BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG,
CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TRONG
KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN
Ngành: Luật kinh tế
TẠ NHẬT ANH
Hà Nội, năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi
bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
Họ và tên học viên: Tạ Nhật Anh
Người hướng dẫn: TS Nguyễn Bình Minh
Hà Nội, năm 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết
quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Tạ Nhật Anh
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn,
giúp đỡ hết sức nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của TS Nguyễn Bình Minh,
giảng viên khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc và xin được gửi lời cảm ơn tới tập thể
cán bộ, giảng viên Khoa Luật, tập thể Thầy, Cô giáo Trường Đại học Ngoại thương
Hà Nội đã giảng dạy, truyền thụ kiến thức và giúp đỡ tôi trong suốt khoá học và
thời gian nghiên cứu luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Tạ Nhật Anh
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................. v
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................................vi
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN VÀ
TRỤC LỢI BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN .... 9
1.1. Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm tài sản ............................................. 9
1.1.1. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm tài sản ....................................... 9
1.2. Tổng quan về trục lợi bảo hiểm .............................................................. 17
1.2.1. Khái niệm về trục lợi bảo hiểm và phòng chống, trục lợi bảo
hiểm ......................................................................................................... 17
1.2.2. Nguyên nhân trục lợi bảo hiểm ................................................... 21
1.2.3. Hậu quả trục lợi bảo hiểm ........................................................... 24
1.3. Các loại trục lợi bảo hiểm tài sản ........................................................... 26
1.3.1. Căn cứ vào giai đoạn bảo hiểm.................................................... 26
1.3.2. Căn cứ vào đối tượng tiến hành trục lợi bảo hiểm ..................... 28
1.3.3. Căn cứ vào các thủ đoạn gian lận bảo hiểm tài sản ................... 30
1.3.4. Căn cứ vào hình thức trục lợi ...................................................... 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM
VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TÀI SẢN
.............................................................................................................................. 33
2.1. Thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản tại Việt Nam .......................... 33
2.1.1. Tình hình trục lợi bảo hiểm những năm gần đây ...................... 33
2.2.2. Hình thức trục lợi bảo hiểm ......................................................... 34
2.2.3. Hậu quả của trục lợi bảo hiểm .................................................... 42
2.2. Pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản .......... 43
2.2.1. Nhóm các quy định chung về phòng, chống trục lợi bảo hiểm .. 44
iv
2.2.2. Nhóm các quy định điều chỉnh hành vi của các bên trong hợp
đồng bảo hiểm ......................................................................................... 46
2.2.2. Nhóm các quy định về quản lý nhà nước về phòng, chống trục
lợi bảo hiểm ............................................................................................. 50
2.2.3. Nhóm các quy định của pháp luật khác có liên quan điều chỉnh
hành vi trục lợi bảo hiểm ....................................................................... 52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TÀI SẢN ...... 54
3.1. Làm rõ khái niệm trục lợi bảo hiểm ...................................................... 54
3.2. Hoàn thiện quy định về hợp đồng bảo hiểm tài sản ............................. 55
3.3. Hoàn thiện các quy định về phòng ngừa rủi ro và giám sát hoạt
động kinh doanh bảo hiểm ............................................................................. 59
3.4. Bổ sung quy định về đăng ký hợp đồng bảo hiểm tài sản .................... 64
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tiếng Anh
Tiếng Việt
Tên viết tắt
Hiệp hội Bảo hiểm Anh
ABI
Association of British Insurers
Cục điều tra liên bang
FBI
Federal Bureau of Investigation
FOS
Financial Ombudsman Service
Dịch vụ thanh tra tranh chấp tài chính
Hội đồng bảo hiểm Úc
ICA
Insurance Council Australia
IDS
Insurance Data Service Inc.
Công ty TNHH Dịch vụ dữ liệu bảo hiểm
IFB
Insurance Fraud Bureau
Văn phòng về Trục lợi bảo hiểm của Anh
Dịch vụ tham khảo bảo hiểm
IRS
Insurance Reference Services
NAIC
National Association of Insurance Commissioners
Hiệp hội quốc gia Cơ quan quản lý bảo hiểm Hoa Kỳ
NFD
National Fraud Database
Cơ sở dữ liệu về trục lợi quốc gia
NFSA
National Fraud Strategic Authority (UK)
Cơ quan Chiến lược Quốc gia của Anh về Gian lận
NICB
National Insurance Crime Bureau
Văn phòng quốc gia về tội phạm bảo hiểm
OIG
Vụ thanh tra của Bộ sức khỏe và dịch vụ nhân lực Mỹ
Offical of Inspector General (US Department of Health and Human Services)
SFD
Staff Fraud Database
Cơ sở dữ liệu về trục lợi của nhân viên
vi
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tên luận văn: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo
hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản
Luận văn đã đạt được các kết quả chính sau:
- Đã làm rõ các khái niệm liên quan đến kinh doanh bảo hiểm tài sản, như bảo
hiểm tài sản, kinh doanh bảo hiểm tài sản, đặc điểm của bảo hiểm tài sản, rủi ro
trong bảo hiểm tài sản và tổn thất trong bảo hiểm tài sản.
- Đã phân tích khái niệm trục lợi bảo hiểm, nguyên nhân dẫn đến trục lợi bảo
hiểm và hậu quả của trục lợi bảo hiểm.
- Đã làm rõ khái niệm trục lợi bảo hiểm tài sản, trong đó tập trung nghiên cứu
trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, Các loại trục lợi bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.
- Đã làm rõ thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản ở Việt Nam và pháp luật về
phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản.
- Đã đề xuất một số giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên
quan đến hợp đồng bảo hiểm tài sản; giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm; đăng
ký hợp đồng bảo hiểm tài sản.
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế những năm gần đây, các hoạt
động kinh doanh, thương mại diễn ra ngày càng nhiều và kèm theo đó hoạt
động bảo hiểm cũng diễn ra hết sức sôi động, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Tính đến 31/12/2017, thị trường bảo hiểm có 64
doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, nhân thọ, tái
bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Tổng tài sản toàn thị trường đạt 316.300 tỷ
đồng, tăng 27,4% so với năm 2016, tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế đạt
247.815 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2016, tổng doanh thu toàn thị trường
đạt 132.369 tỷ đồng, trong đó doanh thu phí bảo hiểm đạt 107.821 tỷ đồng
(tăng 23,4% so với năm 2016), doanh thu đầu tư đạt 24.548 tỷ đồng, số tiền chi
trả quyền lợi bảo hiểm là 31.904 (Bộ Tài Chính, 2018, tr. 5). Còn theo số liệu
đăng tải trên trang web chính thức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, doanh thu
phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 41.344 tỷ đồng, tăng trưởng 13%. Các doanh
nghiệp bảo hiểm đầu tư vào nền kinh tế 231.973 tỷ đồng, trong đó khối nhân
thọ đạt 193.508 tỷ đồng, tăng 41%; khối phi nhân thọ đạt 38.465 tỷ đồng, tăng
27%. Các Doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo công ăn việc làm cho 702.282 lao
động, trong đó có 29.584 cán bộ nhân viên và 672.698 đại lý (Ngô Trung
Dũng, 2018).
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm
Việt Nam, đã xuất hiện tình trạng trục lợi bảo hiểm. Những năm gần đây, trục
lợi bảo hiểm nói chung và trục lợi bảo hiểm vật chất nói riêng ở Việt Nam đã
gia tăng nhanh chóng về số lượng và phát triển phức tạp về quy mô cũng như
thủ đoạn trục lợi, gây thiệt hại về vật chất, uy tín cho nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm,
2
đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm Việt
Nam.
Pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung
và phòng chống trục lợi bảo hiểm nói riêng đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung
phần nào đã cho thấy sự phức tạp của vấn đề và các khó khăn khi áp dụng các
quy định của luật nhằm phòng chống trục lợi bảo hiểm.
Ngoài ra, trong công tác ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm, hoạt động quản lý,
giám sát của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đóng vai trò quan trọng,
nhằm đảm bảo cho các chủ thể liên quan thực hiện hành vi một cách có trách
nhiệm, tuân thủ quy định của pháp luật. Với mục đích nhằm ngăn ngừa trục lợi
bảo hiểm, cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các nội dung giám sát của mình
thông qua việc ban hành các quy định như: Cấp phép thành lập và hoạt động
của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; quản lý, giám sát
sản phẩm bảo hiểm; quản lý, giám sát kênh trung gian bảo hiểm. Các nội dung
này được cơ quan nhà nước thực hiện bằng phương thức giám sát từ xa và kiểm
tra tại chỗ cũng như thực hiện thẩm quyền của mình trong việc áp dụng các chế
tài đối với chủ thể vi phạm. Thời gian qua các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam cũng như Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính đã nghiên cứu
áp dụng nhiều biện pháp phòng ngừa hạn chế trục lợi trong bảo hiểm và đã thu
được những thành công nhất định. Tuy nhiên thực tế các biện pháp này chưa
thật sự giải quyết hiệu quả tình trạng trục lợi trong bảo hiểm nói chung và trục
lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển nói riêng.
Trên góc độ nghiên cứu, một số tác giả cũng đã phân tích thực trạng trục
lợi bảo hiểm và đặc biệt là trục lợi bảo hiểm xe cơ giới nhằm đưa ra một số giải
pháp phòng ngừa hiện tượng này. Tuy nhiên, như phần tổng quan tình hình
nghiên cứu sẽ được trình bày dưới đây cho thấy, các nghiên cứu này mới chỉ
3
tập trung nghiên cứu một vài khía cạnh của hiện tượng trục lợi bảo hiểm và
thường nhấn mạnh đến trục lợi bảo hiểm xe cơ giới. Ngoài ra, pháp luật Việt
Nam cũng đã có những thay đổi trong thời gian gần đây và các nghiên cứu này
chưa đề cập đến các quy định mới này.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể các quy định của pháp luật
Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản
nhằm đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Vì những lẽ trên, học viên đã lựa chọn chủ đề “Hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản”
làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình. Đề tài này phù hợp với chuyên ngành
đào tạo Thạc sỹ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế tại Trường Đại học
Ngoại thương.
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và trục lợi bảo hiểm nói riêng
không phải là chủ đề mới. Đã có khá nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về
trục lợi bảo hiểm được thể hiện trong các giáo trình về bảo hiểm, trong các đề
tài nghiên cứu khoa học, các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ cũng như các bài
viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành. Cụ thể, có thể kể đến các công
trình tiêu biểu sau:
Các tác giả Đào Thanh Bình và Hoàng Đình Minh trong bài viết về “Giải
pháp ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm vật chất” đăng trên Tạp chí Tài chính số 8
năm 2014 đã phân tích thực trạng trục lợi bảo hiểm xe cơ giới, nhiện diện một
số hình thức gian lận bảo hiểm xe cơ giới và đưa ra một số giải pháp nhằm hạn
chế trục lợi bảo hiểm xe cơ giới.
4
PGS. TS Trần Sỹ Lâm, trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về “Hạn
chế trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển tại một số
nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, nghiệm thu năm
2014, đã phân tích tổng quan về trục lợi và hạn chế trục lợi trong bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, phân tích hiện tượng trục lợi và phương
pháp hạn chế trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển tại
một số nước trên thế giới và đưa ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về:
phòng ngừa trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển; xử
lý trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Đề tài này
cũng đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế trục lợi trong bảo
hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển cho Việt Nam. Tuy nhiên, Đề tài
này chỉ tập trung nghiên cứu trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển, vốn là một lĩnh vực hết sức chuyên biệt, chứ chưa nghiên cứu trục
lợi trong bảo hiểm tài sản nói chung.
Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm, trong một đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ do Bộ Tài chính tài trợ về“Trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam-Nguy cơ và
Giải pháp” nghiệm thu năm 2012, đã phân tích thực trạng về trục lợi bảo hiểm
ở Việt Nam, đánh giá các tác hại mà hiện tượng này gây ra và đề xuất một số
giải pháp nhằm phòng ngừa hiện tượng này.
Tại Trường Đại học Ngoại thương có đề tài luận văn thạc sỹ bảo vệ năm
2013 của Nguyễn Lệ Thủy về “Phòng chống trục lợi trong kinh doanh bảo
hiểm phi nhân thọ tại một số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam ”, cũng như đề
tài luận văn thạc sỹ năm 2012 của Nguyễn Thị Phượng về“Kinh nghiệm phòng
ngừa và đấu tranh chống trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường
biển ở một số nước khu vực Bắc Mỹ và Tây Âu”.
5
Tác giả Doãn Hồng Nhung trong bài viết “Một số ý kiến hoàn thiện pháp
luật về phòng ngừa, ngăn chặn trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở
Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 30, số 3 năm
2014, tr 33-40, đã phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam và đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện, trong đó nhấn mạnh đến việc tăng các mức phạt tiền.
Nguyễn Thị Hoài Thu (2012) trong bài viết về “Hoàn thiện các quy định
của pháp luật để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam”, đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 03 (212) tháng 2 năm 2012, đã phân tích tình hình trục
lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm, thực tiễn xử lý các hành vi trục lợi
bảo hiểm và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo
hiểm để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm.
Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên chủ yếu phân tích các khía cạnh kinh
tế – quản lý của vấn đề trục lợi bảo hiểm, coi đó là một phần của quản trị rủi ro
mà doanh nghiệp cần phải quan tâm thực hiện. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Thị Hoài Thu đã đề cập trực tiếp đến vấn đề trục lợi bảo hiểm nói chung,
nhưng chưa đi sâu phân tích các đặc trưng của trục lợi bảo hiểm tài sản và cũng
chưa tính đến các sửa đổi của Bộ luật hình sự năm 2015.
Như vậy, cho đến nay, chưa có đề tài nào mới nghiên cứu, đánh giá một
cách tổng thể về pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong
kinh doanh bảo hiểm tài sản.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam
về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản để đề
xuất các giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả pháp luật cũng như hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này.
6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích hoạt động kinh doanh bảo hiểm để làm rõ bản chất
loại hình kinh doanh này
Thứ hai, nhận diện các phương thức, hành vi trục lợi bảo hiểm, đặc biệt là
trục lợi bảo hiểm tài sản.
Thứ ba, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống
trục lợi bảo hiểm nói chung và phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản nói
riêng.
Thứ tư, đề xuất các giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả các quy định của
pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản.
Thứ năm, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục
lợi bảo hiểm tài sản.
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các hành vi trục lợi bảo hiểm tài sản ở Việt Nam
và các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi và hạn chế
trục lợi bảo hiểm tài sản. Ngoài ra, do bảo hiểm tài sản rất đa dạng, nên trong
một số mục, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu loại hình bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển.
6. Phạm vi nghiên cứu
Các hoạt động kinh doanh bảo hiểm rất đa dạng và các hành vi trục lợi
cũng rất đa dạng. Vì vậy, luận văn này sẽ không đề cập đến tất cả các hành vi
trục lợi bảo hiểm nói chung mà sẽ có giới hạn cả về nội dung nghiên cứu, về
không gian nghiên cứu và thời gian nghiên cứu.
7
Về nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các dạng trục lợi
điển hình trong bảo hiểm tài sản, cũng như các biện pháp hạn chế trục lợi chủ
yếu của các cơ quan quản lý nhà nước chức năng và các doanh nghiệp bảo
hiểm áp dụng đối với các đối tượng trục lợi. Các hành vi trục lợi bảo hiểm phi
nhân thọ sẽ không được đề tài này nghiên cứu.
Về không gian nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các hành vi
trục lợi bảo hiểm tài sản ở Việt Nam và quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề này. Các hành vi trục lợi, các tranh chấp về trục lợi bảo hiểm ở nước
ngoài, các quy định của pháp luật nước ngoài về phòng, chống trục lợi bảo
hiểm nếu được trích dẫn trong Luận văn thì chỉ để làm ví dụ hoặc đối tượng so
sánh chứ không phải là đối tượng nghiên cứu chính của Luận văn.
Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các hiện tượng trục
lợi, các thủ đoạn trục lợi, các biện pháp trục lợi bảo hiểm tài sản và các quy
định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm từ năm 2000,
tức là thời điểm Việt Nam có đạo luật chuyên ngành đầu tiên về kinh doanh
bảo hiểm. Tuy nhiên, Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu sâu hơn giai đoạn từ
năm 2010 trở lại đây, tức là thời điểm Việt Nam có một luật mới sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 20001.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn sẽ sử dụng các
phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống, như: phân tích, tổng hợp tình
1 Để việc trích dẫn được ngắn gọn hơn, thứ tự các điều luật được trích dẫn sẽ là thứ tự trong văn bản hợp nhất số 12/VBHN-VPQH ngày 23 tháng 07 năm 2013 về Luật kinh doanh bảo hiểm. Trong Luận văn này, Luật Kinh doanh bảo hiểm được hiểu là Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010. Khi đề cập đến quy định cũ thì Luận văn sẽ nêu rõ đó là Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000.
huống, phân tích án lệ và so sánh luật học.
8
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt luận văn nhằm
làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, về các hành vi trục lợi bảo hiểm và các quy định của pháp luật về
phòng, chống trục lợi bảo hiểm.
Phương pháp phân tích án lệ sẽ được sử dụng chủ yếu trong Chương 2
nhằm làm sáng tỏ hơn sự phức tạp của vấn đề trục lợi bảo hiểm, cũng như rút
ra các bài học tạo tiền đề cho việc đề xuất các giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả
các quy định của pháp luật về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản và hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Phương pháp so sánh luật học sẽ được sử dụng chủ yếu tại Chương 1 và
Chương 2 nhằm làm rõ các ưu điểm và nhược điểm của pháp luật Việt Nam
trong tương quan với pháp luật nước ngoài, nhằm tạo tiền đề cho các đề xuất
hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các chữ
viết tắt, Luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
- Chương 1: Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm tài sản và trục lợi bảo
hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản
- Chương 2: Thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản tại Việt Nam và pháp
luật về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản
- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam phòng,
chống trục lợi bảo hiểm tài sản.
9
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN
VÀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI
SẢN
1.1. Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm tài sản
1.1.1. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm tài sản
1.1.1.1. Khái niệm “bảo hiểm tài sản”
Pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa về bảo hiểm tài sản mà chỉ
có quy định chung về bảo hiểm phi nhân thọ, theo đó bảo hiểm phi nhân thọ là
loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm
khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ (khoản 18, Điều 3, Luật kinh doanh bảo
hiểm). Như vậy, bảo hiểm tài sản nằm trong nhóm bảo hiểm phi nhân thọ.
Bảo hiểm tài sản, như tên gọi của nó cho thấy, có đối tượng là một loại tài
sản. Bảo hiểm hiểm tài sản thường được thể hiện bằng hợp đồng bảo hiểm
nhằm cung cấp sự đền bù về mặt tài chính cho chủ sở hữu hoặc người thuê tài
sản, trong trường hợp tài sản bị hư hỏng hoặc trộm cắp. Các loại tài sản được
bảo hiếm rất đa dạng. Theo pháp luật Việt Nam, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản (khoản 1, Điều 105 BLDS năm 2015). Tài sản bao gồm hai
loại là bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai (khoản 2, Điều 105 BLDS năm
2015). Tất cả các loại tài sản kể trên đều có thể trở thành đối tượng của bảo
hiểm tài sản. Trong thực tiễn, các bên có quyền thỏa thuận về loại tài sản được
bảo hiểm.
1.1.1.2. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm tài sản
Pháp luật Việt Nam cũng không có định nghĩa về kinh doanh bảo hiểm tài
sản mà chỉ có định nghĩa về “kinh doanh bảo hiểm”. Cụ thể, theo khoản 1 Điều
3 Luật Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh bảo hiểm là “hoạt động của doanh
10
nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp
nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí
bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Do đối tượng của kinh doanh bảo hiểm tài sản là tài sản mà tài sản lại có
các dạng rất khác nhau nên bảo hiểm tài sản cũng rất đa dạng, thường là do các
bên tự do thỏa thuận, nhưng cũng có thể do pháp luật bắt buộc. Có thể kể đến
các loại bảo hiểm tài sản tiêu biểu sau.
a) Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản
Đây là loại bảo hiểm nhằm bảo toàn tài sản doanh nghiệp một cách an
toàn và hiệu quả nhất. Đối tượng của loại bảo hiểm này bao gồm tài sản cố
định, các công trình xây dựng (nhà cửa, kho tàng, văn phòng…), hàng hóa lưu
kho, nguyên vật liệu, tư liệu sản xuất… của các doanh nghiệp, xí nghiệp sản
xuất, trung tâm thương mại, khách sạn, dịch vụ… Phạm vi của loại bảo hiểm
này là toàn bộ tổn thất vật chất xảy ra bất ngờ đối với tài sản đã được bảo hiểm,
do bất kỳ nguyên nhân nào không bị loại trừ trong Quy tắc bảo hiểm và vào bất
kỳ thời điểm nào trong thời hạn bảo hiểm.
b) Bảo hiểm bắt buộc
Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện
bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân
tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm
bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi
ích công cộng và an toàn xã hội. Theo Điều 8 Luật kinh doanh bảo hiểm, tại
Việt Nam bảo hiểm bắt buộc bao gồm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối
với hành khách; Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn
11
pháp luật; Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm; Bảo hiểm cháy, nổ.
Như vậy, bảo hiểm tài sản bắt buộc chỉ liên quan đến bảo hiểm cháy, nổ.
Đối tượng của loại bảo hiểm tài sản bắt buộc này có thể là nhà cửa, công trình
xây dựng và các trang thiết bị kèm theo, máy móc thiết bị, hàng hoá lưu kho
(nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm), vật tư và các tài sản khác. Loại
bảo hiểm tài sản bắt buộc này có phạm vi là Tổn thất vật chất bất ngờ gây ra do
cháy, nổ không lường trước được xảy ra đối với các tài sản được bảo hiểm theo
danh mục tài sản mà Người được bảo hiểm kê khai. Trong đó: Cháy là phản
ứng hóa học có tỏa nhiệt và phát sáng do nổ hoặc bất kỳ nguyên nhân nào
khác; Nổ là phản ứng hoá học gây ra việc giải phóng khí và năng lượng đột
ngột với khối lượng lớn đồng thời phát ra âm thanh và ảnh hưởng vật lý đến
các vật xung quanh nhưng loại trừ thiệt hại tới bản thân nồi hơi, bình chứa,
máy móc sử dụng áp lực và chất liệu chứa trong đó.
c) Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
Cần lưu ý đây không phải là loại bảo hiểm tài sản bắt buộc, mà là một loại
bảo hiểm theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm
nhằm bảo hiểm cho các các tài sản đặc biệt dễ cháy hoặc dễ hỏng hóc, hư hại
hoặc tiêu hao. Các rủi ro mà các bên có thể thỏa thuận là: cháy, nổ, sét., giông
bão, lũ lụt, đâm va, động đất, nổ nồi hơi và hoặc các thiết bị bình chứa hơi đốt,
rò rỉ nước từ hệ thống Sprinkler…
d) bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Trong thực tiễn kinh doanh, doanh nghiệp có thể phải đố diện với rủi ro
công việc kinh doanh bị gián đoạn, ngừng trệ do thiệt hại tài sản hay một phần
tài sản được bảo hiểm với mục đích kinh doanh. Loại bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh cung cấp nguồn tài chính cho doanh nghiệp được bảo hiểm để giúp
12
doanh nghiệp tiếp tục tồn tại và khôi phục hoạt động kinh doanh như trước khi
sự cố xảy ra. Đối tượng bảo hiểm là lợi nhuận bị mất đi do hoạt động sản xuất
kinh doanh của Người được bảo hiểm bị gián đoạn. Loại bảo hiểm này bồi
thường cho mất lợi nhuận kinh doanh và các chi phí cố định mà người được
bảo hiểm phải tiếp tục chi trả trong khi hoạt động kinh doanh đã bị đình trệ,
cản trở hoặc bị ảnh hưởng do có sự cố tổn thất tài sản tại cơ sở kinh doanh của
người được bảo hiểm.
1.1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm tài sản
Kinh doanh bảo hiểm tài sản có đối tượng hẹp hơn so với kinh doanh bảo
hiểm nói chung và vì thế nó cũng có những tính chất chuyên biệt hơn so với
các đặc điểm của kinh doanh bảo hiểm nói chung (bảo hiểm nhân thọ và bảo
hiểm phi nhân thọ). Cụ thể, bảo hiểm tài sản có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, chỉ bảo hiểm khi xác định được giá trị tài sản là đối tượng của
bảo hiểm. Chính điều này đòi hỏi phải có phương pháp phù hợp để xác định giá
trị tài sản. Trong thực tế, giá trị của tài sản có thể được tính trên cơ sở giá thị
trường hoặc theo thỏa thuận giữa các bên.
Thứ hai, số tiền chi trả của công ty bảo hiểm được xác định dựa trên
nguyên tắc bồi thường. Giá trị bồi thường bằng giá trị tổn thất của tài sản cộng
với chi phí hợp lý để đề phòng, hạn chế tổn thất, chi phí phát sinh theo chỉ dẫn
của doanh nghiệp bảo hiểm và chi phí giám định thiệt hại (nếu có). Các phương
thức bồi thường rất đa dạng, có thể bằng tiền, bằng sửa chửa, khôi phục hoặc
thay thế tài sản.
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường trong trường hợp bảo hiểm trùng. Bảo
hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với
hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng với
cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Pháp luật không cấm bên mua bảo hiểm
13
mua bảo hiểm trùng cho tài sản bởi vì đây là quyền định đoạt của chủ sở hữu
đối với tài sản. Tức là, chủ tài sản được quyền mua bảo hiểm cho tài sản tại
nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng điều kiện và sự kiện bảo
hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối với tài sản. Tuy nhiên,
trong quan hệ này, bên được bảo hiểm không được phép lợi dụng yếu tố phí
bảo hiểm phải trả cho một tài sản là rất nhỏ so với giá trị tài sản để yêu cầu bảo
hiểm nhiều lần cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau nhằm
mục đích nhận được khoản tiền bảo hiểm lớn hơn nhiều lần so với giá trị của
tài sản bảo hiểm2.
1.1.1.4. Rủi ro trong bảo hiểm tài sản
Khi nhắc đến bảo hiểm là nhắc đến rủi ro. Rủi ro và bảo hiểm gắn liền với
nhau như hai mặt của một vấn đề, có rủi ro mới có bảo hiểm. Xác định được
các loại rủi ro có ý nghĩa không chỉ đối với người kinh doanh bảo hiểm mà còn
cả với người mua bảo hiểm. Rủi ro, là một điều không may mắn, không lường
trước được về khả năng xảy ra, về thời gian và không gian xảy ra, cũng như
mức độ nghiêm trọng và hậu quả của nó. Dưới góc độ pháp lý, Từ điển Thuật
ngữ Pháp-Việt giảng nghĩa rủi ro (risque) là “sự kiện bất thường có thể xảy ra,
không phụ thuộc hoàn toàn vào ý muốn chủ quan của các bên và có khả năng
gây thiệt hại: thời tiết xấu, hỏa hoạn, thiên tai, dịch bệnh…” (Nhà Pháp luật
Việt-Pháp, Organisation Internationale de la Francophonie, 2009, tr. 805).
Trong thực tế, rủi ro rất đa dạng và có nguyên nhân phát sinh không giống
nhau và gây tác hại khác nhau. Để đánh giá một rủi ro, người ta dùng 2 tiêu
thức, đó là tần suất xuất hiện rủi ro và mức độ nghiêm trọng của rủi ro. Tần
suất xuất hiện rủi ro là số lần có thể xảy ra rủi ro trong một khoảng thời gian
2 Nội dung này sẽ được phân tích kỹ hơn tại Chương 2.
nhất định hay là khoảng cách thời gian trung bình giữa các lần rủi ro xuất hiện.
14
Ví dụ, cứ 10 năm lại xuất hiện một đợt rét hại ở miền Bắc Việt Nam làm chết
nhiều gia súc. Mức độ nghiêm trọng của rủi ro hay tính khốc liệt của tổn thất.
Tổn thất là hậu quả của rủi ro. Đối tượng chịu ảnh hưởng của rủi ro khác nhau
thì tổn thất gây ra cũng khác nhau. Ví dụ, giá lạnh có thể làm chết loại gia súc
này nhưng không gây thiệt hại cho loại vật nuôi khác.
Liên quan đến bảo hiểm tài sản, có thể kể đến các rủi ro sau:
a) Rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính
Rủi ro tài chính là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể đo được bằng
tiền. Tài sản bị hư hỏng sẽ dẫn đến thiệt hại về tài chính, đó là chi phí khôi
phục, sửa chữa tài sản, chi phí thay thế bộ phận tài sản bị hỏng, chi phí mua tài
sản khác tương tự thay thế tài sản đã bị hư hại, thiệt hại do gián đoạn kinh
doanh.
Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không đo được bằng tiền. Ví dụ, một
người mua một cái áo hoặc một đồ trang sức nhưng sau đó lại thấy không hợp
với sở thích của mình. Đây cũng có thể coi là một rủi ro nhưng hậu quả của nó
không gây thiệt hại tài chính, mà chỉ làm cho người có tài sản cảm thấy không
hài lòng.
b) Rủi ro có thể được bảo hiểm
Không phải rủi ro nào cũng có thể được bảo hiểm. Một rủi ro có thể được
bảo hiểm phải hội đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, tổn thất phải mang tính chất ngẫu nhiên. Một sự kiện có thể
được bảo hiểm phải là hoàn toàn ngẫu nhiên đứng trên góc độ của người được
bảo hiểm. Không thể nào bảo hiểm một sự kiện chắc chắn sẽ xảy ra bởi vì nó
không mang tính chất ngẫu nhiên và do đó việc chuyển giao rủi ro sẽ không
xảy ra. Như vậy, không thể bảo hiểm những gì chắc chắn xảy ra như những
15
hỏng hóc do hao mòn tự nhiên gây ra. Cũng không thể bảo hiểm những gì
người được bảo hiểm cố ý gây ra. Những hành động cố ý của người khác sẽ
không mặc nhiên bị loại trừ nếu như nó là hoàn toàn bất ngờ đối với người
được bảo hiểm.
Thứ hai, phải đo được, định lượng được bằng tiền. Ý nghĩa của bảo hiểm
chính là ở chỗ nó phát huy tác dụng như một cơ chế chuyển giao rủi ro và bù
đắp về tài chính cho những rủi ro xảy ra. Bảo hiểm không thể loại bỏ được rủi
ro, nhưng nó có trách nhiệm bảo vệ về mặt tài chính để đối phó với hậu quả
của những tổn thất xảy ra. Nếu như vậy thì rủi ro được bảo hiểm phải có thể
dẫn đến một tổn thất có thể đo được bằng tiền. Điều đó có thể dễ thấy trong các
trường hợp tổn thất tài sản. Giá trị bằng tiền bị mất của tài sản là có thể đo
được, và như vậy theo các điều kiện bảo hiểm, nó phải được bồi thường. Giá trị
chính xác của tổn thất sẽ không thể biết được ngay từ đầu khi ký hợp đồng bảo
hiểm, nhưng sẽ xác định được sau khi tổn thất đã xảy ra.
Thứ ba, không trái với đạo đức xã hội. Hoạt động bảo hiểm tài sản là một
loại giao dịch dân sự. Cũng như mọi giao dịch dân sự khác, bảo hiểm tài sản
phải không trái với luật và đạo đức xã hội (khoản 2, Điều 3 BLDS năm
2015). Vì vậy, các giao dịch cố ý hủy hoại hoặc lấy cắp tài sản của người khác
nhằm được hưởng bảo hiểm sẽ không được chấp nhận.
c) Rủi ro không được bảo hiểm (hay rủi ro bị loại trừ)
Rủi ro không được bảo hiểm là những rủi ro không được người bảo hiểm
nhận bảo hiểm hoặc không được người bảo hiểm bồi thường. Đó là những rủi
ro đương nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra, hoặc các thiệt hại do nội tỳ, bản chất
của hàng hóa, do lỗi của người được bảo hiểm, thiệt hại mà nguyên nhân trực
tiếp là chậm trễ, những rủi ro có tính chất thảm họa mà con người không lường
16
trước được quy mô, mức độ và hậu quả của nó. (Hoàng Văn Châu, 2006, tr. 17-
18).
1.1.1.5. Tổn thất trong bảo hiểm tài sản
Tổn thất là tình trạng, hoàn cảnh thực tế đưa đến sự giảm bớt giá trị của
tài sản ngoài ý muốn của người mua bảo hiểm. Tổn thất là hậu quả do các rủi
ro gây ra, là kết quả của rủi ro còn rủi ro là nguyên nhân gây ra tổn thất. Tổn
thất trong bảo hiểm tài sản có nhiều dạng, có thể là tổn thất về vật chất, tổn thất
về thu nhập, tổn thất về tinh thần, tổn thất về tính mạng, sức khỏe con người.
Tổn thất về vật chất và tổn thất về thu nhập có thể đo lường được và có thể bù
đắp được, có thể sửa chữa, khôi phục, thay thế. Vì vậy, bảo hiểm chỉ bồi
thường tổn thất vật chất, tổn thất về thu nhập. Tổn thất về tinh thần tình
cảm, như mất đi một người ruột thịt, mất đi một tập ảnh cưới là những tổn thất
khó đo được giá trị cũng như khó có cách nào bù đắp được. Tổn thất về tính
mạng và sức khỏe con người không có gì đo được và không thể lượng hoá giá
trị bằng tiền. Tuy nhiên, người ta có thể thoả thuận với nhau số tiền bảo hiểm
sẽ trả trong trường hợp chết người, mất chân, mất tay v.v..., Có thể lượng hoá
được sức khỏe con người bằng tỷ lệ % mất khả năng lao động. Do luận văn chỉ
đề cập đến bảo hiểm tài sản nên những loại tổn thất được nghiên cứu chỉ là các
tổn thất về vật chất.
Theo mức độ, quy mô tổn thất chia thành tổn thất bộ phận và tổn thất toàn
bộ. Tổn thất bộ phận là một phần của tài sản được bảo hiểm theo một hợp đồng
bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại. Tổn thất bộ phận có thể là tổn thất về
số lượng, trọng lượng, thể tích, phẩm chất hoặc giá trị. Tổn thất toàn bộ là toàn
bộ tài sản theo một hợp đồng bảo hiểm bị tổn thất. Có hai loại tổn thất toàn bộ
là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước tính.
17
Căn cứ vào tính chất, tổn thất được chia thành tổn thất riêng và tổn thất
chung. Tổn thất riêng là loại tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho riêng quyền lợi
cùa một vài chủ tài sản, đặc biệt là các chủ hàng trong toàn bộ chuyến hành
trình, do những rủi ro được bảo hiểm gây ra và không phải tổn thất chung. Tổn
thất riêng là tổn thất của từng quyền lợi được bảo hiểm, quyền lợi bị tổn thất
không liên quan đến các quyền lợi khác và tổn thất hay tổn hại phải là ngẫu
nhiên và bất ngờ gây ra bởi một rủi ro được bảo hiểm. Tổn thất riêng có thể là
tổn thất bộ phận hoặc tổn thất toàn bộ của các quyền lợi riêng biệt.
1.2. Tổng quan về trục lợi bảo hiểm
1.2.1. Khái niệm về trục lợi bảo hiểm và phòng chống, trục lợi bảo hiểm
1.2.1.1. Khái niệm trục lợi bảo hiểm
“Trục lợi” (fraud) được mô tả trong từ điển tiếng Anh Oxford với nghĩa
là: gian dối; lừa dối hình sự; bằng cách sử dụng sự kháng nghị sai để có được
một lợi thế bất công hoặc làm tổn hại đến quyền, lợi ích của người khác; không
trung thực. Trong khi đó, Từ điển Thuật ngữ pháp luật Pháp-Việt giảng nghĩa
gian lận (fraude) là “hành động qua đó chủ thể của nó thể hiện ý định làm hại
người khác hoặc lảng tránh một số quy định của pháp luật (Nhà Pháp luật Việt-
Pháp, Organisation Internationale de la Francophonie, 2009, tr. 392). Một
nghiên cứu so sánh pháp luật cho thấy, pháp luật của nhiều nước có thị trường
bảo hiểm phát triển như Anh, Pháp, Thụy Sỹ, Đức, Canada… không đưa ra
định nghĩa về “trục lợi bảo hiểm” mà coi đây là một loại vi phạm thuộc phạm
vi điều chỉnh của luật hình sự. Tại các quốc gia này, các hành vi trục lợi bảo
hiểm có thể bị xử lý như là hành vi của một sự lừa dối, bất lương (J.L. Bacher,
1995, tr. 185). Tại Anh thì các tội như vậy trước đây được xử lý theo các quy
định của Đạo luật Theft 1968, và hiện nay được điều chỉnh bởi Đạo luật Fraud
2006 có hiệu lực từ ngày 15/1/2007. Đạo luật Theft tuy không có định nghĩa về
“ trục lợi” nhưng là đạo luật duy nhất lúc bấy giờ được dùng làm căn cứ để xử
phạt các hành vi trục lợi. Theo khoản 1 Điều 15 Đạo luật Theft người nào có
18
hành vi lừa dối, không trung thực để có được tài sản của người khác thì bị phạt
tù lên đến 10 năm. Tương tự, khoản 1 Điều 16 cũng quy định người nào có
hành vi lừa dối, không trung thực để có được lợi thế bằng tiền cho mình hoặc
người khác thì bị phạt tù lên đến 10 năm (Detexter Morse and Lynne Skajaa,
2004 tr. 3, 4). Cho đến nay, phần lớn các điều khoản của Đạo luật Theft đã bị
bãi bỏ và các hành vi trục lợi được xác định căn cứ vào đạo luật Fraud 2006.
Chương 35 của đạo luật này xác định ba loại trục lợi: Khai gian (Mục 2);
Không khai báo (Mục 3); Lạm dụng chức vụ (Mục 3). Theo các quy định này,
khai gian được hiểu là: Thực hiện một khai báo sai; Không trung thực; Biết đó
là khai báo là sai hoặc không đúng sự thật hoặc gây hiểu nhầm nhằm mục đích
để làm lợi cho bản thân hoặc người khác, gây ra thiệt hại hoặc rủi ro gây tổn
thất. Không khai báo được hiểu là không tiết lộ thông tin cho người khác;
Không có ý định trung thực nhằm đạt được một lợi ích hoặc gây ra một tổn thất.
Lạm dụng chức vụ được hiểu là một người ở một vị trí mà người đó có ý định
bảo vệ hoặc không chống lại lợi ích tài chính của người khác; Lạm dụng một
cách không trung thực vị trí đó; Có ý định lạm dụng để tạo ra một lợi ích hoặc
gây ra một tổn thất.
Theo Liên minh chống trục lợi bảo hiểm của Mỹ CAIF (Coalition Against
Insurance Fraud), trục lợi bảo hiểm là bất kỳ sự cố ý lừa dối công ty bảo hiểm
hoặc đại lý bảo hiểm để đạt được lợi ích tài chính không chính đáng từ công ty
bảo hiểm. Trục lợi bảo hiểm xảy ra trong quá trình mua, sử dụng, bán bảo
hiểm. Trục lợi bảo hiểm được đánh giá là loại hình tội phạm kinh tế lớn thứ hai
ở Mỹ chỉ sau gian lận về thuế.
Theo Hiệp hội bảo hiểm Canada, trục lợi bảo hiểm là hành vi cố tình gian
dối, lừa đảo có thể có chủ định ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh
sau khi xảy ra tổn thất cho đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ
người bảo hiểm mà đáng lý họ không được hưởng.
Một định nghĩa khác về trục lợi bảo hiểm được Ủy ban bảo hiểm châu Âu
CEA - European Insurance Committee (gồm 33 nước tham gia) đưa ra: Những
19
hành động hoặc thiếu sót liên quan đến các kết luận của một hợp đồng bảo
hiểm hoặc yêu cầu bồi thường bảo hiểm mà nhờ đó đạt được lợi ích tài chính
không chính đáng cho kẻ gian lận hoặc một bên khác, hoặc qua đó gây thiệt hại
cho một bên khác3. CEA cũng đưa ra các hình thức phổ biến nhất của trục lợi
bảo hiểm liên quan đến: Kê khai sai sự thật, hoặc không công bố thông tin để
có được hợp đồng bảo hiểm; Lập kế hoạch mua bảo hiểm ở các công ty bảo
hiểm khác nhau để nhận được nhiều bồi thường khi tổn thất xảy ra; Định giá
cao giá trị của mặt hàng, hoặc kê khai các chi phí liên quan cao hơn thực tế, các
hạng mục không tồn tại; Dàn dựng tai nạn để yêu cầu bồi thường; Thổi phồng
yêu cầu bồi thường sau một tai nạn.
Nếu như ở cả hai định nghĩa về trục lợi của Mỹ và Canada đều nhấn mạnh
đến từ “cố ý” cho thấy việc trục lợi là hành vi đã được sắp đặt và có mưu đồ
trong khi định nghĩa của CEA lại coi đó là “thiếu sót”, rõ ràng đã có những
cách nhìn khác nhau về trục lợi bảo hiểm giữa các nước thuộc khu vực Bắc Mỹ
và một số nước ở khu vực Tây Âu. Song về bản chất thì đó đều nhằm những
mục đích đạt được lợi ích tài chính cho mình hoặc gây thiệt hại cho một bên
khác.
Về phần mình, Ủy ban về Luật thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc
UNCITRAL (United Nations Commission on International Trade Law) đưa ra
cách hiểu rộng hơn về trục lợi bảo hiểm và coi đó là một dạng thức của gian
lận thương mại. Có 5 đặc trưng để xác định gian lận thương mại như sau:
i) Có sự lừa gạt, dối trá hay cung cấp thông tin không chính xác, không
đầy đủ hay chỉ dẫn sai thông tin;
ii) Dùng thủ đoạn lừa gạt hay cung cấp thông tin hay cung cấp thông tin
không đầy đủ nhằm gian lận những thứ có giá trị nhàm hợp pháp hóa việc
3 CEA definition”Act or omission, related to the conclusion of an insurance contract or to a claim meant to gain unjustified enrichment for the fraudster or another party, or meant to cause a loss to another party.”
chiếm đoạt;
20
iii) Gian lận nghiêm trọng về quy mô và hình thức kinh tế;
iv) Gian lận sử dụng hoặc lạm dụng và dàn xếp hoặc xuyên tạc, bóp méo
hệ thống thương mại và các công cụ pháp lý, tạo ra ảnh hưởng mang tính quốc
tế; và
v) Gây ra hậu quả mất mát về giá trị.
Tại Việt Nam, theo Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 118/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 10 năm 2003 về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì trục lợi bảo
hiểm là “hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi
tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu
nại bảo hiểm” (Điều 4, Mục V). Như vậy, trục lợi bảo hiểm là hành vi của tổ
chức, cá nhân được thực hiện một cách cố ý nhằm thu lợi bất chính trong quá
trình tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm. Có thể nói trục lợi bảo hiểm
là bất kỳ hành động không trung thực nào nhằm đạt được một lợi ích tài chính
từ các bên khác có liên quan. Trục lợi bảo hiểm diễn ra ở hầu hết các nghiệp vụ
bảo hiểm và diễn ra ở nhiều nước dưới nhiều dạng khác nhau. Loại hình gian
lận này được biết đến như là một vấn đề nhức nhối đối với ngành bảo hiểm trên
khắp thế giới.
1.2.1.2. Khái niệm phòng, chống trục lợi bảo hiểm
Phòng, chống trục lợi bảo hiểm có thể được hiểu trên hai giác độ pháp
luật và quản trị.
Trên giác độ pháp luật, phòng, chống trục lợi bảo hiểm là tổng thể các
quy định của pháp luật mà một quốc gia ban hành nhằm phòng ngừa và hoặc
trừng phạt các hành vi trục lợi bảo hiểm. Ở Việt Nam, các quy định của pháp
luật về phòng, chống trục lợi bảo hiểm nằm trong rất nhiều văn bản pháp luật
khác nhau, như Luật kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự…
Nội dung của các quy định này sẽ được luận văn phân tích trong Chương 2.
21
Trên giác độ quản trị, phòng, chống trục lợi bảo hiểm có thể được hiểu là
tổng thể các biện pháp mà các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm sử dụng để
ngăn ngừa và bảo vệ mình trước hành vi trục lợi bảo hiểm của người mua bảo
hiểm. Nội dung này sẽ không được luận văn nghiên cứu.
1.2.2. Nguyên nhân trục lợi bảo hiểm
Về lý thuyết nguyên nhân trục lợi thương mại nói chung và nguyên nhân
trục lợi bảo hiểm nói riêng đã được Donald R. Cressey xây dựng thành học
thuyết từ những năm 1950. Donald R. Cressey giải thích nguyên nhân trục lợi
thương mại theo Mô hình Tam giác Trục lợi (Fraud Triangle) như Hình 1.1.
Theo quan điểm của Donald R. Cressey có thể giải thích 3 nguyên nhân
chính dẫn đến trục lợi bảo hiểm là:
i) Động Cơ/Động lực: người ta trục lợi bảo hiểm vì nhiều nguyên nhân
khác nhau. Ví dụ, do có thể gặp khó khăn về tài chính hay chịu sức ép phải đạt
được các.mục tiêu kinh doanh không thực tế.
ii) Cơ hội: các đối tượng trục lợi cần phải có cơ hội để trục lợi. Những đối
tượng này thường tiến hành trục lợi, khi họ cho rằng ít khi bị điều tra hành vi
trục lợi. Do đó doanh nghiệp bảo hiểm nên lập ra các họp đồng bảo hiểm chặt
chẽ cũng như phòng ngừa tình trạng trục lợi có thể xảy ra cũng như nếu đã xảy
ra phải tiến hành điều tra.
iii) Sự diễn giải đó là tâm lý phát xét đối với hành vi trục lợi. Ví dụ, người
ta có thể tiến hành trục lợi vì: Không thỏa mãn sự phục vụ của doanh nghiệp
bảo hiểm; Tâm lý “mọi người đều làm như vậy”; Bắt chước hành vi của người
khác; Cho rằng mình có quyền được bù đắp vì đã trả phí bảo hiểm; Do tâm lý
công chúng thường không ngăn cản trục lợi bảo hiểm do nhiều người cho rằng
trục lợi bảo hiểm chỉ là một dạng vi phạm vô tội (victimless crime).
22
Hình 1.1. Tam giác Trục lợi của Donald R. Cressey
Nguồn: International Association of Insurance Supervisors, 2006, tr. 7.
Dưới góc độ tâm lý, Dexter Morse và Lynne Skajaa cho rằng nguyên
nhân sâu xa nhân của trục lợi bảo hiểm chính là khó khăn về tài chính của
người trục lợi. Một người khi gặp những vấn đề về tài chính thì cách nhanh
nhất để kiếm tiền chính là trục lợi bảo hiểm. Khi có khó khăn về tài chính thì
người được bảo hiểm có thể sẽ có những hành động gây thiệt hại cho đối tượng
bảo hiểm để nhận tiền bồi thường của công ty bảo hiểm (Dexter Morse and
Lynne Skajaa, 2004, tr. 16). Ngoài nguyên nhân khó khăn về tài chính thì trục
lợi bảo hiểm còn xảy ra vì nguyên nhân quản lý, năng lực của nhân viên và chế
tài của pháp luật. Cụ thể:
- Cơ chế quản lý nhân viên bảo hiểm, đại lý, môi giới bảo hiểm của các
công ty bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển chưa tốt. Nhân viên
bảo hiểm vì lợi ích cá nhân có thể thông đồng với khách hàng nhằm trục lợi
bảo hiểm. Họ có thể tư vấn hoặc vạch đường đi nước bước cho khách hàng lợi
dụng kẽ hở về giấy tờ, thủ tục giám định, bồi thường để trục lợi bảo hiểm.
Cũng chính vì cơ chế quản lý, các biện pháp kiểm tra giám sát của doanh
23
nghiệp bảo hiểm còn lỏng lẻo chưa có đủ sức răn đe đối với các hành vi trục lợi
của nhân viên.
- Trao đổi thông tin về khách hàng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm chưa
được chú trọng. Do đặc điểm thị trường bảo hiểm phức tạp, môi trường cạnh
tranh gay gắt khiến các doanh nghiệp bảo hiểm luôn giữ bí mật các thông tin.
Việc trao đổi những thông tin cần thiết về khách hàng giữa các doanh nghiệp
bảo hiểm hầu như không có dẫn đến tình trạng khách hàng có thể mua bảo
hiểm ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm mà không bị phát hiện.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên bảo hiểm còn yếu kém.
Do trình độ nghiệp vụ còn thấp dẫn đến việc không có sự tìm hiểu thích đáng
các vấn đề trên trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm nên thường bị trục lợi.
- Công tác quản lý rủi ro và giám định tổn thất còn hạn chế. Công tác
quản lý rủi ro là một công tác quan trọng trong việc phòng chống trục lợi bảo
hiểm. Việc không chú trọng đến công tác quản lý rủi ro dẫn đến việc không
đánh giá đúng mức độ rủi ro đối với đối tượng được bảo hiểm và các điều kiện
liên quan đến bảo hiểm nên rất dễ tạo lỗ hổng để các hành vi trục lợi xảy ra.
Giám định tổn thất còn hạn chế là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến
việc trục lợi bảo hiểm. Đây là khâu quan trọng trong việc giải quyết khiếu nại
đòi bồi thường nên việc nhân viên giám định không có trình độ nghiệp vụ cao
hoặc cấu kết với bên được bảo hiểm như khai báo sai tình trạng của đối tượng
được bảo hiểm, ngày xảy ra tổn thất… sẽ làm tổn thất về tài chính và uy tín của
các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Chế tài chưa đủ sức răn đe và thiếu sự hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan
chức năng với các bên liên quan. Mặc dù trong những năm qua, các cơ quan
chức năng đã không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kinh doanh bảo
hiểm, song nhìn chung các quy định về phòng chống trục lợi bảo hiểm còn bất
24
cập và chưa theo kịp với thực tế, đặc biệt những chế tài còn chưa đủ sức răn đe
đối với những kẻ có ý định trục lợi bảo hiểm. Mặt khác các doanh nghiệp bảo
hiểm cũng chịu những hạn chế về mặt pháp luật khi mà giải quyết các khiếu
nại yêu cầu bồi thường tiền bảo hiểm. Do đó, trong nhiều trường hợp các doanh
nghiệp đã không có đủ quỹ thời gian cần thiết để điều tra đầy đủ về những vụ
có dấu hiệu trục lợi hoặc nghi ngờ trục lợi trước khi quyết định việc trả tiền bảo
hiểm. Có một thực tế đáng lo ngại là cho đến nay, mặc dù đã có không ít vụ trục
lợi bảo hiểm đã được phát hiện, song các hình thức xử phạt còn tương đối nhẹ,
không đủ sức răn đe. Điều này đã khuyến khích những kẻ làm ăn bất chính tìm
cách thử vận may bằng cách gian dối, lừa đảo doanh nghiệp bảo hiểm để nhận tiền
bảo hiểm mà không sợ bị trừng phạt. Nếu bị phát hiện, thì điều duy nhất mà họ
mất đi là không được trả tiền bảo hiểm, trong khi nếu được thì họ sẽ thu được
những khoản tiền rất lớn.
1.2.3. Hậu quả trục lợi bảo hiểm
Mức độ thiệt hại do trục lợi bảo hiểm gây ra tại một số nước trên thế giới
được Swiss Re, Số 4/2007 thống kê như sau: Nam Phi có 8-35% số vụ khiếu
nại bảo hiểm được các doanh nghiệp bảo hiểm chi trả có dấu hiệu trục lợi gây
thiệt hại khoảng 2-3 tỷ Rand (khoảng 300-420 triệu USD); Đức có 10-30% số
phí bảo hiểm thu được bị thất thoát do trục lợi trong khâu bồi thường; Thụy Sỹ
có 10% quyền lợi được bảo hiểm đã được chi trả cho các yêu cầu bồi thường
gian lận; New Zealand có trên 15% khiếu nại bồi thường có yếu tố trục lợi; Tại
Mỹ, chỉ tính riêng các vụ đã phát hiện, mỗi năm số tiền trục lợi bảo hiểm có thể
lên đến 96 tỉ USD.
Tại Việt Nam, chỉ tính tổng số vụ trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ trong
giai đoạn 2007-2012 đã là 5.079 vụ, với tổng số tiền trục lợi là 215,3 tỷ đồng.
25
Trung bình tổn thất, sự kiện bảo hiểm về trục lợi bảo hiểm là 35,9 tỷ đồng/năm
(Gia An, 2016).
Theo thống kê của Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm Việt Nam, năm
2008, giá trị bồi thường trên toàn thị trường bảo hiểm là gần 500 tỷ đồng, trong
đó giá trị trục lợi bảo hiểm chiếm hơn 10%. Từ năm 2007 đến năm 2011: Tổng
số vụ trục lợi bảo hiểm phát hiện và xử lý trong toàn hệ thống Bảo Việt trước
khi ký hợp đồng là 642 vụ, sau khi ký hợp đồng là 1.696 vụ, với số tiền bị trục
lợi lên đến hàng tỷ đồng. Trong đó, nghiệp vụ bảo hiểm y tế và tai nạn con
người có tình trạng trục lợi bảo hiểm nhiều nhất, chiếm khoảng 67% tổng số
vụ, kế tiếp là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới chiếm khoảng 31%, ngoài ra các
nghiệp vụ bảo hiểm khác cũng như nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và nghiệp vụ
bảo hiểm tàu chiếm 2%. Hình thức được các đối tượng trục lợi sử dụng nhiều
nhất là tạo hiện trường giả chiếm khoảng 50%, tiếp theo là hình thức giả mạo
giấy tờ chiếm khoảng 39%, các hình thức hủy hoại đối tượng bảo hiểm và lợi
dụng chức vụ có nhưng không nhiều (Vũ Điển, 2012)
Trục lợi bảo hiểm không chỉ gây ra thiệt hại về tài chính mà còn nhiều
hậu quả khác cho các bên liên quan.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, hậu quả có thể tính toán được do hành vi
trục lợi bảo hiểm là làm giảm lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh bị hạn chế. Thậm
chí còn gây tác động xấu đến uy tín, hỉnh ảnh của doanh nghiệp bảo hiểm.
Đối với khách hàng là những người trung thực sẽ bị thiệt thòi về quyền
lợi. Bởi vì, phí bảo hiểm mà họ đã nộp lại phải dùng để chi trả cho cả những
khoản tiền gian lận không được phát hiện ra. Do vậy, những doanh nghiệp bảo
hiểm nào có nhiều vụ gian lận sẽ có mức phí bảo hiểm cao hơn những doanh
nghiệp bảo hiểm kiên quyết chống và loại trừtrục lợi bảo hiểm.
26
Đối với xã hội, gian lận bảo hiểm là một mối nguy về đạo đức, làm tha
hóa, biến chất đội ngũ quản lý nhà nước, làm cho môi trường kinh doanh thiếu
lành mạnh và thiếu công bằng. Từ đó còn dẫn đến tình trạng coi thường luật
pháp gây rối trật tự an ninh xã hội.
1.3. Các loại trục lợi bảo hiểm tài sản
Do tài sản có rất nhiều loại khác nhau, như vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản nên các hành vi trục lợi cũng có thể khác nhau do tính chất của
từng loại tài sản.
Trục lợi bảo hiểm tài sản có thể có rất nhiều dạng thức khác nhau tùy theo
căn cứ để xác định.
1.3.1. Căn cứ vào giai đoạn bảo hiểm
Căn cứ vào giai đoạn bảo hiểm có thể chia trục lợi bảo hiểm thành hai loại
lài trục lợi bảo hiểm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm và trục lợi bảo hiểm trong
giai đoạn thực hiện hợp đồng và khiếu nại đòi bồi thường, trong đó phổ biến
nhất là trục lợi khiếu nại.
Trục lợi trong giai đoạn giao kết hợp đồng bảo hiểm là hình thức trục lợi
khi cả chủ hàng tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm gian lận khi thỏa
thuận cam kết nội dung tham gia bảo hiểm và cam kết bảo hiểm. Phổ biển nhất
là người tham gia bảo hiểm tài sản che giấu thông tin thực sự về tài sản tham
gia bảo hiểm, giá trị tài sản tham gia bảo hiểm, các rủi ro nhiều khả năng gây ra
tổn thất cho tài sản tham gia bảo hiểm. Mục đích của người tham gia bảo hiểm
tài sản là trục lợi phí bảo hiểm thấp, hay không bị doanh nghiệp bảo hiểm quy
định ràng buộc chặt chẽ hơn trong hợp đồng bảo hiểm. Nghiêm trọng hơn,
nhiều chủ tài sản còn đi mua bảo hiểm khi thực tế tài sản đã bị tổn thất. Nếu
doanh nghiệp bảo hiểm không kiểm soát tốt thông tin, số tiền phải bồi thường
có thể rất lớn. Còn về phía doanh nghiệp bảo hiểm có thể trục lợi dựa trên sự
27
thiếu hiểu biết của khách hàng như cam kết, thỏa thuận những điều vượt quá
khả năng có thể thực hiện, che giấu những thông tin thực sự về năng lực bảo
hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm, cam kết quá mức về chất lượng dịch vụ, khả
năng tài chính, hay đưa vào hợp đồng những điều khoản không rõ ràng liên
quan đến giám định, bồi thường, thanh toán tiền bảo hiểm, các rủi ro nhận bảo
hiểm, các rủi ro loại trừ, giải quyết khiếu nại và tranh chấp với chủ hàng tham
gia bảo hiểm....
Trục lợi trong giai đoạn thực hiện hợp đồng bảo hiểm và khiếu nại đòi bồi
thường là dạng trục lợi xảy ra khá phổ biến trong bảo hiểm tài sản. Trong giai
đoạn này người tham gia bảo hiểm chủ yếu trục lợi theo 3 dạng chính:
i) Cố tình làm tổn thất tài sản tham gia bảo hiểm
Thủ đoạn trục lợi này rất đa dạng và rất tinh vi, nếu doanh nghiệp bảo
hiểm không có nhiều kinh nghiệm thì hoàn toàn có thể bị gian lận dễ dàng. Thủ
đoạn này có thể thực hiện được bằng cách người mua bảo hiểm tài sản tự mình
hoặc nhờ người khác làm tiêu hao tài sản hoặc phá hủy tài sản.
ii) Khai báo gian lận về bản chất của tổn thất
Người tham gia bảo hiểm có thể đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm bồi
thường cho tổn thất mà trong thực tế hoàn toàn không hề xảy ra hoặc xảy ra
nhưng ở mức độ rất thấp. Người tham gia bảo hiểm có thể thổi phồng mức tổn
thất bằng cách khiếu nại phóng đại giá trị bảo hiểm của tài sản bị tổn thất hay
khiếu nại phóng đại số lượng tài sản thực tế bị tổn thất. Người tham gia bảo
hiểm tài sản cũng có thể khiếu nại đòi bồi thường tổn thất tài sản mà thực tế
hoàn toàn không được doanh nghiệp bảo hiểm bảo hiểm.
28
iii) Khai báo gian lận về nguyên nhân tổn thất
Người tham gia bảo hiểm tài sản cũng có thể kê khai không đúng sự thật
nguyên nhân của tổn thất cũng như mức độ tổn thất thực sự của tài sản tham
gia bảo hiểm. Còn về phía doanh nghiệp bảo hiểm thường tìm mọi cách lợi
dụng những nội dung chưa quy định không rõ ràng của họp đồng bảo hiểm
như: điều kiện bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm, rủi ro loại trừ, bồi thường số
tiền bảo hiểm, mức miễn thường... để tìm cách từ chối số tiền được bồi thường
chính đáng của chủ hàng tham gia bảo hiểm, khấu trừ bất họp lý số tiền đáng ra
chủ hàng đáng nhẽ phải được bồi thường, hay đơn giản là cố tình kéo dài quá
trình bồi thường cho chủ hàng.
1.3.2. Căn cứ vào đối tượng tiến hành trục lợi bảo hiểm
Trên cơ sở quan điểm của Hiệp hội các cơ quan quản lý giám sát bảo
hiếm IAIS (International Association of Insurance Supervisors), trục lợi bảo
hiểm nói chung và trục lợi bảo hiểm tài sản nói riêng được chia thành 3 loại: (i)
nội bộ trục lợi (internal fraud), người giao kết họp đồng bảo hiểm trục lợi và
khiếu nại trục lợi (policyholder fraud and claims fraud); (iii) trung gian trục lợi
(intermediary fraud).
i) Nội bộ trục lợi
Đây là dạng trục lợi quản trị rủi ro khai thác bảo hiểm, nguyên nhân chủ
yéu là do đạo đức của nhân viên bảo hiểm gây ra tổn thất về tài chính cho
doanh nghiệp bảo hiểm. Đây là dạng trục lợi bảo hiểm tài sản gây ảnh hưởng
đến uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm.Theo IAIS, các nhân tố có thể ảnh
hưởng đến nội bộ trục lợi bảo hiểm tài sản là sự phức tạp của cơ cấu tổ chức.
Trục lợi bảo hiểm nội bộ tài sản thường xảy ra đối với doanh nghiệp bảo hiểm
khi cấu trúc tổ chức quá phức tạp, việc phân chia và xác định trách nhiệm
không rõ ràng trong doanh nghiệp bảo hiểm; Sự phát triển khó kiểm soát của
29
đổi mới; Sự phát triển của các phương thức thương mại hiện đại, sự phát triển
của sản phẩm và công nghệ thông tin sẽ tạo ra các nguy cơ trục lợi bảo hiểm tài
sản; Bất cập cùa chính sách khen thưởng và thăng tiến của doanh nghiệp bảo
hiểm. Khả năng trục lợi bảo hiểm tài sản có thể xảy ra cao hơn nếu chế độ đãi
ngộ và đề bạt của doanh nghiệp bảo hiểm phụ thuộc vào các mục tiêu kinh
doanh xác định nào đó; Biến động của môi trường kinh doanh và tình hình kinh
doanh của chính doanh nghiệp bảo hiểm. Khi doanh nghiệp bảo hiểm trải qua
những giai đoạn như mua bán và sáp nhập có thể tạo ra các nguy cơ trục lợi
bảo hiểm tài sản. Hay nói cách khác, trục lợi bảo hiểm tài sản thường xảy ra
khi hệ thống kiểm soát và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
không hoạt động hiệu quả.
Có thể nói rằng, trục lợi bảo hiểm tài sản có thể xảy ra ở mọi cấp độ, thậm
chí cả ở cấp bậc cao nhất như ban giám đốc hay hội đồng quản trị. Cấp bậc
quản lý tham gia trục lợi càng cao thì sự thiệt hại về tài chính và uy tín đối với
doanh nghiệp bảo hiểm càng lớn.
ii) Người giao kết hợp đồng trục lợi và trục lợi khiếu nại
Hình thức trục lợi bảo hiểm tài sản này là loại hình trục lợi mà người
tham gia bảo hiểm có thể trục lợi bắt đầu từ khi bắt đầu giao kết hoặc trong quá
trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm tài sản cũng như khiếu nại vả bồi thường
tổn thất tài sản.
Người tham gia bảo hiểm tài sản có thể không cung cấp thông tin, hay
cung cấp không đầy đủ thông tin. Đây là một dạng rủi ro rất lớn đối với doanh
nghiệp bảo hiểm khi bảo hiềm tài sản cho các khách hàng, vì nếu biết đầy đủ
thông tin cũng như được biết chính xác hơn về đối tượng bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm có thể đã không nhận bảo hiểm cũng như chỉ có thể nhận bảo
hiểm với những điều kiện hoàn toàn khác.
30
Còn trục lợi khiếu nại bảo hiểm tài sản có thể xảy ra theo các trường hợp
sau: Báo cáo hay khiếu lại về tổn thất, thiệt hại thực tế không xảy ra đối với tài
sản; Thổi phồng quá mức tổn thất, thiệt hại của tài sản được doanh nghiệp bảo
hiểm nhận bảo hiểm; Đưa ra bằng chứng giả mạo về rủi ro được bảo hiểm đối
với tài sản; Mạo nhận về tổn thất tài sản; Dàn dựng các tai nạn gây ra tổn thất
thất, thiệt hại được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Khiếu nại trục lợi bảo hiểm tài sản cũng có thể xảy ra với sự kết hợp của
các dạng trục lợi nói trên.
iii) Trung gian trục lợi
Về nguyên tắc, trung gian bảo hiểm được cả doanh nghiệp bảo hiểm và
người tham gia bảo hiểm tài sản. Sự tin cậy này là cơ sở của các giao dịch bảo
hiểm tài sản, do đó hành vi trục lợi bảo hiểm hoàn toàn có thể xảy ra nếu sự tin
cậy này bị lạm dụng. Một số dạng trung gian trục lợi điển hình là: Giữ lại phí
bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm tài sản cho đến khi phát sinh khiếu nại;
Giao kết hợp đồng bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm hàng tài sản không
có thật, vẫn trả phí bảo hiểm đầu tiên cho doanh nghiệp bảo hiểm và nhận hoa
hồng phí rồi hủy bỏ giao kết bảo hiểm khi tiếp tục trả phí bảo hiểm lần sau;
Cấu kết với ngưởi tham gia bảo hiểm tài sản ngụy tạo ra các khiếu nại đòi bồi
thường hay các dạng trục lợi bảo hiếm khác.
1.3.3. Căn cứ vào các thủ đoạn gian lận bảo hiểm tài sản
Liên quan tới các thủ đoạn gian lận bảo hiểm tài sản thì có thể xảy ra các
hình thức trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển sau:
i) Không trung thực về tài sản được bảo hiểm bị tổn thất
Đây là trường hợp rất phổ biến trong trục lợi bảo hiểm tài sản. Khi xảy ra
tổn thất, chủ hàng tham gia bảo hiểm đã dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để
31
cung cấp các bằng chứng xác nhận giả mạo và các thông tin không trung thực
về nguyên nhân và mức độ tổn thất thực tế của đổi tượng bảo hiểm. Nếu doanh
nghiệp bảo hiểm không phát hiện ra hay không chứng minh được hành vi trục
lợi này sẽ phải bồi thường cho các chủ hàng trục lợi này.
Người tham gia bảo hiểm tài sản cũng có thể dựng lên hiện trường tổn
thất ngụy tạo, giả mạo nguyên nhân tổn thất cũng như mức độ của tổn thất của
tài sản để được nhận bồi thường nhiều hơn mức đúng ra đối tượng này được
nhận bồi thường cũng như còn có thể không được người bảo hiểm bồi thường.
ii) Thông tin không trung thực khi giao kết hợp đồng bảo hiểm
Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản, chủ hàng tham gia bảo hiểm
không cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm đầy đủ thông tin về rủi ro có thể
xẩy ra với tài sản cũng như giá trị thực sự của tài sản tham gia bảo hiểm.
Trong giai đoạn này, một thủ đoạn trục lợi rất phổ biến là tài sản trong
thực tế đã tổn thất, nhưng chủ tài sản vẫn đi mua bảo hiểm mà không cung cấp
thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm biết. Và ngay sau đó doanh nghiệp bảo
hiểm nhận được hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường với số tiền có thể là rất lớn cho
một tổn thất thực tế đã xảy ra trước khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Trong giai đoạn giao kết hợp đồng và xác định phí bảo hiểm tài sản, do
không được chủ hàng tham gia bảo hiểm cung cấp đầy đủ thậm chí cung cấp
sai lệch thông tin về rủi ro có thể gặp phải với tài sản hay giá trị thực của tài
sản doanh nghiệp bảo hiểm có thể không đánh giá đúng mức độ rủi ro tổn thất
của tài sản để xác định điều kiện bảo hiểm, rủi ro chấp nhận bảo hiểm cho chủ
tài sản cũng nhự không xác định đúng phí bảo hiểm mà chủ tài sản phải mua.
iii) Tham gia bảo hiểm trùng
32
Chủ tài sản có thể tham gia bảo hiểm cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp
bảo hiểm khác nhau. Khi xảy ra tổn thất, chủ tài sản có thể trục lợi số tiền bồi
thường nhiều lần tổn thất thực tế. Dạng trục lợi này thường xảy ra khi thông tin
trao đổi giữa các doanh nghiệp bảo hiểm hạn chế, hay công tác giám định tổn
thất yếu kém tại các nước chậm phát triển.
1.3.4. Căn cứ vào hình thức trục lợi
Ngoài ra trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm tài sản, trục lợi bảo hiểm
còn được chia thành trục lợi Cứng (Hardinsurance fraud) và trục lợi Mem (Soft
insurance fraud):
i) Trục lợi cứng
Đây là hình thức trục lợi bảo hiểm, mà chủ tài sản trục lợi lập ra những
khiếu nại giả mạo, lập ra hiện trường giả về tổn thất hàng hóa hay cấu kết với
các bên liên quan như giám định tổn thất, nhân viên bảo hiểm, kiểm đếm, nhân
chứng...để có những xác nhận về nguyên nhân và mức độ tổn thất không đúng
sự thật về tài sản nhằm được hưởng tiền bồi thường bất chính.
ii) Trục lợi mềm
Đây là hình thức trục lợi mà chủ tài sản trục lợi kê khai khống giá trị tổn
thất của tài sản tham gia bảo hiểm để có thể trục lợi tài chính lớn hơn những gì
chủ tài sản đó đúng ra được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường; đưa ra thông
tin không chính xác về tài sản tham gia bảo hiểm để chỉ phải trả phí bảo hiểm
thấp hơn mức phải trả cho doanh nghiệp bảo hiểm; hay cung cấp thông tin
không đúng, không đầy đủ về tài sản tham gia bảo hiểm để có thể được doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho tài sản đó.
33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM TẠI VIỆT
NAM VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM
TÀI SẢN
2.1. Thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản tại Việt Nam
Bảo hiểm có thể được chia làm hai loại chính là bảo hiểm nhân thọ và bảo
hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm tài sản là một loại bảo hiểm nhằm trong nhóm
bảo hiểm phi nhân thọ, nên trong phần này Luận văn sẽ chỉ trình bày thực trạng
về trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam trong thời gian qua.
2.1.1. Tình hình trục lợi bảo hiểm những năm gần đây
Theo số liệu của Cục quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), giai đoạn
từ 2007-2013, thống kê 15/29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có 5.079 vụ
trục lợi bảo hiểm với số tiền là 215,3 tỉ đồng (35,6 tỉ đồng/năm), số vụ tăng từ
723 vụ/năm 2007 lên 1.070 vụ/năm 2012 (Cổng thông tin Bảo hiểm Việt Nam,
2018).
Theo thống kê của Hiệp hội BH Việt Nam, từ năm 2007 đến năm 2014,
tổng số vụ có dấu hiệu trục lợi bảo hiểm được các doanh nghiệp phát hiện và từ
chối bồi thường lên tới 64 nghìn vụ, với tổng giá trị khoảng 850 tỷ đồng, tăng
trung bình hơn 30%/năm. Tình trạng trục lợi xảy ra ở hầu hết các công đoạn
trong chu trình bảo hiểm, từ khai thác, giao kết hợp đồng, giám định, khiếu nại
bồi thường và giải quyết bồi thường. Việc phát hiện những hành vi làm giả
chứng cứ để trục lợi bảo hiểm là điều rất khó khăn, vì nhiều vụ việc có sự tiếp
tay của chính quyền địa phương. Một báo cáo của Cục Quản lý, giám sát bảo
hiểm, Bộ Tài chính năm 2015 cho thấy, hành vi trục lợi bảo hiểm hiện nay
không còn rời rạc, riêng lẻ mà ngày càng tinh vi, phức tạp. Có nhiều trường
hợp có sự cấu kết, thông đồng giữa khách hàng, nhân viên của doanh nghiệp
bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, bên thứ ba có liên quan như nhân viên giám định,
34
bác sỹ, cơ sở khám chữa bệnh, các cơ sở sửa chữa xe,... (Cục quản lý, giám sát
bảo hiểm, 2015).
Trong số các doanh nghiệp bảo hiểm báo cáo có xảy ra trục lợi bảo hiểm,
Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm xảy ra nhiều vụ
trục lợi nhất, trong giai đoạn 2007-2011 tổng số vụ trục lợi bảo hiểm xảy ra tại
Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt là 3.440 vụ với tổng số tiền trục lợi bảo hiểm
là 18,688 tỷ đồng. Đứng vị trí thứ hai là Tổng công ty Bảo hiểm PVI với 227
vụ trục lợi với tổng số tiền là 4,917 tỷ đồng. Công ty cổ phần Bảo hiểm PJICO
là doanh nghiệp bảo hiểm có số vụ trục lợi bảo hiểm đứng thứ ba (184 vụ) tuy
nhiên số tiền trục lợi bảo hiểm lại rất lớn 103,78 tỷ đồng. Công ty có số vụ trục
lợi ít trong tổng số các doanh nghiệp báo cáo là Công ty TNHH bảo hiểm phi
nhân thọ Cathay và Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông đều chỉ có duy nhất
1 vụ với số tiền trục lợi tương ứng là 37 triệu và 122 triệu.
Như vậy, xét tổng hợp cả 2 khía cạnh doanh nghiệp và nghiệp vụ, có thể
thấy rằng, trục lợi bảo hiểm xảy ra chủ yếu ở các doanh nghiệp bảo hiểm nhà
nước hoặc cổ phần.
2.2.2. Hình thức trục lợi bảo hiểm
Ở Việt Nam trục lợi về phí bảo hiểm chiếm tỷ lệ rất ít mà chủ yếu là hành
vi trục lợi về bồi thường. Cơ bản, có thể phân tích các hành vi trục lợi bảo hiểm
theo các nhóm sau:
2.2.2.1 Tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra
Hành vi trục lợi bảo hiểm này xảy ra ở tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm
trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Hành vi trục lợi bảo hiểm này chủ yếu
xảy ra ở nghiệp vụ bảo hiểm tài sản.
35
Một trong những nguyên tắc của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là doanh
nghiệp bảo hiểm chỉ có thể bảo hiểm cho những rủi ro khách quan và mang
tính ngẫu nhiên xảy ra đối với đối tượng được bảo hiểm. Theo Luật kinh doanh
bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm vô hiệu nếu “Tại thời điểm giao kết hợp đồng
bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy ra” (điểm c, khoản
1, Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Tuy nhiên, trên thực tế không phải tất
cả người tham gia bảo hiểm đều tuân thủ nguyên tắc bảo hiểm, có rất nhiều
trường hợp, sự kiện bảo hiểm đã xảy ra, bên mua bảo hiểm mới tham gia bảo
hiểm, nhưng che giấu để doanh nghiệp bảo hiểm không biết được thực tế này.
Hành vi này thể hiện dưới các hình thức bên mua bảo hiểm thông đồng với
nhân viên khai thác hoặc đại lý bảo hiểm tham gia bảo hiểm khi tài sản đã tổn
thất. Dấu hiệu cảnh báo dễ nhận biết của trục lợi bảo hiểm dưới hình thức tham
gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra là: yêu cầu bồi thường được đưa
ra ngay sau khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực; người được bảo hiểm hỏi trước
đại lý các câu hỏi giả định về phạm vi bảo hiểm cho trường hợp tổn thất tương
tự như yêu cầu bồi thường thực sự sau đó...
2.2.2.2. Cung cấp thông tin không chính xác về đối tượng được bảo hiểm
khi giao kết hợp đồng bảo hiểm
Luật kinh doanh bảo hiểm yêu cầu bên mua bảo hiểm “Kê khai đầy đủ,
trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của
doanh nghiệp bảo hiểm” (điểm b, khoản 2, Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm).
Tuy nhiên, trong thực tế, trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và
bảo hiểm tài sản nói riêng vẫn xảy ra hiện tượng trục lợi bảo hiểm dưới hình
thức cung cấp thông tin không chính xác về đối tượng được bảo hiểm khi giao
kết hợp đồng bảo hiểm. Biểu hiện của hành vi này là người mua bảo hiểm cố ý
khai tăng giá trị của tài sản được bảo hiểm. Trong bảo hiểm tài sản chỉ có bên
mua bảo hiểm (chủ sở hữu tài sản) là biết rõ nhất những yếu tố liên quan đến
36
tài sản. Vì vậy, đối với những tài sản mà để định giá được yêu cầu trình độ kỹ
thuật cao, chi phí định giá lớn thì thông thường doanh nghiệp bảo hiểm căn cứ
vào giá trị của tài sản mà bên mua bảo hiểm khai báo để cấp bảo hiểm. Trong
trường hợp này, khi có tổn thất xảy ra doanh nghiệp bảo hiểm sẽ căn cứ vào số
tiền bảo hiểm để bồi thường. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp, bên mua
bảo hiểm đã lợi dụng vấn đề này để khai tăng giá trị của tài sản bảo hiểm nhằm
mục đích trục lợi. Khía cạnh trục lợi của hành vi này thể hiện: bên mua bảo
hiểm cố tình yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm gánh chịu thay mình những tổn
thất lớn hơn tổn thất thực tế xảy ra. Phần giá trị chênh lệch mà bên mua bảo
hiểm được hưởng (giữa số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm chi trả với
tổn thất thực tế) là không có căn cứ hợp pháp hay còn gọi là sự hưởng lợi bất
hợp pháp.
2.2.2.3. Tham gia bảo hiểm trùng
Hành vi trục lợi này xảy ra ở hấu hết các nghiệp vụ trong lĩnh vực bảo
hiểm phi nhân thọ, đặc biệt là bảo hiểm tài sản. Luật Kinh doanh bảo hiểm
không cấm bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh
nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều
kiện và sự kiện bảo hiểm. Tuy nhiên, trong trường hợp các bên giao kết hợp
đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm
chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thoả thuận
trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã
giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt
quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản (Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm).
Trên thực tế, bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm cho một tài sản tại nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng một điều kiện và sự kiện bảo hiểm nhằm
để được hưởng số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị của tài sản là hành vi trục lợi
bảo hiểm. Khía cạnh trục lợi của hình thức này thể hiện, người được bảo hiểm
37
cố tình che giấu doanh nghiệp bảo hiểm việc tài sản đã được mua bảo hiểm tại
doanh nghiệp bảo hiểm khác với cùng điều khoản và sự kiện bảo hiểm trước
khi giao kết hợp đồng với doanh nghiệp bảo hiểm. Hay nói cách khác, bên mua
bảo hiểm đã không trung thực trong việc cung cấp các thông tin có liên quan
đến tài sản bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, để khẳng định đây
là hành vi trục lợi bảo hiểm còn căn cứ vào mục đích của việc không cung cấp
thông tin này từ phía bên mua bảo hiểm là nhằm được hưởng quyền lợi tài
chính khi rủi ro xảy ra lớn hơn giá trị tài sản mà mình đang sở hữu.
Hành vi trục lợi bảo hiểm này hiện nay xảy ra tương đối nhiều, một phần
nguyên nhân là do hệ thống công nghệ thông tin của các doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ còn lạc hậu, chưa kết nối được trong nội bộ doanh nghiệp
với nhau và chưa kết nối được toàn thị trường. Do đó, khả năng phát hiện
khách hàng tham gia bảo hiểm ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau về
cùng một đối tượng bảo hiểm là rất khó.
2.2.2.4. Cố ý gây thiệt hại để được nhận tiền bồi thường bảo hiểm
Bảo hiểm tài sản có một đặc điểm là số lượng đối tượng bảo hiểm lớn,
phân bố trên nhiều địa bàn, trong khi khả năng của doanh nghiệp bảo hiểm là
có hạn nên không có khả năng kiểm soát được hết các hành vi của bên mua bảo
hiểm. Quan hệ bảo hiểm chủ yếu dựa trên nguyên tắc tin tưởng lẫn nhau giữa
doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm. Do vậy, trên thực tế, nhiều
trường hợp bên mua bảo hiểm lợi dụng sự thiếu kiểm soát của doanh nghiệp
bảo hiểm để thực hiện hành vi trục lợi bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm sau khi
mua bảo hiểm cho tài sản của mình sẽ tiến hành tháo rời các bộ phận của tài
sản (như máy móc, thiết bị có giá trị) để thay thế vào đó những bộ phận tài sản
kém giá trị hơn, sau đó sẽ cố ý phá hủy tài sản. Sau khi tài sản được phá hủy,
bên mua bảo hiểm sẽ hoàn tất các thủ tục để được bồi thường bảo hiểm và nhận
38
tiền bồi thường tương ứng với các bộ phận, máy móc, thiết bị có giá trị. Chẳng
hạn, chủ tàu biển sau khi đã mua bảo hiểm cho con tàu đã tháo dỡ hết trang
thiết bị, máy móc trên tàu rồi thay thế bằng các thiết bị khác kém giá trị hơn,
sau đó đánh chìm con tàu để được hưởng số tiền bảo hiểm. Một cách trục lợi
khác cũng được thực hiện bằng cách chủ xe cơ giới tự phá hỏng các bộ phận
của xe, hủy hoại dưới hình thức đốt xe, lao xe xuống vực (chủ yếu là xe cũ) để
được hưởng bảo hiểm.
2.2.2.5. Lập hồ sơ, hiện trường giả, thay đổi tình tiết vụ tai nạn
Hành vi trục lợi này được thực hiện bằng những thủ đoạn như đưa các tài
sản cùng loại đã bị hư hỏng từ nơi khác đến nơi xảy ra tai nạn để chụp ảnh, lập
biên bản, khám nghiệm hiện trường nhằm chứng minh tài sản bảo hiểm bị tổn
thất, trong khi đó thật sự là không có tổn thất xảy ra, hoặc có tổn thất nhưng ít
hơn so với tài sản hư hỏng bị thay thế. Hoặc tạo hiện trường giả giống như dấu
hiệu của việc mất cắp tài sản như kho hàng bị phá khóa, bị cắt niêm phong
hoặc thay đổi biển số xe đã mua bảo hiểm vào xe bị tai nạn nhưng chưa mua
bảo hiểm nhằm nhận được tiền bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm…Hành vi
trục lợi cũng có thể được thực hiện thông qua cấu kết với cơ quan có liên quan
để làm sai ngày xảy ra tai nạn, làm sai lệch hiện trường dẫn đến việc xác định
lỗi, phân lỗi của các bên trong vụ tai nạn. Thông thường làm sai lệch hoặc đảo
ngược về lỗi xảy ra tai nạn giữa các bên. Thay đổi người lái xe có giấy phép lái
xe hợp lệ (tai nạn do lái xe không có bằng lái hoặc bằng lái không có hiệu lực);
sửa chữa hiệu lực bằng lái (do hết hạn hoặc không phù hợp với loại xe được
lái).
Dấu hiệu cảnh báo dễ nhận biết của hình thức trục lợi bảo hiểm này có thể
kể ra như: Yêu cầu bồi thường được đưa ra ngay sau khi tăng hoặc thay đổi
phạm vi bảo hiểm nhờ đó cho phép yêu cầu bồi thường; người được bảo hiểm
39
thúc giục và dứt khoát yêu cầu giải quyết nhanh và thể hiện hiểu biết quá rõ về
phạm vi bảo hiểm và quy trình giải quyết bồi thường, đặc biệt trong trường hợp
yêu cầu bồi thường không được lập đầy đủ; trong trường hợp mất trộm, yêu
cầu bồi thường cho tài sản đồ sộ một cách khác thường so với một vụ mất
trộm; đối với yêu cầu bồi thường hoả hoạn dấu hiệu dễ nhận biết là việc cán bộ
giám định không tìm thấy trong các đồ vật bị tổn thất các đồ vật cá nhân hoặc
đồ vật thể hiện tình cảm đối với người được bảo hiểm như tranh ảnh, đồ gia
truyền, vật nuôi; người được bảo hiểm không thể nhớ hoặc không biết mình đã
mua tài sản yêu cầu được bồi thường ở đâu nhất là đối với những đồ vật đặc
biệt, cũng như không thể mô tả đầy đủ về đồ vật; người được bảo hiểm chuẩn
bị sẵn hoá đơn và các chứng từ khác, người làm chứng, sao chụp lại ảnh của
mọi đồ vật, đơn yêu cầu bồi thường quá hoàn hảo; chi phí của tài sản đòi được
bồi thường tại thời điểm được cho đã mua tài sản đó vượt quá khả năng tài
chính của người được bảo hiểm tại thời điểm đó; người được bảo hiểm từ chối
hoặc không thể trả lời các câu hỏi thông thường; người được bảo hiểm cung
cấp bằng chứng và tài liệu không khớp được với nhau; báo cáo tai nạn do
người yêu cầu bồi thường nộp...
Tranh chấp được phân tích dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn mức độ phức tạp
của trục lợi bảo hiểm.
Ông N.C.L tham gia hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới cho xe
TOYOTA ALTIS biển kiểm soát 37S-2448 tại Công ty Bảo hiểm MIC Nghệ
An (thuộc MIC), có hiệu lực từ ngày 9/6/2011 đến ngày 9/6/2012. Ông N.C.L
thông báo mình gặp tai nạn và yêu cầu bồi thường. Cụ thể, khoảng 0 giờ 30
phút ngày 12/11/2011, ông N.C.L điều khiển ô tô 37S-2448 từ cửa khẩu Cha
Lo, Quảng Bình về Nghệ An gặp khúc cua nên xe bị lao xuống vực, cách mép
đường khoảng 12 – 13 m, phía dưới vực toàn gốc cây và đá làm xe bị hư hỏng
40
nặng. Ước tính chi phí sửa chữa xe khoảng hơn 250 triệu đồng. Ngoài văn bản
thông báo tai nạn và yêu cầu bồi thường nêu trên, ông N.C.L không cung cấp
được bất kỳ bằng chứng nào theo quy định để chứng minh sự kiện bảo hiểm.
Do vậy, MIC phải trưng cầu giám định hiện trường của Công an tỉnh Nghệ An
và tự thu thập tài liệu, chứng cứ để hoàn thành hồ sơ bồi thường cho khách
hàng.
Tuy nhiên, trong quá trình hoàn thiện hồ sơ, MIC phát hiện đã có một vụ
tai nạn trước đó xảy ra với chiếc xe này vào ngày 10/2/2011 do ông N.K.T
(phường Quán Bàu, TP. Vinh) gây ra. Cụ thể, sau khi xảy ra tai nạn, ông T đã
đưa xe vào xưởng sửa chữa của Công ty TOYOTA TP. Vinh và được báo giá
sửa chữa với chi phí ước tính khoảng 270 triệu đồng, nhưng ông T không đồng
ý sửa xe, mà bán lại chiếc xe này nguyên trạng cho ông N.C.L với giá khoảng
300 triệu đồng. Dấu vết hư hỏng của vụ tai nạn ngày 10/2/2011 trùng khớp tới
hơn 90% dấu vết của vụ tai nạn ngày 12/11/2011 do ông N.C.L khai báo.
Đến ngày 17/2/2012, sau khi tiến hành kiểm tra, giám định hiện trường vụ
tai nạn, Phòng Kỹ thuật hình sự (Công an tỉnh Nghệ An) đã ra văn bản kết
luận: “Khu vực hiện trường vụ tai nạn thể hiện không tạo ra những dấu vết trên
xe ô tô 37S-2448 như biên bản khám nghiệm xe mô tả”. Dựa vào kết luận của
Công an tỉnh Nghệ An và các chứng cứ thu thập được trong quá trình xác
minh, MIC đã từ chối bồi thường.
Không đồng ý với phương án giải quyết bồi thường trên, ông N.C.L đã
khởi kiện MIC lên TAND TP. Vinh.
Ngày 17/10/2014, tại phiên xét xử sơ thẩm, TAND TP. Vinh đã tuyên
MIC phải bồi thường số tiền 257.037.000 đồng. Không đồng ý với kết luận của
bản án sơ thẩm, MIC đã kháng cáo theo trình tự phúc thẩm lên TAND tỉnh
Nghệ An.
41
Sau khi kháng cáo bản án sơ thẩm lên TAND tỉnh Nghệ An, MIC đã gửi
đơn tới Cơ quan điều tra đề nghị xác minh hành vi gian dối của ông N.C.L.
Ngày 10/12/2014, Cơ quan điều tra đã chuyển tới TAND tỉnh Nghệ An và Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An văn bản kết luận điều tra: “Không có đủ căn
cứ để xác định có vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 12/11/2011 làm hư hỏng
thiệt hại xe ô tô BKS 37S-2448 như báo cáo của ông N.C.L. Bản thân ông
N.C.L có dấu hiệu gian dối trong việc cung cấp thông tin yêu cầu MIC bồi
thường thiệt hại xe ô tô BKS 37S-2448”.
Ngày 10/4/2015, TAND tỉnh Nghệ An đã đưa vụ án ra xét xử theo trình tự
phúc thẩm. Tại phiên tòa này, Hội đồng xét xử đã tuyên sửa bản án sơ thẩm
theo hướng MIC không phải bồi thường bảo hiểm cho nguyên đơn (Trí Công,
2015).
Trong vụ việc này, sở dĩ MIC chứng minh được bên mua bảo hiểm trục
lợi là nhờ có sự hợp tác rất chặt chẽ của công an tỉnh Nghệ an.
2.2.2.6. Hợp lý hoá ngày tai nạn và hiệu lực bảo hiểm
Hành vi trục lợi thường được thực hiện bằng cách người được bảo hiểm
thông đồng với người cấp bảo hiểm hoặc người có thẩm quyền giải quyết vụ tai
nạn để ghi lại ngày tai nạn hoặc ghi lùi ngày trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
Ghi lại ngày tai nạn được biểu hiện khi bị tai nạn rồi mới mua bảo hiểm, khi đó
trong hồ sơ ngày xảy ra tai nạn sẽ được ghi sau so với ngày thực tế; bị tai nạn
khi đã hết thời hạn được bảo hiểm hoặc giấy phép lái xe, đăng kiểm xe (trong
bảo hiểm xe cơ giới) hết hạn khi đó trong hồ sơ ngày xảy ra tai nạn sẽ được
ghi trước so với ngày bị tai nạn thực tế. Trong cả hai trường hợp trên, người
trục lợi bảo hiểm thường thông đồng hoặc tìm mọi cách mua chuộc nhân viên
cơ quan chức năng để ghi sai ngày xảy ra tai nạn trong các biên bản tai nạn.
Ghi lùi ngày trên giấy chứng nhận bảo hiểm là hành vi người trục lợi bảo hiểm
42
thông đồng với người bán bảo hiểm ghi lùi ngày bán bảo hiểm về trước trên
giấy chứng nhận bảo hiểm.
2.2.2.7. Khai tăng số tiền tổn thất trong vụ tai nạn
Hành vi này được thực hiện bằng cách người được bảo hiểm cấu kết với
các cửa hàng/xưởng sửa chữa. Cách thức phổ biến là khai không đúng về số
lượng và mức độ tổn thất của các bộ phận lớn hơn tổn thất thực tế. Việc khai
báo gian dối này chủ yếu do các chủ xe tự thực hiện trong quá trình tự ý tháo
dỡ, thay thế các chi tiết và các bộ phận máy xe cơ giới khi đưa xe vào xưởng
sửa chữa, đổi các phụ tùng không hỏng và đưa các phụ tùng hư hại vào rồi
thông báo cho cán bộ giám định đến giám định hoặc thông đồng với cả cán bộ
giám định và chủ xưởng để trục lợi…Ngoài ra, người mua bảo hiểm cũng có
thể khai tăng chi phí sửa chữa, khôi phục tài sản; khai tăng số tiền tổn thất hoặc
số tiền phải bồi thường cho người thứ ba, đưa tài sản hoặc hàng hóa hư hỏng
(đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với hàng hoá) không do tai nạn vào
hiện trường tai nạn hoặc biên bản tai nạn…
Các hình thức trục lợi trên có thể thấy, việc phân thành các nhóm hình
thức trục lợi cũng chỉ mang tính tương đối, có những hành vi trục lợi vừa thuộc
nhóm hành vi tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra nhưng cũng là
hành vi được phân loại vào nhóm cung cấp thông tin không chính xác… Để có
thể phát hiện và xử lý các vụ trục lợi bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm và các
cơ quan chức năng phải nhận diện được hành vi trục lợi bảo hiểm để từ đó đưa
ra được các biện pháp phòng chống, phát hiện và xử lý.
2.2.3. Hậu quả của trục lợi bảo hiểm
Không thể phủ nhận trục lợi bảo hiểm đã gây ra những tác động xấu đến
nền kinh tế nói chung và xã hội nói riêng.
43
Theo phiếu điều tra 29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ của Cục
Quản lý, giám sát bảo hiểm, thì có 11 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ báo
cáo có hiện tượng trục lợi bảo hiểm và những tác động của trục lợi bảo hiểm.
Trong đó, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cho rằng trục lợi bảo hiểm
gây thiệt hại, ảnh hưởng về tài chính doanh nghiệp chiếm 27,59%, ảnh hưởng
đến thị trường bảo hiểm chiếm 24,14%, ảnh hưởng đến các hợp đồng bảo hiểm
đang có hiệu lực và hợp đồng bảo hiểm sẽ ký kết chiếm 13,79%, có ảnh hưởng
đến uy tín của doanh nghiệp chiếm 6,9% (Bộ Tài chính, 2015).
Có thể thấy rằng, các vụ trục lợi khi bị phát hiện thì người trục lợi cũng
chưa bị xử lý về mặt pháp luật mà chủ yếu là hoàn trả lại doanh nghiệp số tiền
đã bồi thường hoặc rút hồ sơ, hoàn trả phí,…Cùng với sự phát triển của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, trục lợi bảo hiểm đang có sự gia tăng cả về số
lượng, tính chất, mức độ, có tính tổ chức và đang trở thành một trong những
mối nguy cơ gây ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh, an toàn và hiệu quả
của thị trường bảo hiểm Việt Nam, do vậy nguy cơ trục lợi bảo hiểm cần phải
được kiểm soát và ngăn chặn kịp thời.
2.2. Pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản
Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như
các đạo luật khác có liên quan như Bộ luật hình sự, Bộ luật Dân sự… đã có khá
nhiều quy định nhằm phòng, chống hành vi trục lợi bảo hiểm.
Các quy định này có thể được chia làm bốn nhóm: i) nhóm các quy định
chung về phòng, chống trục lợi bảo hiểm; ii) nhóm các quy định điều chỉnh
hành vi của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm; iii) nhóm các quy định về
quản lý nhà nước về phòng, chống trục lợi bảo hiểm; và iv) nhóm các quy định
của pháp luật có liên quan (Bộ luật dân sự và Bộ luật hình sự) điều chỉnh một
cách gián tiếp hành vi trục lợi bảo hiểm. Trong phần này, Luận văn sẽ phân
44
tích nội dung của ba nhóm quy định trên, làm rõ các ưu điểm cũng như nhược
điểm của pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm nhằm tạo cơ
sở cho các giải pháp và khuyến nghị mà tác giả sẽ nêu ở Chương 3.
2.2.1. Nhóm các quy định chung về phòng, chống trục lợi bảo hiểm
2.2.1.1. Về khái niệm trục lợi bảo hiểm
Đã có quy định trong Bộ luật hình sự 2015 về trục lợi bảo hiểm, xem thêm điều
213
Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 không định nghĩa thế nào là trục lợi
bảo hiểm. Thuật ngữ “hành vi trục lợi khi tham gia bảo hiểm” được sử dụng
lần đầu tiên bởi Nghị định số 118/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 10 năm
2003 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm (gọi tắt là Nghị định 118). Cụ thể, Điều 15 về “Hành vi trục lợi
trong việc tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải
quyết khiếu nại bảo hiểm” quy định: “Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000
đồng đến 5.000.000 đồng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi trục lợi để nhận
tiền bồi thường, tiền bảo hiểm”. Tuy nhiên, Nghị định này cũng không định
nghĩa thế nào là hành vi trục lợi bảo hiểm. Phải đợi đến năm 2004 thì khái
niệm “Hành vi trục lợi trong việc tham gia bảo hiểm” mới được định nghĩa bởi
Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định
số 118/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 10 năm 2003 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm (gọi tắt là Thông tư 31). Cụ thể, theo
Điều 4 mục V, hành vi trục lợi trong việc tham gia bảo hiểm là “hành vi cố ý
lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi
thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm” (Điều 4,
Mục V). Ngoài ra, Điều 4 còn có quy định về đồng lõa với người thụ hưởng
bảo hiểm theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 15 Nghị định số
45
118/2003/NĐ-CP là “hành vi cấu kết với người được thụ hưởng bảo hiểm giả
mạo giấy tờ, cung cấp thông tin sai sự thật, dựng hiện trường giả hoặc những
hành vi trái pháp luật khác trong quá trình yêu cầu giải quyết, giải quyết bồi
thường bảo hiểm và trả tiền bảo hiểm”.
Tuy nhiên, Thông tư 31 đã hết hiệu lực do Nghị định 118 cũng đã hết hiệu
lực cùng với Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 do Luật này đã được sửa đổi
bổ sung bởi Luật năm 2010. Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng
08 năm 2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số (gọi tắt là Nghị định 98) cũng như Nghị
định số 48/2018/NĐ-CP ngày 21 tháng 03 năm 2018 sửa đổi bổ sung một số
điều của Nghị định số 98/2013/NĐ-CP không quy định về hành vi trục lợi khi
tham gia bảo hiểm, mà chỉ có các quy định về Thông đồng với người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm
trái pháp luật (điểm b, khoản 1 Điều 14 Nghị định 98) và hành vi gian dối, giả
mạo tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm đã nhận tiền bồi
thường, trả tiền bảo hiểm (khoản 3 Điều 14 Nghị định 98). Các quy định này
sau đó đã được sửa đổi bởi khoản 6 Điều 1 Nghị định 48, theo đó “Phạt tiền từ
90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm
về gian lận trong kinh doanh bảo hiểm mà số tiền chiếm đoạt dưới 20.000.000
đồng hoặc gây thiệt hại dưới 50.000.000 đồng hoặc chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau:
a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi
thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;
b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả
tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;
46
c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi
thường, trả tiền bảo hiểm;
d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo
hiểm trừ trường hợp luật quy định khác”.
Như vậy Nghị định 48 ngoài việc tăng số tiền phạt còn bổ sung trường
hợp tự gây thiệt hại về tài sản để được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Hiện nay, thuật ngữ “trục lợi bảo hiểm” đã được sử dụng phổ biến trong
lĩnh vực bảo hiểm, nhưng lại không được định nghĩa trong các văn bản quy
phạm pháp luật về bảo hiểm. Điều này có thể dẫn tới khó khăn khi áp dụng các
chế tài chống trục lợi bảo hiểm.
2.2.2. Nhóm các quy định điều chỉnh hành vi của các bên trong hợp đồng
bảo hiểm
Luật kinh doanh bảo hiểm điều chỉnh hành vi của các bên trong hợp đồng
bảo hiểm tài sản thông qua hai nhóm quy định về hợp đồng bảo hiểm nói chung
và hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng.
2.2.1.1. Các quy định về hợp đồng bảo hiểm nói chung
Luật kinh doanh bảo hiểm điều chỉnh hành vi của các bên trong quan hệ
hợp đồng bảo hiểm để tránh trục lợi bảo hiểm thông qua các quy định về cung
cấp thông tin. Cụ thể, khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm
có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm,
giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; bên mua
bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng
bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính
xác, trung thực của thông tin đó (khoản 1, Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm
năm 2010).
47
Cần lưu ý là nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm không
chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin theo nguyên tắc thiện chí như đã được
ghi nhận trong pháp luật dân sự, mà còn là nghĩa vụ tăng cường. Nghĩa vụ cung
cấp thông tin tăng cường được thể hiện ở chỗ các bên phải cung cấp thông tin
cho nhau một cách đầy đủ và trung thực không chỉ trước khi ký kết hợp đồng
mà còn cả trong quá trình thực hiện hợp đồng. Cụ thể, bên mua bảo hiểm có
nghĩa vụ: “Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng
bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm; Thông báo những trường
hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh
nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của
doanh nghiệp bảo hiểm; Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra
sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm” (khoản 2, Điều 18
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010). Tương tự, doanh nghiệp bảo hiểm không
chỉ đơn thuần có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua bảo hiểm, mà còn
có nghĩa vụ đảm bảo rằng bên mua biết về nội dung các thông tin mà mình
cung cấp. Cụ thể, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ “Giải thích cho bên mua
bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của bên mua
bảo hiểm; Giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối
bồi thường” (điểm a và điểm d, khoản 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010).
Ngoài nghĩa vụ cung cấp thông tin, các bên trong hợp đồng bảo hiểm còn
có nghĩa vụ hợp tác và hạn chế tổn thất. Cụ thể, theo điểm đ, khoản 2 Điều 18
Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010, bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ: “Áp
dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và
các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Để phòng, chống hiện tượng trục lợi, Luật kinh doanh bảo hiểm còn có
các quy định về hợp đồng vô hiệu, theo đó hợp đồng bảo hiểm vô hiệu khi:
48
“Bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm; Tại thời điểm
giao kết hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm không tồn tại; Tại thời điểm
giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy
ra; Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao
kết hợp đồng bảo hiểm (khoản 1, Điều 22).
2.2.1.2. Các quy định về hợp đồng bảo hiểm tài sản
Bên cạnh các quy định chung cho mọi loại hợp đồng bảo hiểm như đã
trình bày ở trên, Luật kinh doanh bảo hiểm còn có các quy định chuyên biệt
cho hợp đồng bảo hiểm tài sản. Cụ thể, Điều 40 quy định: “Đối tượng của hợp
đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được
bằng tiền và các quyền tài sản”. Trong thực tiễn, các bên có thể ký kết hợp
đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị. Đây là loại hợp đồng trong đó số tiền bảo
hiểm cao hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết
hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao kết
hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị. Để phòng, chống trục lợi trong trường
hợp này, Luật kinh doanh bảo hiểm quy định trong trường hợp hợp đồng bảo
hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng
tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo
hiểm, sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan. Trong trường hợp xảy ra sự
kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại không vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm (Điều 42).
Ngoài ra, như đã phân tích ở phần trên, cá nhân, tổ chức có thể trục lợi
bằng cách ký kết nhiều hợp đồng bảo hiểm cho một tài sản cụ thể. Người ta gọi
đây là hợp đồng bảo hiểm trùng. Bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo
hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo
49
hiểm cho cùng một đối tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Pháp
luật không cấm bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm trùng cho tài sản bởi vì đây là
quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản. Tức là, chủ tài sản được quyền
mua bảo hiểm cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng
điều kiện và sự kiện bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối
với tài sản. Tuy nhiên, trong quan hệ này, bên được bảo hiểm không được phép
lợi dụng yếu tố phí bảo hiểm phải trả cho một tài sản là rất nhỏ so với giá trị tài
sản để yêu cầu bảo hiểm nhiều lần cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm
khác nhau nhằm mục đích nhận được khoản tiền bảo hiểm lớn hơn nhiều lần so
với giá trị của tài sản bảo hiểm. Để ngăn chặn mục đích trục lợi trong trường
hợp này, khoản 2 Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Trong trường
hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm,
mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số
tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng
mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh
nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản.”. Quy định
trên có thể được hiểu là, pháp luật không cấm bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm
nhiều lần cho một tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm với cùng điều khoản
và sự kiện bảo hiểm, nhưng khi mua thì phải có nghĩa vụ thông báo cho các
doanh nghiệp bảo hiểm khác biết về điều này. Trên cơ sở các hợp đồng bảo
hiểm đã giao kết, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng chịu trách nhiệm trong
phạm vi cam kết của mình trên tổng giá trị thiệt hại.
Do tài sản có rất nhiều dạng thức khác nhau và một số loại tài sản có tính
chất chuyên biệt nên Luật kinh doanh bảo hiểm còn có quy định phòng, chống
trục lợi bảo hiểm tài sản khi đối tượng của hợp đồng là một tài sản đặc biệt, thông
qua các quy định về an toàn. Cụ thể, Điều 50 quy định rằng người được bảo hiểm
phải thực hiện các quy định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động, vệ sinh
50
lao động và những quy định khác của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm an
toàn cho đối tượng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều
kiện bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người
được bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro. Trong trường hợp
người được bảo hiểm không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho đối
tượng bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền ấn định một thời hạn để
người được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đó; nếu hết thời hạn này mà các
biện pháp bảo đảm an toàn vẫn không được thực hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm
có quyền tăng phí bảo hiểm hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo
hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để bảo
đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm khi được sự đồng ý của bên mua bảo hiểm
hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ngoài ra, trong trường hợp xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm không
được từ bỏ tài sản được bảo hiểm (Điều 51).
2.2.2. Nhóm các quy định về quản lý nhà nước về phòng, chống trục lợi bảo
hiểm
Để phòng, chống trục lợi bảo hiểm thì không chỉ các bên trong hợp đồng
phải có các quy định để kiểm soát lẫn nhau mà sự giám sát của cơ quan quản lý
nhà nước cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Pháp luật về kinh doanh bảo
hiểm Việt Nam đã có khá nhiều quy định và nhiều lần sửa đổi các quy định liên
quan đến quản lý nhà nước đối với kinh doanh bảo hiểm trong Luật kinh doanh
bảo hiểm và các Nghị định cũng như thông tư hướng dẫn thi hành. Văn bản
hướng dẫn thi hành mới nhất là Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày
01 tháng 07 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật kinh
51
doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo
hiểm có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 20164.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì
Bộ Tài chính đóng vai trò then chốt. Cụ thể, theo Điều 110 Luật Kinh doanh
bảo hiểm, Bộ Tài chính có trách nhiệm: “Ban hành, phê chuẩn, hướng dẫn thực
hiện quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm” (khoản 3); Giám sát
hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài
chính, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật của
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, chi nhánh nước
ngoài. Áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
nước ngoài, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính
và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm (khoản 4) và “Thanh tra,
kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý
vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm” (khoản 10). Ngoài Bộ Tài chính thì
một số bộ, cơ quan ngang bộ, các ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương cũng có trách nhiệm tham gia quản lý nhà nước về kinh
doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, chính sự chồng chéo này khiến cho công tác giám
4 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm; Nghị định số 123/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm và sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ-CPngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm; Nghị định số 68/2014/NĐ- CP ngày 09 tháng 7 năm 2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ- CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm và Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực.
sát, thanh tra, kiểm tra gian lận trong bảo hiểm đạt hiệu quả không cao.
52
2.2.3. Nhóm các quy định của pháp luật khác có liên quan điều chỉnh hành
vi trục lợi bảo hiểm
Hoạt động bảo hiểm là một loại giao dịch dân sự nên phải tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Cụ thể, Điều 3 BLDS năm 2015 quy
định: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực” (khoản 2). Điều luật này
không quy định trực tiếp về trục lợi bảo hiểm, nhưng vẫn có thể được áp dụng
để phòng, chống các giao dịch nhằm mục đích trục lợi bảo hiểm, bởi hành vi
trục lợi bảo hiểm là hành vi lừa dối nhằm thu lợi bất chính, nên không thể coi
là “trung thực”. Ngoài ra, các giao dịch, đồng lõa, thông đồng để trục lợi bảo
hiểm cũng có thể bị tuyên vô hiệu dựa trên quy định tại khoản 2 này, bởi đó là
các hành vi, giao dịch không trung thực.
Ngoài ra, hành vi trục lợi bảo hiểm có thể chịu sự điều chỉnh của Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017. Bộ luật hình sự không quy định về trục
lợi bảo hiểm mà quy định về gian lận trong kinh doanh bảo hiểm. Cụ thể, Điều
213 quy định về tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm, theo đó “Người nào
thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tiền bảo hiểm từ
20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 50.000.000
đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các
điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: a) Thông
đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo
hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật; b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch
thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy
ra; c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi
thường, trả tiền bảo hiểm; d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để
hưởng quyền lợi bảo hiểm, trừ trường hợp luật có quy định khác”.
53
Trong trường hợp phạm tội có tổ chức, hoặc dùng thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt, hoặc gây t hiệt hại lớn (từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000
đồng) hoặc tái phạm nguy hiểm thì mức phạt tiền có thể từ 100.000.000 đồng
đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm (khoản 2). Trường
hợp chiếm đoạt số tiền bảo hiểm 500.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tù từ 03
năm đến 07 năm (khoản 3).
Như vậy, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam đã có
các quy định làm rõ, ngăn ngừa, xử phạt các hành vi liên quan đến trục lợi bảo
hiểm. Tuỳ theo mức độ vi phạm, người vi phạm có thể bị xử phạt hành chính
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, các quy định trong Luật kinh
doanh bảo hiểm còn chưa thực sự rõ ràng và chế tài chưa đủ mạnh, trong khi
các quy định của Bộ luật hình sự khó được áp dụng vì việc chứng minh việc
“thông đồng” hoặc “thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt” là rất khó khăn.
54
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TÀI SẢN
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng,
chống trục lợi bảo hiểm cũng như thực tiễn về trục lợi bảo hiểm xảy ra tại Việt
Nam trong thời gian qua, Luận văn đưa ra một số kiến nghị cụ thể để hoàn
thiện pháp luật Việt Nam, nhằm ngăn chặn tốt hơn tình trạng này.
3.1. Làm rõ khái niệm trục lợi bảo hiểm
Như đã phân tích ở Chương 2, thuật ngữ trục lợi bảo hiểm đã được sử
dụng thường xuyên trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm, đã được định nghĩa
trong Thông tư năm 2004. Tuy nhiên, Thông tư này đã hết hiệu lực và các văn
bản hiện nay không đưa ra định nghĩa thế nào là trục lợi bảo hiểm. Các khái
niệm được Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010 cũng như các văn bản hướng
dẫn thi hành và Bộ luật hình sự sử dụng các thuật ngữ khác nhau, điều này vô
hình chung gây khó khăn khi áp dụng các quy định để chống trục lợi bảo hiểm.
Trên cơ sở phân tích các hành vi trục lợi bảo hiểm ở chương 1 và chương
2, tác giả cho rằng pháp luật Việt Nam cần bổ sung khái niệm “trục lợi bảo
hiểm” vào trong văn bản luật hoặc văn bản hướng dẫn luật. Khái niệm trục lợi
bảo hiểm tài sản nên được hiểu như sau: Trục lợi bảo hiểm tài sản là hành vi
lừa dối cố ý của cá nhân, pháp nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo
hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm.
Ngoài ra, tên của Luật kinh doanh bảo hiểm cũng chưa thực sự phù hợp
để phòng, chống trục lợi bảo hiểm, bởi nó nhấn mạnh đến khía cạnh kinh
doanh, tức là thiên về điều chỉnh các hành vi của doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm, trong khi bên trục lợi bảo hiểm thường là bên tham gia bảo hiểm. Vì vậy,
tác giả luận văn khuyến nghị, tên Luật kinh doanh bảo hiểm nên được sửa
thành Luật bảo hiểm hoặc Bộ luật bảo hiểm (nếu tích hợp cả các quy định về
55
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi, vốn đang được quy định
trong các đạo luật chuyên ngành khác nhau). Tên gọi như vậy sẽ phản ánh
đúng hơn đối tượng điều chỉnh của Luật, đó là hoạt động bảo hiểm nói chung,
chứ không thiên về mục đích của một bên trong hoạt động đó (hiện nay là hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm).
3.2. Hoàn thiện quy định về hợp đồng bảo hiểm tài sản
Luật kinh doanh bảo hiểm có các quy định chung về hợp đồng bảo hiểm
(Mục 1, Chương 2, từ Điều 12 đến Điều 30) và hợp đồng bảo hiểm
hiểm tài sản (Mục 3, Chương 2, từ Điều 51). Về cơ bản, các quy định này đã
đảm bảo rõ ràng, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Song, để
đảm bảo hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm, theo tác giả
Luận văn, cần phải hoàn thiện một số quy định sau:
Một là, quy định rõ hơn về nghĩa vụ cung cấp thông tin. Nghĩa vụ cung
cấp thông tin không chỉ phải được thực hiện trước khi ký kết hợp đồng mà còn
cả trong quá trình thực hiện hợp đồng. Loại nghĩa vụ này phải được quy định là
nghĩa vụ đạt được kết quả công việc, chứ không đơn thuần là nghĩa vụ thực
hiện công việc với nỗ lực cao nhất.
Hai là, quy định về hình thức hợp đồng bảo hiểm. Theo quy định tại Điều
14 Luật kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản
mà không quy định rõ gồm những văn bản nào. Trên thực tế, hợp đồng bảo
hiểm gồm nhiều văn bản khác nhau tập hợp lại như đơn đề nghị bảo hiểm, giấy
chứng nhận bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm... Vì vậy, cần ghi nhận đây là các
bộ phận cụ thể tạo nên hình thức của hợp đồng. Đồng thời quy định rõ trách
nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phải cung cấp đầy đủ các văn bản
này trong hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo
56
hiểm. Ngoài ra, trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có khiếm khuyết về hình
thức và dẫn tới bị vô hiệu thì trách nhiệm thuộc về doanh nghiệp bảo hiểm.
Ba là, bổ sung quy định về chế tài đối với việc không tuân thủ nghĩa vụ
hạn chế tổn thất và trách nhiệm không được từ bỏ tài sản. Cụ thể, điểm đ,
khoản 2 Điều 17 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 quy định doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm có quyền “yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện
pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan”. Ứng với quyền này của doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm là nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm phải “Áp dụng các biện
pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan” (điểm đ, khoản 2 Điều 18).
Liên quan đến nghĩa vụ bảo quản tài sản, Điều 51 quy định trong trường
hợp xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo
hiểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định hoặc các bên có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, Luật lại không có quy định về chế tài đối với trường hợp bên tham
gia bảo hiểm không thực hiện các nghĩa vụ này. Đối với trường hợp vi phạm
nghĩa vụ hạn chế tổn thất thì có thể áp dụng Điều 362 BLDS năm 2015 về
nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên, việc áp dụng này không hoàn
toàn phù hợp do Điều 362 là một quy định đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng,
trong khi nghĩa vụ hạn chế tổn thất trong bảo hiểm tài sản là một loại nghĩa vụ
hợp đồng. Ngoài ra, bản thân Điều 362 BLDS năm 2015 cũng không quy định
về chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ. Việc quy trách nhiệm trong trường hợp
này lại phải tuân theo các quy định chung về thiện chí, trung thực trong BLDS,
và vì vậy sẽ mất thời gian và khó khăn hơn. Cuối cùng, áp dụng các quy định
của BLDS vốn điều chỉnh các quan hệ dân sự nói chung cho quan hệ bảo hiểm
57
tài sản là không hoàn toàn phù hợp và không tính đến được các tính chất
chuyên biệt của loại quan hệ này.
Đối với nghĩa vụ bảo vệ tài sản, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010
không có quy định về chế tài khi bên tham gia bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này.
BLDS năm 2015 cũng không có quy định nào đối với trường hợp này. Như
vậy, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 đã tạo ra một nghĩa vụ nhưng không
có chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ này và vì thế một bên có thể lợi dụng sự
thiếu hụt về chế tài này để trục lợi.
Vì vậy, Luận văn khuyến nghị bổ sung vào Luật kinh doanh bảo hiểm các
quy định về chế tài đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hạn chế tổn thất và trách
nhiệm bảo quản tài sản, coi đó là căn cứ để doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
từ chối, hoặc giảm mức bồi thường.
Bốn là, quy định về căn cứ bồi thường: Theo quy định tại Điều
46 Luật kinh doanh bảo hiểm, số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo
hiểm phải trả cho người được bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thị trường
của tài sản tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế. Số tiền
bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không
vượt quá số tiền bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Quy
định này đã thể hiện được nguyên tắc về giới hạn bồi thường trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, nhưng còn một số hạn chế.
Một mặt, căn cứ để xem xét bồi thường trong quan hệ bảo hiểm tài sản là
“giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm nơi xảy ra tổn thất và
mức độ thiệt hại thực tế” chưa phù hợp, vì việc xác định giá thị trường là một
việc rất khó khăn do thực tế, giá thị trường thường tính được đối với
những tài sản còn mới, trong khi đó, có trường hợp bảo hiểm là các tài sản đã
qua sử dụng. Vì vậy, việc xác định thiệt hại thực tế xảy ra đối
58
với tài sản bảo hiểm chỉ mang tính ước đoán, dễ trở thành nguyên nhân dẫn đến
trục lợi bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Mặt khác, mục đích của Điều 46 là nhằm ngăn ngừa trục lợi bảo
hiểm, trong khi đó lại cho phép các bên thỏa thuận về số tiền bồi thường mà
không dựa vào căn cứ bồi thường. Do đó, quy định trở nên thiếu tính nghiêm
minh. Vì vậy, cần hoàn thiện quy định này theo hướng cho phép doanh nghiệp
bảo hiểm và bên mua bảo hiểm thống nhất với nhau về cách thức và biện pháp
xác định giá trị của tài sản bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra tổn thất. Đồng
thời tại khoản 1 và 2 Điều 46 Luật kinh doanh bảo hiểm, nên bỏ cụm từ “trừ
trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm” để đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật.
Năm là, quy định về hợp đồng bảo hiểm trên giá trị: Theo quy định tại
Điều 42 Luật kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và bên
mua bảo hiểm không được giao kết hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm cao
hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng.
Pháp luật cũng quy định trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá
trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm
phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số
tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm, sau khi trừ
các chi phí hợp lý có liên quan. Đồng thời, trong trường hợp xảy ra sự
kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại không vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm. Tuy nhiên, khoản
1 và khoản 2 Điều 42 chưa thống nhất với nhau. Cụ thể, khoản 1 quy định:
“Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao dịch hợp đồng
bảo hiểm tài sản trên giá trị”, nhưng khoản 2 lại quy định: “trong trường hợp
hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên
59
mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại bên mua bảo hiểm số
phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường
của tài sản được bảo hiểm sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan […]”.
Như vậy, khoản không cho phép nhưng khoản 2 lại gián tiếp thừa nhận sự tồn
tại của hợp đồng này. Ngoài ra, quy định về lỗi vô ý ở khoản 2 mang tính định
tính, khó xác định được tiêu chí như thế nào là vô ý, như thế nào là cố ý, dễ dẫn
đến suy đoán chủ quan, khó áp dụng trên thực tế. Vì vậy, nên bỏ khoản 2 Điều
42 Luật kinh doanh bảo hiểm để không thừa nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo
hiểm tài sản trên giá trị. Trường hợp vi phạm, hợp đồng sẽ vô hiệu theo quy
định tại điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm.
3.3. Hoàn thiện các quy định về phòng ngừa rủi ro và giám sát hoạt
động kinh doanh bảo hiểm
Để phòng, chống trục lợi bảo hiểm thì việc có các quy định pháp luật rõ
ràng, chặt chẽ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm là chưa đủ. Việc giám sát,
thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng.
Quy định về cấp phép và thành lập doanh nghiệp bảo hiểm
Để ngăn ngừa việc chủ đầu tư thành lập doanh nghiệp bảo hiểm chỉ lấy
danh nghĩa nhằm trục lợi bảo hiểm, pháp luật kinh doanh bảo hiểm đã đưa ra
những rào cản kỹ thuật khá khắt khe trong việc cấp phép thành lập doanh
nghiệp bảo hiểm như điều kiện về vốn, tiêu chuẩn người quản trị điều hành, hồ
sơ... Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm,
cần quy định chặt chẽ hơn nữa về điều kiện của chủ đầu tư xin thành lập công
ty cổ phần bảo hiểm, theo hướng ngoài các điều kiện chung, chủ đầu tư phải có
tối thiểu 2 cổ đông sáng lập là tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định và nắm
giữ tối thiểu 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán của công ty cổ
phần bảo hiểm, tái bảo hiểm. Việc quy định số lượng cổ đông sáng lập tối thiểu
60
này là một cách để việc giám sát, kiểm soát được thực hiện chính từ nội bộ của
doanh nghiệp bảo hiểm.
Về dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập dự phòng
nghiệp vụ theo từng nghiệp vụ bảo hiểm tương ứng với phần trách nhiệm
của doanh nghiệp để đảm bảo khả năng chi trả cho người tham gia bảo hiểm
khi có rủi ro, tổn thất xảy ra. Tuy nhiên, quy định hiện hành vẫn chưa bao quát
được hết các loại dự phòng nghiệp vụ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho người
được bảo hiểm, cần bổ sung các loại dự phòng nghiệp vụ khác như dự phòng
rủi ro thiên tai, dự phòng đảm bảo lãi suất cam kết và dự phòng nghiệp vụ đối
với tái bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo hiểm nhân thọ và tái bảo hiểm sức khỏe.
Về quản trị rủi ro và kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm có những quy định yêu cầu doanh
nghiệp bảo hiểm xây dựng và thực hiện hoạt động quản trị doanh nghiệp một
cách thận trọng, cũng như đảm bảo khả năng tự giám sát hoạt
động kinh doanh của chính mình để bảo vệ lợi ích của người tham gia bảo
hiểm. Tuy nhiên, các quy định vẫn chung chung, chưa chú trọng đến việc trục
lợi bảo hiểm. Vì vậy, cần hoàn thiện quy định này theo hướng quy trình kiểm
soát nội bộ cần được phân tách thành từng khâu, từng nội dung nhưng phải có
sự liên hệ với nhau để kiểm soát đồng bộ. Cần đảm bảokhả năng tiếp nhận và
xử lý thông tin tốt và nhanh chóng từ nhiều nguồn, có khả năng kiểm tra chéo
để đảm bảo chính xác.
Về nghĩa vụ minh bạch thông tin
Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp bảo hiểm phải công khai thông
tin trong quá trình hoạt động của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo ngăn ngừa trục
lợi bảo hiểm có hiệu quả, cần quy định cụ thể hơn vấn đề công khai thông tin
61
về sản phẩm bảo hiểm, theo đó yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải công bố
đầy đủ nội dung điều khoản trên trang thông tin điện tử trước và trong quá trình
triển khai sản phẩm bảo hiểm; đồng thời quy định rõ chế tài xử phạt đại
lý trong trường hợp không giải thích đầy đủ với khách hàng; quy định về trách
nhiệm trao đổi cơ sở dữ liệu khách hàng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm để
hạn chế trục lợi bảo hiểm, tập trung vào các trường hợp phải trao đổi thông tin,
phương thức trao đổi và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc sử
dụng các thông tin đã trao đổi.
Về nội dung giám sát và phương thức quản lý, giám sát
Theo quy định hiện hành, nội dung giám sát được thực hiện thông qua
việc quản lý, giám sát các hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản
trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp
bảo hiểm và có thể áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo
hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện các cam kết với bên
mua bảo hiểm.
Đối với phương thức giám sát, Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản
hướng dẫn thi hành không có quy định cụ thể. Tuy nhiên, thông qua các quy
định về quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý giám sát, có thể thấy
việc giám sát có thể được thực hiện theo cả hai phương thức là giám sát trực
tiếp và giám sát gián tiếp (giám sát từ xa và giám sát tại chỗ). Phương thức
giám sát gián tiếp được thực hiện thông qua các hoạt động cấp phép, phê chuẩn
hoặc chấp thuận của Bộ Tài chính. Giám sát trực tiếp được thực hiện thông qua
các hoạt động thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp bảo hiểm.
Trên thực tế, thông qua các nội dung, phương thức giám sát, cơ quan quản
lý đã phát hiện và xử lý nhiều sai phạm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá
trình hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, các quy định này còn một số tồn tại
62
như mục tiêu giám sát còn chung chung, chưa đề cập riêng đến mục tiêu ngăn
ngừa trục lợi bảo hiểm; chưa nhấn mạnh đến mô hình giám sát nội bộ mà
doanh nghiệp bảo hiểm cần phải xây dựng để đánh giá khả năng thanh toán và
quản lý của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm đảm bảo cho sự an toàn trong hoạt
động kinh doanh của mình. Vì vậy, cần phải hoàn thiện quy định về nội dung
giám sát, nhất là quy định về mô hình giám sát nội bộ của doanh nghiệp bảo
hiểm vì nếu doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện tốt việc tự giám sát sẽ hạn chế
được trục lợi bảo hiểm. Theo đó, cần quy định quy trình kiểm soát nội bộ phải
hướng đến mục tiêu phòng ngừa và hạn chế rủi ro hơn là chỉ đảm bảo nguyên
tắc tuân thủ. Cần có tiêu chí rõ ràng, nhất quán và có thể định lượng được
nhằm phản ánh chính xác tình hình của doanh nghiệp bảo hiểm, tránh trục lợi
bảo hiểm.
Về nguyên tắc, một trong những mục đích chính của quản lý nhà nước
đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm cũng như quyền lợi của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong đó một ương những trách nhiệm cơ bản của quản lý nhà nước về bảo
hiểm là phòng chống các đối tượng trục lợi bao gồm cả người tham gia bảo
hiểm trực lợi người bảo hiểm cũng như doanh nghiệp bảo hiểm trục lợi người
tham gia bảo hiểm.
Liên quan đến công cụ và quy trình giám sát, chúng ta có thể tham khảo
các quy định và quy trình quản lý giám sát bảo hiểm của IAIS. Trong thực tế,
IAIS đã xây dựng ra 28 nguyên tắc bảo hiểm cơ bản (ICP-Insurance Core
Principle) để quản lý giám sát hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Các nguyên tắc này đóng vai trò đặc biệt hiệu quả trong ngăn ngừa và phòng
chống trục lợi bảo hiểm trong đó có phòng chống trục lợi bảo hiểm tài sản và
bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Trong các nguyên tắc này có
63
4 nguyên tắc giám sát, quản lý thị trưởng bảo hiểm là ICP 24, ICP 25, ICP 26
và ICP 27 liên quan trực tiếp đến phòng chống trục lợi bảo hiểm. Bốn nguyên
tắc cơ bản giám sát đảm bảo các trung gian bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo
hiểm có thể trục lợi người tiêu dùng cũng như quy định các nguyên tắc giám
sát phòng ngừa hạn chế bị trục lợi cho chính các doanh nghiệp bảo hiểm. Cụ
thể như sau:
Nguyên tắc ICP 24-Các trung gian bảo hiếm: Cơ quan quản lý, giám sát
đặt ra yêu cầu quản lý các trung gian bảo hiểm một cách trực tiếp hoặc thông
qua các doanh nghiệp bảo hiểm. Cơ quan quản lý, giám sát yêu càu các trung
gian bảo hiểm phải được căp phép hoặc phải đăng ký kinh doanh. Cơ quan
quản lý, giám sát yêu cầu các trung gian bảo hiểm phải có đầy đủ kiến thức
tổng quát, kiến thức về thương mại và kiến thức chuyên môn và phải có năng
lực cũng như uy tín tốt. Khi cần thiết, cơ quan quản lý, giám sát sẽ thực hiện
những động thái kích thích đáng kể cả các biện pháp chế tài, phạt một cách trực
tiểp hoặc thông qua các doanh nghiệp bảo hiểm; hủy giấy phép hoặc đãng ký
hành nghề của các trung gian bảo hiểm. Cơ quan quản lý, giám sát hoặc các cơ
quan khác phải xử lý những các nhân hoặc những đối tượng hoạt động trung
gian bảo hiểm khi không có giấy phép hoặc không đăng ký hành nghề.
Nguyên tắc ICP 25-Bảo vệ người tiêu dùng: Cơ quan quản lý, giám sát
đặt ra nhưng yêu cầu tối thiểu đối với doanh nghiệp bảo hiểm và các trung gian
trong mối quan hệ với người tiêu dùng bao gồm cả việc doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài cung cấp sản phẩm bảo hiểm qua biên giới. Cơ quan quản lý, giám
sát yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm và các trung gian đối xử công bàng với
người tiêu dùng; cung cấp kịp thời đầy đủ các thông tin liên quan đến khách
hàng kể cả trước khi họp đồng có hiệu lực cho đến thời điểm các nghĩa vụ theo
họp đồng được đáp ứng. Trong quan hệ với người tiêu dùng, cơ quan quản lý,
64
giám sát yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm và các trung gian phải có kỹ năng, cẩn
trọng và phải có kiểm toán độc lập.
Nguyên tắc ICP 26-Công khai, minh bạch thông tin: Cơ quan quản lý,
giám sát yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm công bố các thông tin một cách kịp
thởi để những người liên quan có nhận định rõ ràng về tình hình kinh doanh và
vị thế, trạng thái tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời nhận thức
những rủi ro mà họ đối mặt. Cơ quan quản lý, giám sát yêu cầu doanh nghiệp
bảo hiểm công khai thông tin tài chính và những rủi ro phải đối mặt. Thông tin
này phải được chi tiết theo những tiêu chí chủ yếu. Cơ quan quản lý, giám sát
các thông tin do doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp và có những hành động cần
thiết để đảm bảo việc tuân thủ những yêu cầu về công khai thông tin.
Có thể nói đây chính là các nguyên tắc cốt lõi cơ bản quản lý, giám sát
nhà nước cơ bản nhằm phòng và ngăn ngừa hạn chế trục lợi bảo hiểm nói
chung và trục lợi bảo hiển hàng hóa vận chuyển bằng đường biển nói riêng.
3.4. Bổ sung quy định về đăng ký hợp đồng bảo hiểm tài sản
Như đã phân tích ở trên, bên mua bảo hiểm có thể trục lợi bảo hiểm bằng
cách tham gia bảo hiểm trùng, tức là mua bảo hiểm cùng lúc với nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều kiện và
sự kiện bảo hiểm. Pháp luật hiện hành quy định trong trường hợp này tổng số
tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại
thực tế của tài sản (Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Tuy nhiên, bên mua
bảo hiểm cố tình che giấu doanh nghiệp bảo hiểm việc tài sản đã được mua bảo
hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm khác với cùng điều khoản và sự kiện bảo hiểm
trước khi giao kết hợp đồng với doanh nghiệp bảo hiểm. Để phòng, chống hiện
tượng này thì bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm phải hợp tác với nhau để kết
nối với nhau. Dưới góc độ quản lý, pháp luật Việt Nam có thể quy định các
65
hợp đồng bảo hiểm tài sản ở một giá trị lớn nhất định nào đó phải đăng ký trên
một hệ thống thông tin, giống như đăng ký giao dịch bảo đảm.
66
KẾT LUẬN
Trục lợi bảo hiểm tài sản là một dạng trục lợi bảo hiểm gây nhiều thiệt hại
cho doanh nghiệp bảo hiểm cũng như cho toàn thị trường. Đối với loại hình
trục lợi này, không chỉ các doanh nghiệp bảo hiểm bị thiệt hại về tài chính mà
chính các chủ hàng trung thực tham gia bảo hiểm cũng phải gánh chịu một
phần thiệt hại thông qua phí bảo hiểm phải thanh toán cho các doanh nghiệp
bảo hiểm.
Trong thời gian qua, ngành bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và bảo hiểm
tài sản nói riêng đã thu được một số thành công nhất định trong phòng chống
các đối tượng trục lợi bảo hiểm. Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam:
số các vu trục lợi bảo hiểm được phát hiện, xử lý nổi cộm trên thị trường những
năm gần đây không có nhiều; và hiện tượng trục lợi nội bộ và trung gian bảo
hiểm trục lợi giảm mạnh do công tác xử lý mạnh tay của các doanh nghiệp bảo
hiểm. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước chức năng: công tác phòng chống
trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển đã được các cơ quan
quản lý nhà nước quan tâm; và công tác phối kết hợp, hỗ trợ phòng chống trục
lợi bảo hiểm ngày càng hiệu quả.
Tuy nhiên, công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm tài sản thời gian qua
vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có một phần từ
việc các quy định của pháp luật Việt Nam chưa rõ ràng, đặc biệt các quy định
về chế tài, giám sát, thanh tra, kiểm tra các hành vi trục lợi.
Trên cơ sở phân tích thực trạng trục lợi bảo hiểm, các nguyên lý về
phòng, chống trục lợi bảo hiểm và pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi
bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, có thể kết luận rằng pháp luật Việt Nam chưa
phát huy đầy đủ hiệu quả phòng, chống trục lợi bảo hiểm. Vì vậy, luận văn đã
67
đề xuất một số giải pháp cụ thể về hoàn thiện pháp luật Việt Nam về lĩnh vực
này.
Do thời gian có hạn và khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ chưa cho
phép, nên việc nghiên cứu trên chắc chắn là chưa đầy đủ. Chủ đề này cần tiếp
tục được nghiên cứu sâu hơn, đặc biệt ở khía cạnh thực tiễn xét xử các tranh
chấp về trục lợi bảo hiểm, có như thế mới đưa ra được một cái nhìn tổng thể
hơn về vấn đề.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu bằng tiếng Việt
1. Bộ Tài chính, Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2017, Nxb Tài chính,
2018.
2. Gia An, Trục lợi bảo hiểm: Âm thầm nhưng mạnh mẽ, táo bạo, Đặc san
Toàn cảnh Thị trường Bảo hiểm Việt Nam 2016.
3. Hiền Anh, Những chiêu thức trục lợi điển hình trong hảo hiểm hàng hải,
Bản tin Bảo hiểm & Đời sống, số 52, tháng 4/2013.
4. Hoàng Văn Châu, Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh, Nxb Lao động-Xã
hội 2006.
5. Trí Công, Tổng CTCP Bảo hiểm Quân đội (MIC) thắng kiện vụ trục lợi bảo
hiểm ở Nghệ An, Trang
thông
tin Bảo hiểm Việt Nam. URL:
https://tinbaohiem.com/2015/tong-ctcp-bao-hiem-quan-doi-mic-thang-kien-
vu-truc-loi-bao-hiem-o-nghe-an/ truy cập ngày 1/12/2018.
6. Cổng thông tin Bảo hiểm Việt Nam, 7 năm, gần 58.000 vụ trục lợi bảo
hiểm thiệt hại trăm tỉ đồng. URL: https://webbaohiem.net/7-nam-gan-58-
000-vu-truc-loi-bao-hiem-thiet-hai-tram-ti-dong.html
truy
cập
ngày
9/10/2018.
7. Nhà Pháp luật Việt-Pháp, Organisation Internationale de la Francophonie
2009, Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp-Việt, Nxb Từ điển Bách khoa.
8. Ngô Trung Dũng, Thị trường bảo hiểm: Tăng trưởng gắn liền với cải thiện
chất lượng sản phẩm, dịch vụ. URL: http://iav.vn/News/Item/43141/195/vi-
VN/Default.aspx truy cập ngày 5/12/2018.
9. Ngô Trung Dũng, “Trục lợi bảo hiểm”, Bản tin Bảo hiểm & Đời sống, số
57, tháng 9 năm 2013.
10. Nguyễn Văn Định, Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nxb Đại học
Kinh tế quốc dân 2009.
11. Hiroshi Kinoshita, Hiroyasu Miyazaki, Trục lợi bảo hiểm: Những biện pháp
phòng chống trục lợi được thực hiện bởi Ngành bảo hiểm Phi nhân thọ của
Nhật Bản, Hội thảo Hải ngoại ISJ 2013 Hà Nội, tháng 9 năm 2013.
12. Trần Sỹ Lâm chủ nhiệm, Hạn chế trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển tại một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (Bộ Giáo dục và
Đào tạo), Mã số: B2012-08-09, nghiệm thu tháng 4/2014.
13. Trần Sỹ Lâm chủ nhiệm. Phân tích hồ sơ bồi thường của một số công ty
bảo hiểm nhằm xây dựng các dạng bài tập bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Đại học Ngoại
thương 2013.
14. Trương Mộc Lâm, Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm hàng hóa, Nxb Thống
kê 2002.
15. Doãn Hồng Nhung, Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa,
ngăn chặn trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 30, số 3 năm 2014, tr 33-40.
16. Phan Tiến Nguyên chủ biên, Phân tích một số bộ luật, đạo luật, điều ước
quốc tế liên quan đến vận tải và bảo hiểm hàng hải, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội 2007.
17. Võ Thị Pha, Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính 2010.
18. Nguyễn Thị Phượng, Kinh nghiệm phòng ngừa và đấu tranh chống trục lợi
bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển ở một số nước khu vực
Bắc Mỹ và Tây Âu, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Ngoại thương 2012.
19. Nguyễn Thị Hoài Thu, Hoàn thiện các quy định của pháp luật để ngăn
ngừa trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 03,
212 tháng 2 năm 2012.
20. Hồ Thuỷ Tiên, Bảo hiểm hàng hải, Nxb Tài chính 2007.
21. Nguyễn Lệ Thủy, Phòng chống trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ tại một số doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt
Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Ngoại thương 2013.
22. Nguyễn Thị Thu Thủy, Trần Thị Thu Hà, Nâng cao hiệu quả quản lý đại lý
tại các công ty bảo hiểm phi nhân thọ, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 9 năm
2013.
Tài liệu bằng tiếng nước ngoài
23. Dexter Morse & Lynne Skajan, Tackling insurance fraud law and practice,
Risk Management and Insurance Review, vol 1, issue 1, 2004.
24. Findlaw , New York Marine General Insurance Company V. Tradeline
2014. URL: http://caselaw.fmdlaw.com/us-2nd- circuit/1332550.html truy
cập ngày 8/10/2018.
25. J.L. Bacher, La fraude à l’assurance et sa prévention par les compagnies
privées 1995. Trục lợi bảo hiểm và cách thức phòng chống trục lợi bảo
hiểm của các tập đoàn tư nhân, Tạp chí Déviance et Société, vol 19, no 2, tr.
185-200.
26. Kyriaki Noussia, The Principle of Indemnity ỉn Marine Insurance
Contracts: A Comparative Approach, Nxb Springer 2007.
27. KPMG, Insurance Bureau of Canada: Auto Insurance Fraud in Ontario,
KPMG Forensic Report, dated June 13, 2012.