BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG,

CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TRONG

KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN

Ngành: Luật kinh tế

TẠ NHẬT ANH

Hà Nội, năm 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi

bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8380107

Họ và tên học viên: Tạ Nhật Anh

Người hướng dẫn: TS Nguyễn Bình Minh

Hà Nội, năm 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết

quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Nhật Anh

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn,

giúp đỡ hết sức nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của TS Nguyễn Bình Minh,

giảng viên khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc và xin được gửi lời cảm ơn tới tập thể

cán bộ, giảng viên Khoa Luật, tập thể Thầy, Cô giáo Trường Đại học Ngoại thương

Hà Nội đã giảng dạy, truyền thụ kiến thức và giúp đỡ tôi trong suốt khoá học và

thời gian nghiên cứu luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Nhật Anh

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................. v

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................................vi

LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN VÀ

TRỤC LỢI BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN .... 9

1.1. Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm tài sản ............................................. 9

1.1.1. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm tài sản ....................................... 9

1.2. Tổng quan về trục lợi bảo hiểm .............................................................. 17

1.2.1. Khái niệm về trục lợi bảo hiểm và phòng chống, trục lợi bảo

hiểm ......................................................................................................... 17

1.2.2. Nguyên nhân trục lợi bảo hiểm ................................................... 21

1.2.3. Hậu quả trục lợi bảo hiểm ........................................................... 24

1.3. Các loại trục lợi bảo hiểm tài sản ........................................................... 26

1.3.1. Căn cứ vào giai đoạn bảo hiểm.................................................... 26

1.3.2. Căn cứ vào đối tượng tiến hành trục lợi bảo hiểm ..................... 28

1.3.3. Căn cứ vào các thủ đoạn gian lận bảo hiểm tài sản ................... 30

1.3.4. Căn cứ vào hình thức trục lợi ...................................................... 32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM

VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TÀI SẢN

.............................................................................................................................. 33

2.1. Thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản tại Việt Nam .......................... 33

2.1.1. Tình hình trục lợi bảo hiểm những năm gần đây ...................... 33

2.2.2. Hình thức trục lợi bảo hiểm ......................................................... 34

2.2.3. Hậu quả của trục lợi bảo hiểm .................................................... 42

2.2. Pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản .......... 43

2.2.1. Nhóm các quy định chung về phòng, chống trục lợi bảo hiểm .. 44

iv

2.2.2. Nhóm các quy định điều chỉnh hành vi của các bên trong hợp

đồng bảo hiểm ......................................................................................... 46

2.2.2. Nhóm các quy định về quản lý nhà nước về phòng, chống trục

lợi bảo hiểm ............................................................................................. 50

2.2.3. Nhóm các quy định của pháp luật khác có liên quan điều chỉnh

hành vi trục lợi bảo hiểm ....................................................................... 52

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VIỆT NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TÀI SẢN ...... 54

3.1. Làm rõ khái niệm trục lợi bảo hiểm ...................................................... 54

3.2. Hoàn thiện quy định về hợp đồng bảo hiểm tài sản ............................. 55

3.3. Hoàn thiện các quy định về phòng ngừa rủi ro và giám sát hoạt

động kinh doanh bảo hiểm ............................................................................. 59

3.4. Bổ sung quy định về đăng ký hợp đồng bảo hiểm tài sản .................... 64

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tiếng Anh

Tiếng Việt

Tên viết tắt

Hiệp hội Bảo hiểm Anh

ABI

Association of British Insurers

Cục điều tra liên bang

FBI

Federal Bureau of Investigation

FOS

Financial Ombudsman Service

Dịch vụ thanh tra tranh chấp tài chính

Hội đồng bảo hiểm Úc

ICA

Insurance Council Australia

IDS

Insurance Data Service Inc.

Công ty TNHH Dịch vụ dữ liệu bảo hiểm

IFB

Insurance Fraud Bureau

Văn phòng về Trục lợi bảo hiểm của Anh

Dịch vụ tham khảo bảo hiểm

IRS

Insurance Reference Services

NAIC

National Association of Insurance Commissioners

Hiệp hội quốc gia Cơ quan quản lý bảo hiểm Hoa Kỳ

NFD

National Fraud Database

Cơ sở dữ liệu về trục lợi quốc gia

NFSA

National Fraud Strategic Authority (UK)

Cơ quan Chiến lược Quốc gia của Anh về Gian lận

NICB

National Insurance Crime Bureau

Văn phòng quốc gia về tội phạm bảo hiểm

OIG

Vụ thanh tra của Bộ sức khỏe và dịch vụ nhân lực Mỹ

Offical of Inspector General (US Department of Health and Human Services)

SFD

Staff Fraud Database

Cơ sở dữ liệu về trục lợi của nhân viên

vi

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Tên luận văn: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo

hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản

Luận văn đã đạt được các kết quả chính sau:

- Đã làm rõ các khái niệm liên quan đến kinh doanh bảo hiểm tài sản, như bảo

hiểm tài sản, kinh doanh bảo hiểm tài sản, đặc điểm của bảo hiểm tài sản, rủi ro

trong bảo hiểm tài sản và tổn thất trong bảo hiểm tài sản.

- Đã phân tích khái niệm trục lợi bảo hiểm, nguyên nhân dẫn đến trục lợi bảo

hiểm và hậu quả của trục lợi bảo hiểm.

- Đã làm rõ khái niệm trục lợi bảo hiểm tài sản, trong đó tập trung nghiên cứu

trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, Các loại trục lợi bảo hiểm

hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.

- Đã làm rõ thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản ở Việt Nam và pháp luật về

phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản.

- Đã đề xuất một số giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên

quan đến hợp đồng bảo hiểm tài sản; giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm; đăng

ký hợp đồng bảo hiểm tài sản.

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế những năm gần đây, các hoạt

động kinh doanh, thương mại diễn ra ngày càng nhiều và kèm theo đó hoạt

động bảo hiểm cũng diễn ra hết sức sôi động, đóng góp tích cực vào tăng

trưởng kinh tế của Việt Nam. Tính đến 31/12/2017, thị trường bảo hiểm có 64

doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, nhân thọ, tái

bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Tổng tài sản toàn thị trường đạt 316.300 tỷ

đồng, tăng 27,4% so với năm 2016, tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế đạt

247.815 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2016, tổng doanh thu toàn thị trường

đạt 132.369 tỷ đồng, trong đó doanh thu phí bảo hiểm đạt 107.821 tỷ đồng

(tăng 23,4% so với năm 2016), doanh thu đầu tư đạt 24.548 tỷ đồng, số tiền chi

trả quyền lợi bảo hiểm là 31.904 (Bộ Tài Chính, 2018, tr. 5). Còn theo số liệu

đăng tải trên trang web chính thức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, doanh thu

phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 41.344 tỷ đồng, tăng trưởng 13%. Các doanh

nghiệp bảo hiểm đầu tư vào nền kinh tế 231.973 tỷ đồng, trong đó khối nhân

thọ đạt 193.508 tỷ đồng, tăng 41%; khối phi nhân thọ đạt 38.465 tỷ đồng, tăng

27%. Các Doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo công ăn việc làm cho 702.282 lao

động, trong đó có 29.584 cán bộ nhân viên và 672.698 đại lý (Ngô Trung

Dũng, 2018).

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm

Việt Nam, đã xuất hiện tình trạng trục lợi bảo hiểm. Những năm gần đây, trục

lợi bảo hiểm nói chung và trục lợi bảo hiểm vật chất nói riêng ở Việt Nam đã

gia tăng nhanh chóng về số lượng và phát triển phức tạp về quy mô cũng như

thủ đoạn trục lợi, gây thiệt hại về vật chất, uy tín cho nhiều doanh nghiệp bảo

hiểm, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm,

2

đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm Việt

Nam.

Pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung

và phòng chống trục lợi bảo hiểm nói riêng đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung

phần nào đã cho thấy sự phức tạp của vấn đề và các khó khăn khi áp dụng các

quy định của luật nhằm phòng chống trục lợi bảo hiểm.

Ngoài ra, trong công tác ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm, hoạt động quản lý,

giám sát của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đóng vai trò quan trọng,

nhằm đảm bảo cho các chủ thể liên quan thực hiện hành vi một cách có trách

nhiệm, tuân thủ quy định của pháp luật. Với mục đích nhằm ngăn ngừa trục lợi

bảo hiểm, cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các nội dung giám sát của mình

thông qua việc ban hành các quy định như: Cấp phép thành lập và hoạt động

của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; quản lý, giám sát

sản phẩm bảo hiểm; quản lý, giám sát kênh trung gian bảo hiểm. Các nội dung

này được cơ quan nhà nước thực hiện bằng phương thức giám sát từ xa và kiểm

tra tại chỗ cũng như thực hiện thẩm quyền của mình trong việc áp dụng các chế

tài đối với chủ thể vi phạm. Thời gian qua các doanh nghiệp bảo hiểm Việt

Nam cũng như Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính đã nghiên cứu

áp dụng nhiều biện pháp phòng ngừa hạn chế trục lợi trong bảo hiểm và đã thu

được những thành công nhất định. Tuy nhiên thực tế các biện pháp này chưa

thật sự giải quyết hiệu quả tình trạng trục lợi trong bảo hiểm nói chung và trục

lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển nói riêng.

Trên góc độ nghiên cứu, một số tác giả cũng đã phân tích thực trạng trục

lợi bảo hiểm và đặc biệt là trục lợi bảo hiểm xe cơ giới nhằm đưa ra một số giải

pháp phòng ngừa hiện tượng này. Tuy nhiên, như phần tổng quan tình hình

nghiên cứu sẽ được trình bày dưới đây cho thấy, các nghiên cứu này mới chỉ

3

tập trung nghiên cứu một vài khía cạnh của hiện tượng trục lợi bảo hiểm và

thường nhấn mạnh đến trục lợi bảo hiểm xe cơ giới. Ngoài ra, pháp luật Việt

Nam cũng đã có những thay đổi trong thời gian gần đây và các nghiên cứu này

chưa đề cập đến các quy định mới này.

Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể các quy định của pháp luật

Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản

nhằm đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam là hết sức cần

thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

Vì những lẽ trên, học viên đã lựa chọn chủ đề “Hoàn thiện pháp luật Việt

Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản”

làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình. Đề tài này phù hợp với chuyên ngành

đào tạo Thạc sỹ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế tại Trường Đại học

Ngoại thương.

2. Tình hình nghiên cứu

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và trục lợi bảo hiểm nói riêng

không phải là chủ đề mới. Đã có khá nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về

trục lợi bảo hiểm được thể hiện trong các giáo trình về bảo hiểm, trong các đề

tài nghiên cứu khoa học, các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ cũng như các bài

viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành. Cụ thể, có thể kể đến các công

trình tiêu biểu sau:

Các tác giả Đào Thanh Bình và Hoàng Đình Minh trong bài viết về “Giải

pháp ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm vật chất” đăng trên Tạp chí Tài chính số 8

năm 2014 đã phân tích thực trạng trục lợi bảo hiểm xe cơ giới, nhiện diện một

số hình thức gian lận bảo hiểm xe cơ giới và đưa ra một số giải pháp nhằm hạn

chế trục lợi bảo hiểm xe cơ giới.

4

PGS. TS Trần Sỹ Lâm, trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về “Hạn

chế trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển tại một số

nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, nghiệm thu năm

2014, đã phân tích tổng quan về trục lợi và hạn chế trục lợi trong bảo hiểm

hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, phân tích hiện tượng trục lợi và phương

pháp hạn chế trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển tại

một số nước trên thế giới và đưa ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về:

phòng ngừa trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển; xử

lý trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Đề tài này

cũng đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế trục lợi trong bảo

hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển cho Việt Nam. Tuy nhiên, Đề tài

này chỉ tập trung nghiên cứu trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng

đường biển, vốn là một lĩnh vực hết sức chuyên biệt, chứ chưa nghiên cứu trục

lợi trong bảo hiểm tài sản nói chung.

Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm, trong một đề tài nghiên cứu khoa học

cấp Bộ do Bộ Tài chính tài trợ về“Trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam-Nguy cơ và

Giải pháp” nghiệm thu năm 2012, đã phân tích thực trạng về trục lợi bảo hiểm

ở Việt Nam, đánh giá các tác hại mà hiện tượng này gây ra và đề xuất một số

giải pháp nhằm phòng ngừa hiện tượng này.

Tại Trường Đại học Ngoại thương có đề tài luận văn thạc sỹ bảo vệ năm

2013 của Nguyễn Lệ Thủy về “Phòng chống trục lợi trong kinh doanh bảo

hiểm phi nhân thọ tại một số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam ”, cũng như đề

tài luận văn thạc sỹ năm 2012 của Nguyễn Thị Phượng về“Kinh nghiệm phòng

ngừa và đấu tranh chống trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường

biển ở một số nước khu vực Bắc Mỹ và Tây Âu”.

5

Tác giả Doãn Hồng Nhung trong bài viết “Một số ý kiến hoàn thiện pháp

luật về phòng ngừa, ngăn chặn trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở

Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 30, số 3 năm

2014, tr 33-40, đã phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam và đề xuất một số

giải pháp hoàn thiện, trong đó nhấn mạnh đến việc tăng các mức phạt tiền.

Nguyễn Thị Hoài Thu (2012) trong bài viết về “Hoàn thiện các quy định

của pháp luật để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam”, đăng trên tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 03 (212) tháng 2 năm 2012, đã phân tích tình hình trục

lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm, thực tiễn xử lý các hành vi trục lợi

bảo hiểm và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo

hiểm để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm.

Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên chủ yếu phân tích các khía cạnh kinh

tế – quản lý của vấn đề trục lợi bảo hiểm, coi đó là một phần của quản trị rủi ro

mà doanh nghiệp cần phải quan tâm thực hiện. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn

Thị Hoài Thu đã đề cập trực tiếp đến vấn đề trục lợi bảo hiểm nói chung,

nhưng chưa đi sâu phân tích các đặc trưng của trục lợi bảo hiểm tài sản và cũng

chưa tính đến các sửa đổi của Bộ luật hình sự năm 2015.

Như vậy, cho đến nay, chưa có đề tài nào mới nghiên cứu, đánh giá một

cách tổng thể về pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong

kinh doanh bảo hiểm tài sản.

3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam

về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản để đề

xuất các giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả pháp luật cũng như hoàn thiện pháp

luật về vấn đề này.

6

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, phân tích hoạt động kinh doanh bảo hiểm để làm rõ bản chất

loại hình kinh doanh này

Thứ hai, nhận diện các phương thức, hành vi trục lợi bảo hiểm, đặc biệt là

trục lợi bảo hiểm tài sản.

Thứ ba, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống

trục lợi bảo hiểm nói chung và phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản nói

riêng.

Thứ tư, đề xuất các giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả các quy định của

pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản.

Thứ năm, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục

lợi bảo hiểm tài sản.

5. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các hành vi trục lợi bảo hiểm tài sản ở Việt Nam

và các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi và hạn chế

trục lợi bảo hiểm tài sản. Ngoài ra, do bảo hiểm tài sản rất đa dạng, nên trong

một số mục, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu loại hình bảo hiểm hàng hóa vận

chuyển bằng đường biển.

6. Phạm vi nghiên cứu

Các hoạt động kinh doanh bảo hiểm rất đa dạng và các hành vi trục lợi

cũng rất đa dạng. Vì vậy, luận văn này sẽ không đề cập đến tất cả các hành vi

trục lợi bảo hiểm nói chung mà sẽ có giới hạn cả về nội dung nghiên cứu, về

không gian nghiên cứu và thời gian nghiên cứu.

7

Về nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các dạng trục lợi

điển hình trong bảo hiểm tài sản, cũng như các biện pháp hạn chế trục lợi chủ

yếu của các cơ quan quản lý nhà nước chức năng và các doanh nghiệp bảo

hiểm áp dụng đối với các đối tượng trục lợi. Các hành vi trục lợi bảo hiểm phi

nhân thọ sẽ không được đề tài này nghiên cứu.

Về không gian nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các hành vi

trục lợi bảo hiểm tài sản ở Việt Nam và quy định của pháp luật Việt Nam về

vấn đề này. Các hành vi trục lợi, các tranh chấp về trục lợi bảo hiểm ở nước

ngoài, các quy định của pháp luật nước ngoài về phòng, chống trục lợi bảo

hiểm nếu được trích dẫn trong Luận văn thì chỉ để làm ví dụ hoặc đối tượng so

sánh chứ không phải là đối tượng nghiên cứu chính của Luận văn.

Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các hiện tượng trục

lợi, các thủ đoạn trục lợi, các biện pháp trục lợi bảo hiểm tài sản và các quy

định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm từ năm 2000,

tức là thời điểm Việt Nam có đạo luật chuyên ngành đầu tiên về kinh doanh

bảo hiểm. Tuy nhiên, Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu sâu hơn giai đoạn từ

năm 2010 trở lại đây, tức là thời điểm Việt Nam có một luật mới sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 20001.

7. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn sẽ sử dụng các

phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống, như: phân tích, tổng hợp tình

1 Để việc trích dẫn được ngắn gọn hơn, thứ tự các điều luật được trích dẫn sẽ là thứ tự trong văn bản hợp nhất số 12/VBHN-VPQH ngày 23 tháng 07 năm 2013 về Luật kinh doanh bảo hiểm. Trong Luận văn này, Luật Kinh doanh bảo hiểm được hiểu là Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010. Khi đề cập đến quy định cũ thì Luận văn sẽ nêu rõ đó là Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

huống, phân tích án lệ và so sánh luật học.

8

Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt luận văn nhằm

làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động kinh doanh

bảo hiểm, về các hành vi trục lợi bảo hiểm và các quy định của pháp luật về

phòng, chống trục lợi bảo hiểm.

Phương pháp phân tích án lệ sẽ được sử dụng chủ yếu trong Chương 2

nhằm làm sáng tỏ hơn sự phức tạp của vấn đề trục lợi bảo hiểm, cũng như rút

ra các bài học tạo tiền đề cho việc đề xuất các giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả

các quy định của pháp luật về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản và hoàn

thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.

Phương pháp so sánh luật học sẽ được sử dụng chủ yếu tại Chương 1 và

Chương 2 nhằm làm rõ các ưu điểm và nhược điểm của pháp luật Việt Nam

trong tương quan với pháp luật nước ngoài, nhằm tạo tiền đề cho các đề xuất

hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

8. Kết cấu của Luận văn

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các chữ

viết tắt, Luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:

- Chương 1: Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm tài sản và trục lợi bảo

hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản

- Chương 2: Thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản tại Việt Nam và pháp

luật về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản

- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam phòng,

chống trục lợi bảo hiểm tài sản.

9

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN

VÀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI

SẢN

1.1. Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm tài sản

1.1.1. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm tài sản

1.1.1.1. Khái niệm “bảo hiểm tài sản”

Pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa về bảo hiểm tài sản mà chỉ

có quy định chung về bảo hiểm phi nhân thọ, theo đó bảo hiểm phi nhân thọ là

loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm

khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ (khoản 18, Điều 3, Luật kinh doanh bảo

hiểm). Như vậy, bảo hiểm tài sản nằm trong nhóm bảo hiểm phi nhân thọ.

Bảo hiểm tài sản, như tên gọi của nó cho thấy, có đối tượng là một loại tài

sản. Bảo hiểm hiểm tài sản thường được thể hiện bằng hợp đồng bảo hiểm

nhằm cung cấp sự đền bù về mặt tài chính cho chủ sở hữu hoặc người thuê tài

sản, trong trường hợp tài sản bị hư hỏng hoặc trộm cắp. Các loại tài sản được

bảo hiếm rất đa dạng. Theo pháp luật Việt Nam, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có

giá và quyền tài sản (khoản 1, Điều 105 BLDS năm 2015). Tài sản bao gồm hai

loại là bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản

hiện có và tài sản hình thành trong tương lai (khoản 2, Điều 105 BLDS năm

2015). Tất cả các loại tài sản kể trên đều có thể trở thành đối tượng của bảo

hiểm tài sản. Trong thực tiễn, các bên có quyền thỏa thuận về loại tài sản được

bảo hiểm.

1.1.1.2. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm tài sản

Pháp luật Việt Nam cũng không có định nghĩa về kinh doanh bảo hiểm tài

sản mà chỉ có định nghĩa về “kinh doanh bảo hiểm”. Cụ thể, theo khoản 1 Điều

3 Luật Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh bảo hiểm là “hoạt động của doanh

10

nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp

nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí

bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng

hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.

Do đối tượng của kinh doanh bảo hiểm tài sản là tài sản mà tài sản lại có

các dạng rất khác nhau nên bảo hiểm tài sản cũng rất đa dạng, thường là do các

bên tự do thỏa thuận, nhưng cũng có thể do pháp luật bắt buộc. Có thể kể đến

các loại bảo hiểm tài sản tiêu biểu sau.

a) Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản

Đây là loại bảo hiểm nhằm bảo toàn tài sản doanh nghiệp một cách an

toàn và hiệu quả nhất. Đối tượng của loại bảo hiểm này bao gồm tài sản cố

định, các công trình xây dựng (nhà cửa, kho tàng, văn phòng…), hàng hóa lưu

kho, nguyên vật liệu, tư liệu sản xuất… của các doanh nghiệp, xí nghiệp sản

xuất, trung tâm thương mại, khách sạn, dịch vụ… Phạm vi của loại bảo hiểm

này là toàn bộ tổn thất vật chất xảy ra bất ngờ đối với tài sản đã được bảo hiểm,

do bất kỳ nguyên nhân nào không bị loại trừ trong Quy tắc bảo hiểm và vào bất

kỳ thời điểm nào trong thời hạn bảo hiểm.

b) Bảo hiểm bắt buộc

Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện

bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân

tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm

bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi

ích công cộng và an toàn xã hội. Theo Điều 8 Luật kinh doanh bảo hiểm, tại

Việt Nam bảo hiểm bắt buộc bao gồm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối

với hành khách; Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn

11

pháp luật; Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo

hiểm; Bảo hiểm cháy, nổ.

Như vậy, bảo hiểm tài sản bắt buộc chỉ liên quan đến bảo hiểm cháy, nổ.

Đối tượng của loại bảo hiểm tài sản bắt buộc này có thể là nhà cửa, công trình

xây dựng và các trang thiết bị kèm theo, máy móc thiết bị, hàng hoá lưu kho

(nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm), vật tư và các tài sản khác. Loại

bảo hiểm tài sản bắt buộc này có phạm vi là Tổn thất vật chất bất ngờ gây ra do

cháy, nổ không lường trước được xảy ra đối với các tài sản được bảo hiểm theo

danh mục tài sản mà Người được bảo hiểm kê khai. Trong đó: Cháy là phản

ứng hóa học có tỏa nhiệt và phát sáng do nổ hoặc bất kỳ nguyên nhân nào

khác; Nổ là phản ứng hoá học gây ra việc giải phóng khí và năng lượng đột

ngột với khối lượng lớn đồng thời phát ra âm thanh và ảnh hưởng vật lý đến

các vật xung quanh nhưng loại trừ thiệt hại tới bản thân nồi hơi, bình chứa,

máy móc sử dụng áp lực và chất liệu chứa trong đó.

c) Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt

Cần lưu ý đây không phải là loại bảo hiểm tài sản bắt buộc, mà là một loại

bảo hiểm theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm

nhằm bảo hiểm cho các các tài sản đặc biệt dễ cháy hoặc dễ hỏng hóc, hư hại

hoặc tiêu hao. Các rủi ro mà các bên có thể thỏa thuận là: cháy, nổ, sét., giông

bão, lũ lụt, đâm va, động đất, nổ nồi hơi và hoặc các thiết bị bình chứa hơi đốt,

rò rỉ nước từ hệ thống Sprinkler…

d) bảo hiểm gián đoạn kinh doanh

Trong thực tiễn kinh doanh, doanh nghiệp có thể phải đố diện với rủi ro

công việc kinh doanh bị gián đoạn, ngừng trệ do thiệt hại tài sản hay một phần

tài sản được bảo hiểm với mục đích kinh doanh. Loại bảo hiểm gián đoạn kinh

doanh cung cấp nguồn tài chính cho doanh nghiệp được bảo hiểm để giúp

12

doanh nghiệp tiếp tục tồn tại và khôi phục hoạt động kinh doanh như trước khi

sự cố xảy ra. Đối tượng bảo hiểm là lợi nhuận bị mất đi do hoạt động sản xuất

kinh doanh của Người được bảo hiểm bị gián đoạn. Loại bảo hiểm này bồi

thường cho mất lợi nhuận kinh doanh và các chi phí cố định mà người được

bảo hiểm phải tiếp tục chi trả trong khi hoạt động kinh doanh đã bị đình trệ,

cản trở hoặc bị ảnh hưởng do có sự cố tổn thất tài sản tại cơ sở kinh doanh của

người được bảo hiểm.

1.1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm tài sản

Kinh doanh bảo hiểm tài sản có đối tượng hẹp hơn so với kinh doanh bảo

hiểm nói chung và vì thế nó cũng có những tính chất chuyên biệt hơn so với

các đặc điểm của kinh doanh bảo hiểm nói chung (bảo hiểm nhân thọ và bảo

hiểm phi nhân thọ). Cụ thể, bảo hiểm tài sản có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, chỉ bảo hiểm khi xác định được giá trị tài sản là đối tượng của

bảo hiểm. Chính điều này đòi hỏi phải có phương pháp phù hợp để xác định giá

trị tài sản. Trong thực tế, giá trị của tài sản có thể được tính trên cơ sở giá thị

trường hoặc theo thỏa thuận giữa các bên.

Thứ hai, số tiền chi trả của công ty bảo hiểm được xác định dựa trên

nguyên tắc bồi thường. Giá trị bồi thường bằng giá trị tổn thất của tài sản cộng

với chi phí hợp lý để đề phòng, hạn chế tổn thất, chi phí phát sinh theo chỉ dẫn

của doanh nghiệp bảo hiểm và chi phí giám định thiệt hại (nếu có). Các phương

thức bồi thường rất đa dạng, có thể bằng tiền, bằng sửa chửa, khôi phục hoặc

thay thế tài sản.

Thứ ba, trách nhiệm bồi thường trong trường hợp bảo hiểm trùng. Bảo

hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với

hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng với

cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Pháp luật không cấm bên mua bảo hiểm

13

mua bảo hiểm trùng cho tài sản bởi vì đây là quyền định đoạt của chủ sở hữu

đối với tài sản. Tức là, chủ tài sản được quyền mua bảo hiểm cho tài sản tại

nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng điều kiện và sự kiện bảo

hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối với tài sản. Tuy nhiên,

trong quan hệ này, bên được bảo hiểm không được phép lợi dụng yếu tố phí

bảo hiểm phải trả cho một tài sản là rất nhỏ so với giá trị tài sản để yêu cầu bảo

hiểm nhiều lần cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau nhằm

mục đích nhận được khoản tiền bảo hiểm lớn hơn nhiều lần so với giá trị của

tài sản bảo hiểm2.

1.1.1.4. Rủi ro trong bảo hiểm tài sản

Khi nhắc đến bảo hiểm là nhắc đến rủi ro. Rủi ro và bảo hiểm gắn liền với

nhau như hai mặt của một vấn đề, có rủi ro mới có bảo hiểm. Xác định được

các loại rủi ro có ý nghĩa không chỉ đối với người kinh doanh bảo hiểm mà còn

cả với người mua bảo hiểm. Rủi ro, là một điều không may mắn, không lường

trước được về khả năng xảy ra, về thời gian và không gian xảy ra, cũng như

mức độ nghiêm trọng và hậu quả của nó. Dưới góc độ pháp lý, Từ điển Thuật

ngữ Pháp-Việt giảng nghĩa rủi ro (risque) là “sự kiện bất thường có thể xảy ra,

không phụ thuộc hoàn toàn vào ý muốn chủ quan của các bên và có khả năng

gây thiệt hại: thời tiết xấu, hỏa hoạn, thiên tai, dịch bệnh…” (Nhà Pháp luật

Việt-Pháp, Organisation Internationale de la Francophonie, 2009, tr. 805).

Trong thực tế, rủi ro rất đa dạng và có nguyên nhân phát sinh không giống

nhau và gây tác hại khác nhau. Để đánh giá một rủi ro, người ta dùng 2 tiêu

thức, đó là tần suất xuất hiện rủi ro và mức độ nghiêm trọng của rủi ro. Tần

suất xuất hiện rủi ro là số lần có thể xảy ra rủi ro trong một khoảng thời gian

2 Nội dung này sẽ được phân tích kỹ hơn tại Chương 2.

nhất định hay là khoảng cách thời gian trung bình giữa các lần rủi ro xuất hiện.

14

Ví dụ, cứ 10 năm lại xuất hiện một đợt rét hại ở miền Bắc Việt Nam làm chết

nhiều gia súc. Mức độ nghiêm trọng của rủi ro hay tính khốc liệt của tổn thất.

Tổn thất là hậu quả của rủi ro. Đối tượng chịu ảnh hưởng của rủi ro khác nhau

thì tổn thất gây ra cũng khác nhau. Ví dụ, giá lạnh có thể làm chết loại gia súc

này nhưng không gây thiệt hại cho loại vật nuôi khác.

Liên quan đến bảo hiểm tài sản, có thể kể đến các rủi ro sau:

a) Rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính

Rủi ro tài chính là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể đo được bằng

tiền. Tài sản bị hư hỏng sẽ dẫn đến thiệt hại về tài chính, đó là chi phí khôi

phục, sửa chữa tài sản, chi phí thay thế bộ phận tài sản bị hỏng, chi phí mua tài

sản khác tương tự thay thế tài sản đã bị hư hại, thiệt hại do gián đoạn kinh

doanh.

Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không đo được bằng tiền. Ví dụ, một

người mua một cái áo hoặc một đồ trang sức nhưng sau đó lại thấy không hợp

với sở thích của mình. Đây cũng có thể coi là một rủi ro nhưng hậu quả của nó

không gây thiệt hại tài chính, mà chỉ làm cho người có tài sản cảm thấy không

hài lòng.

b) Rủi ro có thể được bảo hiểm

Không phải rủi ro nào cũng có thể được bảo hiểm. Một rủi ro có thể được

bảo hiểm phải hội đủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, tổn thất phải mang tính chất ngẫu nhiên. Một sự kiện có thể

được bảo hiểm phải là hoàn toàn ngẫu nhiên đứng trên góc độ của người được

bảo hiểm. Không thể nào bảo hiểm một sự kiện chắc chắn sẽ xảy ra bởi vì nó

không mang tính chất ngẫu nhiên và do đó việc chuyển giao rủi ro sẽ không

xảy ra. Như vậy, không thể bảo hiểm những gì chắc chắn xảy ra như những

15

hỏng hóc do hao mòn tự nhiên gây ra. Cũng không thể bảo hiểm những gì

người được bảo hiểm cố ý gây ra. Những hành động cố ý của người khác sẽ

không mặc nhiên bị loại trừ nếu như nó là hoàn toàn bất ngờ đối với người

được bảo hiểm.

Thứ hai, phải đo được, định lượng được bằng tiền. Ý nghĩa của bảo hiểm

chính là ở chỗ nó phát huy tác dụng như một cơ chế chuyển giao rủi ro và bù

đắp về tài chính cho những rủi ro xảy ra. Bảo hiểm không thể loại bỏ được rủi

ro, nhưng nó có trách nhiệm bảo vệ về mặt tài chính để đối phó với hậu quả

của những tổn thất xảy ra. Nếu như vậy thì rủi ro được bảo hiểm phải có thể

dẫn đến một tổn thất có thể đo được bằng tiền. Điều đó có thể dễ thấy trong các

trường hợp tổn thất tài sản. Giá trị bằng tiền bị mất của tài sản là có thể đo

được, và như vậy theo các điều kiện bảo hiểm, nó phải được bồi thường. Giá trị

chính xác của tổn thất sẽ không thể biết được ngay từ đầu khi ký hợp đồng bảo

hiểm, nhưng sẽ xác định được sau khi tổn thất đã xảy ra.

Thứ ba, không trái với đạo đức xã hội. Hoạt động bảo hiểm tài sản là một

loại giao dịch dân sự. Cũng như mọi giao dịch dân sự khác, bảo hiểm tài sản

phải không trái với luật và đạo đức xã hội (khoản 2, Điều 3 BLDS năm

2015). Vì vậy, các giao dịch cố ý hủy hoại hoặc lấy cắp tài sản của người khác

nhằm được hưởng bảo hiểm sẽ không được chấp nhận.

c) Rủi ro không được bảo hiểm (hay rủi ro bị loại trừ)

Rủi ro không được bảo hiểm là những rủi ro không được người bảo hiểm

nhận bảo hiểm hoặc không được người bảo hiểm bồi thường. Đó là những rủi

ro đương nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra, hoặc các thiệt hại do nội tỳ, bản chất

của hàng hóa, do lỗi của người được bảo hiểm, thiệt hại mà nguyên nhân trực

tiếp là chậm trễ, những rủi ro có tính chất thảm họa mà con người không lường

16

trước được quy mô, mức độ và hậu quả của nó. (Hoàng Văn Châu, 2006, tr. 17-

18).

1.1.1.5. Tổn thất trong bảo hiểm tài sản

Tổn thất là tình trạng, hoàn cảnh thực tế đưa đến sự giảm bớt giá trị của

tài sản ngoài ý muốn của người mua bảo hiểm. Tổn thất là hậu quả do các rủi

ro gây ra, là kết quả của rủi ro còn rủi ro là nguyên nhân gây ra tổn thất. Tổn

thất trong bảo hiểm tài sản có nhiều dạng, có thể là tổn thất về vật chất, tổn thất

về thu nhập, tổn thất về tinh thần, tổn thất về tính mạng, sức khỏe con người.

Tổn thất về vật chất và tổn thất về thu nhập có thể đo lường được và có thể bù

đắp được, có thể sửa chữa, khôi phục, thay thế. Vì vậy, bảo hiểm chỉ bồi

thường tổn thất vật chất, tổn thất về thu nhập. Tổn thất về tinh thần tình

cảm, như mất đi một người ruột thịt, mất đi một tập ảnh cưới là những tổn thất

khó đo được giá trị cũng như khó có cách nào bù đắp được. Tổn thất về tính

mạng và sức khỏe con người không có gì đo được và không thể lượng hoá giá

trị bằng tiền. Tuy nhiên, người ta có thể thoả thuận với nhau số tiền bảo hiểm

sẽ trả trong trường hợp chết người, mất chân, mất tay v.v..., Có thể lượng hoá

được sức khỏe con người bằng tỷ lệ % mất khả năng lao động. Do luận văn chỉ

đề cập đến bảo hiểm tài sản nên những loại tổn thất được nghiên cứu chỉ là các

tổn thất về vật chất.

Theo mức độ, quy mô tổn thất chia thành tổn thất bộ phận và tổn thất toàn

bộ. Tổn thất bộ phận là một phần của tài sản được bảo hiểm theo một hợp đồng

bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại. Tổn thất bộ phận có thể là tổn thất về

số lượng, trọng lượng, thể tích, phẩm chất hoặc giá trị. Tổn thất toàn bộ là toàn

bộ tài sản theo một hợp đồng bảo hiểm bị tổn thất. Có hai loại tổn thất toàn bộ

là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước tính.

17

Căn cứ vào tính chất, tổn thất được chia thành tổn thất riêng và tổn thất

chung. Tổn thất riêng là loại tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho riêng quyền lợi

cùa một vài chủ tài sản, đặc biệt là các chủ hàng trong toàn bộ chuyến hành

trình, do những rủi ro được bảo hiểm gây ra và không phải tổn thất chung. Tổn

thất riêng là tổn thất của từng quyền lợi được bảo hiểm, quyền lợi bị tổn thất

không liên quan đến các quyền lợi khác và tổn thất hay tổn hại phải là ngẫu

nhiên và bất ngờ gây ra bởi một rủi ro được bảo hiểm. Tổn thất riêng có thể là

tổn thất bộ phận hoặc tổn thất toàn bộ của các quyền lợi riêng biệt.

1.2. Tổng quan về trục lợi bảo hiểm

1.2.1. Khái niệm về trục lợi bảo hiểm và phòng chống, trục lợi bảo hiểm

1.2.1.1. Khái niệm trục lợi bảo hiểm

“Trục lợi” (fraud) được mô tả trong từ điển tiếng Anh Oxford với nghĩa

là: gian dối; lừa dối hình sự; bằng cách sử dụng sự kháng nghị sai để có được

một lợi thế bất công hoặc làm tổn hại đến quyền, lợi ích của người khác; không

trung thực. Trong khi đó, Từ điển Thuật ngữ pháp luật Pháp-Việt giảng nghĩa

gian lận (fraude) là “hành động qua đó chủ thể của nó thể hiện ý định làm hại

người khác hoặc lảng tránh một số quy định của pháp luật (Nhà Pháp luật Việt-

Pháp, Organisation Internationale de la Francophonie, 2009, tr. 392). Một

nghiên cứu so sánh pháp luật cho thấy, pháp luật của nhiều nước có thị trường

bảo hiểm phát triển như Anh, Pháp, Thụy Sỹ, Đức, Canada… không đưa ra

định nghĩa về “trục lợi bảo hiểm” mà coi đây là một loại vi phạm thuộc phạm

vi điều chỉnh của luật hình sự. Tại các quốc gia này, các hành vi trục lợi bảo

hiểm có thể bị xử lý như là hành vi của một sự lừa dối, bất lương (J.L. Bacher,

1995, tr. 185). Tại Anh thì các tội như vậy trước đây được xử lý theo các quy

định của Đạo luật Theft 1968, và hiện nay được điều chỉnh bởi Đạo luật Fraud

2006 có hiệu lực từ ngày 15/1/2007. Đạo luật Theft tuy không có định nghĩa về

“ trục lợi” nhưng là đạo luật duy nhất lúc bấy giờ được dùng làm căn cứ để xử

phạt các hành vi trục lợi. Theo khoản 1 Điều 15 Đạo luật Theft người nào có

18

hành vi lừa dối, không trung thực để có được tài sản của người khác thì bị phạt

tù lên đến 10 năm. Tương tự, khoản 1 Điều 16 cũng quy định người nào có

hành vi lừa dối, không trung thực để có được lợi thế bằng tiền cho mình hoặc

người khác thì bị phạt tù lên đến 10 năm (Detexter Morse and Lynne Skajaa,

2004 tr. 3, 4). Cho đến nay, phần lớn các điều khoản của Đạo luật Theft đã bị

bãi bỏ và các hành vi trục lợi được xác định căn cứ vào đạo luật Fraud 2006.

Chương 35 của đạo luật này xác định ba loại trục lợi: Khai gian (Mục 2);

Không khai báo (Mục 3); Lạm dụng chức vụ (Mục 3). Theo các quy định này,

khai gian được hiểu là: Thực hiện một khai báo sai; Không trung thực; Biết đó

là khai báo là sai hoặc không đúng sự thật hoặc gây hiểu nhầm nhằm mục đích

để làm lợi cho bản thân hoặc người khác, gây ra thiệt hại hoặc rủi ro gây tổn

thất. Không khai báo được hiểu là không tiết lộ thông tin cho người khác;

Không có ý định trung thực nhằm đạt được một lợi ích hoặc gây ra một tổn thất.

Lạm dụng chức vụ được hiểu là một người ở một vị trí mà người đó có ý định

bảo vệ hoặc không chống lại lợi ích tài chính của người khác; Lạm dụng một

cách không trung thực vị trí đó; Có ý định lạm dụng để tạo ra một lợi ích hoặc

gây ra một tổn thất.

Theo Liên minh chống trục lợi bảo hiểm của Mỹ CAIF (Coalition Against

Insurance Fraud), trục lợi bảo hiểm là bất kỳ sự cố ý lừa dối công ty bảo hiểm

hoặc đại lý bảo hiểm để đạt được lợi ích tài chính không chính đáng từ công ty

bảo hiểm. Trục lợi bảo hiểm xảy ra trong quá trình mua, sử dụng, bán bảo

hiểm. Trục lợi bảo hiểm được đánh giá là loại hình tội phạm kinh tế lớn thứ hai

ở Mỹ chỉ sau gian lận về thuế.

Theo Hiệp hội bảo hiểm Canada, trục lợi bảo hiểm là hành vi cố tình gian

dối, lừa đảo có thể có chủ định ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh

sau khi xảy ra tổn thất cho đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ

người bảo hiểm mà đáng lý họ không được hưởng.

Một định nghĩa khác về trục lợi bảo hiểm được Ủy ban bảo hiểm châu Âu

CEA - European Insurance Committee (gồm 33 nước tham gia) đưa ra: Những

19

hành động hoặc thiếu sót liên quan đến các kết luận của một hợp đồng bảo

hiểm hoặc yêu cầu bồi thường bảo hiểm mà nhờ đó đạt được lợi ích tài chính

không chính đáng cho kẻ gian lận hoặc một bên khác, hoặc qua đó gây thiệt hại

cho một bên khác3. CEA cũng đưa ra các hình thức phổ biến nhất của trục lợi

bảo hiểm liên quan đến: Kê khai sai sự thật, hoặc không công bố thông tin để

có được hợp đồng bảo hiểm; Lập kế hoạch mua bảo hiểm ở các công ty bảo

hiểm khác nhau để nhận được nhiều bồi thường khi tổn thất xảy ra; Định giá

cao giá trị của mặt hàng, hoặc kê khai các chi phí liên quan cao hơn thực tế, các

hạng mục không tồn tại; Dàn dựng tai nạn để yêu cầu bồi thường; Thổi phồng

yêu cầu bồi thường sau một tai nạn.

Nếu như ở cả hai định nghĩa về trục lợi của Mỹ và Canada đều nhấn mạnh

đến từ “cố ý” cho thấy việc trục lợi là hành vi đã được sắp đặt và có mưu đồ

trong khi định nghĩa của CEA lại coi đó là “thiếu sót”, rõ ràng đã có những

cách nhìn khác nhau về trục lợi bảo hiểm giữa các nước thuộc khu vực Bắc Mỹ

và một số nước ở khu vực Tây Âu. Song về bản chất thì đó đều nhằm những

mục đích đạt được lợi ích tài chính cho mình hoặc gây thiệt hại cho một bên

khác.

Về phần mình, Ủy ban về Luật thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc

UNCITRAL (United Nations Commission on International Trade Law) đưa ra

cách hiểu rộng hơn về trục lợi bảo hiểm và coi đó là một dạng thức của gian

lận thương mại. Có 5 đặc trưng để xác định gian lận thương mại như sau:

i) Có sự lừa gạt, dối trá hay cung cấp thông tin không chính xác, không

đầy đủ hay chỉ dẫn sai thông tin;

ii) Dùng thủ đoạn lừa gạt hay cung cấp thông tin hay cung cấp thông tin

không đầy đủ nhằm gian lận những thứ có giá trị nhàm hợp pháp hóa việc

3 CEA definition”Act or omission, related to the conclusion of an insurance contract or to a claim meant to gain unjustified enrichment for the fraudster or another party, or meant to cause a loss to another party.”

chiếm đoạt;

20

iii) Gian lận nghiêm trọng về quy mô và hình thức kinh tế;

iv) Gian lận sử dụng hoặc lạm dụng và dàn xếp hoặc xuyên tạc, bóp méo

hệ thống thương mại và các công cụ pháp lý, tạo ra ảnh hưởng mang tính quốc

tế; và

v) Gây ra hậu quả mất mát về giá trị.

Tại Việt Nam, theo Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng

dẫn thực hiện Nghị định số 118/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 10 năm 2003 về

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì trục lợi bảo

hiểm là “hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi

tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu

nại bảo hiểm” (Điều 4, Mục V). Như vậy, trục lợi bảo hiểm là hành vi của tổ

chức, cá nhân được thực hiện một cách cố ý nhằm thu lợi bất chính trong quá

trình tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm. Có thể nói trục lợi bảo hiểm

là bất kỳ hành động không trung thực nào nhằm đạt được một lợi ích tài chính

từ các bên khác có liên quan. Trục lợi bảo hiểm diễn ra ở hầu hết các nghiệp vụ

bảo hiểm và diễn ra ở nhiều nước dưới nhiều dạng khác nhau. Loại hình gian

lận này được biết đến như là một vấn đề nhức nhối đối với ngành bảo hiểm trên

khắp thế giới.

1.2.1.2. Khái niệm phòng, chống trục lợi bảo hiểm

Phòng, chống trục lợi bảo hiểm có thể được hiểu trên hai giác độ pháp

luật và quản trị.

Trên giác độ pháp luật, phòng, chống trục lợi bảo hiểm là tổng thể các

quy định của pháp luật mà một quốc gia ban hành nhằm phòng ngừa và hoặc

trừng phạt các hành vi trục lợi bảo hiểm. Ở Việt Nam, các quy định của pháp

luật về phòng, chống trục lợi bảo hiểm nằm trong rất nhiều văn bản pháp luật

khác nhau, như Luật kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự…

Nội dung của các quy định này sẽ được luận văn phân tích trong Chương 2.

21

Trên giác độ quản trị, phòng, chống trục lợi bảo hiểm có thể được hiểu là

tổng thể các biện pháp mà các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm sử dụng để

ngăn ngừa và bảo vệ mình trước hành vi trục lợi bảo hiểm của người mua bảo

hiểm. Nội dung này sẽ không được luận văn nghiên cứu.

1.2.2. Nguyên nhân trục lợi bảo hiểm

Về lý thuyết nguyên nhân trục lợi thương mại nói chung và nguyên nhân

trục lợi bảo hiểm nói riêng đã được Donald R. Cressey xây dựng thành học

thuyết từ những năm 1950. Donald R. Cressey giải thích nguyên nhân trục lợi

thương mại theo Mô hình Tam giác Trục lợi (Fraud Triangle) như Hình 1.1.

Theo quan điểm của Donald R. Cressey có thể giải thích 3 nguyên nhân

chính dẫn đến trục lợi bảo hiểm là:

i) Động Cơ/Động lực: người ta trục lợi bảo hiểm vì nhiều nguyên nhân

khác nhau. Ví dụ, do có thể gặp khó khăn về tài chính hay chịu sức ép phải đạt

được các.mục tiêu kinh doanh không thực tế.

ii) Cơ hội: các đối tượng trục lợi cần phải có cơ hội để trục lợi. Những đối

tượng này thường tiến hành trục lợi, khi họ cho rằng ít khi bị điều tra hành vi

trục lợi. Do đó doanh nghiệp bảo hiểm nên lập ra các họp đồng bảo hiểm chặt

chẽ cũng như phòng ngừa tình trạng trục lợi có thể xảy ra cũng như nếu đã xảy

ra phải tiến hành điều tra.

iii) Sự diễn giải đó là tâm lý phát xét đối với hành vi trục lợi. Ví dụ, người

ta có thể tiến hành trục lợi vì: Không thỏa mãn sự phục vụ của doanh nghiệp

bảo hiểm; Tâm lý “mọi người đều làm như vậy”; Bắt chước hành vi của người

khác; Cho rằng mình có quyền được bù đắp vì đã trả phí bảo hiểm; Do tâm lý

công chúng thường không ngăn cản trục lợi bảo hiểm do nhiều người cho rằng

trục lợi bảo hiểm chỉ là một dạng vi phạm vô tội (victimless crime).

22

Hình 1.1. Tam giác Trục lợi của Donald R. Cressey

Nguồn: International Association of Insurance Supervisors, 2006, tr. 7.

Dưới góc độ tâm lý, Dexter Morse và Lynne Skajaa cho rằng nguyên

nhân sâu xa nhân của trục lợi bảo hiểm chính là khó khăn về tài chính của

người trục lợi. Một người khi gặp những vấn đề về tài chính thì cách nhanh

nhất để kiếm tiền chính là trục lợi bảo hiểm. Khi có khó khăn về tài chính thì

người được bảo hiểm có thể sẽ có những hành động gây thiệt hại cho đối tượng

bảo hiểm để nhận tiền bồi thường của công ty bảo hiểm (Dexter Morse and

Lynne Skajaa, 2004, tr. 16). Ngoài nguyên nhân khó khăn về tài chính thì trục

lợi bảo hiểm còn xảy ra vì nguyên nhân quản lý, năng lực của nhân viên và chế

tài của pháp luật. Cụ thể:

- Cơ chế quản lý nhân viên bảo hiểm, đại lý, môi giới bảo hiểm của các

công ty bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển chưa tốt. Nhân viên

bảo hiểm vì lợi ích cá nhân có thể thông đồng với khách hàng nhằm trục lợi

bảo hiểm. Họ có thể tư vấn hoặc vạch đường đi nước bước cho khách hàng lợi

dụng kẽ hở về giấy tờ, thủ tục giám định, bồi thường để trục lợi bảo hiểm.

Cũng chính vì cơ chế quản lý, các biện pháp kiểm tra giám sát của doanh

23

nghiệp bảo hiểm còn lỏng lẻo chưa có đủ sức răn đe đối với các hành vi trục lợi

của nhân viên.

- Trao đổi thông tin về khách hàng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm chưa

được chú trọng. Do đặc điểm thị trường bảo hiểm phức tạp, môi trường cạnh

tranh gay gắt khiến các doanh nghiệp bảo hiểm luôn giữ bí mật các thông tin.

Việc trao đổi những thông tin cần thiết về khách hàng giữa các doanh nghiệp

bảo hiểm hầu như không có dẫn đến tình trạng khách hàng có thể mua bảo

hiểm ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm mà không bị phát hiện.

- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên bảo hiểm còn yếu kém.

Do trình độ nghiệp vụ còn thấp dẫn đến việc không có sự tìm hiểu thích đáng

các vấn đề trên trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm nên thường bị trục lợi.

- Công tác quản lý rủi ro và giám định tổn thất còn hạn chế. Công tác

quản lý rủi ro là một công tác quan trọng trong việc phòng chống trục lợi bảo

hiểm. Việc không chú trọng đến công tác quản lý rủi ro dẫn đến việc không

đánh giá đúng mức độ rủi ro đối với đối tượng được bảo hiểm và các điều kiện

liên quan đến bảo hiểm nên rất dễ tạo lỗ hổng để các hành vi trục lợi xảy ra.

Giám định tổn thất còn hạn chế là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến

việc trục lợi bảo hiểm. Đây là khâu quan trọng trong việc giải quyết khiếu nại

đòi bồi thường nên việc nhân viên giám định không có trình độ nghiệp vụ cao

hoặc cấu kết với bên được bảo hiểm như khai báo sai tình trạng của đối tượng

được bảo hiểm, ngày xảy ra tổn thất… sẽ làm tổn thất về tài chính và uy tín của

các doanh nghiệp bảo hiểm.

- Chế tài chưa đủ sức răn đe và thiếu sự hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan

chức năng với các bên liên quan. Mặc dù trong những năm qua, các cơ quan

chức năng đã không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kinh doanh bảo

hiểm, song nhìn chung các quy định về phòng chống trục lợi bảo hiểm còn bất

24

cập và chưa theo kịp với thực tế, đặc biệt những chế tài còn chưa đủ sức răn đe

đối với những kẻ có ý định trục lợi bảo hiểm. Mặt khác các doanh nghiệp bảo

hiểm cũng chịu những hạn chế về mặt pháp luật khi mà giải quyết các khiếu

nại yêu cầu bồi thường tiền bảo hiểm. Do đó, trong nhiều trường hợp các doanh

nghiệp đã không có đủ quỹ thời gian cần thiết để điều tra đầy đủ về những vụ

có dấu hiệu trục lợi hoặc nghi ngờ trục lợi trước khi quyết định việc trả tiền bảo

hiểm. Có một thực tế đáng lo ngại là cho đến nay, mặc dù đã có không ít vụ trục

lợi bảo hiểm đã được phát hiện, song các hình thức xử phạt còn tương đối nhẹ,

không đủ sức răn đe. Điều này đã khuyến khích những kẻ làm ăn bất chính tìm

cách thử vận may bằng cách gian dối, lừa đảo doanh nghiệp bảo hiểm để nhận tiền

bảo hiểm mà không sợ bị trừng phạt. Nếu bị phát hiện, thì điều duy nhất mà họ

mất đi là không được trả tiền bảo hiểm, trong khi nếu được thì họ sẽ thu được

những khoản tiền rất lớn.

1.2.3. Hậu quả trục lợi bảo hiểm

Mức độ thiệt hại do trục lợi bảo hiểm gây ra tại một số nước trên thế giới

được Swiss Re, Số 4/2007 thống kê như sau: Nam Phi có 8-35% số vụ khiếu

nại bảo hiểm được các doanh nghiệp bảo hiểm chi trả có dấu hiệu trục lợi gây

thiệt hại khoảng 2-3 tỷ Rand (khoảng 300-420 triệu USD); Đức có 10-30% số

phí bảo hiểm thu được bị thất thoát do trục lợi trong khâu bồi thường; Thụy Sỹ

có 10% quyền lợi được bảo hiểm đã được chi trả cho các yêu cầu bồi thường

gian lận; New Zealand có trên 15% khiếu nại bồi thường có yếu tố trục lợi; Tại

Mỹ, chỉ tính riêng các vụ đã phát hiện, mỗi năm số tiền trục lợi bảo hiểm có thể

lên đến 96 tỉ USD.

Tại Việt Nam, chỉ tính tổng số vụ trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ trong

giai đoạn 2007-2012 đã là 5.079 vụ, với tổng số tiền trục lợi là 215,3 tỷ đồng.

25

Trung bình tổn thất, sự kiện bảo hiểm về trục lợi bảo hiểm là 35,9 tỷ đồng/năm

(Gia An, 2016).

Theo thống kê của Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm Việt Nam, năm

2008, giá trị bồi thường trên toàn thị trường bảo hiểm là gần 500 tỷ đồng, trong

đó giá trị trục lợi bảo hiểm chiếm hơn 10%. Từ năm 2007 đến năm 2011: Tổng

số vụ trục lợi bảo hiểm phát hiện và xử lý trong toàn hệ thống Bảo Việt trước

khi ký hợp đồng là 642 vụ, sau khi ký hợp đồng là 1.696 vụ, với số tiền bị trục

lợi lên đến hàng tỷ đồng. Trong đó, nghiệp vụ bảo hiểm y tế và tai nạn con

người có tình trạng trục lợi bảo hiểm nhiều nhất, chiếm khoảng 67% tổng số

vụ, kế tiếp là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới chiếm khoảng 31%, ngoài ra các

nghiệp vụ bảo hiểm khác cũng như nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và nghiệp vụ

bảo hiểm tàu chiếm 2%. Hình thức được các đối tượng trục lợi sử dụng nhiều

nhất là tạo hiện trường giả chiếm khoảng 50%, tiếp theo là hình thức giả mạo

giấy tờ chiếm khoảng 39%, các hình thức hủy hoại đối tượng bảo hiểm và lợi

dụng chức vụ có nhưng không nhiều (Vũ Điển, 2012)

Trục lợi bảo hiểm không chỉ gây ra thiệt hại về tài chính mà còn nhiều

hậu quả khác cho các bên liên quan.

Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, hậu quả có thể tính toán được do hành vi

trục lợi bảo hiểm là làm giảm lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh bị hạn chế. Thậm

chí còn gây tác động xấu đến uy tín, hỉnh ảnh của doanh nghiệp bảo hiểm.

Đối với khách hàng là những người trung thực sẽ bị thiệt thòi về quyền

lợi. Bởi vì, phí bảo hiểm mà họ đã nộp lại phải dùng để chi trả cho cả những

khoản tiền gian lận không được phát hiện ra. Do vậy, những doanh nghiệp bảo

hiểm nào có nhiều vụ gian lận sẽ có mức phí bảo hiểm cao hơn những doanh

nghiệp bảo hiểm kiên quyết chống và loại trừtrục lợi bảo hiểm.

26

Đối với xã hội, gian lận bảo hiểm là một mối nguy về đạo đức, làm tha

hóa, biến chất đội ngũ quản lý nhà nước, làm cho môi trường kinh doanh thiếu

lành mạnh và thiếu công bằng. Từ đó còn dẫn đến tình trạng coi thường luật

pháp gây rối trật tự an ninh xã hội.

1.3. Các loại trục lợi bảo hiểm tài sản

Do tài sản có rất nhiều loại khác nhau, như vật, tiền, giấy tờ có giá và

quyền tài sản nên các hành vi trục lợi cũng có thể khác nhau do tính chất của

từng loại tài sản.

Trục lợi bảo hiểm tài sản có thể có rất nhiều dạng thức khác nhau tùy theo

căn cứ để xác định.

1.3.1. Căn cứ vào giai đoạn bảo hiểm

Căn cứ vào giai đoạn bảo hiểm có thể chia trục lợi bảo hiểm thành hai loại

lài trục lợi bảo hiểm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm và trục lợi bảo hiểm trong

giai đoạn thực hiện hợp đồng và khiếu nại đòi bồi thường, trong đó phổ biến

nhất là trục lợi khiếu nại.

Trục lợi trong giai đoạn giao kết hợp đồng bảo hiểm là hình thức trục lợi

khi cả chủ hàng tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm gian lận khi thỏa

thuận cam kết nội dung tham gia bảo hiểm và cam kết bảo hiểm. Phổ biển nhất

là người tham gia bảo hiểm tài sản che giấu thông tin thực sự về tài sản tham

gia bảo hiểm, giá trị tài sản tham gia bảo hiểm, các rủi ro nhiều khả năng gây ra

tổn thất cho tài sản tham gia bảo hiểm. Mục đích của người tham gia bảo hiểm

tài sản là trục lợi phí bảo hiểm thấp, hay không bị doanh nghiệp bảo hiểm quy

định ràng buộc chặt chẽ hơn trong hợp đồng bảo hiểm. Nghiêm trọng hơn,

nhiều chủ tài sản còn đi mua bảo hiểm khi thực tế tài sản đã bị tổn thất. Nếu

doanh nghiệp bảo hiểm không kiểm soát tốt thông tin, số tiền phải bồi thường

có thể rất lớn. Còn về phía doanh nghiệp bảo hiểm có thể trục lợi dựa trên sự

27

thiếu hiểu biết của khách hàng như cam kết, thỏa thuận những điều vượt quá

khả năng có thể thực hiện, che giấu những thông tin thực sự về năng lực bảo

hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm, cam kết quá mức về chất lượng dịch vụ, khả

năng tài chính, hay đưa vào hợp đồng những điều khoản không rõ ràng liên

quan đến giám định, bồi thường, thanh toán tiền bảo hiểm, các rủi ro nhận bảo

hiểm, các rủi ro loại trừ, giải quyết khiếu nại và tranh chấp với chủ hàng tham

gia bảo hiểm....

Trục lợi trong giai đoạn thực hiện hợp đồng bảo hiểm và khiếu nại đòi bồi

thường là dạng trục lợi xảy ra khá phổ biến trong bảo hiểm tài sản. Trong giai

đoạn này người tham gia bảo hiểm chủ yếu trục lợi theo 3 dạng chính:

i) Cố tình làm tổn thất tài sản tham gia bảo hiểm

Thủ đoạn trục lợi này rất đa dạng và rất tinh vi, nếu doanh nghiệp bảo

hiểm không có nhiều kinh nghiệm thì hoàn toàn có thể bị gian lận dễ dàng. Thủ

đoạn này có thể thực hiện được bằng cách người mua bảo hiểm tài sản tự mình

hoặc nhờ người khác làm tiêu hao tài sản hoặc phá hủy tài sản.

ii) Khai báo gian lận về bản chất của tổn thất

Người tham gia bảo hiểm có thể đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm bồi

thường cho tổn thất mà trong thực tế hoàn toàn không hề xảy ra hoặc xảy ra

nhưng ở mức độ rất thấp. Người tham gia bảo hiểm có thể thổi phồng mức tổn

thất bằng cách khiếu nại phóng đại giá trị bảo hiểm của tài sản bị tổn thất hay

khiếu nại phóng đại số lượng tài sản thực tế bị tổn thất. Người tham gia bảo

hiểm tài sản cũng có thể khiếu nại đòi bồi thường tổn thất tài sản mà thực tế

hoàn toàn không được doanh nghiệp bảo hiểm bảo hiểm.

28

iii) Khai báo gian lận về nguyên nhân tổn thất

Người tham gia bảo hiểm tài sản cũng có thể kê khai không đúng sự thật

nguyên nhân của tổn thất cũng như mức độ tổn thất thực sự của tài sản tham

gia bảo hiểm. Còn về phía doanh nghiệp bảo hiểm thường tìm mọi cách lợi

dụng những nội dung chưa quy định không rõ ràng của họp đồng bảo hiểm

như: điều kiện bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm, rủi ro loại trừ, bồi thường số

tiền bảo hiểm, mức miễn thường... để tìm cách từ chối số tiền được bồi thường

chính đáng của chủ hàng tham gia bảo hiểm, khấu trừ bất họp lý số tiền đáng ra

chủ hàng đáng nhẽ phải được bồi thường, hay đơn giản là cố tình kéo dài quá

trình bồi thường cho chủ hàng.

1.3.2. Căn cứ vào đối tượng tiến hành trục lợi bảo hiểm

Trên cơ sở quan điểm của Hiệp hội các cơ quan quản lý giám sát bảo

hiếm IAIS (International Association of Insurance Supervisors), trục lợi bảo

hiểm nói chung và trục lợi bảo hiểm tài sản nói riêng được chia thành 3 loại: (i)

nội bộ trục lợi (internal fraud), người giao kết họp đồng bảo hiểm trục lợi và

khiếu nại trục lợi (policyholder fraud and claims fraud); (iii) trung gian trục lợi

(intermediary fraud).

i) Nội bộ trục lợi

Đây là dạng trục lợi quản trị rủi ro khai thác bảo hiểm, nguyên nhân chủ

yéu là do đạo đức của nhân viên bảo hiểm gây ra tổn thất về tài chính cho

doanh nghiệp bảo hiểm. Đây là dạng trục lợi bảo hiểm tài sản gây ảnh hưởng

đến uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm.Theo IAIS, các nhân tố có thể ảnh

hưởng đến nội bộ trục lợi bảo hiểm tài sản là sự phức tạp của cơ cấu tổ chức.

Trục lợi bảo hiểm nội bộ tài sản thường xảy ra đối với doanh nghiệp bảo hiểm

khi cấu trúc tổ chức quá phức tạp, việc phân chia và xác định trách nhiệm

không rõ ràng trong doanh nghiệp bảo hiểm; Sự phát triển khó kiểm soát của

29

đổi mới; Sự phát triển của các phương thức thương mại hiện đại, sự phát triển

của sản phẩm và công nghệ thông tin sẽ tạo ra các nguy cơ trục lợi bảo hiểm tài

sản; Bất cập cùa chính sách khen thưởng và thăng tiến của doanh nghiệp bảo

hiểm. Khả năng trục lợi bảo hiểm tài sản có thể xảy ra cao hơn nếu chế độ đãi

ngộ và đề bạt của doanh nghiệp bảo hiểm phụ thuộc vào các mục tiêu kinh

doanh xác định nào đó; Biến động của môi trường kinh doanh và tình hình kinh

doanh của chính doanh nghiệp bảo hiểm. Khi doanh nghiệp bảo hiểm trải qua

những giai đoạn như mua bán và sáp nhập có thể tạo ra các nguy cơ trục lợi

bảo hiểm tài sản. Hay nói cách khác, trục lợi bảo hiểm tài sản thường xảy ra

khi hệ thống kiểm soát và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm

không hoạt động hiệu quả.

Có thể nói rằng, trục lợi bảo hiểm tài sản có thể xảy ra ở mọi cấp độ, thậm

chí cả ở cấp bậc cao nhất như ban giám đốc hay hội đồng quản trị. Cấp bậc

quản lý tham gia trục lợi càng cao thì sự thiệt hại về tài chính và uy tín đối với

doanh nghiệp bảo hiểm càng lớn.

ii) Người giao kết hợp đồng trục lợi và trục lợi khiếu nại

Hình thức trục lợi bảo hiểm tài sản này là loại hình trục lợi mà người

tham gia bảo hiểm có thể trục lợi bắt đầu từ khi bắt đầu giao kết hoặc trong quá

trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm tài sản cũng như khiếu nại vả bồi thường

tổn thất tài sản.

Người tham gia bảo hiểm tài sản có thể không cung cấp thông tin, hay

cung cấp không đầy đủ thông tin. Đây là một dạng rủi ro rất lớn đối với doanh

nghiệp bảo hiểm khi bảo hiềm tài sản cho các khách hàng, vì nếu biết đầy đủ

thông tin cũng như được biết chính xác hơn về đối tượng bảo hiểm, doanh

nghiệp bảo hiểm có thể đã không nhận bảo hiểm cũng như chỉ có thể nhận bảo

hiểm với những điều kiện hoàn toàn khác.

30

Còn trục lợi khiếu nại bảo hiểm tài sản có thể xảy ra theo các trường hợp

sau: Báo cáo hay khiếu lại về tổn thất, thiệt hại thực tế không xảy ra đối với tài

sản; Thổi phồng quá mức tổn thất, thiệt hại của tài sản được doanh nghiệp bảo

hiểm nhận bảo hiểm; Đưa ra bằng chứng giả mạo về rủi ro được bảo hiểm đối

với tài sản; Mạo nhận về tổn thất tài sản; Dàn dựng các tai nạn gây ra tổn thất

thất, thiệt hại được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm tài sản.

Khiếu nại trục lợi bảo hiểm tài sản cũng có thể xảy ra với sự kết hợp của

các dạng trục lợi nói trên.

iii) Trung gian trục lợi

Về nguyên tắc, trung gian bảo hiểm được cả doanh nghiệp bảo hiểm và

người tham gia bảo hiểm tài sản. Sự tin cậy này là cơ sở của các giao dịch bảo

hiểm tài sản, do đó hành vi trục lợi bảo hiểm hoàn toàn có thể xảy ra nếu sự tin

cậy này bị lạm dụng. Một số dạng trung gian trục lợi điển hình là: Giữ lại phí

bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm tài sản cho đến khi phát sinh khiếu nại;

Giao kết hợp đồng bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm hàng tài sản không

có thật, vẫn trả phí bảo hiểm đầu tiên cho doanh nghiệp bảo hiểm và nhận hoa

hồng phí rồi hủy bỏ giao kết bảo hiểm khi tiếp tục trả phí bảo hiểm lần sau;

Cấu kết với ngưởi tham gia bảo hiểm tài sản ngụy tạo ra các khiếu nại đòi bồi

thường hay các dạng trục lợi bảo hiếm khác.

1.3.3. Căn cứ vào các thủ đoạn gian lận bảo hiểm tài sản

Liên quan tới các thủ đoạn gian lận bảo hiểm tài sản thì có thể xảy ra các

hình thức trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển sau:

i) Không trung thực về tài sản được bảo hiểm bị tổn thất

Đây là trường hợp rất phổ biến trong trục lợi bảo hiểm tài sản. Khi xảy ra

tổn thất, chủ hàng tham gia bảo hiểm đã dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để

31

cung cấp các bằng chứng xác nhận giả mạo và các thông tin không trung thực

về nguyên nhân và mức độ tổn thất thực tế của đổi tượng bảo hiểm. Nếu doanh

nghiệp bảo hiểm không phát hiện ra hay không chứng minh được hành vi trục

lợi này sẽ phải bồi thường cho các chủ hàng trục lợi này.

Người tham gia bảo hiểm tài sản cũng có thể dựng lên hiện trường tổn

thất ngụy tạo, giả mạo nguyên nhân tổn thất cũng như mức độ của tổn thất của

tài sản để được nhận bồi thường nhiều hơn mức đúng ra đối tượng này được

nhận bồi thường cũng như còn có thể không được người bảo hiểm bồi thường.

ii) Thông tin không trung thực khi giao kết hợp đồng bảo hiểm

Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản, chủ hàng tham gia bảo hiểm

không cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm đầy đủ thông tin về rủi ro có thể

xẩy ra với tài sản cũng như giá trị thực sự của tài sản tham gia bảo hiểm.

Trong giai đoạn này, một thủ đoạn trục lợi rất phổ biến là tài sản trong

thực tế đã tổn thất, nhưng chủ tài sản vẫn đi mua bảo hiểm mà không cung cấp

thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm biết. Và ngay sau đó doanh nghiệp bảo

hiểm nhận được hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường với số tiền có thể là rất lớn cho

một tổn thất thực tế đã xảy ra trước khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.

Trong giai đoạn giao kết hợp đồng và xác định phí bảo hiểm tài sản, do

không được chủ hàng tham gia bảo hiểm cung cấp đầy đủ thậm chí cung cấp

sai lệch thông tin về rủi ro có thể gặp phải với tài sản hay giá trị thực của tài

sản doanh nghiệp bảo hiểm có thể không đánh giá đúng mức độ rủi ro tổn thất

của tài sản để xác định điều kiện bảo hiểm, rủi ro chấp nhận bảo hiểm cho chủ

tài sản cũng nhự không xác định đúng phí bảo hiểm mà chủ tài sản phải mua.

iii) Tham gia bảo hiểm trùng

32

Chủ tài sản có thể tham gia bảo hiểm cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp

bảo hiểm khác nhau. Khi xảy ra tổn thất, chủ tài sản có thể trục lợi số tiền bồi

thường nhiều lần tổn thất thực tế. Dạng trục lợi này thường xảy ra khi thông tin

trao đổi giữa các doanh nghiệp bảo hiểm hạn chế, hay công tác giám định tổn

thất yếu kém tại các nước chậm phát triển.

1.3.4. Căn cứ vào hình thức trục lợi

Ngoài ra trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm tài sản, trục lợi bảo hiểm

còn được chia thành trục lợi Cứng (Hardinsurance fraud) và trục lợi Mem (Soft

insurance fraud):

i) Trục lợi cứng

Đây là hình thức trục lợi bảo hiểm, mà chủ tài sản trục lợi lập ra những

khiếu nại giả mạo, lập ra hiện trường giả về tổn thất hàng hóa hay cấu kết với

các bên liên quan như giám định tổn thất, nhân viên bảo hiểm, kiểm đếm, nhân

chứng...để có những xác nhận về nguyên nhân và mức độ tổn thất không đúng

sự thật về tài sản nhằm được hưởng tiền bồi thường bất chính.

ii) Trục lợi mềm

Đây là hình thức trục lợi mà chủ tài sản trục lợi kê khai khống giá trị tổn

thất của tài sản tham gia bảo hiểm để có thể trục lợi tài chính lớn hơn những gì

chủ tài sản đó đúng ra được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường; đưa ra thông

tin không chính xác về tài sản tham gia bảo hiểm để chỉ phải trả phí bảo hiểm

thấp hơn mức phải trả cho doanh nghiệp bảo hiểm; hay cung cấp thông tin

không đúng, không đầy đủ về tài sản tham gia bảo hiểm để có thể được doanh

nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho tài sản đó.

33

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM TẠI VIỆT

NAM VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM

TÀI SẢN

2.1. Thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản tại Việt Nam

Bảo hiểm có thể được chia làm hai loại chính là bảo hiểm nhân thọ và bảo

hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm tài sản là một loại bảo hiểm nhằm trong nhóm

bảo hiểm phi nhân thọ, nên trong phần này Luận văn sẽ chỉ trình bày thực trạng

về trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam trong thời gian qua.

2.1.1. Tình hình trục lợi bảo hiểm những năm gần đây

Theo số liệu của Cục quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), giai đoạn

từ 2007-2013, thống kê 15/29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có 5.079 vụ

trục lợi bảo hiểm với số tiền là 215,3 tỉ đồng (35,6 tỉ đồng/năm), số vụ tăng từ

723 vụ/năm 2007 lên 1.070 vụ/năm 2012 (Cổng thông tin Bảo hiểm Việt Nam,

2018).

Theo thống kê của Hiệp hội BH Việt Nam, từ năm 2007 đến năm 2014,

tổng số vụ có dấu hiệu trục lợi bảo hiểm được các doanh nghiệp phát hiện và từ

chối bồi thường lên tới 64 nghìn vụ, với tổng giá trị khoảng 850 tỷ đồng, tăng

trung bình hơn 30%/năm. Tình trạng trục lợi xảy ra ở hầu hết các công đoạn

trong chu trình bảo hiểm, từ khai thác, giao kết hợp đồng, giám định, khiếu nại

bồi thường và giải quyết bồi thường. Việc phát hiện những hành vi làm giả

chứng cứ để trục lợi bảo hiểm là điều rất khó khăn, vì nhiều vụ việc có sự tiếp

tay của chính quyền địa phương. Một báo cáo của Cục Quản lý, giám sát bảo

hiểm, Bộ Tài chính năm 2015 cho thấy, hành vi trục lợi bảo hiểm hiện nay

không còn rời rạc, riêng lẻ mà ngày càng tinh vi, phức tạp. Có nhiều trường

hợp có sự cấu kết, thông đồng giữa khách hàng, nhân viên của doanh nghiệp

bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, bên thứ ba có liên quan như nhân viên giám định,

34

bác sỹ, cơ sở khám chữa bệnh, các cơ sở sửa chữa xe,... (Cục quản lý, giám sát

bảo hiểm, 2015).

Trong số các doanh nghiệp bảo hiểm báo cáo có xảy ra trục lợi bảo hiểm,

Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm xảy ra nhiều vụ

trục lợi nhất, trong giai đoạn 2007-2011 tổng số vụ trục lợi bảo hiểm xảy ra tại

Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt là 3.440 vụ với tổng số tiền trục lợi bảo hiểm

là 18,688 tỷ đồng. Đứng vị trí thứ hai là Tổng công ty Bảo hiểm PVI với 227

vụ trục lợi với tổng số tiền là 4,917 tỷ đồng. Công ty cổ phần Bảo hiểm PJICO

là doanh nghiệp bảo hiểm có số vụ trục lợi bảo hiểm đứng thứ ba (184 vụ) tuy

nhiên số tiền trục lợi bảo hiểm lại rất lớn 103,78 tỷ đồng. Công ty có số vụ trục

lợi ít trong tổng số các doanh nghiệp báo cáo là Công ty TNHH bảo hiểm phi

nhân thọ Cathay và Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông đều chỉ có duy nhất

1 vụ với số tiền trục lợi tương ứng là 37 triệu và 122 triệu.

Như vậy, xét tổng hợp cả 2 khía cạnh doanh nghiệp và nghiệp vụ, có thể

thấy rằng, trục lợi bảo hiểm xảy ra chủ yếu ở các doanh nghiệp bảo hiểm nhà

nước hoặc cổ phần.

2.2.2. Hình thức trục lợi bảo hiểm

Ở Việt Nam trục lợi về phí bảo hiểm chiếm tỷ lệ rất ít mà chủ yếu là hành

vi trục lợi về bồi thường. Cơ bản, có thể phân tích các hành vi trục lợi bảo hiểm

theo các nhóm sau:

2.2.2.1 Tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra

Hành vi trục lợi bảo hiểm này xảy ra ở tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm

trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Hành vi trục lợi bảo hiểm này chủ yếu

xảy ra ở nghiệp vụ bảo hiểm tài sản.

35

Một trong những nguyên tắc của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là doanh

nghiệp bảo hiểm chỉ có thể bảo hiểm cho những rủi ro khách quan và mang

tính ngẫu nhiên xảy ra đối với đối tượng được bảo hiểm. Theo Luật kinh doanh

bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm vô hiệu nếu “Tại thời điểm giao kết hợp đồng

bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy ra” (điểm c, khoản

1, Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Tuy nhiên, trên thực tế không phải tất

cả người tham gia bảo hiểm đều tuân thủ nguyên tắc bảo hiểm, có rất nhiều

trường hợp, sự kiện bảo hiểm đã xảy ra, bên mua bảo hiểm mới tham gia bảo

hiểm, nhưng che giấu để doanh nghiệp bảo hiểm không biết được thực tế này.

Hành vi này thể hiện dưới các hình thức bên mua bảo hiểm thông đồng với

nhân viên khai thác hoặc đại lý bảo hiểm tham gia bảo hiểm khi tài sản đã tổn

thất. Dấu hiệu cảnh báo dễ nhận biết của trục lợi bảo hiểm dưới hình thức tham

gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra là: yêu cầu bồi thường được đưa

ra ngay sau khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực; người được bảo hiểm hỏi trước

đại lý các câu hỏi giả định về phạm vi bảo hiểm cho trường hợp tổn thất tương

tự như yêu cầu bồi thường thực sự sau đó...

2.2.2.2. Cung cấp thông tin không chính xác về đối tượng được bảo hiểm

khi giao kết hợp đồng bảo hiểm

Luật kinh doanh bảo hiểm yêu cầu bên mua bảo hiểm “Kê khai đầy đủ,

trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của

doanh nghiệp bảo hiểm” (điểm b, khoản 2, Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm).

Tuy nhiên, trong thực tế, trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và

bảo hiểm tài sản nói riêng vẫn xảy ra hiện tượng trục lợi bảo hiểm dưới hình

thức cung cấp thông tin không chính xác về đối tượng được bảo hiểm khi giao

kết hợp đồng bảo hiểm. Biểu hiện của hành vi này là người mua bảo hiểm cố ý

khai tăng giá trị của tài sản được bảo hiểm. Trong bảo hiểm tài sản chỉ có bên

mua bảo hiểm (chủ sở hữu tài sản) là biết rõ nhất những yếu tố liên quan đến

36

tài sản. Vì vậy, đối với những tài sản mà để định giá được yêu cầu trình độ kỹ

thuật cao, chi phí định giá lớn thì thông thường doanh nghiệp bảo hiểm căn cứ

vào giá trị của tài sản mà bên mua bảo hiểm khai báo để cấp bảo hiểm. Trong

trường hợp này, khi có tổn thất xảy ra doanh nghiệp bảo hiểm sẽ căn cứ vào số

tiền bảo hiểm để bồi thường. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp, bên mua

bảo hiểm đã lợi dụng vấn đề này để khai tăng giá trị của tài sản bảo hiểm nhằm

mục đích trục lợi. Khía cạnh trục lợi của hành vi này thể hiện: bên mua bảo

hiểm cố tình yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm gánh chịu thay mình những tổn

thất lớn hơn tổn thất thực tế xảy ra. Phần giá trị chênh lệch mà bên mua bảo

hiểm được hưởng (giữa số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm chi trả với

tổn thất thực tế) là không có căn cứ hợp pháp hay còn gọi là sự hưởng lợi bất

hợp pháp.

2.2.2.3. Tham gia bảo hiểm trùng

Hành vi trục lợi này xảy ra ở hấu hết các nghiệp vụ trong lĩnh vực bảo

hiểm phi nhân thọ, đặc biệt là bảo hiểm tài sản. Luật Kinh doanh bảo hiểm

không cấm bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh

nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều

kiện và sự kiện bảo hiểm. Tuy nhiên, trong trường hợp các bên giao kết hợp

đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm

chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thoả thuận

trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã

giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt

quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản (Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm).

Trên thực tế, bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm cho một tài sản tại nhiều doanh

nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng một điều kiện và sự kiện bảo hiểm nhằm

để được hưởng số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị của tài sản là hành vi trục lợi

bảo hiểm. Khía cạnh trục lợi của hình thức này thể hiện, người được bảo hiểm

37

cố tình che giấu doanh nghiệp bảo hiểm việc tài sản đã được mua bảo hiểm tại

doanh nghiệp bảo hiểm khác với cùng điều khoản và sự kiện bảo hiểm trước

khi giao kết hợp đồng với doanh nghiệp bảo hiểm. Hay nói cách khác, bên mua

bảo hiểm đã không trung thực trong việc cung cấp các thông tin có liên quan

đến tài sản bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, để khẳng định đây

là hành vi trục lợi bảo hiểm còn căn cứ vào mục đích của việc không cung cấp

thông tin này từ phía bên mua bảo hiểm là nhằm được hưởng quyền lợi tài

chính khi rủi ro xảy ra lớn hơn giá trị tài sản mà mình đang sở hữu.

Hành vi trục lợi bảo hiểm này hiện nay xảy ra tương đối nhiều, một phần

nguyên nhân là do hệ thống công nghệ thông tin của các doanh nghiệp bảo

hiểm phi nhân thọ còn lạc hậu, chưa kết nối được trong nội bộ doanh nghiệp

với nhau và chưa kết nối được toàn thị trường. Do đó, khả năng phát hiện

khách hàng tham gia bảo hiểm ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau về

cùng một đối tượng bảo hiểm là rất khó.

2.2.2.4. Cố ý gây thiệt hại để được nhận tiền bồi thường bảo hiểm

Bảo hiểm tài sản có một đặc điểm là số lượng đối tượng bảo hiểm lớn,

phân bố trên nhiều địa bàn, trong khi khả năng của doanh nghiệp bảo hiểm là

có hạn nên không có khả năng kiểm soát được hết các hành vi của bên mua bảo

hiểm. Quan hệ bảo hiểm chủ yếu dựa trên nguyên tắc tin tưởng lẫn nhau giữa

doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm. Do vậy, trên thực tế, nhiều

trường hợp bên mua bảo hiểm lợi dụng sự thiếu kiểm soát của doanh nghiệp

bảo hiểm để thực hiện hành vi trục lợi bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm sau khi

mua bảo hiểm cho tài sản của mình sẽ tiến hành tháo rời các bộ phận của tài

sản (như máy móc, thiết bị có giá trị) để thay thế vào đó những bộ phận tài sản

kém giá trị hơn, sau đó sẽ cố ý phá hủy tài sản. Sau khi tài sản được phá hủy,

bên mua bảo hiểm sẽ hoàn tất các thủ tục để được bồi thường bảo hiểm và nhận

38

tiền bồi thường tương ứng với các bộ phận, máy móc, thiết bị có giá trị. Chẳng

hạn, chủ tàu biển sau khi đã mua bảo hiểm cho con tàu đã tháo dỡ hết trang

thiết bị, máy móc trên tàu rồi thay thế bằng các thiết bị khác kém giá trị hơn,

sau đó đánh chìm con tàu để được hưởng số tiền bảo hiểm. Một cách trục lợi

khác cũng được thực hiện bằng cách chủ xe cơ giới tự phá hỏng các bộ phận

của xe, hủy hoại dưới hình thức đốt xe, lao xe xuống vực (chủ yếu là xe cũ) để

được hưởng bảo hiểm.

2.2.2.5. Lập hồ sơ, hiện trường giả, thay đổi tình tiết vụ tai nạn

Hành vi trục lợi này được thực hiện bằng những thủ đoạn như đưa các tài

sản cùng loại đã bị hư hỏng từ nơi khác đến nơi xảy ra tai nạn để chụp ảnh, lập

biên bản, khám nghiệm hiện trường nhằm chứng minh tài sản bảo hiểm bị tổn

thất, trong khi đó thật sự là không có tổn thất xảy ra, hoặc có tổn thất nhưng ít

hơn so với tài sản hư hỏng bị thay thế. Hoặc tạo hiện trường giả giống như dấu

hiệu của việc mất cắp tài sản như kho hàng bị phá khóa, bị cắt niêm phong

hoặc thay đổi biển số xe đã mua bảo hiểm vào xe bị tai nạn nhưng chưa mua

bảo hiểm nhằm nhận được tiền bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm…Hành vi

trục lợi cũng có thể được thực hiện thông qua cấu kết với cơ quan có liên quan

để làm sai ngày xảy ra tai nạn, làm sai lệch hiện trường dẫn đến việc xác định

lỗi, phân lỗi của các bên trong vụ tai nạn. Thông thường làm sai lệch hoặc đảo

ngược về lỗi xảy ra tai nạn giữa các bên. Thay đổi người lái xe có giấy phép lái

xe hợp lệ (tai nạn do lái xe không có bằng lái hoặc bằng lái không có hiệu lực);

sửa chữa hiệu lực bằng lái (do hết hạn hoặc không phù hợp với loại xe được

lái).

Dấu hiệu cảnh báo dễ nhận biết của hình thức trục lợi bảo hiểm này có thể

kể ra như: Yêu cầu bồi thường được đưa ra ngay sau khi tăng hoặc thay đổi

phạm vi bảo hiểm nhờ đó cho phép yêu cầu bồi thường; người được bảo hiểm

39

thúc giục và dứt khoát yêu cầu giải quyết nhanh và thể hiện hiểu biết quá rõ về

phạm vi bảo hiểm và quy trình giải quyết bồi thường, đặc biệt trong trường hợp

yêu cầu bồi thường không được lập đầy đủ; trong trường hợp mất trộm, yêu

cầu bồi thường cho tài sản đồ sộ một cách khác thường so với một vụ mất

trộm; đối với yêu cầu bồi thường hoả hoạn dấu hiệu dễ nhận biết là việc cán bộ

giám định không tìm thấy trong các đồ vật bị tổn thất các đồ vật cá nhân hoặc

đồ vật thể hiện tình cảm đối với người được bảo hiểm như tranh ảnh, đồ gia

truyền, vật nuôi; người được bảo hiểm không thể nhớ hoặc không biết mình đã

mua tài sản yêu cầu được bồi thường ở đâu nhất là đối với những đồ vật đặc

biệt, cũng như không thể mô tả đầy đủ về đồ vật; người được bảo hiểm chuẩn

bị sẵn hoá đơn và các chứng từ khác, người làm chứng, sao chụp lại ảnh của

mọi đồ vật, đơn yêu cầu bồi thường quá hoàn hảo; chi phí của tài sản đòi được

bồi thường tại thời điểm được cho đã mua tài sản đó vượt quá khả năng tài

chính của người được bảo hiểm tại thời điểm đó; người được bảo hiểm từ chối

hoặc không thể trả lời các câu hỏi thông thường; người được bảo hiểm cung

cấp bằng chứng và tài liệu không khớp được với nhau; báo cáo tai nạn do

người yêu cầu bồi thường nộp...

Tranh chấp được phân tích dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn mức độ phức tạp

của trục lợi bảo hiểm.

Ông N.C.L tham gia hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới cho xe

TOYOTA ALTIS biển kiểm soát 37S-2448 tại Công ty Bảo hiểm MIC Nghệ

An (thuộc MIC), có hiệu lực từ ngày 9/6/2011 đến ngày 9/6/2012. Ông N.C.L

thông báo mình gặp tai nạn và yêu cầu bồi thường. Cụ thể, khoảng 0 giờ 30

phút ngày 12/11/2011, ông N.C.L điều khiển ô tô 37S-2448 từ cửa khẩu Cha

Lo, Quảng Bình về Nghệ An gặp khúc cua nên xe bị lao xuống vực, cách mép

đường khoảng 12 – 13 m, phía dưới vực toàn gốc cây và đá làm xe bị hư hỏng

40

nặng. Ước tính chi phí sửa chữa xe khoảng hơn 250 triệu đồng. Ngoài văn bản

thông báo tai nạn và yêu cầu bồi thường nêu trên, ông N.C.L không cung cấp

được bất kỳ bằng chứng nào theo quy định để chứng minh sự kiện bảo hiểm.

Do vậy, MIC phải trưng cầu giám định hiện trường của Công an tỉnh Nghệ An

và tự thu thập tài liệu, chứng cứ để hoàn thành hồ sơ bồi thường cho khách

hàng.

Tuy nhiên, trong quá trình hoàn thiện hồ sơ, MIC phát hiện đã có một vụ

tai nạn trước đó xảy ra với chiếc xe này vào ngày 10/2/2011 do ông N.K.T

(phường Quán Bàu, TP. Vinh) gây ra. Cụ thể, sau khi xảy ra tai nạn, ông T đã

đưa xe vào xưởng sửa chữa của Công ty TOYOTA TP. Vinh và được báo giá

sửa chữa với chi phí ước tính khoảng 270 triệu đồng, nhưng ông T không đồng

ý sửa xe, mà bán lại chiếc xe này nguyên trạng cho ông N.C.L với giá khoảng

300 triệu đồng. Dấu vết hư hỏng của vụ tai nạn ngày 10/2/2011 trùng khớp tới

hơn 90% dấu vết của vụ tai nạn ngày 12/11/2011 do ông N.C.L khai báo.

Đến ngày 17/2/2012, sau khi tiến hành kiểm tra, giám định hiện trường vụ

tai nạn, Phòng Kỹ thuật hình sự (Công an tỉnh Nghệ An) đã ra văn bản kết

luận: “Khu vực hiện trường vụ tai nạn thể hiện không tạo ra những dấu vết trên

xe ô tô 37S-2448 như biên bản khám nghiệm xe mô tả”. Dựa vào kết luận của

Công an tỉnh Nghệ An và các chứng cứ thu thập được trong quá trình xác

minh, MIC đã từ chối bồi thường.

Không đồng ý với phương án giải quyết bồi thường trên, ông N.C.L đã

khởi kiện MIC lên TAND TP. Vinh.

Ngày 17/10/2014, tại phiên xét xử sơ thẩm, TAND TP. Vinh đã tuyên

MIC phải bồi thường số tiền 257.037.000 đồng. Không đồng ý với kết luận của

bản án sơ thẩm, MIC đã kháng cáo theo trình tự phúc thẩm lên TAND tỉnh

Nghệ An.

41

Sau khi kháng cáo bản án sơ thẩm lên TAND tỉnh Nghệ An, MIC đã gửi

đơn tới Cơ quan điều tra đề nghị xác minh hành vi gian dối của ông N.C.L.

Ngày 10/12/2014, Cơ quan điều tra đã chuyển tới TAND tỉnh Nghệ An và Viện

Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An văn bản kết luận điều tra: “Không có đủ căn

cứ để xác định có vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 12/11/2011 làm hư hỏng

thiệt hại xe ô tô BKS 37S-2448 như báo cáo của ông N.C.L. Bản thân ông

N.C.L có dấu hiệu gian dối trong việc cung cấp thông tin yêu cầu MIC bồi

thường thiệt hại xe ô tô BKS 37S-2448”.

Ngày 10/4/2015, TAND tỉnh Nghệ An đã đưa vụ án ra xét xử theo trình tự

phúc thẩm. Tại phiên tòa này, Hội đồng xét xử đã tuyên sửa bản án sơ thẩm

theo hướng MIC không phải bồi thường bảo hiểm cho nguyên đơn (Trí Công,

2015).

Trong vụ việc này, sở dĩ MIC chứng minh được bên mua bảo hiểm trục

lợi là nhờ có sự hợp tác rất chặt chẽ của công an tỉnh Nghệ an.

2.2.2.6. Hợp lý hoá ngày tai nạn và hiệu lực bảo hiểm

Hành vi trục lợi thường được thực hiện bằng cách người được bảo hiểm

thông đồng với người cấp bảo hiểm hoặc người có thẩm quyền giải quyết vụ tai

nạn để ghi lại ngày tai nạn hoặc ghi lùi ngày trên giấy chứng nhận bảo hiểm.

Ghi lại ngày tai nạn được biểu hiện khi bị tai nạn rồi mới mua bảo hiểm, khi đó

trong hồ sơ ngày xảy ra tai nạn sẽ được ghi sau so với ngày thực tế; bị tai nạn

khi đã hết thời hạn được bảo hiểm hoặc giấy phép lái xe, đăng kiểm xe (trong

bảo hiểm xe cơ giới) hết hạn khi đó trong hồ sơ ngày xảy ra tai nạn sẽ được

ghi trước so với ngày bị tai nạn thực tế. Trong cả hai trường hợp trên, người

trục lợi bảo hiểm thường thông đồng hoặc tìm mọi cách mua chuộc nhân viên

cơ quan chức năng để ghi sai ngày xảy ra tai nạn trong các biên bản tai nạn.

Ghi lùi ngày trên giấy chứng nhận bảo hiểm là hành vi người trục lợi bảo hiểm

42

thông đồng với người bán bảo hiểm ghi lùi ngày bán bảo hiểm về trước trên

giấy chứng nhận bảo hiểm.

2.2.2.7. Khai tăng số tiền tổn thất trong vụ tai nạn

Hành vi này được thực hiện bằng cách người được bảo hiểm cấu kết với

các cửa hàng/xưởng sửa chữa. Cách thức phổ biến là khai không đúng về số

lượng và mức độ tổn thất của các bộ phận lớn hơn tổn thất thực tế. Việc khai

báo gian dối này chủ yếu do các chủ xe tự thực hiện trong quá trình tự ý tháo

dỡ, thay thế các chi tiết và các bộ phận máy xe cơ giới khi đưa xe vào xưởng

sửa chữa, đổi các phụ tùng không hỏng và đưa các phụ tùng hư hại vào rồi

thông báo cho cán bộ giám định đến giám định hoặc thông đồng với cả cán bộ

giám định và chủ xưởng để trục lợi…Ngoài ra, người mua bảo hiểm cũng có

thể khai tăng chi phí sửa chữa, khôi phục tài sản; khai tăng số tiền tổn thất hoặc

số tiền phải bồi thường cho người thứ ba, đưa tài sản hoặc hàng hóa hư hỏng

(đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với hàng hoá) không do tai nạn vào

hiện trường tai nạn hoặc biên bản tai nạn…

Các hình thức trục lợi trên có thể thấy, việc phân thành các nhóm hình

thức trục lợi cũng chỉ mang tính tương đối, có những hành vi trục lợi vừa thuộc

nhóm hành vi tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra nhưng cũng là

hành vi được phân loại vào nhóm cung cấp thông tin không chính xác… Để có

thể phát hiện và xử lý các vụ trục lợi bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm và các

cơ quan chức năng phải nhận diện được hành vi trục lợi bảo hiểm để từ đó đưa

ra được các biện pháp phòng chống, phát hiện và xử lý.

2.2.3. Hậu quả của trục lợi bảo hiểm

Không thể phủ nhận trục lợi bảo hiểm đã gây ra những tác động xấu đến

nền kinh tế nói chung và xã hội nói riêng.

43

Theo phiếu điều tra 29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ của Cục

Quản lý, giám sát bảo hiểm, thì có 11 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ báo

cáo có hiện tượng trục lợi bảo hiểm và những tác động của trục lợi bảo hiểm.

Trong đó, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cho rằng trục lợi bảo hiểm

gây thiệt hại, ảnh hưởng về tài chính doanh nghiệp chiếm 27,59%, ảnh hưởng

đến thị trường bảo hiểm chiếm 24,14%, ảnh hưởng đến các hợp đồng bảo hiểm

đang có hiệu lực và hợp đồng bảo hiểm sẽ ký kết chiếm 13,79%, có ảnh hưởng

đến uy tín của doanh nghiệp chiếm 6,9% (Bộ Tài chính, 2015).

Có thể thấy rằng, các vụ trục lợi khi bị phát hiện thì người trục lợi cũng

chưa bị xử lý về mặt pháp luật mà chủ yếu là hoàn trả lại doanh nghiệp số tiền

đã bồi thường hoặc rút hồ sơ, hoàn trả phí,…Cùng với sự phát triển của hoạt

động kinh doanh bảo hiểm, trục lợi bảo hiểm đang có sự gia tăng cả về số

lượng, tính chất, mức độ, có tính tổ chức và đang trở thành một trong những

mối nguy cơ gây ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh, an toàn và hiệu quả

của thị trường bảo hiểm Việt Nam, do vậy nguy cơ trục lợi bảo hiểm cần phải

được kiểm soát và ngăn chặn kịp thời.

2.2. Pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản

Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như

các đạo luật khác có liên quan như Bộ luật hình sự, Bộ luật Dân sự… đã có khá

nhiều quy định nhằm phòng, chống hành vi trục lợi bảo hiểm.

Các quy định này có thể được chia làm bốn nhóm: i) nhóm các quy định

chung về phòng, chống trục lợi bảo hiểm; ii) nhóm các quy định điều chỉnh

hành vi của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm; iii) nhóm các quy định về

quản lý nhà nước về phòng, chống trục lợi bảo hiểm; và iv) nhóm các quy định

của pháp luật có liên quan (Bộ luật dân sự và Bộ luật hình sự) điều chỉnh một

cách gián tiếp hành vi trục lợi bảo hiểm. Trong phần này, Luận văn sẽ phân

44

tích nội dung của ba nhóm quy định trên, làm rõ các ưu điểm cũng như nhược

điểm của pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm nhằm tạo cơ

sở cho các giải pháp và khuyến nghị mà tác giả sẽ nêu ở Chương 3.

2.2.1. Nhóm các quy định chung về phòng, chống trục lợi bảo hiểm

2.2.1.1. Về khái niệm trục lợi bảo hiểm

Đã có quy định trong Bộ luật hình sự 2015 về trục lợi bảo hiểm, xem thêm điều

213

Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 không định nghĩa thế nào là trục lợi

bảo hiểm. Thuật ngữ “hành vi trục lợi khi tham gia bảo hiểm” được sử dụng

lần đầu tiên bởi Nghị định số 118/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 10 năm

2003 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh

doanh bảo hiểm (gọi tắt là Nghị định 118). Cụ thể, Điều 15 về “Hành vi trục lợi

trong việc tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải

quyết khiếu nại bảo hiểm” quy định: “Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000

đồng đến 5.000.000 đồng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi trục lợi để nhận

tiền bồi thường, tiền bảo hiểm”. Tuy nhiên, Nghị định này cũng không định

nghĩa thế nào là hành vi trục lợi bảo hiểm. Phải đợi đến năm 2004 thì khái

niệm “Hành vi trục lợi trong việc tham gia bảo hiểm” mới được định nghĩa bởi

Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định

số 118/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 10 năm 2003 về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm (gọi tắt là Thông tư 31). Cụ thể, theo

Điều 4 mục V, hành vi trục lợi trong việc tham gia bảo hiểm là “hành vi cố ý

lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi

thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm” (Điều 4,

Mục V). Ngoài ra, Điều 4 còn có quy định về đồng lõa với người thụ hưởng

bảo hiểm theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 15 Nghị định số

45

118/2003/NĐ-CP là “hành vi cấu kết với người được thụ hưởng bảo hiểm giả

mạo giấy tờ, cung cấp thông tin sai sự thật, dựng hiện trường giả hoặc những

hành vi trái pháp luật khác trong quá trình yêu cầu giải quyết, giải quyết bồi

thường bảo hiểm và trả tiền bảo hiểm”.

Tuy nhiên, Thông tư 31 đã hết hiệu lực do Nghị định 118 cũng đã hết hiệu

lực cùng với Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 do Luật này đã được sửa đổi

bổ sung bởi Luật năm 2010. Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng

08 năm 2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh

doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số (gọi tắt là Nghị định 98) cũng như Nghị

định số 48/2018/NĐ-CP ngày 21 tháng 03 năm 2018 sửa đổi bổ sung một số

điều của Nghị định số 98/2013/NĐ-CP không quy định về hành vi trục lợi khi

tham gia bảo hiểm, mà chỉ có các quy định về Thông đồng với người thụ

hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm

trái pháp luật (điểm b, khoản 1 Điều 14 Nghị định 98) và hành vi gian dối, giả

mạo tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm đã nhận tiền bồi

thường, trả tiền bảo hiểm (khoản 3 Điều 14 Nghị định 98). Các quy định này

sau đó đã được sửa đổi bởi khoản 6 Điều 1 Nghị định 48, theo đó “Phạt tiền từ

90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm

về gian lận trong kinh doanh bảo hiểm mà số tiền chiếm đoạt dưới 20.000.000

đồng hoặc gây thiệt hại dưới 50.000.000 đồng hoặc chưa đến mức truy cứu

trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau:

a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi

thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;

b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả

tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;

46

c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi

thường, trả tiền bảo hiểm;

d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo

hiểm trừ trường hợp luật quy định khác”.

Như vậy Nghị định 48 ngoài việc tăng số tiền phạt còn bổ sung trường

hợp tự gây thiệt hại về tài sản để được hưởng quyền lợi bảo hiểm.

Hiện nay, thuật ngữ “trục lợi bảo hiểm” đã được sử dụng phổ biến trong

lĩnh vực bảo hiểm, nhưng lại không được định nghĩa trong các văn bản quy

phạm pháp luật về bảo hiểm. Điều này có thể dẫn tới khó khăn khi áp dụng các

chế tài chống trục lợi bảo hiểm.

2.2.2. Nhóm các quy định điều chỉnh hành vi của các bên trong hợp đồng

bảo hiểm

Luật kinh doanh bảo hiểm điều chỉnh hành vi của các bên trong hợp đồng

bảo hiểm tài sản thông qua hai nhóm quy định về hợp đồng bảo hiểm nói chung

và hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng.

2.2.1.1. Các quy định về hợp đồng bảo hiểm nói chung

Luật kinh doanh bảo hiểm điều chỉnh hành vi của các bên trong quan hệ

hợp đồng bảo hiểm để tránh trục lợi bảo hiểm thông qua các quy định về cung

cấp thông tin. Cụ thể, khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm

có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm,

giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; bên mua

bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng

bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính

xác, trung thực của thông tin đó (khoản 1, Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm

năm 2010).

47

Cần lưu ý là nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm không

chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin theo nguyên tắc thiện chí như đã được

ghi nhận trong pháp luật dân sự, mà còn là nghĩa vụ tăng cường. Nghĩa vụ cung

cấp thông tin tăng cường được thể hiện ở chỗ các bên phải cung cấp thông tin

cho nhau một cách đầy đủ và trung thực không chỉ trước khi ký kết hợp đồng

mà còn cả trong quá trình thực hiện hợp đồng. Cụ thể, bên mua bảo hiểm có

nghĩa vụ: “Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng

bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm; Thông báo những trường

hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh

nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của

doanh nghiệp bảo hiểm; Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra

sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm” (khoản 2, Điều 18

Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010). Tương tự, doanh nghiệp bảo hiểm không

chỉ đơn thuần có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua bảo hiểm, mà còn

có nghĩa vụ đảm bảo rằng bên mua biết về nội dung các thông tin mà mình

cung cấp. Cụ thể, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ “Giải thích cho bên mua

bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của bên mua

bảo hiểm; Giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối

bồi thường” (điểm a và điểm d, khoản 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010).

Ngoài nghĩa vụ cung cấp thông tin, các bên trong hợp đồng bảo hiểm còn

có nghĩa vụ hợp tác và hạn chế tổn thất. Cụ thể, theo điểm đ, khoản 2 Điều 18

Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010, bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ: “Áp

dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và

các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Để phòng, chống hiện tượng trục lợi, Luật kinh doanh bảo hiểm còn có

các quy định về hợp đồng vô hiệu, theo đó hợp đồng bảo hiểm vô hiệu khi:

48

“Bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm; Tại thời điểm

giao kết hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm không tồn tại; Tại thời điểm

giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy

ra; Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao

kết hợp đồng bảo hiểm (khoản 1, Điều 22).

2.2.1.2. Các quy định về hợp đồng bảo hiểm tài sản

Bên cạnh các quy định chung cho mọi loại hợp đồng bảo hiểm như đã

trình bày ở trên, Luật kinh doanh bảo hiểm còn có các quy định chuyên biệt

cho hợp đồng bảo hiểm tài sản. Cụ thể, Điều 40 quy định: “Đối tượng của hợp

đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được

bằng tiền và các quyền tài sản”. Trong thực tiễn, các bên có thể ký kết hợp

đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị. Đây là loại hợp đồng trong đó số tiền bảo

hiểm cao hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết

hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao kết

hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị. Để phòng, chống trục lợi trong trường

hợp này, Luật kinh doanh bảo hiểm quy định trong trường hợp hợp đồng bảo

hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh

nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng

tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo

hiểm, sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan. Trong trường hợp xảy ra sự

kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt

hại không vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm (Điều 42).

Ngoài ra, như đã phân tích ở phần trên, cá nhân, tổ chức có thể trục lợi

bằng cách ký kết nhiều hợp đồng bảo hiểm cho một tài sản cụ thể. Người ta gọi

đây là hợp đồng bảo hiểm trùng. Bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo

hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo

49

hiểm cho cùng một đối tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Pháp

luật không cấm bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm trùng cho tài sản bởi vì đây là

quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản. Tức là, chủ tài sản được quyền

mua bảo hiểm cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng

điều kiện và sự kiện bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối

với tài sản. Tuy nhiên, trong quan hệ này, bên được bảo hiểm không được phép

lợi dụng yếu tố phí bảo hiểm phải trả cho một tài sản là rất nhỏ so với giá trị tài

sản để yêu cầu bảo hiểm nhiều lần cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm

khác nhau nhằm mục đích nhận được khoản tiền bảo hiểm lớn hơn nhiều lần so

với giá trị của tài sản bảo hiểm. Để ngăn chặn mục đích trục lợi trong trường

hợp này, khoản 2 Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Trong trường

hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm,

mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số

tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng

mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh

nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản.”. Quy định

trên có thể được hiểu là, pháp luật không cấm bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm

nhiều lần cho một tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm với cùng điều khoản

và sự kiện bảo hiểm, nhưng khi mua thì phải có nghĩa vụ thông báo cho các

doanh nghiệp bảo hiểm khác biết về điều này. Trên cơ sở các hợp đồng bảo

hiểm đã giao kết, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng chịu trách nhiệm trong

phạm vi cam kết của mình trên tổng giá trị thiệt hại.

Do tài sản có rất nhiều dạng thức khác nhau và một số loại tài sản có tính

chất chuyên biệt nên Luật kinh doanh bảo hiểm còn có quy định phòng, chống

trục lợi bảo hiểm tài sản khi đối tượng của hợp đồng là một tài sản đặc biệt, thông

qua các quy định về an toàn. Cụ thể, Điều 50 quy định rằng người được bảo hiểm

phải thực hiện các quy định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động, vệ sinh

50

lao động và những quy định khác của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm an

toàn cho đối tượng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều

kiện bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người

được bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro. Trong trường hợp

người được bảo hiểm không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho đối

tượng bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền ấn định một thời hạn để

người được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đó; nếu hết thời hạn này mà các

biện pháp bảo đảm an toàn vẫn không được thực hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm

có quyền tăng phí bảo hiểm hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo

hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để bảo

đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm khi được sự đồng ý của bên mua bảo hiểm

hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ngoài ra, trong trường hợp xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm không

được từ bỏ tài sản được bảo hiểm (Điều 51).

2.2.2. Nhóm các quy định về quản lý nhà nước về phòng, chống trục lợi bảo

hiểm

Để phòng, chống trục lợi bảo hiểm thì không chỉ các bên trong hợp đồng

phải có các quy định để kiểm soát lẫn nhau mà sự giám sát của cơ quan quản lý

nhà nước cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Pháp luật về kinh doanh bảo

hiểm Việt Nam đã có khá nhiều quy định và nhiều lần sửa đổi các quy định liên

quan đến quản lý nhà nước đối với kinh doanh bảo hiểm trong Luật kinh doanh

bảo hiểm và các Nghị định cũng như thông tư hướng dẫn thi hành. Văn bản

hướng dẫn thi hành mới nhất là Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày

01 tháng 07 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật kinh

51

doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo

hiểm có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 20164.

Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì

Bộ Tài chính đóng vai trò then chốt. Cụ thể, theo Điều 110 Luật Kinh doanh

bảo hiểm, Bộ Tài chính có trách nhiệm: “Ban hành, phê chuẩn, hướng dẫn thực

hiện quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm” (khoản 3); Giám sát

hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài

chính, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật của

doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, chi nhánh nước

ngoài. Áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh

nước ngoài, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính

và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm (khoản 4) và “Thanh tra,

kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý

vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm” (khoản 10). Ngoài Bộ Tài chính thì

một số bộ, cơ quan ngang bộ, các ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương cũng có trách nhiệm tham gia quản lý nhà nước về kinh

doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, chính sự chồng chéo này khiến cho công tác giám

4 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm; Nghị định số 123/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm và sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ-CPngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm; Nghị định số 68/2014/NĐ- CP ngày 09 tháng 7 năm 2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ- CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm và Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực.

sát, thanh tra, kiểm tra gian lận trong bảo hiểm đạt hiệu quả không cao.

52

2.2.3. Nhóm các quy định của pháp luật khác có liên quan điều chỉnh hành

vi trục lợi bảo hiểm

Hoạt động bảo hiểm là một loại giao dịch dân sự nên phải tuân thủ các

nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Cụ thể, Điều 3 BLDS năm 2015 quy

định: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa

vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực” (khoản 2). Điều luật này

không quy định trực tiếp về trục lợi bảo hiểm, nhưng vẫn có thể được áp dụng

để phòng, chống các giao dịch nhằm mục đích trục lợi bảo hiểm, bởi hành vi

trục lợi bảo hiểm là hành vi lừa dối nhằm thu lợi bất chính, nên không thể coi

là “trung thực”. Ngoài ra, các giao dịch, đồng lõa, thông đồng để trục lợi bảo

hiểm cũng có thể bị tuyên vô hiệu dựa trên quy định tại khoản 2 này, bởi đó là

các hành vi, giao dịch không trung thực.

Ngoài ra, hành vi trục lợi bảo hiểm có thể chịu sự điều chỉnh của Bộ luật

hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017. Bộ luật hình sự không quy định về trục

lợi bảo hiểm mà quy định về gian lận trong kinh doanh bảo hiểm. Cụ thể, Điều

213 quy định về tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm, theo đó “Người nào

thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tiền bảo hiểm từ

20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 50.000.000

đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các

điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: a) Thông

đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo

hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật; b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch

thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy

ra; c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi

thường, trả tiền bảo hiểm; d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để

hưởng quyền lợi bảo hiểm, trừ trường hợp luật có quy định khác”.

53

Trong trường hợp phạm tội có tổ chức, hoặc dùng thủ đoạn tinh vi, xảo

quyệt, hoặc gây t hiệt hại lớn (từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000

đồng) hoặc tái phạm nguy hiểm thì mức phạt tiền có thể từ 100.000.000 đồng

đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm (khoản 2). Trường

hợp chiếm đoạt số tiền bảo hiểm 500.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tù từ 03

năm đến 07 năm (khoản 3).

Như vậy, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam đã có

các quy định làm rõ, ngăn ngừa, xử phạt các hành vi liên quan đến trục lợi bảo

hiểm. Tuỳ theo mức độ vi phạm, người vi phạm có thể bị xử phạt hành chính

hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, các quy định trong Luật kinh

doanh bảo hiểm còn chưa thực sự rõ ràng và chế tài chưa đủ mạnh, trong khi

các quy định của Bộ luật hình sự khó được áp dụng vì việc chứng minh việc

“thông đồng” hoặc “thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt” là rất khó khăn.

54

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VIỆT NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TÀI SẢN

Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng,

chống trục lợi bảo hiểm cũng như thực tiễn về trục lợi bảo hiểm xảy ra tại Việt

Nam trong thời gian qua, Luận văn đưa ra một số kiến nghị cụ thể để hoàn

thiện pháp luật Việt Nam, nhằm ngăn chặn tốt hơn tình trạng này.

3.1. Làm rõ khái niệm trục lợi bảo hiểm

Như đã phân tích ở Chương 2, thuật ngữ trục lợi bảo hiểm đã được sử

dụng thường xuyên trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm, đã được định nghĩa

trong Thông tư năm 2004. Tuy nhiên, Thông tư này đã hết hiệu lực và các văn

bản hiện nay không đưa ra định nghĩa thế nào là trục lợi bảo hiểm. Các khái

niệm được Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010 cũng như các văn bản hướng

dẫn thi hành và Bộ luật hình sự sử dụng các thuật ngữ khác nhau, điều này vô

hình chung gây khó khăn khi áp dụng các quy định để chống trục lợi bảo hiểm.

Trên cơ sở phân tích các hành vi trục lợi bảo hiểm ở chương 1 và chương

2, tác giả cho rằng pháp luật Việt Nam cần bổ sung khái niệm “trục lợi bảo

hiểm” vào trong văn bản luật hoặc văn bản hướng dẫn luật. Khái niệm trục lợi

bảo hiểm tài sản nên được hiểu như sau: Trục lợi bảo hiểm tài sản là hành vi

lừa dối cố ý của cá nhân, pháp nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo

hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm.

Ngoài ra, tên của Luật kinh doanh bảo hiểm cũng chưa thực sự phù hợp

để phòng, chống trục lợi bảo hiểm, bởi nó nhấn mạnh đến khía cạnh kinh

doanh, tức là thiên về điều chỉnh các hành vi của doanh nghiệp kinh doanh bảo

hiểm, trong khi bên trục lợi bảo hiểm thường là bên tham gia bảo hiểm. Vì vậy,

tác giả luận văn khuyến nghị, tên Luật kinh doanh bảo hiểm nên được sửa

thành Luật bảo hiểm hoặc Bộ luật bảo hiểm (nếu tích hợp cả các quy định về

55

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi, vốn đang được quy định

trong các đạo luật chuyên ngành khác nhau). Tên gọi như vậy sẽ phản ánh

đúng hơn đối tượng điều chỉnh của Luật, đó là hoạt động bảo hiểm nói chung,

chứ không thiên về mục đích của một bên trong hoạt động đó (hiện nay là hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm).

3.2. Hoàn thiện quy định về hợp đồng bảo hiểm tài sản

Luật kinh doanh bảo hiểm có các quy định chung về hợp đồng bảo hiểm

(Mục 1, Chương 2, từ Điều 12 đến Điều 30) và hợp đồng bảo hiểm

hiểm tài sản (Mục 3, Chương 2, từ Điều 51). Về cơ bản, các quy định này đã

đảm bảo rõ ràng, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Song, để

đảm bảo hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm, theo tác giả

Luận văn, cần phải hoàn thiện một số quy định sau:

Một là, quy định rõ hơn về nghĩa vụ cung cấp thông tin. Nghĩa vụ cung

cấp thông tin không chỉ phải được thực hiện trước khi ký kết hợp đồng mà còn

cả trong quá trình thực hiện hợp đồng. Loại nghĩa vụ này phải được quy định là

nghĩa vụ đạt được kết quả công việc, chứ không đơn thuần là nghĩa vụ thực

hiện công việc với nỗ lực cao nhất.

Hai là, quy định về hình thức hợp đồng bảo hiểm. Theo quy định tại Điều

14 Luật kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản

mà không quy định rõ gồm những văn bản nào. Trên thực tế, hợp đồng bảo

hiểm gồm nhiều văn bản khác nhau tập hợp lại như đơn đề nghị bảo hiểm, giấy

chứng nhận bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm... Vì vậy, cần ghi nhận đây là các

bộ phận cụ thể tạo nên hình thức của hợp đồng. Đồng thời quy định rõ trách

nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phải cung cấp đầy đủ các văn bản

này trong hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo

56

hiểm. Ngoài ra, trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có khiếm khuyết về hình

thức và dẫn tới bị vô hiệu thì trách nhiệm thuộc về doanh nghiệp bảo hiểm.

Ba là, bổ sung quy định về chế tài đối với việc không tuân thủ nghĩa vụ

hạn chế tổn thất và trách nhiệm không được từ bỏ tài sản. Cụ thể, điểm đ,

khoản 2 Điều 17 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 quy định doanh nghiệp

kinh doanh bảo hiểm có quyền “yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện

pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và các quy định

khác của pháp luật có liên quan”. Ứng với quyền này của doanh nghiệp kinh

doanh bảo hiểm là nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm phải “Áp dụng các biện

pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và các quy định

khác của pháp luật có liên quan” (điểm đ, khoản 2 Điều 18).

Liên quan đến nghĩa vụ bảo quản tài sản, Điều 51 quy định trong trường

hợp xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo

hiểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định hoặc các bên có thỏa thuận khác.

Tuy nhiên, Luật lại không có quy định về chế tài đối với trường hợp bên tham

gia bảo hiểm không thực hiện các nghĩa vụ này. Đối với trường hợp vi phạm

nghĩa vụ hạn chế tổn thất thì có thể áp dụng Điều 362 BLDS năm 2015 về

nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên, việc áp dụng này không hoàn

toàn phù hợp do Điều 362 là một quy định đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng,

trong khi nghĩa vụ hạn chế tổn thất trong bảo hiểm tài sản là một loại nghĩa vụ

hợp đồng. Ngoài ra, bản thân Điều 362 BLDS năm 2015 cũng không quy định

về chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ. Việc quy trách nhiệm trong trường hợp

này lại phải tuân theo các quy định chung về thiện chí, trung thực trong BLDS,

và vì vậy sẽ mất thời gian và khó khăn hơn. Cuối cùng, áp dụng các quy định

của BLDS vốn điều chỉnh các quan hệ dân sự nói chung cho quan hệ bảo hiểm

57

tài sản là không hoàn toàn phù hợp và không tính đến được các tính chất

chuyên biệt của loại quan hệ này.

Đối với nghĩa vụ bảo vệ tài sản, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010

không có quy định về chế tài khi bên tham gia bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này.

BLDS năm 2015 cũng không có quy định nào đối với trường hợp này. Như

vậy, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 đã tạo ra một nghĩa vụ nhưng không

có chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ này và vì thế một bên có thể lợi dụng sự

thiếu hụt về chế tài này để trục lợi.

Vì vậy, Luận văn khuyến nghị bổ sung vào Luật kinh doanh bảo hiểm các

quy định về chế tài đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hạn chế tổn thất và trách

nhiệm bảo quản tài sản, coi đó là căn cứ để doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm

từ chối, hoặc giảm mức bồi thường.

Bốn là, quy định về căn cứ bồi thường: Theo quy định tại Điều

46 Luật kinh doanh bảo hiểm, số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo

hiểm phải trả cho người được bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thị trường

của tài sản tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế. Số tiền

bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không

vượt quá số tiền bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Quy

định này đã thể hiện được nguyên tắc về giới hạn bồi thường trong hoạt động

kinh doanh bảo hiểm, nhưng còn một số hạn chế.

Một mặt, căn cứ để xem xét bồi thường trong quan hệ bảo hiểm tài sản là

“giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm nơi xảy ra tổn thất và

mức độ thiệt hại thực tế” chưa phù hợp, vì việc xác định giá thị trường là một

việc rất khó khăn do thực tế, giá thị trường thường tính được đối với

những tài sản còn mới, trong khi đó, có trường hợp bảo hiểm là các tài sản đã

qua sử dụng. Vì vậy, việc xác định thiệt hại thực tế xảy ra đối

58

với tài sản bảo hiểm chỉ mang tính ước đoán, dễ trở thành nguyên nhân dẫn đến

trục lợi bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.

Mặt khác, mục đích của Điều 46 là nhằm ngăn ngừa trục lợi bảo

hiểm, trong khi đó lại cho phép các bên thỏa thuận về số tiền bồi thường mà

không dựa vào căn cứ bồi thường. Do đó, quy định trở nên thiếu tính nghiêm

minh. Vì vậy, cần hoàn thiện quy định này theo hướng cho phép doanh nghiệp

bảo hiểm và bên mua bảo hiểm thống nhất với nhau về cách thức và biện pháp

xác định giá trị của tài sản bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra tổn thất. Đồng

thời tại khoản 1 và 2 Điều 46 Luật kinh doanh bảo hiểm, nên bỏ cụm từ “trừ

trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm” để đảm bảo tính

nghiêm minh của pháp luật.

Năm là, quy định về hợp đồng bảo hiểm trên giá trị: Theo quy định tại

Điều 42 Luật kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và bên

mua bảo hiểm không được giao kết hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm cao

hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng.

Pháp luật cũng quy định trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá

trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm

phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số

tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm, sau khi trừ

các chi phí hợp lý có liên quan. Đồng thời, trong trường hợp xảy ra sự

kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt

hại không vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm. Tuy nhiên, khoản

1 và khoản 2 Điều 42 chưa thống nhất với nhau. Cụ thể, khoản 1 quy định:

“Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao dịch hợp đồng

bảo hiểm tài sản trên giá trị”, nhưng khoản 2 lại quy định: “trong trường hợp

hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên

59

mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại bên mua bảo hiểm số

phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường

của tài sản được bảo hiểm sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan […]”.

Như vậy, khoản không cho phép nhưng khoản 2 lại gián tiếp thừa nhận sự tồn

tại của hợp đồng này. Ngoài ra, quy định về lỗi vô ý ở khoản 2 mang tính định

tính, khó xác định được tiêu chí như thế nào là vô ý, như thế nào là cố ý, dễ dẫn

đến suy đoán chủ quan, khó áp dụng trên thực tế. Vì vậy, nên bỏ khoản 2 Điều

42 Luật kinh doanh bảo hiểm để không thừa nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo

hiểm tài sản trên giá trị. Trường hợp vi phạm, hợp đồng sẽ vô hiệu theo quy

định tại điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm.

3.3. Hoàn thiện các quy định về phòng ngừa rủi ro và giám sát hoạt

động kinh doanh bảo hiểm

Để phòng, chống trục lợi bảo hiểm thì việc có các quy định pháp luật rõ

ràng, chặt chẽ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm là chưa đủ. Việc giám sát,

thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng.

Quy định về cấp phép và thành lập doanh nghiệp bảo hiểm

Để ngăn ngừa việc chủ đầu tư thành lập doanh nghiệp bảo hiểm chỉ lấy

danh nghĩa nhằm trục lợi bảo hiểm, pháp luật kinh doanh bảo hiểm đã đưa ra

những rào cản kỹ thuật khá khắt khe trong việc cấp phép thành lập doanh

nghiệp bảo hiểm như điều kiện về vốn, tiêu chuẩn người quản trị điều hành, hồ

sơ... Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm,

cần quy định chặt chẽ hơn nữa về điều kiện của chủ đầu tư xin thành lập công

ty cổ phần bảo hiểm, theo hướng ngoài các điều kiện chung, chủ đầu tư phải có

tối thiểu 2 cổ đông sáng lập là tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định và nắm

giữ tối thiểu 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán của công ty cổ

phần bảo hiểm, tái bảo hiểm. Việc quy định số lượng cổ đông sáng lập tối thiểu

60

này là một cách để việc giám sát, kiểm soát được thực hiện chính từ nội bộ của

doanh nghiệp bảo hiểm.

Về dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm

Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập dự phòng

nghiệp vụ theo từng nghiệp vụ bảo hiểm tương ứng với phần trách nhiệm

của doanh nghiệp để đảm bảo khả năng chi trả cho người tham gia bảo hiểm

khi có rủi ro, tổn thất xảy ra. Tuy nhiên, quy định hiện hành vẫn chưa bao quát

được hết các loại dự phòng nghiệp vụ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho người

được bảo hiểm, cần bổ sung các loại dự phòng nghiệp vụ khác như dự phòng

rủi ro thiên tai, dự phòng đảm bảo lãi suất cam kết và dự phòng nghiệp vụ đối

với tái bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo hiểm nhân thọ và tái bảo hiểm sức khỏe.

Về quản trị rủi ro và kiểm tra, kiểm soát nội bộ

Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm có những quy định yêu cầu doanh

nghiệp bảo hiểm xây dựng và thực hiện hoạt động quản trị doanh nghiệp một

cách thận trọng, cũng như đảm bảo khả năng tự giám sát hoạt

động kinh doanh của chính mình để bảo vệ lợi ích của người tham gia bảo

hiểm. Tuy nhiên, các quy định vẫn chung chung, chưa chú trọng đến việc trục

lợi bảo hiểm. Vì vậy, cần hoàn thiện quy định này theo hướng quy trình kiểm

soát nội bộ cần được phân tách thành từng khâu, từng nội dung nhưng phải có

sự liên hệ với nhau để kiểm soát đồng bộ. Cần đảm bảokhả năng tiếp nhận và

xử lý thông tin tốt và nhanh chóng từ nhiều nguồn, có khả năng kiểm tra chéo

để đảm bảo chính xác.

Về nghĩa vụ minh bạch thông tin

Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp bảo hiểm phải công khai thông

tin trong quá trình hoạt động của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo ngăn ngừa trục

lợi bảo hiểm có hiệu quả, cần quy định cụ thể hơn vấn đề công khai thông tin

61

về sản phẩm bảo hiểm, theo đó yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải công bố

đầy đủ nội dung điều khoản trên trang thông tin điện tử trước và trong quá trình

triển khai sản phẩm bảo hiểm; đồng thời quy định rõ chế tài xử phạt đại

lý trong trường hợp không giải thích đầy đủ với khách hàng; quy định về trách

nhiệm trao đổi cơ sở dữ liệu khách hàng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm để

hạn chế trục lợi bảo hiểm, tập trung vào các trường hợp phải trao đổi thông tin,

phương thức trao đổi và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc sử

dụng các thông tin đã trao đổi.

Về nội dung giám sát và phương thức quản lý, giám sát

Theo quy định hiện hành, nội dung giám sát được thực hiện thông qua

việc quản lý, giám sát các hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản

trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp

bảo hiểm và có thể áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo

hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện các cam kết với bên

mua bảo hiểm.

Đối với phương thức giám sát, Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản

hướng dẫn thi hành không có quy định cụ thể. Tuy nhiên, thông qua các quy

định về quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý giám sát, có thể thấy

việc giám sát có thể được thực hiện theo cả hai phương thức là giám sát trực

tiếp và giám sát gián tiếp (giám sát từ xa và giám sát tại chỗ). Phương thức

giám sát gián tiếp được thực hiện thông qua các hoạt động cấp phép, phê chuẩn

hoặc chấp thuận của Bộ Tài chính. Giám sát trực tiếp được thực hiện thông qua

các hoạt động thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp bảo hiểm.

Trên thực tế, thông qua các nội dung, phương thức giám sát, cơ quan quản

lý đã phát hiện và xử lý nhiều sai phạm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá

trình hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, các quy định này còn một số tồn tại

62

như mục tiêu giám sát còn chung chung, chưa đề cập riêng đến mục tiêu ngăn

ngừa trục lợi bảo hiểm; chưa nhấn mạnh đến mô hình giám sát nội bộ mà

doanh nghiệp bảo hiểm cần phải xây dựng để đánh giá khả năng thanh toán và

quản lý của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm đảm bảo cho sự an toàn trong hoạt

động kinh doanh của mình. Vì vậy, cần phải hoàn thiện quy định về nội dung

giám sát, nhất là quy định về mô hình giám sát nội bộ của doanh nghiệp bảo

hiểm vì nếu doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện tốt việc tự giám sát sẽ hạn chế

được trục lợi bảo hiểm. Theo đó, cần quy định quy trình kiểm soát nội bộ phải

hướng đến mục tiêu phòng ngừa và hạn chế rủi ro hơn là chỉ đảm bảo nguyên

tắc tuân thủ. Cần có tiêu chí rõ ràng, nhất quán và có thể định lượng được

nhằm phản ánh chính xác tình hình của doanh nghiệp bảo hiểm, tránh trục lợi

bảo hiểm.

Về nguyên tắc, một trong những mục đích chính của quản lý nhà nước

đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi của

người tham gia bảo hiểm cũng như quyền lợi của các doanh nghiệp bảo hiểm.

Trong đó một ương những trách nhiệm cơ bản của quản lý nhà nước về bảo

hiểm là phòng chống các đối tượng trục lợi bao gồm cả người tham gia bảo

hiểm trực lợi người bảo hiểm cũng như doanh nghiệp bảo hiểm trục lợi người

tham gia bảo hiểm.

Liên quan đến công cụ và quy trình giám sát, chúng ta có thể tham khảo

các quy định và quy trình quản lý giám sát bảo hiểm của IAIS. Trong thực tế,

IAIS đã xây dựng ra 28 nguyên tắc bảo hiểm cơ bản (ICP-Insurance Core

Principle) để quản lý giám sát hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

Các nguyên tắc này đóng vai trò đặc biệt hiệu quả trong ngăn ngừa và phòng

chống trục lợi bảo hiểm trong đó có phòng chống trục lợi bảo hiểm tài sản và

bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Trong các nguyên tắc này có

63

4 nguyên tắc giám sát, quản lý thị trưởng bảo hiểm là ICP 24, ICP 25, ICP 26

và ICP 27 liên quan trực tiếp đến phòng chống trục lợi bảo hiểm. Bốn nguyên

tắc cơ bản giám sát đảm bảo các trung gian bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo

hiểm có thể trục lợi người tiêu dùng cũng như quy định các nguyên tắc giám

sát phòng ngừa hạn chế bị trục lợi cho chính các doanh nghiệp bảo hiểm. Cụ

thể như sau:

Nguyên tắc ICP 24-Các trung gian bảo hiếm: Cơ quan quản lý, giám sát

đặt ra yêu cầu quản lý các trung gian bảo hiểm một cách trực tiếp hoặc thông

qua các doanh nghiệp bảo hiểm. Cơ quan quản lý, giám sát yêu càu các trung

gian bảo hiểm phải được căp phép hoặc phải đăng ký kinh doanh. Cơ quan

quản lý, giám sát yêu cầu các trung gian bảo hiểm phải có đầy đủ kiến thức

tổng quát, kiến thức về thương mại và kiến thức chuyên môn và phải có năng

lực cũng như uy tín tốt. Khi cần thiết, cơ quan quản lý, giám sát sẽ thực hiện

những động thái kích thích đáng kể cả các biện pháp chế tài, phạt một cách trực

tiểp hoặc thông qua các doanh nghiệp bảo hiểm; hủy giấy phép hoặc đãng ký

hành nghề của các trung gian bảo hiểm. Cơ quan quản lý, giám sát hoặc các cơ

quan khác phải xử lý những các nhân hoặc những đối tượng hoạt động trung

gian bảo hiểm khi không có giấy phép hoặc không đăng ký hành nghề.

Nguyên tắc ICP 25-Bảo vệ người tiêu dùng: Cơ quan quản lý, giám sát

đặt ra nhưng yêu cầu tối thiểu đối với doanh nghiệp bảo hiểm và các trung gian

trong mối quan hệ với người tiêu dùng bao gồm cả việc doanh nghiệp bảo hiểm

nước ngoài cung cấp sản phẩm bảo hiểm qua biên giới. Cơ quan quản lý, giám

sát yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm và các trung gian đối xử công bàng với

người tiêu dùng; cung cấp kịp thời đầy đủ các thông tin liên quan đến khách

hàng kể cả trước khi họp đồng có hiệu lực cho đến thời điểm các nghĩa vụ theo

họp đồng được đáp ứng. Trong quan hệ với người tiêu dùng, cơ quan quản lý,

64

giám sát yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm và các trung gian phải có kỹ năng, cẩn

trọng và phải có kiểm toán độc lập.

Nguyên tắc ICP 26-Công khai, minh bạch thông tin: Cơ quan quản lý,

giám sát yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm công bố các thông tin một cách kịp

thởi để những người liên quan có nhận định rõ ràng về tình hình kinh doanh và

vị thế, trạng thái tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời nhận thức

những rủi ro mà họ đối mặt. Cơ quan quản lý, giám sát yêu cầu doanh nghiệp

bảo hiểm công khai thông tin tài chính và những rủi ro phải đối mặt. Thông tin

này phải được chi tiết theo những tiêu chí chủ yếu. Cơ quan quản lý, giám sát

các thông tin do doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp và có những hành động cần

thiết để đảm bảo việc tuân thủ những yêu cầu về công khai thông tin.

Có thể nói đây chính là các nguyên tắc cốt lõi cơ bản quản lý, giám sát

nhà nước cơ bản nhằm phòng và ngăn ngừa hạn chế trục lợi bảo hiểm nói

chung và trục lợi bảo hiển hàng hóa vận chuyển bằng đường biển nói riêng.

3.4. Bổ sung quy định về đăng ký hợp đồng bảo hiểm tài sản

Như đã phân tích ở trên, bên mua bảo hiểm có thể trục lợi bảo hiểm bằng

cách tham gia bảo hiểm trùng, tức là mua bảo hiểm cùng lúc với nhiều doanh

nghiệp bảo hiểm để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều kiện và

sự kiện bảo hiểm. Pháp luật hiện hành quy định trong trường hợp này tổng số

tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại

thực tế của tài sản (Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Tuy nhiên, bên mua

bảo hiểm cố tình che giấu doanh nghiệp bảo hiểm việc tài sản đã được mua bảo

hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm khác với cùng điều khoản và sự kiện bảo hiểm

trước khi giao kết hợp đồng với doanh nghiệp bảo hiểm. Để phòng, chống hiện

tượng này thì bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm phải hợp tác với nhau để kết

nối với nhau. Dưới góc độ quản lý, pháp luật Việt Nam có thể quy định các

65

hợp đồng bảo hiểm tài sản ở một giá trị lớn nhất định nào đó phải đăng ký trên

một hệ thống thông tin, giống như đăng ký giao dịch bảo đảm.

66

KẾT LUẬN

Trục lợi bảo hiểm tài sản là một dạng trục lợi bảo hiểm gây nhiều thiệt hại

cho doanh nghiệp bảo hiểm cũng như cho toàn thị trường. Đối với loại hình

trục lợi này, không chỉ các doanh nghiệp bảo hiểm bị thiệt hại về tài chính mà

chính các chủ hàng trung thực tham gia bảo hiểm cũng phải gánh chịu một

phần thiệt hại thông qua phí bảo hiểm phải thanh toán cho các doanh nghiệp

bảo hiểm.

Trong thời gian qua, ngành bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và bảo hiểm

tài sản nói riêng đã thu được một số thành công nhất định trong phòng chống

các đối tượng trục lợi bảo hiểm. Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam:

số các vu trục lợi bảo hiểm được phát hiện, xử lý nổi cộm trên thị trường những

năm gần đây không có nhiều; và hiện tượng trục lợi nội bộ và trung gian bảo

hiểm trục lợi giảm mạnh do công tác xử lý mạnh tay của các doanh nghiệp bảo

hiểm. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước chức năng: công tác phòng chống

trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển đã được các cơ quan

quản lý nhà nước quan tâm; và công tác phối kết hợp, hỗ trợ phòng chống trục

lợi bảo hiểm ngày càng hiệu quả.

Tuy nhiên, công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm tài sản thời gian qua

vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có một phần từ

việc các quy định của pháp luật Việt Nam chưa rõ ràng, đặc biệt các quy định

về chế tài, giám sát, thanh tra, kiểm tra các hành vi trục lợi.

Trên cơ sở phân tích thực trạng trục lợi bảo hiểm, các nguyên lý về

phòng, chống trục lợi bảo hiểm và pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi

bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, có thể kết luận rằng pháp luật Việt Nam chưa

phát huy đầy đủ hiệu quả phòng, chống trục lợi bảo hiểm. Vì vậy, luận văn đã

67

đề xuất một số giải pháp cụ thể về hoàn thiện pháp luật Việt Nam về lĩnh vực

này.

Do thời gian có hạn và khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ chưa cho

phép, nên việc nghiên cứu trên chắc chắn là chưa đầy đủ. Chủ đề này cần tiếp

tục được nghiên cứu sâu hơn, đặc biệt ở khía cạnh thực tiễn xét xử các tranh

chấp về trục lợi bảo hiểm, có như thế mới đưa ra được một cái nhìn tổng thể

hơn về vấn đề.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu bằng tiếng Việt

1. Bộ Tài chính, Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2017, Nxb Tài chính,

2018.

2. Gia An, Trục lợi bảo hiểm: Âm thầm nhưng mạnh mẽ, táo bạo, Đặc san

Toàn cảnh Thị trường Bảo hiểm Việt Nam 2016.

3. Hiền Anh, Những chiêu thức trục lợi điển hình trong hảo hiểm hàng hải,

Bản tin Bảo hiểm & Đời sống, số 52, tháng 4/2013.

4. Hoàng Văn Châu, Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh, Nxb Lao động-Xã

hội 2006.

5. Trí Công, Tổng CTCP Bảo hiểm Quân đội (MIC) thắng kiện vụ trục lợi bảo

hiểm ở Nghệ An, Trang

thông

tin Bảo hiểm Việt Nam. URL:

https://tinbaohiem.com/2015/tong-ctcp-bao-hiem-quan-doi-mic-thang-kien-

vu-truc-loi-bao-hiem-o-nghe-an/ truy cập ngày 1/12/2018.

6. Cổng thông tin Bảo hiểm Việt Nam, 7 năm, gần 58.000 vụ trục lợi bảo

hiểm thiệt hại trăm tỉ đồng. URL: https://webbaohiem.net/7-nam-gan-58-

000-vu-truc-loi-bao-hiem-thiet-hai-tram-ti-dong.html

truy

cập

ngày

9/10/2018.

7. Nhà Pháp luật Việt-Pháp, Organisation Internationale de la Francophonie

2009, Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp-Việt, Nxb Từ điển Bách khoa.

8. Ngô Trung Dũng, Thị trường bảo hiểm: Tăng trưởng gắn liền với cải thiện

chất lượng sản phẩm, dịch vụ. URL: http://iav.vn/News/Item/43141/195/vi-

VN/Default.aspx truy cập ngày 5/12/2018.

9. Ngô Trung Dũng, “Trục lợi bảo hiểm”, Bản tin Bảo hiểm & Đời sống, số

57, tháng 9 năm 2013.

10. Nguyễn Văn Định, Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nxb Đại học

Kinh tế quốc dân 2009.

11. Hiroshi Kinoshita, Hiroyasu Miyazaki, Trục lợi bảo hiểm: Những biện pháp

phòng chống trục lợi được thực hiện bởi Ngành bảo hiểm Phi nhân thọ của

Nhật Bản, Hội thảo Hải ngoại ISJ 2013 Hà Nội, tháng 9 năm 2013.

12. Trần Sỹ Lâm chủ nhiệm, Hạn chế trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận

chuyển bằng đường biển tại một số nước trên thế giới và bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (Bộ Giáo dục và

Đào tạo), Mã số: B2012-08-09, nghiệm thu tháng 4/2014.

13. Trần Sỹ Lâm chủ nhiệm. Phân tích hồ sơ bồi thường của một số công ty

bảo hiểm nhằm xây dựng các dạng bài tập bảo hiểm hàng hóa vận chuyển

bằng đường biển, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Đại học Ngoại

thương 2013.

14. Trương Mộc Lâm, Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm hàng hóa, Nxb Thống

kê 2002.

15. Doãn Hồng Nhung, Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa,

ngăn chặn trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, Tạp

chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 30, số 3 năm 2014, tr 33-40.

16. Phan Tiến Nguyên chủ biên, Phân tích một số bộ luật, đạo luật, điều ước

quốc tế liên quan đến vận tải và bảo hiểm hàng hải, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội 2007.

17. Võ Thị Pha, Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính 2010.

18. Nguyễn Thị Phượng, Kinh nghiệm phòng ngừa và đấu tranh chống trục lợi

bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển ở một số nước khu vực

Bắc Mỹ và Tây Âu, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Ngoại thương 2012.

19. Nguyễn Thị Hoài Thu, Hoàn thiện các quy định của pháp luật để ngăn

ngừa trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 03,

212 tháng 2 năm 2012.

20. Hồ Thuỷ Tiên, Bảo hiểm hàng hải, Nxb Tài chính 2007.

21. Nguyễn Lệ Thủy, Phòng chống trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm phi

nhân thọ tại một số doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt

Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Ngoại thương 2013.

22. Nguyễn Thị Thu Thủy, Trần Thị Thu Hà, Nâng cao hiệu quả quản lý đại lý

tại các công ty bảo hiểm phi nhân thọ, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 9 năm

2013.

Tài liệu bằng tiếng nước ngoài

23. Dexter Morse & Lynne Skajan, Tackling insurance fraud law and practice,

Risk Management and Insurance Review, vol 1, issue 1, 2004.

24. Findlaw , New York Marine General Insurance Company V. Tradeline

2014. URL: http://caselaw.fmdlaw.com/us-2nd- circuit/1332550.html truy

cập ngày 8/10/2018.

25. J.L. Bacher, La fraude à l’assurance et sa prévention par les compagnies

privées 1995. Trục lợi bảo hiểm và cách thức phòng chống trục lợi bảo

hiểm của các tập đoàn tư nhân, Tạp chí Déviance et Société, vol 19, no 2, tr.

185-200.

26. Kyriaki Noussia, The Principle of Indemnity ỉn Marine Insurance

Contracts: A Comparative Approach, Nxb Springer 2007.

27. KPMG, Insurance Bureau of Canada: Auto Insurance Fraud in Ontario,

KPMG Forensic Report, dated June 13, 2012.