC cấp xã được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trình

độ học vấn và chuyên ngành đào tạo khác nhau, hiểu biết về pháp luật của họ

cũng khác nhau. Tùy thuộc vào vị trí, tính chất công việc mà mỗi CBCC cấp

xã đảm nhiệm thì yêu cầu, góc độ kiến thức pháp luật mà họ cần tiếp cận là

khác nhau.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác đào tạo, bồi

dưỡng các CBCC, điều cốt yếu nhất trong công tác đào tạo, bồi dưỡng các

CBCC là phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và phải đáp ứng đúng nhu cầu

đó. Người nhấn mạnh: "Huấn luyện là phải đúng nhu cầu… huấn luyện cán

bộ cho các ngành công tác: Đoàn thể, Mặt trận, Chính quyền, Quân đội. Các

ngành công tác như người tiêu thụ hàng. Ban huấn luyện như người làm ra

hàng. Làm ra hàng phải đúng với nhu cầu tiêu thụ"[25,tr48]. Trong quá trình

đào tạo, bồi dưỡng các phải: "Làm việc gì học việc ấy, cán bộ môn nào phải

học cho thạo môn ấy"[24tr270]. Điều đó như một định hướng cho công tác

đào tạo, bồi dưỡng nói chung và đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật

cho CBCC cấp xã nói riêng trong mọi thời kỳ.

Chính vì vậy, ngoài những kiến thức pháp luật cơ bản, mang tính tổng

thể ra trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho đội ngũ

CBCC cấp xã phải đặc biệt quan tâm tới những nội dung. Nội dung đó phải

phù hợp với từng vị trí, từng chức danh, chức vụ công tác của CBCC. Để sau

khi được đào tạo, bồi dưỡng họ có thể sử dụng ngay những kiến thức pháp

luật đó để phục vụ cho công tác quản lý của mình.

- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công

chức cấp xã phải đảm bảo tính hệ thống đồng thời phải cập nhật được các văn

bản quy phạm pháp luật mới ban hành Pháp luật là một trong những yếu tố

thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, pháp luật phát sinh tồn tại trên cơ sở hạ

36

tầng xã hội và do cơ sở hạ tầng quyết định, với sự nghiệp công nghiệp hóa

hiện đại hóa đất nước, sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế

và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật

hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ. Đứng trước yêu cầu đó Nhà nước đã sửa

đổi bổ sung và ban hành mới hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật nhằm

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước.

Thực tế cho thấy, hiện nay công tác xây dựng pháp luật được Đảng và

Nhà nước đặc biệt quan tâm, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện,

tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Những văn bản quy phạm pháp luật đó

có được triển khai thực hiện trong thực tế hay không phụ thuộc rất nhiều vào

đội ngũ CBCC cấp xã. Vì vậy trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp

xã nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải mang tính tổng thể nhưng vẫn phải đi

vào từng nội dung cụ thể phù hợp với đối tượng. Điều quan trọng hơn cả là

phải cập nhật được những văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành để

họ nắm bắt và vận dụng ngay vào công việc cụ thể của mình. Tránh tình trạng

văn bản quy phạm pháp luật mới đã được ban hành nhưng lại không được

triển khai thực hiện trong thực tế gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính

đáng của công dân. Việc cập nhật những văn bản quy phạm pháp luật mới

được ban hành vừa là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,

các đơn vị đào tạo và của chính bản thân mỗi cán bộ, công chức. Cơ quan nhà

nước có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến

thức pháp luật để giới thiệu, tuyên truyền nội dung của những văn bản quy

phạm pháp luật mới được ban hành, các đơn vị đào tạo phải có trách nhiệm

cập nhật và đưa những thông tin pháp luật mới đưa vào trong chương trình

đào tạo, bồi dưỡng, bản thân mỗi cán bộ, công chức phải luôn có ý thức cập

nhật những văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành bằng nhiều cách

thức khác nhau hoặc là thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng hoặc là bằng

37

cách tự học hỏi để kịp thời tiếp cận và nắm bắt những văn bản quy phạm pháp

luật mới phục vụ cho công tác quản lý ở cơ sở đạt được hiệu quả cao. Đây

chính là con đường ngắn nhất đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống.

Đây là một yêu cầu quan trọng trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng

kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã. Nếu yêu cầu này được thực hiện tốt là

điều kiện để CBCC và nhân dân địa phương sử dụng đúng quy định của pháp

luật hiện hành làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

Nhà nước, xã hội và của bản thân góp phần đảm bảo trật tự quản lý nhà nước,

quản lý xã hội, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân

dân, do nhân dân và vì nhân dân.

- Điều kiện đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công

chức cấp xã

Để hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã

đạt được hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu đổi mới hiện nay, cần phải đáp

ứng một số điều kiện sau đây.

+ Có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ công chức cấp xã

hoàn thiện Luật CBCC năm 2008, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật

cán bộ, công chức, viến chức năm 2019, đã dành riêng một chương quy định

về CBCC cấp xã. Những nội dung đó đã được Chính phủ cụ thể hóa thông

qua một số văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định số112/2011/NĐ -CP

ngày 05 tháng 12năm 2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn;

Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4năm 2019 của Chính phủ sửa

đổi bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố; Nghị định số

92/2009/NĐ-CP quy định về chức danh, số lượng và một số chính sách đối

với CBCC cấp xã. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tuyển

dụng, quản lý và sử dụng CBCC cấp xã. Tuy nhiên pháp luật về CBCC cấp

38

xã vẫn cần phải hoàn thiện hơn nữa về một số nội dung như tuyển dụng, các

chế độ chính sách đối với cán bộ chuyên trách không trúng cử sau mỗi lần

bầu cử cần phải rõ ràng cụ thể hơn. Điều đó sẽ làm cho CBCC yên tâm hơn

khi học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kiến thức

pháp luật. Từ đó làm cho họ luôn luôn mong muốn phấn đấu không ngừng

học tập, rèn luyện thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình trong mọi hoàn

cảnh.

+ Phải có đội ngũ giảng viên, báo cáo viên pháp luật có trình độ chuyên

môn cao, có nghiệp vụ sư phạm tốt, được trang bị đầy đủ kiến thức về lý luận

và thực tiễn.

Để thực hiện tốt chương trình đào tạo, bồi dưỡng pháp luật cho CBCC

cấp xã cần phải có một đội ngũ giảng viên, báo cáo viên pháp luật được đào

tạo một cách chính quy, bài bản ở một số trường đào tạo chuyên ngành luật.

Tuy nhiên, để trở thành một giảng viên, báo cáo viên tốt mới chỉ có

trình độ chuyên môn vững vàng thì chưa đủ mà còn cần phải có kỹ năng sư

phạm tốt tức là phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp với đối tượng, thời

điểm, địa điểm và phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn ở

mỗi một địa phương cụ thể.

Thông thường giảng viên dạy pháp luật ở các trường đại học, cao đẳng,

trung cấp và một số đơn vị có chức năng đào tạo, bồi dưỡng phải được đào

tạo ở các trung tâm đào tạo chuyên ngành luật như: Khoa Luật trường Đại học

Quốc gia Hà Nội, trường Đại học Luật Hà Nội, trường Đại học Luật thành

phố Hồ Chí Minh… trong thực tế hiện nay, vẫn còn một bộ phận giảng viên

giảng dạy môn pháp luật nhưng lại không được đào tạo chuyên ngành luật.

Ngược lại có một số giảng viên được đào tạo chính quy, bài bản tại các

trường đại học đào tạo chuyên ngành luật nhưng lại không có nghiệp vụ sư

phạm. Đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp tới chất

39

lượng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật. Để nâng cao chất lượng đào

tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC nói chung cũng như CBCC cấp

xã nói riêng thì nhà nước phải có những quy định cụ thể để chuẩn hóa đội ngũ

giảng viên giảng dạy pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới. Đã

phân tích nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho

CBCC phải phù hợp với đối tượng, thời gian, hình thức đào tạo. Mà đối tượng

học viên ở đây là CBCC cấp xã cho nên ngoài kiến thức lý luận còn đòi hỏi

giảng viên phải tích lũy một lượng kiến thức thực tiễn phong phú, đặc biệt là

phải kịp thời nắm bắt được những thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, văn

hóa - xã hội, phong tục tập quán của từng địa phương. Từ đó hướng dẫn cho

học viên biết cách vận dụng những quy định của pháp luật để giải quyết các

tình huống cụ thể phát sinh trong quá trình quản lý phù hợp với đặc thù của

mỗi địa phương.

Muốn có đội ngũ giảng viên đảm bảo chất lượng về chuyên môn và

nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp thì nhà nước phải có chính sách quan tâm

thỏa đáng tới đời sống về vật chất lẫn tinh thần của họ, đồng thời cần có chính

sách tạo điều kiện cho họ được học tập nâng cao chất lượng về chuyên môn,

nghiệp vụ nhằm phát huy hơn nữa khả năng của họ trong công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức.

Đứng trước yêu cần đổi mới hiện nay và đảm bảo tính bền vững

trongđào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã, đòi hỏi phải

có đội ngũ giảng viên kế cận để sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi yêu cầu thực tế

đặt ra.

- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức phải

có nội dung, hình thức và phương pháp phù hợp với đối tượng đào tạo, bồi

dưỡng nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ,

công vụ, góp phần xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp có đủ năng lực

40

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

Ở phần đặc điểm của đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC

cấp xã đã phân tích đối tượng CBCC cấp xã được hình thành từ nhiều nguồn

khác nhau có trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, tuổi đời …

khác nhau Có người có trình độ ở bậc đại học, một số ít có trình độ ở bậc sau

đại học nhưng bên cạnh đó vẫn một bộ phận lớn người có trình độ ở bậc sơ

cấp hoặc chưa qua đào tạo. Xuất phát từ đối tượng như vậy nên việc lựa chọn

nội dung phương pháp cho phù hợp là hết sức khó khăn. Nội dung và phương

pháp giảng dạy một mặt phải đảm bảo được lượng thông tin đưa ra, mặt khác

phải làm cho người có trình độ cao không thấy chán, người có trình độ thấp

dễ tiếp thu. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp giảng dạy của

giảng viên sao cho nội dung trở nên sinh động, hấp dẫn người biết rồi, hiểu

rồi vẫn thấy mới và vẫn muốn nghe. Cũng xuất phát từ đối tượng là CBCC

cấp xã là những người hiện đang làm việc tại các c ơ quan, tổ chức ở cấp xã

nên hình thức đào tạo, bồi dưỡng là vấn đề mà họ quan tâm. Theo Nghị định

số Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày

18/10/2021 của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định

số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức, viên chức có bốn hình thức đó là tập trung, bán tập trung, vừa

học vừa làm và đào tạo từ xa.Trong bốn hình thức này thì vừa học vừa làm là

hình thức được CBCC cấp xã lựa chọn nhiều nhất bởi nó phù hợp với điều

kiện thực tế họ vừa có thể học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,

kiến thức pháp luật đồng thời vừa thực hiện được những công việc tại cơ

quan, đơn vị theo chức năng nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp cơ sở.

41

+ Phải có cơ sở vật chất đầy đủ để phục vụ cho việc nghiên cứu, học

tập và giảng dạy kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã. Tham gia

vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng pháp luật cho CBCC cấp xã, yếu tố con

người là quyết định. Nhưng sự thành công của sự nghiệp giáo dục, đào tạo

còn có sự đóng góp không nhỏ của yếu tố vật chất. Một giảng viên muốn

hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình năng lực bản thân thôi chưa đủ mà còn cần

rất nhiều yếu tố hỗ trợ khác như tài liệu, sách, báo, thư viện, mạng

internet…ngoài ra muốn tổ chức được lớp học còn phải có kinh phí, giảng

đường, loa đài, máy chiếu, máy tính…như vậy vật chất là yếu tố không thể

thiếu trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã

trong điều kiện thực tế hiện nay.

Hiện nay nhà nước đã có một số chính sách cụ thể quy định về kinh phí

đào tạo, bồi dưỡng CBCC tạo điều kiện cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng

CBCC cấp xã ngày càng có hiệu quả hơn.

Tóm lại, với vai trò quan trọng của đội ngũ CBCC cấp xã, việc đào tạo,

bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho đối tượng này là vấn đề cấp thiết hiện

nay nhằm nâng cao ý thức pháp luật, kỹ năng giải quyết các tình huống, năng

lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội của CBCC cấp xã để họ thực sự trở

thành cầu nối giữa nhà nước và nhân dân

42

Tiểu kết chương 1

Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng đối với CBCC là cơ sở lý luận, nội dung

pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức để thực hiện đồng bộ các

nội dung cải cách hành chính nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu hiện đại

hóa nền hành chính ở nước ta hiện nay. Trước yêu cầu của Cải cách thể chế;

Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước;

Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính công và xây dựng, phát triển

Chính phủ điện tử, chính phủ để đạt được mục tiêu Xây dựng nền công vụ

chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài; thực hiện cơ chế cạnh

tranh lành mạnh, dân chủ, công khai, minh bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán

bộ và tuyển dụng công chức, để thu hút người thật sự có đức, có tài vào làm

việc trong các cơ quan hành chính nhà nước.

Trong chương 1 tác giả đã tập trung nghiên cứu các khái niệm liên quan

đến công tác đào tạo, bồi dưỡng những lý luận chung về pháp luật đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức trên cơ sở đó phân tích làm rõ những yếu tố ảnh

hưởng đến quá trình pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Toàn bộ các nội dung lý

luận ở chương 1, sẽ được sử dụng làm căn cứ khoa học để tiến hành phân tích,

đánh giá thực trạng pháp luật thực hiện quy định pháp luật về đào tạo, bồi

dưỡng đối với cán bộ, công chức cấp xã (qua thực tiễn tại thành phố Gia

Nghĩa, tỉnh Đăk Nông) trong chương 2 và đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật

và thực hiện hiệu quả pháp luật trong chương 3.

43

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ (QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐĂK NÔNG)

2.1. Tổng quan về tình hình thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và dân cư

Thị xã Gia Nghĩa được thành lập theo Nghị định số 82/2005/NĐ-CP

ngày 27/6/2005 của Chính phủ; ngày 17/12/2019 tại Nghị quyết số 835/NQ-

UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nâng cấp lên nay là thành

phố Gia Nghĩa được thuộc tỉnh Đắk Nông; có diện tích tự nhiên trên

28.411.92 ha, gồm 08 đơn vị hành chính cấp xã, 21 thôn, 06 bon, 35 tổ dân

phố, dân số trên 71 ngàn người với 31 dân tộc anh em cùng sinh sống, dân tộc

thiểu số chiếm trên 11,6% dân số toàn thành phố.

2.1.2. Về vị trí địa lí

Thành phố Gia Nghĩa nằm ở phía Nam của tỉnh Đắk Nông, cách thành

phố Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk 120 km; thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình

Phước 110km; trên giao điểm quốc lộ 14 và quốc lộ 28; có diện tích

284,11km2, có nhiều địa hình phức tạp, bao gồm nhiều dãy đồi núi mấp mô

xen kẽ nhiều khe suối tự nhiên lớn, nhỏ tạo thành dạng địa hình chia cắt

mạnh.

- Đặc điểm về kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh - trật tự

Những năm qua, các lĩnh vực về văn hóa xã hội được cấp ủy, chính

quyền địa phương quan tâm nên ngày càng cải thiện về chất lượng trên các

lĩnh vực. Công tác giáo dục và đào tạo trên địa bàn thành phố có nhiều

chuvển biến tích cực về quy mô, chất lượng dạy học, cơ sở vật chất được

quan tâm đầu tư. Toàn thành phố có 45 cơ sở giáo dục (Trong đó 09 trường

mẫu giáo công lập; 06 trường mẫu giáo tư thục; 13 trường tiểu học; 08 trường

THCS; 04 trường THPT (01 trường phổ thông dân tộc nội trú, 01 trường

44

THPT chuyên, 02 trường THPT Công lập); 01 Trường Chính trị tỉnh; 01

trường cao đẳng; 01 trường trung cấp, 01 Trung tâm Ngoại ngữ, Tin học;

Tổng khoản hơn 29.650 học sinh, sinh viên các cấp; trong đó có khoảng hơn

6.000 học sinh dân tộc thiểu số. Tỷ lệ xét công nhận hoàn thành chương trình

bậc tiểu học hàng năm đạt trên 99%; xét công nhận tốt nghiệp THCS đạt trên

98%; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Nông tổ chức tốt các kỳ

thi THPT Quốc gia bình quân khoản 96%.

Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao chào

mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước và địa phương phản ánh kịp thời

các sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa

bàn thành phố.

- Về quốc phòng - an ninh

Đảng bộ thành phố Gia Nghĩa có 36 tổ chức cơ sở đảng (trong đó 11

Đảng bộ trực thuộc và 25 chi bộ trực thuộc) với 136 chi bộ trực thuộc đảng bộ

cơ sở; tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ thành phố Gia Nghĩa là 2.875

đảng viên (trong đó đảng viên nữ có 1.049 đồng chí; đảng viên là người dân

tộc thiểu số 156 đồng chí; đảng viên là người có đạo 36 đồng chí).

Nhìn chung, các lĩnh vực giáo dục, văn hóa xã hội được quan tâm, triển

khai kịp thời, hiệu quả; công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân

được chú trọng; thực hiện hiệu quả chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo; tình

hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn được đảm bảo, an ninh nông thôn được

giữ vững. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được xử lý kịp thời đúng theo

trình tự thủ tục, hạn chế các vụ việc khiếu kiện đông người trên địa bàn thành

phố. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện,

đạt kết quả tích cực.

2.2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy hành chính nhà nước thành phố Gia

Nghĩa, tỉnh Đăk Nông

45

UBND TP GIA NGHĨA

ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP

CƠ QUAN CHUYÊN MÔN

UBND XÃ

ĐẮK NIA

VP HĐND - UBND

BQLDA&PTQĐ ĐẤT

ĐĂK R’MOAN

TT DV KT NN

P. TC – KẾ HOẠCH

NGHĨA TÂN

P. NỘI VỤ

TTVH-TT&TT

NGHĨA TRUNG

P. TN & MT

ĐQLTTCQ

NGHĨA PHÚ

P. NN &PTNT

P. VH & TT

NGHĨA THÀNH

P. QUẢN LÝ ĐÔ THỊ

QUẢNG THÀNH

P. LĐ, TB & XH

NGHĨA ĐỨC

THANH TRA

P. Y TẾ

P. TƯ PHÁP

P. GIÁO DỤC & ĐT

P. KINH TẾ

46

2.3. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

2.1.1) Số lượng CBCC cấp xã

Bảng 2.1. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã giai đoạn 2020 - 2022

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022

Số lượng

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)

Số lượng (người) 161 Số lượng (người) 160 Số lượng (người) 169

83 78 80 80 86 83

104 57 99 61 64,6 35,4 61,9 38,1 110 59 65,0 34,9

15 125 29 8,9 73,9 17,2 5,7 43,1 1,3 9 69 02 09 68 02

5,6 42,2 1,2 (Nguồn: UBND thành phố Gia Nghĩa) 1.Tổng số BCC 2.Chức danh Cán bộ chủ chốt Công chức 3. Giới tính Nam Nữ 4. Độ tuổi Dưới 35 tuổi Từ 35 đến 50 tuổi Trên 50 tuổi

Nhận xét: Số liệu của bảng 2.1 ta thấy số lượng CBCC có sự biến động

theo chiều hướng giảm dần: Năm 2020 đến 2021 giảm từ 161 xuống còn 160;

năm 2021 đến năm 2022 tăng từ 160 lên 169 CBCC. Số lượng CBCC đa phần

còn trẻ tính tỷ lệ năm 2022: dưới 35 tuổi là 8,9 % ; dưới 50 chiến 73,9 %; tỷ

lệ CBCC lớn tuổi trên 50 tuổi chỉ chiếm bình quân là 17,2 %. Số lượng CBCC

nam giới chiếm tỷ lệ cao (năm 2020: 104 người; năm 2021: 99 người; năm

2022: 110 người). Như vậy, trong 3 năm nghiên cứu từ năm 2020 đến 2021

cho thấy số lượng, CBCC giảm dần đến năm 2022 tăng lên 09 người; số

lượng CBCC đa phần trẻ và chủ yếu là nam giới do những nguyên nhân sau:

Thứ nhất: Năm 2020 đến năm 2021 số lượng CBCC giảm do thực hiện

theo quan điểm của Đảng tại Nghị quyết 39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm

2015 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tinh giảm biên chế và cơ cấu

47

lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 18 -NQ/TW ngày 25

tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới,

sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực,

hiệu quả. Năm 2021 đến năm 2022 số lượng CBCC tăng 09 người do tuyển

dụng bổ sung vào biên chế các xã trên địa bàn thành phố.

Thứ hai: Thành phố Gia Nghĩa nằm ở phía nam của khu vực Tây

Nguyên, là thành phố mới thành lập, nghèo nhất các tỉnh Tây Nguyên có

08/08 xã, phường nên số đa phần CBCC là nam giới, nữ giới tâm lý ngại vào

công tác ở những xã khó khăn.

Thứ ba: Là thành phố mới thành lập nên tỉ lệ CBCC đa phần còn trẻ

mới ra trường và một số lấy nguồn là người dân tộc tại chỗ.

Nhìn chung, cơ cấu giới tính của CBCC cấp xã tại thành phố Gia Nghĩa

là mất cân đối số lượng cán bộ, công chức nam giới chiếm tỷ lệ cao, trong lúc

cán bộ, công chức nữ giới chỉ chiếm dưới 40%; số lượng cán bộ trẻ chiếm đa

phần, là điều kiện tốt về sức khỏe và lòng nhiệt tình, để xây dựng thành phố

Gia Nghĩa ngày càng phát triển, sớm thoát khỏi danh sách các thành phố

nghèo nhất của cả nước.

2.1.2. Thực hiện các quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã

a) Đào tạo về trình độ văn hóa: Do là thành phố mới thành lập, người

dân tộc thiểu số chiếm trên 11,6% nên lực lượng đội ngũ CBCC cấp xã của

thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông nhìn chung có mặt bằng trình độ văn

hoá ở mức tốt. Theo thống kê số liệu đến năm 2022, có 01/169 CBCC cấp xã

có trình độ tốt nghiệp Trung học cơ sở, chiếm 0,6%; 168/169 CBCC cấp xã

có trình độ văn hoá tốt nghiệp THPT, chiếm 99,4%. Số CBCC có trình độ tốt

nghiệp Trung học cơ sở chủ yếu là những người dân tộc thiểu số, người dân

tộc khác lớn tuổi giữ những chức vụ trưởng các đoàn thể chính trị như: Chủ

48

tịch Hội Cựu chiến binh, Chủ tịch Hội Phụ nữ; Chủ tịch Hội Nông dân...

Trong thời gian sắp tới cần vận động số cán bộ có trình độ văn hóa Trung học

cơ sở tham gia học bổ túc văn hóa bậc THPT để có điều kiện hoàn thiện về

tiêu chí chức danh cán bộ theo yêu cầu hiện nay.

b) Đào tạo về trình độ chuyên môn: Gia Nghĩa là thành phố mới được

thành lập nên số công chức đa phần còn trẻ được đào tạo cơ bản về chuyên

môn, nghiệp vụ. Do vậy đáp ứng tốt theo vị trí việc làm được quy định tại các

văn bản của Đảng, nhà nước. Tuy nhiên đối với cán bộ một số chỉ làm theo

kinh nghiệm, thực tiễn do gắn bó với địa phương từ lâu và thực hiện theo

chính sách bố trí cán bộ là người dân tộc thiểu số nên tỷ lệ cán bộ người dân

tộc thiểu số người M’Nông, Mạ đa phần chưa qua đào tạo. Theo thống kê

năm 2020 tỷ lệ chưa qua đào tạo là 2,4%; năm 2021 tỷ lệ chưa qua đào tạo là

1,25% điều này là một thách thức lớn trong vận hành bộ máy nhà nước ở cấp

cơ sở và công tác sắp xếp bố trí cán bộ của Đảng. Cụ thể được thống kê theo

bảng số liệu về trình độ chuyên môn giai đoạn 2020 – 2022 như sau:

Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn Năm 2021

Năm 2020

Năm 2022

Đối tượng

Trình độ chuyên môn

Số lượng (người)

Tỷ lệ (%)

Số lượng (người)

Tỷ lệ (%)

Số lượng (người)

Tỷ lệ (%)

Chưa qua đào tạo

02

Cán bộ

11 67 3 2,4 13,2 80,7 3,6 1 5 69 6 1,25 6,25 86,25 7,5 3 78 5 3,5 90,7 5,8

Công chức 4 79 4,8 95,1

Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng, đại học Sau đại học Chưa qua đào tạo Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng, đại học Sau đại học 6 69 4 4 74 1

5 7,7 92,5 88,5 1,25 5,1 (Nguồn: UBND thành phố Gia Nghĩa)

49

Qua bảng 2.2. Ta thấy trình độ chuyên môn của CBCC cấp xã như sau:

Đối với cán bộ cấp xã: Đối với cán bộ chưa qua đào tạo là 02 người

(năm 2020) chiếm tỷ lệ là 2,4% và giảm dần qua các năm đến năm 2021 số

cán bộ chưa qua đào tạo chỉ còn 01 người tương đương với 1,25%. Số cán bộ

đã qua đào tạo trung cấp; cao đẳng và đại học có xu hướng ngày càng tăng

qua các năm 2020 có 67 người chiến 80,7%, năm 2021 có 69 người chiến

86,25% và Năm 2022 là 78 người chiến tỷ lệ 90,7% và tăng dần qua các năm.

Cán bộ cấp xã có trình độ cao học chiếm tỷ lệ 5,8%. Toàn thành phố năm

2020 có 03 người; năm 2021 có 06 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sỹ,

đến năm 2022 có 05 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sỹ. Nhìn chung số

lượng cán bộ cấp xã có trình độ thạc sĩ có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, năm

2021 đến năm 2022 giảm 01 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sĩ do điều

chuyển lên làm lãnh đạo cấp trên.

50

Đối với công chức cấp xã: Qua bảng 2.2 trên cho ta thấy không có công

chức nào chưa qua đào tạo; Công chức có trình độ trung cấp năm 2020 có 6

người chiếm tỷ lệ 7,7%, đến năm 2021, năm 2022 có 4 người chiến tỷ lệ 4,8%

trong cơ cấu trình độ chuyên môn. Từ bảng 2.2 trên ta thấy các công chức có

trình độ trung cấp có xu hướng giảm dần, chứng tỏ chất lượng công chức

ngày càng được chú trọng và nâng cao hơn. Công chức có trình độ chuyên

môn cao đẳng, đại học chiếm tỷ lệ cao trong toàn cơ cấu và có xu hướng ngày

càng tăng năm 2020 là 69 người chiếm tỷ lệ 88,5%; năm 2021 có 74 người

chiếm tỷ lệ 92,5%; công chức cấp xã có trình độ thạc sỹ năm 2020 có 4 người

chiến tỷ lệ 5,1%, năm 2021 có 1 người chiến tỷ lệ 1,25%, năm 2022 không có

công chức có trình độ thạc sĩ. Lý do công chức cấp xã có trình độ thạc sĩ giảm

dần từ năm 2020 đến năm 2022 là do công chức có trình độ năng lực chuyên

môn điều làm lãnh đạo quản lý ở cấp xã và cấp phòng của thành phố.

Nhìn chung, số cán bộ cấp xã chưa qua đào tạo cao hơn rất nhiều so với

công chức. Bên cạnh đó số công chức cấp xã được đào tạo ở bậc cao như cao

đẳng, đại học lại lớn hơn rất nhiều so với các cán bộ cấp xã. Trình độ chuyên

môn của CBCC cấp xã thành phố Gia Nghĩa, vẫn còn ở mức trung bình so với

mặt bằng chung của tỉnh Đăk Nông và theo quy định chức danh cán bộ, công

chức. Đặc biệt là số lượng; cán bộ năm 2020 còn có 02 người chưa qua đào

tạo, đây là thách thức lớn cho việc vận hành bộ máy nhà nước ở cấp cơ sở

nhất là việc cải cách hành chính nền công vụ hiện nay. Trong thời gian sắp tới

Thành ủy cần tăng cường lãnh đạo chỉ đạo, có nhiều Nghị quyết chuyên đề về

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

nói chung và cấp xã nói riêng. Đặc biệt là sự thiếu hụt nguồn cán bộ cho Đại

hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 – 2030 và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân

dân nhiệm kỳ 2026-2031.

c) Đào tạo về lý luận chính trị:

51

Bảng 2.3: Trình độ lý luận chính trị

Năm 2021

Đối tượng

Trình độ lý luận chính trị

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Năm 2020 Số lượng (người)

Số lượng (người)

Năm 2022 Số lượng (người)

Cán bộ 68 65 65

18 18

Chưa qua đào tạo Sơ cấp Trung cấp Cao cấp Chưa qua đào tạo Sơ cấp 81,25 17,5 3,1 17,5 11 30 79,1 20,9 13,2 36,1 78,3 21,7 19,2 38,5 14 5 28 15 30

Công chức Trung cấp 78,1 42 44,5 43,6 125 34

Cao cấp 2,5 2 0

(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Gia Nghĩa)

Nhận xét: Đối với cán bộ cấp xã: Qua bảng 2.3 trên, thống kê chúng ta

thấy trình độ lý luận chính trị của cán bộ cấp xã trên địa bàn thành phố Gia

Nghĩa, tỉnh Đăk Nông, nhìn chung nằm ở mức trung bình, chủ yếu đã tốt

nghiệp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, không có cán bộ chưa đào tạo

qua các năm. Năm 2020 có 65 cán bộ có lý luận chính trị trung cấp, chiến

78,3%, có 18 cán bộ có lý luận chính trị cao cấp chiếm tỷ lệ 21.7 % đến năm

2022 có 68 người có lý luận chính trị trung cấp chiến 79,1%; theo bảng 2.3

thống kê không có cán bộ cấp xã có trình độ cử nhân lý luận. So với thành

phố còn nhiều khó khăn thì tỷ lệ cán bộ có trình độ Trung cấp lý luận năm

2021 chiếm 81,25% là thuận lợi rất lớn. Bởi cán bộ cấp cơ sở là cầu nối,

tuyên truyền các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước với nhân dân; đồng thời họ đại điện cho quần chúng nhân dân tham

gia xây dựng, đóng góp vào các đường lối, chủ trương của đảng, chính sách,

pháp luật của nhà nước. Trong hơn 18 năm thành lập thị xã Gia Nghĩa (nay là

thành phố Gia Ngĩa), đã gần 04 năm thành lập thành phố với đội ngũ cán bộ

được trang bị về lý luận chính trị giúp cho họ có lập trường, tư tưởng kiên

52

định, vững vàng tham gia lãnh đạo hệ thống chính trị tại địa phương trên địa

bàn thành phố Gia Nghĩa vững về chính trị, ổn định về trật tự an toàn xã hội.

Làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhất là “tự diễn

biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Mục tiêu cuối cùng là làm mất vai trò

lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Đối với công chức cấp xã: Công chức cấp xã của thành phố Gia Nghĩa,

tỉnh Đăk Nông có trình độ lý luận chính trị còn thấp, tỷ lệ chưa qua đào tạo

năm 2020 là 15 người chiếm 19,2% qua các năm có giảm. Năm 2022 trước

thực trạng trên Thành ủy đã cho chủ trương mở lớp sơ cấp chính trị cho công

chức cấp xã theo đề án 124 của Bộ Nội vụ với tổng số 43 công chức cấp thành

phố, cấp xã tham gia sơ cấp lý luận, (trong đó cấp xã có 2 người tham gia).

Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay với số lượng công chức chưa dược trang

bị về lý luận chính trị từ trung cấp trở lên là rất khó khăn trong việc rèn luyện

ý thức trách nhiệm thực thi công vụ. Đồng thời còn là lỗ hổng lớn trong khâu

bố trí cán bộ kế cận tại các kỳ Đại hội nhất là nhân sự cho đại hội các cấp

nhiệm kỳ 2020 - 2025, nhân sự bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp

nhiệm kỳ 2021 - 2026, vì thiếu tiêu chí về lý luận chính trị.

d) Đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước

Bảng 2.4: Trình độ quản lý nhà nước

Trình độ quản lý nhà nước

Năm 2020 Tỷ lệ (%) 9,9 84,5 Số lượng (Người) 16 136 Năm 2021 Tỷ lệ (%) 8,75 83,6 Số lượng (Người) 14 134 Năm 2022 Tỷ lệ (%) 5,9 87 Số lượng (Người) 10 147

9 5,6 12 7,5 12 7,1

Chưa qua đào tạo Chuyên viên Chuyên viên chính Tổng số 161 169

160 (Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Gia Nghĩa)

Nhận xét: Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước trên địa

bàn thành phố Gia Nghĩa từ 2020 đến năm 2022 đạt thấp. Cụ thể năm 2020,

53

chuyên viên đặt 84,5%, chuyên viên chính chỉ đạt 5,6% trong tổng số cán bộ,

công chức chưa qua đào tạo về quản lý nhà nước là 16 người chiến 9,9%, đây

là hạn chế lớn cho đội ngũ cán bộ, công chức bởi đội ngũ này thường xuyên

giải quyết công việc hành chính và quản lý nhà nước ở cấp cơ sở.

Trước tình hình hiện nay dự kiến cuối năm 2022 UBND thành phố sẽ

mở 01 lớp theo đề án 124 của Bộ Nội vụ gồm 45 học viên về đào tạo lớp

chuyên viên dành cho công chức cấp huyện, cấp xã (trong đó, cấp xã có 4

người tham gia).

Tuy nhiên trước tình hình hội nhập, xây dựng chính phủ điện tử, Chính

phủ số, vấn đề cải cách thủ tục hành chính như hiện nay thì yêu cầu về đào

tạo, bồi dưỡng chương trình quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức cấp xã

là rất cần thiết. Vừa đảm bảo các tiêu chí theo yêu cầu công tác cán bộ, vừa

trang bị kiến thức để giúp bộ máy chính quyền ở cấp cơ sở hoạt động hiệu

lực, hiệu quả đồng bộ.

e) Đào tạo, bồi dưỡng về tin học, ngoại ngữ

Bảng 2.5. Trình độ tin học, ngoại ngữ

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022

Trình độ

Số lượng (Người) Số lượng (Người) Số lượng (Người) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)

Tin học 161 100 160 100 163 96,4

Ngoại ngữ 155 96,3 154 96,25 154 91,1

Tổng 161 160 169

(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Gia nghĩa)

Nhận xét: Để đáp ứng nhu cầu phát triển của một nền hành chính hiện

nay, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ngoài việc cần trang bị kiến thức và kĩ

năng, chuyên ngành đào tạo còn cần có trình độ về ngoại ngữ, tin học. Qua

54

bảng 2.5 thống kê, chúng ta thấy đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa

bàn thành phố Gia Nghĩa có chứng chỉ trình độ tin học và ngoại ngữ chiếm tỷ

lệ cao. Tuy nhiên qua các đoàn kiểm tra của thành phố và tỉnh xuống các xã

cho thấy năng lực thực sự về sử dụng công nghệ thông tin của cán bộ công

chức còn yếu; các chứng chỉ là hình thức trong khâu tuyển dụng công chức

còn khả năng áp dụng vào công việc chưa hiệu quả. Tại Nghị quyết số 26 -

NQ/TW, ngày 19/ 5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tập trung

xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng

lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ thì định hướng tương lai cần có đủ khả

năng làm việc trong môi trường quốc tế. Do vậy đội ngũ cán bộ công chức

cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về tin

học và ngoại ngữ để đáp ứng nhu cầu công việc trong tình hình mới.

f) Bồi dưỡng các kiến thức pháp luật

Trong thời gian từ 2020 - 2022 đã phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có

chức năng đào tạo, bồi dưỡng như: Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thành phố

và các cơ quan, tổ chức đoàn thể khác mở các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên

ngành để phát triển kinh tế - xã hội cho cán bộ, công chức cấp xã:

- 4 lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành cho hơn 280 lượt người

(trong đó có các lĩnh vực xây dựng, Tư pháp - Hộ tịch, Tài chính - kế hoạch

và đầu tư, Văn thư - Lưu trữ, Tôn gíáo, Dân vận, An ninh … ở cấp xã);

- 5 lớp khuyến nông, khuyến lâm cho CBCC cấp xã, các hội viên hội

nông dân các thôn, bon, tổ dân phố với 351 người;

- 03 lớp bồi dưỡng trật tự an toàn xã hội cho trưởng, phó trưởng công

an, Công an viên của 8 xã với 300 người;

- 03 lớp bồi dưỡng an ninh quốc phòng cho cán bộ, công chức cấp xã

với 150 người;

- 01 lớp bồi dưỡng cho chủ tịch, phó chủ tịch, hội viên hội phụ nữ các

55

xã với 150 người;

Căn cứ vào Quyết định số 458/QĐ-BTP ngày 28/3/2022 của Bộ trưởng

Bộ Tư pháp ban hành 03 Kế hoạch thực hiện các Đề án về phổ biến, giáo dục

pháp luật; hoà giải ở cơ sở hàng năm, Kế hoạch của UBND tỉnh, Phòng Tư

pháp thành phố là cơ quan thường trực trực tiếp chủ trì triển khai thực hiện

các đề án hòa giải ở cơ sở trên địa thành phố Gia Nghĩa. Theo nguồn tài liệu

do Phòng Tư pháp thành phố cung cấp qua 03 năm thực hiện (2020-2022) đề

án đã đạt kết quả như sau:

* Năm 2020,

- 4 lớp tập huấn cho các bộ, công chức, viên chức về phòng, chống dịch

Covid-19 trên địa bàn thành phố với hơn 200 lượt người tham gia;

- Trước tình hình bùng nổ dịch Covid-19 phức tạp trên cả nước nói

chung, trên địa bàn thành phố gia nghĩa nói riêng; trong tổ chức các lớp bồi

dưỡng các kiến thức pháp luật về đào tạo bồi dưỡng thành phố không thực

hiện tổ chức lớp nào.

* Năm 2021:

- Tập huấn 01 lớp cho 45 cán bộ các xã về đề án hòa giải ở cơ sở trên

địa thành phố Gia Nghĩa.

* Năm 2022:

- Mở được 03 lớp tập huấn cho Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch, Chủ tịch

Mặt trận Tổ quốc, công chức tư pháp, văn phòng thống kê, tài chính kế toán,

địa chính, văn hóa xã hội, Trưởng, phó Công an, Chỉ huy trưởng, phó chỉ huy

trưởng Quân sự các xã và các tổ hòa giải viên ở thôn, bon, tổ dân phố… với

với hơn 968 lượt người tham gia. Nội dung của các lớp tập huấn gồm: Những

nội dung cơ bản về tổ chức và hoạt động của HĐND, UBND và Tư pháp cấp

xã; Nghiệp vụ đăng ký và quản lý hộ tịch ở cấp xã; Những nội dung cơ bản về

công chứng, chứng thực; Nghiệp vụ về công tác thi hành án dân sự; Một số

56

vấn đề về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; cải cách hành chính; tiếp

dân; giải quyết khiếu nại tố cáo; xử lý vi phạm hành chính tại UBND cấp xã;

Nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật; một số vấn đề về trợ giúp pháp lý;

xây dựng hương ước và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Luật giao

thông đường bộ; Luật phòng chống bạo lực gia đình; Pháp lệnh hòa giải ở cơ

sở; Luật bồi thường của Nhà nước….

2.1.3. Về thâm niên công tác của CBCC cấp xã

Bảng 2.6. Thâm niên công tác CBCC cấp xã giai đoạn 2020 - 2022

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022

Thâm niên công tác

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Số lượng (người) Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Số lượng (người)

Dưới 5 năm 20 12,4 13 8,1 19 11,2

Từ 5- 10 năm 83 51,6 73 45,6 60 35,5

Từ 10 đến dưới 30 năm 52 32,3 66 41,3 64 37,9

Từ 30 năm trở lên 6 3,7 13 8,1 26 15,4

(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Gia Nghĩa)

Nhận xét: Theo bảng 2.6 thống kê về thâm niên công tác của cán bộ,

công chức cấp xã thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông, ta thấy số cán bộ,

công chức cấp xã có thâm niên công tác từ 5 -10 năm 2020 chiếm tỷ lệ cao

nhất với 12,4%. Bởi trong thành phố Gia Nghĩa khi đó mới thành lập được

hơn 17 năm nên đa phần cán bộ, công chức đều rất trẻ. Tuy nhiên sau ba năm

2020 đến năm 2022 thì số cán bộ, công chức có thâm niên từ 10 đến dưới 30

lại chiếm ưu thế đó là 37,9%; số cán bộ, công chức có thâm niên công tác từ

30 năm trở lên tỷ lệ thấp 15,4%. Số thâm niên công tác trung bình của cán bộ,

công chức thành phố Gia Nghĩa nằm trung bình khoảng 10 đến 15 năm là chủ

yếu. Như vậy với thâm niên công tác trên họ là những cán bộ, công chức trẻ

57

năng động, nhiệt tình trong công việc. Tuy nhiên về kinh nghiệm xử lý những

tình huống khó, phức tạp thì còn lúng túng, bị động.

2.2. Đánh giá thực hiện các quy định của pháp luật về đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

2.2.1. Kết quả đạt được

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ, UBND thành phố trong giai

đoạn 2020 - 2022, đứng trước những thách thức lớn cả nước chung tay phòng,

chống dịch bệnh Covid-19, thành phố Gia Nghĩa đã nổ lực thực hiện tốt các

quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của

thành phố Gia Nghĩa các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành để góp phần

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương

cho cán bộ, công chức cấp xã được 15 lớp tập huấn với sự tham gia 1.081 lượt

người; thực hiện các Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật; hoà giải ở cơ sở

hàng năm được 8 lớp với 1213 lượt người tham gia.

Nếu như chỉ dừng lại ở việc đào tạo CBCC cấp xã để làm cho họ "trở

thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" mà không tiếp tục

bồi dưỡng cho họ để "tăng thêm năng lực" thì những gì mà họ hu được trong

quá trình đào tạo mất dần đi. Đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo các kiến thức

pháp luật, vì hiện nay Việt Nam đang trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,

các văn bản quy phạm pháp luật liên tục được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới

để tạo ra hành lang pháp lý vững chắc phù hợp với quá trình hội nhập. Nhận

thức rõ điều này nên song song với việc đào tạo kiến thức pháp luật, Đảng bộ,

chính quyền thành phố Gia Nghĩa cũng hết sức quan tâm tới công tác bồi

dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã.

Nhìn chung, các lớp tập huấn do Phòng Tư pháp tổ chức đã thu hút

tương đối đầy đủ các chức danh CBCC cấp xã, đáp ứng được nhu cầu tìm

hiểu, bổ sung kiến thức pháp luật mới trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước ở

58

cấp xã góp phần tạo được sự chuyển biến về nhận thức của chính quyền và

cán bộ địa phương. Thông qua các chương trình này, CBCC cấp xã thành phố

Gia Nghĩa ngoài việc được trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản về

chuyên môn, nghiệp vụ cho từng chức danh thì còn được cung cấp những kiến

thức pháp luật cần thiết cho mỗi công việc cụ thể của họ. Với sự quan tâm

đúng mức của Thành uỷ, UBND thành phó, công tác bồi dưỡng kiến thức

pháp luật cho CBCC cấp xã đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận góp

phần nâng cao kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã. Đáp ứng yêu cầu phát

triển kinh tế - văn hoá của thành phố nhà.

2.2.2. Những tồn tại hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được thì công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông vẫn

còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới, cụ thể:

- Một số cấp ủy chưa triển khai kịp thời các Chỉ thị, Nghị quyết của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức từ công tác quy hoạch để cử cán bộ, công chức đi đào tạo bồi

dưỡng đúng đối tượng. Khi thực hiện kế hoạch chiêu sinh, một số đơn vị vẫn

còn tình trạng cử cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng chưa đúng, thành

phần, đối tượng với chức danh cán bộ hoặc công chức.

- Trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức ở các cấp, một số lớp, khóa học mở ra còn có sự trùng lắp,

chồng chéo về đối tượng giữa các cơ quan, ban, ngành gây lãng phí thời gian

và kinh phí, đồng thời tạo nên tâm lý nhàm chán, thiếu hứng thú học tập cho

học viên. Vẫn còn tình trạng kế hoạch xây dựng chưa đánh giá được nhu cầu,

nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và thực trạng năng lực, trình độ của đội ngũ cán

bộ, công chức; chưa quan tâm đào tạo, bồi dưỡng công chức có trình độ, năng

lực cao trong những lĩnh vực trọng điểm của từng xã.

59

- Chương trình bồi dưỡng do Ban Tuyên giáo tỉnh ủy hướng dẫn hàng

năm còn chậm, nội dung bồi dưỡng nhiều chương trình chậm đổi mới

(chương trình bồi dưỡng cho khối đoàn thể); Nội dung còn nặng về lý luận,

bác học gây nhàm chán cho đội ngũ cán bộ tham gia bồi dưỡng đặc biệt là cán

bộ người dân tộc thiểu số.

- Nội dung bồi dưỡng một số cơ quan tham mưu xây dựng kế hoạch

một cách chủ động làm gấp rút về thời gian nên khiến cho các cơ sở đào tạo

còn bị động, lúng túng và không nhất quán trong triển khai thực hiện kế

hoạch. Đặc biệt, phần bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ và xử lý tình huống thực

hiện cho cán bộ, công chức tại các xã chưa quan tâm đúng mức, còn thiếu hụt

những nội dung cập nhật thông tin, kiến thức về pháp luật, tình hình chính trị,

kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế.

- Hình thức đào tạo, bồi dưỡng; công tác quản lý đào tạo; đội ngũ giảng

viên, báo cáo viên chưa theo kịp quá trình đổi mới của cải cách thể chế; Cải

cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải

cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính công và xây dựng, phát triển Chính

phủ điện tử, chính phủ nên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật hiệu quả

thấp. Hình thức đối thoại trực tiếp, trao đổi ít được áp dụng. Hình thức nghiên

cứu, trao đổi, học tập kinh nghiệm thực tế thường nghiêng về tham quan, ít

mang lại hiệu quả thiết thực. Hình thức đào tạo lại cũng chưa được quan tâm

đúng mức, tạo nên tình trạng thiếu hụt về tri thức, đặc biệt là tri thức về kinh

tế thị trường, về tiến bộ khoa học công nghệ, các kiến thức về toàn cầu hóa và

hội nhập kinh tế quốc tế đối với cán bộ, công chức.

- Một số giảng viên, báo cáo viên còn hạn chế về phương pháp sư

phạm, kỹ năng chuyên môn, kiến thức thực tiễn, tri thức khoa học mới nên

chất lượng giảng dạy còn thấp, chưa lôi cuốn, thu hút, kích thích học viên

tham gia học tập. Nhiều tổ chức đoàn thể khi mở lớp chỉ chú trọng tới số

60

lượng học viên để báo cáo lên cấp trên, chưa quan tâm đến mục đích, chất

lượng học tập, chưa bám sát tình hình thực tế, gây nhiều khó khăn cho các xã

trong bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức đi bồi dưỡng.

- Định mức sử dụng kinh phí mang, nặng tính bình quân trên một học

viên, mà chưa chú trọng tới tính chất phức tạp của từng đối tượng, nội dung,

hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác nhau đòi hỏi chi phí khác nhau.

2.2.3. Nhận xét chung về công tác đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức

pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã

Trong thời gian qua cùng với chủ trương chính sách của Đảng, Nhà

nước đặc biệt là Quyết định số 163/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

về Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai

đoạn 2016 - 2025; tỉnh Đắk Nông đã thường xuyên quan tâm tới công tác đào

tạo, bồi dưỡng CBCC bằng những hoạt động cụ thể như hàng năm đã ban

hành Quyết định về việc quy định chế độ trợ cấp đối với CBCC, viên chức

được cử đi đào tạo, bồi dưỡng trong đó có CBCC cấp xã. Công tác đào tạo,

bồi dưỡng CBCC cấp xã của thành phố Gia Nghĩa đã được mở rộng về quy

mô, đa dạng về hình thức, việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng có nề nếp, gắn đào tạo, bồi dưỡng với nhu cầu sử dụng, đảm

bảo cho CBCC thường xuyên được cập nhật kiến thức, kỹ năng thực hiện

công vụ và tổ chức điều hành. Các lớp đào tạo, bồi dưỡng được tổ chức khoa

học, hợp lý thiết thực, bám sát thực tế, đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng dạy

và học. Do làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị,

chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật của CBCC cấp xã ngày càng được

nâng lên, bộ máy chính quyền cấp xã hoạt động ngày càng hiệu quả, thúc đẩy

cải cách hành chính, góp phần quan trọng trong việc quản lý, đẩy mạnh phát

triển kinh tế - văn hoá, xã hội đảm bảo an ninh quốc phòng ở địa phương.

Mặc dù hoạt động đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho CBCC cấp

61

xã đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhưng bên cạnh đó vẫn còn có

những điểm hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục. Cụ thể:

Thứ nhất: Về xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã Hầu hết các cơ quan, các

ngành, các cấp đã làm tốt từ khâu điều tra khảo sát thực tế đến tổng hợp đánh

giá để làm căn cứ xây dựng kế hoạch, đã thiết lập được cơ chế quản lý đồng

bộ, chặt chẽ từ tỉnh đến huyện và cơ sở, tạo được mối quan hệ giữa cơ quan

quản lý nhà nước vềđào tạo, bồi dưỡng với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng để

vừa tập trung đầu mối thống nhất quản lý vừa tạo mối quan hệ phối hợp cộng

đồng trách nhiệm, phát huy nội lực và tính năng động, sáng tạo của mỗi cấp,

mỗi ngành. Tuy nhiên việc xây dựng kế hoạch công tác đào tạo, bồi dưỡng ở

một số đơn vị còn bị động, lúng túng, chưa sát với thực tế, chưa gắn kết công

tác đào tạo, bồi dưỡng với với bố trí công việc sau đào tạo, bồi dưỡng.

Thứ hai: Về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng.

Như trên đã đề cập, ngoài một số ít CBCC cấp xã được đào tạo chuyên

ngành Luật ở các bậc đào tạo, còn lại CBCC cấp xã được tiếp nhận kiến thức

pháp luật được lồng ghép trong chương trình đào tạo của các chuyên ngành

khác và chủ yếu thông qua các lớp bồi dưỡng. Trong thời gian vừa qua, nội

dung kiến thức pháp luật trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng đã có nhiều

sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các văn bản quy phạm pháp luật và

gắn nội dung đào tạo, bồi dưỡng với thực tiễn quản lý nhà nước ở cơ sở, góp

phần nâng cao chất lượng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã.

Tuy nhiên, các cơ sở đào tạo vẫn áp dụng chương trình chung thống

nhất trong toàn quốc hoặc chương trình chung của tỉnh mà chưa mang tính

đặc thù phù hợp với từng vùng, miền khác nhau hay đối tượng khác nhau.

Nội dung kiến thức pháp luật được lồng ghép trong các chương trình

đào tạo, bồi dưỡng còn quá ít, chủ yếu mang tính lý luận, thời gian dành cho

62

phần xử lý bài tập tình huống ít, trong khi đây lại là phần rất cần thiết đối với

CBCC cấp xã. Qua khảo sát đối với một số CBCC cấp xã trên địa bàn thành

phố, cho kết quả như sau:

- Về thời gian học phần kiến thức pháp luật của các lớp đào tạo, bồi

dưỡng có người cho rằng thời gian học quá dài chiếm 4,1%; người cho rằng

thời gian học phần kiến thức pháp luật là vừa phải chiếm 38%; người cho

rằng thời gian học quá ít chiếm 57,9%.

- Về nội dung phần kiến thức pháp luật cho mỗi một khoá học của các

lớp đào tạo, bồi dưỡng có người cho rằng nội dung học là quá ít chiếm 4,1%;

người cho rằng nội dung học là vừa đủ chiếm 27,2%; người cho rằng nội

dung học là quá ít chiếm 68,7%

- Có người cho rằng nội dung kiến thức pháp luật được giảng dạy đã

kịp thời cập nhật nội dung của những văn bản quy phạm pháp luật mới và

thiết thực cho công việc của CBCC cấp xã chiếm 67,7%; người cho rằng nội

dung kiến thức pháp luật chưa kịp thời cập nhật những văn bản quy phạm

pháp luật mới và không thiết thực cho công việc của CBCC cấp xã chiếm

32,3%.

Nhìn chung, qua kết quả khảo sát, kiến thức pháp luật trong chương

trình đào tạo, bồi dưỡng cơ bản đã cập nhật được nội dung mới của các văn

bản pháp luật, bổ sung kịp thời lượng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã,

đã có phần xử lý bài tập tình huống qua đó rèn luyện kỹ năng xử lý tình

huống, phục vụ thiết thực cho công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở

cơ sở. Nhưng vẫn có đến 57,9% cho rằng thời gian học là quá ít và 68,7% cho

rằng lượng kiến thức vẫn còn quá ít so với yêu cầu thực tế. Vì vậy cần phải bổ

sung thêm cả về thời gian và lượng kiến thức pháp luật vào chương trình của

các lớp đào tạo, bồi dưỡng dành cho CBCC cấp xã.

Thứ ba: Về phương pháp đào tạo. Hiện nay phương pháp đào tạo, bồi

63

dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã trên địa bàn thành phố Gia

Nghĩa đã có nhiều đổi mới, phương pháp tình huống, tích cực đã được sử

dụng trong quá trình giảng dạy. Nhưng chủ yếu chỉ được áp dụng ở một số

lớp đào tạo chính quy còn lại đa số các lớp đào tạo không chính quy và các

lớp bồi dưỡng chủ yếu vẫn áp dụng phương pháp truyền thống, một chiều.

Điều đó xuất phát từ một số lý do sau đây:

- Do cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy không đáp ứng được yêu cầu

thực tế, thiết bị phục vụ cho giảng dạy không đầy đủ. Đây là một khó khăn

làm hạn chế khả năng áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực của giảng

viên. Bởi trong trong quá trình giảng dạyđể thực hiện được những phương

pháp này đòi hỏi phải có công cụ hỗ trợ như: máy tính, máy chiếu, mạng

intenet…

- Số lượng học viên tại các lớp đào tạo, bồi dưỡng là khá đông (70-

120 người), đối tượng học viên mang tính đặc thù nên việc tiếp nhận những

phương pháp giảng dạy mới nhiều còn hạn chế, hơn nữa một bộ phận học

viên còn chưa tự giác, tích cực trong học tập. Đây là nguyên nhân rất lớn cản

trở việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong đào tạo, bồi dưỡng

kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã.

- Do một bộ phận giảng viên chưa có nghiệp vụ sư phạm lại không

được thường xuyên bồi dưỡng để nâng cao kỹ năng về sư phạm, do đó không

thực hiện được hoặc thực hiện không tốt các phương pháp tích cực trong

giảng dạy pháp luật. Từ đó dẫn đến hiệu quả trong đào tạo, bồi dưỡng kiến

thức pháp luật cho CBCC cấp xã không cao.

Thứ tư: Về hình thức đào tạo

Để đáp ứng yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho

CBCC cấp xã, thành phố Gia Nghĩa đã mở rộng các loại hình đào tạo theo

quy định của pháp luật như đào tạo tập trung, bán tập trung, vừa học vừa làm

64

và từ xa. Còn đối với bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã cũng

được thực hiện dưới nhiều hình thức như: mở các lớp bồi dưỡng, tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Với việc đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng đã tạo điều kiện

rất thuận lợi cho CBCC cấp xã có thể học tập nâng cao trình độ về chuyên

môn, nghiệp vụ cũng như kiến thức pháp luật của mình để phục vụ cho hoạt

động quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương. Với những quy định đối

với người dưới 35 tuổi phải tham gia học các lớp tập trung để được đào tạo

một cách chính quy, bài bản đảm bảo chất lượng cũng như tính bền vững

trong hoạt động của chính quyền cấp xã. Với những người trên 35 tuổi họ có

thể theo học ở các lớp vừa học vừa làm một mặt để đảm bảo hoạt động

thường xuyên, liên tục của chính quyền cấp xã mặt khác họ vẫn có thể học tập

để bổ sung thêm những kiến thức cần thiết phục vụ cho công việc của mình

và đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ CBCC trong giai đoạn hiện nay. Tuy

nhiên trong thực tế với những hình thức đào tạo không tập trung được các

trường đại học, cao đẳng, trung cấp trong và n goài tỉnh mở một cách ồ ạt đã

bộc lộ rất nhiều hạn chế như: chất lượng đào tạo không cao, thời gian kéo dài,

nội dung kiến thức không tập trung do phụ thuộc vào lịch giảng dạy của giảng

viên… điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ CBCC cấp

xã.

2.2.4. Nguyên nhân

- Nguyên nhân của kết quả: Cấp ủy, chính quyền địa phương rất quan

tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trên địa bàn thành

phố. Đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về hoạt động nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực của địa phương nhằm thực hiện tốt xu thế hội nhập và xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cụ thể hóa các chương trình

hành động của Thị ủy Gia Nghĩa về phát triển nguồn nhân lực; Quvết định

65

của UBND thành phố Gia Nghĩa về việc ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, giai đoạn

2014 - 2021 và các văn bản chỉ đạo khác đã tác động mạnh mẽ đến công tác

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố. Mặc dù

còn nhiều khó khăn nhưng hàng năm UBND thành phố đã bố trí kinh phí đào

tạo, bồi dưỡng cho các cơ sở tham gia hoạt động mở lớp trên địa bàn thành

phố. Đội ngũ cán bộ, công cức đã khắc phục khó khăn thử thách, đa số có bản

lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí tiến thủ, luôn chủ động trong công tác,

không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn; trình độ lý luận chính trị

và các kỹ năng khác, do đó sau mỗi năm số lượng đạt chuẩn về các tiêu chí

này ngày càng cao.

Tinh thần chủ động, trách nhiệm công tác của các bộ phận tham mưu

như Ban Tổ chức Thành ủy, Phòng Nội vụ, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị

thành phố trong việc đề ra chương trình, tổ chức thực hiện kế hoạch về đào

tạo, bồi dưỡng. Đội ngũ giảng viên kiêm chức, giảng viên chuyên trách, báo

cáo viên nhiệt tình có trình độ lý luận và am hiểu thực tiễn đã góp phần vào

kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong những năm vừa

qua.

- Nguyên nhân của những hạn chế: Số lượng cán bộ, công chức xuất

phát điểm về trình độ văn hóa, chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà

nước thấp nên nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng lớn. Trong khi nguồn kinh phí đào

tạo, bồi dưỡng hạn chế. Hơn nữa, cán bộ, công chức cấp xã có sự biến động

thường xuyên. Mặc dù đã được xác định theo vị trí việc làm. Công chức

chuyên môn xác định là làm việc ổn định nhưng trên thực tế qua mỗi nhiệm

kỳ đều điều động, luân chuyển sang đảm nhiệm những chức danh cán bộ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã chậm được đổi mới về

nội dung và hình thức. Chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

66

công chức còn mang tính hình thức, chưa làm rõ mục đích, đối tượng được

đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch, sử dụng cán bộ, công chức trong giai đoạn

kế cận sau đào tạo. Nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ,

công chức cấp xã nhiều cấp ủy, chính quyền các xã chưa quan tâm đúng mức.

Trách nhiệm của học viên trong việc học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ

chuyên môn, lý luận chính trị; kiến thức quốc phòng và an ninh; kiến thức, kỹ

năng quản lý nhà nước; kiến thức quản lý chuyên ngành, chuyên môn, nghiệp

vụ; đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; kiến thức hội nhập quốc tế; tiếng

dân tộc, tin học, ngoại ngữ…. còn có tư tưởng tham gia học tập không phải để

hướng tới việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, công việc được giao, mà chủ yếu

là để có bằng cấp, chứng chỉ để đủ điều kiện chuyển ngạch, nâng lương, bổ

nhiệm, hoàn chỉnh hồ sơ cán bộ, công chức. Do đó khi tham gia các lớp học

không thực sự tích cực học tập, nên bằng cấp nhiều nhưng kiến thức, năng lực

thực tế không có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực, tương xứng.

Một số cán cán bộ, công chức là người dân tộc thiếu số đời sống còn

nhiều khó khăn, tâm lý còn e ngại tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng. Bởi

đội ngũ này xuất phát điểm ban đầu thấp thiếu hụt nhiều điều kiện tiêu chuẩn

quy định chức danh cán bộ; trong lúc đó kinh phí hỗ trợ còn hạn chế.

Công tác kiểm soát hiệu quả hoạt động về đào tạo, bồi dưỡng còn nhiều

hạn chế. Mặc dù, đã được cấp ủy, chính quyền địa phương phối hợp với các

cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài tỉnh tăng cường công tác kiểm soát

việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa,

do chủ quan của một số đối tượng học viên tham gia các khóa học mang hình

thức học cho có bằng cấp, chứng chỉ để đủ điều kiện chuyển ngạch, nâng

lương, bổ nhiệm, hoàn chỉnh hồ sơ. Kết quả đánh giá việc học tập của một số

cán bộ, công chức sau khóa học đạt kết quả hạn chế.

67

Tiểu kết chương 2

Nội dung Chương 2 của luận văn đã khái quát tổng thể về điều kiện tự

nhiên, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng cũng như tình hình đội ngũ CBCC

cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa trong giai đoạn 2020 - 2022. Trong

đó, tập trung phân tích, làm rõ các nội dung trọng tâm: Những ảnh hưởng của

điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đến việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã

ở thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông; thực trạng thực hiện quy định pháp

luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã thành phố gia nghĩa như: trình độ

văn hóa, trình độ chuyên môn; về lý luận chính trị; quản lý nhà nước, công tác

thực hiện các quy định hiện hành của pháp luật về daod tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức. Từ cơ sở đó chỉ ra những tồn tại hạn chế cần khắc phục trong

thời gian tới. Đồng thời nêu những nguyên nhân của kết quả và hạn chế của

thực tiễn pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã trên địa bàn thành phố

Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông. Đó là những minh chứng cụ thể để đề giải pháp

hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả pháp luật cho công tác đào tạo, bồi

dưỡng CBCC của thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông trong những năm tiếp

theo được luận giải trong Chương 3. Nhằm xây dựng nền công vụ chuyên

nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài; thực hiện cơ chế cạnh tranh lành

mạnh, dân chủ, công khai, minh bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển

dụng công chức, để thu hút người thật sự có đức, có tài vào làm việc trong các

cơ quan hành chính nhà nước. Phấn đấu đến năm 2030: 100% cán bộ, công

chức cấp xã có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính

trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy

chính quyền cơ sở đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Đặc biệt là hoàn thiện

những tiêu chuẩn còn thiếu cho CBCC thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông.

68

Chương 3.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ

Thành phố Gia Nghĩa sau hơn 19 năm thành lập đã có sự phát triển trên

nhiều lĩnh vực từ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng được giữ vững. Công

tác đào tạo, bồi dưỡng được cấp ủy, chính quyền địa phương đặc biệt quan

tâm. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức

bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính

công và xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, chính phủ để xây dựng nền

công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài, vào làm việc

trong các cơ quan hành chính nhà nước của quá trình công nghiệphóa, hiện

đại hoá đất nước là nội dung mang tính cấp thiết. Để đảm bảo thực hiện đúng

mục tiêu đã đặt ra, trong quá trình thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng các kiến

thức pháp luật cho CBCC cấp xã phải nắm vững và thực hiện đúng các quan

điểm sau đây.

3.1. Mục đích đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật cho cán

bộ, công chức cấp xã

Đào tạo, bồi kiến các thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã phải

nhận thức sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước, nhằm xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng

động và thực tài; thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, dân chủ, công khai,

minh bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng công chức, để thu hút

người thật sự có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà

nước. Công tác nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công

chức cấp xã luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và mang tầm

chiến lược để phát triển đất nước. Điều này được cụ thể hóa tại Quy định số

69

89-QĐ/TW ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh,

định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Luật

Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật viên chức năm 2008; Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức năm 2019 và Luật Viên chức

năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP

ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên

chức, Nghị định số 89/2021/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức, viên chức; đã quy định cụ thể nội dung, chương trình, tài liệu và

hình thức bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và

đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý nói riêng; Quyết định số

163/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2025;

Như vậy, trên cơ sở các quan điểm đường lối của Đảng, pháp luật của

nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có nhắc đến nhiều

nội dung cụ thể trong đó đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng

các kiến thức pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã, nhằm đáp ứng yêu cầu

quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.

Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố

Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông có trình độ chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị,

tinh thông nghiệp vụ, có đủ năng lực xây dựng hệ thống chính trị, nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiên tiến, hiện đại, đáp ứng công cuộc CNH,

HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Cấp ủy, chính quyền địa phương cần thực

hiện chủ trương đó, trong những năm qua côngtác đào tạo, bồi dưỡng CBCC

các xã trên địa bàn tỉnh thành phố Gia Nghĩa đã được Đảng và các cấp chính

quyền quan tâm, trong đó đặc biệt chú ý tới việc nâng cao kiến thức pháp

luật cho CBCC cấp xã. Tuy nhiên để đáp ứng những yêu cầu trong công cuộc

70

đổi mới đất nước, cần phải quan tâm và tăng cường hơn nữa việc nâng cao

kiến thức pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã, đây là yêu cầu trong công tác

đào tạo, bồi dưỡng hiện nay, xuất phát từ một số lý do sau đây:

Thứ nhất: Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, và vì dân. Do bản

chất chế độ chính trị ở nước ta là nền dân chủ nhân dân, mọi quyền lực đều ở

nơi dân. Nhà nước là thiết chế quyền lực nhằm đảm bảo và thực hiện nền

dânchủ đó. Muốn vậy trong hoạt động quản lý xã hộicủa nhà nước ngay từ cơ

sở phải bảo đảm duy trì và thực hiện nghiêm pháp luật - ý chí của nhân dân.

Chính từ đó trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước

pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN đó là đảm bảo tính

tối cao của luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước có nhiệm

vụ tuân thủ pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; hành vi của mọi công

dân, tổ chức đều bị chi phối bởi pháp luật. Vì vậy công tác ĐTBD nâng cao

kiến thức pháp luật cho CBCC là một việc làm rất quan trọng và cần thiết, bởi

CBCC là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, gắn liền với vận mệnh của

nhà nước. Thông qua những hoạt động cụ thể của CBCC thì chức năng,

nhiệm vụ của nhà nước mới được thực hiện trong thực tế. CBCC cấp xã là

người trực tiếp giải quyết theo thẩm quyền các yêu cầu của công dân, lắng

nghe những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, trực tiếp triển khai thực hiện

các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước và đưa những

quy định đó vào thực tiễn cuộc sống tạo ra sự ổn định về mọi mặt kinh tế, văn

hoá - xã hội, hành chính - chính trị, an ninh - quốc phòng; là những "tuyên

truyền viên" pháp luật góp phần nâng cao trình độ dân trí, ý thức pháp luật

của nhân dân tạo điều kiện cho người dân sống và làm việc theo Hiến pháp và

71

pháp luật. Đây là một trong những yêu cầu cơ bản khi xây dựng nhà nước

pháp quyền.

Thứ hai: Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao các kiến thức pháp luật cho cán

bộ, công chức cấp xã do đòi hỏi khách quan của công cuộc đổi mới sau hơn

19 năm đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội thì đổi mới trong công

tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở thành phố Gia Nghĩa thực sự đã có

bước chuyển biến đáng kể. Mọi thành viên trong xã hội đặc biệt là đội ngũ

CBCC cấp xã đã có trình độ hiểu biết nhất định về pháp luật và có thái độ

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Với đặc điểm, vai trò, tính chất công việc

và ý thức pháp luật của CBCC cấp xã đã tác động một cách mạnh mẽ, sâu

rộng đến nhân dân địa phương. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn theo đúng quy định của pháp luật của CBCC cấp xã góp phần vào việc

duy trì kỷ cương phép nhà nước, thực hiện dân chủ hoá xã hội, bảo về quyền

và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nếu CBCC cấp xã có trình độ hiểu biết

pháp luật một cách toàn diện, sâu sắc, có thái độ tôn trong pháp luật, có hành

vi thực hiện pháp luật tích cực thì chất lượng, hiệu quả hoạt động sẽ cao tạo

điều kiện phát triển về kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, đảm bảo

trật tự an toàn xã hội, nâng cao ý thức pháp luật, củng cố các quan hệ xã hội

dựa trên c ơ sở pháp luật. Ngược lại, nếu ý thức pháp luật của CBCC cấp xã

kém, vi phạm pháp luật thì sẽ tác động xấu đến quá trình quản lý nhà nước,

quản lý xã hội ở địa phương dẫn tới không duy trì được trật tự kỷ cương, phép

nước, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy kiến

thức pháp luật phải được coi là một nội dung quan trọng trong các chương

trình đào tạo, bồi dưỡng. Khi thực hiện tốt nội dung này sẽ xây dựng được

một đội ngũ CBCC cấp xã hiểu biết pháp luật một cách sâu sắc, từ đó đưa

pháp luật đến với nhân dân góp phần xây dựng Thanh Hoá trở thành một tỉnh

phát triển về kinh tế, ổn định về chính trị - xã hội.

72

Thứ ba: Xuất phát từ trình độ nhận thức pháp luật của đội ngũ cán bộ,

công chức cấp xã. Theo số liệu thống kê của Phòng Nội vụ thành phố năm

2020 tổng số CBCC cấp xã là 161 người, trong đó cán bộ chuyên trách là 83

người, công chức chuyên môn là 78 người.

Nhìn chung, trong những năm gần đây chất lượng CBCC cấp xã đã

từng bước được nâng lên cả về văn hoá lẫn chuyên môn.

Về trình độ văn hóa, Đối với cán bộ chưa qua đào tạo là 02 người (năm

2020) chiếm tỷ lệ là 2,4% và giảm dần qua các năm đến năm 2021 số cán bộ

chưa qua đào tạo chỉ còn 01 người tương đương với 1,25%. Số cán bộ đã qua

đào tạo trung cấp; cao đẳng và đại học có xu hướng ngày càng tăng qua các

năm 2020 có 67 người chiến 80,7%, năm 2021 có 69 người chiến 86,25% và

Năm 2022 là 78 người chiến tỷ lệ 90,7% và tăng dần qua các năm. Cán bộ cấp

xã có trình độ cao học chiếm tỷ lệ 5,8%. Toàn thành phố năm 2020 có 03

người; năm 2021 có 06 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sỹ, đến năm

2022 có 05 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sỹ. Nhìn chung số lượng cán

bộ cấp xã có trình độ thạc sĩ có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, năm 2021 đến

năm 2022 giảm 01 người cán bộ cấp xã có trình độ thạc sĩ do điều chuyển lên

làm lãnh đạo cấp trên.

Thực tế cho thấy, đa số CBCC cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa

có bản lĩnh chính trị vững vàng; kiên định với đường lối, chủ trương của

Đảng; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của nhà nước. Họ là

những người nhiệt tình trong công tác; biết khắc phục khó khăn trong công

việc; luôn có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, gần gũi với nhân dân, thực

sự vì nhân dân; là những người có lối sống giản dị, trong sáng, không vụ lợi.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận CBCC cấp xã có biểu hiện quan

liêu, của quyền, hách dịch do ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập

trung vẫn còn đọng lại. Một số khác lại không đứng vững trước sự cám dỗ của

73

đồng tiền, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có những hành vi tham

nhũng, vụ lợi, vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, của

tập thể gây mất lòng tin ở nhân dân. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân

trong đó có nguyên nhân do hiểu biết về pháp luật chưa cao, ý thức chấp hành

pháp luật chưa nghiêm. Vì vậy cần phải bổ sung, cập nhật những nội dung

kiến thức pháp luật mới trong các chương trình đào tạo đồng thời xây dựng

chương trình bồi dưỡng kiến thức pháp luật phù hợp cho CBCC cấp xã để

quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Thứ tư: Xuất phát từ yêu cầu, tính chất công việc của mỗi vị trí, chức

danh của cán bộ, công chức cấp xã. Đào tạo, bồi dưỡng là một hoạt động quan

trọng trong công tác quản lý, phát triển nguồn nhân lực của các cơ quan hà

nước, tổ chức nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ CBCC chuyên nghiệp,

thành thạo về chuyên môn. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC

phải dựa trên cơ sở xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của từng vị trí công

tác, năng lực thực hiện công việc để giúp CBCC cấp xã nâng cao năng lực

hoạt động và làm tốt công việc được giao theo đúng chức năng nhiệm vụ mà

pháp luật quy định.

Trong thực tế hiện nay kiến thức pháp luật, kiến thức quản lý nhà nước

được CBCC cấp xã được tích luỹ thông qua việc học tập ở các tr ường chuyên

nghiệp, trường Chính trị, qua các lớp bồi dưỡng theo chức danh và phần lớn

là qua tự học hỏi, qua kinh nghiệm thực tiễn của cá nhân.Vì vậy việc đào tạo,

bồi dưỡng kiến thức pháp luật một cách có hệ thống cho CBCC cấp xã là yêu

cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Bởi bất cứ một công việc chuyên môn

hay một vị trí công tác nào cũng cần đến những kiến thức pháp luật có liên

quan đế công việc mà CBCC đó đang đảm nhiệm.

Thứ năm: Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế

74

Ngày nay, hội nhập quốc tế đang là xu hướng phát triển chung của các

quốc gia trên thế giới. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, có rất nhiều quan hệ

có yếu tố nước ngoài phát sinh với nhiều chủ thể khác nhau cùng tham gia,

trong đó có chính quyền cấp xã. Trên địa bàn thành phố, do có nhiều dự án

đầu tư, đặc biệt là khu kinh tế công nghệ cao đã thu hút được một lượng vốn

đầu tư tương đối lớn, từ đó kéo theo hàng loạt các quan hệ phát sinh trong quá

trình quản lý nhà nước. Đòi hỏi mỗiCBCC cấp xã không chỉ vững về chuyên

môn nghiệp vụ mà còn phải hiểu biết về pháp luật trong nước và pháp luật

quốc tế để kịp thời giải quyết công việc cũng như các tình huống có thể xảy

ra, hạn chế những xung đột pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích về kinh tế

cho nhà nước, tổ chức và cá nhân đồng thời giữ vững mối quan hệ hợp tác

quốc tế

Nhìn chung, trong thời kỳ đổi mới, đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố

Gia Nghĩa đã có nhiều chuyển biến trong việc thực thi pháp luật; trong quá

trình cải cách hành chính; mở rộng dân chủ ở cơ sở làm cho chất lượng chất

quản lý nhà nước, quản lý xã hội ngày càng được nâng cao. Với những lý do

nêu trên, cần phải tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm

nâng cao kiến thức pháp luật, để xây dựng một đội ngũ CBCC cấp xã không

chỉ kiên định về lập trường chính trị; vững vàng về chuyên môn mà còn hiểu

biết một cách sâu sắc về pháp luật để thực sự là cầu nối giữa nhà nước với

nhân dân và đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới trong thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.

3.2. Một số chỉ tiêu cụ thể thực hiện pháp luật về đào tạo, bồi

dưỡng CBCC cấp xã giai đoạn 2022 - 2026 định hướng đến năm 2030

Về trình độ văn hóa: 100% CBCC có trình độ tốt nghiệp trung học phổ

thông trở lên.

Về chuyên môn nghiệp vụ: Phấn đấu 95% CBCC cấp xã được đào tạo

75

về chuyên môn nghiệp vụ trình độ đại học; có từ 15 -20% CBCC có trình độ

thạc sĩ.

Về lý luận chính trị: 100% CBCC cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng trình

độ sơ cấp LLCT, trong đó 80 - 90% có trình độ trung cấp chính trị; 20 - 25%

có trình độ cao cấp LLCT.

Về tập huấn quản nhà nước: 100% công chức được tập huấn về nghiệp

vụ quản lý nhà nước.

Về tinh thần thái độ, trách nhiệm đối với công việc: 100% cán bộ, công

chức cấp xã có tinh thần thái độ, trách nhiệm đối với công việc, đây là vấn đề

rất quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần cho đội

ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phát huy tinh thần tự học, tự rèn luyện đối với

đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp. Xây dựng nền công vụ chuyên

nghiệp, trách nhiệm, năng động, thực tài, kỷ cương, liêm chính, sáng tạo đủ

khả năng vận hành, có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, gắn với xây dựng

nền hành chính tiên tiến, xây dựng Chính phủ kiến tạo, đáp ứng yêu cầu phục

vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.

3.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và các

chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

Đảm bảo cho đội ngũ CBCC cấp xã được trang bị, bổ sung những kiến

thức cần thiết và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền

hạnm trách nhiệm được giao, từng bước đáp ứng được yêu cầu xây dựng nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Để làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ

CBCC cấp xã cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cụ

thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng

CBCC cấp xã trong đó có nội dung về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật.

cụ thể như:

76

- Chế độ, chính sách đối với người tham gia các khóa dào tạo, bồi

dưỡng

- Trách nhiệm của CBCC cấp xã đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng

kiến thức pháp luật

- Trách nhiệm và quyền lợi của các đơn vị có chức năng đào tạo, bồi

dưỡng CBCC cấp xã.

Trên cơ sở những văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng

CBCC cấp xã, thành phố Gia Nghĩa cần xây dựng một quy chế riêng về công

tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã trên địa bàn

thành phố cho phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương phải làm tốt các

nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, cần đẩy mạnh việc rà soát, hệ thống hoá, nhất là tập hợp hóa

các quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, nâng cao

chất lượng của pháp luật đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức trong tình hình mới. Trước hết phải tổ chức rà soát, tổng kết, đánh giá

đúng thực trạng đời sống pháp luật, xác định rõ nhu cầu điều chỉnh pháp luật,

trên cơ sở đó hình thành kế hoạch xây dựng và thực hiện pháp luật phù hợp,

tiến tới xây dựng chiến lược pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Coi trọng tổng kết thực tiễn thực thi pháp luật, nâng cao chất lượng xây

dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với những quy định chi tiết, dễ

hiểu, dễ thực hiện. Đồng thời, tổng kết và đánh giá đó bao gồm nhiều nội

dung theo các tiêu chí sau: Mức độ đầy đủ của pháp luật hiện hành về đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức, xác định rõ những biểu hiện thừa và thiếu pháp

luật để có biện pháp khắc phục. Có thể nói, đội ngũ cán bộ, công chức hiện

nay được đào tạo, bồi dưỡng khá nhiều nhưng hiệu quả chưa cao. Do vậy,

trong các văn bản quy định chi tiết việc thực hiện các quy định của Luật Cán

77

bộ, công chức cần chú ý quy định các lớp bồi dưỡng kỹ năng có tính chất khu

biệt cho từng nhóm công chức sao cho sát với vị trí việc làm của họ. Đồng

thời, Nhà nước cũng xác đinh rõ hơn vị trí việc làm của công chức để có căn

cứ đào tạo, bồi dưỡng công chức.

Thứ hai, củng cố các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xây dựng pháp

luật để thể chế hóa đúng, kịp thời đường lối chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức trong tình hình mới.

Cần có sự đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của Quốc hội,

Chính phủ, Bộ Nội vụ và các cơ quan khác, đồng thời tạo đủ những điều kiện

cần thiết cho hoạt động xây dựng pháp luật. Củng cố cơ quan pháp chế ngành,

bảo đảm cho cơ quan này có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ phù hợp,

tham gia tích cực vào quá trình xây dựng hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức của ngành. Cần xây dựng cơ chế thu hút đông đảo

các nhà khoa học, giảng viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

và các cán bộ quản lý đào tạo, bồi dưỡng thực tiễn tham gia vào quá trình xây

dựng pháp luật. Ngoài ra cần mở rộng dân chủ trong quá trình xây dựng, hoàn

thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức để mọi tầng lớp nhân

dân có thể tham gia tích cực và có chất lượng trong việc đóng góp ý kiến vào

nội dung các bản dự thảo. Có chính sách đãi ngộ, động viên khuyến khích đối

với cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật. Nhà nước cần có chính sách

chăm lo điều kiện làm việc, lợi ích vật chất và tinh thần cho những người làm

công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quy trình, nội

dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho từng

nhóm, loại cán bộ, công chức. Đây là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao

78

chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay. Trên cơ sở xác

định nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phù hợp với từng nhóm

công chức để từ đó xác định hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công

chức phù hợp với nội dung là giải pháp quan trọng mang tính đột phá.

Thứ tư, hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến quản lý

công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, có biện pháp khuyến khích

công chức tự đào tạo: Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

là một công việc quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức. Do vậy, hoàn thiện các quy định pháp luật về quản

lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức để việc cử người đi đào tạo

được đúng với quy định, việc đào tạo và sử dụng cán bộ, công chức sau đào

tạo, bồi dưỡng có hiệu quả.

Thứ năm, củng cố, hoàn thiện các điều kiện thực tế bảo đảm thực hiện

có hiệu quả các quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức. Nhà nước ta cần đầu tư về vật chất và con người cho công tác tổ chức

thi hành pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Điều này đã được

Đảng ta nhấn mạnh là “đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức

thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa”[2]. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức

làm công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhất là những người làm công tác nghiên

cứu lý luận pháp lý, những người trực tiếp giảng dạy, đào tạo... Sự đầu tư

không chỉ đòi hỏi về vật chất mà cả thời gian, công sức, trí tuệ và con người

cho các hoạt động nói trên. Ngoài ra còn phải đầu tư cho các hoạt động xã hội

khác để tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi bảo đảm pháp luật về đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã đạt hiệu quả cao.

Thứ sáu, tổ chức sắp xếp lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức; có thể nói, hiện nay trừ các trường của Đảng có nguồn học viên dồi dào,

79

còn lại các trường khác đều không đào tạo, bồi dưỡng hết công suất (khả

năng) của mình và như vậy lãng phí về đội ngũ cán bộ quản lý và giảng dạy,

lãng phí về cơ sở vật chất; để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực về nhân lực

và vật chất đang có các cơ sở đào tạo này buộc phải mở rộng các chuyên

ngành đào tạo sang những lĩnh vực không đúng với sứ mạng (chức năng,

nhiệm vụ) của cơ sở mình khi được thành lập; việc đào tạo như vậy không

những không đúng với chức năng, nhiệm vụ của các trường mà chắc chắn

chất lượng đào tạo sẽ không cao vì không đúng sở trường của các cơ sở nêu

trên.

Do vậy, cần quy hoạch lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức theo hướng tổ chức lại thành ba nhóm: (i) Hệ thống các

trường của Đảng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đảng; (ii) Hệ thống các trường

đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức nhà nước; (iii) Hệ thống các trường

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hội cho các tổ chức chính trị xã hội còn lại.

Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức cần có sự

phối hợp chặt chẽ với nhau về chương trình đào tạo, về việc sử dụng đội ngũ

giảng viên để có thể công nhận, kế thừa những nội dung đã được đào tạo ở

các cơ sở khác; tất cả các cơ sở đều phải chuyển sang đào tạo theo tín chỉ, học

viên học xong môn học nào thì tổ chức thi, đánh giá và cấp chứng chỉ đã học

đạt yêu cầu môn học đó. Sau này nếu có phải đào tạo, bồi dưỡng theo chương

trình khác thì những môn học nào, những bộ phận kiến thức nào đã được tích

lũy đủ thì sẽ không phải học lại, tiết kiệm cho cán bộ, công chức, viên chức

lãnh đạo và quản thời gian, công sức, tiền của trong việc phải học đi, học lại

những môn học, những bộ phận kiến thức trùng lặp.

Thứ bảy, nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào

tạo, bồi dưỡng công chức. Cần sửa đổi Chương IV (Giảng viên) Nghị định số

101/2017/NĐ- CP theo hướng bổ sung quy định về sự luân chuyển giảng viên

80

giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Sự luân chuyển giảng viên như vậy vừa

giúp cho giảng viên có điều kiện nâng cao trình độ lý luận khi làm việc tại cơ

sở đào tạo (khi giảng dạy tại cơ sở giảng viên có thể vừa giảng dạy vừa tham

gia nghiên cứu khoa học hoặc học thêm trình độ cao hơn như thạc sĩ, tiến sĩ),

vừa giúp họ có điều kiện nâng cao tay nghề khi trực tiếp thi hành công vụ tại

các cơ quan, đơn vị.

Thứ tám, tuyển dụng, tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức

đúng với chuyên môn mà họ đã được đào tạo, bồi dưỡng: Các cơ quan nhà

nước, các tổ chức xã hội chú trọng những người đã được đào tạo, bồi dưỡng

đúng chuyên môn và có chất lượng vào đúng vị trí việc làm; trên cơ sở

nguyên tắc ứng viên để được tuyển chọn, tuyển dụng làm công chức phải

được đào tạo có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với vị trí việc làm

cần tuyển chọn, tuyển dụng.

3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

Để thực hiện có hiệu quả pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông đặt được mục

tiêu đề ra giai đoạn 2022 - 2026 định hướng đến năm 2030, tác giả xin đưa ra

một số nhóm giải pháp cụ thể như sau:

3.4.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý bồi dưỡng

Một là, nâng cao chất lượng tài liệu bồi dưỡng.

Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn của học viên, khung chương

trình bồi dưỡng cần được chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp trong từng giai

đoạn cụ thể. Những chuyên đề có nhiều nội dung, liên quan đến nhiều ngành,

lĩnh vực phải được chia thành nhiều chuyên đề khác nhau; hoặc thiết kế theo

dạng mô đun để trong những trường hợp nhất định, giảng viên và học viên có

sự lựa chọn về các nội dung cụ thể trong mô đun đó.

81

Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy phải phù hợp

với từng đối tượng CBCC cấp xã theo từng vùng miền (vùng dân tộc thiểu

số...), theo từng giai đoạn phát triển đến năm 2026. Cử giảng viên tham gia

các lớp tập huấn để sử dụng những bộ tài liệu bồi dưỡng cho các chức danh

công chức cấp xã do Bộ Nội vụ ban hành và cập nhật những văn bản mới cho

những năm tiếp theo.

Hai là, tăng cường thời lượng dành cho việc rèn luyện, nâng cao các kỹ

năng cho cán bộ, công chức cấp xã

Để có nhiều cơ hội cho học viên được thực hành các kỹ năng cần xem

xét lại quy mô lớp học, tránh tình trạng các lớp học quá đông người như trong

thời gian vừa qua, với những lớp học có số lượng học viên nhiều cần áp dụng

theo hình thức báo cáo chuyên đề. Đồng thời, có những chuyên đề nếu điều

kiện cho phép thì nên tổ chức học tập, trao đổi ở theo mô hình “Hội nghị đầu

bờ”.

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên

Giảng viên của các lớp bồi dưỡng CBCC cấp xã phải kết hợp giữa

những người am hiểu lý luận và những người làm công tác thực tiễn, do vậy

cần tập huấn cho đội ngũ giảng viên để có sự trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và

kỹ năng giảng dạy. Ở những chuyên đề đòi hỏi tính chuyên sâu cao, bao gồm

nhiều lĩnh vực, diễn ra trên phạm vi rộng có thể bố trí hai giảng viên cùng lên

lớp (01 giảng viên cơ hữu và 01 giảng viên kiêm chức). Tổ chức bồi dưỡng

phải đảm bảo cho đội ngũ giảng viên cơ hữu và kiêm chức vững vàng về

chuyên môn, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống và kỹ năng sư phạm.

Xây dựng các tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chính sách và chế độ đãi ngộ phù

hợp để thu hút những CBCC đã được đào tạo cơ bản, có kinh nghiệm thực

tiễn, có năng lực giảng dạy đang công tác tại các cơ quan, đơn vị tham gia

giảng dạy theo chế độ kiêm chức. Kiện toàn tổ chức, biên chế, bổ sung lực

82

lượng giảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã

đặt ra.

Bốn là, nâng cao chất lượng các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức.

Tiến hành khảo sát, lựa chọn các trường, các trung tâm đào tạo, bồi

dưỡng CBCC đảm bảo quy mô, chất lượng cơ sở vật chất và đội ngũ giảng

viên, tài liệu, giáo trình phù hợp với với nhu cầu để hợp đồng triển khai công

tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã lâu dài và ổn định. Tăng cường đầu tư

cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBCC để đáp ứng yêu cầu

giảng dạy và học tập đối với CBCC nói chung; CBCC cấp xã nói riêng.

Năm là, triển khai hình thức đào tạo trực tuyến có lựa chọn.

Đào tạo trực tuyến là một xu hướng phổ biến hiện nay, vừa giảm bớt

chi phí, vừa tạo độ phủ lớn. Bởi vì, với đặc thù của bồi dưỡng CBCC cấp xã

là tập trung vào rèn luyện kỹ năng, do vậy triển khai trên diện rộng việc bồi

dưỡng kiến thức, kỹ năng công nghệ thông tin theo phương thức trực tuyến

(E-Learning) cần cẩn trọng trong việc lựa chọn chuyên đề, lựa chọn nội dung

bồi dưỡng. Nên có sự kết hợp phương thức trực tuyến và phương thức trực

tiếp để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng CBCC cấp xã.

3.4.2. Nhóm giải pháp đối với chính quyền địa phương

Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, quán triệt tinh thần Quyết định số

163/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2025. UBND các cấp

cần chủ động xây dựng kế hoạch hoặc chương trình hành động cụ thể để tổ

chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã. Làm tốt công tác

quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng và bố trí CBCC cấp xã một các hợp lý.

Hai là, tổ chức rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã, trên

cơ sở đó xây dựng quy hoạch bố trí sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng từng chức

83

danh công chức.

Ba là, đưa công tác đánh giá CBCC cấp xã đi vào nề nếp, gắn quy

hoạch với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng. Tổ chức tốt việc tuyển dụng,

bổ nhiệm mới đối với CBCC cấp xã theo hướng phải đáp ứng tiêu chuẩn

chuyên môn theo chức danh quy định. Rà soát bảo đảm đúng tiêu chuẩn về

chức danh, chức vụ, không bố trí cán bộ, tuyển dụng công chức cấp xã không

đạt chuẩn về chuyên môn, chưa có bằng chuyên môn và tuổi cao, năng lực

yếu.

Bốn là, xác định rõ việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã đem lại kết

quả như kỳ vọng, đòi hỏi các cấp, các ngành và các địa phương phải có những

chiến lược dài hạn căn cứ vào thực tiễn phát triển KT-XH ở các địa phương

và thực tiễn hoạt động bồi dưỡng CBCC cấp xã trong những năm qua.

3.5. Kiến nghị, đề xuất

3.5.1. Đối với các cơ quan Trung ương

Các Bộ, ngành Trung ương sớm nghiên cứu sửa đổi bộ sung một số văn

bản quy phạm pháp luật như: Luật đất đai năm 2013; Nghị định số

09/1998/NĐ-CP ngày 01/01/1998 của Chính phủ, Nghị định 162/2017/NĐ-

CP của Chính phủ về quy định chi tiết một điều và biện pháp thi hành Luật tín

ngưỡng, tôn giáo, vì một số Điều không còn phù hợp với tình hình hiện nay;

chú trọng lồng ghép các lớp có cùng trình độ trung cấp, để sau khi tốt nghiệp

có thể có cả bằng chuyên môn và chính trị như: Trung cấp lý luận chính trị -

hành chính.

- Các bộ ngành có liên quan (Bộ Nội vụ), Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ

Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư...) trên cơ sở các quy định của Nhà nước

sớm ban hành các Quyết định, các thông tư hướng dẫn cụ thế về việc thực

hiện chế độ, chính sách đối với công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã, phù hợp với điều kiện hiện nay.

84

- Bổ sung chỉ tiêu định biên chức danh công chức làm việc tại Văn

phòng Đảng ủy cấp xã để nâng cao chất lượng xem xét, giải quyết công việc

tại cấp ủy cơ sở.

3.5.2. Đối với tỉnh tỉnh Đăk Nông

Sau khi có các văn bản hướng dẫn của Trung ương về công tác đào tạo

bồi dưỡng CBCC, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, tổ chức

triển khai, quán triệt để các đơn vị cơ sở thực hiện. Xây dựng hệ thống giáo

trình về đào tạo CBCC cấp xã phù hợp với điều kiện hiện nay.

- Đề nghị với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh tiếp tục quan tâm, tạo điều

kiện cho Trường chính trị tỉnh mở lớp trung cấp, làm việc với các trường Đại

học , Học viện hành chính Quốc gia mở các lớp về chuyên ngành chuyên môn

nhằm tạo điều kiện cho công chức cấp xã được học tập nâng cao trình độ, kể

cả những công chức xã chưa thuộc diện quy hoạch và tiếp tục ban hành chính

sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao về công tác các địa phương.

- Tỉnh uỷ, UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thống nhất một

cơ sở đào tạo cán bộ, công chức trong tỉnh. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng theo

chức danh và cập nhật kiến thức cho cán bộ, công chức cấp cơ sở; có các giải

pháp đồng bộ, hữu hiệu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ,

công chức cấp cơ sở.

- Để kịp thời triển khai việc tổ chức mở các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ

cán bộ, công chức và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã

Thành phố Gia Nghĩa theo Quyết định số 163/2016/QĐ-TTg; Quyết định số

263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 kính đề nghị UBND tỉnh các Sở, ban ngành có

liên quan sớm có các chính sách, đề án hỗ trợ nguồn kinh phí để bảo đảm thực

hiện hiệu quả hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trên địa

bàn thành phố.

3.5.3. Đối thành phố Gia Nghĩa

85

- Cần quan tâm tạo điều kiện về cơ chế chính sách, thời gian đối với

cán bộ, công chức được cử đi học. Thực hiện tốt công tác cán bộ ở tất cả các

khâu, thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện học tập của người được

cử đi học. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác Đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng; chủ

động trong việc phát triển kinh tế xã hội. Đảm bảo các kế hoạch đề ra trong

giai đoạn từ nay đến năm 2030. Từ đó tạo được nguồn lực về kinh tế và con

người, giúp cho công tác quản lý cũng thuận lợi hơn.

- Công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức cấp xã phải được thành

phố thực hiện thường xuyên và hiệu quả. Biện pháp luân chuyển cán bộ giữa

các xã lân cận cũng cần phải chú trọng, để giảm thiểu các tiêu cực trong hoạt

động quản lý và cũng giúp cho các cán bộ có thêm kinh nghiệm thực tế khi

làm việc ở môi trường khác nhau.

3.5.4. Đối với các xã

Tổ chức thực hiện tốt công tác quy hoạch, sử dụng CBCC cấp xã theo

phân cấp quản lý. Tạo điều kiện về thời gian để CBCC tham gia các khóa đào

tạo, bồi dưỡng. Hàng năm tổ chức rà soát tiêu chuẩn vị trí các chức danh theo

quy định báo cáo về UBND thành phố để lập kế hoạch cử cán bộ tham gia

học tập. Thường xuyên đánh giá hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, trên cơ

sở đó kiến nghị đề xuất những khó khăn vướng mắc về cấp có thẩm quyền.

Khuyến khích động viên để đội ngũ CBCC, đặc biệt là CBCC người dân tộc

thiểu số nâng cao ý thức tự giác học tập để nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ công tác đáp ứng tốt nhiệm vụ được giao.

86

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình KT-XH, quốc

phòng an ninh và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, đồng thời tập trung số

liệu để phân tích, đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân

kết quả, nguyên nhân hạn chế pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông về thực trạng

trình độ chuyên môn; trình độ lý luận chính trị; quản lý nhà nước, kỹ năng

ngoại ngữ, tin học, công tác bồi dưỡng các kiến thức pháp luật. Đã được nêu

tại chương 2; Chương 3 tập trung đề ra mục tiêu giải pháp hoàn thiện pháp

luật và thực hiện hiệu quả pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC

cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa trong những năm tiếp theo. Đồng

thời đưa ra các nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt khâu đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về chức danh cán bộ theo quy

định số 08-QĐ/ThU, ngày 18 tháng 12 năm 2020 của Thành ủy Gia Nghĩa về

tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Thường vụ

Thành ủy quản lý và một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Trong

nội dung Chương 3 tác giả cũng mạnh dạn đề xuất với các cấp, các ngành có

liên quan kịp thời điều chỉnh những chính sách trong đào tạo, bồi dưỡng; theo

dõi quản lý, sử dụng CBCC sau khi đào tạo để thực hiện tốt về chính cán bộ

của địa phương.

87

KẾT LUẬN

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới đang đặt ra nhiều thách thức

đòi hỏi chúng ta phải tích cực chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nói chung

và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng. Đây không chỉ là nhiệm vụ trước mắt

mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Bởi trong quá trình thực thi công vụ, yêu cầu của

cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay cũng như yêu cầu thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức đặc biệt quan trọng, nhằm

đạt mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,

hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời để từng

bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, liêm chính, năng

động, sáng tạo có trình độ cao và có nhân cách tốt, đủ khả năng vận hành xây

dựng Chính phủ kiến tạo, chính phủ điện tử đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân

dân, phát triển đất nước, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được

xem là một yêu cầu hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Luận văn

“Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (Qua thực tiễn

thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông)” đã tập trung giải quyết được các vấn

đề sau:

Luận văn đã trình bày có hệ thống các vấn đề về lý luận có liên quan

đến cán bộ, công chức cấp xã và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã trên góc độ nhìn nhận về luật hiến pháp và luật hành chính. Đó là

cơ sở để phân tích, nhận định, đánh giá thực trạng, phân tích những nhân tố

ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công

chức.

Luận văn đã đánh giá thực trạng, phân tích các kết quả đạt được và

những tồn tại hạn chế cần khắc phục, trên cơ sở đó nêu rõ nguyên nhân của

88

những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế để làm cơ sở cho việc đề ra những

mục tiêu, giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng pháp luật về đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh

Đăk Nông trong thời gian tới. Để thực hiện tốt các mục tiêu, định hướng đề ra

trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của thành phố.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã trên địa thành phố Gia Ngĩa, tỉnh Đăk Nông. Luận

văn cũng mạnh dạn đưa ra các giải pháp thiết thực cho công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk

Nông trong những năm tiếp theo. Nhằm từng bước hình thành được đội ngũ

cán bộ, công chức cấp xã có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, các kỹ năng về quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học

đáp ứng tốt yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính công vụ tại thành phố Gia

Nghĩa nói riêng và tỉnh tỉnh Đắk Nông nói chung.

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) (2017), Nghị quyết số 18-

NQ/TW ngày 25/10/2017 về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức

bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;

2. Ban Chấp hành Trung Ương (2018), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày

19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến

lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;

3. Bộ Nội vụ (2018), Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08/01/2018

của Bộ Nội vụ về Hướng một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày

01 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức;

4. Chính phủ (2005), Nghị định số 82/2005/NĐ-CP ngày 27/6/2005

của Chính phủ về việc thành lập thị xã Gia Nghĩa; thành lập các phường, xã

thuộc thị xã Gia Nghĩa và đổi tên huyện Đắk Nông thành huyện Đắk Glong,

tỉnh Đắk Nông;

5. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009

của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán

bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn;

6. Chính phủ (2010), Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của

Chính phủ về quy định những người là công chức;

7. Chính phủ (2017), Nghị định số 101/2017/NĐ/CP, ngày 01/09/2017

về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức để quy định;

8. Chính phủ (2020), Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020

của Chính phủ về Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;

9. Chính phủ (2021), Nghị định số 89/2021/NĐ-CP, ngày 18/10/2021

90

về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày

01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên

chức;

10. Đảng bộ tỉnh Đăk Nông (2015), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh

Đăk Nông lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015-2020;

11. Đảng bộ tỉnh Đăk Nông (2020), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh

Đăk Nông lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020-2025;

12. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2019), Nghị quyết số

10/2019/NQ-HĐND, ngày 19/7/2019 về việc quy định mức chi cho công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh (Hội đồng nhân dân

tỉnh Đắk Nông);

13. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013;

14. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức năm 2008;

15. Quốc hội (2019), Luật cán bộ, công chức, viên chức sửa đổi bổ sung năm

Thủ tướng Chính phủ (2004), Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg ngày 09/11/2004

của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu

số đối với CBCCVC công tác ở vùng dân tộc, miền núi;

16. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày

07/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại

các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan

trong hệ thống chính trị đến năm 2030;

17. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2019), Nghị quyết số 835/NQ-

UBTVQH14 ngày 17/12/2019 của về việc thành lập thành phố Gia Nghĩa trực

thuộc tỉnh Đắk Nông;

18. UBND thành phố Gia Nghĩa (2016), Kế hoạch về đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2016 – 2021;

19. UBND thành phố Gia Nghĩa (2016), Kế hoạch về đào tạo, bồi dưỡng

91

cán bộ, lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2021 – 2026;

20. UBND thành phố Gia Nghĩa (2016), Báo cáo tổng kết 07 năm thực

hiện Đề án “Củng cố và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức xã, phường,

thị trấn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2014 - 2021”.

92

Phụ lục 1

BẢNG TỔNG HỢP GIỚI TÍNH VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐĂK NÔNG GIAI ĐOẠN 2020 - 2022

Đơn vị tính: người

NĂM

2020 2022 2021 XÃ

Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ

Đắk R’Moan 17 8 8 15 8 16

Đăk Nia 16 6 5 17 5 17

Nghĩa Đức 19 4 5 15 5 18

Nghĩa Thành 20 5 6 18 6 19

Nghĩa Tân 18 7 6 17 6 17

Nghĩa Phú 16 7 6 15 6 17

5 Quảng Thành 18 6 14 6 17

Nghĩa Trung 20 11 22 9 22 9

Tổng cộng 145 53 143 51 133 51

Nguồn: Phòng Nội vụ năm 2022

93

Phụ lục 2

BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ SỐ LƯỢT NGƯỜI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ THAM GIA BỒI DƯỠNG GIAI ĐOẠN NĂM 2020- 2022

Đơn vị tính: người

Nội dung Số lượt Stt

Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức tài chính – kế 21 01

toán

02 Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức địa chính xây 45

dựng

Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức văn hóa – xã hội 37 03

Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức Tư pháp – hộ tịch 42 04

Bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chứcVăn phòng – 38 05

thống kê

Bồi dưỡng nghiệp vụ cho Trưởng Công an 27 06

Bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chỉ huy trưởng Quân sự 28 07

Bồi dưỡng Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy 28 08

Bồi dưỡng cán bộ Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam 42 09

Bồi dưỡng cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí 70 10

Minh

Bồi dưỡng cán bộ Hội LHPN Việt Nam 70 11

Bồi dưỡng cán bộ Hội Cựu chiến binh Việt Nam 42 12

Bồi dưỡng cán bộ Hội Nông dân Việt Nam 65 13

Bồi dưỡng cán bộ Hội Cựu chiến binh Việt Nam 42 13

Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh 715 14

Bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân 208 15

Nguồn: Phòng Nội vụ năm 2022

94

Phụ lục 3 BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐÁNH GIÁ CỦA

NGƯỜI DÂN LIÊN QUAN ĐẾN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐĂK NÔNG NĂM 2021

Đơn vị tính: Tỷ lệ %

Stt Các chỉ tiêu đánh giá Mức độ đánh giá

- Đánh giá tốt hơn nhiều : 5,6%

- Tốt hơn: 48,8% Cải cách thủ tục hành 01 - kém hơn: 15,2% chính - bằng mức năm 2017: 21,6%

- Khó trả lời: 8,8%

- Đánh giá tốt hơn nhiều : 1,6%

- Tốt hơn: 26,4% Về cải thiện môi trường 02 - kém hơn: 8% đầu tư kinh doanh - bằng mức năm 2017: 45,6 %

- Khó trả lời: 18,4%

- Đánh giá tốt hơn nhiều : 2,4%

- Tốt hơn: 30,4% Công tác giải quyết đơn 03 - kém hơn: 16,8% thư, tố cáo - bằng mức năm 2017: 35,2 %

- Khó trả lời: 15,2%

- Đánh giá tốt hơn nhiều : 4,8%

Về hiệu quả điều hành - Tốt hơn: 42,4%

04 của chính quyền địa - kém hơn: 13,6%

phương - bằng mức năm 2017: 31,2 %

- Khó trả lời: 25%

Về tinh thần, thái độ - Đánh giá tốt hơn nhiều : 3,2% 5 phục vụ nhân dân của cán - Tốt hơn: 42%

95

bộ, công chức - kém hơn: 16,7%

- bằng mức năm 2017: 28,6 %

- Khó trả lời: 9,5%

Nguồn: Ban Tuyên giáo Thành ủy năm 2021

96

Bản đồ hành chính thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông (Nguồn: http://www.daknong.gov.vn)

(Nguồn: http://ipcdaknong.com.vn)

97