ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
PHÙNG VĂN DŨNG
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
PHÙNG VĂN DŨNG
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) Ngành: Kinh tế Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 62 31 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Đình Long 2. TS. Nguyễn Mạnh Hùng
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
chưa từng công bố. Kết quả nghiên cứu là trung thực.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình trước các quy
định của Nhà trường và Pháp luật.
Hà Nội, ngày 16 tháng 9 năm 2014
Tác giả luận án
Phùng Văn Dũng
Trang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt ........................................................................................... i
Danh mục các bảng .................................................................................................. iii
Danh mục các biểu đồ, đồ thị ................................................................................... iv
MỞ ĐẦU... ................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ............................................................ 6
1.1. Những lý thuyết và nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ................................ 6
1.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của hội nhập KTQT .................................... 10
1.3. Những vấn đề cần nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ..... 23
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP SAU WTO ................................................................ 25
2.1. Nông nghiệp và phát triển nông nghiệp ............................................................ 25
2.1.1. Nông nghiệp và vai trò của sản xuất nông nghiệp ......................................... 25
2.1.2. Phát triển nông nghiệp ................................................................................... 31
2.2. WTO và các Hiệp định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp ........................... 48
2.2.1. Vai trò, nguyên tắc hoạt động của WTO ....................................................... 48
2.2.2. Các Hiệp định của WTO về nông nghiệp và những cam kết ........................ 53
2.2.3. Những cơ hội và thách thức đối với phát triển nông nghiệp khi thực hiện các
cam kết với WTO ........................................................................................... 60
2.3. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước ..................................... 62
2.3.1. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở Hà Lan ............................................ 62
2.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển nông nghiệp ............................. 64
2.3.3. Kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp của Thái Lan .................................. 66
2.3.4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................... 68
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM SAU
KHI GIA NHẬP WTO ......................................................................... 71
3.1. Rà soát việc thực hiện cam kết với WTO và điều chỉnh chính sách nông
nghiệp của Việt Nam ...................................................................................... 71
3.1.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO ............................................. 71
3.1.2. Rà soát việc thực hiện cam kết với WTO về lĩnh vực nông nghiệp .............. 75
3.1.3. Điều chỉnh chính sách nông nghiệp ............................................................... 82
3.2. Thực trạng phát triển ngành nông nghiệp sau WTO ........................................ 96
3.2.1. Tăng trưởng ngành nông nghiệp ................................................................... 96
3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp ...................................................... 108
3.2.3. Đầu tư và áp dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp ........................ 113
3.2.4. Tập trung kinh tế và liên doanh, liên kết trong nông nghiệp ....................... 118
3.2.5. Thực trạng về năng lực cạnh tranh .............................................................. 124
3.2.6. Hạ tầng phục vụ cho phát triển nông nghiệp ............................................... 130
3.3. Đánh giá chung về phát triển nông nghiệp của Việt Nam sau WTO ............. 131
3.3.1. Những thành tựu .......................................................................................... 131
3.3.2. Những hạn chế ............................................................................................. 133
3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong phát triển nông nghiệp ............................. 136
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ĐẾN NĂM 2025 .......................... 141
4.1. Xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới .............................................. 141
4.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp Việt Nam ................................................. 144
4.2.1. Phát triển nông nghiệp theo hướng “phát triển bền vững” .......................... 144
4.2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh là đòi hỏi của phát triển nông nghiệp ......... 145
4.2.3. Hình thành mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị ngành hàng trong
phát triển nông nghiệp .................................................................................. 147
4.2.4. Tăng cường áp dụng khoa học và công nghệ trong phát triển nông nghiệp 149
4.2.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong phát triển
nông nghiệp .................................................................................................. 150
4.3. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, hiệu quả và
tăng giá trị gia tăng ....................................................................................... 151
4.3.1. Nhóm giải pháp chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp .................. 151
4.3.2. Nhóm giải pháp đẩy mạnh áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến đồng bộ
vào sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ nông lâm thủy hải sản tạo đột
phá mới trong phát triển nông nghiệp .......................................................... 157
4.3.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tham gia chuỗi giá trị
nông sản và năng lực tổ chức thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp ...... 161
4.3.4. Nhóm chính sách giải quyết mối quan hệ nông nghiệp - nông dân - nông
thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững ................................................ 164
4.3.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hệ thống chính
sách phù hợp với WTO ................................................................................ 166
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 170
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................................................... 172
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 173
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Đầu tư toàn diện
Hiệp định về Chống bán Phá giá
Ngân hàng phát triển Châu Á Khu vực Mậu dịch Tự do Asean Khu vực Mậu dịch Tự do Asean - Ấn Độ Hiệp định Thương mại hhoá Asean - Ấn độ
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Asean - Nhật bản Hiệp định thương mại tự do Asean - Korean Tổng lượng hỗ trợ tính gộp
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á Diễn đàn hợp tác Á-Âu An sinh xã hội Hiệp định thương mại hàng hoá trong ASEAN
Hiệp định về Nông nghiệp Chuyên môn hóa Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
Doanh nhiệp nhà nước Đô thị hóa Đồng bằng sông Cửu Long Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu Hiệp định đối tác kinh tế
Chỉ số tỷ lệ bảo hữu hiệu
Liên minh châu Âu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài Hiệp định thương mại tự do
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại Tổng sản phẩm quốc nội
Chữ viết tắt Nguyên nghĩa AANZFTA Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do Asean – Úc, Newzealand ACFTA Hiệp định thương mại tự do Asean – China ACIA AD ADB AFTA AIFTA AITIG AJFTA AKFTA AMS APEC ASEAN ASEM ASXH ATIGA AoA CMH CNH-HĐH DNNN ĐTH ĐBSCL EFTA EPA ERP EU FDI FTA GATT GDP GTSX Giá trị sản xuất
i
Hợp tác xã Quỹ Nông nghiệp và Phát triển quốc tế Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thế giới Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Quy định về IUU của thị trường EU Kinh tế quốc tế
Nền kinh tế phi thị trường Các Tổ chức phi chính phủ Chỉ số tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa
HTX IFAD IUCN IMF ITO Tổ chức Thương mại Quốc tế IUU KTQT MFN Đãi ngộ Tối huệ quốc (Most Favoured Nation) MUTRAP Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên NLTS Nông lâm thủy sản NME NGOs NPR PTNN Phát triển nông nghiệp R&D RCA SCM SG SPS TBT TPP TTKT TTH TRIPS
Nghiên cứu và phát triển Chỉ số lợi thế cạnh tranh Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng Hiệp định về Tự vệ Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch Hiệp định về các Rào cản Kĩ thuật đối với Thương mại Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình dương Tập trung kinh tế Tập trung hóa Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ Hạn ngạch mức thuế quan
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật bản
Dự án phát triển hàng nông sản
TRQ UNCTAD Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc UPEP Chương trình Môi trường Liên hợp quốc VJFTA VCCI WB WTO WWF Ngân hàng Thế giới Tổ chức Thương mại thế giới Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang Bảng
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế của các nước Đông Nam Á 73
Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam 73
Bảng 3.3: Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế (theo giá thực tế) 75
Bảng 3.4: Cơ cấu lao động nông lâm thủy sản 110
Bảng 3.5: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp 111
Bảng 3.6: Cơ cấu giá trị sản xuất lâm nghiệp 112
Bảng 3.7: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy hải sản 113
Bảng 3.8: Vốn đầu tư toàn nền kinh tế và ngành nông nghiệp 114
Bảng 3.9: GTSX trên 1ha đất trồng trọt và mặt nước nuôi trồng thủy sản 118
Bảng 3.10: Trang trại trong ngành nông nghiệp 120
Bảng 3.11: Chỉ số RCA của một số ngành hàng nông sản xuất khẩu 125
Bảng 3.12: Chỉ số RCA hàng gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ XK 127
Bảng 3.13: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy hải sản 128
iii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ
Biểu đồ: Trang
Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp 97
Biểu đồ 3.2: GDP ngành nông nghiệp 2000 - 2013 97
Biểu đồ 3.3: Tốc độ tăng trưởng GTSX nông nghiêp, lâm nghiệp... 98
Biểu đồ 3.4: Giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản 2000-2013 99
Biểu đồ 3.5: Cán cân thương mại chung và thươg mại NN 100
Biểu đồ 3.6: Giá trị và lượng xuất khẩu gạo giai đoạn 2001-2012 102
Biểu đồ 3.7: Giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ 2000-2013 104
Biểu đồ 3.8: Kim ngạch nhập khẩu hàng thủy sản 106
Biểu đồ 3.9: Kim ngạch nhập khẩu hàng thủy sản 2000-2013 107
Biểu đồ 3.10: Cơ cấu giá trị gia tăng ngành NN, LN, TS 108
Biểu đồ 3.11: Chuyển dịch cơ cấu GTSX ngành nông nghiệp 109
Biểu đồ 3.12: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gỗ từ 2002 - 2012 126
Đồ thị:
Đồ thị 3.1: Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng nông sản 101
Đồ thị 3.2: Giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ 2002 - 2011 103
Đồ thị 3.3: Chỉ số lợi thế so sánh hữu hiệu RCA thủy sản 129
iv
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, hội
nhập kinh tế đã trở thành đòi hỏi khách quan đối với sự phát triển của các nền
kinh tế, các quốc gia, làm thế nào để có thể kết hợp và sử dụng tốt nguồn lực
trong nước và quốc tế luôn là vấn đề lớn đối với từng quốc gia. Đại hội toàn
quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: Toàn cầu hoá kinh
tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa
thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau. Nghị
quyết Trung ương 07 - NQ/TƯ ngày 27 tháng 11 năm 2001, Bộ chính trị khẳng
định, mục tiêu hội nhập của Việt Nam là: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
(KTQT) nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ tiên tiến,
kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước...
Năm 2007, Việt Nam chính thức là thành viên của WTO, chính sách của
Nhà nước đối với khu vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn cần được đổi
mới theo các định chế của WTO. Tuy nhiên, những quy định của WTO cho
thấy nông nghiệp là lĩnh vực chịu sự tác động lớn từ bên ngoài khi chúng ta
thực hiện các cam kết với WTO; do trước đó, những hỗ trợ của nhà nước cho
nông nghiệp là không đáng kể.
Cùng với quá trình hội nhập KTQT, công nghiệp hoá và hiện đại hoá
(CNH và HĐH), nông nghiệp nước ta bộc lộ những khiếm khuyết: Nông
nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần,
sức cạnh tranh của hàng nông sản còn thấp, chưa phát huy được lợi thế của nền
nông nghiệp nhiệt đới; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và đổi mới cách
thức sản xuất còn chậm, phổ biến là sản xuất nhỏ. Công nghiệp, dịch vụ nông
thôn phát triển chậm chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao
động nông nghiệp và nông thôn. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu
1
hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm... Ðời
sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn thấp, chênh lệch giàu nghèo
giữa thành thị, nông thôn và giữa các vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo cao. [17]
Trong thời gian qua có các nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về nông
nghiệp Việt Nam trong quá trình CNH và HĐH, ảnh hưởng của hội nhập
KTQT đến nông nghiệp… Các nghiên cứu đều chỉ ra: Sản xuất nông nghiệp
của Việt Nam kém bền vững, hiệu quả thấp, ô nhiễm môi trường ngày càng
tăng. Năng lực cạnh tranh và tham gia chuỗi giá trị hàng nông sản toàn cầu còn
thấp; sản xuất nhỏ vẫn là phổ biến và sự hợp tác, liên kết, liên doanh trong sản
xuất chậm phát triển. Đổi mới cơ chế, chính sách không theo kịp với hội nhập
nên vốn nền nông nghiệp Việt Nam đã yếu thế lại càng yếu thế hơn…
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào làm rõ nền nông nghiệp Việt Nam
phát triển như thế nào sau khi gia nhập WTO? Việt Nam phải làm gì để nền
nông nghiệp vừa tận dụng tốt cơ hội, vừa vượt qua thách thức khi thực hiện
các cam kết với WTO để phát triển đang là câu hỏi lớn và cấp thiết. Với lý do
đó, tác giả lựa chọn "Phát triển nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO)" làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ
chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu chung
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển của nền nông nghiệp
Việt Nam. Đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển
nông nghiệp Việt Nam có hiệu quả và bền vững trong quá trình thực hiện các
cam kết với WTO.
2.2. Mục đích nghiên cứu cụ thể
- Nghiên cứu cơ sở lý luận chung, đưa ra các tiêu chí về đánh giá sự phát
triển nông nghiệp sau WTO.
2
- Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về phát triển nông nghiệp sau WTO.
- Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam sau WTO.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng
hiệu quả và bền vững trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu phát triển nông nghiệp Việt Nam sau
WTO và tác động của WTO đến phát triển nông nghiệp, những thành tựu, yếu
kém và nguyên nhân. Bao gồm tăng trưởng, hiệu quả của sản xuất nông
nghiệp, xuất nhập khẩu, năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị,
chuyển dịch cơ cấu và tái cấu trúc nông nghiệp, vấn đề thu nhập và việc làm
của nông dân…
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu nội dung phát triển nông
nghiệp Việt Nam sau WTO nhưng có so sánh với trước khi gia nhập WTO ở
những điểm cần thiết để xem xét tác động của WTO đến phát triển nông
nghiệp. (Luận án coi gia nhập WTO như là mốc thời gian để nghiên cứu, bởi
ngoài cam kết WTO Việt Nam còn có những cam kết khu vực, đa phương và
song phương; tuy nhiên cam kết của WTO là trục nội dung và khung pháp lý
để cho cam kết khác thêm sâu sắc hơn; do đó rất khó bóc tách đâu là tác động
của WTO và đâu là tác động của các cam kết khu vực, đa phương và song
phương đến phát triển nông nghiệp). Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tề về phát
triển nông nghiệp sau WTO. Nghiên cứu chính sách nông nghiệp Việt Nam sau
WTO. Ngoài ra vấn đề nông dân, nông thôn chỉ được đề cập hạn chế ở chừng
mực nhất định.
3
- Thời gian được lựa chọn nghiên cứu từ năm 2000 đến nay, đề xuất
phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiệu
quả và bền vững đến năm 2025 và những năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việt Nam hội nhập KTQT ngày càng sâu rộng, cùng với việc thực hiện
các cam kết WTO, còn phải thực hiện những cam kết FTA khu vực, đa
phương, song phương đều có liên quan và tác động đến nông nghiệp; nên rất
khó bóc tách đâu là tác động do WTO, đâu do các cam kết khác tác động đến
phát triển nông nghiệp.
Do vậy luận án sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và
nghiên cứu định lượng để đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết
WTO đến phát triển nông nghiệp. Nghiên cứu định định tính giúp rà soát các
cam kết WTO có liên quan đến ngành nông nghiệp, mặt khác xác định được
những tác động có thể xảy ra và nguyên nhân của những tác động đó. Những
phân tích định lượng như: phương pháp hệ thống, tổng hợp, thống kê, so sánh,
phương pháp chỉ số, kết hợp các phương pháp phân tích thực tiễn nhằm kiểm
định tác động của việc thực hiện các cam kết WTO đến phát triển nông nghiệp,
đánh giá mức độ và dự báo xu thế.
Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích để đánh giá những quan
điểm của các học giả và các trường phái lý luận về vấn đề nghiên cứu, rút ra
những vấn đề đã được nghiên cứu đầy đủ, những vấn đề cần được bổ sung và
những nghiên cưú mới.
Chương 2: Sử dụng phương pháp hệ thống hóa và phân tích phát triển
nông nghiệp dưới tác động của WTO; rút ra nội dung của PTNN, tiêu chí đánh
giá và khung phân tích; kinh nghiệm trong việc phát huy thời cơ và hạn chế
thách thức đến phát triển nông nghiệp.
4
Chương 3: Sử dụng các phương pháp phân tích thống kê, tổng hợp,
logic, sơ đồ, biểu đồ, phương pháp chỉ số, phương pháp so sánh…; rà soát
những cam kết và việc thực thi cam kết; nhằm làm rõ tác động của WTO đến
phát triển nông nghiệp, thời cơ và thách thức; thành tựu, yếu kém và nguyên
nhân của nông nghiệp Việt Nam sau WTO.
Chương 4: Sử dụng phương pháp khái quát hóa rút ra xu hướng phát
triển, đề xuất định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu
quả và bền vững.
5. Những đóng góp khoa học của luận án
- Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá phát triển nông nghiệp.
- Sử dụng bộ tiêu chí để đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp Việt
Nam sau WTO.
- Đề xuất các gợi ý chính sách trên cơ sở xác định những cơ hội, thách
thức khi thực hiện các cam kết WTO và thực trạng phát triển nông nghiệp Việt
Nam sau WTO
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tóm tắt, bảng các chữ viết tắt, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, luận án có kết cấu gồm 4 chương và 12 tiết:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới phát triển nông
nghiệp.
Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển nông
nghiệp sau WTO.
Chương 3: Thực trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam sau WTO.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam
trong thời gian tới.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, hội nhập
KTQT nói chung và tham gia WTO nói riêng đã trở thành đòi hỏi khách quan
đối với sự phát triển của các nền kinh tế, các quốc gia. Do vậy, đã có nhiều
công trình nghiên cứu của các tổ chức, các học giả kinh tế nghiên cứu về tác
động của hội nhập KTQT và gia nhập WTO, tìm các biện pháp khắc phục hạn
chế và thách thức, phát huy thời cơ và ưu thế làm lợi cho quốc gia, doanh
nghiệp trong quá trình hội nhập. Đặc biệt Việt Nam là một trong nhóm các
nước đang phát triển và chậm phát triển, để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) chủ yếu dựa trên phát triển nông nghiệp,. Do vậy luận án đề
cập đến các công trình nghiên cứu có liên quan đến phát triển nông nghiệp và
ảnh hưởng của hội nhập KTQT đến phát triển nông nghiệp. Có thể phân các
công trình nghiên cứu thành hai nhóm: (i) Các nghiên cứu đi sâu về những lý
thuyết phát triển nông nghiệp, CNH, HĐH. (ii) Các nghiên cứu đi sâu về ảnh
hưởng của hội nhập KTQT, những thời cơ và thách thức, cũng như tìm giải
pháp để hạn chế các khó khăn phát huy lợi thế để nâng cao hiệu quả trong quá
trình hội nhập KTQT và tham gia WTO.
1.1. Những lý thuyết và nghiên cứu về phát triển nông nghiệp
Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất có những nét đặc thù, là ngành sản
xuất gắn với sinh vật, bị chi phối bởi quy luật sinh học, các điều kiện ngoại
cảnh (đất đai, thời tiết - khí hậu) và là ngành sản xuất ra sản phẩm tất yếu để xã
hội tồn tại và phát triển, vì thế từ lâu rất được các nhà kinh tế quan tâm và được
đề cập nhiều trong các lý thuyết kinh tế, nhất là trong các mô hình phát triển
kinh tế của các nước chậm phát triển hiện đang tiến hành CNH, HĐH. Để thấy
rõ các thuyết về phát triển nông nghiệp theo các trường phái chính sau:
6
- Trường phái đề cao vai trò của nông nghiệp, coi nông nghiệp là cơ sở
hay tiền đề cho quá trình công nghiệp hoá. Đại diện cho trường phái lý thuyết
này có thể kể đến Mellor và Johnston, và sau nữa là nhà kinh tế học nổi tiếng
người Mỹ Simon Kuznets. Trong nghiên cứu “The Role of Agriculture in
Economic Development” (Vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế) vào
năm 1961, Johnston và Mellor cho rằng, việc xây dựng một nền nông nghiệp
vững mạnh và năng động sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy công nghiệp
phát triển và sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Theo hai học giả này,
nông nghiệp có 5 vai trò quan trọng: 1) cung cấp lương thực, thực phẩm cho
nhu cầu trong nước; 2) xuất khẩu nông sản để thu ngoại tệ; 3) tạo nguồn lao
động cho khu vực công nghiệp; 4) mở rộng thị trường nội địa cho sản phẩm
công nghiệp và 5) tăng nguồn tiết kiệm ở trong nước để tạo vốn cho phát triển
công nghiệp. [88]
Cùng với quan điểm của Johnston và Mellor, năm 1965, Kuznets đã tiếp
tục khẳng định sự đóng góp của nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế thông qua
trao đổi buôn bán sản phẩm với các khu vực khác nhau ở trong và ngoài nước,
cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, vốn, thị trường cho quá trình
CNH, HĐH. Tất cả những điều này được ông thể hiện trong tác phẩm
“Economic Growth and Structure” (Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu) [84].
Các tác giả thuộc trường phái đề cao vai trò của nông nghiệp trong quá
trình phát triển. Họ cho rằng, nông nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong
nền kinh tế. Ở đây, nông nghiệp được đề cao, nhưng xét về thực chất đó là sự
khai thác cạn kiệt các nguồn lực của nông nghiệp để chuẩn bị tiền đề phục vụ
cho sự phát triển công nghiệp hoá, đô thị hoá (CNH, ĐTH).
Theo chúng tôi, hiện tại và trong giai đoạn tới, nông nghiệp có vị trí và
vai trò nhất định. Bởi vì, với xu thế toàn cầu hoá, nếu dựa quá nhiều vào sản
xuất nông nghiệp theo thuyết này sẽ khó đảm bảo cho việc phân bổ nguồn lực
7
một cách hiệu quả. Mặc dù vậy, ở một mức độ nhất định nào đó, thuyết này
vẫn còn có giá trị đối với những nước đang trên con đường tiến tới CNH, HĐH
mà có xuất phát điểm là nông nghiệp.
- Trường phái phát triển hài hoà giữa nông nghiệp và công nghiệp. Đại
diện cho trường phái này là E. Schumacher và một số học giả người Mỹ như
Colander, Roy Cohn, Mark Morlock và Robert Stonebreaker. Trong tác phẩm
“Small is beautiful” (nhỏ là đẹp), E. Schumacher cho rằng, phải chú ý thoả
đáng tới phát triển nông nghiệp, nhất là đối với những nước đang phát triển.
Schumacher đề xuất một quan điểm sâu rộng hơn: đảm bảo cho con người tiếp
xúc với thiên nhiên sinh động; nhân bản hoá và nâng cao chất lượng của nơi
sinh sống rộng lớn hơn dành cho con người; cung cấp lương thực, thực phẩm
và các nguyên liệu cần thiết khác cho việc đảm bảo một cuộc sống đầy đủ và
Về cơ bản, Schumacher đồng tình với quan điểm công nghiệp hoá, song
hợp lý.
ông không tán thành thực hiện công nghiệp hoá bằng cách “bóp nặn” mọi
nguồn lực của nông nghiệp; cần kết hợp hài hoà và phát triển cân đối giữa công
nghiệp và nông nghiệp, phải dùng những thành quả của công nghiệp để phục
vụ lại nông nghiệp làm cho nông nghiệp phát triển bền vững hơn.
Quan điểm phát triển cân đối và hài hoà giữa nông nghiệp và công
nghiệp còn cho rằng, phát triển nông nghiệp cần phải đặt trong xu thế hội nhập
kinh tế toàn cầu; yếu tố cạnh tranh cần được chú trọng và tăng cường trên cơ sở
nâng cao năng suất lao động; nâng cao tính tự chủ của nông dân trong quá trình
ra quyết định sản xuất; đảm bảo chuyển dần nông nghiệp truyền thống sang
nông nghiệp hiện đại; kết hợp phát triển công nghiệp gắn với nông nghiệp và
các ngành công nghiệp khác, nâng cao nguồn lực con người,... Quan điểm này
coi trọng đầu tư cho nông nghiệp và đầu tư vào nguồn nhân lực. Thuyết này
nhấn mạnh tới phát triển bền vững của nền kinh tế, nhất là việc sản xuất nhiều
8
hay ít hàng hoá không quan trọng bằng mục tiêu làm cách nào để sản xuất có
hiệu quả nhất xét cả về lơị ích xã hội lâu dàì. [89]
Như vậy có thể thấy, các quan điểm hay các chủ thuyết về nông nghiệp,
thường thay đổi theo thời gian và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
mỗi quốc gia. Trường phái thứ hai quan tâm và đề cập nhiều hơn đến môi
trường cũng như sự phát triển nông nghiệp bền vững. Có thể nói rằng hầu hết
các lý thuyết của các nhà kinh tế học trước đây đều không thuần túy tập trung
nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp, mà đều đặt nông nghiệp trong mối quan hệ
với các ngành, các lĩnh vực khác, trước hết là với công nghiệp.
- Lý thuyết về phát triển bền vững: Thuật ngữ “phát triển bền vững” hay
“phát triển bền lâu” được xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ XX nhưng
mãi đến đầu thập niên 80 “phát triển bền vững” mới được Hiệp hội bảo tồn
thiên nhiên và tài nguyên thế giới (IUCN), Chương trình Môi trường Liên hợp
quốc (UPEP) và Quỹ bảo vệ động vật hoang dã quốc tế (WWF) đã được sử
dụng trong “Chiến lược bảo tồn thế giới” đã đề xuất nội dung “phát triển bền
vững” là: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển
kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động
đến môi trường sinh thái”. Trong báo cáo Brundland: “Phát triển bền vững là
sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả
năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai”. Từ đây, khái niệm “Phát triển bền
vững” trở thành khái niệm chìa khóa giúp các quốc gia xây dựng quan điểm,
định hướng, giải pháp tháo gỡ trong các vấn đề phát triển, chủ động điều chỉnh
(tái cơ cấu) nền kinh tế trong đó có nông nghiệp. Đó là sự phát triển kinh tế
dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng những quá trình sinh thái cơ
bản, sự đa dạng sinh học và hệ thống trợ giúp của tự nhiên đối với cuộc sống
con người, động vật và thực vật. Qua thời gian khái niệm này không chỉ dừng
lại ở nhân tố sinh thái mà còn mở rộng thêm nội hàm vào nhân tố xã hội, con
9
người, đặc biệt là bình đẳng xã hội. Như vậy phát triển bền vững là sự kết hợp
hài hòa giữa mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về môi và phát triển
bền vững họp tại Johannesburg, Nam Phi, trong các văn kiện nêu: Phát triển
bền vững là sự phát triển không những chỉ đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà
còn không làm ảnh hưởng xấu, cản trở đến sự phát triển của các thế hệ tương
lai, là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt
của sự phát triển, gồm: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo
vệ môi trường. Như vậy đã xác định ba trụ cột của phát triển bền vững đó là:
bền vững về kinh tế, bền vững về mặt xã hội và bền vững về môi trường sinh
thái. Các tiêu chí chủ yếu đánh giá sự bền vững là tăng trưởng kinh tế ổn định;
thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; nâng cao đời sống và chất lượng
môi trường sống. Trong hội nhập KTQT các vấn đề phát triển bền vững cũng
phải được quan tâm nhằm giải quyết những khía cạnh mang tính toàn cầu của
phát triển bền vững như vấn đề nghèo đói và khoảng cách giầu nghèo, khí thải
và biến đổi khí hậu… [82]
1.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của hội nhập KTQT
Theo tìm hiểu của tác giả, liên quan đến việc nghiên cứu các vấn đề hội nhập
KTQT và gia nhập WTO đã có một số đề tài, nghiên cứu, cụ thể như sau:
Hội nhập quốc tế về thực chất đã có từ rất sớm, tuy nhiên khái niệm về hội
nhập kinh tế được Béla Balassa đề xuất từ thập niên 1960, theo ông hội nhập
kinh tế là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau và
được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách [81].
Nguyễn Xuân Thắng, trong tác phẩm “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”:
Tác giả nói rõ hơn hội nhập KTQT là quá trình chủ động thực hiện đồng thời
10
hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu
vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa
nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế
kinh tế khu vực và toàn cầu [41].
Theo TS. Phạm Quốc Trụ, Học viện Ngoại giao, trong bài viết “Thực
trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm qua và triển vọng
những năm tới”, đã đề cập một số khía cạnh về lý luận và thực tiễn của khái
niệm hội nhập KTQT, tập trung vào vấn đề định nghĩa và xác định bản chất,
nội hàm, các hình thức và tính chất của hội nhập KTQT; phân tích tính tất yếu
và hệ lụy của hội nhập KTQT như là một xu thế lớn của thế giới hiện đại. Hội
nhập KTQT là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu
vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo
những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu
vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu (Hội nhập trong khuôn khổ WTO
là hình thức hội nhập kinh tế-thương mại toàn cầu). Hội nhập kinh tế có thể
diễn ra theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế
được chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp đến cao như sau:(i) Thỏa thuận
thương mại ưu đãi (PTA), (ii) Khu vực mậu dịch tự do (FTA), (iii) Liên minh
thuế quan (CU), (iv) Thị trường chung (hay thị trường duy nhất), (v)Liên minh
kinh tế-tiền tệ.
Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của thế giới, cũng đồng thời chỉ ra
con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn
cầu hóa. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết định bởi tác động tích cực và
những tác động tiêu cực mà hội nhập KTQT tạo ra cho các nước. Tác giả đề
cập tác động của hội nhập kinh tế nói chung, còn tác động của hội nhập đến
lĩnh vực nông nghiệp chưa được đề cập [47].
11
Bộ ngoại giao Việt Nam, trong tác phẩm “Việt Nam hội nhập kinh tế trong
xu thế toàn cầu hóa: Vấn đề và giải pháp” cho rằng trong các hình thức hội
nhập, hội nhập kinh tế là nền tảng hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững
của hội nhập trong các lĩnh vực khác (đặc biệt cho hội nhập về chính trị) nên
được các nước ưu tiên thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát
triển trong bối cảnh toàn cầu hóa [5].
GS. Cốc Nguyên Dương, trong tác phẩm “Trung Quốc 10 năm đầu thế
kỷ XXI: Phát triển và hợp tác” cho rằng: hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng
tất yếu không một quốc gia nào có thể cưỡng lại, chỉ có thể gia nhập trước hoặc
sau mà thôi. Gia nhập WTO sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc: vị thế
chính trị và kinh tế trên trường quốc tế tăng, thúc đẩy thương mại và thu hút
đầu tư nước ngoài, nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn, các nguồn lực xã hội
được phân bố hợp lý, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so
sánh, những ngành hàng có khả năng cạnh tranh sẽ phát triển, ngành yếu kém
bị đào thải [15].
Nguyễn Thị Hải Yến, trong tác phẩm “Xuất khẩu hàng nông sản ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”. Tác giả đã làm rõ vai trò của
xuất khẩu nông sản trong quá trình CNH, HĐH trong các nước đang phát triển;
khảo cứu, phân tích kinh nghiệm một số nước trên thế giới làm cơ sở kinh
nghiệm cho Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản; phân tích một cách
hệ thống vai trò, đặc điểm, thực trạng của xuất khẩu nông sản Việt Nam, thời
cơ, thách thức trong điều kiện hội nhập KTQT, từ đó đề xuất các nhóm giải
pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng nông sản Việt
Nam trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước và hội nhập KTQT. Tuy
nhiên những tác động cụ thể của WTO đến nông nghiệp mới đề cập những thời
cơ và thách thức trong xuất nhập khẩu nông sản còn những tác động khác chưa
được đề cập nhiều [51].
12
Nguyễn Thị Tươi, trong cuốn “Tác động của việc gia nhập WTO đến
phát triển nông nghiệp Việt Nam” Tác giả đưa ra những nhận xét ban đầu về
những cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam khi gia nhập WTO:
cam kết về mức thuế, về lộ trình cắt giảm thuế đối với hàng nông sản và trợ
cấp với nông nghiệp. Phân tích những tác động tích cực của việc gia nhập
WTO đối với sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam trong các lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp, lưu thông và tiêu dùng. Chỉ ra những khó khăn, thách thức
và những tác động tiêu cực của ngành nông nghiệp nước ta khi gia nhập WTO.
Đưa ra và luận giải hệ thống các giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn,
hạn chế những tác động tiêu cực do việc gia nhập WTO gây ra cho ngành nông
nghiệp Việt Nam; hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước như
pháp luật về cạnh tranh, về chống độc quyền, chống bán pháp giá đối với thị
trường nông sản; cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực nông nghiệp. [49].
Bộ Công thương, trong khuôn khổ của “Dự án Hỗ trợ Thương mại đa
biên - MUTRAP”, đã có báo cáo “Tác động của cam kết mở cửa thị trường
trong WTO và các Hiệp định khu vực Thương mại tự do (FTA) đến hoạt động
sản xuất, thương mại của Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện cơ chế điều
hành xuất nhập khẩu giai đoạn 2011-2015”. Dự án đã đánh giá tác động sau 3
năm hội nhập WTO đến kinh tế Việt Nam trong đó có phần nhỏ về nông
nghiệp. Dự án sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích… trước và sau hội
nhập. Đặc biệt khi xét đến năng lực cạnh tranh của các ngành hàng, có một
phương pháp được sử dụng phổ biến để phân loại cấp độ cạnh tranh của từng
ngành hàng cụ thể, phân loại những ngành hàng có sức cạnh tranh và không có
sức cạnh tranh, dựa trên chỉ số lợi thế so sánh biểu hiện bằng chỉ số (RCA).
Chỉ số RCA của một ngành nào đó càng lớn, mức độ chuyên môn hóa của
ngành hàng đó trong một nền kinh tế trong nước so với mức độ chuyên môn
hoá của thế giới càng cao thể hiện rằng lợi thế so sánh của ngành hàng đó cũng
13
mạnh hơn. Chính vì vậy, chỉ số RCA qua thời gian sẽ cung cấp những thông tin
về sự thay đổi lợi thế so sánh của một ngành hàng trong nền kinh tế và sự cải
thiện trong cơ cấu xuất khẩu. RCA = (Eij/Eit)/(Enj/Ent), (E là xuất khẩu, i là
quốc gia, j là hàng hóa, n là tập hợp các nước, t là tập hợp các hàng hóa).
Chỉ số ERP cho biết ảnh hưởng ròng của các chính sách thương mại (bao
gồm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nếu trong tính toán có tính đến 2
yếu tố này) đến người sản xuất. Nói cách khác, chỉ số này tính toán tác động
của chính sách bảo hộ tới giá trị tăng thêm (là chênh lệch giữa doanh thu và chi
phí đầu vào) của một ngành. Cụ thể, chỉ số ERP đo lường phần trăm thay đổi
của mỗi đơn vị giá trị tăng thêm của một ngành nào đó dưới tác động của chính
sách bảo hộ thuế quan và phi thuế quan với mỗi đơn vị giá trị tăng thêm có thể
đạt được nếu không có những rào cản trên và tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu (ERP). Tuy
nhiên phần đánh giá về nông nghiệp chiếm phần nhỏ và chỉ đánh giá thương
mại và xuất khẩu nông sản [3].
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong khuôn khổ hỗ trợ của
Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO đã triển khai dự án “Đánh
giá tác động của việc thực hiện các cam kết WTO và khu vực đối với ngành
nông nghiệp và phát triển nông thôn”; triển khai từ 8/2012 đến 9/2013. Nội
dung của dự án: Đánh giá mức độ nhạy cảm của một số ngành hàng nông sản
của Việt Nam trước các cú sốc bên ngoài; phân tích, đánh giá tác động của hội
nhập đến hiệu quả hoạt động một số ngành hàng nông sản; đánh giá áp lực điều
chỉnh cơ cấu trong một số ngành hàng nông sản; nghiên cứu, đánh giá các vấn
đề sinh kế, giảm nghèo và doanh nghiệp nông thôn trong quá trình hội nhập.
Dự án chọn ba ngành hàng cá tra, sữa và đường để phân tích và dùng các mô
hình mô phỏng đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết WTO và khu
vực; với cú sốc từ bên ngoài, áp lực điều chỉnh cơ cấu…; đến hiệu quả sản
xuất, đến vấn đề sinh kế và giảm nghèo, tác động đến nông thôn trong những
14
năm tới và khuyến nghị chính sách. Tuy nhiên dự án chưa đề cập đến mô hình
phát triển nông nghiệp, những giải pháp phát huy lợi thế và khắc phục những
hạn chế của hội nhập KTQT đến nông nghiệp… [6].
Các nghiên cứu của các nhà kinh tế Trung Quốc về nông nghiệp trong
hội nhập WTO, cho rằng: Trước tiên xác định rõ quyền về đất đai; tăng đầu tư
và hỗ trợ cho nông nghiệp, khoa học công nghệ; đẩy nhanh đầu tư hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn và cải thiện môi trường nông nghiệp; tăng đầu tư cho giáo
dục và đào tạo nghề nhằm không ngừng nâng cao kỹ năng và tay nghề cho
nông dân…; khẳng định cải cách và mở cửa mà khoảng cách giàu nghèo tăng
là thất bại. Đại diện là các nhà kinh tế thể hiện ở các công trình nghiên cứu sau:
GS. Cốc Nguyên Dương, Viện trưởng Viện nghiên cứu Phát triển Á Phi,
Trung tâm Nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc: Tình trạng “tam
nông” Trung Quốc: thành tựu, vấn đề và thách thức. Và GS. Lục Học Nghệ,
nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc:
“Nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc: biến đổi và phát triển”. Ở
Trung Quốc, nông dân bị coi là nhóm người yếu thế, thể hiện ở việc hiện nay
quyền tài sản ở nông thôn vẫn chưa rõ ràng, nông dân không có quyền bảo vệ
ruộng đất khoán, thậm chí nhà ở của mình. Bởi vì ruộng đất có thể bị trưng
dụng bất cứ lúc nào, nhà cửa của chính mình có thể bị di dời để giải phóng mặt
bằng. Bởi lẽ đất ở thuộc sở hữu tập thể, nông dân không có quyền đem ra thế
chấp để vay ngân hàng. Hai tác giả đã phân tích những thành tựu của Trung
Quốc về tam nông; đồng thời chỉ ra những tồn tại, khiếm khuyết của tam nông
ở Trung Quốc như: Nông nghiệp tăng trưởng chậm, phát triển kém bền vững,
sức cạnh tranh của hàng nông sản thấp, vệ sinh an toàn thực phẩm thấp… Về
cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm… Hai tác giả cho rằng việc phát
triển khu vực nông nghiệp và cải thiện đời sống người nông dân là nhiệm vụ
trọng tâm, nền tảng để đẩy mạnh CNH, HĐH và là tiền đề tạo điều kiện cho
15
nền kinh tế sớm bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại. Vì vậy, việc giải quyết
vấn đề về “tam nông” được đặt ở mức độ ưu tiên cao nhất.
TS. Lục Nghiên, Viện nghiên cứu Phát triển Á Phi, Trung tâm Nghiên
cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc: “Những vấn đề tồn tại trong giáo dục
nghề nghiệp nông thôn và đào tạo nông dân ở Trung Quốc”. Tác giả phân tích
thành tựu và những bất cập, khiếm khuyết trong đào tạo nghề trong nông thôn
và đào tạo nông dân của Trung Quốc trong giai đoạn vừa qua; đề xuất quan
điểm và hướng giải quyết để tạo ra sự phát triển hài hoà giữa hai khu vực. [38].
TS. Từ Vĩ, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Phát triển Á Phi, Trung tâm
Nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc: “Chuyển dịch sức lao động
dư thừa ở nông thôn và việc làm của nông dân Trung Quốc”. Tác giả phân
tích thực trạng lao động và việc làm ở khu vực nông nghiệp, nông thôn; làn
sóng di cư tự phát từ khu vực miền Tây kinh tế chậm phát triển sang khu vực
miền Đông và những vấn đề xã hội phát sinh; đề xuất quan điểm và hướng giải
quyết… [38].
TS. Jikun Huang, Giám đốc Trung tâm tư vấn Chính sách nông nghiệp
Trung Quốc, học viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc cho rằng, những
thành tựu to lớn mà nông nghiệp Trung Quốc gặt hái được đầu tiên phải nhắc
đến khoa học công nghệ. Trung Quốc đã đầu tư mạnh cho các hoạt động
nghiên cứu nông nghiệp, trong đó tập trung vào công nghệ truyền thống và
công nghệ sinh học để nâng cao chất lượng giống. Hệ quả của chính sách đầu
tư này là người nông dân được hưởng lợi từ việc tăng năng suất các cây trồng
chính của họ như lúa gạo, lúa mì và ngô [39].
Tiêu Xuân Dương, Bành Tính Lư trong tác phẩm “Thị trường và ngành
nghề hóa nông nghiệp”, các nhà kinh tế học Trung Quốc cho rằng ngành nghề
hóa nông nghiệp ở Trung Quốc thể hiện dưới năm hình thức chủ yếu sau đây:
(1) Công ty – nông hộ, công ty đóng vai trò đầu tàu, nông hộ đóng vai trò toa
16
tàu tạo thành một thực thể kinh tế từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ, sự liên kết
này được thể hiện bằng hợp đồng ràng buộc theo nguyên tắc lợi nhuận cùng
hưởng, rủi ro cùng chịu. (2) Hợp tác xã - nông hộ: các hợp tác xã (chủ yếu là
hợp tác xã dịch vụ) liên kết với đông đảo các nông hộ đảm nhận các khâu sản -
chế biến - tiêu thụ. (3) Hội kỹ thuật chuyên ngành nông nghiệp - nông hộ; Hội
cung cấp thông tin khoa học kỹ thuật, kỹ thuật sản xuất, tư liệu sản xuất, vận
chuyển, tiêu thụ, đưa nông dân tiếp cận thị trường. (4) Trang trại - nông hộ;
trang trại có thể do một hoặc nhiều hộ, hoặc các hợp tác xã, hoặc các công ty
hợp thành, hoạt động theo kiểu hình thành những ngành nghề chủ đạo, tiến tới
chuyên môn hóa, quy mô hóa. (5) Thị trường bán buôn chuyên ngành - nông
hộ; thị trường này hướng dẫn nông hộ điều chỉnh sản xuất theo nhu cầu của thị
trường, phục vụ các khâu trước, trong và sau sản xuất của nông hộ. Có thể thấy
rằng dù thể hiện dưới hình thức nào, nông hộ cũng được hướng dẫn, che chở,
giúp đỡ để khó xảy ra tình trạng được mùa thì rớt giá, được giá thì mất mùa
như ở một số nơi khác.
Về đổi mới chế độ ruộng đất: việc đổi mới này, theo các chuyên gia, phải
tuân thủ các nguyên tắc sau đây: 1) Phải coi ruộng đất là hàng hóa, có giá trị sử
dụng đặc biệt và giá trị, là yếu tố sản xuất chủ yếu nhất, cơ bản nhất trong sản
xuất nông nghiệp. Việc trao đổi hàng hóa này cũng phải tuân thủ nguyên tắc:
ngang giá thông qua tiền tệ. 2) Làm cho quyền sở hữu yếu đi, quyền sử dụng
tăng lên. Quyền sở hữu thuộc “nhóm dân thôn”; quyền sử dụng thuộc nông hộ.
3) Giảm bớt chức năng chính trị xã hội của ruộng đất, tăng cường sử dụng hiệu
quả sử dụng đất. 4) Phải có lợi cho kinh doanh quy mô lớn. Kinh doanh tiểu
nông đất đai manh mún, không phù hợp và là một cản trở đối với chế độ ngành
nghề hóa nông nghiệp. Do vậy, theo các học giả Trung Quốc “cần áp dụng chế
độ cổ phần ruộng đất, một loại hình hợp tác kinh tế nông nghiệp kiểu mới”.
Theo chế độ cổ phần ruộng đất thì “nông hộ ký kết với thôn hành chính hoặc
17
thôn tự nhiên, tập hợp ruộng đất khoán của mình dưới hình thức cổ phần, và
kinh doanh theo kiểu công ty”… [16].
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, trong tác phẩm “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn Việt Nam”: đã khẳng định về bản chất của phát triển nông nghiệp
nông thôn thực chất là quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn. Quá
trình này diễn ra khá thuận lợi ở các nước Tây Âu; sở dĩ như vậy, là do các
nước đó có thị trường tiêu thụ rộng lớn và nguồn cung cấp tài nguyên, lao động
của các nước thuộc địa; nông nghiệp có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật… Các ngành công nghiệp hóa nông thôn phát triển không bị công nghiệp
đô thị và công nghiệp nước ngoài cạnh tranh...[1].
TS. Đặng Kim Sơn, trong tác phẩm “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Việt Nam hôm nay và mai sau”, đã phân tích thực trạng nông nghiệp trong 20
năm đổi mới “trong suốt quá trình đổi mới, cơ cấu công - nông nghiệp - dịch
vụ cả nước chuyển đổi đúng theo quy luật theo hướng giảm dần nông nghiệp
và tăng công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp luôn làm tròn vai trò nền tảng cho
công nghiệp và dịch vụ phát triển”. Về tăng trưởng nông nghiệp, GDP nông
lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 4,2%/năm (1988-2007). Về chuyển dịch
cơ cấu, trong cơ cấu kinh tế chung nông nghiệp chỉ còn chiếm 20% GDP toàn
quốc, tuy nhiên trong nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp
và thủy sản tăng với tốc độ cao xong vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp. Tổ chức sản
xuất và dịch vụ trong nông nghiệp còn manh mún, sản xuất nhỏ vẫn là phổ
biến…[36].
Trong tác phẩm “Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông
dân trong quá trình công nghiệp hoá”, tác giả khẳng định “vai trò phát triển
nông nghiệp là tiền đề khởi động công nghiệp hoá và tăng trưởng nông nghiệp
nhanh là nhờ đầu tư mạnh và chính sách đúng”. Đồng thời tác giả đưa ra các
18
câu hỏi về vấn đề tập trung hoá đất đai, vấn đề lao động và di cư lao động ra đô
thị, vấn đề môi trường, vai trò của công nghiệp nông thôn và dân cư nông
thôn…, kinh nghiệm của các nước, những thành công và chưa thành công
trong quá trình công nghiệp hóa ở những nước đang phát triển...[35].
PGS. TS. Nguyễn Danh Sơn, trong cuốn: “Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại hoá”.
Tác giả hệ thống hoá các vấn đề lý luận phổ biến của bước chuyển hoá từ một
nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp hiện đại; kinh nghiệm quốc tế
về giải quyết vấn đề nông nghiệp…, trong quá trình phát triển đất nước theo
hướng hiện đại; các vấn đề lý luận và thực tiễn của Việt Nam; các vấn đề phát
triển và định hướng. Về định hướng công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn,
tác giả cho rằng “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không
chỉ nhằm mục đích tự thân mà còn là mục tiêu chính, cơ bản cho công cuộc
PGS.TS. Đỗ Tiến Sâm trong tác phẩm: “Vấn đề tam nông ở Trung Quốc -
công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn…”[37]
Thực trạng và giải pháp”, với tiêu đề Chương hai là “nông nghiệp Trung Quốc
- thực trạng và giải pháp”; tác giả đã nêu những thành công và những bức xúc
của nông nghiệp Trung Quốc trong quá trình phát triển, mở cửa hội nhập và
những giải pháp khắc phục…[33]
Nhiều tác giả trong cuốn: “Nông Dân Nông Thôn Và Nông Nghiệp -
Những vấn đề đang đặt ra” là tập hợp các bài viết trong khuôn khổ đề tài
nghiên cứu về “tam nông” của Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS). Mỗi tác giả
có một cách nhìn riêng và đi sâu vào các khía cạnh khác nhau của vấn đề,
nhưng đều có điểm chung nhau ở chỗ đánh giá thực trạng, vạch rõ nguyên nhân
cốt lõi và đề xuất hướng đi ra khỏi vướng mắc.
Từ cách tiếp cận Xã hội học và căn cứ vào thực trạng ở vùng đồng bằng
sông Hồng. Giáo sư Tương Lai đã nhấn mạnh các giải pháp gắn liền mục tiêu
19
phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Vấn đề dân chủ cơ sở và nền tảng văn
hoá nông thôn cũng được tác giả phân tích sâu sắc.
Từ góc nhìn văn hoá, nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc đã khẳng định rằng
thực chất vấn đề “Tam nông” ở Tây Nguyên là vấn đề Dân tộc gắn liền với
Văn hoá Làng - Rừng. Không giải được vấn đề Dân tộc từ quan điểm Văn hoá
thì không có cách gì giải quyết được vấn đề “tam nông”…
Từ cách tiếp cận Kinh tế học, Giáo sư Đào Thế Tuấn và Tiến sĩ Đặng Kim
Sơn đã đề xuất những giải pháp phát triển Kinh tế nông thôn nhằm gắn kết một
cách hữu cơ giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp, giữa đô thị và nông
thôn, giữa bảo hộ sản xuất nông nghiệp và hội nhập kinh tế toàn cầu…[32]
Vũ Văn Nâm trong cuốn: “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt
Nam”. Tác giả trình bày một số cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông
nghiệp bền vững, kinh nghiệm xây dựng và phát triển nông nghiệp theo xu
hướng bền vững của một số quốc gia trên thế giới, trên cơ sở đó rút ra bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam. Tổng quan về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam,
phân tích những chuyển biến trong phát triển nền nông nghiệp theo xu hướng
bền vững, chỉ ra những mặt đã đạt được, những mặt còn hạn chế cũng như
nguyên nhân của những hạn chế đó. Đánh giá vai trò của nền nông nghiệp phát
triển theo xu hướng bền vững đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân nông
thôn. Đưa ra định hướng và giải pháp: làm tốt công tác quy hoạch phát triển
nông nghiệp, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển
nông nghiệp bền vững, các giải pháp về khoa học-công nghệ, và sự hỗ trợ từ
phía nhà nước nhằm phát triển hơn nữa nền nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
trong những năm tiếp theo [29].
Nguyễn Huy Hùng, luận án tiến sỹ: “Chính sách tiêu thụ nông sản Việt
Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới”.
20
Luận án đã xây dựng khung lý thuyết về chính sách tiêu thụ nông sản trong quá
trình thực hiện các cam kết với WTO. Phân tích thực trạng tiêu thụ nông sản và
đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trước và sau gia nhập WTO,
chỉ ra thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế. Luận án phân tích
những xu hướng mới của thị trường nông sản thế giới để từ đó đưa ra một số
quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản
của Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO. Trọng tâm của
luận án là vấn đề tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết của
WTO, nên luận án chủ yếu đề cập hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản, còn
phát triển nông nghiệp chưa được đề cập.
Ngân hàng phát triển Châu Á, trong cuốn “Thương mại hóa nông
nghiệp, chuỗi giá trị và giảm nghèo”, cho rằng những nước đang phát triển sau
khi đạt được an ninh lương thực quốc gia thì cần chuyển đổi nền nông nghiệp
từ chỗ dựa vào sản xuất lương thực là chính sang một nền nông nghiệp có khả
năng đáp ứng nhu cầu của chuỗi thực phẩm toàn cầu trong khi vẫn đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia, tạo thêm thu nhập cho người nông dân và chuyển
dần nền kinh tế sang hoạt động phi nông nghiệp.[80]
Ngoài ra, còn khá nhiều các tác phẩm, báo cáo trong các hội thảo trong
nước và quốc tế; các đề tài, các bài viết "về vấn đề nông nghiệp, nông thôn và
nông dân" đăng tải trên các báo viết và báo mạng như: GS.TS. Tô Duy Hợp,
Viện Xã hội học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam: đã đưa ra những vấn đề xã
hội bức xúc, nan giải trong quá trình đổi mới nông nghiệp, nông thôn, nông
dân Việt Nam trong 20 năm qua và quan điểm định hướng các giải pháp hoá
giải...[23]. Trần Văn Tích “Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung
Quốc hiện nay”, đã hệ thống hoá các quan điểm và thực trạng về vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc [42]. Nguyễn Mạnh Tuân với đề tài
“Chính sách đất đai Nông nghiệp của Trung Quốc”. Đề tài đã hệ thống hoá
21
những thay đổi về chính sách đất đai nông nghiệp của Trung Quốc trong giai
đoạn cải cách và mở cửa, những tồn tại và những bất cập [48]. Ngô Đức Cát,
“Phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn”. Cuốn sách phân tích những
chính sách về nông nghiệp trong giai đoạn đầu đổi mới, đặc biệt khoán 100,
khoán 10 trong nông nghiệp và những bất cập phát sinh sau khoán như: ruộng
đất manh mún, sản xuất nhỏ tự phát theo thị trường…[13]. PGS.TS. Trần Thị
Minh Châu trong cuốn “Về chính sách nông nghiệp ở nước ta hiện nay”, đã hệ
thống hoá những chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp, phân tích những bất
cập của các chính sách…[14]. TS. Chử Văn Lâm, trong đề tài: “Tam nông: Một
số vấn đề nổi lên ở Việt Nam hiện nay”. Tác giải đã tổng hợp những vấn đề
bức súc từ thực tế tam nông ở Việt Nam và định hướng cách tháo gỡ… [25].
PGS.TS. Đỗ Tiến Sâm & ThS. Bùi Thị Thanh Hương, Viện Nghiên cứu Trung
Quốc, Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Trung Quốc với việc giải quyết vấn đề
tam nông. Nhóm tác giả tổng hợp thực trạng vấn đề tam nông của Trung Quốc
và kinh nghiệm giải quyết [34].
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập vấn đề nông
nghiệp trong quá trình CNH, HĐH…; hoặc các nghiên cứu về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn trong giai đoạn đầu đổi mới và hội nhập KTQT… Có một
số nghiên cứu về tác động của WTO đến nông nghiệp nhưng chưa đề cập một
cách đầy đủ, cụ thể, toàn diện tác động của WTO đến nông nghiệp như: Dự án
Hỗ trợ Thương mại đa biên-MUTRAP, “Báo cáo Tác động của cam kết mở
cửa thị trường trong WTO và các Hiệp định khu vực Thương mại tự do (FTA)
đến hoạt động sản xuất, thương mại của Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
cơ chế điều hành xuất nhập khẩu giai đoạn 2011-2015”, báo cáo đánh giá tác
động sau 3 năm gia nhập WTO, phần đánh giá nông nghiệp còn hạn chế ở thị
trường và xuất khẩu nông sản… Dự án “Đánh giá tác động của việc thực hiện
các cam kết WTO và khu vực đối với ngành nông nghiệp và phát triển nông
22
thôn” 8/2012-9/2013. Dự án đánh giá mức độ nhạy cảm trước các cú sốc bên
ngoài; phân tích, đánh giá tác động của hội nhập đến hiệu quả; đánh giá áp lực
điều chỉnh cơ cấu trong một số ngành hàng nông sản. Nghiên cứu, đánh giá các
vấn đề sinh kế, giảm nghèo và doanh nghiệp nông thôn trong quá trình hội
nhập. Dự án chọn ba ngành hàng cá tra, sữa và đường để phân tích và dùng các
mô hình mô phỏng đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết WTO và
khu vực và khuyến nghị chính sách cho những năm tới…
1.3. Những vấn đề cần nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
- Một số vấn đề cần đi sâu nghiên cứu: Qua phần tổng quan, chưa có
một nghiên cứu nào trả lời được và đầy đủ câu hỏi: Nông nghiệp Việt Nam phát
triển như thế nào sau khi gia nhập WTO; Việt Nam cần phải làm gì để nền
nông nghiệp tận dụng ở mức tốt nhất cơ hội và vượt qua được những thách
thức khi thực hiện những cam kết với WTO. Để thực hiện đề tài: “Phát triển
nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhậpTổ chưc thương mại thế giới (WTO)”
và trả lời những câu hỏi trên, luận án đã kế thừa và chọn lọc những kết quả
nghiên cứu ở trên và các nghiên cứu khác.
Về khái niệm, có nhiều khái niệm về ngành nông nghiệp, theo nghĩa hẹp;
theo nghĩa rộng, bao gồm có nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp
và thủy hải sản; theo FAO ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm từ
sản xuất, bảo quản, chế biến và marketing các sản phẩm nông lâm thủy hải sản.
Tuy nhiên, để phù hợp với luận án và điều kiện Việt Nam, luận án tiếp cận
ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng, gồm (nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy hải
sản), theo cách phân loại ngành nông nghiệp của hệ thống tài khoản quốc gia
Việt Nam và trong hội nhập KTQT luận án nghiên cứu từ sản xuất, chế biến,
bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời luận án kế thừa một số lý thuyết về
phát triển nông nghiệp và một số nhận định tác động có thể xảy ra khi gia nhập
và thực hiện cam kết WTO đến nền kinh tế và nông nghiệp.
23
- Cách tiếp cận, các nội dung nghiên cứu của luận án bắt đầu từ khái
niệm nông nghiệp, phát triển và phát triển nông nghiệp; vai trò vị trí của nông
nghiệp, các nội dung phát triển nông nghiệp. Trong bối gia nhập và thực hiện
các cam kết WTO, theo luận án để tiếp cận phát triển nông nghiệp phải tiếp cận
như sau: 1) Phát triển nông nghiệp trên cơ sở phát triển các ngành hàng nông
lâm thủy hải sản nhằm mở rộng thị trường và tham gia vào chuỗi giá trị nông
sản toàn cầu nhằm tận dụng cơ hội của hội nhập. 2) Phát triển nông nghiệp phải
tận dụng được lợi thế so sánh của nông nghiệp, lợi thế về qui mô, chuyên môn
hóa và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa. Luận án tiếp cận từ tập trung hóa (TTH),
chuyên môn hóa (CMH), cũng như liên kết kinh tế ngang và dọc; đây là cách
khắc phục hạn chế vốn có của kinh tế nông hộ và trang trại; bởi kinh tế nông
hộ và trang trại dù có phát triển đến qui mô cỡ nào, thì tự bản thân cũng không
thể tiếp cận thị trường hiệu quả nếu không phát triển các hình thức liên kết kinh
tế trong phát triển nông nghiệp. 3) Phát triển nông nghiệp phải đạt mục tiêu
“phát triển bền vững” nhằm phát triển nền nông nghiệp tăng trưởng nhanh và
ổn định; nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo và cải thiện chất lượng sống
của nông dân; phát triển nền nông nghiệp bảo vệ được môi trường sinh thái
(đất, nước, môi trường sản xuất cũng như môi trường sống…), góp phần đạt
được mục tiêu phát triển bền vững quốc gia…
- Về phương pháp nghiên cứu, luận án kế thừa phương pháp nghiên cứu
định tính kết hợp với định lượng (phương pháp so sánh, phương pháp chỉ số để
đánh giá lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh…), trong “Dự án Hỗ trợ
Thương mại đa biên-MUTRAP” và Dự án “Đánh giá tác động của việc thực
hiện các cam kết WTO và khu vực đối với ngành nông nghiệp và phát triển
nông thôn”, ngoài ra luận án có kế thừa một số phân tích, nhận định và đánh
giá tác động khi thực hiện cam kết WTO đến kinh tế trong đó có nông nghiệp ở
các nghiên cứu khác về thu thập, xử lý, phân tích đánh giá thông tin....
24
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP SAU WTO
Gia nhập WTO thực chất là hội nhập KTQT, chủ yếu liên quan đến vấn
đề kinh tế thương mại bởi những Hiệp định của WTO, trong đó có nông
nghiệp. Do vậy về mặt lý luận phải làm rõ phát triển nông nghiệp; những quy
định, luật định của WTO có liên quan đến nông nghiệp và tác động của nó đến
phát triển nông nghiệp; những cam kết của Việt Nam; những thời cơ, thách
thức và những vấn đề đặt ra đối với phát triển nông nghiệp sau khi gia nhập
WTO. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước sau WTO.
2.1. Nông nghiệp và phát triển nông nghiệp
2.1.1. Nông nghiệp và vai trò của sản xuất nông nghiệp
2.1.1.1. Khái niệm về nông nghiệp
Có nhiều cách hiểu khác nhau về nông nghiệp, theo định nghĩa ở giáo
trình Kinh tế Nông nghiệp, nông nghiệp được hiểu như sau: “Nông nghiệp là
một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp, nó không chỉ là một
ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học, kỹ thuật. Nông nghiệp
hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ
trong nông nghiệp, còn hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả ngành nông nghiệp,
ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản” [31].
Ngày nay, nông nghiệp hiện đại vượt ra khỏi sản xuất nông nghiệp truyền
thống, nó không chỉ là lương thực phẩm phục vụ cho con người, mà còn các
loại sản phẩm khác như: sợi dệt (sợi bông, sợi len, lụa, sợi lanh), nhiên liệu (mê
tan, dầu sinh học, ethanol..), da thú, cây cảnh, sinh vật cảnh, chất hóa học (tinh
bột, đường, mì chính, cồn, nhựa thông), các sản phẩm lai tạo giống, các sản
phẩm vi sinh được tạo ra từ công nghệ sinh học, các chất gây nghiện cả hợp
pháp và không hợp pháp như (thuốc lá, cocaine..)…
25
Trong WTO, Hiệp định nông nghiệp không đưa ra khái niệm cụ thể về
nông nghiệp theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, tại Điều 2 của Hiệp định đã xác định
một số sản phẩm nông nghiệp thuộc biểu thuế Xuất nhập khẩu (HS): như động
vật sống, các sản phẩm động thực vật, các sản phẩm trồng trọt, các sản phẩm
chăn nuôi, sữa, trứng...các sản phẩm này được mô tả từ Chương 1 đến Chương
24 tại biểu thuế HS, có thể thấy sản phẩm nông nghiệp liên quan đến các nội
dung về canh tác, vụ mùa, chăn nuôi và trồng trọt như được mô tả tại biểu thuế
các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, biểu thuế về các sản phẩm của ngành
thủy hải sản… Các định nghĩa về nông nghiệp (theo các khía cạnh kinh tế, xã
hội, luật học và các quy định về diện sản phẩm nông nghiệp tại Hiệp định nông
nghiệp của WTO) cho thấy cách hiểu về định nghĩa nông nghiệp có sự đồng
nhất tương đối [83].
Theo luận án, ngành nông nghiệp được hiểu đầy đủ phải như sau: “Nông
nghiệp là một trong những ngành kinh tế-xã hội quan trọng và phức tạp, nó
không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học, kỹ
thuật. Nông nghiệp hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn
nuôi và ngành dịch vụ trong nông nghiệp, còn hiểu theo nghĩa rộng bao gồm
cả ngành nông nghiệp, ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản”. Ngành nông
nghiệp là ngành kinh tế - xã hội, bởi ý nghĩa xã hội được thể hiện: 1) Là ngành
cung cấp lương thực thực phẩm thiết yếu cho con người, phát triển nông
nghiệp đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia và toàn cầu, góp phần xóa đói
giảm nghèo, góp phần giữ vững an ninh chính trị-xã hội. 2) Phát triển nông
nghiệp bền vững còn góp phần giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái trong sản
xuất và môi trường sống của con người.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, nông nghiệp là ngành sản
xuất vật chất cơ bản của xã hội; sử dụng đất đai để trồng trọt, chăn nuôi; khai
thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra
26
lương thực thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một
ngành sản xuất lớn bao gồm nhiều chuyên ngành. Nông nghiệp theo nghĩa hẹp
gồm trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản và theo nghĩa rộng bao gồm
thêm lâm nghiệp, thuỷ sản.
Theo Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI)
ban hành năm 2007, ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng gồm ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản), ngành nông nghiệp gồm các hoạt động trồng
cây hàng năm, trồng cây lâu năm, nhân và chăm sóc cây giống nông nghiệp,
chăn nuôi, trồng trọt và chăn nuôi hỗn hợp, hoạt động dịch vụ nông nghiệp, săn
bắt - đánh bẫy và hoạt động dịch vụ có liên quan. Ngành lâm nghiệp gồm các
hoạt động trồng rừng và chăm sóc rừng, khai thác gỗ và lâm sản khác, thu nhặt
sản phẩm từ rừng không phải gỗ và lâm sản, hoạt động dịch vụ lâm nghiệp.
Ngành thủy sản gồm các hoạt động khai thác thủy sản, nuôi trồng thủy hải sản.
Trồng trọt, là tiểu ngành của ngành nông nghiệp là tiểu ngành sử dụng đất
và cây trồng làm đối tượng chính để sản xuất ra lương thực, thực phẩm, nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến và thỏa mãn những nhu cầu khác của con người
như tạo cảnh quan, sinh thái (hoa, cây cảnh…). Có nhiều cách phân loại cây
trồng, theo phân loại của Tổng cục Thống kê, phân cây trồng theo thời gian của
chu kỳ sinh trưởng và kết hợp với mục đích sử dụng. Cây trồng được thành hai
nhóm cây hàng năm và cây lâu năm; trong cây hàng năm chia thành nhóm cây
lương thực có hạt và nhóm cây cho củ, nhóm cây công nghiệp hàng năm, nhóm
đồng cỏ và cây thức ăn gia súc, nhóm cây rau và hoa, cây dược liệu; cây lâu
năm chia thành nhóm cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả.
Chăn nuôi, là một trong hai tiểu ngành chính của nông nghiệp ( theo nghĩa
hẹp), với đối tượng sản xuất là động vật nuôi. Chăn nuôi cung cấp thực phẩm
giàu đạm như: thịt các loại, trứng, sữa; cung cấp da, lông cho công nghiệp chế
biến; sản phẩm phụ làm phân bón cho trồng trọt. Nguồn thức ăn cho chăn nuôi
27
chủ yếu lấy từ trồng trọt, phát triển chăn nuôi làm tăng giá trị gia tăng và tăng
hiệu quả của sản xuất trồng trọt.
Lâm nghiệp, bao gồm các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và bảo vệ rừng,
khai thác, chế biến các sản phẩm từ rừng, duy trì tác dụng phòng hộ nhiều mặt
của rừng [50]. Theo luật bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam, rừng là một
hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng,
đất rừng, trong đó cây gỗ, tre lứa hoặc hoặc hệ thực vật đặc trưng có hệ số độ
che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm: rừng trồng và rừng tự nhiên
trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng [27].
Thủy sản, bao gồm đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. Đánh bắt gồm:
đánh bắt cá và các sinh vật thủy hải sản; việc đánh bắt phải kết hợp với bảo vệ
các nguồn lợi thủy hải sản nhằm bảo vệ môi trường và duy trì nguồn thủy hải
sản trong tương lai. Nuôi trồng thủy hải sản bao gồm nuôi cá, tôm nước mặn,
nước lợ, nước ngọt; nuôi các loài nhuyễn thể như trai, sò, ngao; ngoài ra còn
nuôi trồng rong, tảo…
2.1.1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất đặc thù mà các ngành sản xuất không có,
những đặc điểm đó là:
Ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt, chủ yếu trong nông nghiệp và
ngày càng khan hiếm. Ruộng đất cố định về không gian, nếu trong quá trình sử
dụng hợp lý sẽ không bị hao mòn mà còn làm tăng độ phì nhiêu của đất; ruộng
đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế trong sản xuất nông nghiệp. Do đó,
việc bảo tồn quỹ đất và không ngừng nâng cao độ phì của đất vấn đề sống còn
trong sản xuất và phát triển nông nghiệp.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi, những cơ thể
sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo quy luật riêng vốn có của chúng.
Quá trình sản xuất kinh tế nông nghiệp phải gắn với quá trình sinh học, mọi tác
28
động của sản xuất phải tuân theo quá trình sinh trưởng và phát triển của cây
trồng vật nuôi.
Sản xuất nông nghiệp có phân bố rộng khắp phụ thuộc vào đối tượng lao
động: Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên không gian rộng lớn, do đối
tượng sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi, chúng chỉ sinh trưởng và
phát triển tốt gắn với điều kiện tự nhiên, khí hậu thời tiết và môi trường sinh
thái nhất định. Do vậy mỗi vùng tự nhiên, khí hậu thời tiết và sinh thái-cây
trồng vật nuôi cho sản phẩm đặc hữu đặc trưng của vùng. Trong WTO, Hiệp
định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ
(TRIPS), trong đó quy định Chỉ dẫn địa lý trong Điều 22 yêu cầu các nước
thành viên phải bảo vệ các chỉ dẫn đã được xác định theo định nghĩa nhằm
ngăn ngừa sai tên ứng dụng; Điều 27.3b quy định giống cây trồng và các vấn
đề liên quan đến công nghệ sinh học. [55].
Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ rất cao. Do đối tượng của sản
xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi, nên quá trình tái sản xuất nông nghiệp
gắn với quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian lao động gắn với thời gian sản
xuất không hoàn toàn trùng khớp, do vậy sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ
cao, tác động của con người vào cây trồng vật nuôi thông qua tác động vào môi
trường. Điều đó đặt ra vấn đề sử dụng các nguồn lực trong phát triển nông
nghiệp (Sử dụng tài nguyên thiên nhiên, vốn, tư liệu sản xuất, lao động) có
hiệu quả cao và bền vững.
2.1.1.3. Vai trò của nông nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội
Xu hướng của nông nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong nền
kinh tế quốc dân, lao động trong nông nghiệp cũng giảm dần và chuyển dịch
sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đất đai tư liệu sản xuất chủ yếu cũng
có xu hướng thu hẹp do quá trình CNH, ĐTH. Nhưng sản lượng nông lâm thủy
hải sản phải tăng lên để đáp ứng tăng dân số và nguyên liệu cho công nghiệp
29
chế biến. Nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều tài nguyên nhất (đặc biệt là đất
đai) và “phát triển nông nghiệp bền vững” góp phần làm chậm quá trình biến
đổi khí hậu. Như vậy nông nghiệp ngoài vai trò phát triển kinh tế, còn có cả vai
trò xã hội và môi trường như sau:
Phát triển nông nghiệp thúc đẩy phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh
tế khác thể hiện qua các vai trò sau: 1) Nông lâm thủy hải sản là nguyên liệu
đầu vào cho các ngành kinh tế, đặc biệt là công nghiệp chế biến. 2) Nông
nghiệp tạo ra thặng dư ngoại tệ nhờ xuất khẩu nông sản để đầu tư cho CNH –
HĐH. 3) Nông nghiệp là thị trường rộng lớn tiêu thụ trang thiết bị máy móc và
vật tư nông nghiệp (phân bón, hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật...). 4) CNH,
HĐH nông nghiệp tạo ra dư thừa lao động để cung cấp nguồn lao động cho
công nghiệp và dịch vụ...
Phát triển nông nghiệp góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Phát triển nông nghiệp ngoài mục tiêu loại trừ đói, thiếu ăn cho người nghèo
còn đảm bảo an ninh lương thực. An ninh lương thực đang là vấn đề sống còn
của mỗi quốc gia. Bảo đảm an ninh lương thực sẽ hạn chế những khó khăn, rủi
ro trong phát triển kinh tế và đời sống của người dân, tạo nền tảng cho ổn định
chính trị - xã hội.
Phát triển nông nghiệp bền vững góp phần gìn giữ và bảo vệ môi trường
sinh thái. Trong nông nghiệp, các nguồn lực được sử dụng hợp lý, không chỉ
tạo ra nền nông nghiệp phát triển bền vững mà còn tạo ra môi trường tốt và đa
dạng sinh học, đó cũng là môi trường sống của con người. Bảo vệ môi trường
chính là bảo vệ môi trường sản xuất nông nghiệp, bảo tồn đa dạng sinh học duy
trì cân bằng sinh thái, nhờ đó làm chậm quá trình biến đổi khí hậu. Do vậy,
trong phát triển nông nghiệp cần áp dụng các giải phát, các quy trình công nghệ
canh tác bền vững (Canh tác bền vững có nghĩa là phải đồng thời đáp ứng 3
mục tiêu: i) Bền vững về sinh thái bao gồm: quản lý tài nguyên đất, nước, bảo
30
vệ đa dạng sinh học và các phương thức canh tác bền vững. ii) Lợi ích về kinh
tế. iii) Lợi ích xã hội đối với nông dân và cộng đồng).
Như vậy xét về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường; nông nghiệp có
vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện hiện
nay, nhất là các nước có nền kinh tế mà nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao và
đang trong quá trình CNH, HĐH, nếu không phát triển nông nghiệp bền vững
thì khó có nền kinh tế phát triển bền vững và hội nhập thành công. Chính vì,
nông nghiệp trở thành xuất phát điểm của phát triển kinh tế và cải cách kinh tế.
2.1.2. Phát triển nông nghiệp
2.1.2.1. Khái niệm về phát triển nông nghiệp
Qua tổng quan chưa có nghiên cứu nào đề cập về khái niện phát triển
nông nghiệp, để hiểu rõ hơn, chúng ta đi từ các khái niệm liên quan đến phát
triển kinh tế.
Phát triển kinh tế, hiện có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển kinh
tế, giáo trình Kinh tế của trường đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng ” Phát
triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế, bao
gồm cả việc gia tăng sản lượng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo
hướng tiến bộ và nâng cao chất lượng cuộc sống con người” [26].
Như vậy, phát triển kinh tế được khái quát theo bốn nội dung: Một là,
gia tăng nhanh tổng sản lượng của nền kinh tế (GDP, giá trị gia tăng, kim
ngạch xuất nhập khẩu...); đây là nội dung thể hiện sự biến đổi về lượng của nền
kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống của dân cư trong một quốc gia.
Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiến bộ, một cơ cấu kinh tế tiến bộ phải phát
huy cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, phát huy được lợi thế cạnh tranh, phát
triển ổn định và bền vững, lấy thị trường quốc tế làm căn cứ, cơ cấu đó bao
gồm cơ cấu tổng thể nền kinh tế, cơ cấu các ngành, cơ cấu theo vùng miền, cơ
cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu phân bổ các nguồn lực... Ba là, gia tăng năng lực
31
nội sinh của nền kinh tế, bao gồm năng lực tái đầu tư phát triển, qui mô và chất
lượng của các nguồn lực đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững,
đồng thời nền kinh tế đó phải có năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh
tranh của ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh
của sản phẩm cao, có đủ khả năng để vượt qua những biến động của khủng
hoảng kinh tế và biến động của thị trường. Bốn là, nâng cao chất lượng cuộc
sống, đó là kết quả của nâng cao thu nhập đầu người, đảm bảo công bằng xã
hội, xóa bỏ nghèo đói và thu hẹp khoảng cách giầu nghèo [91].
Phát triển nông nghiệp, nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế
cơ bản của mỗi quốc gia, nên những nội dung của phát triển kinh tế cũng là
những nội dung chủ yếu của phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, nông nghiệp là
ngành kinh tế có những đặc thù riêng mà những ngành kinh tế khác không có;
phát triển luôn là quá trình tự thân vận động của sự vật từ thấp đến cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện ở mức độ cao hơn; vì vậy luận án sẽ nghiên cứu phát
triển nông nghiệp như phát triển nội tại của ngành kinh tế gắn với những đặc
thù của nông nghiệp. Trước hết hãy xem xét một số quan điểm về ngành kinh
tế và ngành nông nghiệp để hình thành quan niệm về phát triển nông nghiệp.
Theo trường phái cơ cấu kinh tế và quản trị sản xuất thì ngành kinh tế là
kết quả của việc phân công lao động xã hội và ngành này khác với ngành khác
ở chỗ các yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất và sản phẩm làm ra. Theo quan
điểm này, để phát triển nông nghiệp cần phải nâng cao qui mô và chất lượng
yếu tố đầu vào, áp dụng các quy trình, công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng
và đa dạng chủng loại nông lâm thủy hải sản sản xuất ra. Trong đó, khoa học
và công nghệ đóng vai trò quyết định cho phát triển nông nghiệp.
Theo trường phái kinh tế chính trị mà Micheal Porter là đại diện, ngành
được hình thành dựa vào các sản phẩm dễ thay thế nhau và các doanh nghiệp
luôn chịu áp lực cạnh tranh trong nội bộ ngành từ các đối thủ, nhà cung cứng,
32
người tiêu thụ, đối thủ tiềm ẩn và các sản phẩm thay thế… Do đó, các doanh
nghiệp, ngành muốn phát triển phải có chiến lược kinh doanh để chuyển lợi thế
so sánh thành năng lực cạnh tranh như: hạ chí phí sản xuất, tạo ra sự khác biệt
về sản phẩm, nâng cao chất lượng, thương hiệu sản phẩm…; liên tục duy trì
năng lực cạnh tranh để phát triển. Theo quan điểm này để duy trì phát triển
nông nghiệp, các doanh nghiệp nông nghiệp và ngành nông nghiệp sản xuất
theo thị trường và nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, đồng thời phải xây
dựng được mối liên doanh, liên kết, hợp tác hình thành chuỗi liên kết giá trị
ngành hàng nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh ngành mạnh để đưa nông sản đến
người tiêu dùng với chí phí thấp chất lượng cao.
Tổ chức nông lương thế giới (FAO), nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao
gồm cả sản xuất, bảo quản, chế biến và marketing các sản phẩm trồng trọt,
chăn nuôi, lâm sản và thủy hải sản. Đồng thời FAO nhấn mạnh phát triển nông
nghiệp bền vững là yêu cầu của phát triển nông nghiệp hiện nay, khi mà cả thế
giới đang hành động để làm chậm quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu. FAO
cho rằng phát triển nông nghiệp bền vững trên cơ sở quản lý và bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên; thay đổi thể chế và công nghệ nhằm đảm bảo duy trì và
thỏa mãn nhu cầu của con người cả thế hệ hiện tại và tương lai. Sự phát triển
bền vững như vậy, đảm bảo không tổn hại đến môi trường, với công nghệ phù
hợp, có hiệu quả về kinh tế và được xã hội chấp nhận. [86]
Khác biệt của ngành nông nghiệp so với ngành kinh tế khác vì những
đặc điểm sau: 1) Nông nghiệp khởi thủy là hoạt động tự nhiên của loài người
(săn, bắt, hái, lượm) để tự nuôi sống bản thân mình. Cùng với quá trình phát
triển xã hội loài người, nhiều nghề, ngành mới hình thành và tách ra khỏi nông
nghiệp, hình thành nền sản xuất hàng hóa... Ngày nay, nhiều ngành kinh tế mới
ra đời, phát triển và có thể mất đi, nhưng dù có phát triển thế nào thì nông
nghiệp cũng vẫn tồn tại. 2) Phương thức sản xuất của nông nghiệp đi từ thủ
33
công đến cơ giới hóa, tự động hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa và
hiện đại hóa... Tuy nhiên, do đối tượng sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật
nuôi trên không gian rộng lại có tính thời vụ, nên bên cạnh phương thức sản
xuất hiện đại vẫn tồn tại phương thức sản xuất truyền thống kết hợp với nhau;
nhiều công đoạn của sản xuất nông nghiệp hiện đại vẫn dùng đến lao động thủ
công và phương thức sản xuất truyền thống. 3) Chủ thể của sản xuất nông
nghiệp chủ yếu là nông dân, bên cạnh phương thức tố chức sản xuất hiện đại,
kinh tế hộ nông dân và trang trại vẫn tồn tại vì tính hiệu quả nhất định của nó.
Do vậy, liên kết và hợp tác tạo thành chuỗi giá trị ngành hàng nông, lâm, thủy
hải sản để nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp và nâng cao năng lực
cạnh tranh là nội dung trong phát triển nông nghiệp.
Ngoài những khác biệt nêu trên, nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập
WTO vẫn là nền nông nghiệp lạc hậu, phát triển chủ yếu vẫn dựa vào nguồn tài
nguyên thiên nhiên và sức lao động, giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp
thấp; trong khi nông nghiệp vẫn là điểm tựa cho phát triển và CNH, HĐH nền
kinh tế trong đó có công nghiệp, xóa đói, giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội
và bảo vệ môi trường.
Tư những phân tích trên, luận án cho rằng: Phát triển nông nghiệp là
quá trình vận động của ngành nông nghiệp nhằm chuyển đổi từ sản xuất thủ
công là chủ yếu sang nền nông nghiệp sử dụng máy móc và công nghệ hiện
đại; chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp là chính thành nền sản xuất hàng
hóa chất lượng cao và tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị nông
sản toàn cầu; và phát triển nhanh nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, nông
nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao..., nhằm đáp ứng mục tiêu của
phát triển nông nghiệp bền vững.
Trong nghiên cứu này, ngành nông nghiệp được hiểu là nông nghiệp
theo nghĩa rộng, bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Áp dụng theo
34
cách phân loại ngành kinh tế trong hệ thống thống kê chính thức của Việt Nam.
2.1.2.2. Nội dung của phát triển nông nghiệp
Khi nghiên cứu phát triển nông nghiệp, luận án xuất phát từ nội tại của
ngành nông nghiệp, nhưng trong quá trình phát triển không thể thoát ly với quá
trình phát triển kinh tế nói chung. Do vậy, nội dung của phát triển nông nghiệp
không thể tách rời với quá trình CNH, HĐH và quá trình hội nhập KTQT. Nên
nội dung của phát triển nông nghiệp hiện nay có những nội dung chính sau:
1) Xây dựng mô hình và tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp hợp lý:
Trên cơ sở nguồn lực của thị trường và nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp
xác định tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) và nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản vừa đảm bảo tính ổn định vừa đảm bảo phát triển
bền vững. Đây là điểm quan trọng, vì suốt trong giai đoạn dài của mở cửa nền
khinh tế và gia nhập WTO, nông nghiệp tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác
các nguồn lực tự nhiên mà ít chú ý đến nguồn lực thị trường và các nguồn lực
khác nên hiệu quả sử dụng các nguồn lực và hiệu quả sản xuất nông nghiệp
thấp. Thứ nữa, là phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang
tăng trưởng theo chiều sâu (tăng trưởng dựa trên giá trị gia tăng); nghĩa là phải
lựa chọn những ngành hàng nông lâm thủy hải sản có lợi thế so sánh, có năng
lực cạnh tranh cao; đồng thời lựa chọn những khâu, những cung đoạn sản xuất
có giá trị gia tăng cao, tỷ suất lợi nhuận lớn để tham gia vào chuỗi giá trị nông
sản toàn cầu. Chẳng hạn trong giai đoạn vừa qua, xuất khẩu lúa gạo có tốc độ
tăng trưởng lớn, góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, nhưng người
sản xuất ở vùng xuất khẩu lúa gạo lớn vẫn nghèo, đó là một nghịch lý.
2) Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tối ưu và hiện đại:
Thuật ngữ “cơ cấu” được sử dụng để chỉ các bộ phận hợp thành của một tổng
thể nào đó và mối quan hệ của các bộ phận đó trong tổng thể. Trong ngành
nông nghiệp, các bộ phận hợp thành có thể xem xét ở ngành, tiểu ngành, phân
35
ngành, lĩnh vực, sản phẩm, vùng hoặc thành phần kinh tế... Tuy nhiên mối, mối
quan hệ giữa các bộ phận rất khác nhau tùy từng tổng thể, từng giai đoạn. Từ
đó luận án cho rằng, cơ cấu sản xuất nông nghiệp là tổng thể các ngành, lĩnh
vực, bộ phận trong sản xuất nông nghiệp với vai trò, vị trí các thành phần hợp
thành theo tỷ lệ tương ứng, ổn định trong một thời gian nhất định.
Cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp luôn thay đổi cùng với sự thay đổi
của cung cầu của thị trường, những tiến bộ của khoa học và công nghệ, chất
lượng nguồn nhân lực, đối thủ cạnh tranh và đối tác kinh tế... Chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý và hiện đại (hay tái cơ cấu sản xuất nông
nghiệp) chính là chuyển sang cơ cấu có khả năng tái sản xuất mở rộng, khai
thác được những lợi thế so sánh và tăng năng lực cạnh tranh cũng như tăng
năng lực tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu; đồng thời có giá trị gia tăng
cao, sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao, có thị trường lớn và
ổn định; tăng những bộ phận hay những ngành hàng có lợi thế so sánh và hiệu
suất sử dụng tài nguyên thiên nhiên thấp, có giá trị gia tăng cao và ít gây tổn
hại đến môi trường.
3) Đầu tư theo chiều sâu (thâm canh) trên cơ sở khoa học và công nghệ
tiên tiến: Trong lịch sử phát nông nghiệp của loài người trải qua nhiều phương
thức sản xuất khác nhau: từ chọc lỗ tỉa hạt đến quảng canh và thâm canh...
Quảng canh là phương thức làm tăng sản lượng nông sản bằng việc tăng
diện tích gieo trồng hoặc tăng số đầu gia súc với cơ sở vật chất kỹ thuật thấp
kém và lao động thủ công. Trong giai đoạn đầu phát triển nông nghiệp chủ yếu
dựa vào phương thức này, nhưng xu hướng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp
và xu hướng giảm vụ để đất đai có thời gian tái tạo độ phì nhiêu, nên phát triển
nông nghiệp chuyển dần sang phương thức sản xuất tiến bộ hơn- phương thức
thâm canh.
Thâm canh ngược lại với quảng canh, là phương thức sản xuất tiến bộ
36
hơn nhằm tăng sản lượng nông lâm thủy hải sản bằng cách đầu tư tăng thêm tư
liệu sản xuất, sức lao động trên một đơn vị diện tích hay trên mỗi đầu vật nuôi,
đồng thời hoàn thiện không ngừng biện pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, tổ
chức và quản lý và các yếu tố khác của sản xuất nhằm thu được nhiều sản
phẩm trên một đơn vị diện tích hay trên đầu mỗi vật nuôi, với chi phí thấp.
Theo nhà kinh tế học Paul A.Samuelson, đây chính là tích lũy vốn theo chiều
sâu và điều này chỉ xảy ra khi có cải tiến về giống, kỹ thuật canh tác, áp dụng
công nghệ sinh học, thủy lợi hóa, cơ giới hóa, hóa học hóa, điện khí hóa...,
đồng thời phải nâng cao chất lượng nguồn lực lao động nông nghiệp thông qua
giáo dục và đào tạo nghề. Tuy nhiên, đối tượng của sản xuất nông nghiệp là
cây trồng vật nuôi chúng sinh trưởng và phát triển theo quy luật sinh học riêng;
do vậy tăng đầu tư thâm canh chỉ đạt sản lượng cao có chi phí thấp trong phạm
vi giới hạn nhất định.
Hiện nay, kinh tế trên thế giới tăng trưởng nhanh và đạt ở trình độ cao;
nên phát triển kinh tế nói chung trong đó có nông nghiệp phải phát triển bền
vững; bao gồm bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt xã hội và bền vững
về môi trường sinh thái; đồng thời nhu cầu và thị hiếu về nông lâm thủy hải sản
cũng có thay đổi, không chỉ đòi hỏi chất lượng cao, mà phải đảm bảo an toàn
vệ sinh thực phẩm. Do vậy, phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải xây dựng nền
nông nghiệp dựa trên nền khoa học và công nghệ hiện đại; kết hợp với kỹ thuật
canh tác truyền thống, kỹ thuật bản địa để sản xuất ra những đặc sản nông lâm
thủy hải sản. Nền nông nghiệp dựa trên khoa học và công nghệ hiện đại gồm:
cơ giới hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa, tư động hóa; ngoài ra còn
gồm những quy trình công nghệ: nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ gen,
công nghệ vi sinh, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái...
4) Thúc đẩy mạnh chuyên môn hóa, tập trung hóa và liên kết hợp tác
trong phát triển nông nghiệp: Chuyên môn hóa sản xuất là quá trình tập trung
37
các yếu tố sản xuất của một đơn vị để sản xuất ra một hay một số mặt hàng
nông sản phù hợp điều kiện sinh thái, nguồn lực sẵn có theo nhu cầu của thị
trường [30]. Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp đến trình độ nào đó tất yếu
sẽ dẫn đến tập trung hóa.
Tập trung hóa sản xuất nông nghiệp là tập trung các nguồn lực, các yếu
tố sản xuất để sản xuất ra một hoặc vài mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản nhằm
tạo ra sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn để tạo thuận lợi cho việc đưa khoa
học, công nghệ hiện đại và áp dụng các chương trình, đề án, quy trình sản xuất
bền vững, sản xuất sạch,... vào các khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo
quản, chế biến và tiêu thụ làm tăng giá trị gia tăng và tăng hiệu quả.
Do đặc điểm vốn có của nông nghiệp, nên chuyên môn hóa và tập trung
hóa trong nông nghiệp mang tính tương đối, vì vậy chuyên môn hóa và tập
trung hóa phải kết hợp với phát triển tổng hợp và đa dạng nhằm hỗ trợ cho
chuyên môn hóa và tập trung hóa, đồng thời đảm bảo môi trường sinh thái bền
vững. Đẩy mạnh CMH và TTH tạo điều kiện hình thành các doanh nghiệp
nông nghiệp, các trang trại, các nông hộ có sản xuất nông sản hàng hóa qui mô
lớn, đồng thời còn thúc đẩy phân công, hợp tác, liên kết hình thành chuỗi giá trị
nông sản, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi
giá trị nông sản toàn cầu.
Trong xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế đã thúc đẩy mạnh quá trình
phân công, hợp tác, liên doanh và liên kết; hình thành các công ty, các tập đoàn
đa quốc gia và các chuỗi giá trị hàng hóa toàn cầu, trong đó có nông nghiệp.
Toàn cầu hóa về mặt kinh tế, buộc các nước đều phải lựa chọn những mặt
hàng, những ngành hàng và những khâu, những cung đoạn có lợi thế cạnh
tranh và giá trị gia tăng cao để phát triển; vì thế mà thúc đẩy phân công, hợp
tác, liên doanh và liên kết trong sản xuất nói chung và trong nông nghiệp nói
riêng. Hơn nữa, do đối tượng của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi được sản
38
xuất trên không gian rộng, sự khác biệt về các nguồn lực tự nó đã tạo ra sự
phân công nhất định. Đồng thời các chủ thể trong sản xuất nông nghiệp là các
trang trại, các hộ nông dân qui mô sản xuất thường không quá lớn; nên quá
trình hợp tác, liên doanh và liên kết từ sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ
là đòi hỏi khách quan.
Tuy nhiên, phân công, hợp tác, liên doanh và liên kết trong nông nghiệp
chỉ được hình thành trên nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa ở một qui mô nhất
định. Nên các nước đang và chậm phát triển có nền nông nghiệp lạc hậu, sản
xuất quá nhỏ và manh mún; việc trước tiên là phải phát triển các hình thức tổ
chức sản xuất nông nghiệp như: nông hộ, trang trại, hợp tác xã và các doanh
nghiệp qui mô lớn; đồng thời thúc đẩy mạnh quá trình hợp tác, liên doanh và
liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ. Hợp tác, liên doanh, liên kết theo từng khâu
sản xuất, chế biến, tiêu thụ gọi là liên kết theo chiều ngang (rộng) nhằm mở
rộng qui mô sản xuất; hợp tác, liên doanh và liên kết, từ sản xuất đến chế biến
và tiêu thụ đến người tiêu dùng cuối cùng gọi là liên kết theo chiều dọc (chiều
sâu); hình thành chuỗi giá trị ngành hàng nông sản.
Để đưa nông sản đến người tiêu dùng, mỗi ngành hàng nông sản hình
thành nên chuỗi giá trị ngành hàng riêng của nó. Chuỗi ngành hàng là tập hợp
các tác nhân (hay các bộ phận hợp thành của tác nhân) kinh tế qui tụ trực tiếp
vào việc đưa ra một sản phẩm cuối cùng [24]. Chuỗi giá trị ngành hàng nông
sản được xem như là chuỗi cung cấp của ngành hàng đó. Ở mỗi khâu của chuỗi
ngành hàng nông sản được chuyển từ đối tác này sang đối tác khác, và qua mỗi
khâu giao dịch sẽ làm cho giá trị nông sản tăng thêm. Nhưng trên hết chuỗi giá
trị ngành hàng thể hiện một hệ thống liên kết các đối tác trên chuỗi để nâng cao
hiệu năng hoạt động và chất lượng của chuỗi cung cấp [85]. Chuỗi giá trị
ngành hàng nông sản liên kết chặt chẽ từ người sản xuất, người thu gom, người
chế biến, người bán buôn và người bán lẻ [79].
39
Dòng tài chính và giá trị gia tăng của chuỗi giá trị ngành hàng nông sản,
thì khâu chế biến và tiêu thụ phân phối có giá trị gia tăng cao nhất còn khâu sản
xuất nông nghiệp có giá trị gia tăng thấp nhất; khâu tiêu thụ phân phối có sức
cản lớn nhất khi ra nhập vào chuỗi giá trị ngành hàng.
Để đảm bảo hoạt động của chuỗi thì hạ tầng kỹ thuật như: giao thông,
thông tin liên lạc, dịch vụ kho bãi và logistics, thông tin thị trường, nghiên cứu
và dịch vụ tài chính; ngoài ra thể chế như: qui định, luật định của WTO, hiệp
định thương mại song phương và đa phương, luật trong nước, địa phương, các
hiệp hội... đóng vai trò hỗ trợ nhưng không kém phần quan trọng.
5) Xây dựng một ngành nông nghiệp có năng lực cạnh tranh cao.
Năng lực cạnh tranh có nhiều cấp độ như: năng lực cạnh tranh quốc gia,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, năng
lực cạnh tranh của ngành hàng cụ thể nào đó và năng lực cạnh tranh của ngành
kinh tế.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng của một nền kinh tế đạt được
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, đưa đến sự cải thiện lâu dài mức
sống người dân, dựa trên cơ sở tăng năng suất (Theo quan niệm của WEF- diễn
đàn kinh tế thế giới). Có thể nói năng lực cạnh tranh quốc gia bao trùm cả năng
lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp và sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp
trong việc tối đa hoá lợi nhuận, tăng vốn kinh doanh và giá trị doanh nghiệp
trên cơ sở duy trì và mở rộng thị phần, khai thác các nguồn lực đầu vào trong
môi trường cạnh tranh cụ thể. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện
vị thế của doanh nghiệp trên thị trường so với doanh nghiệp khác.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng chiếm lĩnh và trụ vững
trên thị trường của sản phẩm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đánh giá
qua thị phần của sản phẩm, chất lượng và giá cả sản phẩm. Năng lực cạnh tranh
40
của sản phẩm thể hiện sức sống của sản phẩm với tư cách là một kết quả sản
xuất, kinh doanh của một doanh nghiệp cụ thể.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm quyết định năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của ngành hàng. Năng lực cạnh tranh của
quốc gia là điều kiện hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và
doanh nghiệp. Từ đó luận án cho rằng, có thể hiểu ngành kinh tế là tổng thể các
ngành hàng, những doanh nghiệp trong mối quan hệ phân công lao động và
hợp tác để tạo ra những sản phẩm cuối cùng nào đó. Theo quan niệm này thì
chủ thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế không những là các quốc gia, các
doanh nghiệp mà còn là tổng thể các doanh nghiệp của từng ngành. Do đó
muốn tham gia cạnh tranh quốc tế thành công thì từng ngành kinh tế của
quốc gia đó phải có năng lực cạnh tranh. Nói tổng quát hơn, năng lực cạnh
tranh của một quốc gia phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của các ngành trong
nền kinh tế. Năng lực cạnh tranh của một ngành lại xuất phát từ năng lực cạnh
tranh của các tiểu ngành, các ngành hàng, các doanh nghiệp trong ngành: khả
năng đổi mới công nghệ, sản phẩm, cung cách quản lý của ngành và môi trường
kinh doanh.
Năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là tổng thể
năng lực cạnh tranh của các tiểu ngành (nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản),
các doanh nghiệp trong ngành và các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản cụ thể.
Xây dựng ngành nông nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là phải nâng cao
năng lực cạnh tranh của từng tiểu ngành; của từng ngành hàng nông, lâm, thủy hải
sản, của các chủ thể sản xuất chế biến và kinh doanh thương mại trong ngành
hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản.
6) Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, bảo quản chế biến, tiêu
thụ đồng bộ và hiện đại. Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật,
kiến trúc đóng vai trò nền tảng cho hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra một cách
bình thường. Trình độ phát triển kết cấu hạ tầng được xem là thước đo trình độ
41
phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Đối với ngành nông nghiệp kết cấu
hạ tầng gồm:
Hệ thống thủy lợi gồm các công trình cấp thoát nước như hồ, đập, đê
ngăn lũ và ngăn mặn, trạm bơm, mương. Thủy lợi đóng vai trò quan trọng
trong việc kiểm soát nước cho cây trồng vật nuôi và giảm tác hại của tự nhiên.
Hệ thống giao thông nội đồng và giao thông nông thôn. Do tính không
thể tách rời giữa nông nghiệp - nông thôn và giữa phát triển kinh tế - xã hội,
mà hệ thống giao thông nông thôn cũng góp phần phát triển nông nghiệp. Hệ
thống cảng biển, cảng sông, cảng cá và khu neo đậu tàu thuyền; các hoạt động
logistics cũng là hạ tầng cho phát triển nông nghiệp.
Hệ thống nhà lưới, nhà kính, sân phơi, lò sấy, kho chứa vật tư, kho chứa
bảo quản nông sản và hạt giống, chuồng trại chăn nuôi và nuôi trồng thủy hải
sản, khu chế biến nông sản, trạm trại giống cây con...
2.1.2.3. Các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp
Các nguồn lực chủ yếu trong phát triển nông nghiệp gồm nguồn tài
nguyên thiên nhiên và môi trường, lao động, vốn, khoa học và công nghệ. Qui
mô và chất lượng của các nguồn lực qui định qui mô phát triển nông nghiệp và
hiệu quả của sản xuất nông nghiệp.
- Tài nguyên thiên nhiên và môi trường, là nguồn lực quan trọng không
thể thiếu trong phát triển nông nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường
trong phát triển nông nghiệp gồm đất đai, ruộng vườn, đồi núi, biển, sông ngòi,
ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển....; nước, khí hậu thời tiết và cả đa dạng
sinh học. Trong nông nghiệp truyền thống, tài nguyên thiên nhiên và môi
trường được coi là nguồn lực thuần túy, nên đã khai thác triệt để và kết quả làm
kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và làm suy giảm môi trường, cũng như
đa dạng sinh học. Hiện nay, quan điểm mới về phát triển nông nghiệp thì tài
nguyên thiên nhiên không chỉ là nguồn lực mà còn là thành tố của môi trường
42
liên quan đến quá trình phát triển nông nghiệp và môi trường sống của con
người và động thực vật. Thách thức lớn đối phát triển nông nghiệp là việc khai
thác tài nguyên thiên nhiên như thế nào để chúng đáp ứng được nhu cầu ngày
càng tăng và đa dạng của con người, nhưng vẫn duy trì được chất lượng lâu dài
của những tài nguyên đó.
- Nguồn lực lao động là lực lượng sản xuất quan trọng, đồng thời là chủ
thể có tính quyết định trong phát triển nông nghiệp và quá trình sinh trưởng,
phát triển của cây trồng vật nuôi. Nông nghiệp truyền thống, lao động không
đòi hỏi phải được đào tạo chuyên nghiệp mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là
chính và lao động nông nghiệp có tính thời vụ; nên trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, lực lượng lao động nông nghiệp sẽ bị thu hẹp và lao động trẻ
chuyển dần sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy lực lượng lao
động trong nông nghiệp thường có độ tuổi cao và có xu hướng già hóa. Hiện
nay, trong phát triển nông nghiệp hiện đại, lao động nông nghiệp càng dần tiến
đến trình độ chuyên nghiệp và kỹ năng cao để nắm bắt được các quy trình công
nghệ tiên tiến và sử dụng máy móc thiết bị nông nghiệp.
- Vốn sản xuất trong phát triển nông nghiệp, vốn là biểu hiện bằng tiền
của tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài vốn trên, theo nghĩa
rộng, ruộng đất, cơ sở hạ tầng và các tài nguyên thiên nhiên cũng có thể được
coi như là các loại vốn trong sản xuất nông nghiệp. Trong nông nghiệp vốn có
thể chia theo hình thái luân chuyển, hình thái biểu hiện, mục đích sử dụng, hay
theo hình thức sở hữu... Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ, nên vốn trong
nông nghiệp vừa có nhu cầu lớn nhưng mang tính thời vụ; thời gian quay vòng
vốn dài và hệ số quay vòng vốn thấp; vốn đầu tư vào nông nghiệp có tính rủi
do cao không chỉ do khó đoán định được đầu ra của sản phẩm (cả lượng và giá
của sản phẩm), mà còn do thiên tai dịch bệnh có thể mất cả vốn.
- Khoa học và công nghệ trong phát triển nông nghiệp, “Khoa hoc là hệ
43
thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy;
còn công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng bí quyết, công
cụ, phương tiện để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” [28]. Công nghệ
được chia thành “phần cứng” và “phần mền”; phần cứng phản ánh phương
pháp sản xuất, quy trình và kỹ thuật canh tác, quy trình công nghệ sản xuất, kỹ
thuật để tạo ra sản phẩm, nó là điều kiện để nâng cao năng suất lao động. Khi
những tiến bộ đột phá của kỹ thuật sẽ làm thay đổi phương pháp sản xuất, quy
trình và kỹ thuật canh tác, quy trình công nghệ sản xuất... Phần mền là những
nhân tố liên quan đến trình độ thành thạo của con người, những bí quyết, quy
trình, phương pháp, bản thiết kế, công nghệ vi sinh, giống, công nghệ gen..., và
cuối cùng là những thành phần tổ chức thể hiện cách bố trí, xắp xếp, điều phối
và quản lý.
- Sử dụng các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp. Vấn đề huy động
và sử dụng các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp là vấn đề rất quan trọng,
không chỉ hiện tại mà còn liên quan đến phát triển nông nghiệp trong tương lai,
do vậy cần quan tâm vấn đề sau:
Qui mô và chất lượng các nguồn lực được huy động quyết định đến tốc
độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Tăng qui mô khai thác tài nguyên
thiên nhiên, lao động và vốn làm cho nông nghiệp tăng trưởng theo chiều rộng;
cách này hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp không
cao, thậm chí còn làm suy kiệt nguồn tài nguyên. Tăng trưởng theo chiều sâu là
tăng trưởng do tăng năng suất lao động, năng suất lao động cao có được là do
tăng qui mô sử dụng nguồn lực khoa học - công nghệ tiên tiến và nguồn lao
động chất lượng cao. Các nước có nền nông nghiệp phát triển do hội đủ các
điều kiện như chất lượng nguồn nhân lực cao và trình độ khoa học và công
nghệ tiên tiến nên phát triển nông nghiệp theo chiều sâu. Các nước đang và
chậm phát triển do có nguồn lao động và giá nhân công rẻ và tài nguyên còn
44
dồi dào có thể tăng trưởng theo chiều rộng trong một chừng mực nhất định,
nhưng phải chuyển dần sang tăng trưởng theo chiều sâu. [21]
Vai trò của nhà nước và thị trường đối với việc huy động và sử dụng các
lực để phát triển nông nghiệp rất quan trọng. Dưới sự điều tiết của thị trường
và hiệu quả quản lý tốt của nhà nước, các nguồn lực trong xã hội sẽ được huy
động và sử dụng có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp không chỉ
nhằm mục tiêu CNH, HĐH nền kinh tế mà còn gắn liền với an ninh lương
thực, xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường sinh thái; nên chính phủ cần
có biện phát điều tiết quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát
triển nông nghiệp đảm bảo tính hiệu quả cao trong phát triển đất nước.
2.1.2.4. Nhân tố xã hội và chính sách trong phát triển nông nghiệp
Nhân tố xã hội và chính sách trong phát triển nông nghiệp có thể là tập
quán, kinh nghiệm sản xuất và đổi mới chính sách trong nông nghiệp.
- Tập quán và kinh nghiệm sản xuất: Nền nông nghiệp sản xuất nhỏ,
manh mún chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sản xuất theo kiểu cha truyền con nối
và sản xuất tự cung tự cấp. Mục đích của sản xuất tự cung tự cấp chỉ nhằm đảm
bảo cái ăn, ít có ý tưởng thay đổi phương thức sản xuất, tiếp cận thị trường,
nâng cao sức sản xuất và cải thiện thu nhập... Do vậy, phải khuyến khích và
đưa tiến bộ khoa học công nghệ đến với nông dân nhằm nâng cao năng suất lao
động, năng suất cây trồng vật nuôi để tăng thu nhập cho nông dân. Thu nhập
tăng tạo cơ hội nhiều hơn cho nông dân lựa chọn giữa tích lũy đầu tư và tiêu
dùng, kích thích họ đổi mới cuộc sống và nâng cao năng lực sản xuất của chính
họ. Từ xuất phát điểm là nền nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, canh tác lạc
hậu, các nông hộ sản xuất nhỏ phải đối diện nhiều rủi ro như: 1) Khó tiếp cận
thông tin thị trường, sản xuất nhỏ chủ yếu để tự cung tự cấp, thừa mang ra trao
đổi, nên chính họ cũng ít quan tâm đến thị trường; thứ nữa có quan tâm cũng
khó tiếp cận, bởi các đối tác không muốn giao dịch với các nông hộ nhỏ và
45
cũng không thể, họ chỉ muốn giao dịch với các đại diện, đại lý; nên các nông
hộ nhỏ nếu không liên kết khó tiếp nhận được thông tin. 2) Khó tiếp cận vốn và
khoa học công nghệ, các nông hộ qui mô nhỏ nên khó tập hợp đủ nguồn lực
của mình để tiếp cận vốn và khoa học công nghệ để sản xuất ra những sản
phẩm đáp ứng nhu cầu. 3) Khối lượng nông sản sản xuất nhỏ, đây luôn là thách
thức lớn đối với nông hộ và cả trang trại, nếu không liên kết trong sản xuất khó
có khối lượng nông sản đủ lớn và ổn định, khi đó luôn gặp rủi ro về giá và
lượng. 4) Chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm thấp, sản xuất nhỏ và theo
kinh nghiệm thường không theo quy trình canh tác phù hợp, chất lượng nông
sản thấp, không đồng đều, vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo nên rất
khó thâm nhập vào thị trường nông sản toàn cầu.
- Chính sách trong phát triển nông nghiệp, ngày nay, vai trò của nhà
nước trong phát triển kinh tế không còn là vấn đề bàn cãi là cần hay không, mà
là làm thế nào để kết hợp tốt vai trò của nhà nước và thị trường trong phát triển
kinh tế. Vai trò của nhà nước trong phát triển nông nghiệp thể hiện ở những
vấn đề sau: 1) Hoạch định chiến lược; 2) qui hoạch; 3) ban hành chính sách
phát triển nông nghiệp, chính sách hỗ trợ nông dân theo đúng cam kết hội nhập
KTQT (cam kết WTO, khu vực, đa phương và song phương), đổi mới thể chế
nông nghiệp nhằm góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh theo hướng
hiệu quả và bền vững.
Theo nhà kinh tế học Josepth E. Stiglitz cho rằng “Sự thành công về mặt
kinh tế đòi hỏi phải tạo nên lực cân bằng giữa chính phủ và thị trường”. [83]
Thị trường có thể tạo ra cơ chế phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, còn việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực thì thị trường lại không thể; thị trường cũng
không thể hạn chế những rủi ro trong sản xuất nông nghiệp; thị trường cũng
không thể tạo ra cơ hội thu hút dầu tư vào nông nghiệp và nông thôn; thị
trường càng không thể bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình tăng trưởng
46
nông nghiệp. Để đảm bảo được vai trò kinh tế - xã hội, môi trường của nông
nghiệp và đảm bảo bảo nông nghiệp phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững
không thể thiếu vai trò nhà nước thông qua hệ thống phát luật và chính sách.
Chính sách nông nghiệp được xem là tổng thể các biện pháp kinh tế và
các biện pháp khác của nhà nước từ trung ương đến địa phương tác động đến
nông nghiệp và các ngành, các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến nông nghiệp
nhằm đạt những mục đích nhất định, với những điều kiện thực hiện nhất định
và trong một thời hạn xác định. Những nhân tố xã hội tích cực và chính sách
nông nghiệp tốt sẽ trở thành nguồn lực trong phát triển nông nghiệp và ngược
lại nó cản trở sự phát triển nông nghiệp.
2.1.2.5. Tiêu chí đánh giá phát triển nông nghiệp
Từ nghiên cứu vai trò của nông nghiệp, phát triển nông nghiệp và nguồn
lực để phát triển nông nghiệp, những Quy định, Hiệp định của WTO có liên
quan đến lĩnh vực nông nghiệp và tác động của nó đến phát triển nông nghiệp.
Luận án đề xuất một số tiêu chí đánh giá phát triển nông nghiệp trước và sau
khi gia nhập WTO, và các chỉ tiêu đánh gía việc thực hiện các tiêu chí, như
sau:
- Về tăng trưởng nông nghiệp: Để đánh giá tăng trưởng nông nghiệp sử
dụng các chỉ tiêu: tăng trưởng GDP của ngành nông nghiệp, tăng trưởng giá trị
sản xuất nông nghiệp và các tiểu ngành, tăng trưởng xuất khẩu nông, lâm, thủy
hải sản, thặng dư thương mại nông sản trước và sau WTO…
- Về chuyển dịch cơ cấu: Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP, tỷ
trọng giá trị sản xuất của các tiểu ngành, theo thời gian phản ánh tác động của
gia nhập WTO đến việc phân bổ các nguồn lực trong nông nghiệp có phát huy
được lợi thế cạnh tranh và theo thiên hướng phát triển những ngành hàng,
những cây trồng vật nuôi sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều lao động hay là phát
triển ngành hàng có giá trị gia tăng cao…
47
- Đầu tư xây dựng nền nông nghiệp hiện đại dựa trên khoa học và công
nghệ tiên tiến. Các tiêu chí thể hiện khoa học và công nghệ tiên tiến áp dụng
trong nông nghiệp với các chỉ tiêu như: 1) thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
trong nước vào sản xuất nông nghiệp; 2) số lượng các mô hình công nghệ tiên
tiến áp dụng trong nông nghiệp…
- Thúc đẩy mạnh chuyên môn hóa, tập trung hóa và hợp tác, liên doanh
liên kết trong phát triển nông nghiệp: Tỷ trọng các ngành hàng trong kim
ngạch xuất khẩu, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, cơ cấu thị trường (thị phần), các
mô hình hợp tác, liên doanh liên kết…
- Xây dựng nền nông nghiệp có năng lực cạnh tranh cao: Để đánh giá
năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị nông
sản toàn cầu được thể hiện thông qua chỉ tiêu như: 1)chỉ số RCA của một số
ngành hàng nông sản xuất khẩu; 2) chỉ số bảo hộ hữu hiệu ERP và danh nghĩa
NPR của nông sản xuất khẩu; 3) thị phần và thị trường xuất khẩu nông sản…
- Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, bảo quản chế biến, tiêu thụ
đồng bộ và hiện đại: Hệ thống chỉ tiêu thể hiện trình độ phát triển hạ tầng phục
vụ nông nghiệp: 1) Diện tích và tỷ lệ được tưới, tiêu; 2) các hồ chứa, đập ngăn
mặn, các trạm bơm; 3) số km đường giao thông, mật độ đường, số xã có đường
ô tô đến trung tâm; 4) diện tích nhà kính, nhà lưới, sân phơi, kho bảo quản, chế
biến; 5) tỷ lệ điện khí hóa, cơ giới hóa, thông tin liên lạc, internet…
2.2. WTO và các Hiệp định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp
2.2.1. Vai trò, nguyên tắc hoạt động của WTO
2.2.1.1. Vai trò của WTO
Tổ chức Thương mại thế giới được thành lập vào ngày 1/1/1995, tại thời
điểm đó, tổng số các bên ký kết GATT là 128 nhưng chỉ có 76 nước trong số
này trở thành Thành viên WTO. Số còn lại sau thời điểm trên mới tham gia
WTO (12/1995). Hiện nay đã có trên 150 nước và vùng lãnh thổ tham gia
48
WTO, Việt Nam là thành viên 150 của tổ chức này. WTO là tập hợp những
Quy định, các Hiệp định, mà nòng cốt là các Hiệp định, được tất cả các thành
viên của WTO đàm phán và ký kết. Những văn bản này tạo thành quy định
pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế.
WTO chiếm 97% GDP và 85% giá trị thương mại hàng hóa và 90% giá
trị thương mại dịch vụ toàn cầu. Khác với GATT chỉ bao quát thương mại hàng
hóa, WTO đã mở rộng phạm vi điều tiết hoạt động thương mại toàn cầu từ lĩnh
vực chủ yếu là thương mại hàng hoá sang các lĩnh vực thương mại dịch vụ,
thương mại liên quan đến đầu tư và thương mại liên quan đến các quyền sở
hữu trí tuệ, và đặc biệt là thương mại nông sản. Mặc dầu khó tính toán được
mức độ đóng góp của WTO, nhưng có thể khẳng định: hơn 10 năm thành lập,
WTO đã có đóng góp đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng thương
mại và đầu tư, giải quyết nhiều vụ tranh chấp kinh tế căng thẳng, góp phần ổn
định kinh tế và thương mại thế giới. Vai trò của WTO như sau:
WTO góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng của kinh tế -
thương mại toàn cầu. WTO tạo ra một môi trường chung lành mạnh cho phát
triển thương mại toàn cầu và qua đó đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế
thế giới. Thông qua việc cắt giảm thuế quan, phi thuế quan, cải cách thể chế
thương mại theo hướng minh bạch, không phân biệt đối xử, nhờ đó thúc đẩy sự
trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, lao động trên phạm vi toàn cầu, tạo
điều kiện cho sản xuất phát triển nhanh hơn.
WTO thể chế hóa khung khổ pháp lý, điều tiết thương mại toàn cầu. Các
Quy định và Hiệp định của WTO là luật chơi chung đối với các nước tham gia
vào kinh tế toàn cầu. Đây là những định chế thương mại quan trọng và có hiệu
lực nhất hiện nay. Sau năm 1995, WTO đã thể chế hoá luật chơi chung của thế
giới mà trước đó chưa từng có. Chính vì vậy, gia nhập WTO là xu thế chung
trên thế giới và đặc biệt đối với các nước đang phát triển và các nền kinh tế
49
chuyển đổi. Có thể đánh giá thành công lớn nhất của WTO là góp phần duy trì
sự ổn định thế giới. WTO thể chế hoá các quy định điều tiết kinh tế thương mại
toàn cầu theo các nguyên tắc chung do đó tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác
và phát triển. WTO giải quyết vấn đề này thông qua việc giải quyết các xung
đột về quyền lợi kinh tế giữa các thành viên làm hạn chế tối đa khả năng xung
đột về quyền lợi kinh tế dẫn tới các xung đột về chính trị, quân sự.
Một số quan điểm khác về vai trò của WTO, hiện nay vẫn còn một số Tổ
chức phi Chính phủ như (NGOs, Oxfam…) có quan điểm tương đối khác về
mục tiêu và đóng góp của WTO. Họ cho rằng gia nhập WTO hiện nay của các
nước thành viên mới là không công bằng. Một số quan điểm khác cho rằng
toàn cầu hoá hiện nay làm phân hoá sâu sắc hơn chênh lệch giầu nghèo, phân
chia lợi ích bất bình đẳng giữa các nước và các nhóm xã hội, làm nảy sinh các
vấn đề khác như ô nhiễm môi trường, xung đột văn hoá, xã hội…
Tóm lại, mặc dù còn có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò và đóng
góp của WTO, tuy nhiên, như Peter Gallagher, tác giả cuốn sách “The first Ten
Years of WTO, 1995-2005” nhận định: “Sau 10 năm thành lập, có thể thấy rõ
rằng, nếu không có WTO, thị trường thế giới sẽ trở nên nhỏ bé hơn, cơ hội
thương mại sẽ trở nên ít ỏi hơn, sẽ có ít hơn các quốc gia thành công từ hội
nhập và những nước chậm phát triển sẽ có ít sự lựa chọn hơn cho sự phát triển
của mình” [87].
2.2.1.2. Nguyên tắc hoạt động của WTO
Các Quy định, Hiệp định của WTO rất dài và phức tạp vì đó là những
văn bản pháp lý quy định rất nhiều lĩnh vực hoạt động như: nông nghiệp, hàng
dệt may, ngân hàng, viễn thông, thị trường công, tiêu chuẩn công nghiệp, quy
định an toàn vệ sinh của sản phẩm, sở hữu trí tuệ và nhiều lĩnh vực khác. Tuy
nhiên, có một số nguyên tắc đơn giản và cơ bản là kim chỉ nam cho tất cả các
lĩnh vực và trở thành nền tảng của hệ thống thương mại đa biên, đó là:
50
- Không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên
tắc đối xử quốc gia). Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): Các ưu đãi thương mại của
một thành viên dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất
cả các thành viên trong WTO. "Tối huệ quốc" có nghĩa là nước được “ưu đãi
nhất", nước được “ưu tiên nhất". Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc
WTO quy định các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương
mại của mình. Đãi ngộ quốc gia (NT): Không được đối xử với hàng hóa và
dịch vụ nước ngoài cũng như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ
đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tự trong nước.
- Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm
phán): Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị
trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải
cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế (cấm, hạn chế, hạn
ngạch, giấy phép...). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO cho
thấy đó là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm cả
đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế, dần dần mở rộng sang đàm phán cả
những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ... Sự nhượng bộ
trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực hiện
thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
- Tính Dự đoán thông qua cam kết, ràng buộc,ổn định và minh bạch:
Các quy định và quy chế thương mại phải đợc công bố công khai và thực hiện
một cách ổn định. Ðây là nguyên tắc quan trọng của WTO, là nỗ lực của hệ
thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên WTO tạo ra một môi
trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán. Nội dung của nguyên tắc
này bao gồm:
Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan: Bản chất của thương mại trong
WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân nhượng thuế quan cho nhau. Song để
51
chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam kết và không thay
đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau đàm phán,
mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan, gọi
là các mức thuế suất ràng buộc.
Về các biện pháp phi thuế quan: Biện pháp phi thuế quan là biện pháp
sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các
biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền
hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương
mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO
yêu cầu Chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai
"minh bạch" các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình.
Ðồng thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành
viên thông qua cơ chế rà soát chính sách thương mại.
- Thiết lập môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn: Trên thực
tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại, song trong rất
nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về bảo hộ. Do
vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện
pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp..., hoặc các biện
pháp bảo hộ khác. Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường
hợp nào là cạnh tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó
được phép hay không được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ,
chống bán phá giá, chống trợ cấp...
- Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn
cho các nước kém phát triển: Các nước thành viên, trong đó có các nước đang
phát triển, thừa nhận rằng tự do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa
biên trong khuôn khổ của WTO đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia.
Song các thành viên cũng thừa nhận rằng, các nước đang phát triển phải thi
52
hành những nghĩa vụ của các nước phát triển. Trong khi đó, số thành viên của
WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi
nền kinh tế chiếm hơn 3/4 số nước thành viên của WTO. Do đó, WTO đã đưa
ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế ở các nước
đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho những nước
này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu
rộng hơn của các nước này vào hệ thống thương mại đa biên. WTO dành cho
các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh
hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực hiện các Hiệp định của WTO. Ngoài
ra, WTO cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ
kỹ thuật ngày một nhiều hơn.
2.2.2. Các Hiệp định của WTO về nông nghiệp và những cam kết
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều
chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4
phụ lục của hiệp định về việc thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được kí
kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15/4/1994. Các nước muốn trở thành thành
viên của WTO phải kí kết và phê chuẩn hầu hết những Hiệp định, ngoại trừ các
thỏa thuận tự nguyện. Sau đây sẽ là một số hiệp định của WTO có liên quan
nhiều đến lĩnh vực nông nghiệp:
2.2.2.1. Hiệp định về nông nghiệp (AoA)
Mục tiêu tổng thể của Hiệp định về Nông nghiệp là quy định một khuôn
khổ cho việc cải cách về thương mại nông sản và chính sách nông nghiệp của
các thành viên WTO; trên ba lĩnh vực: tiến cận thị trường, hỗ trợ nông nghiệp
trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản xuất khẩu.
- Về tiếp cận thị trường: Thuật ngữ “tiếp cận thị trường” được dùng trong
Hiệp định này để chỉ khả năng của các sản phẩm nông nghiệp nước ngoài có
thể thâm nhập vào thị trường của các nước nhập khẩu nông sản. Sau nhiều
53
vòng đàm phán, các thành viên WTO đã nhất trí chuyển tất cả các hạn chế về
số lượng đối với việc nhập khẩu hàng nông sản thành thuế quan. Các mức thuế
quan, đã được tính để cắt giảm với một mức trung bình là 36% đối với các
nước phát triển trong vòng 6 năm và với tổng là 24% đối với các nước đang
phát triển trong vòng 10 năm.
- Về hỗ trợ trong nước: Theo Hiệp định về Nông nghiệp, tất cả các thành
viên WTO phải tính tổng giá trị trợ cấp mà chính phủ của họ dành cho các nhà
sản xuất nông nghiệp “Tổng lượng hỗ trợ tính gộp” hay “AMS”. Sau khi đã
xác định được AMS thì các thành viên WTO sẽ phải cam kết cắt giảm bắt buộc
ở mức độ nhất định.
Các biện pháp trợ cấp trong nước không tác động đối với thương mại
quốc tế được gọi là trợ cấp “hộp xanh” được loại trừ khỏi nghĩa vụ phải cắt
giảm. Các chính sách liên quan đến hộp xanh bao gồm hỗ trợ của Chính phủ
đối với nghiên cứu về nông nghiệp, kiểm soát bệnh dịch, hạ tầng nông nghiệp
và an ninh lương thực cũng như các chi trả cho các nhà sản xuất nông nghiệp
không liên quan đến các mức độ sản xuất của họ.
- Về trợ cấp xuất khẩu: Theo Hiệp định, trợ cấp xuất khẩu trong giai đoạn
đầu chưa bị cấm ngay. Các nước phát triển bị yêu cầu phải cắt giảm 36% các
trợ cấp của họ đối với việc xuất khẩu nông nghiệp và 21% số lượng hàng xuất
khẩu được trợ cấp trong vòng 6 năm. Các nước đang phát triển được yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ thấp hơn, mức độ cắt giảm chỉ bằng hai phần ba so với mức
độ cắt giảm đặt ra đối với các nước phát triển [52].
2.2.2.2. Hiệp định về áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật
Hiệp định SPS điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm
dịch động thực vật liên quan đến sức khoẻ của người, động thực vật và an toàn
thực phẩm. Hiệp định thừa nhận các Chính phủ có quyền thực hiện các biện
pháp SPS để bảo vệ người dân. Tuy nhiên, các biện pháp này cần được áp dụng
54
ở mức độ cần thiết để phòng ngừa, bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con
người, động thực vật; về bản chất phải có căn cứ khoa học hoặc không phân
biệt đối xử đối với các sản phẩm của các thành viên WTO khác nhau khi có
cùng các điều kiện.
Nói chung, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật phải dựa
trên các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế; và thiết lập các thủ tục áp dụng các quy
chuẩn, tiêu chuẩn SPS. SPS cũng quy định về sự thừa nhận lẫn nhau về các quy
chuẩn, tiêu chuẩn vệ sinh, dịch tễ và kiểm dịch và cũng có các quy định về việc
đánh giá sự phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia và cho phép các sản
phẩm từ các thành viên WTO khác nhau nhập khẩu vào các nước WTO [53].
2.2.2.3. Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở
hữu Trí tuệ (TRIPS)
TRIPS góp phần thúc đẩy chuyển giao và phổ biến công nghệ, đem lại lợi
ích cho người tạo ra và người sử dụng công nghệ, thúc đẩy phát triển kinh tế,
và tạo sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ. TRIPS đề ra các quy định cơ bản
về tiêu chuẩn tối thiểu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: quyền tác giả và các quyền
liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế,
thiết kế bố trí mạch tích hợp, thông tin… Một số lĩnh vực của TRIPS có thể tác
động nhiều nhất đến nông nghiệp: Chỉ dẫn địa lý trong Điều 22 yêu cầu các
nước thành viên phải bảo vệ các chỉ dẫn đã được xác định theo định nghĩa
nhằm ngăn ngừa sai tên ứng dụng; Điều 27.3b quy định giống cây trồng và các
vấn đề liên quan đến công nghệ sinh học. Mục đích Điều 27.3b yêu cầu các
nước thành viên phải đưa ra sự bảo hộ văn bằng sáng chế cho các chủng vi sinh
(như vi khuẩn); bảo vệ văn bằng sang chế cho các quy trình vi sinh và phi sinh
học phục vụ sản xuất cây trồng và vật nuôi; phải bảo hộ các giống cây trồng
thông qua văn bằng sáng chế hoặc một hệ thống riêng thực tế hoặc bằng sự kết
hợp giữa hai hệ thống này dưới mọi hình thức [55].
55
2.2.2.4. Các hiệp định khác có điều chỉnh đến nông nghiệp
- Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại (TBT):
TBT được áp dụng cho các yêu cầu về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được
soạn thảo để áp dụng cho tất cả các sản phẩm, trừ phần các yêu cầu về SPS
được soạn thảo để áp dụng cho sản phẩm là thực phẩm được quy định trong
SPS. TBT công nhận rằng các nước có quyền sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế
để quy định các quy chuẩn, tiêu chuẩn tối thiểu của nước mình mà sản phẩm
nhập khẩu cần phải được đáp ứng, nhưng cũng cho phép các nước được duy trì
các quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành của mình nếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn
đó không tuỳ tiện và phân biệt đối xử đối với hàng hoá của các thành viên
WTO khác. [54]. Chẳng hạn trong đàm phán Hiệp định TTP, Mỹ đưa ra tiêu
chuẩn kỹ thuật tối thiểu mà các nước muốn xuất khẩu nông sản vào Mỹ phải áp
dụng, đó là cản trở cho các nước xuất khẩu nông sản, vấn đề nầy vẫn đang
tranh luận.
- Hiệp định Chống bán phá giá (AD): Theo định nghĩa tại khoản 1 Điều
VI của GATT 1994: “bán phá giá là cách hàng hóa của một nước được đưa vào
thị trường của nước khác với mức giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng
hóa”. Nói cách khác, bán phá giá xảy ra khi giá xuất khẩu thấp hơn giá trị
thông thường. Trong tất cả các cuộc điều tra chống bán phá giá, thì cơ quan
điều tra của nước nhập khẩu phải xác định được có hành vi bán phá giá một sản
phẩm nhất định và phải tính toán được biên độ bán phá giá của sản phẩm đó,
việc này được thực hiện dựa trên việc so sánh giữa “giá xuất khẩu” và “giá trị
thông thường” của sản phẩm.
AD quy định các quyền cơ bản để các thành viên WTO áp dụng các biện
pháp chống lại hành vi bán phá giá để đối phó lại việc xuất khẩu không lành
mạnh các sản phẩm thương mại khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Trên thực
tế, hành vi chống bán phá giá là hành vi của nước nhập khẩu đánh thuế nhập
56
khẩu bổ sung đối với một loại hàng hóa cụ thể từ một nước xuất khẩu cụ thể
nào đó, nhằm cân bằng giữa giá hàng nhập khẩu và giá trị thực của nó, nhằm
giảm thiệt hại đối với sản xuất trong nước nhập khẩu. [56].
Nguyên tắc của WTO là mọi đối tác khi tham gia vào các hoạt động
thương mại quốc tế phải là những thực thể kinh tế độc lập và các quyết định
đưa ra cũng phải độc lập với ý muốn của nhà nước và chỉ dựa trên những lợi
ích về kinh tế (có thể hiểu đó là nền kinh tế thị trường). Theo định nghĩa của
UNCTAD về nền kinh tế “phi thị trường” tại khoản 3 điều VI hiệp định GATT
1994 như sau: - Một nền kinh tế trong đó Chính phủ quyết định các hoạt động
kinh tế phần lớn dựa trên cơ chế kế hoạch hóa tập trung, trái ngược với nền
kinh tế thị trường trong đó các hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào các lực
lượng thị trường để phân bổ nguồn lực sản xuất. - Trong một nền kinh tế “phi
thị trường”, các kế hoạch sản xuất, giá cả, chi phí, phân bổ đầu tư, nguyên vật
liệu, lao động, thương mại quốc tế và các chỉ số kinh tế tổng hợp khác được
triển khai trong một kế hoạch kinh tế tổng thể của cả quốc gia do một cơ quan
kế hoạch trung ương xây dựng; như vậy khu vực công đưa ra các quyết định
chủ yếu ảnh hưởng đến cung cầu trong nền kinh tế. Khi một nước bị coi là có
nền kinh tế phi thị trường, doanh nghiệp của các nước có nền kinh tế phi thị
trường sẽ phải chịu sự phân biệt đối xử so với doanh nghiệp thuộc các nước có
nền kinh tế thị trường.
Các doanh nghiệp xuất khẩu của nước có nền kinh tế phi thị trường sẽ gặp
phải sự bất lợi vô cùng lớn khi các nước nhập khẩu sử dụng Hiệp định Chống
bán phá giá AD, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM) trong
các cuộc điều tra chống bán phá giá do ba nguyên nhân chính sau: Thứ nhất,
việc sử dụng giá và chi phí sản xuất tại nước thay thế sẽ dẫn đến biên độ bán
phá giá rất cao; vì các nhà sản xuất tại nước thay thế đang cạnh tranh với các
nhà xuất khẩu tại nước bị coi là nền kinh tế phi thị trường và do đó, sẽ không
57
có lợi cho họ trong việc giảm thiểu việc tìm ra yếu tố bán phá giá. Thứ hai,
việc sử dụng các số liệu của nước thay thế dẫn đến nhiều lợi thế so sánh của
nước có nền kinh tế phi thị trường không được xem xét trong quá trình điều tra,
triệt tiêu hết lợi thế so sánh. Thứ ba, những quy định lựa chọn nước thay thế
khá chung chung, nên nhiều khi rất tùy tiện, cộng với việc lựa chọn giá thay
thế (phần nào mang tính chủ quan) sẽ ảnh hưởng đáng kể đến kết quả tính biên
độ phá giá.
Cho đến nay, quy chế nền kinh tế phi thị trường mang lại rất nhiều bất lợi
cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam trong các cuộc điều tra chống
bán phá giá so với các doanh nghiệp thuộc các nền kinh tế thị trường. Rất
nhiều doanh nghiệp của Việt Nam trong đó có lĩnh vực nông nghiệp đã và đang
phải chịu nhiều thiệt thòi trong các cuộc điều tra chống bán phá giá vì toàn bộ
số liệu về giá cả và chi phí sản xuất tại Việt Nam đều bị cơ quan điều tra của
nước nhập khẩu từ chối xem xét.
Hiện nay, trong WTO chỉ có hai thành viên cam kết về địa vị nền kinh tế
phi thị trường là Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam chấp nhận bị coi là nền
kinh tế phi thị trường (Non-Market Economy - NME) trong vòng 12 năm kể từ
khi gia nhập WTO (nhưng không muộn hơn 31/12/2018); và chấp nhận không
chỉ các điều khoản liên quan đến chống bán phá giá và các biện pháp đối kháng
(áp thuế chống bán phá giá và áp thuế chống trợ cấp xuất khẩu). So sánh với
Trung Quốc thì có thể thấy rằng, cam kết của chúng ta ít bất lợi hơn nhiều. Khi
gia nhập WTO, Trung Quốc cam kết chấp nhận việc bị coi là nền kinh tế phi
thị trường trong 15 năm kể từ khi gia nhập và chấp nhận không chỉ các điều
khoản liên quan đến chống bán phá giá và các biện pháp đối kháng, mà còn có
thể bị áp dụng cơ chế tự vệ và giám sát đặc biệt.
- Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM): Hiệp định
SCM làm rõ và bổ sung thêm cho các quy định của các Điều 6, 16 và 23 của
58
GATT 1994. SCM đưa ra định nghĩa thế nào được coi là “trợ cấp” và quy định
rõ chỉ các trợ cấp “cụ thể”, tức là các trợ cấp chỉ dành cho một doanh nghiệp
hoặc một ngành cụ thể chứ không phải trợ cấp chung, được điều chỉnh bởi
SCM. Có ba loại trợ cấp được xác định trong Hiệp định SCM cụ thể như sau:
Thứ nhất, các trợ cấp bị cấm là các trợ cấp chỉ dành cho một doanh
nghiệp nếu doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm. Các trợ cấp bị cấm phải bị loại
bỏ ngay lập tức nếu cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO xác định rằng đó
là các trợ cấp bị cấm. Thứ hai, các trợ cấp có thể bị kiện là các trợ cấp của
Chính phủ dành cho các ngành trong lãnh thổ của mình. Nếu các hàng hoá
được sản xuất với những lợi ích có được từ các trợ cấp này được xuất khẩu và
gây ra tổn hại cho các nhà sản xuất các hàng hoá tương tự của nước nhập khẩu,
thì nước nhập khẩu có thể áp thuế đối kháng đối với hàng hoá đó để bù đắp cho
những ảnh hưởng của việc trợ cấp. Thứ ba, các trợ cấp không bị kiện là các trợ
cấp không cụ thể hoặc là các trợ cấp được dành cho việc thúc đẩy nghiên cứu
và phát triển sản xuất hoặc để thúc đẩy phát triển vùng hoặc để hỗ trợ nâng cấp
phương tiện kỹ thuật cho phù hợp với các yêu cầu mới về môi trường. Thuật
ngữ thuế đối kháng (thuế chống trợ cấp xuất khẩu) được hiểu là một khoản
thuế đặc biệt nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản ưu đãi hay trợ cấp dành trực
tiếp hay gián tiếp cho sản xuất, chế biến hay xuất khẩu. [57].
- Hiệp định về các biện pháp tự vệ (SG): SG cụ thể hoá và quy định chi
tiết các quy tắc của Điều XIX của GATT 1994 (điều khoản tự vệ), cho phép
các nước được quyền có các hành động, thông qua thuế quan hoặc hạn ngạch,
để bảo vệ ngành sản xuất cụ thể trong nước tránh khỏi thiệt hại do việc gia tăng
nhập khẩu có quy mô lớn không dự đoán trước của hàng hoá nước ngoài vào.
SG đặt ra tiêu chí để xác định thế nào là thiệt hại nghiêm trọng và đặt ra các
giới hạn về mức độ mà nước nhập khẩu có thể áp dụng để hạn chế việc nhập
khẩu từ nước ngoài [58].
59
2.2.3. Những cơ hội và thách thức đối với phát triển nông nghiệp khi thực
hiện các cam kết với WTO
2.2.3.1. Những cơ hội cho phát triển nông nghiệp
Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp ổn định và bền vững hơn:
Quá trình gia nhập WTO giúp mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, thúc đẩy
thương mại đặc biệt là các nguồn lực vốn, khoa học và công nghệ cho tăng
trưởng nông nghiệp; đồng thời từ nguồn lực thị trường thúc đẩy phân bổ nguồn
lực cho phát triển nông nghiệp hợp lý hơn giúp tăng trưởng nông nghiệp ổn
định và bền vững hơn.
Thứ hai, tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
hợp lý hơn: Phân bổ nguồn lực cho phát triển nông nghiệp hợp lý, tạo điều kiện
cho các ngành hàng nông sản và những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao phát
triển, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp; đồng
thời cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó tăng thu hút đầu tư vào nông
nghiệp; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nhanh và hợp lý hơn.
Thứ ba, thúc đẩy nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và khoa học
công nghệ, tăng nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp: Gia nhập WTO tạo
điều kiện tăng cường hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với
các nước, tiếp thu công nghệ mới và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên
tiến, nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ doanh nghiệp nước ngoài, nhờ đó nguồn
nhân lực, tiềm lực khoa học, công nghệ, vốn trong nông nghiệp được tăng lên.
Thứ tư, tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước liên doanh, liên kết
và tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu: Gia nhập
WTO tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nông nghiệp tiếp cận thị trường quốc
tế, nguồn tín dụng và các đối tác; đồng thời buộc các doanh nghiệp phải nâng
cao năng lực canh tranh, năng lực tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông
sản toàn cầu và hợp tác, liên doanh, liên kết trong phát triển nông nghiệp.
60
Thứ năm, tăng cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các nông sản hàng
hóa đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh: Gia
nhập WTO chúng ta phải mở cửa thị trường nông sản, tăng cường giao lưu
nông sản; nhờ đó tăng khả năng được tiếp cận nhiều hơn với nông sản hàng
hóa đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cả cạnh tranh. Đồng
thời tạo cho nông hộ có nhiều lựa chọn hơn giữa tích lũy, đầu tư và tiêu dùng;
kích thích tăng sản xuất.
Thứ sáu, thúc đẩy đổi mới và hoàn thiện chính sách phát triển nông
nghiệp hợp lý hơn: Gia nhập WTO tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính
sách nắm bắt tốt hơn thị trường nông sản và xu thế phát triển nông nghiệp của
thế giới, từ đó có thể đổi mới chính sách phát triển nông nghiệp hợp lý.
2.2.3.2. Những thách thức đối với phát triển nông nghiệp
Gia nhập WTO và thực hiện các cam kết của nó không chỉ đưa lại những
cơ hội, trái lại nó cũng đặt ra nhiều thách thức cho phát triển nông nghiệp. Tuy
nhiên, giữa cơ hội và thách thức luôn chuyển hóa lẫn nhau; nếu không phát huy
tốt những cơ hội cho phát triển nông nghiệp thì chúng sẽ trở thành thách thức
và ngược lại những thách thức nếu khắc chế được thì chúng lại trở thành những
cơ hội; có thể khái quát một số thách thức như sau:
Một là, gia nhập WTO làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp nông nghiệp và ngành nông nghiệp gặp khó khăn, thậm chí là phá sản,
từ đó gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế - xã hội.
Hai là, gia nhập WTO làm tăng sự phụ thuộc của nông nghiệp nội địa vào
thị trường nông sản thế giới và khiến nền nông nghiệp dễ bị tổn thương trước
những biến động của cung cầu và giá cả nông sản trên thị trường thế giới.
Ba là, gia nhập WTO làm tăng phân phối không công bằng giữa lợi ích và
rủi ro giữa các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ
làm tăng khoảng cách giàu nghèo.
61
Bốn là, trong quá trình gia nhập WTO, các nước đang phát triển phải đối
mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng
tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng
có giá trị gia tăng thấp, dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công
nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên.
2.3. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước
2.3.1. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở Hà Lan
Hà Lan có diện tích tự nhiên 41.543 km2, dân số giữa năm 2012 là 16,7
triệu người; GDP đạt 836.073,6 triệu USD, tốc độ tăng GDP 0,99%, GDP bình
quân đầu người 42.779,3 USD (2011); trong đó GDP nông nghiệp chiếm 2,0%,
công nghiệp chiếm 23,9%, dịch vụ 74,1% (2010); xuất khẩu đạt 693,92 tỷ
USD, nhập khẩu 619,20 USD [45]. Năm 1995 Hà Lan là một trong những
thành viên đầu tiên của WTO, nền nông nghiệp Hà Lan chủ yếu dựa vào trang
trại gia đình là chủ yếu, nhưng nền nông nghiệp được đánh giá có hiệu suất rất
cao, hơn hẳn Nhật Bản, Pháp và Mỹ; kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của
Hà Lan để hội nhập vào kinh tế toàn cầu như sau:
- Nền nông nghiệp của Hà Lan chủ yếu dựa vào trang trại gia đình
nhưng có trình độ chuyên môn hóa và hiện đại hóa rất cao. Dù đất nông
nghiệp bình quân đầu người ở Hà Lan chỉ 0,058 ha (Việt Nam 0,109 ha) nhưng
với trình độ chuyên môn hóa và hiện đại hóa cao độ, tỷ trọng trang trại chuyên
môn hóa chiếm 92%, là hiện tượng hiếm thấy trên thế giới [90]. Tốc độ phát
triển khoa học và công nghệ trong nông nghiệp Hà Lan được xếp vào những
nước hàng đầu thế giới, đặc biệt thành tựu về giống và sản xuất trong nhà kính
với phương thức đầu tư tập trung cao vốn và công nghệ, thu nhập cao, hiệu
suất nông nghiệp cao. Hiệu suất sản xuất đất của Hà Lan năm 1991 đạt 2.468
USD/ha, hiệu suất lao động đạt 44.339 USD/người; mức xuất khẩu đạt 18.570 USD/ha; 1m2 đất tạo 1,86 USD hơn hẳn các nước khác. [40]
62
- Nền nông nghiệp của Hà Lan là nền nông nghiệp xuất khẩu, tạo ra
ngoại tệ. Đất nông nghiệp của Hà Lan rất ít, lại trũng, thấp hơn mực nước biển,
nhưng với chuyên môn hóa và hiện đại hóa cao, nông nghiệp Hà Lan đã tạo lợi
thế cạnh tranh cao để hướng ra xuất khẩu. Ở Hà Lan, có nông sản có hệ số tự
túc thấp như lương thực sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu
trong nước, ngược lại có những nông sản vượt xa nhu cầu tiêu dùng như: thịt
lợn vượt 283%, thịt bò 160%, thịt gà 221%, trứng 253%, pho mát 224%, bơ
153%, rau 256%, khoai tây 145%, đường 194%...[40]. Những nông sản vượt
nhu cầu đều dành cho xuất khẩu; Hà Lan có 9 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu thế
giới là hoa tươi cắt, cây cảnh trong chậu, cà chua, khoai tây, hành tây, trứng gà,
pho mát khô, sữa đặc, bia đại mạch, bánh ca cao, dầu ca cao; và ba mặt hàng
đứng thứ hai là thịt lợn, sản phẩm sô cô la, thuốc lá.
- Hợp tác, liên doanh, liên kết trong nông nghiệp là nền tảng trong phát
triển nông nghiệp của Hà Lan. Nông nghiệp Hà Lan dựa trên các trang trại
chuyên môn hóa và hiện đại hóa thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tạo nên
tổ hợp nông - công - thương (agribusiness hoặc agri complex), trong đó cấu
thành nên những tổ hợp này là trang trại gia đình. Các tổ chức tín dụng đã đóng
vai trò quan trọng liên kết các trang trại gia đình trong quá trình hình thành,
phát triển các tổ chức hợp tác xã và các hiệp hội ngành nghề của nông dân
- Thành tựu của nông nghiệp Hà Lan có vai trò quan trọng của Chính
phủ trong việc hoạch định chính sách, điều tiết các nguồn lực cho phát triển
nông nghiệp như: 1) Chính sách tích tụ đất đai và phát triển trang trại; 2) chính
sách phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển nông nghiệp, Nhà nước
đầu tư hệ thống các công trình đê biển, hệ thống tiêu thoát nước…; 3) chính
sách tài trợ cho phát triển, nghiên cứu, chuyển giao khoa học và công nghệ
trong nông nghiệp, đào tạo nghề cho nông dân; 4) chính sách khuyến khích
63
phát triển nông nghiệp bền vững như cấp chứng chỉ “sản phẩm sinh thái”, thực
hiện “trách nhiệm xã hội…”
Như vậy, phát triển nông nghiệp của Hà Lan trong hội nhập KTQT rất
chú ý phát triển khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, năng lực
cạnh tranh của sản phẩm và hiệu suất của sản xuất; đồng thời thông qua các
hiệp hội thúc đẩy hợp tác, liên kết tạo thành chuỗi cung ứng từ sản xuất, chế
biến, tiêu thụ đến người tiêu dùng nhằm tạo ra ngành hàng có năng lực cạnh
tranh mạnh, điều hòa lợi ích giữa các khâu có giá trị gia tăng và lợi nhuận thấp.
2.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển nông nghiệp
Trung Quốc có diện tích tự nhiên 9.577.3 nghìn km2, dân số 1.350,4
triệu người (giữa năm 2012); GDP đạt 7.318.499,3 triệu USD, tốc độ tăng GDP
là 9,3%, GDP bình quân đầu người 8.400,2 USD; trong đó nông nghiệp chiếm
10,0%, công nghiệp 46,6% và dịch vụ 43,4%; xuất khẩu đạt 2.296,1 tỷ USD,
nhập khẩu 1.998,29 USD (2011). Lực lượng lao động có 783,9 triệu lao động,
lao động có việc làm 761,1 triệu lao động, trong đó nông nghiệp chiếm 36,7%,
lao động công nghiệp 28,7%, lao động dịch vụ là 34,6 % (năm 2010). Một số
nông sản chủ lực của Trung Quốc gồm: thóc 202,667 triệu tấn, lúa mì 117,410
triệu tấn, ngô 192,904 triệu tấn, mía 115,124 triệu tấn…(2011).[45]
Trung Quốc bắt đầu cải cách, đổi mới và mở cửa từ năm 1978; trước cải
cách, nền kinh tế có cơ cấu nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập thấp, đa số dân cư
sống ở nông thôn (trên 80%) và có tỷ lệ hộ nghèo cao. Đến năm 2003, nông
dân chiếm khoảng 70% dân số, lực lượng lao động nông thôn có 490 triệu
người, song chỉ có khoảng 180 triệu người có việc làm ổn định, hơn 300 triệu
còn lại trong tình trạng bán thấp nghiệp do Trung Quốc gia nhập WTO (sau 2
năm), diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. [22]
Trung Quốc chính thức là thành viên của WTO vào ngày 11/12/2001,
sau hơn 15 năm đàm phán. Gia nhập WTO, kinh tế của Trung Quốc và nền
64
nông nghiệp cũng có điểm xuất phát thấp; Trung Quốc cũng từ nền kinh tế
chuyển đổi và phải chấn nhận nền kinh tế phi trường 15 năm kể từ khi gia nhập
WTO. Bối cảnh gia nhập WTO của Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng
giống Việt Nam trên nhiều khía cạnh. Sau 12 năm gia nhập WTO, Trung Quốc
đã gặt hái được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế nói chung và nông
nghiệp nói riêng. Với quyết tâm tranh thủ tốt thời cơ và khắc chế những thách
thức từ việc thực hiện các cam kết với WTO, Trung Quốc đã thực hiện các
chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp như sau:
Thứ nhất, triệt để cải cách nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp theo
hướng hiện đại và phát triển bền vững. Bảo đảm quyền tự chủ, phát huy tính
tích cực của nông dân; phát triển nhiều loại hình sở hữu, tách quyền sở hữu với
quyền sử dụng; xây dựng nhiều mô hình sản xuất như trang trại, xí nghiệp
hưng trấn, hợp tác xã…; kết hợp cải cách nông nghiệp với cải cách nông thôn
theo hướng thị trường.
Thứ hai, chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cải tạo đất và giải
quyết tốt lao động nông nghiệp dôi dư sao có hiệu quả. Kết hợp hài hòa kinh
doanh cần nhiều lao động với kinh doanh lớn tập trung nhiều vốn và hàm
lượng kỹ thuật cao; nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp được phân bổ hợp lý
hơn; từng bước xóa bỏ sản xuất nông nghiệp manh mún để tập trung phát triển
nông nghiệp qui mô lớn, tạo tiền đề cho đầu tư vốn và công nghệ nhằm đạt tới
nền nông nghiệp hiện đại theo hướng hiệu quả và bền vững.
Thứ ba, với tiềm lực kinh tế mạnh Trung Quốc đã tăng đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn “với phương châm cho nhiều hơn lấy”, tăng đầu tư về cơ sở
hạ tầng nông nghiệp nông thôn, đào tạo nghề cho nông dân cả nghề nông
nghiệp và nghề phi nông nghiệp (hàng năm Trung Quốc có khoảng 8 triệu lao
động nông nghiệp ra các thành phố tìm việc), đầu tư cho khoa học kỹ thuật
nông nghiệp, tăng cường trang bị kỹ thuật vật chất cho nông nghiệp, hệ thống
65
ngành nghề nông nghiệp… Đồng thời giảm thuế, phí cho nông dân (Trung
Quốc đã miễn tòan bộ thuế nông nghiệp cho nông dân cả nước vào năm 2006);
kết hợp với chính sách trợ cấp cho nông dân (khoảng 66,4 tỷ NDT, tương
đương 8 tỷ USD); nhờ vậy, dù bị ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
nhưng kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng trên 6%/năm.
Thứ tư, Trung Quốc thúc đẩy mạnh hệ thống cung ứng và tiêu thụ nông
sản theo mô hình liên doanh liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã với các hộ
nông dân hình thành chuỗi giá trị ngành hàng; không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc tế trong nông nghiệp. Thúc đẩy mạnh hệ thống dịch vụ xã hội
hóa nông nghiệp kiểu mới, đặc biệt dịch vụ chuyển giao khoa học kỹ thuật cho
nông dân. Đồng thời Trung Quốc chủ động điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp trên
cơ sở phát huy mạnh ngành hàng có lợi thế so sánh để tăng năng lực cạnh tranh
trên thị trường quốc tế; chủ động điều chỉnh giảm cơ cấu ngành hàng có lợi thế
cạnh tranh yếu, nâng cao mức sản xuất của ruộng đất, hiệu suất lợi dụng tài
nguyên, năng suất, chất lượng cao, đảm bảo môi trường và phát triển bền vững.
Thứ năm, Trong quá trình thực hiện cam kết với WTO, trở lực lớn về
kinh tế và xã hội là vấn đề chính sách đất đai, tính pháp lý về nhà cửa, hộ khẩu
và chính sách an sinh xã hội… Trung Quốc tiến hành sửa đổi luật cư trú (nông
dân được quyền hoạt động kinh doanh ở quê hay kinh doanh ở những nơi khác
được hưởng quyền lợi, nghĩa vụ và không bị phân biệt đối xử; thừa nhận tính
pháp lý đối với nhà ở và hộ khẩu của những người có việc làm ổn định ở nơi
mới đến); sửa đổi luật đất đai, quy định giá đất sát hơn giá thị trường…; đổi
mới chính sách an sinh xã hội, đời sống nông dân được cải thiện, tỷ lệ hộ
nghèo còn có 2,8% (năm 2009).
2.3.3. Kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp của Thái Lan
Thái Lan có diện tích tự nhiên 514 nghìn Km2, dân số giữa năm 2012 là
69,9 triệu người; GDP 345672,2 triệu USD, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2010
66
là 7,81%/năm, năm 2011 là 0,08%/năm, GDP bình quân đầu người là 8646,1
USD; trong GDP: nông nghiệp chiếm 12,4%, công nghiệp và xây dựng chiếm
41,2%, dịch vụ 46,5%; xuất khẩu đạt 265,97 tỷ USD, nhập khẩu 250,29 USD.
Lực lượng lao động có 38,793 triệu lao động, lao động có việc làm 38,465 triệu
người, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 38,69%. Một số nông sản chủ lực
của Thái Lan gồm: mía đạt 95,95 triệu tấn, sắn 21,912 triệu tấn, thóc 34,588
triệu tấn, ngô 4,817 triệu tấn, cao su 3,349 triệu tấn…(năm 2011) [45]. Thái
Lan là một trong 11 nước trong cộng đồng ASEAN có nhiều nét tương đồng
nhau trong lĩnh vực nông nghiệp (trừ Singapore), với phần đông dân cư làm
nông nghiệp và sống ở nông thôn, có nhiều nông sản xuất khẩu. Thái Lan coi
phát triển nông nghiệp là giải pháp quan trọng nhằm đối phó với khó khăn của
khủng hoảng kinh tế và chính sách của Thái Lan tập trung vào các nội dung
phát triển nông nghiệp như sau:
Thứ nhất, Thái Lan phát triển nông nghiệp theo hướng vừa CMH, TTH
kết hợp với đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp. Vì nông nghiệp là ngành ít chịu
tác động của khủng hoảng kinh tế, đa dạng hóa sẽ không ngặp nhiều khó khăn
về vốn và công nghệ; phục hồi đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp tạo thêm việc
làm, thêm thu nhập và góp phần xóa đói giảm nghèo. Thái Lan tập trung vào
chế biến đa dạng các nông sản đem lại giá trị gia tăng cao như gạo sạch (clean
rice), thực phẩm an toàn, hải sản tươi sống và đóng hộp, các loại hoa, rau…
Phát triển giống cây trồng vật nuôi mới cho năng suất cao và phát triển theo mô
hình CMH, TTH để áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Thứ hai, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời tăng
cường hợp tác, liên doanh, liên kết nhằm hình thành chuỗi cung ứng nông sản
xuất khẩu có năng lực cạnh tranh cao. Thái Lan tập trung vào nâng cao chất
lượng nông sản chế biến, thực hiện chặt việc kiểm soát tiêu chuẩn, chất lượng,
vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện đăng ký bản quyền, nguồn gốc xuất xứ
67
địa lý…, nhờ vậy nông sản Thái Lan có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường
nông sản toàn cầu.
Thứ ba, Thái Lan hoàn thiện và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ
công cho nông nghiệp như: 1) Tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ
nông nghiệp như nghiên cứu và triển khai, chuyển giao khoa học công nghệ
trong nông nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp, đặc biệt hỗ trợ khoa học
và công nghệ chế biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ gen,
công nghệ vi sinh, công nghệ sản xuất giống, nhằm tạo ra nhiều giá trị gia tăng
trong sản xuất nông nghiệp; 2) Triển khai chương trình đào tạo và khuyến
nông; 3) nâng cao chất lượng hạ tầng, cải thiện hệ thống tưới tiêu; 4) hỗ trợ các
hoạt động đầu vào, nhất là tín dụng; 5) phát triển hệ thống tiếp thị nông sản.
Thái Lan chú trọng phát triển nông nghiệp hiện đại theo hướng hiệu quả
và bền vững; xây dựng các mối liên kết kinh tế nhằm phát triển các ngành hàng
có khả năng cạnh tranh cao; chú trọng tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ
trong nông nghiệp, đặc biệt đa dạng hóa chế biến sâu nông sản và công nghệ
sau thu hoạch, tăng năng suất lao động trên cơ sở tạo ra nhiều giá trị tăng thêm.
2.3.4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.3.4.1. Về phát triển nông nghiệp
Qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước rút
ra những kinh nghiệm cho phát triển nông nghiệp như sau:
Một là, các nước phát triển nông nghiệp có hiệu quả cao và bền vững
đều biết phát huy lợi thế so sánh của ngành nông nghiệp, khai thác có hiệu quả
nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên, kịp thời điều chỉnh tăng trưởng nông
nghiệp từ chiều rộng sang chiều sâu, chuyển dịch cơ cấu sản xuất hướng tới tối
ưu hoá, đảm bảo phát triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Đặc biệt với các
nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi; khi cải cách, đổi
mới và mở cửa phát triển nông nghiệp chủ yếu nhờ vào tăng diện tích và tăng
68
đầu con; xuất khẩu nông sản thô là chính, ít đầu tư cho chế biến sâu, giá trị gia
tăng thấp…; vì thế tăng trưởng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp giảm dần, rất
dễ rơi vào bẫy “thu nhập trung bình”.
Hai là, phát triển nông nghiệp trên cơ sở không ngừng áp dụng những
thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, đồng bộ từ giống, sản xuất, bảo quản,
chế biến, lưu thông và tiêu thụ. Đổi mới phương thức sản xuất theo hướng tăng
giá trị gia tăng nhờ vào chế biến sâu và những nông đặc sản, sản phẩm chế biến
đặc hữu.
Ba là, phát triển nông nghiệp trên cơ sở không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu trên nền tảng
năng lực cạnh tranh của ngành hàng nông sản. Năng lực cạnh tranh của ngành
hàng là tổng hòa năng lực cạnh tranh của sản phẩm và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp; với hỗ trợ của năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh
quốc gia có được ngoài năng lực của các ngành hàng trong nền kinh tế còn có
đóng góp của cơ chế chính sách và hạ tầng kỹ thuật…
Bốn là, phát triển nông nghiệp có hiệu quả cao và bền vững trên cơ sở
xây dựng ngành nông nghiệp CMH, TTH cao, phân công và hợp tác, liên
doanh liên kết chặt chẽ. Bởi tham gia WTO, cạnh tranh không chỉ trên thị
trường toàn cầu mà còn cạnh tranh ngay cả thị trường nội địa; nếu không xây
dựng được ngành nông nghiệp CMH,TTH cao, phân công, hợp tác, liên doanh
liên kết chặt chẽ, sẽ thua ngay trên sân nhà.
Năm là, phát triển nông nghiệp không thể thiếu vai trò của nhà nước
trong đầu tư hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực; cũng như các chính sách hỗ trợ
cho nông nghiệp nằm trong nhóm hộp xanh (Green box) và nhóm hổ phách
(Amber box), không quá 10% giá trị sản lượng nông nghiệp đối với các nước
đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi mà WTO cho phép.
69
2.3.4.2. Khung phân tích phát triển nông nghiệp
- Một là, Luận án đánh giá sự phát triển nông nghiệp Việt Nam dựa trên
những tiêu chí đã được xây dựng để đánh giá ở các mặt tăng trưởng nông
nghiệp; chuyển dịch cơ cấu; áp dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong
nông nghiệp; CMH, TTH, hợp tác liên kết từ sản xuất chế biến và tiêu thụ;
năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị của nông sản, của ngành
hàng; kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp.
- Hai là, Chỉ ra những nguyên nhân của thành công và tồn tại trên cơ sở
đánh giá phát triển nông nghiệp kết hợp với phân tích những cam kết với WTO
và điều chỉnh chính sách đối với nông nghiệp sau khi gia nhập WTO.
- Ba là, Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp, kinh
nghiệm và xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới; đề xuất định hướng,
quan điểm và giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam đến năm 2025.
Phạm vi nghiên cứu, luận án tập trung vào phát triển nông nghiệp sau
khi Việt Nam gia nhập WTO nhưng có so sánh với trước khi gia nhập WTO ở
những nội dung cần thiết.
70
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
SAU KHI GIA NHẬP WTO
3.1. Rà soát việc thực hiện cam kết với WTO và điều chỉnh chính sách nông
nghiệp của Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO
3.1.1.1. Quá trình hội nhập KTQT và WTO
Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu
hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90
Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần... Về hợp tác đa phương và khu
vực, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế như: Ngân hàng phát triển Á Châu (ADB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF),
Ngân hàng thế giới (WB). Tiến trình hội nhập của Việt Nam được đẩy mạnh
hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký
kết các hiệp định hợp tác kinh tế song phương và đa phương. Tháng 7/1995
Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính
thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996 và
(ATIGA) từ 2015. Tiếp đó tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)
năm 1998, tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC)… và ngày 11/1/2007 Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
Trong xu hướng hội nhập KTQT và khu vực, tiến trình ký kết các FTA
của Việt Nam đã được triển khai cùng với tiến trình gia nhập các tổ chức quốc
tế và khu vực. Đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập FTA với 15 nước trong
khung khổ của 6 FTA khu vực, bao gồm: Khu vực thương mại tự do ASEAN
(AFTA) được thiết lập bởi Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung năm
1996; Hiệp định thương mại hàng hoá trong ASEAN (ATIGA/AFTA) có hiệu
71
lực năm 2015. Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc được thiết lập
bởi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế quốc tế ASEAN - Trung Quốc
(ACFTA) năm 2002. Khu vực thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc
(AKFTA). Khu vực thương mại tự do ASEAN - Nhật Bản (AJFTA) và Hiệp
định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJFTA). Khu vực thương mại tự do
ASEAN - Úc và Nwzealanl (AANZFTA). Khu vực thương mại tự do ASEAN
- Ấn độ (AIFTA), Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN - Ấn độ (AITIG)
ký kết năm 2009…
Ngoài việc ký kết các Hiệp định Thương mại tự do với tư cách là thành
viên khối ASEAN, Việt Nam ký kết độc lập Hiệp định đối tác kinh tế Việt
Nam - Nhật Bản, tiếp đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Chi Lê.
Hiện Việt Nam đang triển khai đàm phán FTA với một số đối tác như EFTA
(bao gồm 4 nước là Thuỵ Sỹ, Na Uy, Liechtenstein và Ai-xơ-len), EU, Đài
Loan, Thổ Nhĩ Kỳ...; Liên minh Hải quan (bao gồm 3 nước là Nga, Belarus và
Kazakhstan), Việt Nam cũng đã tham gia vào đàm phán Hiệp định Đối tác kinh
tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ tháng 11/2010…
3.1.1.2. Thực trạng kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO
Khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam vừa có thuận lợi song cũng gặp
những khó khăn thách thức, bởi điểm xuất phát của nền kinh tế thấp hơn nhiều
so với các thành viên của WTO ngay ở khu vực Đông Nam Á; GDP bình quân
đầu người của Việt Nam đạt 730,0 USD/người/năm, Thái Lan là 3115,9 USD,
Indonesia là 1642,6 USD, Malaysia là 5998,3 USD (năm 2006). GDP nông
nghiệp của Việt Nam chiếm 18,73% trong tổng GDP, Thái Lan chiếm 6,9%,
Malaysia chiếm 7,96%, Indonesia chiếm 7,86% (năm 2006). Về tỷ trọng lao
động nông nghiệp, Việt Nam chiếm 55,1%, Thái Lan 41,78%, Indonesia
41,23%, Malaysia 14,78% (năm 2007).
72
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế của các nước Đông Nam Á
năm 2006 và 2007
GDP BQ đầu người (USD)
730,0
3115,9
5998,3
1642,6
Tỷ trọng GDP NN (%)
18,73
6,90
7,96
7,86
Tỷ trọng LĐ nông nghiệp(%)
55,10
41,78
14,78
39,47
Nguồn: [64], [65], [66]
Việt Nam Thái Lan Malaysia Indonesia
Khi gia nhập WTO không chỉ với điểm xuất phát kinh tế thấp mà kinh tế
Việt Nam vẫn là nền kinh tế nông nghiệp (chiếm 20% GDP), sản xuất nhỏ và
manh mún, năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị nông sản
toàn cầu rất thấp, bên cạnh đó còn phải chấp nhận là nền kinh tế phi thị trường
trong vòng 12 năm kể từ khi gia nhập.
- Tăng trưởng kinh tế, trước WTO, tốc độ tăng trưởng GDP đạt trên
7%/năm và khá ổn định, sau WTO tốc độ tăng trưởng có xu hướng tăng chậm
lại và thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng dao động trên dưới 6%/năm.
Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam
Năm
Tổng
Dịch vụ
Nông nghiệp
2005
8,59
7,55
4,19
Công nghiệp và Xây dựng 8,42
2006
7,29
8,39
6,98
3,80
2007
7,36
8,54
7,13
3,96
2008
4,13
7,55
5,66
4,69
2009
5,98
6,55
5,40
1,91
2010
7,17
7,19
6,42
3,29
2011
6,68
6,83
6,24
4,02
2012
5,75
5,90
5,25
2,68
2013
5,43
6,56
2,67
5,42 Nguồn: (2012), [43] [69]
(Đơn vị: %)
73
Năm 2013, GDP của toàn nền kinh tế tăng 5,42%, khu vực nông
nghiệp tăng 2,67%, xấp xỉ mức tăng năm trước; khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng 5,43%, thấp hơn mức tăng 5,75% của năm trước; khu vực dịch vụ
tăng 6,56%, cao hơn mức tăng 5,9% của năm 2012. Trong mức tăng 5,42%
nông nghiệp đóng góp 0,48 điểm phần trăm, công nghiệp đóng góp 2,09,
dịch vụ đóng góp đóng góp 2,85 điểm phần trăm.
Nguyên nhân ngoài yếu tố ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế năm
2007-2008 và 2011-2012, còn do mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên cả trong công nghiệp và nông nghiệp;
xuất khẩu chủ yếu nguyên nhiên liệu và nông, lâm, thủy hải sản thô; khi nguồn
tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt thì tốc độ tăng trưởng giảm. Tốc độ tăng
trưởng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm dần, bởi mô hình tăng trưởng theo
chiều rộng, chủ yếu dựa vào tăng diện tích gieo trồng, tăng vụ và tăng đầu con,
khi nguồn tài nguyên đất đai cạn kiệt, tốc độ tăng GDP nông nghiệp cũng
giảm. Tuy nhiên, vào những năm khủng hoảng kinh tế, nông nghiệp trở thành
trụ đỡ của nền kinh tế, cụ thể các năm 2008, 2011 tốc độ tăng trưởng GDP của
nông nghiệp đạt trên 4%.
-Về cơ cấu kinh tế, tỷ trọng GDP của nông nghiệp có xu hướng giảm
dần: 24,53% (năm 2000), 18,73% (2006) và 19,67% (2012).
Giai đoạn trước khi gia nhập WTO, tỷ trọng GDP của nông nghiệp trong
tổng GDP của cả nền kinh tế giảm đều qua các năm; sau WTO, GDP nông
nghiệp tăng giảm trồi sụt, đặc biệt những năm 2008 và 2011, GDP của nông
nghiệp chiếm trên 20%; do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, sản xuất công
nghiệp và dịch vụ giảm sút, nông nghiệp lại khẳng định vai trò trụ đỡ cho nền
kinh tế.
74
Bảng 3.3: Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế (theo giá thực tế)
Tổng
Nông nghiệp
Dịch vụ
Năm
100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Công nghiệp và Xây dựng 36,73 38,13 38,49 39,47 40,21 38,13 38,58 38,51 37,08 37,39 38,23 37,90 38,63 38,30
38,74 38,63 38,48 37,99 37,98 42,57 42,69 42,83 42,51 43,44 42,88 42,02 41,70 43,30
24,53 23,24 23,03 22,54 21,81 19,30 18,73 18,66 20,41 19,17 18,89 20,08 19,67 18,40
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Nguồn: [65] - [69]
Đơn vị: %
Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng giảm dần, nếu năm
2007 lao động nông nghiệp chiếm 55,1% trong tổng lao động có việc làm của
toàn nền kinh tế, năm 2012 chỉ còn chiếm 47,4%.
- Về GDP bình quân đầu người, năm 2000 đạt 402 USD/người/năm,
năm 2006 đạt 730 USD (tăng 81,59% so với 2000), năm 2012 đạt 1517 USD
so với 2006 tăng gấp hơn 2 lần, so với 2000 tăng gấp hơn 3 lần.
3.1.2. Rà soát việc thực hiện cam kết với WTO về lĩnh vực nông nghiệp
Trong lĩnh vực nông nghiệp, ngoài Hiệp định của WTO, Việt Nam còn
phải thực các Hiệp định của ASEAN, giữa ASEAN và các đối tác trong khu
vực. Tuy nhiên trong khuôn khổ của luận án, tác giả chủ yếu đề cập các cam
kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO về lĩnh vực nông nghiệp; chủ yếu
Hiệp định AoA và Hiệp định SPS, đây là hai Hiệp định quan trọng nhất.
3.1.2.1. Cam kết và thực hiện cam kết Hiệp định nông nghiệp (AoA)
- Về mở cửa thị trường: Về thuế, cam kết cắt giảm 10,6% đối với thuế
nhập khẩu hàng nông sản so với mức MFN hiện hành và giảm khoảng xấp xỉ
75
20% so với mức MFN hiện hành, từ trên 24,5% xuống còn xấp xỉ 20% (nếu
tính theo mức thuế trong hạn ngạch của các mặt hàng trên). Nếu trừ đồ uống,
rượu bia và thuốc lá, mức cam kết giảm thuế nông sản giảm 18% so với mức
MFN hiện hành (từ 22% xuống 18%). Mức độ giảm có sự khác nhau giữa các
sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm. Nhưng tổng quát chung là các sản phẩm chế
biến có mức thuế cao 40%-50% thì bị yêu cầu giảm nhiều hơn so với nông sản
thô. Những nhóm hàng cụ thể phải giảm nhiều hơn là thịt, sữa, rau quả chế
biến, thực phẩm chế biến, quả ôn đới. Các mặt hàng nông sản thô mà Việt Nam
có khả năng xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, cao su, tiêu, điều… không giảm
hoặc giảm rất ít. Thời gian cắt giảm từ 3-5 năm. Việt Nam thực hiện các cam
kết WTO một cách nghiêm túc trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp.
Nông nghiệp, để đảm bảo khi gia nhập WTO và lộ trình cắt giảm thuế
nhập khẩu không ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp,
Việt Nam chỉ cam kết cắt giảm 471 dòng thuế thuộc 88 nhóm hàng trong tổng
số 162 nhóm hàng (nhóm hàng 4 chữ số) thuộc 19 trong tổng số 24 chương.
Mức thuế bình quân của tất cả các mặt hàng nông sản tham gia cắt giảm
tại thời điểm gia nhập WTO là 25,2 % và cam kết cắt giảm xuống còn 20,1%
bắt đầu từ 1/1/2012. Tuy nhiên trên thực tế thuế suất bình quân của các dòng
sản phẩm trên áp dụng bắt đầu từ 1/1/2012 là 19,7 % tức là giảm nhiều hơn so
với cam kết là 0,4 điểm %.
Trong đó nhiều nhóm hàng có mức cắt giảm thuế nhiều so với cam kết,
chẳng hạn nhóm hàng HS0402 sữa và kem, chưa cô đặc, chưa thêm đường
hoặc chất ngọt khác có mức thuế cam kết cắt giảm năm 2012 là 25% nhưng
trên thực tế đã giảm xuống còn 5%; nhóm hàng HS1513 có mức thuế cam kết
đến năm 2012 cắt giảm còn 35% nhưng thực tế chỉ còn 15% và một số sản
phẩm khác... Một số mặt hàng có mức cam kết cắt giảm giảm thuế mạnh nhất,
mức độ cắt giảm từ 18% trở lên nhưng tất cả các mặt hàng này đều cắt giảm
76
đúng hạn so với cam kết. Nhìn chung các mặt hàng nông sản đều có hạn cuối
thực hiện cắt giảm thuế là vào 1/1/2012, qua 5 năm thực hiện các cam kết về
thuế quan khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện tốt các cam kết về cắt
giảm thuế quan. Cụ thể là có 60 nhóm hàng (nhóm 4 chữ số) cắt giảm đúng hạn
chiếm 68,2%, đặc biệt có 25 nhóm hàng (nhóm 4 chữ số) cắt giảm mạnh hơn
so với cam kết (tương đương với 28,4% nhóm hàng), chỉ có 3 nhóm hàng cắt
giảm chậm hơn so với cam kết (chiếm 3,4%) [8].
Trong 7 năm qua (hết năm 2013), nông sản đã cắt giảm được 1.118 dòng
thuế theo cam kết WTO, từ mức thuế bình quân 23,5% vào thời điểm gia nhập
xuống còn 20%. [73]
Lâm nghiệp, khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết cắt giảm thuế quan
bình quân là 14,6% vào thời điểm gia nhập và 10,5% sẽ là mức cắt giảm cuối
cùng. Tính đến 1/12/2012, trong số 22 nhóm thuộc lĩnh vực lâm nghiệp thuộc
chương 44: Gỗ và các mặt hàng từ gỗ; than từ gỗ và một số mã thuộc nhóm
hàng HS9403; đồ nội thất khác có 11 nhóm hàng cắt giảm đúng hạn (chiếm
50%) và 10 nhóm cắt giảm nhanh hơn so với cam kết (chiếm 45,45%), chỉ có
nhóm hàng HS4418 cột trụ và xà, dầm, panen lát sàn các loại khác là có mức
cắt giảm chậm hơn cam kết (chiếm 4,5% nhóm hàng), tuy nhiên sự khác biệt
chỉ là 0,8 điểm % (cam kết 3% và hiện cắt giảm còn 3,8%).
Mức giảm mạnh nhất là các mặt hàng thuộc nhóm hàng mã HS4420 (gỗ
khảm, dát; tráp, và các loại hộp đựng đồ kim hoàn…; tượng nhỏ và đồ trang trí
bằng gỗ; các loại đồ dùng bằng gỗ) từ mức thuế suất trung bình là 40% xuống
còn 20% (giảm 20 điểm %). Sau đó là các mặt hàng thuộc nhóm hàng mã
HS4414 (khung tranh, ảnh, khung gương bằng gỗ hoặc các sản phẩm bằng gỗ
tương tự), nhóm mã hàng HS4419 (bộ đồ ăn, bộ đồ làm bếp bằng gỗ), nhóm
hàng mã HS4421 (các sản phẩm bằng gỗ khác) từ mức thuế suất trung bình là
40% xuống còn mức thuế suất trung bình 25% (giảm15 điểm %) [10]. Đến
77
cuối năm 2013, lâm sản đã cắt giảm thuế 69 mặt hàng, với mức cắt giảm thấp
nhất là 10% và cao nhất 50%.[74]
Thủy sản: Việt Nam đã cam kết điều chỉnh giảm 163 dòng thuế thuộc 9
nhóm hàng. Trong đó: 7 nhóm thuộc chương 3 (cá và động vật giáp xác… và
động vật thủy sinh không sương sống khác), các nhóm này chủ yếu là hàng
tươi, sống hoặc ướp lạnh. 2 nhóm thuộc chương 16 (các chế phẩm từ thịt, cá
hay giáp xác, động vật thân mềm hoặc thủy sinh không xương sống khác), các
nhóm này chủ yếu là hàng đã qua chế biến.
Mức thuế suất cam kết cắt giảm bình quân của lĩnh vực thủy sản là
tương đối lớn, từ mức thuế suất trung bình (khi gia nhập) là 32% xuống còn
20,1% (giảm 11,9 điểm %). Mức giảm mạnh nhất là các mặt hàng thuộc nhóm
cá đông lạnh và cá filê (nhóm HS0303, nhóm HS0304), từ mức thuế suất trung
bình là 30% xuống 14,9% (giảm 15,1 điểm %). Các mặt hàng thuộc nhóm cá
tươi hoặc ướp lạnh như cá ngừ, cá hồi (nhóm HS0302), từ mức thuế suất trung
bình là 30% xuống mức thuế suất trung bình 17,1% (giảm 12,9 điểm %).
Lộ trình cắt giảm thuế của hàng thủy sản là tương đối dài, từ 5 đến 7
năm kể từ khi gia nhập. Số dòng thuế cắt giảm ở từng năm cũng khác nhau.
Năm 2009 cắt giảm 9 dòng thuế, năm 2010 cắt giảm 72 dòng thuế, năm 2011
cắt giảm 37 dòng thuế, năm 2012 cắt giảm 39 dòng thuế và năm 2014 cắt giảm
6 dòng thuế còn lại.
Trong lộ trình phải điều chỉnh 163 dòng thuế thuộc 9 nhóm hàng thủy
sản, từ mức thuế bình quân 32,2% trước thời điểm gia nhập WTO xuống còn
20,1% (giảm 12,1%); đã cắt giảm được 156 dòng thuế, chỉ còn 6 dòng phải cắt
giảm vào năm 2014. [74]
Kết quả, đến 1/1/2014, chúng ta đã thực hiện đúng với lộ trình cam kết
với tất cả các nhóm hàng. Thậm chí, có một số nhóm hàng Việt Nam còn cắt
giảm nhanh hơn so với lộ trình cam kết; nhóm hàng động vật giáp xác tươi
78
hoặc ướp lạnh (HS0306), mức thuế suất cam kết cắt giảm vào năm 2012 là
17,8% nhưng thuế suất áp dụng trong thực tế năm 2012 đã cắt giảm còn 5,8%.
Hoặc nhóm hàng động vật thân mềm tươi sống hoặc ướp lạnh (HS0307) mức
thuế suất cam kết cắt giảm vào năm 2012 là 16,5% nhưng trong thực tế năm
2012 đã chỉ còn 4,6% [11].
Hàng năm vào tháng 11-12 Bộ Tài chính đều ra thông tư ban hành “Biểu
thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế”
cho năm sau; như Thông tư số: 157/2011/TT-BTC, ngày 14/11/2011, Thông tư
số: 164/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013.
Phi thuế: Loại bỏ hoàn toàn các hàng rào phi thuế, nhất là các hạn chế
định lượng nhập khẩu, trừ viêc áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt
hàng là đường, muối, trứng gia cầm và lá thuốc lá. Quyền kinh doanh xuất
nhập khẩu (cam kết trong phần dịch vụ): Các doanh nghiệp nước ngoài được
phép kinh doanh xuất nhập khẩu hàng nông sản ngay khi Việt Nam gia nhập
WTO (trừ gạo đến hết năm 2011); tuy nhiên các doanh nghiệp nước ngoài
không được phép mua trực tiếp từ nông dân mà phải thông qua các đại lý, hoặc
các doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên trên thực tế nhiều tư thương nước ngoài
đã thâm nhập sâu vào thị trường nông sản nội địa mua trực tiếp nông sản từ
nông dân qua các đại lý ảo, nâng giá, tranh mua, mua nông sản mà người bán
không hiểu họ mua để làm gì…; tạo ra nhu cầu nông sản ảo gây nhiều hậu quả
tiêu cực cho sản xuất nông nghiệp của nước ta.
- Về hỗ trợ trong nước: Theo WTO, các chính sách nằm trong nhóm hộp
xanh (Green box) là những chính sách không hoặc rất ít có tác dụng bóp méo
thương mại vì vậy các nước đều được phép áp dụng; sự ưu đãi đặc biệt và khác
biệt (S&D) dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển là được phép
hỗ trợ cho nông nghiệp nằm trong nhóm chính sách gọi là “chương trình phát
triển”. Các nước phải cam kết cắt giảm các chính sách nằm trong nhóm hổ
79
phách (Amber box) nếu vượt quá mức cho phép, gọi là mức tối thiểu (de
minimis). Mức tối thiểu là 5% giá trị sản lượng nông nghiệp dành cho các nước
phát triển và là 10% dành cho các nước đang phát triển.
Căn cứ vào hiện trạng chính sách trong nước và Việt Nam đàm phán với
tư cách là nước đang phát triển và nước có nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam đã
cam kết sẽ thực hiện các chính sách hỗ trợ trong nước cho ngành nông nghiệp
theo đúng tinh thần của Hiệp định. Nghĩa là Việt Nam sẽ tự do áp dụng các
chính sách nằm trong nhóm Hộp xanh và Chương trình phát triển. Nhóm chính
sách hộp hổ phách sẽ áp dụng ở mức tối thiểu là 10% giá trị sản lượng nông
nghiệp. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm được một khoản hỗ trợ nữa vào
khoảng 4000 tỷ đồng/năm. Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách Việt
Nam cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này… Nhìn chung,
các chính sách hỗ trợ sản xuất trong nước của Việt Nam là phù hợp với quy
định của Hiệp định Nông nghiệp và cam kết WTO. Mức hỗ trợ cho nông
nghiệp còn rất thấp không chỉ so với quy định WTO mà còn so với các nước
trong khu vực. Chính vì vậy, về cơ bản, Việt Nam không phải điều chỉnh chính
sách cho phù hợp với quy định và cam kết mà chỉ là xây dựng các chính sách
mới nhằm hỗ trợ nông nghiệp phát triển bền vững trước bối cảnh hội nhập và
biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Trợ cấp xuất khẩu: Theo Hiệp định Nông nghiệp, mọi hình thức trợ
cấp xuất khẩu nông sản đều bị nghiêm cấm. Những nước thành viên WTO
đang áp dụng các chính sách trợ cấp xuất khẩu phải kê khai và cam kết cắt
giảm. Sự ưu đãi đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển là
được phép áp dụng 2 hình thức trợ cấp xuất khẩu, đó là trợ cước phí vận tải và
chi phí tiếp thị đối với hàng xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu, do đây là chính sách
có tính bóp méo thương mại nhiều nhất, nên các nước thành viên WTO đòi hỏi
các nước gia nhập WTO phải cam kết không trợ cấp xuất khẩu ngay khi gia
80
nhập đổi lại được hưởng quy chế MFN. Do đó, Việt Nam cũng phải cam kết
cam kết bỏ trợ cấp xuất khẩu ngay khi gia nhập và bảo lưu quyền được hưởng
S&D trong lĩnh vực này. Vào thời điểm Việt Nam gia nhập WTO thì các quy
định cho phép trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản không còn hiệu lực; các cam
kết cụ thể liên quan đến trợ cấp xuất khẩu nông sản phải ở mức bằng không
trong “Biểu cam kết Hàng hoá”. Từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã không áp
dụng bất cứ hình thức trợ cấp xuất khẩu nào.
Tuy vậy, cam kết này không ảnh hưởng đến các quyền của Việt Nam theo
quy định hiện hành của WTO đối với các hỗ trợ trong nước. Việt Nam bảo lưu
quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho các nước đang
phát triển trong lĩnh vực này. Đối với các loại hỗ trợ mà WTO quy định phải
cắt giảm như một số hình thức hỗ trợ lãi xuất để thu mua nông sản, hỗ trợ dưới
hình thức quy định giá sàn cho nông sản (trợ cấp "hổ phách")…, nhìn chung
Việt Nam được duy trì trợ cấp ở mức không quá 10% giá trị sản lượng [7].
3.1.2.2. Cam kết và thực hiện Hiệp định SPS
Việt Nam đã cam kết áp dụng đầy đủ các quy định của Hiệp định SPS kể
từ ngày gia nhập WTO mà không cần có thời gian chuyển đổi, các cơ quan
quản lý chuyên ngành của Việt Nam sẽ áp dụng các biện pháp SPS phù hợp với
tất cả các quy định liên quan của Hiệp định SPS. Việt Nam phải thực hiện các
quy định kỹ thuật về ấn định thời hạn sử dụng đối với nguyên liệu thực phẩm
chưa chế biến và phụ gia thực phẩm vào thời điểm gia nhập WTO. Đối với các
sản phẩm khác, Việt Nam chấp thuận nguyên tắc “sử dụng tốt nhất trước
hạn…” (Best used before term…) theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
Các hạn chế nhập khẩu dựa trên các biện pháp về thời hạn sử dụng được
áp dụng cho các nguyên liệu thực phẩm chưa chế biến và phụ gia thực phẩm
phải được dựa trên các nguyên tắc khoa học bao gồm các tiêu chuẩn quốc tế
liên quan [2], [7].
81
Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phối hợp với các Bộ ngành khác tiến hành
rà soát các quy định trong nước cho phù hợp với Hiệp định SPS, tổ chức phổ
biến cam kết và tập huấn nội dung Hiệp định cho các cán bộ liên quan. Đã triển
khai cổng thông tin điện tử của Văn phòng SPS để trao đổi thông tin giữa văn
phòng với mạng lưới SPS của các Bộ ngành và Ban thư ký Ủy ban SPS của
WTO; xây dựng và ban hành quy chế tổ chức và phối hợp hoạt động giữa Văn
phòng SPS Việt Nam với các điểm thông báo, hỏi đáp về SPS thuộc các Bộ
ngành nhằm đảm bảo thực thi đầy đủ nghĩa vụ minh bạch hóa của Việt Nam
đối với Hiệp định SPS
Các Hiệp định TRIPS, TBT, AD, SCM và SG, Việt Nam đã cam kết có
nghĩa vụ áp dụng đầy đủ các quy định của các Hiệp định kể từ ngày gia nhập
WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào. Các cơ quan quản lý
chuyên ngành của Việt Nam có nghĩa vụ áp dụng các quy định của pháp luật
phù hợp với tất cả các quy định liên quan của Hiệp định; thực tế Việt Nam thực
hiện đầy đủ và nghiêm túc các Hiệp định trên [12].
3.1.3. Điều chỉnh chính sách nông nghiệp
3.1.3.1. Điều chính chính sách liên quan đến mở cửa thị trường
Việt Nam thực hiện các cam kết WTO một cách nghiêm túc trong tất cả
các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản. Về thuế, trước khi bắt đầu vào
năm mới, Bộ Tài chính đều ban hành biểu thuế hàng năm thực hiện các cam
kết WTO; cho đến 1/1/2014, Việt Nam giảm thuế đúng như cam kết về biểu
thuế. Trong lộ trình cắt giảm nhiều mặt hàng còn giảm sâu hơn so với cam kết,
năm 2007, năm đầu tiên thực hiện nghĩa vụ cam kết WTO về thuế, Việt Nam
không chỉ thực hiện đúng tiến độ cam kết mà đã giảm thuế nhiều mặt hàng
nông sản (nhóm thịt tươi sống như thịt trâu bò, lợn, gia cầm) rất cao so với
mức cam kết trước yêu cầu lạm phát, tăng giá thực phẩm trong nước (từ 20-
30% xuống còn 12%)... Năm 2012, có một số nhóm hàng còn cắt giảm nhanh
82
hơn so với lộ trình cam kết, nhóm hàng động vật giáp xác tươi hoặc ướp lạnh
(HS0306), mức thuế suất cam kết cắt giảm là 17,8% nhưng thuế suất áp dụng
trong thực tế giảm còn 5,8%; hoặc nhóm hàng động vật thân mềm tươi sống
hoặc ướp lạnh (HS0307) mức thuế suất cam kết cắt giảm là 16,5% thực tế chỉ
còn 4,6%...
Về phi thuế, những hàng rào phi thuế (hạng ngạch, quy định hạn
lượng...), Việt Nam rỡ bỏ hoàn toàn kể từ khi gia nhập WTO, trừ một số mặt
hàng (như đường, muối...) không đưa vào cam kết WTO nên vẫn có hạn ngạch
nhập khẩu hàng năm để tránh thiệt hại cho sản xuất trong nước. Trước 2006
các hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2005 được quản lý bởi quyết
định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 1/5/2001 về quản lý
xuất nhập khẩu; quyết định này đã bãi bỏ khi gia nhập WTO.
3.1.3.2. Trợ cấp xuất khẩu
Kể từ năm 1998, Chính phủ phải tăng trợ cấp xuất khẩu cho hàng nông
sản. Các chương trình của chính phủ dành cho các nhà xuất khẩu dưới các hình
thức như: miễn giảm thuế trực tiếp; khấu trừ thuế; hỗ trợ tài chính trực tiếp
(cho các nhà xuất khẩu lần đầu), cho những mặt hàng xuất khẩu vào những thị
trường mới, hoặc những mặt hàng gây ra những biến động lớn về giá; và
thưởng xuất khẩu (quyết định số: 02/2002/QĐ-BTM ngày 2/01/2002 ban hành
quy chế thưởng xuất khẩu). Trong giai đoạn 1999-2001 mức trơ cấp xuất khẩu
trung bình 1.103 tỷ đồng (khoảng 73,5 triệu USD) cho 4 mặt hàng: gạo, cà phê,
thịt lợn và rau quả; người được hưởng lợi chủ yếu là các donh nghiệp.[8] Sau
2006, trợ cấp xuất khẩu trong AoA không còn hiệu lực và bằng không; do vậy
từ 2007 đã gỡ bỏ và không còn bất kỳ hình thức trợ cấp xuất khẩu nào.
3.1.3.3. Chính sách nông nghiệp sau WTO
Nhìn chung, các chính sách hỗ trợ sản xuất trong nước là phù hợp với
quy định của Hiệp định Nông nghiệp và cam kết WTO; đánh giá mức hỗ trợ
83
của Việt Nam so với AoA; hầu hết những biện pháp hỗ trợ trong nước thuộc
dạng Hộp xanh lá cây chiếm 91,7%, hỗ trợ Hộp xanh lam chiếm 7,1%, hỗ trợ
Hộp hổ phách khoảng 1,2% tổng giá trị các khoản hỗ trợ trong nước giai đoạn
2001-2004.[8] Mức hỗ trợ cho nông nghiệp còn rất thấp không chỉ so với quy
định WTO mà còn so với các nước trong khu vực. Về cơ bản, Việt Nam chỉ
cần xây dựng các chính sách mới nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững
trước bối cảnh hội nhập, khủng hoảng kinh tế và biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp liên quan đến Hiệp định AoA
Nghị định 56/2005/NĐ-CP ngày 26/04/2005 của Chính phủ về khuyến
nông, khuyến ngư. Quyết định số 162/2008/QĐ-TTG ngày 4/12/2008 của Thủ
tướng Chính phủ “Về chính sách khuyến nông, khuyến ngư ở địa bàn khó
khăn”. Hỗ trợ xây dựng các mô hình trình diễn, hỗ trợ 100% chi phí về giống
và các vật tư thiết yếu khác cho các mô hình trình diễn ở địa bàn khó khăn. Hỗ
trợ tập huấn và đào tạo, hỗ trợ 100% về tài liệu, chi phí đi lại, ăn, ở cho người
sản xuất và nhân viên khuyến nông ở các địa bàn khó khăn tham dự các lớp tập
huấn.
Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 23/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ: Về
cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Mục
tiêu: Lúa gạo giảm mức tổn thất từ 11-13% hiện nay xuống 5-6% vào năm
2020. Ngô giảm mức tổn thất từ 13-15% hiện nay xuống còn 8-9% vào năm
2020; hạn chế tối đa mức độ nhiễm độc tố aflatoxin, cải thiện giá bán thương
phẩm khoảng 10%. Cà phê hạn chế tối đa mức độ nhiễm độc tố achrotoxin A,
cải thiện giá bán cà phê nhân khoảng 10%. Thủy sản và rau quả giảm mức độ
tổn thất (cả về số lượng và chất lượng) từ 20% hiện nay xuống dưới 10% vào
năm 2020. Quyết định số 63/2010/QĐ-TTG ngày 15/10/2010 của Thủ tướng
Chính phủ, “Về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với
nông sản, thủy sản”. Áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu 0% đối với các máy
84
móc, thiết bị sản xuất nông nghiệp trong nước chưa chế tạo được. Chính sách
hỗ trợ khoa học công nghệ: Ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí cho các
trường hợp sau: mua giống để áp dụng thử nghiệm lần đầu đối với các giống
lúa, ngô tiến bộ kỹ thuật có năng suất, chất lượng cao; mua bằng sáng chế để tự
sản xuất hoặc phối hợp sản xuất các loại máy móc, thiết bị có khả năng ứng
dụng rộng rãi trong nước nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch; đăng ký sở hữu trí
tuệ đối với những sản phẩm sáng tạo của nông dân có khả năng ứng dụng rộng
rãi trong nước... Quyết định số 65/2011/QĐ-TTG ngày 02/12/2011 của Thủ
tướng Chính phủ, “Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số
63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ
trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản”; mức tiền vay
tối đa để mua máy móc, thiết bị sản xuất trong nước bằng 100% giá trị hàng
hóa. Ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% lãi suất trong 2 năm đầu, từ năm thứ 3 là
50% lãi suất. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, ngô,
kho lạnh bảo quản rau quả, thủy sản, kho tạm trữ cà phê theo quy hoạch, được
miễn tiền thuê đất theo Quyết định số 57/2010/QĐ-TTg ngày 17/9/2010 của
Thủ tướng Chính phủ, được Nhà nước hỗ trợ 20% kinh phí giải phóng mặt
bằng và 30% kinh phí hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào.
Doanh nghiệp mới thành lập để thực hiện dự án đầu tư xây dựng kho dự trữ 4
triệu tấn lúa, kho lạnh bảo quản rau quả, thủy sản, kho tạm trữ cà phê theo quy
hoạch, tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn (theo danh mục địa bàn
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành kèm theo Nghị định số
124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ) được áp dụng mức thuế
suất 20% trong 10 năm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm và giảm
50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 4 năm tiếp theo; đối với dự
án thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn được áp
dụng mức thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong
85
4 năm và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 9 năm tiếp
theo.
Quyết định số 57/2010/QĐ-TTG ngày 17/9/2010 của Thủ tướng Chính
phủ, “Về miễn tiền thuê đất đối với các dự án xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn
lúa, ngô, kho lạnh bảo quản thủy sản, rau quả và kho tạm trữ cà phê theo quy
hoạch trong vòng 05 năm, kể từ khi dự án bắt đầu đi vào hoạt động”.
Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg 14/11/2013của Thủ tướng Chính phủ
ngày về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp. Ngân sách
nhà nước hỗ trợ phần chênh lệch giữa lãi suất thương mại đối với các khoản
vay dài hạn, trung hạn bằng đồng Việt Nam và lãi suất tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước để thực hiện các dự án đầu tư dây chuyền máy, thiết bị
giảm tổn thất trong nông nghiệp (bao gồm cả nhà xưởng); các dự án chế tạo
máy, thiết bị sản xuất nông nghiệp. Ngân sách nhà nước hỗ trợ phần chênh lệch
giữa lãi suất thương mại đối với các khoản vay dài hạn, trung hạn bằng đồng
Việt Nam và lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để thực hiện các
dự án đầu tư dây chuyền máy, thiết bị giảm tổn thất trong nông nghiệp (bao
gồm cả nhà xưởng); các dự án chế tạo máy, thiết bị sản xuất nông nghiệp. Mức
vay tối đa để mua các loại máy, thiết bị theo quy định tại Quyết định này bằng
100% giá trị hàng hóa. Các khoản vay sẽ được hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay
trong hai năm đầu, 50% trong năm thứ ba.
Quyết định số 497/QĐ-TTG ngày 17/04/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về “Việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất
nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn”. Quyết định số
2213/QĐ-TTG ngày 31/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ về “Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2009
của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết
86
bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực
nông thôn”
Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ “Về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”. Về cơ chế bảo đảm
tiền vay: tối đa đến 50 triệu đồng đối với đối tượng là các cá nhân, hộ sản xuất
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; tối đa đến 200 triệu đồng đối với các hộ kinh
doanh, sản xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn;
tối đa đến 500 triệu đồng đối với đối tượng là các hợp tác xã, chủ trang trại. Lãi
suất cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín
dụng được thực hiện theo cơ chế tín dụng thương mại hiện hành.
Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/02/2013 của Thủ tướng Chính
phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo. Mức cho vay đối với hộ cận nghèo do
Ngân hàng Chính sách xã hội và hộ cận nghèo thỏa thuận nhưng không vượt
quá mức cho vay tối đa phục vụ sản xuất kinh doanh áp dụng đối với hộ nghèo
từng thời kỳ. Lãi suất cho vay bằng 130% lãi suất cho vay đối với hộ nghèo
quy định trong từng thời kỳ. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay.
Quyết định số 72/2010/QĐ-TTG ngày 15/11/2010 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình
xúc tiến thương mại quốc gia.
Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng Chính
phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với
tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn, có hiệu lực ngày 10/12/2013.
Quyết định này thay thế Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về
“chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng”.
Quyết định số 201/QĐ-TTG ngày 19/2/2008 của Thủ tướng Chính phủ
về “chính sách hỗ trợ khôi phục sản xuất lúa vụ Đông Xuân 2007-2008 và chăn
nuôi trâu, bò bị thiệt hại do ảnh hưởng rét đậm, rét hại năm 2008”. Nội dung hỗ
87
trợ 50% giá giống lúa, hỗ trợ bình quân 1 triệu đồng/con trâu, bò, bê, nghé bị
chết do rét. Quyết định số 935/QĐ-TTG ngày 16/7/2008 của Thủ tướng Chính
phủ “Về việc xuất thuốc dự trữ quốc gia cho tỉnh Bình Thuận để phòng trừ
dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá”. Quyết định số 794/QĐ-TTG ngày
10/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ về “việc hỗ trợ kinh phí chống hạn vụ
Đông - Xuân 2008-2009 cho một số tỉnh Bắc bộ” tổng kinh phí 47,1 tỷ đồng.
Quyết định số 1580/QĐ-TTG ngày 9/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
“việc hỗ trợ kinh phí bơm, tát nước chống ngập úng cho một số địa phương
đồng bằng Sông Cửu Long” tổng kinh phí hỗ trợ 37,5 tỷ đồng. Quyết định số
49/2012/QĐ-TTg ngày 8/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về “Sửa đổi, bổ
sung Điều 3 của Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản
xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh”.
- Chính sách phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp công nghệ cao
và các đề án phát triển
Quyết định số 11/2006/QĐ-TTG ngày 12/01/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ
sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020".
Quyết định số 69/2007/QĐ-TTG ngày 18/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về
“Phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đến 2010 và định hướng đến
năm 2020”.
Quyết định số 10/QĐ-TTg ngày 16/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ
về “Phê duyệt Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020”. Mục tiêu đến
năm 2020 cơ bản chuyển sang phương thức chăn nuôi trang trại và công
nghiệp; tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đến năm 2020 đạt trên 42%, năm
2015 đạt 38%, năm 2010 đạt 32%; chăn nuôi đảm an toàn dịch bệnh, đảm bảo
88
vệ sinh và an toàn thực phẩm; bảo vệ và giảm ô nhiễm môi trường… Quyết
định số 2194/QĐ-TTG ngày 25/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt
Đề án phát triển giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản
đến năm 2020. Quyết định số 176/QĐ-TTG ngày 29/1/2010 của Thủ tướng
Chính phủ “Về phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao đến năm 2020”. Giai đoạn 2010-2015 đưa tỷ trọng giá trị sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 10-15% tổng giá trị sản xuất nông
nghiệp của cả nước. Giai đoạn 2016-2020 đưa tỷ trọng giá trị sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 30-35% tổng giá trị sản xuất nông
nghiệp của cả nước.
Quyết định số 1690/QĐ-TTg ngày 16/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ
về “Phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020” với
mục tiêu là: Tiếp tục CNH - HĐH ngành thủy sản và phát triển toàn diện theo
hướng bền vững, thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có cơ cấu và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, có thương
hiệu uy tín, có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập vững chắc vào kinh tế thế
giới. Kinh tế thủy sản đóng góp 30-35% GDP trong nông lâm ngư nghiệp, tốc
độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8-10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu
thủy sản đạt 8-9 tỷ USD. Tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5-7 triệu tấn, trong đó
nuôi trồng chiếm 65-70% tổng sản lượng. Tạo việc làm cho 5 triệu lao động
nghề cá có thu nhập bình quân đầu người cao gấp 3 lần so với hiện nay; trên
40% tổng số lao động nghề cá qua đào tạo…
Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị
gia tăng và phát triển bền vững”. Mục tiêu: Duy trì tăng trưởng, nâng cao hiệu
quả và khả năng cạnh tranh thông qua tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia
tăng. Nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho cư dân nông thôn, đảm bảo
89
an ninh lương thực. Tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải
khí nhà kính và các tác động tiêu cực khác đối với môi trường, khai thác tốt các
lợi ích về môi trường. Nội dung: Tái cơ cấu trồng trọt theo hướng phát triển
sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo
chuỗi giá trị. Duy trì và sử dụng linh hoạt 3,8 triệu ha diện tích đất trồng lúa để
bảo đảm an ninh lương thực và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Ổn định diện
tích trồng cà phê khoảng 500 ngàn ha. Tập trung sản xuất rau, hoa, quả công
nghệ cao, quy mô lớn ở những địa phương có lợi thế. Cơ cấu lại hệ thống tổ
chức sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích doanh
nghiệp liên kết, ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản với nông dân. Áp
dụng các biện pháp thâm canh bền vững. Chăn nuôi: từng bước chuyển chăn
nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi tập trung, trang trại, gia trại. Hỗ
trợ chăn nuôi nông hộ theo hình thức công nghiệp, áp dụng kỹ thuật và công
nghệ phù hợp. Thủy sản: giảm dần, tiến tới ổn định sản lượng khai thác thủy
sản gần bờ; từng bước chuyển khai thác bằng tàu công suất lớn hoạt động xa
bờ. Đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại trong chế biến nâng cao giá trị sản
phẩm. Lâm nghiệp: phát triển lâm nghiệp nhằm tăng giá trị kinh tế ngành và
tăng năng lực, hiệu lực bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, ứng phó hiệu quả
với biến đổi khí hậu. Tập trung phát triển và tăng tỷ lệ rừng kinh tế trong tổng
diện tích rừng. Công nghệ: Ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến tinh,
chế biến sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị kết hợp với các biện pháp về tổ chức
sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nhằm nâng cao giá trị gia tăng nông, lâm, thủy sản;
phấn đấu mỗi ngành hàng có mức tăng ít nhất 20% giá trị gia tăng trong vòng
10 năm…
Quyết định số 1250/QĐ-TTg ngày 31/07/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030. Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg ngày 9/1/2012 của Thủ
90
tướng Chính phủ “Về một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng Quy trình thực
hành sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản”.
Ngân sách nhà nước đầu tư 100% kinh phí về điều tra cơ bản, khảo sát địa
hình, phân tích mẫu đất, mẫu nước, mẫu không khí để xác định các vùng sản
xuất tập trung thực hiện các dự án sản xuất nông, lâm, thủy sản áp dụng
VietGAP do cấp có thẩm quyền phê duyệt. Ngân sách nhà nước hỗ trợ không
quá 50% tổng vốn đầu tư xây dựng, cải tạo đường giao thông, hệ thống thủy
lợi, trạm bơm, điện hạ thế, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống cấp thoát nước
của vùng sản xuất tập trung để phù hợp với yêu cầu kỹ thuật VietGAP. Kinh
phí hỗ trợ thực hiện theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Đào tạo, tập
huấn cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ khuyến nông các cấp; dạy nghề
cho lao động nông thôn áp dụng VietGAP trong sản xuất, sơ chế sản phẩm an
toàn; biên soạn, in ấn tài liệu, biểu mẫu phục vụ các lớp đào tạo, tập huấn. Hỗ
trợ một lần kinh phí thuê tổ chức chứng nhận đánh giá để được cấp Giấy chứng
nhận sản phẩm an toàn.
Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/09/2012 của Thủ tướng Chính phủ
về “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh”. Với nhiệm vụ: giảm
phát thải khí nhà kinh, xanh hóa sản xuất, xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu
dùng bền vững. Trong lĩnh vực nông nghiệp để giảm phát thải khí nhà kính
thông qua phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững.
Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 của Chính phủ “Về quản
lý, sử dụng đất trồng lúa”. Hạn chế tối đa việc chuyển đất chuyên trồng lúa
nước sang sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp; khuyến khích việc khai
hoang mở rộng diện tích đất trồng lúa, cải tạo đất lúa khác thành đất chuyên
trồng lúa nước; chỉ cho phép chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang sử dụng
vào các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Hỗ trợ 500.000
91
đồng/ha/năm trên đất chuyên trồng lúa nước, hỗ trợ 100.000 đồng/ha/năm trên
đất lúa khác (trừ đất lúa nương được mở rộng tự phát không theo quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất trồng lúa). Hỗ trợ sản xuất lúa bị thiệt hại do thiên tai, dịch
bệnh: Hỗ trợ 70% chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật khi sản xuất lúa bị
thiệt hại trên 70%; hỗ trợ 50% chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật khi
sản xuất lúa bị thiệt hại từ 30-70%. Hỗ trợ trợ 70% chi phí khai hoang, cải tạo
đất trồng lúa. Thông tư số 47/2013/TT-BNNPTNT ngày 8/11/2013 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về “Hướng dẫn việc chuyển đổi từ trồng
lúa sang trồng cây hàng năm, kết hợp nuôi trồng thủy sản trên đất trồng lúa” có
hiệu lực từ ngày 01/01/2014.
- Chính sách điều tiết thị trường liên quan đến Hộp hổ phách
Quyết định số 481/QĐ-TTg ngày 13/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ
về việc hỗ trợ mua tạm trữ cà phê 2009-2010. Thông tư số 83/2010/TT-BTC
ngày 8/6/2010 của Bộ Tài chính: hướng dẫn hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng để
mua tạm trữ cà phê niên vụ 2009-2010; quy định lượng mua tối đa 200 ngàn
tấn, thời gian mua tạm trữ từ ngày 15/4/-15/7/2010, thời gian tạm trữ từ ngày
15/4/-15/10/2010; giá để tính hỗ trợ là giá mua cà phê thực tế theo giá thị
trường; hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng với mức 6% /năm.
Nghị định số 109/2010/NĐ-CP ngày 4/11/2010 của Chính phủ về kinh
doanh xuất khẩu gạo và điều kiện kinh doanh; điều hành kinh doanh xuất nhập
khẩu lúa gạo. Thông tư số 44/2010/TT-BCT ngày 31/12/2010 của Bô Công
Thương quy định chi tiết một số điều của nghị định số 109/2010/NĐ-CP ngày
04/11/2010 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, thông tư có hiệu lực
từ ngày 14/2/2010.
Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 7/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
mua tạm trữ 1 triệu tấn quy gạo vụ đông xuân năm 2012-2013 ở ĐBSCL, thời
hạn thu mua tạm trữ tối đa là 3 tháng (từ 20/2 – 20/5/2013) và được Ngân sách
92
Nhà nước hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay. Thông tư số 50/2013/TT-BTC ngày
26/4/2013 hướng dẫn về việc hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng để mua tạm trữ
thóc gạo vụ Đông Xuân 2012-2013.
Quyết định số 850/QĐ-TTg ngày 4/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
mua tạm trữ thóc gạo vụ Hè Thu 2013; quy định thời hạn mua tạm trữ tính từ
ngày 15/6-31/7/2013. Ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay
mua tạm trữ với thời gian tạm trữ được hỗ trợ lãi suất tối đa là 3 tháng, từ ngày
15/6-15/9/2013, quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Quyết định
số 1415/QĐ-BNN-CB ban hành Quy chế kiểm tra, giám sát việc mua tạm trữ
lúa gạo vụ Hè Thu 2013.
Quyết định số 373a/QĐ-TTg ngày 15/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ
về mua tạm trữ thóc, gạo vụ Đông Xuân 2013-2014. Thông tư số 65/2014/TT-
BTC ngày 19/5/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn hỗ trợ lãi suất tiền vay để
mua tạm trữ thóc, gạo vụ Đông Xuân 2013-2014, thông tư có hiệu lực thi hành
kể từ ngày ký.
- Những chính sách liên quan Hiệp định TRIPs, SPS và TBT
Nghị định số 88/2010/NĐ-CP ngày 16/8/2010 của Chính phủ về “Quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với giống
cây trồng”. Thông tư số 16/2013/TT-BNNPTNT ngày 28/02/2013 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về “Hướng dẫn về bảo hộ quyền đối với
giống cây trồng”; hướng dẫn thi hành một số nội dung về xác lập quyền đối với
cây trồng, đại diện quyền đối với cây trồng, giám định quyền đối với cây trồng
và biểu mẫu về bảo hộ đối với cây trồng; có hiệu lực ngày 13/04/2013.
Nghị định số 98/2011/NĐ-CP ngày 26/10/2011 của Chính phủ về “Sửa
đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về nông nghiệp” Gồm: 1). Sửa đổi,
bổ sung một số điều Nghị định số 88/2010/NĐ-CP ngày 16/8/2010 của Chính
93
phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với
giống cây trồng. 2). Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 02/2007/NĐ-
CP ngày 05/01/2007 của Chính phủ về kiểm dịch thực vật. 3). Sửa đổi, bổ sung
một số điều của nghị định 58/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ. 4).
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 119/2008/NĐ-CP ngày
28/11/2008 của Chính phủ về “sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
33/2005/NĐ-CP ngày 15/3/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh Thú y”. Ngoài ra còn có các thông tư của các bộ có liên quan hướng
dẫn thi hành các quyết định trên.
* Những nhận xét và đánh giá về những chính sách ban hành sau WTO
Qua rà soát những chính sách ban hành sau WTO đều phù hợp với luật
định của WTO. Những chính sách liên quan đến Hiệp định AoA về hỗ trợ phát
triển (cả hộp xanh lơ, hộp xanh lá cây và hộp hổ phách) gồm: chính sách
khuyến nông, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch trong nông nghiệp thông
qua hỗ trợ tín dụng để đầu tư vào bảo quản chế biến và mua máy móc thiết
bị..., chính sách bảo đảm tiền vay và hỗ trợ lãi xuất cho nông dân mua vật tư,
thiết bị máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, chính sách hỗ trợ trực tiếp
nông dân vùng bị thiên tại dịch bệnh, chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp
xanh, nông nghiệp công nghệ cao; chính sách điều tiết thị trường một số mặt
hàng nông sản (lúa gạo, cà phê); chính sách hỗ trợ đảm bảo diện tích trồng lúa
và chính sách chuyển đổi đất lúa sang trồng màu và nuôi trồng thủy sản; chính
sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông
sản, xây dựng cánh đồng lớn và những chính sách liên qua đến Hiệp định SPS,
TRIPs và TBT.
Riêng chính sách điều tiết thị trường thông qua hỗ trợ lãi suất mua tạm
trữ lúa gạo vụ Đông Xuân 2012-2013 mua được 951.630 tấn quy gạo doanh số
94
cho vay của các ngân hàng thương mại 7612 tỷ đồng với lãi suất tối đa
11%/năm; ngân sách nhà nước chi ra khoảng 200 tỷ đồng; cả năm 2013 tính cả
vụ Đông Xuân và Hè Thu ngân sách chi ra khoảng trên dưới 400 tỷ đồng. [75]
Vụ Đông Xuân năm 2014 mua tạm trữ 995.494 tấn quy gạo, đạt doanh số
8256,49 tỷ đồng, lãi suất vay hầu hết là 7%/năm; ngân sách chi ra khoảng gần
145 tỷ đồng. [76]
Sắp tới nếu chính sách hỗ trợ đóng tầu sắt cho ngư dân vươn biển đánh
bắt xa bờ và bảo vệ chủ quyền biển đảo đã được Quốc hội thông qua khoản
10.000 tỷ đồng triển khai thực hiện năm 2014; với mức hỗ trợ lãi suất 100%
cho những năm đầu, một năm ngân sách chi khoảng 700 tỷ đồng.
Theo Hiệp định nông nghiệp, tổng hỗ trợ gộp là 13,3% giá trị sản xuất
nông nghiệp (trong vòng 10 năm đầu gia nhập), theo giá trị sản xuất nông
nghiệp năm 2013 đạt 801.256,9 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010, theo giá thực tế
còn cao hơn); tổng hỗ trợ gộp khoảng 106 nghìn tỷ cộng với 4.000 tỷ bảo lưu,
hỗ trơ gộp đạt 110.000 tỷ đồng, năm 2013 hỗ trợ tạm trữ khoảng 400 tỷ chiếm
3,64%. Hiện chưa có số liệu tổng hợp tổng mức hỗ trợ của Việt Nam cho nông
nghiệp hiện nay là bao nhiêu, theo luận án chắc chắn con số tổng hỗ trợ gộp
này thấp hơn nhiều lần so với quy định mà WTO cho phép; cho nên các chính
sách trên hoàn toàn phù hợp với WTO.
Qua nghiên cứu các chính sách và thực tế, tính khả thi và lan tỏa của
những chính sách còn thấp. Chẳng hạn những chính sách tín dụng hỗ trợ để
triển khai mua máy móc, thiết bị và vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp thực
tế cho vay không nhiều; do sản xuất nhỏ, manh mún, thiếu liên kết hợp tác nên
nhu cầu lớn nhưng lại rất phân tán; do chi tiêu chủ yếu bằng tiền mặt nên nó
không chỉ gây khó mà còn làm tăng chi phí quản lý giám sát các khoản vay và
thủ tục thanh quyết toán phức tạp nên cả người đi vay và người cho vay đều có
tâm lý e ngại khó tiếp cận nhau.
95
Chính sách điều tiết thị trường thông qua hỗ trợ lãi suất mua tạm trữ với
mục tiêu tăng lợi nhuận cho người sản xuất song cũng chỉ là giải pháp tình thế,
hiệu quả của chính sách đạt thấp. Nguyên nhân vẫn là sản xuất nhỏ manh mún,
thiếu hợp tác và liên kết, chưa hình thành chuỗi giá trị ngành hàng nên lợi ích
từ chính sách này phân bổ chủ yếu vào doanh nghiệp và thương nhân mua gom
nông sản còn nông dân sản xuất trực tiếp hưởng lợi không đáng kể...
Tóm lại, sau WTO hệ thống chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững và hiệu quả đã được hoàn thiện thêm một bước nhưng
vẫn chưa theo kịp với tiến trình hội nhập WTO. Chính sách chưa đồng bộ và
chưa có tính đột phá, vẫn là giải pháp ngắn hạn mang tính tình thế và những
vấn đề tồn tại của nông nghiệp như hiệu quả thấp, tăng trưởng kém bền vững,
chuyển dịch cơ cấu chậm, sản xuất nhỏ manh mún, thiếu hợp tác, thiếu liên
doanh liên kết, chưa hình thành chuỗi giá trị ngành hàng, năng lực cạnh tranh
thấp...; chưa được khắc phục.
3.2. Thực trạng phát triển ngành nông nghiệp sau WTO
3.2.1. Tăng trưởng ngành nông nghiệp
3.2.1.1. Tăng trưởng GDP, giá trị sản xuất và xuất khẩu
- Tăng trưởng GDP: Qua hơn 7 năm hội nhập WTO, ngành nông nghiệp
đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn; GDP nông nghiệp luôn tăng
thực dương trong giai đoạn 2000-2013.
Tuy nhiên, tốc độ tăng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm theo thời
gian: giai đoạn 2000-2006 tăng bình quân 3,81%/năm, giai đoạn 2007-2013
tăng 3,20%/năm. So với tốc độ tăng GDP chung của nền kinh tế, giai đoạn
2000-2006 tốc độ tăng bình quân 7,63%/năm, giai đoạn 2007-2013 tăng
6,21%/năm; GDP nông nghiệp có xu hướng tăng thấp hơn và không tương
đồng với tăng trưởng chung của nền kinh tế.
96
9
Trước WTO
Sau WTO
8.46
8.44
8.23
7.79
8
7.34
7.08
6.79 6.89
6.78
7
6.31
5.89
6
5.42
5.32
5.25
5
4.68
4.63
4.36
4.17
4.02
4
4
3.69 3.76
3.62
3
2.98
2.78
2.68 2.67
2
1.83
1
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011* 2012* 2013*
GDP chung
GDP NN
Nguồn: [44], [69]
Tỷ đồng
Trước WTO
Sau WTO
1200 00 1000 00 8000 0 6000 0 4000 0 2000 0
0
11 20
12 20
05 20
13 20
06 20
08 20
07 20
10 20
09 20
01 20
00 20
04 20
03 20
02 20
nông nghiệp
Lâm nghiệp
Thủy sản
Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp
Nguồn: [45], [69]
Biểu đồ 3.2: GDP ngành nông nghiệp 2000-2013 (giá so sánh năm 1994)
Tốc độ tăng GDP của thủy sản mặc dù cao hơn tốc độ tăng chung của
toàn ngành nông nghiệp, nhưng lại giảm mạnh hơn sau WTO: 4,19 %/năm giai
97
đoạn 2007-2013 so với 10,4%/năm giai đoạn 2000-2006. Trong khi đó GDP
lâm nghiệp có xu hướng ngược lại: 3,24%/năm trong 7 năm sau WTO, so với
0,97%/năm của 7 năm trước khi gia nhập WTO. Năm 2013, GDP ngành nông
nghiệp tăng 2,67%, trong đó nông nghiệp tăng 2,21%, lâm nghiệp 5,78%, thủy
sản 3,98%. [69]
- Tăng trưởng giá trị sản xuất: Tốc độ tăng giá trị sản xuất (GTSX) bình
quân của ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần, giai đoạn 2000-2006 tăng
%
25
Trước WTO
Sau WTO
20
15
10
5
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011*
2012*
2013*
NLTS
Chăn nuôi
Lâm nghiệp
Thủy sản
Trồng trọt
5,65%/năm, giai đoạn 2007-2013 tăng 4,55%/năm, (giảm 1,1 điểm %).
Biểu đồ 3.3: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
Nguồn: [44], [69]
thủy sản (giá so sánh năm 1994 và 2010).
Trong đó, tốc độ tăng GTSX bình quân của lâm nghiệp và trồng trọt sau
WTO cao hơn trước WTO; cụ thể giai đoạn 2007-2013 tăng 4,67%/năm, giai
đoạn 2000-2006 tăng 1,54%/năm (tăng 3,13 điểm %); trồng trọt giai đoạn
2007-2013 tăng 3,83%/năm, giai đoạn 2000-2006 tăng 3,65%/năm (giảm 0,08
điểm %). Thủy sản giai đoạn 2007-2013 tăng 4,67%/năm, giai đoạn 2000-2006
tăng 11,62%/năm (giảm 6,95 điểm %). Chăn nuôi giai đoạn 2007-2013 tăng
98
5,32%/năm, giai đoạn 2000-2006 tăng 7,23%/năm (giảm 1,91 điểm %). Trong
tăng trưởng GTSX chỉ có lâm nghiệp tăng đều và khá ổn định, còn lại xu
hướng chung sau WTO có tốc độ tăng GTSX chậm lại và thiếu ổn định.
Thực tế cho thấy, khi thị trường thế giới có nhu cầu cao về một loại nông
sản nào đó thì nông sản đó tăng, khi nhu cầu giảm thì nông sản đó giảm; do đó
nguồn lực thị trường nông sản thế giới tham gia vào điều tiết sản xuất nông
nghiệp trong nước.
Tr.USD
Sau WTO
Trước WTO
35000
30000
25000
20000
15000
10000
5000
0
2003
2000
2002
2004
2005
2006
2007
2009
2010
2011
2013
2001
2008
2012
Nông sản
Lâm sản, gỗ & SP từ gỗ
Thủy sản
- Tăng trưởng xuất khẩu:
Nguồn: [43], [69]
Biểu đồ 3.4: Giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản giai đoạn 2000-2013
Giá trị xuất khẩu toàn ngành tăng khá nhanh trong giai đoạn từ năm
2000-2013 (trừ năm 2009), tuy nhiên tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu bình
quân có xu hướng tăng chậm lại, giai đoạn 2000-2006 tăng 15,94%/năm cao
hơn so với giai đoạn 2007-2013 chỉ tăng 13,27%/năm (giảm 1,67 điểm %).
Trong đó, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu bình quân của lâm sản giảm
mạnh từ 29,87%/năm giai đoạn 2000-2006, xuống còn 15,55%/năm giai đoạn
99
2007-2013; thủy sản giảm từ 14,65%/năm xuống 10,09%/năm; nông sản tăng
từ 13,05%/năm lên 13,9%/năm.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp, hàng nông sản
chiếm tỉ trọng lớn và có xu hướng giảm nhẹ trong tổng số, từ 56,86% (2000)
giảm xuống 53,49% (2013); thủy sản giảm từ 32,79% xuống còn 23,34%; lâm
Tr.USD
Trước WTO
Sau WTO
0
0
0
5
1
0
0
0
0
1
0
0
0
5
0
5 0 0 2
3 0 0 2
7 0 0 2
2 0 0 2
9 0 0 2
1 1 0 2
4 0 0 2
0 1 0 2
3 1 0 2
2 1 0 2
6 0 0 2
1 0 0 2
8 0 0 2
0
0
0
- 5
0
0
0
0
- 1
0
0
0
5
- 1
0
0
0
0
Chung
Nông nghiệp
- 2
sản, gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng từ 10,53% lên 23,17%.
Nguồn: [44], [69]
Biểu đồ 3.5: Cán cân thương mại chung và thương mại nông nghiệp
Một điều đáng ghi nhận là ngành nông nghiệp luôn luôn duy trì được
thặng dư thương mại, ngược với xu hướng thâm hụt của nền kinh tế. Năm 2001
thặng dư thương mại của nông nghiệp có 2,3 tỷ USD, năm 2012 thặng dư
thương mại lên đến 12,3 tỷ USD và năm 2013 cũng thặng dư được 8,5 tỷ USD.
3.2.1.2. Tăng trưởng nông nghiệp
- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất (GTSX) nông nghiệp: Trước khi gia
nhập WTO (2001-2006), tốc độ tăng GTSX bình quân nông nghiệp tăng
4,42%/năm (trồng trọt 3,75%/năm, chăn nuôi 7,70%/năm, dịch vụ nông nghiệp
tăng 2,65%/năm). Sau khi gia nhập WTO (2007-2013) tốc độ tăng GTSX bình
100
quân là 4,11%/năm (trồng trọt bình quân 3,83%/năm, chăn nuôi tăng 5,32%/năm,
dịch vụ tăng 3%/năm), chăn nuôi giảm so với bình quân 6 năm trước WTO.
Tr.USD
Sau WTO
Trước WTO
4000
3500
3000
2500
2000
1500
1000
500
0
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Điều
Gạo
Cao su
Cà phê
Hạt Tiêu
Chè
- Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
Nguồn: [43]; [45], [69]
Đồ thị 3.1: Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng nông sản
Giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản phẩm năm 2000 của Việt Nam chỉ
đạt 2.563,3 triệu USD, đến năm 2006 giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 5.352,45
triệu USD, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2000-2006 tăng 13,06%/năm. Sau
WTO, xuất khẩu nông sản tiếp tục đà tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu nông
sản năm 2007 đạt 7.032,82 triệu USD, bằng 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu
cả nước, đến năm 2012 kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm 14,7%, năm 2013
chiếm khảng 12,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nền kinh tế; tốc độ tăng
bình quân giai đoạn 2007-2013 tăng 13,90%/năm.
Kim ngạch xuất khẩu 6 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành nông
nghiệp là gạo, cà phê, tiêu, cao su, điều và chè với kim ngạch xuất khẩu lớn và
101
không ngừng tăng về kim ngạch, tốc độ có xu hướng giảm dần ở giai đoạn sau
khi gia nhập WTO (trừ hạt tiêu và chè). Cụ thể, tốc độ tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu của điều 17,32%/năm, gạo là 12,28%/năm, cao su 9,61%/năm, cà
phê 5,84%/năm, tiêu 22,06%/năm và chè 9,09%/năm giai đoạn 2007-2013; so
với giai đoạn 2002-2006 lần lượt là 28,29%/năm, 15,13%/năm, 44,95%/năm,
Trước WTO
Sau WTO
Sản lượng
Giá trị
1000 tấn
D S U
. r t
9000 8000 7000 6000 5000 4000 3000 2000 1000 0
4000 3500 3000 2500 2000 1500 1000 500 0
2012
2008
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2009
2010
2011
2013
14,92%/năm và 7,42%/năm.
Nguồn: [43]
Biểu đồ 3.6: Giá trị và lượng xuất khẩu gạo giai đoạn 2001 - 2013
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chủ yếu
nhờ vào tăng khối lượng chứ không phải tăng giá, điều đáng lo ngại cho sản
xuất cũng như xuất khẩu nông sản. Chẳng hạn, đối với ngành hàng lúa gạo, giá
trị xuất khẩu năm 2013 giảm 21,23%, nhưng lượng gạo xuất khẩu giảm
17,66% so với năm trước. Tương tự giá trị xuất khẩu ngành hàng cà phê năm
2012 tăng 33,4%, nhưng lượng xuất khẩu tăng 37,8% so với năm trước, phản
ánh mức giá xuất khẩu trên đơn vị giảm.
Tuy vậy, tăng trưởng của ngành nông nghiệp chưa thực sự bền vững, thể
hiện về năng suất, chất lượng, hiệu quả quả và năng lực canh tranh của ngành
và sản phẩm còn thấp.
102
3.2.1.3. Tăng trưởng lâm nghiệp
- Tăng trưởng về GTSX: Trước khi gia nhập WTO, lâm nghiệp đã
chuyển hướng sang tập trung xây dựng vốn rừng và đầu tư theo các chương
trình, dự án, giao đất lâm nghiệp ổn định lâu dài cho hộ gia đình giảm khai
thác, vốn rừng được phát triển và độ che phủ của rừng tăng lên, tốc độ tăng
trưởng GTSX giai đoạn 2001-2006 thấp, tăng 1,28%/năm.
Sau khi gia nhập WTO, chế biến và kinh doanh gỗ tận dụng tốt cơ hội do
WTO mang lại nên đã phát triển mạnh; củng cố uy tín trên thị trường trong
nước và xuất khẩu, sản phẩm gỗ đã xuất sang khoảng 120 quốc gia, với các thị
trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc…. Trong 7 năm qua xuất khẩu
gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ đã mang lại một khối lượng lớn ngoài tệ, góp
vào nâng cao GTSX và tốc độ tăng trưởng của lâm nghiệp. Tốc độ tăng trưởng
GTSX giai đoạn 2007-2013 tăng 4,67%/năm. GDP lâm nghiệp 17.101 tỷ đồng
(2013) tăng 5,78%; GTSX đạt 22.413 tỷ đồng tăng 6,04% so với 2012.[69]
- Tăng trưởng xuất nhập khẩu: Lâm nghiệp vừa có nhập (nhập nguyên
liệu gỗ) vừa có xuất (xuất hàng đã qua chế biến).
Trước WTO
Sau WTO
Nhập khẩu nguyên liệu gỗ
Nguồn: [43], [44]
Đồ thị 3.2: Giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ 2002 - 2011
103
Trong giai đoạn 2002-2006 để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu,
ngành lâm nghiệp phải nhập khẩu 2.511,46 triệu USD nguyên liệu gỗ từ nước
ngoài, chiếm 44,68% kim ngạch xuất khẩu; từ năm 2007-2011 tổng giá trị gỗ
nguyên liệu nhập khẩu là 5.355,82 triệu USD chiếm 36,44% kim ngạch xuất khẩu.
Giai đoạn 2002-2006, ASENA là thị trường cung cấp nguyên liệu gỗ
chính chiếm 55,73% tổng giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu (Campuchia
8,99%, Lào 12,78%, Malaysia 22,7% còn lại là các nước khác của ASEAN).
Tiếp đến là Hoa kỳ chiếm 6,33% và Trung Quốc chiếm 6,16%. Giai đoạn
2007-2011 cơ cấu thị trường cung cấp nguyên liệu gỗ có thay đổi, ASEAN vẫn
thị trường chính nhưng tỷ trọng đã giảm xuống còn 44,5% tổng giá trị nhập
khẩu gỗ nguyên (Campuchia 4,85%, Lào 14,16%, Malaysia 12,7% còn lại là
các nước ASEAN khác); tỷ trọng của thị trường Trung Quốc và Hoa Kỳ tăng
gần gấp đôi so với trước khi ra nhập WTO, tương ứng là 12,43% và 11,53%
tổng giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu.
Tr.USD
Trước WTO
Sau WTO
6000
5000
4000
3000
2000
1000
0
2000
2004
2005
2002
2009
2011
2013
2006
2012
2001
2003
2007
2008
2010
Xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ
Nguồn: [43] , [45], [69]
Biểu đồ 3.7: Giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ từ 2000-2013
104
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng
khá nhanh, giai đoạn 2000-2006 tăng bình quân 35,68%/năm; giai đoạn 2007-
2013 tăng bình quân 14,95%/năm. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ và
các sản phẩm làm bằng gỗ đạt 5,5 tỷ USD tăng 17,8% so với năm 2012.
Ngành công nghiệp chế biến gỗ đang phát triển mạnh và có uy tín trên
thị trường, thị trường xuất khẩu tương đối ổn định, sản phẩm gỗ đã có mặt ở
khoảng 120 quốc gia; Việt Nam đã vươn lên là quốc gia đứng vào tốp đầu về
xuất khẩu sản phẩm gỗ trong khu vực ASEAN.
3.2.1.2. Tăng trưởng thủy sản
- Tăng trưởng GTSX: Giai đoạn 2000-2006 (trước WTO), tốc độ tăng
GTSX thuỷ sản bình quân tăng 12,97%/năm; giai đoạn 2007-2013 tốc độ tăng
6,67%/năm, giảm gần 1/2 so với trước WTO.
Tốc độ tăng trưởng GTSX của khai thác và nuôi trồng đều tăng dương,
nhưng tốc độ tăng trưởng chậm dần, nhất là sau WTO. Về khai thác, tốc độ
tăng trưởng GTSX tăng 11,8%/năm (2005) giảm xuống còn tăng có 5,5%/năm
(2011) và tăng 4,0%/năm (2012). Về nuôi trồng, tốc độ tăng trưởng GTSX tăng
20,5%/năm (2005), giảm còn 17,6%/năm (2007) và 3,2%/năm (2012).
- Tăng trưởng xuất nhập khẩu thủy hải sản
Nhập khẩu thủy hải sản: Nhập khẩu thủy hải sản gồm cá đông lạnh cho
tiêu dùng và nhập động vật giáp xác tươi sống vừa tiêu dùng vừa chế biến xuất
khẩu. Việt Nam nhập khẩu thủy sản từ 77 quốc gia và vùng lãnh thổ, mặt hàng
nhập chủ yếu là cá đông lạnh (HS 0303) chiếm 52%, động vật giáp xác tươi
sống (HS 0306) chiếm tới 30%, các loại mặt hàng khác chỉ chiếm khoảng 18%
trong tổng kim ngạch nhập khấu (2013). Giá trị nhập khẩu tăng mạnh, trung
bình giai đoạn (2002-2006) nhập khẩu khoảng 154,2 triệu USD/năm, nhưng
sau WTO (2007-2013) đã tăng lên 423,47 triệu USD/năm.
105
Sau WTO
Trước WTO
800
653.2 670.1
700
Triêu USD
600
508.4
500
400
324.6
302.9
257.7
247.4
300
196.5 205.9
167.9
200
92.7 108
100
0
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Nguồn: [43] , [45], [69]
Biểu đồ 3.8: Kim ngạch nhập khẩu hàng thủy sản (triệu USD)
Do gia nhập WTO phải cắt giảm thuế nhập khẩu từ mức thuế suất trung
bình 30% xuống còn 20,1%; nên số quốc gia và vùng lãnh thổ xuất khẩu thủy
sản vào Việt Nam ngày một tăng, nếu như trước WTO chỉ có khoảng 30 quốc
gia và vùng lãnh thổ, sau WTO đã tăng lên 77.
Xuất khẩu thủy hải sản: Kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản tăng mạnh,
giai đoạn 2000-2006 kim ngạch xuất khẩu thủy sản trung bình đạt 2,288 tỷ
USD/năm, tốc độ tăng bình quân 14,65%/năm; giai đoạn 2007-2013 đạt 5,207
tỷ USD/năm, tốc độ tăng bình quân 10,09%/năm, tốc độ tăng chậm so với
trước WTO. Tỷ trọng mặt hàng qua chế biến xuất khẩu ngày càng cao, trước
WTO giá trị hàng thủy sản đã qua chế biến xuất khẩu chỉ chiếm 6,7%; sau
WTO tỷ lệ này đã đạt tới 15% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu (tăng gấp
hơn 2 lần). Gia nhập WTO đã thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến thủy sản
phát triển; làm cho giá trị gia tăng và lợi nhuận thu được thông qua xuất khẩu
cũng tăng. Năm 2013 kim ngạch xuất khẩu đạt 6,7 tỷ USD, chiếm 5,1% tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nền kinh tế.[69]
106
Tr.USD
8000
Trước WTO
Sau WTO
6700
7000
6088.5
6112.4
6000
5016.9
5000
4510.1
4255.3
3763.4
4000
3358
2732.5
3000
2408.1
2199.6
2021.7
1816.4
2000
1478.5
1000
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Biểu đồ 3.9: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản2000-2013
Nguồn: [43] , [45], [69]
Sau WTO tốc độ tăng trưởng nông nghiệp vẫn tăng trưởng dương nhưng
tăng chậm dần. GDP ngành nông nghiệp giai đoạn 2000-2006 tăng trưởng
bình quân đạt 3,81%/năm, giai đoạn 2007-2013 còn 3,20%/năm.
Nguyên nhân: - Về khách quan, do biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch
bệnh xuất hiện với tần suất càng ngày càng tăng nên đã tác động đến tăng
trưởng của nông nghiệp sau WTO. Khủng khoảng kinh tế 2007-2008 và 2011
mặc dù tác động không nhiều như với công nghiệp và dịch vụ, song ngành
nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.
- Về mặt chủ quan: Theo kinh nghiệm quốc tế, trong quá trình hội nhập
KTQT, các nước đang phát triển thường phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng
nhiều tài nguyên nên dẫn đến dễ bị cạn kiệt nguồn tài nguyên. Ở Việt Nam,
trong thời gian từ khi đổi mới mở cửa và hội nhập KTQT, ngành nông nghiệp
tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng nhờ tăng diện tích, tăng vụ và tăng đầu
107
con; sau WTO nguồn lực tự nhiên có giới hạn này dần cạn kiệt nên xu hướng
tăng trưởng chậm lại. Tăng trưởng theo chiều sâu như: tăng trưởng nhờ quy
mô, nhờ khoa học kỹ thuật và công nghệ, tăng trưởng nhờ tăng giá trị gia
tăng... chưa được phát huy tốt. Đồng thời hệ thống chính sách không đồng bộ
và không theo kịp cùng với tiến trình hội nhập đã không thúc đẩy phát triển
nông nghiệp, chưa thúc đẩy tăng trưởng theo chiều sâu và theo hướng bền
vững, hiệu quả nên tăng trưởng có xu hướng chậm dần.
3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
3.2.2.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp
Trước WTO
Sau WTO
100%
80%
11.35 11.51 11.97 12.45 13.19 13.77 14.69 14.86 15.13 15.37 15.58 16.00 16.41 3.90 3.76 3.65 3.53 3.43 3.35 3.28 3.19 3.24 3.27 3.31
3.12
3.02
60%
40%
84.75 84.73 84.38 84.02 83.38 82.88 82.03 81.95 81.63 81.36 81.11 80.88 80.57
20%
0%
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Nông nghiệp
Lâm nghiệp
Thủy sản
- Cơ cấu giá trị gia tăng ngành nông nghiệp
Nguồn: [44], [69]
Biểu đồ 3.10: Cơ cấu giá trị gia tăng ngành nông nghiệp
Cơ cấu giá trị gia tăng nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực, tuy nhiên tốc độ chuyển dịch chậm. Cơ cấu
108
giá trị gia tăng nông nghiệp có xu hướng giảm vị thế trong cơ cấu ngành nhưng
vẫn chiếm tỷ trọng lớn, trong khi lâm nghiệp và thủy hải sản có nhiều tiềm
năng phát triển nhưng chiếm tỷ trọng chưa tương xứng. Gia nhập WTO đã thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản thông qua việc
huy động và phân bổ nguồn lực đất đai, lao động và vốn vào các lĩnh vực có
thế mạnh xuất khẩu, đặc biệt là trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và một số
cây trồng có lợi thế xuất khẩu như: lúa gạo, cà phê, cao su, điều, hồ tiêu....
Cơ cấu giá trị gia tăng nông nghiệp là 84,75%, lâm nghiệp 3,90%, thủy
sản là 11,35% (2001); đến năm 2013 nông nghiệp vẫn chiếm 80,57%, thủy sản
tăng lên 16,41%, lâm nghiệp giảm còn 3,02%. Cơ cấu GDP ngành nông nghiệp
trong đó nông nghiệp 77,63%, lâm nghiệp 3,27%, thủy sản 19,10% (2012);
năm 2013, nông nghiệp 76,41%, lâm nghiệp 3,64%, thủy sản là 19,95%.
- Cơ cấu GTSX: Cơ cấu GTSX ngành nông nghiệp năm 2000: nông
nghiệp 80,2%, thủy sản 15,6%, lâm nghiệp 4,2%; năm 2013 tương ứng là:
Năm 2013
Năm 2000
3%
1%
3%
3%
9%
56%
10%
65%
13%
18%
6%
13%
Khác Khai thác thủy sản Chăn nuôi
Khai thác lâm sản Nuôi trồng thủy sản Trồng trọt
Khác Khai thác thủy sản Chăn nuôi
Khai thác lâm sản Nuôi trồng thủy sản Trồng trọt
76,41%, 19,95%, 3,64%; thủy sản tăng, nông nghiệp và lâm nghiệp giảm.
Nguồn: [42], [69]
Biểu đồ 3.11: Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
Trong nội bộ ngành nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ
trọng đóng góp của chăn nuôi vào GTSX ngành nông nghiệp tăng từ 13,00%
(2000) lên 18,44% (2013); nuôi trồng thủy sản tăng từ 6% lên 13,3%; ngược
109
lại, trồng trọt giảm từ 65% xuống 55,56%; khai thác thủy sản giảm từ 10%
xuống 8,73%; khai thác lâm sản giảm từ 3% xuống 2,6%.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động ngành nông nghiệp: Lao động nông, lâm,
thủy sản (NLTS) tiếp tục giảm nhanh và chuyển dịch theo hướng tích cực. Về
số lượng, năm 2012 cả nước có 19,859 triệu lao động chia ra: nông nghiệp
chiếm 91,51%, thủy sản chiếm 7,65% và lâm nghiệp chiếm 0,84%. So với
2006, lao động NLTS giảm 3069,5 nghìn người, chia ra: nông nghiệp giảm
3090,5 nghìn người, thủy sản giảm 47,7 nghìn người, lâm nghiệp tăng 68,7
nghìn người. So với năm 2001, lao động NLTS giảm 4670,7 nghìn người.
2013
2006
2011
73,6
98,1
150,1 1 137,7 1 566,9 1 448,3 100,00 100,00 100,00 92,22 92,74 95,06 0,73 0,43 0,30 7,05 6,83 4,64
2001 1. Lao động NLTS (1000 người) 24 530,1 22 928,9 20 558,3 19 859,4 23 318,8 21 263,9 18 959,9 18 173,4 Nông nghiệp 166,8 Lâm nghiệp 1 519,2 Thủy sản 100,00 2. Cơ cấu lao động NLTS (%) 91,51 Nông nghiệp 0,84 Lâm nghiệp 7,65 Thủy sản
Nguồn: [44], [69]
Bảng 3.4: Số lượng, cơ cấu lao động nông, lâm, thủy sản
Lao động NLTS giai đoạn 2001-2006 giảm 1,34%, trong đó nông nghiệp
giảm 1,83%, lâm nghiệp tăng 5,92%, thủy sản tăng 6,61%; giai đoạn 2006-
2013 lao động NLTS giảm 2,03%, trong đó nông nghiệp giảm 2,21%, thủy sản
giảm nhẹ 0,44%, lâm nghiệp tăng 7,88%.
- Chuyển dịch nguồn lực đất đai, tổng diện tích đất nông nghiệp 26,21
triệu ha chiếm 75% diện tích tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp 10,13 triệu ha
(38,64%), đất lâm nghiệp gần 15,37 triệu ha (58,63%), đất nuôi trồng thủy sản
gần 690 nghìn ha (2,63%) và đất nông nghiệp khác 26,1 nghìn ha. Đất trồng
cây hàng năm, năm 2011 có 6437,6 nghìn ha, tăng 79 nghìn ha (tăng 1,2%) so
với 2006. Đất lúa 1/1/2011 có hơn 4,12 triệu ha, giảm gần 32 nghìn ha (giảm
110
0,76%) so với 2006. Đất trồng cây lâu năm có gần 3,7 triệu ha, từ 2006 đến
2011 tăng 634,4 nghìn ha (gần 21%). Đất lâm nghiệp năm 2011 cả nước có gần
15,37 triệu ha, tăng 929 nghìn ha (tăng 6,44%). Đất nuôi trồng thủy sản năm
2011 có gần 690 nghìn ha giảm 11,8 nghìn ha (giảm 1,7%) so với 2006.[46]
3.2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp
- Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Bảng 3.5: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp
(Đơn vị tính %)
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
19,3 19,6 21,0 22,3 21,6 24,6 24,4 24,3 27,1 27,1 25,1 25,3 26,8 24,5
2,4 2,5 2,3 2,2 2,1 1,8 1,8 1,7 1,5 1,6 1,5 1,3 1,9 1,6
78,3 77,9 76,7 75,5 76,3 73,6 73,8 73,9 71,4 71,3 73,4 73,4 71,3 73,9
Nguồn: [45], [69]
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Năm Tổng Trồng trọt Chăn Nuôi Dịch Vụ
Trong nông nghiệp: trồng trọt và dịch vụ giảm tỷ trọng trong cơ cấu
GTSX, nhưng tỷ trọng giảm chậm; tỷ trọng của chăn nuôi tăng, nhưng tỷ trọng
tăng chậm; thể hiện chuyển dịch chậm chạp. Chuyển dịch cơ cấu trong nông
nghiệp thiếu bền vững thể hiện tốc độ tăng trưởng bập bõm nhất là sau WTO;
năm 2009 tăng trưởng GTSX chăn nuôi tăng 10,54%/năm, trồng trọt tăng
0,87%/năm; năm 2013 trồng trọt tăng 2,60%/năm, chăn nuôi tăng 2,01%/năm;
hoặc trong mối quan hệ giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến, ngành hàng điều
công suất chế biến lớn hơn nhiều so với khả năng cung ứng nguyên liệu điều
thô trong nước.
111
- Chuyển dịch cơ cấu lâm nghiệp: Trong lâm nghiệp, tỷ trọng khai thác
lâm sản chiếm trên dưới 80%, trồng và chăm sóc rừng chỉ chiếm trên dưới 14%
trong cơ cấu GTSX lâm nghiệp; giữa trồng và khai thác tỷ trọng không thay
đổi nhiều từ năm 2000 cho đến nay.
Năm
Tổng số
Trồng và chăm sóc rừng
Khai thác lâm sản
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Dịch vụ và các hoạt động lâm nghiệp khác 4,0 4,0 4,6 6,1 5,8 5,7 5,7 5,7 5,6 5,6 5,6 5,3 5,3 5,2
81,3 82,8 81,5 79,5 79,2 79,5 79,9 80,8 80,2 80,2 79,9 81,9 84,4 84,3
14,7 13,2 13,9 14,4 15,0 14,8 14,4 13,5 14,2 14,2 14,5 12,8 10,3 10,5
Nguồn: [45], [69]
Bảng 3.6: Cơ cấu giá trị sản xuất lâm nghiệp (Đơn vị: %)
- Chuyển dịch cơ cấu thủy hải sản, trong cơ cấu GTSX của thủy hải sản
có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng khai thác giảm, năm 2000 chiếm tỷ trọng
55,5%, năm 2013 chỉ còn 39,6%; nuôi trồng thủy hải sản năm 2000 chiếm tỷ
trọng 44,5%, năm 2013 chiếm 60,4% trong tổng cơ cấu GTSX thủy sản.
Năm 2013, nhóm hàng thuỷ sản đạt 6,7 tỷ USD, tăng 10,6% và chiếm
5,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, (Năm 2012 đạt 6,1 tỷ USD và
chiếm 5,3%).
112
Năm
Tổng
Khai thác
Nuôi trồng
55,5 47,6 42,6 39,7 36,4 35,8 33,8 32,8 37,9 40,7 38,4 37,8 39,0 39,6
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
44,5 52,4 57,4 60,3 63,6 64,2 66,2 67,2 62,1 59,3 61,6 62,2 61,0 60,4
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Nguồn: [45], [69]
Bảng 3.7: Cơ cấu giá trị sản xuất thủy hải sản (Đơn vị: %)
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp và trong nội bộ ngành theo
hướng phát triển bền vững, hiệu quả và tăng giá trị gia tăng còn chậm,chưa có
tính đột phá. Nguyên nhân do một thời gian dài phát triển nông nghiệp theo
chiều rộng và khai thác nguồn lực tự nhiên; đồng thời sau WTO những chính
sách và giải pháp về tái cơ cấu chưa đồng bộ và chưa theo kịp tiến trình hội
nhập. Chẳng hạn trong nội bộ ngành nông nghiệp mới phê duyệt đề án tái cơ
cấu lâm nghiệp và thủy sản; còn trồng trọt, chăn nuôi, chế biến… đang trong
quá trình hoàn thiện đề án…
3.2.3. Đầu tư và áp dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp
3.2.3.1. Đầu tư nước ngoài (FDI) và đầu tư trong nước vào nông nghiệp
- Đầu tư nước ngoài, giai đoạn 2007-2011 sau khi gia nhập WTO, thu
hút đầu tư nước ngoài (FDI) được 6.737 dự án FDI, tổng vốn đăng ký 151.685
triệu USD; trong khi giai đoạn 2002 - 2006 là 4.367 dự án, tổng vốn đăng ký
29.581 triệu USD, giai đoạn 2007-2011 vốn đầu tư nước ngoài tăng gấp trên 3
lần giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa thu hút được nhiều vốn
113
FDI vào một số lĩnh vực mong muốn như: công nghiệp công nghệ cao, nông
lâm thủy hải sản, khoa học công nghệ... FDI đầu tư vào nông, lâm nghiệp và
thủy hải sản lũy kế đến 31/12/2011 có 495 dự án với tổng số vốn đăng ký
3264,5 triệu USD. FDI đầu vào hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ
có 1162 dự án với vốn đăng ký 976,1 triệu USD [46].
Bảng 3.8: Vốn đầu tư toàn nền kinh tế và ngành nông nghiệp
Toàn nền kinh tế
Nông nghiệp
Theo giá thực tế Theo giá so sánh 1994
Tổng (Tỷ đồng)
Nông nghiệp Tổng (Tỷ đồng)
Cơ cấu (%)
Tổng (Tỷ đồng)
Tốc độ tăng (%)
Tổng (Tỷ đồng)
Tốc độ tăng (%)
2000 2002 2003 2004 2005 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
151.183 199.105 231.616 275.000 343.135 532.093 616.735 708.826 830.278 877.850 885.125 897.260
20.933 17.448 19.576 23.300 25.715 33.907 39.697 44.309 51.062 52.495 54.720 56.121
13,85 8,80 8,50 8,50 7,49 6,37 6,44 6,25 6,15 5,98 6,18 6,25
115.089 148.067 167.228 186.556 213.931 309.117 333.226 371.302 400.183 362.845 354.050 358.800
100,00 128,65 112,94 111,56 114,67 144,49 107,80 111,43 107,78 90,67 97,70 101,30
15.935 100,00 12.976 81,43 14.134 108,92 15.806 111,83 15.942 100,86 20.729 130,03 23.712 114,39 25.580 107,88 27.533 107,63 87,51 24.093 22.821 91,60 23.125 100,90
Nguồn: [44], [45], [46]
Năm
- Đầu tư trong nước vào nền kinh tế và ngành nông nghiệp, đầu tư trong
nước vào tất cả các lĩnh vực luôn ở mức khá cao, trước khi gia nhập WTO vốn
đầu tư toàn xã hội luôn chiếm khoảng trên dưới 40% GDP và liên tục tăng qua
các năm. Sau khi gia nhập WTO mức vốn đầu tư toàn xã hội rất thất thường,
năm 2007 vốn đầu tư chiếm 46,5% GDP, năm 2011 tỷ trọng vốn đầu tư chỉ còn
chiếm 36,4% GDP. Vốn đầu tư toàn xã hội vào nông nghiệp rất thấp, năm 2000
chiếm 13,85%, năm 2005 tỷ trọng còn 7,49%, năm 2013 còn 6,25%. Tốc độ
tăng vốn đầu tư toàn xã hội vào nền kinh tế giai đoạn 2000-2005 tăng
114
16,76%/năm, giai đoạn 2007-2013 tăng 2,25%/năm; trong đó tốc độ tăng vốn
đầu tư vào ngành nông nghiệp tương ứng là 0,01%/năm và 1,84%/năm.
Về cơ giới hóa trong nông nghiệp năm 2013 tăng nhiều lần so với năm
2006; riêng sản xuất lúa, số lượng máy kéo tăng 1,3 lần, máy gặt các loại tăng
4,3 lần; cơ giới hóa các khâu trồng lúa tăng, làm đất đạt 80%; thu hoạch đạt
30% (vùng ĐBSCL đạt 58%); sấy lúa chủ động ở ĐBSCL đạt 42%.[72]
3.2.3.2. Khoa học công nghệ trong nông nghiệp
- Về giống cây trồng và vật nuôi, trong những năm qua đã nghiên cứu và
chuyển giao đưa vào sản xuất nhiều loại giống cây, con có năng suất, chất
lượng, độ đồng đều cao vào sản xuất. Trong sản xuất lúa gạo đưa các giống lúa
lai 2 dòng, 3 dòng, giống lúa thuần phù hợp với từng vùng sinh thái như: lúa lai
ba dòng Pioneer brand 27P31, lúa lai ba dòng Thịnh dụ 11, lúa lai ba dòng
CNR02, lúa lai ba dòng Hương ưu, lúa lai 3 dòng Du ưu 600, lúa lai 3 dòng
HR182, lúa lai 3 dòng HR182, lúa lai 3 dòng Đại dương 8, lúa lai ba dòng
Xuyên hương 178 (XH 178); lúa lai hai dòng TH7-2, lúa lai hai dòng HYT108;
lúa thuần P376, lúa thuần Q.Nam1, lúa thuần Hoa ưu 109, lúa thuần PC6, lúa
thuần ĐS1, lúa thuần VS1… Đối ngô: ngô lai đơn NK 6326, ngô lai Pioneer
Brand 30B80, ngô lai DK 9955, ngô lai SSC 586, ngô lai Pioneer Brand
30N34, ngô nếp lai SD 268, ngô lai CP 555, ngô lai B265, ngô lai SSC 557,
ngô lai SSC131… Giống cà phê: giống cà phê vối TR4, TR5, TR6, TR9,
TR11, TR12, TR13 để tái canh cà phê ở vùng Tây Nguyên và các giống cà phê
arabica TN1 và TN2 cho vùng Tây Bắc, Quảng Trị, Đăk Lăk, Lâm Đồng. Giống
cao su cao sản IAN 873 cho các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Quảng Trị…
Giổng cao su chịu lạnh VNg 77-2, VNg 77-4 cho các tỉnh phía Bắc…
Friesian thuần chủng từ New Zealand, Canada và Australia. Phát triển đàn lợn
Trong chăn nuôi bò sữa, đã nhập nội và phát triển giống bò sữa Holstein
115
siêu nạc bằng việc đưa các giống lai F1 với tỷ lệ từ 3/4 máu ngoại trở lên với
giống thuần chủng Landrace, Yorkshire, Duroc, Pietrain…
- Về quy trình công nghệ, đã triển khai áp dụng các quy trình sản xuất
sạch, sản xuất bền vững trong sản xuất nông lâm thủy hải sản như: mô hình
quản lý cây trồng tổng hợp ICM, phòng trừ sâu hại tổng hợp IPM và các biện
pháp tưới nước tiết kiệm, bón phân hợp lý cho tất cả các cây trồng. Trong sản
xuất cà phê thực hiện tốt quy trình “ba giảm - ba phải - ba tăng”; trong đó,
giảm phân bón - nước tưới - thuốc bảo vệ thực vật, phải trồng mới bằng giống
tốt - trồng cây che bóng - thu hoạch đúng độ chín đẻ tăng chất lượng - hiệu quả
- năng lực cạnh tranh. Phát triển rộng mô hình cà phê Utz, Rain Forest, "Dự án
sáng kiến nông nghiệp bền vững" SAI, 4C (Common Code for the Coffee
Community - Bộ nguyên tắc chung cho cộng đồng cà phê, Hiệp hội Cà phê
toàn cầu 4C). Từng bước nâng tỷ lệ diện tích cà phê áp dụng các mô hình sản
xuất bền vững… Hết năm 2013, ngành nông nghiệp đã ban hành 32 Quy
chuẩn, 49 Tiêu chuẩn Việt Nam. [72]
- Về áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất NLTS, đã triển khai
áp dụng tiêu chuẩn VietGAP (đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ban hành ngày 28-1-2008) trong cả 3 lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản.
VietGAP (Vietnamese Good Agricultural Practices) là thực hành sản xuất nông
nghiệp tốt ở Việt Nam; được xây dựng dựa trên 4 tiêu chí: tiêu chuẩn về quy
trình kỹ thuật sản xuất; an toàn thực phẩm; môi trường làm việc và truy
tìm nguồn gốc sản phẩm. Tiêu chuẩn này là tập hợp những nguyên tắc, trình tự,
thủ tục hướng dẫn tổ chức, cá nhân sản xuất, thu hoạch, sơ chế bảo đảm an
toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo phúc lợi xã
hội, sức khoẻ người sản xuất và người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và truy
nguyên nguồn gốc sản phẩm. VietGAP được xây dựng trên cơ sở thừa kế các
tiêu chuẩn GAP đã trước đó: GlobalGAP, AseanGAP và các GAP khác trên
116
thế giới. Áp dụng VietGAP là hướng đi đúng đắn để bảo vệ người tiêu dùng và
hướng tới một nền nông nghiệp “phát triển bền vững”…
3.2.3.3. Đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho lao động nông nghiệp
- Trình độ lao động nông thôn, nông nghiệp đã được nâng lên một bước
nhưng còn rất chậm: số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở
lên năm 2011 chiếm tỷ lệ là 11,2% (năm 2006 đạt 8,2% và 2001 đạt 6,2%);
trong đó trình độ trung cấp lần lượt ở các năm 2011, 2006 và 2001 là 4,3%, 3%
và 2,5%; trình độ đại học là 2,2%, 1,1% và 0,7% trong ba năm tương ứng.
Vùng có tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề từ trung cấp trở lên cao nhất là
ĐBSH đạt 12,7%, ĐNB đạt 8,9%, BTB&DHMT 7,5%, thấp nhất là TN đạt
5,4% và ĐBSCL đạt 5%.
- Về trình độ chuyên môn của lao động nông, lâm, thủy sản: năm 2011
so với năm 2006 trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông nghiệp được
nâng cao nhưng vẫn còn chậm. Lao động có chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở
lên năm 2011 chiếm 2,95% (2006 là 2,48). Vùng có tỷ lệ cao về lao động có
tay nghề được đào tạo từ sơ cấp trở lên là Đông Nam Bộ đạt 5,25%; thấp nhất
là đồng bằng sông Cửu Long đạt 1,71%. Tỷ lệ lao động có trình độ trung cấp là
1,23% (2006 là 0,89); trình độ đại học đạt 0,21% (2006 là 0,11%).
Tuy nhiên năng suất lao động của Việt Nam rất thấp, Tổ chức Lao động
Quốc tế đưa ra mới đây, năng suất lao động Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất ở
Châu Á-Thái Bình Dương, chỉ bằng 1/15 Singapore, 1/11 Nhật Bản và 1/10
Hàn Quốc. Thậm chí so với các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập
trung bình chỉ bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. [77] Trong nông nghiệp
năng suất lao động của Thái Lan gấp 2,43 lần Việt Nam.
- Năng suất đất đai, nhờ áp dụng khoa học và công nghệ, cũng như trình
độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông nghiệp đã được nâng lên một bước,
năng suất đất đai đã tăng lên. Năm 2006 giá trị sản xuất của 1ha đất trồng trọt
117
đạt 26,4 triệu đồng, 1ha mặt nước nuôi trồng thủy sản đạt 55,4 triệu đồng; năm
2013 đạt tương ứng là 73,9 triệu đồng và 152,0 triệu đồng.
Bảng 3.9: GTSX trên 1ha đất trồng trọt và mặt nước nuôi trồng thủy sản
Đất trồng trọt Mặt nước NTTS
Năm
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Chỉ số P.T (%) 100,0 112,1 112,0 119,4 139,0 103,7 120,0 132,2 100,8 101,5 Giá trị Tr. đồng 42,5 47,4 55,4 67,4 77,4 87,1 103,8 135,2 145,3 152,0 Chỉ số P.T (%) 100,0 111,6 116,7 121,6 114,9 112,5 119,2 130,3 107,5 104,6 Giá trị Tr. đồng 21,1 23,6 26,4 31,6 43,9 45,5 54,6 72,2 72,8 73,9 Nguồn: [45]
3.2.4. Tập trung kinh tế và liên doanh, liên kết trong nông nghiệp
3.2.4.1. Các loại hình tổ chức trong sản xuất nông nghiệp
Trong sản xuất nông nghiệp hiện đang tồn tại 4 loại hình sản xuất nông
nghiệp chủ yếu là: hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp và các hợp tác xã.
- Về hộ nông dân, năm 2011 cả nước có 11,95 triệu hộ có sử dụng đất
sản xuất nông nghiệp, tăng 295 nghìn hộ (tăng 2,5%), so với năm 2006; quy
mô đất của hộ không thay đổi, phổ biến vẫn là nhỏ. Năm 2011 có 69% số hộ có
quy mô đất sản xuất nông nghiệp dưới 0,5 ha (năm 2006 là 69%); trong đó có
34,7% có qui mô dưới 0,2 ha. Tuy nhiên số hộ có quy mô trên 2 ha là 740
nghìn hộ (chiếm 6,2%), tăng 55 nghìn hộ (8,1%) so với năm 2006.
Quy mô sử dụng đất trồng cây hàng năm của hộ, năm 2011 có gần 10,36
triệu hộ, bình quân 0,62 ha; trong đó số hộ có quy mô dưới 0,2 ha chiếm 40%,
từ 0,2 đến dưới 1ha chiếm 48,3%, từ 1 đến 2ha chiếm 7,7%, trên 2 ha chiếm
4,0% (tăng 0,08% so với năm 2006).
Quy mô sử dụng đất trồng lúa của hộ, năm 2011 có gần 9,3 triệu hộ
118
trồng lúa, giảm 12 nghìn hộ so với năm 2006, bình quân 1hộ có 0,44 ha/hộ, hầu
như không thay đổi so với năm 2006.
Quy mô sử dụng đất trồng cà phê của hộ, năm 2011 cả nước có trên 635
nghìn hộ trồng cà phê, tăng gần 1/3 so với năm 2006, vùng Tây Nguyên chiếm
86% số hộ, tăng 27% so với năm 2006. Về quy mô, nhóm hộ có quy mô dưới
0,5 ha chiếm 31,3%, nhóm từ 0,5 - 1ha chiếm 30,1%, nhóm từ 1ha đến dưới
2ha chiếm 28%, nhóm trên 2ha chiếm hơn 10%. Vùng trọng điểm cà phê Tây
Nguyên năm 2011, ba nhóm có quy mô dưới 0,5ha, từ 0,5ha - 1ha, từ 1ha đến
dưới 2ha đều chiếm từ 29% đến 30%, nhóm từ 2ha trở lên chiếm 11,4% (trong
đó 1/3 có quy mô trên 3ha trở lên) trong tổng số hộ trồng cà phê.
Quy mô sử dụng đất trồng cao su của hộ, năm 2011 cả nước có 258 hộ
trồng cao su (tăng 43% so với 2006), Đông Nam Bộ chiếm 56% (tăng 118% so
với năm 2006), Tây Nguyên 22% (tăng 290%). Về quy mô, năm 2011 nhóm hộ
từ 1 - 2ha chiếm 30%, nhóm dưới 0,5ha và nhóm từ 0,5ha - 1ha đều chiếm trên
20%, nhóm từ 2 - 3ha chiếm 13% và từ 3ha trở lên chiếm 14%.
Về quy mô chăn nuôi lợn, tính đến 1/7/2011, cả nước có trên 4,13 triệu
hộ chăn nuôi lợn, miền Bắc và miền Trung chiếm 80% tổng số hộ có nuôi lợn,
so với năm 2006 đã giảm 2,2 triệu hộ, gần 35% là các hộ nuôi quy mô nhỏ
(dưới 10 con), số hộ từ 10 đến 49 con tăng 3,5%; đặc biệt đã có trên 32.000 hộ
nuôi từ 50 con trở lên tăng gần 80% so với năm 2006.
Hộ chăn nuôi gà, năm 2011 cả nước có gần 7.9 triệu hộ nuôi gà (73%
tập trung ở miền Bắc và miền Trung), so với năm 2006 tăng 0,8%, nhóm hộ
chăn nuôi nhỏ lẻ giảm, nhóm hộ có quy mô cận trang trại (từ 100 con trở lên)
tăng 145% so với năm 2006, đặc biệt có 16600 hộ nuôi gà có quy mô rất lớn
(trên 1000 con) chiếm 0,21% trong tổng số hộ chăn nuôi gà, tăng 4,32 lần so
với năm 2006.
Quy mô đất đai và quy mô gia súc gia cầm của hộ bước đầu chuyển dịch
119
theo hướng sản xuất hàng hóa, song vẫn chậm; quy mô nhỏ vẫn chiếm tỷ trọng
lớn; CMH – TTH trong sản xuất nông nghiệp diễn ra còn chậm. [46]
- Trang trại, năm 2012 cả nước có 22655 trang trại, trong đó trồng trọt
chiếm 39,11%, chăn nuôi chiếm 35,9%, nuôi trồng thủy sản chiếm 20,83%,
trang trại khác 4,16%; vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây
Nguyên chiếm trên 70% tổng số trang trại cả nước.
Năm
Bảng 3.10: Trang trại trong ngành nông nghiệp
2009
2010
Đơn vị: Trang trại 2012#
120699
135437
145880
20078
22655
2008 2011#
58576
63649
68268
6835
8861
Tổng
17635
20809
23558
6267
8133
Trồng trọt
34989
35489
37142
4440
4720
Chăn nuôi
-
-
-
736
941
Thủy sản
Nguồn: [44] [45]
* Bao gồm: Trang trại lâm nghiệp và trang trại tổng hợp.
#: 13/4/2011 thông tư 27/2011TT-BNNPTNT quy đinh tiêu chí mới về trang trại.
TT Khác*
Đến 1/7/2011, các trang trại sử dụng 154,9 nghìn ha đất, trong đó 36,6
nghìn ha đất trồng cây hàng năm, 77,1 ha đất trồng cây lâu năm, 8,9 nghìn ha
đất lâm nghiệp và 32,2 nghìn ha mặt nước nuôi trồng thủy sản. Quy mô trang
trại tùy thuộc vào điều kiện từng vùng và loại hình trang trại, bình quân 1 trang
trại 7,7ha, vùng Đông Nam Bộ đạt 11,2ha/trang trại, đồng bằng sông Hồng
thấp nhất 3,5ha. Các trang trại sử dụng 95 nghìn lao động; số lao động chưa
qua đào tạo nghề chiếm 73,9% số còn lại có trình độ như sau: đào tạo nhưng
không có chứng chỉ nghề 12,5%, trình độ sơ cấp nghề 7,3%; trung cấp nghề và
trung cấp chuyên nghiệp 3,4%; cao đẳng nghề gần 0,4%; cao đẳng gần 0,6% và
đại học chiếm gần 2%. Bình quân một trang trại có 4,8 lao động/trang trại,
trồng trọt 5,3 người, thủy sản là 4,3 người, chăn nuôi là 4,2 lao động.
120
Kết quả sản xuất, các trang trại tạo ra gần 39,1 nghìn tỷ đồng chia ra:
nông nghiệp 31,2 nghìn tỷ đồng (chiếm gần 80%), từ thủy sản 7,8 nghìn tỷ
đồng (19,9%), từ lâm nghiệp 0,3%. Giá trị thu từ nông lâm thủy sản bình quân
một trang trại là 1952 triệu đồng/năm. Giá trị thu từ 1ha đất trồng trọt từ hoạt
động nông lâm thủy sản của trang trại trồng trọt đạt 103,5 triệu/ha (2011). [46]
- Doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản: Kết thúc năm 2010 cả
nước có 2536 doanh nghiệp tăng 400 doanh nghiệp (18,7%) so với năm 2006.
Về loại hình có 170 doanh nghiệp nhà nước, 186 công ty TNHH nhà nước,
1027 doanh nghiệp tư nhân, 89 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (FDI)…
Theo 3 ngành sản xuất chính: có 955 doanh nghiệp nông nghiệp, 434 doanh
nghiệp lâm nghiệp, 1147 doanh nghiệp thủy sản.
Về vốn sản xuất kinh doanh cuối năm 2010 đạt 36,3 tỷ đồng/doanh
nghiệp, trong đó vốn phải trả là 12,7 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần năm 2006. Bình
quân 1 doanh nghiệp sử dụng 95 lao động giảm 27 người so với năm 2006.
Về đất dai, các doanh nghiệp nông, lâm thủy sản sử dụng 2309 ha chia
ra: đất trồng cây hàng năm chiếm 3,3%, đất trồng cây lâu năm 16,3%, đất lâm
nghiệp 79,5%, đất nuôi trồng thủy sản 0,9%. Chia theo lĩnh vực hoạt động:
doanh nghiệp nông nghiệp 518,1 nghìn ha (22,4%), doanh nghiệp lâm nghiệp
1763,6 ha (76,4%), doanh nghiệp thủy sản 27,3 nghìn ha (1,2%).
Kết quả sản xuất, doanh thu của 1 doanh nghiệp là 19,5 tỷ đồng gấp 2
lần năm 2005, trong đó: doanh nghiệp nông nghiệp đạt 37,9 tỷ đồng (tăng
49,6%), doanh nghiệp lâm nghiệp 5,2 tỷ đồng (giảm 9,6%), doanh nghiệp thủy
sản đạt 9,5 tỷ đồng (tăng 4 lần). [46]
- HTX nông, lâm nghiệp và thủy sản: Đến 31/12/2011, trong cả nước có
6302 HTX nông lâm thủy hải sản, số đang hoạt động là 6072 HTX trong đó:
96,3% HTX nông nghiệp, 3,2% HTX thủy sản, 0,5% HTX lâm nghiệp. Năm
2011 giảm 935 HTX (12,9%) so với năm 2006 và giảm 16% so với năm 2001,
121
giảm cả ở 3 ngành.
Qui mô đất sử dụng bình quân của 1HTX nông nghiệp là 37,4 ha đất cây
hàng năm, 2,6 ha đất trồng cây lâu năm, 8,2 ha đất lâm nghiệp, 4 ha đất nuôi
trồng thủy sản. HTX lâm nghiệp sử dụng 25 ha đất cây hàng năm, 23,8 ha đất
cây lâu năm, 160 ha đất lâm nghiệp. HTX thủy sản sử dụng 0,7 ha đất cây hàng
năm, 5,5 ha đất cây lâu năm, 1,2 ha đất lâm nghiệp, 120 ha đất nuôi trồng thủy
sản. Vốn bình quân đạt 59,8 triệu đồng, tăng 13,9% so với năm 2005. Lao động
thường xuyên bình quân đạt 21,6 người/HTX, tăng 24,1% so với 2006.
HTX có doanh thu bình quân 1lao động dạt 38,3 triệu đồng/người, tăng
33,4% so với 2005, lợi nhuận trước thuế bình quân đạt 3,7 triệu đồng/lao động,
tăng 31% so với 2005.
Sản xuất kinh doanh của các HTX có chuyển biến trên một số mặt như:
làm được một số khâu dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất, tuy nhiên kết quả sản
xuất tuy có tăng nhưng chậm và chưa vững chắc, nếu loại trừ yếu tố trượt giá
thì chỉ tiêu kết quả sản xuất và lợi nhuận giảm so với 2005 (vì chỉ số trượt giá
2010 so với 2005 là 165,32%). [46]
Ngoài những loại hình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất nông
nghiệp còn có những doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản, những
doanh nghiệp cung ứng đầu vào và những doanh nghiệp thương mại tiêu thụ và
xuất khẩu nông lâm thủy hải sản…
3.2.4.2. Thực trạng TTKT, CMH và hợp tác, liên kết trong phát triển nông nghiệp
Các chủ thể sản xuất (hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp nông, lâm
thủy sản), chế biến, kinh doanh xuất khẩu trong ngành nông nghiệp Việt Nam
vừa nhỏ bé, manh mún lại thiếu sự liên doanh, liên kết, thiếu sự lãnh đạo trong
chuỗi nên phản ứng yếu ớt với sức ép cạnh tranh từ bên ngoài, thua ngay trên
sân nhà, ép giá ngay tại thị trường nội địa...
122
TTKT trong sản xuất nông nghiệp thông qua việc dồn điền đổi thửa đã
thực hiện trong nhiều năm, nhưng quy mô diện tích canh tác của hộ vẫn nhỏ,
nhiều mảnh, nhiều thửa. Việc thực hiện cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất lúa
gạo thí điểm ở An Giang, Thanh Hóa đã mang lại kết quả bước đầu, đặc biệt ở
An Giang vùng lúa xuất khẩu, còn ở Thanh Hóa hiệu quả chưa cao; trong sản
xuất cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm quy mô canh tác lớn vẫn chiếm tỷ lệ
thấp; trong chăn nuôi gia cầm, gia súc và đại gia súc, tỷ lệ hộ chăn nuôi quy mô
nhỏ vẫn chiếm tỷ lệ cao.
TTKT theo chiều dọc và theo chiều chéo: Để nâng cao năng lực cạnh
tranh và không bị chặt dứt, phá vỡ chuỗi cung ứng nông sản không còn con
đường nào khác là TTKT, tuy nhiên để TTKT bằng con đường nội sinh tự các
doanh nghiệp tích luỹ tư bản phải có thời gian và chắc không bắt kịp tốc độ hội
nhập sâu rộng nhanh như hiện nay. Do đó TTKT bằng con đường sáp nhập,
hợp nhất, mua lại và liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp với các hộ
nông dân, với các trang trại và với các doanh nghiệp với nhau để hình thành
các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có năng lực cạnh tranh và chuyển
sang mô hình độc quyền nhóm hoặc hình thành các doanh nghiệp có quyền lực
thị trường là con đường duy nhất. TTKT có thể theo chiều ngang, chiều dọc và
theo đường chéo; TTKT dọc thường có tác dụng hạ giá thành và cũng tăng khả
năng kiểm soát dòng gía trị gia tăng. Ngoài ra những doanh nghiệp TTKT dọc
còn có thể kiểm soát giá cả và chi phí của mình trên các phân khúc sản xuất
khác nhau của ngành mình để kiếm lời ở những phân khúc có giá trị gia tăng
cao nhất. Tuy nhiên quá trình TTKT bằng mua bán, sát nhập, liên doanh và liên
kết trong ngành nông nghiệp diễn ra rất chậm chạp, ngay cả với ngành hàng
nông sản xuất khẩu lớn thì tình trạng thiếu liên doanh liên kết hợp tác vẫn là
phổ biến, hoặc có liên doanh liên kết nhưng lại rất lỏng lẻo.
Trong ngành nông nghiệp Việt Nam hiện nay, từ sản xuất đến chế biến,
lưu thông phân phối và xuất khẩu đều trong tình trạng manh mún, nhỏ lẻ;
123
mạnh ai lấy làm, kinh doanh theo phi vụ thiếu tính chuyên nghiệp; năng lực
cạnh tranh, năng lực tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu rất
thấp; nên tình trạng tranh mua, tranh bán diễn ra phổ biến và tình trạng được
mùa thì rớt giá, thua ngay trên sân nhà trước sức ép cạnh tranh từ các công ty
đa quốc gia và các tập đoàn nước ngoài.
3.2.5. Thực trạng về năng lực cạnh tranh
3.2.5.1. Năng lực cạnh tranh của một số ngành hàng nông sản
Năng lực cạnh tranh của hàng nông sản thể hiện qua các mặt sau: So sánh
chỉ số RCA của các mặt hàng nông - lâm - thủy sản của Việt Nam với một số
đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan,
Indonexia, Malaixia, Philippine cho thấy Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao ở
các mặt hàng như thủy hải sản, lúa, cà phê, tiêu, cao su nguyên liệu, gỗ và các
sản phẩm làm từ gỗ…
So sánh về sản xuất một số ngành hàng nông sản với các đối thủ cạnh
tranh: về lượng bao gồm diện tích gieo trồng, năng suất, sản lượng, lượng xuất
khẩu... Việt Nam có lợi thế trong các ngành hồ tiêu và điều, diện tích trồng hồ
tiêu đứng thứ 4 thế giới và diện tích trồng điều đứng thứ 3. Về năng suất, có lợi
thế trong hai ngành hàng cà phê và hạt điều so với các nước xuất khẩu cạnh
tranh khác như Brazil, Indonesia, Ấn Độ. Về sản lượng sản xuất, có lợi thế về
sản lượng đối với ba ngành hàng, cà phê robusta, điều và hồ tiêu. Về lượng
xuất khẩu, điều và tiêu là những mặt hàng xuất khẩu đứng đầu thế giới, cà phê
đứng sau Brazil, đứng thứ đầu về cà phê Robusta, gạo đứng thứ 2, thứ 3…
124
Chè
Năm
Gạo
Thủy sản 17,2 16,1 14,3 13,5 14,2 14.0 13,7 11,0 8,9
Hạt Tiêu 45,97 39,87 47,26 42,74 42,82 40,17 37,10 38,83 37,49
12,59 7,26 9,84 8,77 8,00 8,45 6,86 7,15 3,90
Lâm sản 2,00 2,25 3,44 4,10 4,32 4,56 4,84 4,82 5,12
2002 2004 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Cao su 28,75 28,39 27,21 29,30 29,06 27,83 24,43 28,24 15,46
Cà phê 18,81 24,74 24,02 19,18 24,87 30,78 24,51 18,70 15,87
43,37 41,48 50,74 70,06 59,95 66,01 114,80 89,37 70,16 Nguồn: [4]
Bảng 3.11: Chỉ số RCA của một số ngành hàng nông sản xuất khẩu
Trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh của các mặt hàng cụ thể trên nhiều
khía cạnh, có thể chia thành các nhóm như sau: 1) Nhóm có lợi thế so sánh và
có cơ hội mở rộng thị trường gồm: lúa gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hồ tiêu,
thủy sản, gỗ chế biến và các sản phẩm làm từ gỗ. 2) Nhóm các ngành hàng vừa
có cơ hội mở rộng thị trường vừa phải đối mặt với nhiều thách thức là rau, hoa,
quả và muối. 3) Nhóm ít có lợi thế so sánh và bị tác động mạnh trong hội nhập
gồm các ngành hàng chăn nuôi, mía đường, thức ăn chăn nuôi và sữa…
Lợi thế so sánh và chuyển hóa lợi thế so sánh thành năng lực cạnh tranh
của hàng nông sản có mức độ rất khác nhau, nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố
khác ngoài lợi thế so sánh. Hoặc chuyển hóa từ năng lực cạnh tranh sản phẩm
thành năng lực cạnh tranh của ngành hàng phụ thuộc vào: năng lực cạnh tranh
của từng doanh nghiệp, vào CMH, TTH và hợp tác, liên kết hình thành mạng
sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị; đây là vấn đề hạn chế nhất trong việc
nâng cao năng lực cạnh tranh.
Cho đến nay, sản xuất nông sản hàng hóa cho tiêu dùng trong nước hầu như ít
được bảo hộ. Khi hội nhập WTO càng làm cho mức độ bảo hộ hữu hiệu đối với các
nông sản thô giảm mạnh, tuy nhiên các nông sản đã qua chế biến mức bảo hộ lại
tăng. Như vậy, các nông sản thô sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn với các nông sản
125
nhập khẩu và điều này lần nữa thể hiện chính sách của Việt Nam đang theo
hướng khuyến khích tiêu dùng các nông sản đã qua chế biến.
3.2.5.2. Năng lực cạnh tranh của một số ngành hàng lâm sản
- Thị trường xuất khẩu gỗ: Giá trị kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản
phẩm từ gỗ năm 2000 đạt 311,4 triệu USD, năm 2006 đạt 1943,1 triệu USD,
năm 2007 đạt 2384,6 triệu USD, năm 2013 đạt 5500,0 triệu USD. Tốc độ tăng
kim ngạch xuất khẩu bình quân là 35,68%/năm (2000-2006) và 14,59%/năm
(2007-2013). Bên cạnh việc duy trì những thị trường truyền thống như: Mỹ,
EU, Nhật Bản... và bước đầu xâm nhập được những thị trường mới rất tiềm
2002 - 2006
2007 - 2012
5%
10%
10%
11%
4%
4%
21%
28%
1%
32%
2%
39%
14%
19%
EU Trung Quốc
Hàn Quốc Asean
EU Trung Quốc
Hàn Quốc Asean
Mỹ Nhật Bản Nước khác
Mỹ Nhật Bản Nước khác
năng: Trung Quốc, Ấn Độ, Úc Niu di lân…
Nguồn: [45]
Biểu đồ 3.12: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gỗ từ 2002-2012
Cơ cấu thị trường xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ ít có sự thay đổi
trong 10 năm qua, kể cả sau WTO, thị trường xuất khẩu gỗ tập trung ở thị
trường lớn là Hoa kỳ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc.
- Chỉ số lợi thế so sánh, các sản phẩm gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ thực
sự có lợi thế so sánh và có cơ hội mở rộng thị trường tăng theo thời gian hội
nhập, đặc biệt là từ sau WTO tại thị trường Mỹ và EU. Ở thị trường Trung
quốc và ASEAN sản phẩm này có chỉ số lợi thế so sánh thực dương, nhưng
126
năng lực cạnh tranh hầu như không có.
Các sản phẩm gỗ đã qua chế biến và các sản phẩm làm từ gỗ: giường, tủ,
bàn ghế có hệ số NPR lớn hơn 1 cho thấy các sản phẩm này đang được bảo hộ,
tuy nhiên các biện pháp bảo hộ bằng thuế quan đang được cắt giảm theo lộ
trình cam kết. Đồng thời nhóm sản phẩm này có ERP từ năm 2005-2009 đều
cao hơn NPR, điều đó chứng tỏ ngoài việc sử dụng biện pháp thuế quan để hỗ
trợ, còn sử dụng nhiều biện pháp phi thuế để bảo hộ sản xuất trong nước.
Bảng 3.12: Chỉ số RCA hàng gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ xuất khẩu
Nhật
EU
Asean
Năm
Chung
Mỹ
0,95 1,32 2,75 4,20 4,84 6,17 7,58 8,85 9,72
2,00 2,25 3,44 4,10 4,32 4,56 4,84 4,82 5,12
Hàn Quốc 4,50 4,65 5,14 8,09 8,03 6,94 7,37 6,59 4,04
1,56 2,05 2,26 2,24 2,41 2,51 2,52 2,86 3,29
Trung quốc 0,07 0,06 0,09 0,14 0,23 0,33 0,23 0,39 0,64
12,31 17,56 36,14 40,19 37,05 34,47 39,37 26,26 19,41
0,04 0,02 0,04 0,02 0,02 0,02 0,01 0,02 0,04
2002 2004 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Nguồn: [4]
ở một số thị trường
Chỉ số bảo hộ hữu hiệu ERP từ năm 2005-2009 đối với các nhóm sản
phẩm lâm nghiệp đều giảm, đặc biệt là đối với 2 sản phẩm gỗ tròn và sản phẩm
lâm nghiệp khác giảm mạnh. Trồng rừng và chăm sóc rừng có giá trị ERP âm,
nhưng tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa NRP dương, nghĩa là giá trị gia tăng của hai sản
phẩm này (nội địa) nhỏ hơn giá trị gia tăng của sản phẩm nhập khẩu; cho thấy
một phần là quy trình công nghệ trồng và chăm sóc rừng có trình độ thấp và lạc
hậu hơn so với công nghệ sản xuất hàng nhập khẩu, và một phần là do chưa có
biện pháp bảo hộ hoặc có nhưng chưa phát huy được tác dụng; mức động tăng
trưởng của hai sản phẩm này phụ thuộc vào những sản phẩm nhập khẩu.
127
3.2.5.3. Năng lực cạnh tranh của ngành hàng thủy hải sản
Cơ cấu (%)
Giá trị xuất khẩu TB (triệu USD/năm)
TT
Thị trường
Trước WTO 2002-2006
Sau WTO 2007-2012
Nhật Bản Mỹ Hàn Quốc Đức Nga Ucraina Italia Tây Ban Nha Hà Lan Ôxtrâylia Đài Loan Canađa Bỉ
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 Hồng Kông 15
Pháp
Trước WTO 2002-2006 729,9 673,5 154,0 49,7 36,0 4,5 47,9 41,6 36,9 78,2 108,7 45,7 52,0 69,6 30,4 386,5 2.545,2
Sau WTO 2007-2012 851,0 839,0 354,6 203,9 123,6 75,0 143,7 155,0 135,7 140,8 129,1 114,2 106,1 90,0 97,5 1.131,0 4.690,3
Các nước khác
Tổng cộng
Chênh lệch -10,5 -8,6 1,5 2,4 1,2 1,4 1,2 1,7 1,4 -0,1 -1,5 0,6 0,2 -0,8 0,9 8,9 -
18,1 17,9 7,6 4,3 2,6 1,6 3,1 3,3 2,9 3,0 2,8 2,4 2,3 1,9 2,1 24,1 100,0
28,7 26,5 6,1 2,0 1,4 0,2 1,9 1,6 1,5 3,1 4,3 1,8 2,0 2,7 1,2 15,2 100,0
Nguồn: [43]
Bảng 3.13: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy hải sản
- Thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu dịch chuyển một cách rõ
nét, không quá tập trung vào một số thị trường mà phát triển đều ở nhiều thị
trường khác nhau. Hiện thủy sản xuất khẩu sang 133 quốc gia và vùng lãnh
thổ, có 15 quốc gia nhập với khối lượng lớn (Top 15) chiếm 75,9% tổng giá trị
xuất khẩu; đặc biệt là thị trường Nhật Bản và Mỹ. Sau WTO, các nước đã cắt
giảm thuế, nên xuất khẩu thủy sản có cơ hội đến với nhiều quốc gia. Tỷ trọng
xuất khẩu thủy sản vào các thị trường truyền thống Nhật Bản và Mỹ giảm, thay
vào đó là tăng ở các nước khác. Trước WTO tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản
chiếm tới 28,7%, sau WTO còn 18,1% (giảm 10,5 điểm %); thị trường Mỹ
cũng giảm 8,6 điểm %. Tỷ trọng xuất khẩu vào nhiều nước khác tăng trung
bình khoản từ 1 đến 2,4% như Hàn Quốc, Đức, Nga, Ucraina, Tây Ban Nha…
128
- Chỉ số lợi thế so sánh: Những mặt hàng thủy sản có lợi thế rất lớn
trong xuất khẩu, khi hội nhập mặt hàng thủy sản chịu nhiều áp lực cạnh tranh
nên lợi thế so sánh ngày càng giảm; thể hiện RCA lớn hơn 1, đang giảm dần,
Trước WTO
Sau WTO
năm 2002 chỉ số RCA đạt tới 17,2; năm 2006 còn 14,2 và năm 2010 còn 8,898.
Nguồn: [4]
Đồ thị 3.3: Chỉ số lợi thế so sánh hữu hiệu RCA thủy sản
Trong giai đoạn từ 2007 trở lại đây các nước nhập khẩu hàng thủy sản sử
dụng Hiệp định SPS về an toàn vệ sinh thực phẩm, SG, SCM, AD để kiện về
trợ cấp, bán phá giá, biện pháp phòng vệ và truy xuất nguồn gốc từ khai thác
(IUU), cũng như tồn dư chất kháng sinh trong hàng thủy sản xuất khẩu ngày
càng nhiều. Điển hình như Mỹ kiện trợ cấp, bán phá giá cá tra, tôm; Nhật Bản
tăng cường kiểm tra 100% lô hàng tôm xuất khẩu vào thị trường Nhật; Tổ chức
WWF có ý định đưa cá tra vào danh sách khuyến cáo không nên sử dụng châu
Âu... Điều đó làm cho hàng thủy hải sản có lợi thế lớn đang có xu hướng ngày
một giảm do việc áp thuế chống phá giá, trợ cấp và các biện pháp phòng vệ….
Tính theo kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản/lao động nông
nghiệp, Việt Nam cao hơn Trung Quốc và Indonesia. Kim ngạch xuất khẩu
129
nông sản/lao động nông nghiệp của Việt Nam đạt 290 USD/lao động (2005) và
355,7 USD/lao động (2006), Indonesia đạt 208 USD, Trung Quốc chỉ đạt 17
USD (2005). Cao nhất vẫn là Hoa Kỳ đạt 49270 USD (2006) và thứ hai là Thái
Lan là 1218 USD (2005).
Nhìn chung, nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản có lợi thế so sánh
lớn, nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của ngành hàng không cao, thể
hiện: Việt Nam có nhiều mặt hàng có sản lượng xuất khẩu cao, đứng nhất, nhì
thế giới, nhưng kim ngạch xuất khẩu thu về không tương xứng, chịu nhiều thua
thiệt, rủi ro khi tham gia giao thương trên thị trường thế giới. Nguyên nhân
chính là do: TTH, CMH hóa thấp nên không tạo được khối lượng nông, lâm,
sản lớn có chất lượng tốt và đồng đều; đầu tư khoa học và công nghệ thấp nên
chất lượng sản phẩm thấp, năng suất thấp, giá thành cao; thiếu hợp tác, liên
kết và chưa tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị nông
sản toàn cầu; hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất nông nghiệp
thấp kém ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh; Các chủ thể từ sản xuất đến chế
biến, lưu thông phân phối và xuất khẩu đều có qui mô nhỏ; nguồn lực thấp
kém; cộng với không nắm được thị trường, không chú trọng xây dựng thương
hiệu sản phẩm, quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và sản phẩm... Những yếu
kém đó đã làm giảm năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp. Ngoài ra
năng lực cạnh tranh quốc gia còn thấp không hỗ trợ và nâng đỡ năng lực cạnh
tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp nông nghiệp và của ngành hàng.
3.2.6. Hạ tầng phục vụ cho phát triển nông nghiệp
- Hệ thống điện nông thôn, tính đến 1/7/2011 cả nước có 9054 xã có
điện, bằng 99,8% tổng số xã, tăng 0,9% so với năm 2006; nếu so với năm
2001, số xã tăng là 1044 xã (tăng 13%).
- Hệ thống giao thông nông thôn, tính đến 1/7/2011 cả nước có 8944 xã
có đường ô tô đến trụ sở xã, chiếm 98,6% tổng số xã (năm 2001 đạt 94,2% và
130
năm 2006 đạt 96,9%). Chất lượng đường nông thôn cũng được tăng, tỷ lệ
đường nhựa, đường bê tông tăng.
- Hệ thống thủy lợi, đến cuối năm 2011 cả nước có 16 nghìn trạm bơm
phục vụ sản xuất nông lâm thủy sản trên địa bàn xã, tăng 7130 trạm (tăng 81%)
so với năm 2001, bình quân 1 xã có 1,8 trạm bơm nước (năm 2006 là 1,5 trạm)
- Hệ thống thông tin liên lạc: Hệ thống thông tin liên lạc tăng mạnh và
phục vụ tốt nhu cầu thông tin của quản lý, cho hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp và các hộ. Tỷ lệ hộ nông thôn có điện thoại tăng nhanh từ 5,3% năm
2001 lên 86,6% năm 2011. Hệ thống mạng lưới kinh doanh internet tư nhân ở
nông thôn tăng nhanh. Tỷ lệ xã có điểm kinh doanh internet tư nhân năm 2011
đạt 53,7% (năm 2006 là 32,5 %).
- Hệ thống cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản: Hệ thống cơ sở chế biến
nông, lâm, thủy sản tăng nhanh, năm 2001 có 252 nghìn cơ sở, 2006 có 428
nghìn, tăng 69,9% so với năm 2001; năm 2011 có 501 nghìn cơ sở, tăng 17%
so với 2006, tăng gấp 2 lần 2001.
- Hệ thống cơ sở nghiên cứu khoa học và dịch vụ khoa học kỹ thuật và
hệ thống đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển nông nghiệp tuy đã
được đầu tư trong nhiều năm qua, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của
phát triển nông nghiệp trong những năm tới. [46]
3.3. Đánh giá chung về phát triển nông nghiệp của Việt Nam sau WTO
3.3.1. Những thành tựu
Trong quá trình hội nhập KTQT, nền kinh tế Việt Nam ngày càng gắn
kết chặt chẽ với kinh tế thế giới, đặc biệt khi là thành viên chính thức của
WTO; sự biến động của kinh tế thế giới đều tác động đến kinh tế Việt Nam,
trong đó có phát triển nông nghiệp. Từ khi là thành viên của WTO, quá trình
phát triển nông nghiệp đã đạt được những thành tựu sau:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm nhưng
131
vẫn dương và ở mức khá cao (trên dưới 4%/năm); đặc biệt khi kinh tế thế giới
gặp khủng khoảng (những năm 2007-2008 và 2011-2012), nông nghiệp đã trở
thành trụ đỡ cho nền kinh tế, nhờ tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp cao bù
cho suy giảm của công nghiệp, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng trưởng
xuất khẩu nông sản năm sau cao hơn năm trước (trừ năm 2009), thăng dư
thương mại nông sản luôn cao và ngược với xu hướng thâm hụt của nền kinh
tế, nhờ đó kéo giảm thâm hụt cán cân thanh toán. Thặng dư xuất khẩu nông sản
tăng, đạt mức kỷ lục: 9 tỷ USD năm 2011, tăng 45,8% so với năm 2008.
Thứ hai, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm khai
thác tài nguyên thiên nhiên, giảm sản lượng những sản phẩm sử dụng nhiều
nguồn lực tài nguyên trên đơn vị sản phẩm, lựa chọn những khâu những cung
đoạn có giá trị gia tăng cao để phát triển; đặc biệt phát triển công nghiệp chế
biến nông lâm thủy sản. Trong cơ cấu của nền kinh tế tỷ trọng ngành nông
nghiệp giảm; trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp: tỷ trọng nông nghiệp
giảm, lâm nghiệp và thủy sản tăng. Trong cơ cấu nông nghiệp: tỷ trọng trồng
trọt giảm, chăn nuôi tăng. Trong cơ cấu thủy sản: tỷ trọng nuôi trồng tăng, khai
thác giảm. Trong lâm nghiệp, tỷ trọng chế biến gỗ - khâu có gía trị gia tăng cao
tăng… Đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn, như vùng sản xuất lúa
gạo ĐBSCL, vùng cao su, cà phê ở Tây Nguyên và Đông Nam bộ, nuôi trồng
thủy sản vùng ven biển của các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ và vùng ĐBSCL,
vùng chăn nuôi bò sữa ở một số địa phương…
Thứ ba, đầu tư cho nông nghiệp, áp dụng và chuyển giao khoa học công
nghệ có chuyển biến sau WTO. Giai đoạn sau WTO, vốn FDI đầu tư vào nông
nghiệp tăng 3 lần so với giai đoạn trước WTO; nhiều cây trồng, vật nuôi có
năng suất chất lượng cao; nhiều quy trình công nghệ cao, công nghệ sạch, công
nghệ thân thiện với môi trường được đưa vào sản xuất nông nghiệp... Đặc biệt
đã bước đầu hình thành và phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ
132
cao và hiện đại. Năng suất cây trồng, vật nuôi, năng sất đất đai tăng. Năng suất
cà phê cao nhất thế giới, GTSX 1ha đất trồng trọt đạt 73,9 triệu đồng, GTSX
1ha mặt nước nuôi trồng thủy sản đạt 152,0 triệu đồng (năm 2013)...
Thứ tư, TTH, CMH và liên doanh liên kết trong sản xuất nông nghiệp đã
có những chuyển biến sau WTO, số hộ chăn nuôi, trồng trọt quy mô lớn tăng,
đã xuất hiện mô hình liên kết để hình thành cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất
lúa gạo xuất khẩu ở An Giang; một số mô hình liên kết dọc trong sản xuất chế
biến và tiêu thụ ở ngành hàng cà phê, ngành hàng thủy sản, ngành hàng sữa...,
tạo ra đột phá mới trong phát triển nông nghiệp.
Thứ năm, sau WTO, năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp, của
các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản và năng lực cạnh tranh của sản phẩm
nông lâm thủy sản được cải thiện. Nhiều mặt hàng như: thủy sản, cà phê, tiêu,
cao su, lúa gạo, gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ có lợi thế so sánh cao, đây là
nguồn lực để chuyển từ lợi thế so sánh thành năng lực cạnh tranh. Thị phần của
nhiều sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản ngày càng mở rộng, đã thâm nhập vào
thị trường đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như vệ sinh an toàn
thực phẩm như thị trường Mỹ, Tây Âu, Nhật...
Thứ sáu, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, chế biến và tiệu thụ nông
lâm thủy hải sản gồm: Hệ thống điện nông thôn, hệ thống giao thông, hệ thống
thủy lợi, hệ thống tin liên lạc được đầu tư nhiều hơn giai đoạn trước WTO; cơ
sở chế biến nông, lâm, thủy sản năm 2010 tăng trên 17% so với năm 2006.
3.3.2. Những hạn chế
Một là, từ khi đổi mới kinh tế năm 1986 và hội nhập khu vực ASEAN
năm 1996, đến gia nhập WTO năm 2007, tăng trưởng GDP nông nghiệp chủ
yếu dựa vào khai thác nguồn lực tài nguyên thiên nhiên. Diện tích đất trồng trọt
và diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng nhanh, đặc biệt diện tích gieo
trồng những mặt hàng nông lâm thủy sản có lợi thế cạnh tranh tăng mạnh như:
133
lúa gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, thủy sản. Tuy nhiên, sau WTO tốc độ tăng
trưởng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm dần; kim ngạch
xuất khẩu tăng chủ yếu do tăng lượng còn giá bấp bênh thiếu ổn định, xuất
khẩu nông sản chủ yếu nông sản thô và sơ chế. Đồng thời phát triển nông
nghiệp trong giai đoạn vừa qua như một kỳ tích cũng để lại nhiều hậu quả về
môi trường sinh thái và xã hội như: khai thác quá mức đất rừng tự nhiên kể cả
rừng ngập mặn để phát triển nông nghiệp; phát triển nông nghiệp thiếu ổn định,
hiện tượng trồng và chặt phá diễn ra với nhiều loại cây trồng; vùng sản xuất lúa
gạo xuất khẩu góp phần đảm an ninh lương thực toàn cầu thì đời sống của nông
dân vẫn chưa được cải thiện nhiều.
Hai là, chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp và cả nội bộ (nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản) vẫn còn chậm, chưa bền vững, vẫn trong vòng
luẩn quẩn trồng chặt, chặt trồng. Hoặc một nghịch lý là, năm 2013 Việt Nam
đã thu về 2,95 tỷ USD xuất khẩu gạo, nhưng nhập khẩu thức ăn gia súc và
nguyên liệu 3 tỷ USD; hiện tiêu thụ khoảng 12,5 triệu tấn thức ăn chăn nuôi,
nhưng phải nhập tới 9 triệu tấn nguyên liệu (chiếm 72%); 6 tháng đầu năm
2014 đã nhập khẩu 2,33 triệu tấn ngô, kim ngạch khoảng 600 triệu USD. [70]
Đời sống nông dân vẫn còn nghèo, khoảng cách giàu nghèo giữa thành
thị và nông thôn, đặc biệt khoảng cách về mức sống giữa miền xuôi và miền
ngược; giữa nông dân vùng trồng lúa và vùng trồng cây công nghiệp, thủy sản
cũng đang doãng ra… Trước thực trạng này, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết
định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013, phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. [61].
Ba là, sau WTO, khoa học và công nghệ được áp dụng nhiều hơn trong
nông nghiệp, chủ yếu là giống cây con, nhưng chất lượng giống còn thấp, quy
trình công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ vi sinh, công nghệ trồng hoa
rau trong nhà kính, công nghệ chăn nuôi bò sữa hiện đại… chủ yếu triển khai ở
134
doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp lớn và một số ngành hàng mà chưa nhân rộng
trong toàn ngành, cũng như sản xuất nông hộ và trang trại. Đồng thời khoa học
công nghệ triển khai trong nông nghiệp chưa đồng bộ, chủ yếu tập trung ở
khâu sản xuất nông nghiệp còn bảo quản, chế biến và tiêu thụ chưa áp dụng
nhiều, nên tổn thất sau thu hoạch còn khá lớn.
Bốn là, sau khi gia nhập WTO, TTH, CMH và liên kết, liên doanh sản
xuất có được cải thiện, số nông hộ và số trang trại sản xuất có quy mô lớn có
tăng nhưng tăng chậm; CMH sâu như trồng cùng loại giống, cùng mùa vụ đã
hình thành mô hình cánh đồng mẫu lớn ở An Giang nhưng chưa nhân rộng
được. Liên doanh, liên kết đã xuất hiện ở một số ngành hàng, nhưng rất lỏng
lẻo và rất dễ bị phá vỡ bất kỳ lúc nào; chưa hình thành mạng sản xuất, chuỗi
cung ứng và chuỗi giá trị ngành hàng nên tình trạng tranh mua, tranh bán, được
mùa rớt giá vẫn là chuyện hàng ngày của nông nghiệp. Chính liên doanh, liên
kết và chuỗi cung ứng hàng nông sản lỏng lẻo, cộng với tâm lý tiểu nông và
sản xuất nhỏ, đã tạo điều kiện cho các thương nhân Trung Quốc làm rối loạn
thị trường nông sản nội địa. Tóm lại, tình trạng sản xuất của ngành nông
nghiệp vẫn còn manh mún, phân tán, nhất là vùng ĐBSH, vùng Miền núi và
Trung du Bắc bộ và duyên hải miền Trung; nền nông nghiệp chủ yếu dựa vào
sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm và tỷ suất hàng hóa rất
thấp đang là trở ngại trong phát triển nông nghiệp sau WTO.
Năm là, nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản của Việt Nam thực sự
có lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh; nhưng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp thấp về: năng lực tài chính, công nghệ, nguồn nhân lực; năng lực cạnh
tranh của ngành hàng thấp do thiếu phân công, hợp tác, liên doanh, liên kết đã
không hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản mà còn làm
giảm năng lực cạnh tranh của nó. Năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp
và năng lực cạnh tranh quốc gia yếu nên không trợ để nâng cao năng lực cạnh
135
tranh của doanh nghiệp, của ngành hàng và của hàng nông sản; thể hiện khi gia
nhập WTO, Việt Nam cam kết nền kinh tế “phi thị trường” trong vòng 12 năm
kể từ khi gia nhập (kết thúc năm 2018); vì vậy mà nhiều nước liên tục áp dụng
AD, SCM và SG một cách phi lý để áp thuế bổ sung cao làm triệt tiêu năng lực
cạnh tranh của hàng nông lâm thủy hải sản. Điển hình như mặt hàng tôm và cá
tra ở thị trường Mỹ đã nhiều lần bị áp thuế bổ sung cao từ khi gia nhập WTO.
Gần đây, theo một lãnh đạo Hội Nghề cá, “lý giải về việc tôm Việt Nam đã
từng được “minh oan” trong POR7, vị này cho biết thực chất thị trường Mỹ lúc
đó “đói” tôm nên chúng ta được áp thuế suất bằng 0%. Hiện nay, sản phẩm
tôm ở thị trường này dồi dào trở lại nên Mỹ muốn ngăn cản nguồn nhập khẩu
cạnh tranh với hàng tôm nội địa”. [71]
Sáu là, hệ thống hạ tầng phục vụ cho phát triển nông nghiệp tuy được
đầu tư cao hơn kể từ khi gia nhập WTO, nhưng chưa đồng bộ và chưa đáp ứng
được phát triển nông nghiệp trong giai đoạn tới.
3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong phát triển nông nghiệp
3.3.3.1. Những nguyên nhân do điều khiện tự nhiên:
- Nguồn lực tự nhiên có giới hạn và dần cạn kiệt: Trong sản xuất nông
nghiệp, đối tượng là cây trồng, vật nuôi có quá trình sinh trưởng và phát triển
theo quy luật riêng vốn có, khi năng suất cây trồng vật nuôi đạt đến ngưỡng
sinh học thì không tăng được nữa nếu không thay đổi giống, thay đổi công
nghệ gieo trồng, chăm sóc… Đất, nước và đa dạng sinh học cũng có giới hạn,
nếu khai thác kém, hiệu quả nguồn lực dần cạn kiệt và suy giảm; đặc biệt đất
đai trong nông nghiệp đang giảm do CNH-ĐTH.
- Những biến động bất thường của khí hậu-thời tiết: Những năm gần đây
do biến đổi khí hậu toàn cầu; những hình thái khí hậu cực đoan: bão, lốc, mưa,
mưa đá, úng lụt, nắng hạn… với tần suất xuất hiện ngày càng tăng đã ảnh
hưởng đến phát triển nông nghiệp ngày càng lớn.
136
- Dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi: do biến đổi khí hậu thời tiết cực
đoan có tần suất cao, nên dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy
sản cũng tăng; như dịch lở mồm long móng trên đàn trâu bò, dịch tai xanh trên
đàn lợn, dịch cúm gia cầm, dịch bệnh ở tôm, cá…; ảnh hưởng đến phát triển
nông nghiệp.
3.3.3.2. Những nguyên nhân do trình độ phát triển của các nguồn lực
- Vốn và đầu tư cho phát triển nông nghiệp còn thấp: vốn đầu tư cho
nông nghiệp tuy có tăng so với trước WTO, nhưng tốc độ tăng so với các lĩnh
vực kinh tế khác thì nông nghiệp có tốc độ tăng vẫn dương nhưng giảm dần cả
vốn đầu tư trong nước và đầu tư FDI. Vốn sản xuất của doanh nghiệp và của hộ
nông dân tính trên đơn vị diện tích so với các nước trong khu vực; trên một lao
động thấp so với các lĩnh vực kinh tế khác. Tiếp cận vốn vay của nông dân,
doanh nghiệp nông ngiệp rất khó khăn do vậy ảnh hưởng đến phát triển, tăng
trưởng nông nghiệp.
- Trình độ và chất lượng của lao động nông nghiệp rất thấp: lao động
nông nghiệp hầu hết là những người lớn tuổi vì đa số thanh niên đến tuổi lao
động rời quê tìm việc tại các thành phố và khu công nghiệp. Lao động nông
nghiệp chưa qua đào tạo, năm 2011 điều tra nông thôn nông nghiệp, lao động
được đào tạo nghề chiếm có 11,2% trong lao động nông thôn, lao động nông
nghiệp được đào tạo nghề có 2,95%.
- Khoa học và công nghệ trong nông nghiệp: áp dụng khoa học và công
nghệ trong sản xuất nông nghiệp rất thấp. Cơ giới hóa trong nông nghiệp mới ở
một số khâu làm đất, thu hoạch; tỷ lệ cơ giới hóa ở từng cây trồng vật nuôi
khác nhau, nhưng nói chung là thấp. Giống cây trồng vật nuôi chất lượng thấp,
nhiều giống cây trồng vật nuôi vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu như giống lúa
lai… Các quy trình công nghệ cao, hiện đại, công nghệ sản xuất xanh sạch,
công nghệ sinh thái…; chủ yếu mới ở dạng mô hình trình diễn, thí điểm, còn
137
dự án còn mô hình, khi dự án rút thì mô hình cũng hết. Khoa học và công nghệ
chủ yếu tập trung cho sản xuất nông nghiệp, khoa học công nghệ sau thu
hoạch, bảo quản, chế biến chưa được chú ý; xuất khẩu nông sản thô vẫn là chủ
yếu…
3.3.3.3. Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp:
Các nguồn lực trong nông nghiệp là điều kiện cần cho phát triển nông
nghiệp; còn phát triển như thế nào lại tùy thuộc vào việc huy động và sử dụng
các nguồn lực ấy, đặc biệt phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, hiệu
quả và có giá trị gia tăng cao. Trong quá trình hội nhập KTQT, các nước đang
phát triển thường rơi vào bẫy tăng trưởng theo cơ cấu tự nhiên với thiên hướng
tập trung vào những ngành, những cung đoạn sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều
lao động, dẫn đến khai thác kiệt quệ tài nguyên và làm suy giảm môi trường.
Do vậy vai trò của nhà nước trong việc ban hành chính sách và giải pháp
nhằm định hướng trong huy động và phân bổ nguồn lực giữ vai trò quan trọng
trong phát triển nông nghiệp bền vững, hiệu quả và có giá trị gia tăng cao. Sau
WTO, nhiều chính sách được ban hành, nhưng vẫn chưa đủ và chưa đồng bộ,
chưa bắt kịp với tiến trình hội nhập, hiệu quả của chính sách thấp…
- Chính sách khuyến khích TTH-CMH: chính sách tập trung nguồn lực
như dồn điền đổi thửa triển khai trong thời gian dài nhưng quy mô sản xuất của
các nông hộ và trang trại vẫn nhỏ chưa thoát khỏi sản xuất manh mún. Luật đất
đai 2013 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực 1/7/2014, nhưng luật cũng
chưa có đột phá cho phát triển nông nghiệp, thời hạn giao đất vẫn mơ hồ...
- Chính sách tín dụng ưu đãi: hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp phát triển
sản xuất, mua máy móc, dây chuyền thiết bị, dây chuyền công nghệ chế
biến…, khuyến kích đầu tư vào lĩnh vực sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất và
bảo quản, chế biến cung đoạn có giá trị gia tăng cao…; nông dân, doanh
nghiệp vẫn khó tiếp cận nguồn vốn…
138
- Chính sách khuyến khích sản xuất xanh sạch và công nghệ cao: nông
dân sản xuất ra sản phẩm không có đơn vị bao tiêu, khó bán vì chi phí cao, lợi
nhuận thấp.
- Chính sách khuyến khích liên doanh, liên kết, hợp tác trong sản xuất
tiêu thụ nông sản: Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về chính
sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng và được
thay thế bằng Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn
với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn, có hiệu lực ngày 10/12/2013.
Cho đến nay, sản xuất nông nghiệp chưa có liên kết và hợp tác, nếu có hợp tác,
liên kết rất lỏng lẻo và bị phá vỡ bất cứ lúc nào; tình trạng được mùa thì rớt giá,
được giá thì mất mùa vẫn xảy ra thường xuyên; mạng sản xuất, chuỗi cung
ứng, chuỗi giá trị nông sản vẫn chưa hình thành. PGS.TS Nguyễn Văn Nam đã
nhận xét “Doanh nghiệp thương mại Việt Nam không phải là doanh nghiệp
thương mại đúng nghĩa sản xuất hàng hóa kinh tế thị trường, chẳng qua chỉ là
thương lái ăn chặn, trung gian mà thôi”; đây là nguyên nhân ảnh hưởng đến
phát triển nông nghiệp bền vững, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của ngành
hàng nông sản. [78]
- Những chính sách điều tiết thị trường: như chính sách hỗ trợ lãi xuất
mua tạm trữ lúa gạo, cà phê với mục đích điều tiết cung cầu trên thị trường,
nâng đỡ giá nhằm nâng cao thu nhập của nông dân sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên
hiệu quả không đạt được như mong muốn trong điều hành do: 1) Đặc điểm của
thị trường lương thực thế giới nhu cầu lớn, nhưng nhu cầu có khả năng thanh
toán có hạn, chẳng hạn các nước châu Phi nhu cầu lớn nhưng khả năng thanh
toán có hạn nên họ nhập gạo cấp thấp hoặc nhập các loại lương thực thay thế
khác. 2) Vì an ninh lương thực quốc gia, các nước đều có chính sách bảo hộ
cho sản xuất trong nước và có chính sách can thiệp hoặc độc quyền thị trường
139
lương thực; vì vậy chúng ta sản xuất lúa gạo vì an ninh lương thực của thế giới
mà người sản xuất lúa vẫn nghèo có nên không. 3) Do thực tại của ngành hàng
lúa gạo, mục tiêu nâng cao thu nhập của nông dân vùng sản xuất lúa gạo không
đạt được, bằng cách nào đó lợi ích chủ yếu rơi vào các doanh nghiệp thương
mại lúa gạo, còn nông dân được chẳng đáng là bao. Bên cạnh đó chúng ta vừa
có chính sách hỗ trợ trực tiếp giữ diện tích trồng lúa, vừa có chính sách khuyến
khích chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng màu và nuôi trồng thủ sản…
* Nguyên nhân của hệ thống chính sách nông nghiệp đã ban hành sau
WTO không đi vào cuộc sống là do:
- Chất lượng của chính sách thấp: 1) Chính sách không xuất phát từ nhu
cầu của thực tế; 2) Quy trình xây dựng chính sách không phù hợp, nhiều chính
sách xuất phát từ ý muốn chủ quan không có sự tham gia của đối tượng thụ
hưởng chính sách…; 3) Chính sách không thỏa mãn lợi ích của các đối tượng
thụ hưởng chính sách, thậm chí còn mang lợi ích nhóm; 4) Nội dung của chính
sách không phù hợp, hoặc thiếu giải pháp để đạt mục tiêu của chính sách, nội
dung chồng chéo nhau trên nhiều văn bản chính sách; 5) Thiếu nguồn lực để
thực thi chính sách, nhiều chính sách mang tính hô hào, khuyến khích chung
chung; 6) Phổ biến và triển khai chính sách không đến được trực tiếp các đồi
tượng hưởng thụ chính sách.
- Năng lực tổ chức thực hiện chính sách: Năng lực tổ chức, quản trị của
ngành nông nghiệp từ trung đến cơ sở, của ngành hàng và các tổ chức hiệp hội
sản xuất và ngành hàng thấp; vẫn chưa có chuyển đổi thích ứng với cơ chế kinh
tế thị trường trong điều kiện hội nhập KTQT sâu rộng; chưa chuyển từ điều
hành, quản lý trực tiếp sang điều hành, quản trị thông qua nguồn lực thị trường
thúc đẩy phát triển các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp, huy động và
phân bổ nguồn lực một cách tối ưu cho phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu
quả, bền vững và tăng nhanh giá trị gia tăng trong nông nghiệp…
140
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ĐẾN NĂM 2025
4.1. Xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới
Một là, nền nông nghiệp (nghĩa rộng) thế giới đang phát triển theo xu
hướng một nền nông nghiệp “phát triển bền vững”.
Trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa về kinh tế, các nguồn lực
được phân bổ hợp lý hơn và hiệu quả cao hơn; tuy nhiên do tác động của kinh
tế và thị trường toàn cầu, các yếu tố rủi ro và phát triển thiếu ổn định do kinh tế
thị trường mang lại có xu hướng ngày càng tăng; cộng với biến đổi khí hậu
ngày càng phức tạp và khó lường vì thế “phát triển bền vững” là đòi hỏi khách
quan trong phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng.
“Phát triển bền vững” là phát triển dựa trên ba trụ cột: bền vững về kinh tế, bền
vững về mội trường và bền vững về mặt xã hội.
Hai là, nền nông nghiệp thế giới phát triển theo xu hướng tăng cường áp
dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ xanh, công nghệ hữu
cơ...; nhằm sản xuất ra những nông lâm thủy hải sản có chất lượng, năng suất
cao và sạch hơn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho con người.
Trên thế giới, nhiều nước đã ứng dụng công nghệ cao vào phát triển
nông nghiệp, đặc biệt là các nước phát triển; điển hình là Isarel, một nước bán
sa mạc, khí hậu khắc nghiệt, nhưng họ đã làm nên điều kỳ diệu về nền nông
nghiệp xanh công nghệ cao trên hoang mạc. Là nước có diện tích rất nhỏ,
nhưng Israel lại được mệnh danh là “thung lũng Silicon” của thế giới trong lĩnh
vực nông nghiệp và công nghệ. Chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp nhưng
Israel là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, khoảng 3
tỷ USD nông sản/năm. Kinh nghiệm xây dựng nền nông nghiệp hiện đại của
Israel là đầu tư cho khoa học kỹ thuật; năm 1950, một nông dân Israel cung cấp
141
lương thực thực phẩm đủ cho 17 người và hiện nay là 90 người. Một ha đất
gieo trồng cho 3 triệu bông hồng, hay 500 tấn cà chua/vụ; một con bò cho tới
11 tấn sữa/năm (55lít sữa/con/ngày), mức năng suất mà chưa một nước nào
trên thế giới có được.
Hà Lan là quốc gia đã được mệnh danh "nước đất trũng", có 1/4 diện
tích lãnh thổ thấp hơn mực nước biển và 1/3 diện tích lãnh thổ chịu sự uy hiếp
thường nhật của nước mặn và nước sông gây ngập úng. Vì thiếu đất canh tác,
Hà Lan thực thi chiến lược "đầu tư cao-sản xuất nhiều" với việc phát triển thủy
lợi và hệ thống nhà kính. Diện tích nhà kính của Hà Lan gần 11000 ha, chiếm
25% tổng diện tích nhà kính trên toàn thế giới. Trong đó, có tới 40% dùng để
sản xuất rau, 35% sản xuất hoa, 20% sản xuất cây ăn quả, hiệu quả tăng 5-6 lần
sản xuất ngoài trời [59].
Về công nghệ sinh học, các nước phát triển đi vào giai đoạn hai của việc
áp dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, các nước đang phát triển đang
ở giai đoạn một với mục tiêu tăng năng suất, giá trị và chất lượng nông, thủy
hải sản. Trong các nước đang phát triển, Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil là những
nước có tiềm năng lớn từ nội lực trong nước về công nghệ sinh học; Quỹ Nông
nghiệp và Phát triển quốc tế (IFAD) của Liên hợp quốc đang lỗ lực giúp các
nước trên thế giới tăng nhanh diện tích canh tác bằng công nghệ sinh học
không dùng hóa chất làm phân bón và thuốc trừ sâu. Đó là những công nghệ
lấy hữu cơ làm cơ sở phát triển các phương pháp canh tác tự nhiên và truyền
thống. Phương pháp canh tác bằng công nghệ hữu cơ đang được tổ chức có
hiệu quả tại Ấn Độ và Trung Quốc - nơi chiếm gần một nửa số hộ nông dân
trên toàn cầu. Trên thế giới hiện nay có 26 triệu ha đất nông nghiệp đang được
quản lý sản xuất theo công nghệ hữu cơ (Asia Times tháng 3/2006). Ước tính
giá trị nông sản canh tác bằng công nghệ hữu cơ trên toàn cầu năm 2005 đạt
gần 30 tỷ USD, xu hướng này đang tăng rất nhanh. Riêng Trung Quốc, giá trị
142
xuất khẩu nông sản canh tác bằng công nghệ hữu cơ tăng từ mức dưới 1 triệu
USD giữa những năm 1990 đến gần 200 triệu USD trong năm 2004. Hiện
Trung Quốc có hơn 1.000 công ty nông nghiệp và nông trại được cấp giấy xác
nhận là sản xuất bằng công nghệ sạch hữu cơ. Còn tại Ấn Độ có khoảng 2,5
triệu ha được cấp giấy chứng nhận sản xuất bằng công nghệ hữu cơ [60].
Trong khuôn khổ Hiệp định AoA, SPS, TBT… khuyến khích phát triển
nền nông nghiệp “phát triển bền vững”, “nông nghiệp công nghệ cao”, “nông
nghiệp sinh học”, “nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp hữu cơ…”; thể hiện ở
các Hiệp định như: các chính sách được phép hỗ trợ trong Hộp xanh lá cây,
Hộp xanh lam (AoA); công nhận các quốc gia có quyền sử dụng các biện pháp
hạn chế thương mại để bảo vệ sức khỏe con người, động vật và thực vật (SPS);
ban hành các quy trình kỹ thuật (TBT); đề ra các tiêu chuẩn tối thiểu bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ như “Chỉ dẫn địa lý”, “Giống cây trồng và vật nuôi”,
“chủng vi sinh, vi khuẩn”, bảo vệ văn bằng sáng chế “cho các quy trình vi sinh
và phi sinh học phục vụ sản xuất cây trồng và vật nuôi” (TRIPS)…
Ba là, nền nông nghiệp thế giới phát triển theo xu hướng hình thành
mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.
Tự do hoá thương mại hàng nông sản đang đang diễn ra với mức độ
ngày càng tăng, phân công lao động trong chuỗi giá trị hàng nông sản toàn cầu
ngày càng sâu sắc với mức độ chuyên môn hoá ngày càng cao, từ khâu nghiên
cứu và phát triển (R&D) sản phẩm, sản xuất sản phẩm (từ khâu nuôi trồng đến
chế biến) đến marketing và phân phối, tiêu thụ sản phẩm. Các nước tham gia
vào chuỗi giá trị hàng nông sản đang tìm cách thâm nhập vào những khâu tạo
ra giá trị gia tăng nhiều nhất, như các khâu R&D, marketing, tiêu thụ và phân
phối sản phẩm. Trong những năm gần đây, nhiều nước đang phát triển đã từng
bước cải thiện vị trí của mình trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, tham gia
vào những khâu, những công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao. Thực tế cho thấy,
143
tham gia vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu đang là xu thế phổ biến hiện nay
và sự tham gia này mang lại lợi ích kinh tế và xã hội to lớn, kể cả đối với các
nước đang phát triển.
4.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp Việt Nam
4.2.1. Phát triển nông nghiệp theo hướng “phát triển bền vững”
Phát triển nông nghiệp bền vững theo ba trụ cột: bền vững về kinh tế,
bền vững về mặt xã hội, bền vững về mặt sinh thái và môi trường, đây là quan
điểm xuyên suốt và quan điểm của mọi quan điểm về phát triển nông nghiệp.
Trong xu hướng hội nhập KTQT và khu vực, nền kinh tế “phát triển bền
vững” là một đòi hỏi khách quan, trong đó có nông nghiệp. Đại hội XI của
Đảng đã khẳng định quan điểm: "Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững
ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả,
sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển
kinh tế tri thức… Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện
môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát
triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát
triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho
phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau
trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội" [18].
Trong “phát triển bền vững” về kinh tế nói chung, nông nghiệp có vai trò
cực kỳ quan trọng không thể thiếu nó, do đó phát triển nông nghiệp theo hướng
“phát triển bền vững” là đòi hỏi khách quan cấp thiết. Bởi đối tượng của sản
xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi; mà năng suất, chất lượng của cây trồng
vật nuôi lại phụ thuộc rất nhiều vào môi trường và sinh thái, chính nông nghiệp
“phát triển bền vững” lại tạo ra môi trường sinh thái bền vững. Phát triển nông
nghiệp bền vững về mặt kinh tế, nghĩa là chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ
144
khai thác nguồn lực tự nhiên là chính sang khai thác lợi thế cạnh tranh và giá
trị gia tăng, nâng cao hiệu quả của sản xuất và phát triển theo chiều sâu. Hơn
nữa nông dân và công nhân nông nghiệp là những người trực tiếp sản xuất
trong lĩnh vực nông nghiệp, họ sống ở nông thôn, do đó nông nghiệp “phát
triển bền vững” phải gắn với xã hội nông thôn bền vững.
4.2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh là đòi hỏi của phát triển nông nghiệp
Phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, khai thác triệt để lợi thế của
nông nghiệp nhiệt đới, á nhiệt đới, lợi thế của các vùng sinh thái, lựa chọn cây
trồng vật nuôi chủ lực có lợi thế cạnh tranh, biến lợi thế cạnh tranh thành
năng lực cạnh tranh, để phát triển sản xuất hàng hoá lớn với năng suất, chất
lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh cao gắn với phát triển bền vững.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội XI của Đảng đã định
hướng phát triển nông nghiệp như sau: "Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hoá lớn với năng suất, chất lượng, hiệu
quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản lượng và kim ngạch xuất khẩu
nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống nông dân, bảo đảm vững chắc an ninh
lương thực quốc gia. [20].
Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa đặc thù, đất nước trải dài trên
15 vĩ tuyến, có một nền khí hậu đa dạng: Nam bộ và Nam Trung bộ là hai vùng
khí hậu nhiệt đới, Tây Nguyên là vùng khí hậu nhiệt đới cao nguyên, từ Thừa
Thiên - Huế trở ra là vùng khí hậu cận nhiệt đới, trong đó có một số tiểu vùng
khí hậu ôn đới. Nền nhiệt độ đa dạng cùng với lượng mưa hàng năm lớn, ánh
sáng dồi dào, đất đai màu mỡ tạo điều kiện để phát triển nền nông nghiệp đa
dạng với các sản phẩm đặc hữu riêng có của Việt Nam.
Tuy nhiên, Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào KTQT và khu
vực, tự do hoá thương mại hàng nông, lâm, thủy hải sản đang đang diễn ra với
mức độ ngày càng cao, cạnh tranh ngày càng quyết liệt không chỉ ở thị trường
145
xuất khẩu mà ngay cả thị trường nội địa. Năng lực cạnh tranh là một tiêu chí
quan trọng đo lường sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường. Cạnh tranh
làm bộc lộ khiếm khuyết của sản phẩm và khả năng của các chủ thể kinh tế.
Trong môi trường cạnh tranh, các sản phẩm và các chủ thể tham gia thị trường
phải không ngừng phát huy lợi thế so sánh, chuyển lợi thế so sánh thành năng
lực cạnh tranh; đồng thời, luôn tìm cách tạo lập năng lực cạnh tranh mới nhằm
không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, mở rộng thị trường,
phát triển sản xuất-kinh doanh. Đây chính là triết lý tăng trưởng mới - tăng
trưởng dựa trên năng lực cạnh tranh.
Qua phân tích lợi thế so sánh và năng lực cạnh tranh của mỗi ngành hàng
nông sản có mức độ rất khác nhau, có thể chia thành các nhóm như sau: 1).
Nhóm có lợi thế so sánh lớn và có cơ hội mở rộng thị trường trong hội nhập
WTO gồm: lúa gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hồ tiêu, thủy sản, gỗ chế biến và
các sản phẩm làm từ gỗ. 2). Nhóm các ngành hàng vừa có cơ hội mở rộng thị
trường vừa phải đối mặt với nhiều thách thức là rau, hoa, quả và muối. 3).
Nhóm ít có lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh yếu và bị tác động mạnh trong
hội nhập gồm các ngành hàng chăn nuôi, mía đường, thức ăn chăn nuôi và
sữa…
Do vậy, muốn nông nghiệp “phát triển bền vững” phải lựa chọn những
cây trồng vật nuôi có lợi thế cạnh tranh để phát triển, đồng thời chuyển lợi thế
cạnh tranh thành năng lực cạnh tranh, cũng như không ngừng nâng cao năng
lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp, của ngành hàng và nâng cao
năng lực tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu. Nghĩa là, ưu tiên phát triển
cây trồng vật nuôi có lợi thế cạnh tranh, hạn chế hoặc phát triển chừng mực
nào đó cây trồng vật nuôi có lợi thế cạnh tranh thấp. Tuy nhiên “lợi thế cạnh
tranh” để chuyển thành “năng lực cạnh tranh” cần có những điều kiện nhất
định, mặt khác “năng lực cạnh tranh” không tồn tại viễn viễn theo thời gian, do
146
đó không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực cạnh là đòi hỏi khách quan của
kinh tế thị trường.
4.2.3. Hình thành mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị ngành
hàng trong phát triển nông nghiệp
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội XI của Đảng đã định
hướng phát triển nông nghiệp như sau: “Xây dựng mô hình sản xuất kinh
doanh phù hợp với từng loại cây con. Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát
triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp..., gắn kết chặt chẽ, hài hoà lợi ích
giữa người sản xuất, người chế biến và người tiêu thụ…, đổi mới cơ bản
phương thức tổ chức kinh doanh nông sản…, bảo đảm phân phối lợi ích hợp lý
trong từng công đoạn từ sản xuất đến tiêu dùng, phát triển hệ thống kho chứa
nông sản, góp phần điều tiết cung cầu, tiếp tục đổi mới, xây dựng mô hình tổ
chức để phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với cơ chế thị trường" [20].
Đẩy mạnh tập trung ruộng đất, tăng quy mô sử dụng ruộng đất của nông
hộ, phát triển trang trại, liên kết hình thành những cánh đồng mẫu lớn trong sản
xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế hợp tác, phát triển doanh nghiệp nông
nghiệp, đẩy mạnh phân công và chuyên môn hóa trong sản xuất nông nghiệp.
Tự do hoá thương mại hàng nông sản đang đang diễn ra với mức độ
ngày càng cao, phân công lao động trong chuỗi giá trị hàng nông sản toàn cầu
ngày càng sâu sắc với mức độ chuyên môn hoá ngày càng cao, từ khâu nghiên
cứu và phát triển (R&D) sản phẩm, sản xuất sản phẩm đến marketing và phân
phối, tiêu thụ sản phẩm. Các nước tham gia vào chuỗi giá trị hàng nông sản
đang tìm cách thâm nhập vào những khâu tạo ra giá trị gia tăng nhiều nhất, đó
là các khâu nghiên cứu và phát triển, chế biến, phân phối và tiêu thụ sản phẩm.
Trong những năm gần đây, nhiều nước đang phát triển đã từng bước cải
thiện vị trí của mình trong chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu, tham
gia vào những công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao. Thực tế cho thấy, tham gia
147
vào chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu đang là xu thế phổ biến hiện
nay và sự tham gia này mang lại lợi ích kinh tế và xã hội to lớn, kể cả đối với
các nước đang và kém phát triển. Là một nước có tiềm năng và lợi thế trong
sản xuất nhiều mặt hàng nông sản nhiệt đới, Việt Nam đang có vị trí ngày càng
quan trọng trong thị trường hàng nông, lâm, thủy hải sản thế giới. Hiện tại,
Việt Nam đang là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trong khu vực
và thế giới với nhiều sản phẩm đặc trưng như: cà phê, điều, hồ tiêu, chè, cao
su, gạo, đồ gỗ đã qua chế biến, thủy hải sản đông lạnh (tôm, cá da trơn)…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, nông nghiệp Việt Nam đã bộc lộ
những lỗ hổng lớn trong chuỗi sản xuất. Nông sản của Việt Nam chưa tham gia
được vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, nếu có còn lỏng lẻo và mới chỉ dừng
lại ở việc cung cấp nông, lâm, thủy hải sản thô đầu vào, trong khi giá trị gia
tăng lại chủ yếu ở khâu chế biến, bao gói và hoạt động thương mại. Hay nói
cách khác, Việt Nam mới tham gia vào khâu có giá trị gia tăng ít nhất trong
chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020, Đảng ta
khẳng định: "Toàn cầu hoá kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và
hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách
thức đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng
lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng
sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở
thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự tuỳ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh
tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến" [19].
Trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, vấn đề tiếp cận mạng
sản xuất và chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị một mặt giúp làm ăn hiệu quả hơn;
mặt khác, giúp các doanh nghiệp nhỏ, nền kinh tế yếu tìm ra chỗ đứng tối ưu
cho mình để tồn tại trong thị trường khu vực và toàn cầu. Cho đến nay, ở Việt
148
Nam, cách tiếp cận mạng sản xuất và chuỗi cung ứng giá trị vẫn chưa được áp
dụng một cách có hệ thống trong quản lý kinh tế của nhà nước cũng như trong
hoạch định chiến lược phát triển của ngành, chiến lược sản xuất kinh doanh của
các chủ thể trong nông nghiệp.
Nhìn lại sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam thời gian qua,
mặc dù đạt số lượng xuất khẩu khá lớn; nhưng về chất lượng và giá cả…, vẫn
còn thất thế so với các nước xuất khẩu nông sản trên thế giới. Việt Nam hội
nhập vào thị trường nông sản thế giới trong bối cảnh thị trường này được hình
thành từ lâu và đã được phân chia, nhất là những khâu, những cung đoạn có giá
trị gia tăng cao đã được an vị và Việt Nam khó chen vào những khâu này.
Nhằm không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, khẳng định vị trí của
nông sản Việt Nam, tất yếu ngành nông nghiệp Việt Nam phải tham gia vào
mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu ở những khâu,
những cung đoạn Việt Nam có lợi thế tuyệt đối cũng như lợi thế tương đối và
chuyển những lợi thế đó thành năng lực cạnh tranh. Do đó, cần phải đánh giá,
định vị, nhìn nhận cơ hội và hoạch định một cách khách quan và chuyên
nghiệp lựa chọn tham gia vào khâu nào, cung đoạn nào của mạng sản xuất và
chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu.
4.2.4. Tăng cường áp dụng khoa học và công nghệ trong phát triển nông
nghiệp
Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố quyết định năng lực
cạnh tranh của hàng nông sản, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm
là mục tiêu phấn đấu của ngành nông nghiệp hiện nay và trong tương lai;
muốn vậy phải tăng cường áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến từ khâu
sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm và quy trình công nghệ quản lý tổ
chức sản xuất hiện đại; đưa giống mới có năng suất, chất lượng cao, các quy
trình công nghệ sạch, công nghệ vi sinh, công nghệ cao, công nghệ hữu cơ,
149
công nghệ sau thu hoạch và bảo quản chế biến…, sản xuất có chứng nhận
nguồn gốc xuất xứ và bảo vệ môi trường…
4.2.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong phát
triển nông nghiệp
Phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
và hệ thống chính sách phù hợp với cam kết trong WTO và các FTA khu vực,
song phương và đa phương; tạo môi trường cạnh tranh hợp lý, bình đẳng thúc
đẩy nông nghiệp phát triển nhanh và phát triển bền vững.
Trong thập niên 90, phát triển nông nghiệp nhờ các chính sách đổi mới
trong nông nghiệp như: chính sách tự do hoá thương mại, chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hộ, chính sách đất đai, chính sách đổi
mới trong các doanh nghiệp nông nghiệp,… Bên cạnh đó Luật Doanh nghiệp
ra đời và tham gia AFTA nên thuế nhập khẩu cho đầu vào sản xuất giảm…
Từ năm 2000 đến nay, các chính sách được ban hành chủ yếu khắc phục
khủng hoảng giá và nguồn cung dư thừa nhằm định hướng cho nông nghiệp
phát triển bền vững như: khuyến khích các doanh nghiệp tăng lượng hàng xuất
khẩu thông qua chính sách thưởng xuất khẩu (chính sách này không áp dụng
khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO), thu mua tạm trữ. Chính sách
tín dụng ưu đãi: khoanh nợ, giãn nợ, lãi suất thấp cho các đối tượng tham gia
nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ hàng nông, lâm, thủy hải sản vào những năm
giá thấp. Chính sách hỗ trợ: cấp đất, gạo, vải cho đồng bào dân tộc thiểu số và
các hộ nghèo trồng cà phê. Cho phép công ty nước ngoài tham gia xuất khẩu
hàng nông, lâm, thủy hải sản thông qua nguồn cung từ các doanh nghiệp, các
đại lý trong nước. Ban hành quy định chất lượng hàng nông, lâm, thủy hải sản
xuất khẩu…
Tuy nhiên, hệ thống luật và những chính sách trên chưa tạo được môi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước với các công ty đa
quốc gia, các tập đoàn chế biến và phân phối hàng nông, lâm, thủy hải sản.
150
Hiện tại các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đang từng
bước thâm nhập vào những khâu, những cung đoạn (tử huyệt) trong chuỗi cung
ứng nông, lâm, thủy hải sản nguyên liệu của Việt Nam, phá vỡ và thâu tóm bằng
các chính sách tập trung kinh tế: liên doanh, liên kết, sát nhập... Do vậy, việc hoàn
thiện hệ thống luật pháp và hệ thống chính sách trong khuôn khổ WTO cho phép
nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tham gia chuỗi cung ứng và
chuỗi giá trị hàng nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu của các chủ thể sản xuất kinh
doanh nội là yêu cầu bức bách.
4.3. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, hiệu quả
và tăng giá trị gia tăng
4.3.1. Nhóm giải pháp chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp
Trong quá trình hội nhập ngành nông nghiệp đã giữ vai trò quan trọng,
có lúc trở thành cứu cánh cho nền kinh tế vượt qua khủng khoảng kinh tế
những năm 2007-2008, 2011-2012. Hội nhập KTQT giúp khai thác tốt hơn lợi
thế cạnh tranh của sản phẩm. Trong xuất nhập khẩu hàng nông sản, Việt Nam
có nhiều lợi thế cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu một số hàng nông sản
nhiệt đới, á nhiệt đới. Hội nhập KTQT sẽ giúp các nhà sản xuất trong nước định
hướng rõ hơn trong phát huy lợi thế so sánh để khai thác và sử dụng có hiệu quả
tối ưu nguồn lực sản xuất trong nước. Sau hội nhập WTO, kinh ngạch xuất
khẩu nông, lâm, thủy hải sản năm 2013 đạt 27,5 tỷ USD, tăng 0,7% so với năm
2012, thặng dư thương mại đạt hơn 8,5 tỷ USD; trong đó: Thủy sản đạt 6,7 tỷ
USD (tăng 10,6%), đồ gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 5,5 tỷ USD (tăng 17,8%),
riêng rau quả tăng 25,7%, hạt điều tăng 12,9%, hạt tiêu tăng 13,4%; tôm tăng
25%. Các mặt hàng giảm kim ngạch xuất khẩu gồm: gạo đạt 3,0 tỷ USD, giảm
18,7%; cà phê đạt 2,7 tỷ USD, giảm 26,6%; cao su đạt 2,5 tỷ USD, giảm
11,7%.[72] Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, nông nghiệp lộ những yếu
kém như: Tăng trưởng nông nghiệp chưa đi vào chiều sâu, tăng xuất khẩu chủ
151
yếu là tăng lượng, hiệu quả sản xuất và xuất khẩu thấp; năng lực cạnh tranh của
sản phẩm, của doanh nghiệp, của ngành hàng thấp; thu nhập của nông dân qua
xuất khẩu nông sản vẫn thấp…
Do đó chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp là đòi hỏi khách
quan của quá trình hội nhập nền nông nghiệp vào mạng sản xuất và chuỗi giá
trị nông sản toàn cầu. Để quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng thành công
phải theo các hướng sau: 1). Phát huy tối đa lợi thế so sánh của cây trồng vật
nuôi có lợi thế so sánh cao và không ngừng tạo ra những lợi thế so sánh mới
trong quá trình tăng trưởng và phát triển. 2). Không ngừng nâng cao giá trị gia
tăng trong sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ nông sản nhằm đạt được
hiệu quả cao. 3). Không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông,
lâm, thủy hải sản, của các chủ thể (sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ),
của ngành hàng và cả năng lực cạnh tranh quốc gia. 4). Chuyển đổi theo hướng
phát triển bền vững theo ba trụ cột bền vững về kinh tế, bền vững về môi
trường sinh thái và bền vững về xã hội. 5). Chuyển đổi mô hình tăng trưởng và
tái cấu trúc ngành nông nghiệp tuy là 2 nội dung khác nhau, song có mối quan
hệ vừa là điều kiện vừa là tiền đề của nhau cùng mục tiêu phát triển. Do đó,
cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa chuyển đổi mô hình tăng trưởng với tái cấu
trúc ngành nông nghiệp theo hướng bền vững và nâng cao giá trị gia tăng.
4.3.1.1. Tái cơ cấu trồng trọt phải thực hiện một số điều chỉnh lớn như sau:
- Cây lương thực: An ninh lương thực không chỉ đảm bảo đủ lương thực,
đảm bảo ăn no mà khái niện này đã mở rộng đảm bảo đủ calo, đủ dinh dưỡng;
do vậy an ninh lương thực bao gồm lương thực và thực phẩm: lúa gạo, ngô, thịt
các loại, trứng, sữa, đường, dầu ăn… Do vậy đảm bảo an ninh lương thực, thực
phẩm không chỉ là lúa gạo mà cả cây làm thức ăn cho gia súc. Hiện nay diện
tích gieo cấy lúa của cả nước đạt khoảng 7,9 triệu ha, sản lượng khoảng trên
44,1 triệu tấn (2013).[69] Nhưng sản xuất lúa gạo đang là ngành có hiệu quả
152
thấp nhất trong toàn ngành trồng trọt, nông dân thu lời rất ít, kim ngạch xuất
khẩu lớn, chỉ số lợi thế so sánh cao, nhưng năng lực cạnh tranh thấp nguyên
nhân có nhiều trong đó do: quy mô sản xuất nhỏ, manh mún; trình độ khoa học
công nghệ thấp, cơ giới hóa thấp, tổn thất sau thu hoạch cao…; chưa hình
thành mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị ngành lúa gạo…
Theo nhiều nhà khoa học, Việt Nam sản xuất lúa gạo xuất khẩu không
chỉ đảm bảo an ninh lương thực phẩm trong nước mà còn giúp giải quyết an
ninh lương thực thế giới, nhưng có nghịch lý là xuất khẩu càng nhiều thì nông
dân vùng chuyên canh lúa xuất khẩu càng nghèo. Bởi vậy không nên cố định
diện tích canh tác lúa từ 3,8-4 triệu ha như hiện nay, mà diện tích gieo trồng lúa
linh động khoảng từ 5,8-6 triệu ha, sản lượng đạt trên 35 triệu tấn đảm bảo an
ninh lương thực cho 100-130 triệu người, linh hoạt chuyển đổi từ 1,8-2 triệu ha
gieo trồng sang trồng ngô, đậu tương và cây thức ăn gia súc. Như vậy ngành
sản xuất lúa gạo không còn là ngành luôn được ưu tiên sản xuất hướng ra xuất
khẩu, mà chỉ được ưu tiên khi nhu cầu thế giới tăng và giá gạo thế giới cao.
- Cây thức ăn chăn nuôi: Nhu cầu tiêu dùng thực phẩm giầu đạm có xu
hướng ngày càng tăng, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi ngày càng giữ vai trò
quan trọng trong ngành trồng trọt, là bộ phận không thể tách rời của nội hàm an
ninh lương thực - thực phẩm. Với nhu cầu thức ăn chăn nuôi công nghiệp hàng
năm khoảng 26 triệu tấn, trong đó cần tới 16 triệu tấn thức ăn tinh bột và nhu
cầu này còn tăng nhanh trong thời gian tới, là thị trường lớn và ổn định đối với
sản phẩm ngô. Bởi vậy việc điều chỉnh giảm khoảng 2 triệu ha, tức khoảng
30% trong tổng số diện tích gieo trồng lúa để trồng cây làm thức ăn chăn nuôi,
chủ yếu là ngô, đậu tương và cỏ xanh là cần thiết.
- Cây công nghiệp lâu năm: Các cây công nghiệp lâu năm đang là nhóm
cây có thế mạnh của nước ta gồm: Cao su, cà phê, điều, chè, hồ tiêu…; diện
tích cho thu hoạch và sản lượng năm 2013 so với năm 2012 như sau: Diện tích
153
chè đạt 114,1 nghìn ha; sản lượng đạt 921,7 nghìn tấn, tăng 1,3%. Cà phê diện
tích đạt 584,6 nghìn ha, tăng 2,1%; sản lượng đạt 1289,5 nghìn tấn, tăng 2,3%.
Cao su diện tích đạt 545,6 nghìn ha, tăng 7%; sản lượng đạt 949,1 nghìn tấn, tăng
8,2%. Hồ tiêu diện tích đạt 51,1 nghìn ha, tăng 6%; sản lượng đạt 122,1 nghìn tấn,
tăng 5,3%. [69] Kim ngạch xuất khẩu đạt 9,1 tỷ USD, chiếm 70% tổng kim
ngạch xuất khẩu nông sản của cả nước (2012). Phần lớn các cây công nghiệp
lâu năm đã phát triển tới ngưỡng tối đa, thậm chí có loại cây vượt cả mức tối
ưu, trồng trên cả đất xấu, năng suất, chất lượng thấp, làm giảm lợi thế so sánh,
giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Do vậy, các ngành sản xuất cây công
nghiệp lâu năm phải đi theo hướng phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh,
nâng cao chuỗi giá trị gia tăng của các sản phẩm này… Chẳng hạn diện tích cà
phê cho thu hoạch là 584,6 ngàn ha (năm 2013); nên ổn định diện tích cà phê ở
mức 500 ngàn ha, loại bỏ diện tích cà phê trồng trên đất có độ dốc cao, tầng
canh tác mỏng, diện tích cà phê thiếu nước tưới và trồng xen cây bóng mát,
thực hiện tái canh cây cà phê với các giống có năng suất chất lượng cao…
- Rau, hoa, quả: Ngành rau, hoa quả trên thế giới được đánh giá là ngành
tạo ra sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, ngon, làm đẹp và tôn tạo cảnh quan
sinh thái, là ngành sản xuất với công nghệ cao, có tỷ suất giá trị gia tăng và tỷ
suất lợi nhuận cao. Với thế mạnh về khí hậu đa dạng, nước ta có điều kiện phát
triển các ngành sản xuất này cực kỳ phong phú và hiệu quả cao, có lợi thế cạnh
tranh lớn trong khu vực và quốc tế. Cần tập trung để chọn một số ngành sản
xuất chủ lực gồm vài loại rau, hoa cao cấp ở Đà Lạt, Sa Pa, cao nguyên Mộc
Châu… và khoảng trên 10 loài cây ăn quả quý. Sản lượng một số cay ăn quả
năm 2013: cam đạt 530,9 nghìn tấn, chuối đạt 1,9 triệu tấn, bưởi đạt 449,3
nghìn tấn, vải và chôm chôm đạt 641,1 nghìn tấn, quýt đạt 177,7 nghìn tấn.[69]
Sản xuất rau, hoa, quả phổ biến ở mọi vùng miền đất nước, tạo cơ hội
làm giàu phổ biến cho đông đảo nông dân cả nước, đặc biệt, là những vùng đất
154
chật người đông và những vùng có khí hậu đặc thù. Theo đó, sản xuất rau, hoa,
quả phải trở thành ngành sản xuất chủ lực của ngành trồng trọt phục vụ yêu cầu
đời sống nhân dân và có khả năng tạo ra kim ngạch xuất khẩu lớn trong tương
lai không xa.
- Cây dược liệu và cây hương liệu: Cây dược liệu, cây hương liệu rất
phù hợp với điều kiện và tập quán canh tác của đồng bào miền núi, cũng có thể
coi là cây lâm sản ngoài gỗ quan trọng của ngành lâm nghiệp, như quế, hoa
hồi, trẩu, thảo quả…
4.3.1.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi rất quan trọng chiếm khoảng 30% tổng giá trị nông nghiệp và
đã có bước phát triển đáng kể, nhưng chưa tạo lập được vai trò chủ lực có hiệu
quả cao. Trong khi nhu cầu về sản phẩm chăn nuôi ngày càng tăng bao gồm:
thịt các loại, trứng, đặc biệt sữa và các sản phẩm từ sữa. Trong những năm qua
riêng các sản phẩm sữa cho trẻ em hàng năm nhập khẩu khoảng 1 tỷ USD. Từ
đầu năm đến hết tháng 8/2013, cả nước đã nhập khẩu 661,9 triệu USD mặt
hàng sữa và sản phẩm từ sữa, tăng 10,29% so với cùng kỳ năm 2012 [62].
Trong việc tái cơ cấu lại chăn nuôi, chọn ra ngành hàng chủ lực có nhiều
dư địa để phát triển, đó là chăn nuôi bò sữa. Do thứ nhất, có thị trường nội địa
với tiềm năng tiêu thụ lớn, trung bình năm 2010, mỗi người dân Việt Nam tiêu
dùng 15 lít sữa nước/năm, năm 2015 nhu cầu sữa của một người dân ước là
21lít/người/năm, năm 2020 tương ứng là 27 lít/người/năm; sản lượng sữa
tương ứng năm 2015 đạt 1,9 tỷ lít sữa tươi, năm 2020 là 2,6 tỷ lít, năm 2025 là
3,4 tỷ lít sữa tươi [63]. Thứ nữa, những công nghệ cao của thế giới về chăn
nuôi bò sữa và chế biến sữa, như sử dụng giống bò sữa cao sản; ứng dụng công
nghệ cấy phôi và sử dụng tinh giới tính; công nghệ nuôi nhốt và công nghệ vắt
sữa hiện đại; sử dụng giống cỏ mới và công nghệ thức ăn hiện đại, đã hội tụ
được hầu hết các công nghệ cao của ngành công nghiệp sữa thế giới đã được áp
155
dụng có hiệu quả ở Việt Nam. Chẳng hạn, tập đoàn TH đã đầu tư nhà máy chế
biến sữa tươi lớn nhất Đông Nam Á ở Nam Đàn, có công nghệ hiện đại bậc
nhất thế giới, tư động hóa bằng robot nhập khẩu từ các nước G7 và châu Âu.
Các sản phẩm của nhà máy được sản xuất và quản lý hoàn toàn theo tiêu chuẩn
ISO 22000 nhằm đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm và
tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001; hệ thống phân phối TH True Mart với những
quy chuẩn công nghệ hiện đại. Ước tính tiêu thụ sữa của nước ta tương đương
với mức tiêu thụ sữa của những nước đang phát triển là 60 lít/người/năm, nhu
cầu sữa của gần 100 triệu dân hiện nay và 130 triệu dân trong tương lai, hàng
năm sản lượng sữa đạt 6-8 triệu tấn/năm và tổng đàn bò sữa khoảng 2 triệu
con, trong đó 1 triệu con vắt sữa. Các con nuôi khác như: lợn, trâu và bò thịt,
gia cầm, duy trì tốc độ tăng trưởng đàn theo nhu cầu tiêu thụ trong nước [44].
Hiên tại, đến cuối năm 2013 như sau: Đàn trâu có 2,6 triệu con, giảm
2,6% so với năm 2012; đàn bò có 5,2 triệu con, giảm 0,7%, riêng nuôi bò sữa
có 186,3 nghìn con, tăng 11,6%; đàn lợn có 26,3 triệu con, giảm 0,9%; đàn gia
cầm 314,7 triệu con, tăng 2,04%, trong đó đàn gà 231,8 triệu con, tăng 3,6%.
Sản lượng thịt hơi các loại năm 2013 ước đạt 4,3 triệu tấn, tăng 1,5%.[69]
4.3.1.3. Thủy hải sản
Phát triển vùng nuôi tôm, cá da trơn công nghiệp đảm bảo nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến thủy hải sản cho xuất khẩu, tập trung ở vùng ven
biển duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Khai thác triệt để
mặt nước, trong đó có mặt nước của các hồ lớn để phát triển nuôi các loại thủy
sản quý hiếm, cao cấp, cá nước lạnh gắn với chế biến xuất khẩu. Tiếp tục phát
triển ngành đánh bắt cá biển, nhất là ngành đánh bắt xa bờ. Nắm bắt công nghệ
mới nuôi trồng tảo nước nợ và nước mặn để phát triển ngành nuôi trồng tảo,
hình thành ngành mới trong chiến lược phát triển kinh tế biển…
156
Năm 2013: Sản lượng thuỷ sản đạt 5.919 nghìn tấn, tăng 3,2% so với
năm 2012, trong đó cá đạt 4400 nghìn tấn, tăng 1,3%; tôm đạt 704 nghìn tấn,
tăng 11,7%. Trong đó, sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 3.210 nghìn tấn,
tăng 3,2% so với (2012), trong đó cá 2.407 nghìn tấn, tăng 0,2%; tôm 544,9
nghìn tấn, tăng 15%. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 1037 nghìn ha, giảm
0,2% so với (2012), trong đó diện tích nuôi cá tra 10 nghìn ha, giảm 7,2%;
diện tích nuôi tôm 637 nghìn ha, tăng 1,6%. Sản lượng thủy sản khai thác
năm 2013 đạt 2.709 nghìn tấn, tăng 3,3% so với (2012), trong đó khai thác
biển đạt 2.519 nghìn tấn, tăng 3,5%. [69]
4.3.1.4. Lâm nghiệp
Tạo ra chuyển biến bước ngoặt đối với lâm nghiệp, ưu tiên phát triển cây
lấy gỗ, nâng cao năng lực chế biến gỗ nguyên liệu như dăm gỗ, ván sàn gỗ ép,
sản xuất đồ gỗ và các sản phẩm từ gỗ, vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, vừa góp
phần sản xuất vật liệu tái tạo cho nhu cầu xây dựng mà thế giới đang nâng lên
thành chính sách “an ninh gỗ”. Phát triển các ngành hàng sản xuất lâm nghiệp
ngoài gỗ để nâng cao hiệu quả của đất rừng.
4.3.2. Nhóm giải pháp đẩy mạnh áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến
đồng bộ vào sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ nông lâm thủy hải
sản tạo đột phá mới trong phát triển nông nghiệp
Khoa học kỹ thuật và công nghệ là chìa khoá để nâng cao chất lượng,
không những tạo ra sự khác biệt của sản phẩm mà còn tăng năng suất lao động
và năng suất sản lượng nông, lâm, thủy hải sản, giảm chi phí sản xuất và giá
thành, tạo ra lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của các mặt hàng nông, lâm,
thủy hải sản. Đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở khai thác tối
đa lợi thế so sánh trên thị trường xuất khẩu và nội địa nhằm phát triển bền
vững; đồng thời hiện đại hoá đồng bộ các khâu: từ sản xuất, chế biến, kinh
doanh và tiêu thụ.
157
Thứ nhất, triển khai có hiệu quả chương trình giống cây, con đưa vào
sản xuất nông, lâm, thủy hải sản. Theo một số chuyên gia, khoa học kỹ thuật
và công nghệ đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng của sản xuất nông lâm thủy
hải sản của nước ta. Trong khi đó, tỷ suất này ở Trung Quốc như sau: Quảng
Tây là 40%; Quảng Đông 60%; Thượng Hải 70%; ở các nước tiên tiến khác từ
80-90% [64].
Thứ hai, tăng cường áp dụng khoa học và công nghệ cao, công nghệ
sinh học, công nghệ hữu cơ, công nghệ vi sinh…gắn với các quy trình sản xuất
tiên tiến bền vững trong sản xuất nông, lâm, thủy hải sản. Khoa học công nghệ
gắn với các quy trình sản xuất bền vững không chỉ có đóng rất lớn vào tăng
trưởng và nâng cao giá trị gia tăng mà còn thúc đẩy “phát triển bền vững” trong
sản xuất nông, lâm, thủy hải sản. Nông nghiệp của nước ta trong thời gian dài
với mục tiêu tăng trưởng nhanh: nhiều hàng nông, lâm, thủy hải sản có sản
lượng và kim ngạch xuất khẩu đứng nhất nhì thế giới (lúa gạo, cà phê, hồ
tiêu…), nhưng chất lượng ít được cải thiện, năng lực cạnh tranh thấp, phát triển
thiếu ổn định… Nguyên nhân do lạm dụng quá mức khoa học công nghệ khai
thác triệt để năng suất cây trồng, vật nuôi, đất đai và hệ sinh thái như: sử dụng
quá mức phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, thuốc kháng sinh
trong nuôi trồng thủy hải sản, giảm diện tích cây bóng mát trong sản xuất chè,
cà phê; không tuân thủ các quy trình sản xuất bền vững phá vỡ hệ sinh thái…
Do vậy áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao, công nghệ sinh học phải
gắn với quy trình sản xuất tiên tiến và phát triển bền vững.
Tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao trong tạo giống
cây trồng, vật nuôi như: công nghệ nuôi cấy mô, ứng dụng công nghệ cấy phôi
và sử dụng tinh giới tính, lai ghép, công nghệ lai đơn dòng, hai dòng, ba
dòng… nhằm tạo ra những giống con lai, giống thuần có ưu thế về năng suất,
chất lượng…
158
Thứ ba, hiện đại hoá đồng bộ từ sản xuất đến thu hoạch, sơ chế, bảo
quản và chế biến. Trong sản xuất nông, lâm, thủy hải sản trong giai đoạn vừa
qua, việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại thiếu đồng bộ, chủ
yếu áp dụng công nghệ cao trong việc chọn lựa, lai tạo giống cây con, các khâu
sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến chưa được cơ giới hóa, áp dụng công
nghệ cao ở những khâu này còn nhiều hạn chế; dẫn đến chất lượng bị suy giảm,
tổn thất trong và sau thu hoạch rất lớn. Do đó khuyến khích nông dân liên kết,
hợp tác đầu tư trang thiết bị và công nghệ hiện đại trong thu hoạch, sơ chế, bảo
quản. Tập trung đầu tư nghiên cứu chế tạo trong nước các dây chuyền sơ chế,
sấy công suất vừa và nhỏ, có công nghệ hiện đại, phù hợp với quy mô sản xuất;
chú trọng các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường, bảo đảm sản xuất bền vững.
Khuyến khích các doanh nghiệp chủ động đầu tư trang bị các máy móc, thiết bị
hiện đại, áp dụng công nghệ hiện đại tự động hoá dây chuyền sản xuất và giám
sát chất lượng sản phẩm, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO: 9000, HACCP, ISO: 14000…
Hiện tại ngành chăn nuôi bò sữa là ngành đi tiên phong trong việc áp
dụng đồng bộ công nghệ cao của thế giới từ trồng cỏ, chế biến thức ăn, đến
chăn nuôi và chế biến sữa; như sử dụng giống bò sữa cao sản, ứng dụng công
nghệ cấy phôi và sử dụng tinh giới tính, công nghệ nuôi nhốt và công nghệ vắt
sữa hiện đại, sử dụng giống cỏ mới và công nghệ thức ăn hiện đại, đã hội tụ
được hầu hết các công nghệ cao của ngành công nghiệp sữa thế giới. Điển hình
là TH true MILK đã mua toàn bộ công nghệ và quy trình kỹ thuật chăn nuôi bò
sữa của Israel và quy trình chế biến từ các nước tiên tiến. Để đảm bảo sự tuân
thủ đúng quy trình, TH true MILK đã thuê chuyên gia của Israel vận hành máy
móc và hướng dẫn, đào tạo nông dân. TH true MILK đã xây dựng hệ thống làm
việc chuyên nghiệp, được quản lý trực tiếp bởi hai công ty đa quốc gia là công
159
ty SAE-AFIKIM của Israel về quản trị đàn bò và công ty Totally Vets của New
Zealand quản trị thú y.
Thứ tư, xây dựng và khẳng định thương hiệu hàng nông, lâm, thủy hải
sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. Nâng cao nhận thức của các chủ thể từ
sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ các mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản
trong việc xây dựng thương hiệu, củng cố sự tin cậy đối với khách hàng và là
công cụ bảo vệ lợi ích của các chủ thể. Trên cơ sở nâng cao chất lượng sản
phẩm, từng ngành hàng và từng doanh nghiệp phải tích cực xúc tiến việc xây
dựng và phát triển thương hiệu hàng nông, lâm, thủy hải sản nói chung và của
mỗi doanh nghiệp nói riêng, từng bước khẳng định xuất xứ địa lý và uy tín của
hàng nông, lâm, thủy hải sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thúc đẩy thực hiện
sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Tiến tới tổ chức chuỗi ngành hàng theo mô
hình kết nối từ chủ thể sản xuất hàng nông, lâm, thủy hải sản tới doanh nghiệp
chế biến và xuất khẩu, đăng ký thương hiệu và bảo hộ thương hiệu trong nước
và trên thế giới.
Thứ năm, xây dựng hệ thống tiêu thụ hàng nông, lâm, thủy hải sản hiện
đại, thích ứng với mậu dịch mua bán trong nước và quốc tế. Xây dựng những
kênh thông tin hữu hiệu nhằm kết nối thông tin hai chiều, cung cấp và phổ biến
thông tin thị trường, cải tiến tổ chức và quản lý ngành hàng, các chiến lược xúc
tiến thương mại, dự báo mùa vụ, tạo ra sự điều phối thống nhất trong các ngành
hàng nông, lâm, thủy hải sản. Hoàn thiện hệ thống thông tin về môi trường
kinh doanh, thông tin về hệ thống phân phối, giá cả…, chủ động áp dụng
thương mại điện tử trong giao dịch mua, bán, ký gửi hàng nông, lâm, thủy hải
sản trong nước và quốc tế. Trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm sàn giao dịch nông,
lâm, thủy hải sản hiện có và học tập kinh nghiệm các sàn giao dịch lớn trên thế
giới, tiến hành xây dựng “Đề án phát triển hệ thống thương mại nông, lâm,
thủy hải sản” ở nước ta, bảo đảm tính hiện đại, văn minh thương mại và thích
160
ứng với quá trình mua, bán, ký gửi ở từng vùng trong nước. Xây dựng các kho
ký gửi nông, lâm, thủy hải sản, đăc biệt là lúa gạo và cà phê ở các vùng chuyên
canh lớn.
4.3.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tham gia
chuỗi giá trị nông sản và năng lực tổ chức thực hiện chính sách phát triển
nông nghiệp
Trong các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản hiện nay, từ sản xuất chế
biến, đến lưu thông phân phối và xuất khẩu đều trong tình trạng manh mún,
nhỏ lẻ; mạnh ai nấy làm, kinh doanh theo phi vụ, thiếu tính chuyên nghiệp;
năng lực cạnh tranh, năng lực tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu
rất thấp. Tình trạng tranh mua, tranh bán diễn ra phổ biến; được mùa thì rớt
giá, thua ngay trên sân nhà trước sức ép cạnh tranh từ các công ty đa quốc gia
và các tập đoàn nước ngoài. Một trong những nguyên nhân của tình trạng cạnh
tranh quá mức ở thị trường nội địa là do sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiệu
thụ manh mún, nhỏ lẻ... làm giảm năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia
chuỗi giá trị toàn cầu. Để nâng cao năng lực cạnh tranh cần thực hiện các giải
pháp sau:
Thứ nhất, thúc đẩy tập trung kinh tế trong sản xuất nông, lâm, thủy hải
sản quy mô lớn; hình thành mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông sản. Sản xuất
quy mô lớn tạo thuận lợi để đưa tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại và áp
dụng các chương trình, đề án, quy trình sản xuất bền vững, sản xuất sạch,... vào
các khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản và chế biến và tiêu thụ làm
tăng giá trị gia tăng và tăng hiệu quả. Những chính sách khuyến khích mua,
bán, sang nhượng, thuê, mướn,... tạo nên tích tụ ruộng đất được triển khai trong
giai đoạn vừa qua đạt hiệu quả chưa cao. Do vậy phải thúc đẩy nhanh liên
doanh, liên kết và các hình thức hợp tác trong sản xuất nông, lâm, thủy hải sản
để hình thành sản xuất lớn rất quan trọng. Muốn vậy, không thể để nông dân tự
nguyện, tự tổ chức, mà phải có vai trò của nhà nước - vai trò bà đỡ, bằng việc
161
đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật, các điều kiện trong kinh doanh, sản xuất, chế
biến, kinh doanh hàng nông, lâm, thủy hải sản (như: phải có vùng nguyên liệu,
có kho dự trữ tối thiểu, có công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn...), mô hình này
đang áp dụng trong kinh doanh lúa gạo xuất khẩu. Khi đó buộc các chủ thể
muốn tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản phải
tổ chức vùng nguyên liệu dưới các hình thức liên doanh, liên kết; lúc ấy các
doanh nghiệp và các hộ nông dân phải liên kết, hợp tác từ sản xuất đến tiêu thụ.
Nhân rộng mô hình liên doanh liên kết hình thành cánh đồng mẫu lớn
trong sản xuất lúa gạo ở An Giang; liên kết trong nuôi trồng đánh bắt thủy hải
sản; trong chăn nuôi bò sữa của tập đoàn TH true MILK, Vinamilk; trong sản
xuất cà phê: Công ty Cà phê Nets, Tập đoàn Cà phê Thái Hoà…
Thứ hai, đẩy nhanh quá trình tập trung kinh tế trong chế biến, kinh
doanh tiêu thụ và xuất khẩu nông, lâm, thủy hải sản. Các chủ thể sản xuất, chế
biến, kinh doanh xuất khẩu trong các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản Việt
Nam vừa nhỏ bé, manh mún lại thiếu sự liên doanh, liên kết, thiếu sự lãnh đạo
trong chuỗi nên phản ứng yếu ớt với sức ép cạnh tranh từ bên ngoài, thua ngay
trên sân nhà, bị ép giá ngay tại thị trường nội địa... Để chống lại sức ép cạnh
tranh và tồn tại, không bị chặt đứt, phá vỡ chuỗi cung ứng, không còn con
đường nào khác là tập trung kinh tế. Tuy nhiên để tập trung kinh tế bằng con
đường nội sinh, tự các doanh nghiệp phải có thời gian tích luỹ và có lẽ không
bắt kịp tốc độ hội nhập KTQT sâu rộng nhanh như hiện nay. Do đó, tập trung
kinh tế bằng con đường sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh, liên kết giữa
các doanh nghiệp hình thành các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có
năng lực cạnh tranh và chuyển sang mô hình độc quyền nhóm hoặc hình thành
các doanh nghiệp có quyền lực trên thị trường là con đường duy nhất. Tập
trung kinh tế có thể theo chiều ngang, theo chiều dọc và theo đường chéo; tập
trung kinh tế dọc có tác dụng hạ giá thành và cũng tăng khả năng kiểm soát
dòng giá trị gia tăng. Ngoài ra, những doanh nghiệp tập trung kinh tế dọc còn
162
có thể kiểm soát giá cả và chi phí trên toàn bộ chuỗi gía trị và các phân khúc
khác nhau để kiếm lời ở những nơi có mức tỷ suất giá trị gia tăng cao nhất. Mô
hình này đang áp dụng trong nuôi trồng thủy hải sản, trong ngành bò sữa. Tuy
nhiên mô hình chỉ phát triển bền vững khi chia sẻ lợi ích đồng đều cho mọi
thành viên trong chuỗi. Trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản vừa qua
những doanh nghiệp biết chia sẻ lợi ích giữa nuôi trồng, chế biến và kinh
doanh xuất khẩu vẫn giữ được vùng nguyên liệu và phát triển ổn định.
Thứ ba, hoàn thiện các tổ chức hiệp hội ngành hàng nông, lâm, thủy hải
sản. Bằng giải pháp tập trung kinh tế, tự bản thân ngành hàng nông lâm thủy
hải sản đã hình thành nên mạng sản xuất và chuỗi cung ứng nông, lâm, thủy
hải sản, nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị
nông sản toàn cầu. Nhưng để duy trì cạnh tranh - động lực của phát triển,
kiểm soát độc quyền và điều hoà lợi ích giữa các chủ thể tham gia trong
chuỗi, giữa các công đoạn trong chuỗi giá trị và hạn chế lợi ích nhóm…,
phải hoàn thiện lại tổ chức hiệp hội các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản.
Hiện nay các hiệp hội ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản chưa bao quát và
chưa đại diện lợi ích cho toàn bộ các chủ thể tham gia trong ngành hàng.
Chẳng hạn hiệp hội Cà phê - Ca cao, hiệp hội Lúa gạo, hiệp hội Thủy sản,
hiệp hội Điều, hiệp hội Mía đường…; hiệp hội mới chỉ đại diện cho những
doanh nghiệp sản xuất, chế biến và kinh doanh xuất khẩu; còn nông dân
nuôi trồng chưa có tiếng nói của mình trong tổ chức hiệp hội ngành hàng.
Thâm chí tuy là thành viên của hiệp hội (các doanh nghiệp) ít khi chịu ngồi
lại với nhau để trao đổi ý kiến, cùng bàn bạc, bảo vệ lẫn nhau và bảo vệ thương
hiệu hàng nông lâm thủy hải sản của Việt Nam, mà cứ mạnh ai nấy xuất, ngầm
hạ giá bán để xuất khẩu được, hại lẫn nhau, hại luôn nông dân vì họ sẽ mua
nông sản với giá rẻ hơn... Hoàn thiện hiệp hội về tổ chức hiệp hội, cả khung
pháp lý và cơ chế hoạt động…
163
Thứ tư, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chính sách phát triển nông
nghiệp. Đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn được Đảng và nhà nước
đặc biệt quan tâm và đã có nhiều chương trình và chính sách lớn. Tuy vậy, hiệu
quả và kết quả còn nhiều hạn chế. Cần nâng cao năng lực tổ chức thực hiện
chính sách tạo ra chuyển biến trong nhận thức và hành động, nhằm nâng cao
hiệu quả chính sách góp phần thực hiện chuyển đổi và phát triển nông nghiệp
một cách có hiệu quả và bền vững.
4.3.4. Nhóm chính sách giải quyết mối quan hệ nông nghiệp - nông dân -
nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững
Một nền nông nghiệp “phát triển bền vững” phải đạt được ba tiêu chí đó
là: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường sinh
thái. Ở khía cạnh nào đó muốn nông nghiệp phát triển bền vững phải giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn; bởi vì nông dân
là chủ thể chủ yếu và nông thôn chính là địa bàn của sản xuất nông nghiệp.
Trong xu hướng hội nhập KTQT ngày càng sâu rộng không chỉ nông nghiệp bị
tác động mà nông dân và nông thôn cũng bị tác động rất mạnh. Để giải quyết
những tồn tại cơ bản nhất trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn trước
những cơ hội và thách thức mới trong hội nhập KTQT, thúc đẩy nông nghiệp,
nông thôn và nông dân chuyển biến hợp quy luật và phát triển bền vững cần
giải quyết một số vấn đề chủ chốt sau:
Thứ nhất, tái cấu trúc hợp lý nguồn lực trong nông nghiệp, nông dân và
nông thôn là điều kiện tiên quyết cho phát triển bền vững. Trong nông nghiệp,
nông dân và nông thôn đất đai và sức lao động là hai yếu tố vật chất không thể
không có trong sản xuất nông nghiệp. Sự phát triển của nông nghiệp tùy thuộc
rất nhiều vào sự chuyển hóa hay thay đổi lao động và ruộng đất. Bởi vậy, giải
quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong giai đoạn hiện nay chính
là phải hàng hóa hóa ruộng đất và sức lao động.
164
Về nguồn lực lao động: phải nâng cao năng lực nguồn lao động thích ứng
với thị trường lao động (trong đó có nông nghiệp) và tạo điều kiện để lao động
có thể di chuyển sang các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế với thu nhập
thích ứng, lấy đào tạo nghề là giải pháp cơ bản lâu dài đối với không chỉ phát
triển nông nghiệp, nông thôn mà còn của toàn nền kinh tế.
Về nguồn lực đất đai, phân bổ lại nguồn lực đất nông nghiệp theo hướng
tích tụ ruộng đất vào những nông dân thực sự có nhu cầu và khả năng kinh
doanh trong lĩnh vực nông nghiệp để sản xuất lớn. Bên cạnh đó, nhà nước phải
dần tiến tới xây dựng và phát triển thị trường đất đai trong nông nghiệp, nông
thôn để đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất, tạo điều kiện cho
nông dân muốn làm giàu từ nông nghiệp có khả năng tích tụ ruộng đất cao hơn.
Hơn nữa, thông qua giá thị trường đất nông nghiệp để tối ưu hoá các nguồn lực
đất đai trong nông thôn. Ngoài ra, cần thúc đẩy thực hiện chính sách sang,
nhượng, cho thuê mướn quyền sử dụng đất, thực hiện dồn điền, dồn thửa trên
cơ sở xây dựng tiêu chí phân loại đất đai, hệ số quy đổi, để tạo cơ hội tích tụ
ruộng đất…
Hai là, huy động nguồn lực của toàn xã hội và sử dụng có hiệu quả nguồn
lực hỗ trợ của quốc tế để xây dựng nông thôn mới. Hoàn thiện bộ tiêu chí về
nông thôn mới hài hòa với phát triển kinh tế ở từng giai đoạn và phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế, hài hòa với phong tục tập quán và văn hóa bản địa,
cũng như hài hòa với môi trường sinh thái của từng vùng; tránh hình thức và
chạy theo phong trào; xây dựng nông thôn mới phải theo hướng phát triển bền
vững…
Ba là, nâng cao thu nhập của nông dân trong sản xuất nông lâm ngư
nghiệp phát triển bền vững thông qua những biện pháp hỗ trợ trực tiếp mà
WTO cho phép (hộp hổ phách, xanh lam và xanh lá cây) như sản xuất sạch
165
hơn, sản xuất gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ đa dạng sinh
học…
4.3.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hệ thống
chính sách phù hợp với WTO
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hoạt động quản lý Nhà nước trong
quá trình hội nhập KTQT ngày càng sâu rộng. Nghĩa là các cơ quan Chính phủ
sẽ chuyển từ quản lý, kiểm soát là chính sang tạo lập môi trường sản xuất kinh
doanh thuận lợi, thủ tục hành chính đơn giản thông thoáng, các chính sách
minh bạch rõ ràng và bình đẳng nhằm tạo điều kiện hơn nữa để chủ thể sản
xuất, chế biến, kinh doanh tiêu thụ và các ngành hàng phát triển. Đồng thời
Chính phủ sẽ chuyển từ kiểm soát một nền kinh tế đang chuyển đổi sang xây
dựng “lợi thế cạnh tranh” cho một nền kinh tế thị trường. Thông qua hoạch
định chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng, tăng đầu tư khoa học công nghệ trong
nông nghiệp, đặc biệt vùng sản xuất chuyên canh như: vùng lúa gạo ĐBSCL,
vùng chuyên canh cây cà phê, cao su, hồ tiêu, vùng nuôi trồng thủy hải sản,
vùng chăn nuôi bò sữa tập trung…; định hướng và tái cấu trúc nền nông nghiệp
theo hường phát triển bền vững và không ngừng nâng cao giá trị gia tăng
(thông qua quá trình tập trung kinh tế, sản xuất quy mô lớn, liên doanh, liên
kết, sát nhập các doanh nghiệp..), hình thành mạng sản xuất và các chuỗi giá trị
nông sản để tham gia vào các chuỗi gía trị nông sản toàn cầu...
Thứ hai, hoàn thiện Đề án phát triển nông nghiệp bền vững trong dài
hạn. Bao gồm các đề án phát triển bền vững từng ngành hàng nông lâm thủy
hải sản như: tái phân bổ nguồn lực đất đai và phải có chính sách khuyến
khích tích tụ tập trung; quy hoạch vùng nguyên liệu; định hướng tổ chức
chuỗi giá trị ngành hàng; xây dựng chiến lược phát triển thị trường; chiến
lược sản phẩm hướng đến các thị trường có giá trị gia tăng cao; chiến lược
không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh; chiến lược thâm nhập vào chuỗi
giá trị nông sản toàn cầu, đặc biệt những phân khúc có giá trị gia tăng cao…
166
Đặc biệt những ngành hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh: ngành hàng
nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản, ngành hàng sản xuất chế biến gỗ nguyên
liệu và các sản phẩm làm từ gỗ, ngành hàng cà phê, cao su, tiêu, điều…
Thứ ba, xây dựng hệ thống chính sách hỗ trợ để không ngừng nâng
cao “năng lực cạnh tranh” trên cả ba bình diện: năng lực cạnh tranh của
ngành hàng, của chủ thể sản xuất kinh doanh hàng nông, lâm, thủy hải sản
và năng lực cạnh tranh của sản phẩm mà WTO cho phép. Tổ chức lại các
ngành hàng theo hướng hình thành chuỗi giá trị, tổ chức lại các Hiệp hội
ngành hàng cả về mặt tổ chức, khung pháp lý, chức năng và nhiệm vụ. Quy
định các ngành hàng kinh doanh xuất khẩu nông, lâm, thủy hải sản có điều
kiện (quy mô, trình độ công nghệ chế biến, vùng nguyên liệu, kho bãi, kinh
nghiệm kinh doanh xuất khẩu thông qua thành tựu xuất khẩu…), nhằm giảm
đầu mối xuất khẩu, giảm áp lực cạnh tranh quá mức ở thị trường trong nước,
thúc đẩy hình thành liên doanh liên kết và hợp tác, hình thành mạng sản xuất
và chuỗi giá trị.
Xây dựng những chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các chủ thể sản xuất
kinh doanh tiêu thụ và xuất khẩu nông, lâm, thủy hải sản (bao gồm cả nông
dân) khi thay đổi quy trình, công nghệ sản xuất và quy trình quản lý quá
trình sản xuất theo các tiêu chuẩn GMP, ISO nhằm sản xuất sạch hơn, thân
thiện với môi trường sinh thái và phát triển bền vững.
Xây dựng những chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá sản
phẩm; xây dựng và bảo vệ thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa; đăng ký chỉ dẫn
địa lý, nguồn gốc xuất sứ…
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội (ASXH) nhằm
đảm bảo thu nhập và không ngừng nâng cao đời sống của nông dân trong
quá trình hội nhập KTQT. Đảm bảo ASXH là bộ phận không thể thiếu trong
phát triển bền vững, đồng thời đảm bảo ASXH còn làm giảm mặt tiêu cực
của kinh tế thị trường và của hội nhập KTQT, bao gồm:
167
Xây dựng chính sách hỗ trợ trực tiếp cho lao động khi di chuyển ra
ngoài lĩnh vực sản xuất nông, lâm, thủy hải sản, do quá trình tích tụ ruộng
đất cho sản xuất nông lâm thủy hản sản quy mô lớn, đô thị hóa nông thôn,
do phân bổ nguồn lực đất đai cho các lĩnh vực phi nông nghiệp… Kèm với
nó là các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng
nghề và dịch vụ; chính sách thu hút lao động nông nghiệp, nông thôn. Chính
sách giáo dục và đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nông nghiệp…
Hoàn thiện chính sách ASXH cho các vùng nghèo, các hộ nghèo và
cận nghèo. Kinh tế thị trường và hội nhập KTQT làm cho hệ thống ASXH
truyền thống dựa trên cơ sở cộng đồng có xu hướng bị xói mòn. Trong khi đó,
với điều kiện ngân sách còn hạn hẹp nên khả năng đảm bảo ASXH cho các đối
tượng nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, không chỉ Nhà nước, các tổ
chức Quốc tế mà phải huy động các nguồn lực toàn xã hội chung sức trợ giúp
nông dân thoát khỏi nghèo. Đồng thời thay đổi phương thức trợ giúp người
nghèo, cách tiệp cận của người nghèo với các dịch vụ…
Thứ năm, tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn theo phương
châm đầu tư nhiều lấy đi ít. Chiến lược và chính sách phát triển hạ tầng nông
thôn qua phương châm “xây dựng hệ thống hạ tầng nông thôn: điện, đường,
trường, trạm, thủy lợi” đã phát huy tác dụng tích cực đối với phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên để tái cơ cấu nền nông nghiệp theo hướng phát triển phát triển
bền vững và tăng giá trị gia tăng phải đầu tư lại hệ thống tưới tiêu, xây dựng
đồng ruộng, chuồng trại và mặt nước nuôi trồng thủy sản có một ý nghĩa quyết
định. Đầu tư công nghệ hiện đại cho sơ chế và chế biến, cũng như hệ thống kho
bảo quản, hệ thống thương mại.
Tăng đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ trong sản xuất nông
lâm thủy hải sản. Tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ,
168
đặc biệt là công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản và mạng lưới cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại phục vụ sản xuất nông nghiệp mà thời gian qua được đầu
tư với tỷ lệ rất thấp cũng như chưa được quan tâm đúng mức. Đây là những
yếu tố cần thiết để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
169
KẾT LUẬN
Phát triển nông nghiệp sau khi gia nhập WTO luôn là vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu và các quốc gia quan tâm, bởi phát triển nông nghiệp theo
hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững liên quan đến không chỉ việc giải quyết
vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm; mà còn là vấn đề về môi trường sinh
thái…. Tuy nhiên, do đặc thù của mỗi nước khác nhau, mà phương pháp tiếp
cận, nội dung, đối tượng, phạm vi nghiên cứu phát triển nông nghiệp theo
những chiều hướng khác nhau.
Luận án “Phát triển nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO)” đã tập trung nghiên cứu những vấn đề về lý luận
và thực tiễn phát triển nông nghiệp Việt Nam từ những năm 2000 đến nay và
đã đạt được kết quả như sau:
Thứ nhất, Đã tổng quan các công trình nghiên cứu của nhiều học giả
trong và ngoài nước về PTNN gồm: CNH-HĐH nông nghiệp, tác động của hội
nhập KTQT đến PTNN và bối cảnh kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO; từ đó
luận án đưa ra những vấn đề cần nghiên cứu và giải đáp sâu hơn cả về lý luận
và thực tiễn đối với nông nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, Qua nghiên cứu các khái niệm, đặc điểm, vai trò và vị trí của
nông nghiệp với phát triển kinh tế; các lý thuyết về phát triển kinh tế và
PTNN… Luận án đã làm rõ và đề xuất nội dung của phát triển nông nghiệp;
xây dựng bộ tiêu chí với 6 nội dung đánh giá PTNN, làm cơ sở cho phân tích
và luận giải hiện trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam trên sáu trục nội dung
được so sánh trước và sau khi gia nhập WTO. Đồng nghiên cứu kinh nghiệm
quốc tế về PTNN, rút ra được những bài học kinh nghiệm và khung phân tích
của đề tài luận án. Từ đó, góp phần làm rõ và phát triển cơ sở lý luận về phát
triển nông nghiệp sau khi gia nhập WTO.
170
Thứ ba, luận án đã đánh giá thực trạng PTNN từ năm 2000-2013 trên
sáu trục nội dung gồm: Tăng trưởng ngành nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp và trong nội bộ ngành; thực trạng đầu tư và áp dụng khoa
học và công nghệ trong nông nghiệp; phân tích lợi thế so sánh của một số
ngành hàng và năng lực cạnh tranh; phân tích TTH, CMH, hợp tác, liên kết và
phát triển mạng sản xuất, mạng cung ứng và chuỗi giá; đánh giá hạ tầng cơ sở
và kỹ thuật; Từ đó, đã rút ra và khẳng định được những thành tựu, tồn tại và
nguyên nhân trong PTNN và những vấn đề đặt ra, làm cơ sở cho luận giải đề
xuất giải pháp về PTNN.
Thứ tư, nghiên cứu làm rõ xu hướng PTNN trên thế giới và thực trạng
PTNN Việt Nam; luận án đề xuất năm quan điểm và năm nhóm giải pháp,
gồm: nhóm giải pháp chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại ngành
nông nghiệp; nhóm giải pháp đẩy mạnh áp dụng khoa học và công nghệ tiên
tiến, đồng bộ vào sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ nông, lâm, thủy hải
sản; nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi
giá trị nông sản toàn cầu; nhóm chính sách giải quyết mối quan hệ nông nghiệp
- nông dân - nông thôn trong PTNN bền vững; hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường và hệ thống chính sách.
Tuy, đã có nhiều cố gắng và nỗ lực trong nghiên cứu, song đây là vấn đề
rộng và phức tạp, nên không tránh khỏi những thiếu sót; tác giả rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu để hoàn thiện và
phát triển hơn nữa nghiên cứu của mình.
171
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phùng Văn Dũng (2011), Chính sách đất nông nghiệp của Trung
Quốc – Một số gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số
3(115), tháng 3/2011.
2. Phùng Văn Dũng (2013), “Thoát nghèo – no đủ - làm giàu”, bước
đường đi của người nông dân trong hội nhập, Tạp chí Nông thôn mới, số 351,
kỳ II, tháng 9/2013.
3. Phùng Văn Dũng (2013), Nông nghiệp, nông thôn và nút thắt trong
thu hút vốn FDI, Tạp chí Thuế Nhà nước, số 42 (452), tháng 10/2013.
4. Phùng Văn Dũng (2013), Kinh tế hộ nông dân trong quá trình phát
triển nông nghiệp và giải pháp trong thời gian tới, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,
số 11 (426), tháng 11/2013.
172
Tiếng Việt
1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2002), “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Việt Nam”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2007), “Việt Nam - WTO những cam kết
liên quan đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn và doanh nghiệp”, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Công thương (Tháng 9/2011), Dự án Hỗ trợ Thương mại đa biên-
MUTRAP, “Báo cáo Tác động của cam kết mở cửa thị trường trong WTO và
các Hiệp định khu vực Thương mại tự do (FTA) đến hoạt động sản xuất,
thương mại của Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện cơ chế điều hành xuất
nhập khẩu giai đoạn 2011-2015”.
4. Bộ Công Thương (2011) Báo cáo đánh giá sau 3 năm ra nhập WTO của dự án
MUTRAP II.
5. Bộ Ngoại giao (2002), “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa:
Vấn đề và giải pháp”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (8/2012-9/2013) trong khuôn khổ hỗ
trợ của Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO đã triển khai dự án
“Đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết WTO và khu vực đối với
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn”.
7. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2007), "Các cam kết của Việt Nam
với WTO trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn", Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội.
8. CEG/AusAID - Bộ Nông nghiệp và PTNT (2005), “WTO & Ngành Nông
nghiệp Việt Nam”, Nxb Văn hóa Dân tộc, Tr 6-10
TÀI LIỆU THAM KHẢO
173
định mức thuế suất của Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, ưu
đãi đặc biệt theo danh mục mặt hàng chịu thuế (Biểu thuế năm 2012)”.
Phụ lục 1.1: Thực hiện cam kết cắt giảm thuế theo WTO trong nông nghiệp.
10. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số157/2011/TT-BTC, Ngày 14/11/2011 “Quy
định mức thuế suất của Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, ưu
đãi đặc biệt theo danh mục mặt hàng chịu thuế (Biểu thuế năm 2012)”.
Phụ lục 1.2: Thực hiện cam kết cắt giảm thuế theo WTO trong nông nghiệp.
11. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số157/2011/TT-BTC, Ngày 14/11/2011 “Quy
định mức thuế suất của Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, ưu
đãi đặc biệt theo danh mục mặt hàng chịu thuế (Biểu thuế năm 2012)”.
Phụ lục 1.3: Thực hiện cam kết cắt giảm thuế theo WTO trong nông nghiệp
12. Bộ Thương mại (2001), "Các cam kết gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới
của Việt Nam", Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội – 2007.
13. Ngô Đức Cát (Chủ biên), “Phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn”,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
14. Trần Thị Minh Châu (2007), “Về chính sách nông nghiệp ở nước ta hiện nay”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Cốc Nguyên Dương (2006), “Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI: Phát triển
và hợp tác”. Nghiên cứu Trung Quốc, số 1 (65).
16. Tiêu Xuân Dương, Bành Tính Lư (2000), “Thị trường và ngành nghề hóa
nông nghiệp”, Nxb Quản lý kinh tế, Bắc Kinh.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. tr.179.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 98-99.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 96-97.
9. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 157/2011/TT-BTC, Ngày 14/11/2011 “Quy
174
XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 113-114.
21. Võ Văn Đức (chủ biên) (2009), ”Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu
nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế Việt Nam”, Nxb chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
22. Hoàng Ngọc Hà (2008), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
23. Tô Duy Hợp (2009),“Một số vấn đề xã hội nan giải trong quá trình đổi mới
tam nông Việt Nam”. Bài trình bày tại Hội thảo "Công nghiệp hoá nông thôn
và phát triển nông thôn Việt Nam - Đài Loan", do Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam và Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan tổ chức tại Hà Nội ngày
17/12/2009.
24. Phạm Văn Khôi (2007),”Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp, nông
thôn”, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr 69.
25. Chử Văn Lâm (2008), Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt
Nam chủ nhiệm đề tài: “Tam nông: Một số vấn đề nổi lên ở Việt Nam”.
26. Phạm Ngọc Linh và Nguyễn Thị Kim Dung (2008), ”Giáo trình Kinh tế kinh
tế phát triển”, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, Tr14.
27. Vũ Văn Nâm (2009), “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam”, Nxb
Đại Học Kinh tế.
28. Nguyễn Thế Nhã, Vũ Đình Thắng (2002), ”Giáo trình kinh tế nông nghiệp”,
Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, tr222
29. Nhiều tác giả (2008), Giáo trình Kinh tế nông nghiệp - Đại học Kinh tế quốc
dân, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân.
30. Nhiều tác giả (12-2008), “Nông dân, nông thôn và nông nghiệp - Những vấn
đề đang đặt ra”, Nxb Tri Thức.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
175
(2000), Luật bảo vệ và phát triển rừng.
32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XI, kỳ họp thứ 4,
(2003), Luật Khoa học Công nghệ.
33. Đỗ Tiến Sâm (3/2008),“Vấn đề tam nông ở Trung Quốc - Thực trạng và giải
pháp”, Viện khoa học xã hội Việt Nam - Viện nghiên cứu Trung Quốc, NXB
Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
34. Đỗ Tiến Sâm & Bùi Thị Thanh Hương, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam, “Trung Quốc với việc giải quyết vấn đề tam
nông”.
35. Đặng Kim Sơn (2000), “Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông
dân trong quá trình công nghiệp hoá”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Đặng Kim Sơn (2008), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm
nay và mai sau”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Danh Sơn Chủ biên (2010), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt
Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại hoá”; Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
38. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc vụ
viện Trung Quốc, (2007), “Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân: kinh
nghiệm của trung Quốc và Việt Nam”, Tài liệu Hội thảo quốc tế.
39. Trung tâm Phụ nữ và Phát triển - Viện CS&CL PTNNNT (IPSARD), “Kinh
nghiệm quốc tế về Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn”, Tài liệu Hội thảo
quốc tế.
40. Nguyễn Công Tạn, 2005, Nghiên cứu về Hà Lan, Báo Nông thôn ngày nay
41. Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên), (2007), “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 21-24.
31. Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7,
176
hiện nay”, Bản dịch tiếng Việt của Viện Nghiên cứu Trung Quốc.
43. Tổng cục Hải quan, “Báo cáo hàng năm”
44. TCTK (2012), “Niên giám thông kê năm 2011”, Nxb Thống kê, Hà Nội.
45. TCTK (2013), “Niên giám thông kê 2012’, Nxb Thống kê.
46. TCTK (2012), “Kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2011”,
Nxb Thống kê.
47. Phạm Quốc Trụ, (2010), “Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
những năm qua và triển vọng những năm tới”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số
1 (80).
48. Nguyễn Mạnh Tuân (2009),“Chính sách đất đai Nông nghiệp của Trung
Quốc”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Thị Tươi (2008), “Tác động của việc gia nhập WTO đến phát triển
nông nghiệp Việt Nam”, Nhà xuất bản ĐHKT.
50. Bùi Minh Vũ, (2001), Giáo trình Kinh tế Lâm nghiệp, NxbThống kê, tr7
51. Nguyễn Thị Hải Yến (2007), “Xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Nxb Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng
viên lý luận chính trị.
52. WTO, Hiệp định Nông nghiệp AoA.
53. WTO, Hiệp định SPS.
54. WTO, Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại TBT
55. WTO, Hiệp định TRIPS
56. WTO, Hiệp định Chống bán phá giá AD
57. WTO, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng SCM
58. WTO, Hiệp định về các biện pháp tự vệ - SG
Web:
59. www.Trademap.org “Trade statistics for international business development”
42. Trần Văn Tích “Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc
177
cua-nong-nghiep-vn-20130828113542543.htm
61. www.vietbao.vn/The-gioi/Xu-huong-nong-nghiep-thoi-dai-toan-cau-
hoa/70038451/159/
62. www.vinanet.com.vn/tin-thi-truong-hang-hoa-viet
nam.gplist.294.gpopen.218253.gpside.1.gpnewtitle.thi-truong-sua-va-nhap-
khau-thang-8-8-thang-nam-2013.asmx
63. wwww.giaoduc.net.vn/Kinh-te/Nguoi-Viet-hang-Viet/Nhung-con-so-chung-
minh-ba-chu-TH-Milk-ngoa-ngon/207434.gd
64. www.sonongnghiephatinh.gov.vn/news2553/Mot-so-van-de-tai-co-cau-nganh-
nong-nghiep.htm
65. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=388&idmid=3&ItemID=14483
66. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=396&idmid=3&ItemID=14038
67. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=396&idmid=3&ItemID=14044
68. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=396&idmid=3&ItemID=14042
69. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=13843
70. www.baodientu.chinhphu.vn/Bai-toan-tai-co-cau-nong-nghiep/Tim-loi-giai-
bai-toan-thuc-an-chan-nuoi/194218.vgp
71. www.nld.com.vn/kinh-te/my-lai-ep-tom-viet-nam-20140326225352239.htm
72. www.wrd.gov.vn/Noi-dung/Bao-cao-Tong-ket-nganh-Nong-nghiep-va-PTNT-
nam-2013/31146.news
73. www.vtca.vn/vtca.nsf/0/Gia-nhap-WTO-nong-nghiep-the-hien-ro-vai-tro-tru-
do-5.htm
74. www.kinhtenongthon.com.vn/Story/kinhte-thitruong/2013/11/44262.html
75. www.baodientu.chinhphu.vn/Home/Hon-7600-ty-dong-cho-vay-mua-tam-tru-
thoc-gao/20134/165789.vgp.
76. www.baoapbac.vn/kinh-te/201406/thu-mua-tam-tru-da-cuu-gia-lua-gao-
496841/
60. www.dddn.com.vn/chuyen-de/cong-nghe-cao-con-duong-phat-trien-ben-vung-
178
quyet-doan-hon.html
78. www.baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/phu-thuoc-trung-quoc-viet-nam-roi-vao-
dieu-toi-ky-3043448/
Tiếng Anh
79. Anita Regmi, Mark Gehlhar (2005), New directions in global food markets,
USDA, p15.
80. Asian Development Bank, Agriculture commercialization, Value Chains and
Poverty Redu ction, (2004), www. Markets4poor.org
81. Béla Balassa (1961), The Theory of Economic Integration, R.D. Irwin,
Homewood, IL.
82. Geoff A. Wilson, Multifunctional Agrculture: A Transition Theory
Perspective (2007), Cromwell, Press, Trowbridge, UK. p.57
83. Josepth E. Stiglitz, 2008, trong tác phẩm “ Vận hành toàn cầu hóa”, Nxb Trẻ
TP Hồ Chí Minh, tr.17
84. Kuznets (1965), “Economic Growth and Structure”.
85. Martin Christopher, Logistics and Supply Chain Management, 2005, Prentice
Hall, London, p16
86. FAO, Participatory policy development for sustainable agriculture and rural
development, Rome, 2005, tr.11
87. Peter Gallagher, “The first Ten Years of WTO, 1995 – 2005.
88. Simon Kuznets. Trong nghiên cứu “The Role of Agriculture in Economic
Development” (Vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế) năm 1961.
89. E. Schumacher, “Small is beautiful” (nhỏ là đẹp) xuất bản năm 1973
90. Statistical Yearbook of the Nethelands, 2007
91. Tatyana P. Soubbotina, ” Không chỉ là tăng trưởng kinh tế”, World Bank, Nxb
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2005
77. www.vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/178410/lich-su-buoc-nguoi-viet-phai-
179
PHỤ LỤC
GTSX theo giá so sánh 1994, 2010 ( tỷ đồng)
Tốc độ tăng trưởng (%)
Năm
Tổng
B.Q
Chăn Nuôi
Dịch Vụ
Bảng 1: Giá trị sản xuất nông nghiệp và tốc độ tăng trưởng
Trồng Trọt 91.067,4
Trồng trọt 18.360,4 2.074,2 5,01
Chăn nuôi 6,85
Dịch Vụ 2,9 5,98
2000 109.502,0
2001 114.955,2 92.904,5 19.254,6 2.796,3 3,15 4,87 3,16 4,98
2002 122.116,9 98.060,7 21.166,6 2.889,6 5,55 9,93 3,20 6,23
2003 127.611,4 101.786,3 22.867,6 2.957,5 3,80 8,04 2,35 4,50
2004 132.840,4 106.422,5 23.391,0 3.026,9 4,55 2,29 2,35 4,10
2005 137.054,9 107.897,6 26.050,5 3.106,8 1,39 11,37 2,64 3,18
2006 142.642,6 111.613,0 27.838,9 3.190,6 3,44 6,87 2,70 4,08
2007 147.764,7 115.374,8 29.114,1 3.275,8 3,37 4,58 2,67 3,60
2008 158.108,3 123.391,2 31.326,3 3.390,8 6,95 7,60 3,51 6,94
2009 162.593,1 124.462,5 34.627,5 3.503 0,87 10,54 3,31 2,84
2010 169.503,2 129.382,7 36.508,2 3.612,3 3,95 5,43 3,12 4,25
2011* 571.885,8 421.925,4 141.204,2 8.756,2 6,30 4,50 5,60 5,90
2012* 587.792,7 433.870,1 144.862,5 9.060,1 2,80 2,60 3,50 2,80
Nguồn: [44], [45], [69] (*:2011 - 2013 giá so sánh 2010)
2013* 602.295,9 445.168,0 147.771,6 9.356,3 2,60 2,01 3,27 2,47
Năm
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
Tỷ trọng (%) so với tổng kim ngạch XK của nền kinh tế 17,7
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản và nông sản chế biến
2000 2.563,30
16,1 2001 2.421,30
14,3 2002 2.396,60
13,2 2003 2.672,00
12,8 2004 3.383,62
13,8 2005 4.467,36
13,4 2006 5.352,45
14,5 2007 7.032,82
14,7 2008 9.239,57
14,6 2009 8.352,80
13,8 2010 9.950,00
13,9 2011 13.400,00
14,7 2012 15.454,70
Nguồn: [44], [45]
12,5 2013 15.353,00
Bảng 3: Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng nông sản
Hạt
Năm
Điều
Gạo
Cao su
Cà phê
Chè
Tiêu
ĐVT: triệu USD
2002 176,76 726,26 329,44 321,64 109,72 82,98
2003 282,91 719,92 504,61 504,89 105,39 58,39
2004 436,72 950,31 693,49 641,98 152,10 96,69
2005 513,61 1.408,38 910,67 740,31 152,22 99,43
2006 478,79 1.275,90 1.454,30 1.217,17 191,35 110,43
2007 636,14 1.490,18 1.600,50 1.916,65 272,11 133,50
2008 910,02 2.895,94 1.906,47 2.113,76 312,12 147,33
2009 883,80 2.666,06 1.555,70 1.730,57 349,37 180,22
2010 1.134,74 2.271,43 1.864,25 1.955,93 421,40 124,07
2011 1.473,20 3.659,00 3.234,40 2.760,20 732,50 205,50
2012 1.473,30 3.672,80 2.856,80 3.672,80 793,40 224,60
Nguồn: [43]; [44], [45]
2013 1.659,00 2.986,00 2.522,55 2.694,00 899,72 225,00
Năm
Diện tích rừng trồng (1000 ha)
Sản lượng gỗ khai thác (1000 m3)
Tốc độ tăng trưởng (%)
GTSX theo giá so sánh 1994,2010 (tỷ đồng)
Bảng 4: Giá trị sản xuất, diện tích rừng 2002-2013
1920,0 2504,0 6107,6 1,56 2002
2090,0 2435,8 6174,8 1,10 2003
2219,0 2627,8 6242,4 1,09 2004
2889,0 2996,4 6315,6 1,17 2005
2486,0 3128,5 6408,4 1,47 2006
2551,0 3461,8 6603,1 3,04 2007
2770,0 3610,4 6786,0 2,77 2008
2920,0 3766,7 7043,2 3,79 2009
3083,0 4042,6 7365,0 4,57 2010
3229,7 4692,0 19822,6 5,90 2011*
- 5251,0 21136,0 6,60 2012*
Nguồn: [45], [69] (*: giá so sánh 2010)
- 5608,0 22413,0 6,04 2013*
HS
2000
2001
2002
2003
Bảng 5: Giá trị xuất khẩu thủy sản phân theo nhóm hàng
2006
0301
19,6
1,0
5,3
44,9
26,2
30,5
4,1
0302
30,7
62,8
71,5
76,8
69,7
31,3
37,6
Trước WTO Cá và động vật giáp xác, thân mềm Cá tươi hoặc ướp lạnh 0303 Cá đông lạnh 0304 Cá filê 0305 Cá sấy khô
98,6 43,1 48,7
125,6 60,4 78,5
170,0 96,0 84,4
118,9 138,1 52,2
121,5 300,2 48,2
67,6 515,1 52,3
91,5 954,3 70,8
0306
840,4 1047,1 1187,2 1369,0
1362,6 1408,1 1421,0
0307
378,5
360,4
320,1
274,8
269,5
332,9
375,8
1604
6,1
27,3
32,2
47,2
58,3
86,2
114,1
1605
12,9
40,9
63,8
74,7
146,6
220,9
281,9
Động vật giáp xác tươi hoặc ướp lạnh Động vật thân mềm tươi hoặc ướp lạnh Cá đã được chế biến Động vật giáp xác, thân mềm đã chế biến
Tổng Tỷ trọng hàng chế biến (%)
HS
1478,5 1816,4 2021,7 2199,6 5,5 2010
1,3 2007
3,8 2008
4,7 2009
2408,0 2732,5 3358,0 11,8 2013
11,2 2012
8,5 2011
0301
4,4
8,8
7,6
7,8
6,6
0302
32,3
27,8
37,3
59,8
73,4
88,4
107,9
Sau WTO Cá và động vật giáp xác, thân mềm Cá tươi hoặc ướp lạnh 0303 Cá đông lạnh 0304 Cá filê 0305 Cá sấy khô
156,2 100,6 1246,1 1833,8 1609,3 1805,6 84,2
81,4
73,7
58,7
165,4 2362,8 81,3
0306
1440,2 1406,2 1399,1 1622,4
1749,9
0307
402,8
434,3
375,5
390,8
503,6
1604
155,6
198,0
175,0
212,5
281,2
1605
294,5
365,4
421,4
652,7
849,4
Động vật giáp xác tươi hoặc ướp lạnh Động vật thân mềm tươi hoặc ướp lạnh Cá đã được chế biến Động vật giáp xác, thân mềm đã chế biến
Tổng
Tỷ trọng hàng chế biến (%)
3763,4 4510,1 4255,3 5016,9 17,3
12,0
12,7
14,2
6112,4 6088,5 6700,0
18,6
Nguồn: [43]; [45], [69]
Đơn vị: triệu USD 2005 2004
Bảng 6: Chỉ số bảo hộ hữu hiệu ERP và danh nghĩa NPR
Đơn vị: %
2005
2006
2007
2008
2009
TT Ngành I. Tỉ lệ bảo hộ hữu hiệu ERP 1 2 3 4 5 6
0,228 0,046 -0,010 0.104 0.275 -0.005
0.220 0.054 -0.025 0.086 0.321 -0.047
0.213 0.070 -0.003 0.112 0.098 0.000
0.206 0.050 -0.021 0.087 0.299 -0.037
0.130 0.061 -0.032 0.081 0.344 -0.070
7
0.159
0.273
0.237
0.256
0.295
Thóc Cây hàng năm khác Cao su mủ khô Cà phê nhân xô Chè lá và chè búp tươi Cây lâu năm khác Thịt chế biến và bảo quản; các sản phẩm từ thịt Rau, quả chế biến và bảo quản Sữa và các sản phẩm từ sữa
8 9 10 Gạo 11 Đường 12 Cà phê đã qua chế biến II. Tỉ lệ bảo hộ danh nghĩa NPR 1 2 3 4 5 6
0.427 0.110 -2.333 0.060 0.291 0.146 0.031 0.010 0.068 0.189 0.019
0.618 0.246 -1.145 0.041 0.473 0.141 0.034 0.010 0.081 0.231 0.020
0.403 0.129 1.223 0.581 0.256 0.137 0.042 0.010 0.069 0.075 0.019
0.573 0.229 -1.080 0.039 0.436 0.132 0.032 0.009 0.075 0.214 0.019
0.673 0.266 0.194 0.044 0.520 0.086 0.037 0.010 0.087 0.251 0.017
7
0.031
0.051
0.048
0.047
0.054
Thóc Cây hàng năm khác Cao su mủ khô Cà phê nhân xô Chè lá và chè búp tươi Cây lâu năm khác Thịt chế biến và bảo quản; các sản phẩm từ thịt Rau, quả chế biến và bảo quản Sữa và các sản phẩm từ sữa
8 9 10 Gạo 11 Đường 12 Cà phê đã qua chế biến
0.132 0.062 0.033 0.033 0.188
0.184 0.117 0.071 0.033 0.294
0.130 0.083 0.154 0.171 0.171
0.171 0.109 0.067 0.031 0.272
0.200 0.126 0.077 0.035 0.321
Nguồn: [4]
của nông sản xuất khẩu
2006
2005
Năm
2008
2009
I. Tỷ lê bảo hộ danh nghĩa NRP (t) (%)
Gỗ tròn (gỗ khai thác)
0,05
0,07
0,04
0,07
0,08
Gỗ (đã qua chế biến) và các sản phẩm từ gỗ
1,39
1,08
3,3
1,01
1,15
Giường, tủ, bàn, ghế
16,18
13,33
13,12
13,01
13,34
Sản phẩm lâm nghiệp khác; Dịch vụ lâm
0,33
0,36
0,36
0,38
0,36
nghiệp, Trồng rừng và chăm sóc rừng
II. Tỷ lệ bảo hữu hiệu ERP(%)
Gỗ tròn (gỗ khai thác)
-0,88
-0,73
-0,85
-0,67
-0,75
Gỗ (đã qua chế biến) và các sản phẩm từ gỗ
0,89
5,76
0,83
0,97
1,44
Giường, tủ, bàn, ghế
27,73
25,78
27,12
27,64
33,6
Sản phẩm lâm nghiệp khác; Dịch vụ lâm
-0,01
0
-0,05
0,07
-0,05
nghiệp, Trồng rừng và chăm sóc rừng
Nguồn: [4]
Bảng 7: Chỉ số ERP, NPR lâm nghiệp 2007