ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

PHÙNG VĂN DŨNG

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

PHÙNG VĂN DŨNG

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) Ngành: Kinh tế Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 62 31 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Đình Long 2. TS. Nguyễn Mạnh Hùng

Hà Nội - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,

chưa từng công bố. Kết quả nghiên cứu là trung thực.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình trước các quy

định của Nhà trường và Pháp luật.

Hà Nội, ngày 16 tháng 9 năm 2014

Tác giả luận án

Phùng Văn Dũng

Trang

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt ........................................................................................... i

Danh mục các bảng .................................................................................................. iii

Danh mục các biểu đồ, đồ thị ................................................................................... iv

MỞ ĐẦU... ................................................................................................................ 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ............................................................ 6

1.1. Những lý thuyết và nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ................................ 6

1.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của hội nhập KTQT .................................... 10

1.3. Những vấn đề cần nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ..... 23

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN

NÔNG NGHIỆP SAU WTO ................................................................ 25

2.1. Nông nghiệp và phát triển nông nghiệp ............................................................ 25

2.1.1. Nông nghiệp và vai trò của sản xuất nông nghiệp ......................................... 25

2.1.2. Phát triển nông nghiệp ................................................................................... 31

2.2. WTO và các Hiệp định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp ........................... 48

2.2.1. Vai trò, nguyên tắc hoạt động của WTO ....................................................... 48

2.2.2. Các Hiệp định của WTO về nông nghiệp và những cam kết ........................ 53

2.2.3. Những cơ hội và thách thức đối với phát triển nông nghiệp khi thực hiện các

cam kết với WTO ........................................................................................... 60

2.3. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước ..................................... 62

2.3.1. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở Hà Lan ............................................ 62

2.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển nông nghiệp ............................. 64

2.3.3. Kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp của Thái Lan .................................. 66

2.3.4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................... 68

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM SAU

KHI GIA NHẬP WTO ......................................................................... 71

3.1. Rà soát việc thực hiện cam kết với WTO và điều chỉnh chính sách nông

nghiệp của Việt Nam ...................................................................................... 71

3.1.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO ............................................. 71

3.1.2. Rà soát việc thực hiện cam kết với WTO về lĩnh vực nông nghiệp .............. 75

3.1.3. Điều chỉnh chính sách nông nghiệp ............................................................... 82

3.2. Thực trạng phát triển ngành nông nghiệp sau WTO ........................................ 96

3.2.1. Tăng trưởng ngành nông nghiệp ................................................................... 96

3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp ...................................................... 108

3.2.3. Đầu tư và áp dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp ........................ 113

3.2.4. Tập trung kinh tế và liên doanh, liên kết trong nông nghiệp ....................... 118

3.2.5. Thực trạng về năng lực cạnh tranh .............................................................. 124

3.2.6. Hạ tầng phục vụ cho phát triển nông nghiệp ............................................... 130

3.3. Đánh giá chung về phát triển nông nghiệp của Việt Nam sau WTO ............. 131

3.3.1. Những thành tựu .......................................................................................... 131

3.3.2. Những hạn chế ............................................................................................. 133

3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong phát triển nông nghiệp ............................. 136

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT

NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ĐẾN NĂM 2025 .......................... 141

4.1. Xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới .............................................. 141

4.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp Việt Nam ................................................. 144

4.2.1. Phát triển nông nghiệp theo hướng “phát triển bền vững” .......................... 144

4.2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh là đòi hỏi của phát triển nông nghiệp ......... 145

4.2.3. Hình thành mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị ngành hàng trong

phát triển nông nghiệp .................................................................................. 147

4.2.4. Tăng cường áp dụng khoa học và công nghệ trong phát triển nông nghiệp 149

4.2.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong phát triển

nông nghiệp .................................................................................................. 150

4.3. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, hiệu quả và

tăng giá trị gia tăng ....................................................................................... 151

4.3.1. Nhóm giải pháp chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp .................. 151

4.3.2. Nhóm giải pháp đẩy mạnh áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến đồng bộ

vào sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ nông lâm thủy hải sản tạo đột

phá mới trong phát triển nông nghiệp .......................................................... 157

4.3.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tham gia chuỗi giá trị

nông sản và năng lực tổ chức thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp ...... 161

4.3.4. Nhóm chính sách giải quyết mối quan hệ nông nghiệp - nông dân - nông

thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững ................................................ 164

4.3.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hệ thống chính

sách phù hợp với WTO ................................................................................ 166

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 170

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................................................... 172

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 173

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Đầu tư toàn diện

Hiệp định về Chống bán Phá giá

Ngân hàng phát triển Châu Á Khu vực Mậu dịch Tự do Asean Khu vực Mậu dịch Tự do Asean - Ấn Độ Hiệp định Thương mại hhoá Asean - Ấn độ

Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Asean - Nhật bản Hiệp định thương mại tự do Asean - Korean Tổng lượng hỗ trợ tính gộp

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á Diễn đàn hợp tác Á-Âu An sinh xã hội Hiệp định thương mại hàng hoá trong ASEAN

Hiệp định về Nông nghiệp Chuyên môn hóa Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa

Doanh nhiệp nhà nước Đô thị hóa Đồng bằng sông Cửu Long Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu Hiệp định đối tác kinh tế

Chỉ số tỷ lệ bảo hữu hiệu

Liên minh châu Âu

Đầu tư trực tiếp nước ngoài Hiệp định thương mại tự do

Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại Tổng sản phẩm quốc nội

Chữ viết tắt Nguyên nghĩa AANZFTA Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do Asean – Úc, Newzealand ACFTA Hiệp định thương mại tự do Asean – China ACIA AD ADB AFTA AIFTA AITIG AJFTA AKFTA AMS APEC ASEAN ASEM ASXH ATIGA AoA CMH CNH-HĐH DNNN ĐTH ĐBSCL EFTA EPA ERP EU FDI FTA GATT GDP GTSX Giá trị sản xuất

i

Hợp tác xã Quỹ Nông nghiệp và Phát triển quốc tế Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thế giới Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Quy định về IUU của thị trường EU Kinh tế quốc tế

Nền kinh tế phi thị trường Các Tổ chức phi chính phủ Chỉ số tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa

HTX IFAD IUCN IMF ITO Tổ chức Thương mại Quốc tế IUU KTQT MFN Đãi ngộ Tối huệ quốc (Most Favoured Nation) MUTRAP Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên NLTS Nông lâm thủy sản NME NGOs NPR PTNN Phát triển nông nghiệp R&D RCA SCM SG SPS TBT TPP TTKT TTH TRIPS

Nghiên cứu và phát triển Chỉ số lợi thế cạnh tranh Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng Hiệp định về Tự vệ Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch Hiệp định về các Rào cản Kĩ thuật đối với Thương mại Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình dương Tập trung kinh tế Tập trung hóa Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ Hạn ngạch mức thuế quan

Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật bản

Dự án phát triển hàng nông sản

TRQ UNCTAD Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc UPEP Chương trình Môi trường Liên hợp quốc VJFTA VCCI WB WTO WWF Ngân hàng Thế giới Tổ chức Thương mại thế giới Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên

ii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang Bảng

Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế của các nước Đông Nam Á 73

Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam 73

Bảng 3.3: Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế (theo giá thực tế) 75

Bảng 3.4: Cơ cấu lao động nông lâm thủy sản 110

Bảng 3.5: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp 111

Bảng 3.6: Cơ cấu giá trị sản xuất lâm nghiệp 112

Bảng 3.7: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy hải sản 113

Bảng 3.8: Vốn đầu tư toàn nền kinh tế và ngành nông nghiệp 114

Bảng 3.9: GTSX trên 1ha đất trồng trọt và mặt nước nuôi trồng thủy sản 118

Bảng 3.10: Trang trại trong ngành nông nghiệp 120

Bảng 3.11: Chỉ số RCA của một số ngành hàng nông sản xuất khẩu 125

Bảng 3.12: Chỉ số RCA hàng gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ XK 127

Bảng 3.13: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy hải sản 128

iii

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ

Biểu đồ: Trang

Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp 97

Biểu đồ 3.2: GDP ngành nông nghiệp 2000 - 2013 97

Biểu đồ 3.3: Tốc độ tăng trưởng GTSX nông nghiêp, lâm nghiệp... 98

Biểu đồ 3.4: Giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản 2000-2013 99

Biểu đồ 3.5: Cán cân thương mại chung và thươg mại NN 100

Biểu đồ 3.6: Giá trị và lượng xuất khẩu gạo giai đoạn 2001-2012 102

Biểu đồ 3.7: Giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ 2000-2013 104

Biểu đồ 3.8: Kim ngạch nhập khẩu hàng thủy sản 106

Biểu đồ 3.9: Kim ngạch nhập khẩu hàng thủy sản 2000-2013 107

Biểu đồ 3.10: Cơ cấu giá trị gia tăng ngành NN, LN, TS 108

Biểu đồ 3.11: Chuyển dịch cơ cấu GTSX ngành nông nghiệp 109

Biểu đồ 3.12: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gỗ từ 2002 - 2012 126

Đồ thị:

Đồ thị 3.1: Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng nông sản 101

Đồ thị 3.2: Giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ 2002 - 2011 103

Đồ thị 3.3: Chỉ số lợi thế so sánh hữu hiệu RCA thủy sản 129

iv

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, hội

nhập kinh tế đã trở thành đòi hỏi khách quan đối với sự phát triển của các nền

kinh tế, các quốc gia, làm thế nào để có thể kết hợp và sử dụng tốt nguồn lực

trong nước và quốc tế luôn là vấn đề lớn đối với từng quốc gia. Đại hội toàn

quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: Toàn cầu hoá kinh

tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa

thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau. Nghị

quyết Trung ương 07 - NQ/TƯ ngày 27 tháng 11 năm 2001, Bộ chính trị khẳng

định, mục tiêu hội nhập của Việt Nam là: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

(KTQT) nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ tiên tiến,

kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước...

Năm 2007, Việt Nam chính thức là thành viên của WTO, chính sách của

Nhà nước đối với khu vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn cần được đổi

mới theo các định chế của WTO. Tuy nhiên, những quy định của WTO cho

thấy nông nghiệp là lĩnh vực chịu sự tác động lớn từ bên ngoài khi chúng ta

thực hiện các cam kết với WTO; do trước đó, những hỗ trợ của nhà nước cho

nông nghiệp là không đáng kể.

Cùng với quá trình hội nhập KTQT, công nghiệp hoá và hiện đại hoá

(CNH và HĐH), nông nghiệp nước ta bộc lộ những khiếm khuyết: Nông

nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần,

sức cạnh tranh của hàng nông sản còn thấp, chưa phát huy được lợi thế của nền

nông nghiệp nhiệt đới; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và đổi mới cách

thức sản xuất còn chậm, phổ biến là sản xuất nhỏ. Công nghiệp, dịch vụ nông

thôn phát triển chậm chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao

động nông nghiệp và nông thôn. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu

1

hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm... Ðời

sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn thấp, chênh lệch giàu nghèo

giữa thành thị, nông thôn và giữa các vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo cao. [17]

Trong thời gian qua có các nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về nông

nghiệp Việt Nam trong quá trình CNH và HĐH, ảnh hưởng của hội nhập

KTQT đến nông nghiệp… Các nghiên cứu đều chỉ ra: Sản xuất nông nghiệp

của Việt Nam kém bền vững, hiệu quả thấp, ô nhiễm môi trường ngày càng

tăng. Năng lực cạnh tranh và tham gia chuỗi giá trị hàng nông sản toàn cầu còn

thấp; sản xuất nhỏ vẫn là phổ biến và sự hợp tác, liên kết, liên doanh trong sản

xuất chậm phát triển. Đổi mới cơ chế, chính sách không theo kịp với hội nhập

nên vốn nền nông nghiệp Việt Nam đã yếu thế lại càng yếu thế hơn…

Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào làm rõ nền nông nghiệp Việt Nam

phát triển như thế nào sau khi gia nhập WTO? Việt Nam phải làm gì để nền

nông nghiệp vừa tận dụng tốt cơ hội, vừa vượt qua thách thức khi thực hiện

các cam kết với WTO để phát triển đang là câu hỏi lớn và cấp thiết. Với lý do

đó, tác giả lựa chọn "Phát triển nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập Tổ

chức Thương mại thế giới (WTO)" làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ

chuyên ngành Kinh tế chính trị.

2. Mục đích nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu chung

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển của nền nông nghiệp

Việt Nam. Đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển

nông nghiệp Việt Nam có hiệu quả và bền vững trong quá trình thực hiện các

cam kết với WTO.

2.2. Mục đích nghiên cứu cụ thể

- Nghiên cứu cơ sở lý luận chung, đưa ra các tiêu chí về đánh giá sự phát

triển nông nghiệp sau WTO.

2

- Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về phát triển nông nghiệp sau WTO.

- Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam sau WTO.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng

hiệu quả và bền vững trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu phát triển nông nghiệp Việt Nam sau

WTO và tác động của WTO đến phát triển nông nghiệp, những thành tựu, yếu

kém và nguyên nhân. Bao gồm tăng trưởng, hiệu quả của sản xuất nông

nghiệp, xuất nhập khẩu, năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị,

chuyển dịch cơ cấu và tái cấu trúc nông nghiệp, vấn đề thu nhập và việc làm

của nông dân…

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu nội dung phát triển nông

nghiệp Việt Nam sau WTO nhưng có so sánh với trước khi gia nhập WTO ở

những điểm cần thiết để xem xét tác động của WTO đến phát triển nông

nghiệp. (Luận án coi gia nhập WTO như là mốc thời gian để nghiên cứu, bởi

ngoài cam kết WTO Việt Nam còn có những cam kết khu vực, đa phương và

song phương; tuy nhiên cam kết của WTO là trục nội dung và khung pháp lý

để cho cam kết khác thêm sâu sắc hơn; do đó rất khó bóc tách đâu là tác động

của WTO và đâu là tác động của các cam kết khu vực, đa phương và song

phương đến phát triển nông nghiệp). Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tề về phát

triển nông nghiệp sau WTO. Nghiên cứu chính sách nông nghiệp Việt Nam sau

WTO. Ngoài ra vấn đề nông dân, nông thôn chỉ được đề cập hạn chế ở chừng

mực nhất định.

3

- Thời gian được lựa chọn nghiên cứu từ năm 2000 đến nay, đề xuất

phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiệu

quả và bền vững đến năm 2025 và những năm tiếp theo.

4. Phương pháp nghiên cứu

Việt Nam hội nhập KTQT ngày càng sâu rộng, cùng với việc thực hiện

các cam kết WTO, còn phải thực hiện những cam kết FTA khu vực, đa

phương, song phương đều có liên quan và tác động đến nông nghiệp; nên rất

khó bóc tách đâu là tác động do WTO, đâu do các cam kết khác tác động đến

phát triển nông nghiệp.

Do vậy luận án sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và

nghiên cứu định lượng để đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết

WTO đến phát triển nông nghiệp. Nghiên cứu định định tính giúp rà soát các

cam kết WTO có liên quan đến ngành nông nghiệp, mặt khác xác định được

những tác động có thể xảy ra và nguyên nhân của những tác động đó. Những

phân tích định lượng như: phương pháp hệ thống, tổng hợp, thống kê, so sánh,

phương pháp chỉ số, kết hợp các phương pháp phân tích thực tiễn nhằm kiểm

định tác động của việc thực hiện các cam kết WTO đến phát triển nông nghiệp,

đánh giá mức độ và dự báo xu thế.

Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích để đánh giá những quan

điểm của các học giả và các trường phái lý luận về vấn đề nghiên cứu, rút ra

những vấn đề đã được nghiên cứu đầy đủ, những vấn đề cần được bổ sung và

những nghiên cưú mới.

Chương 2: Sử dụng phương pháp hệ thống hóa và phân tích phát triển

nông nghiệp dưới tác động của WTO; rút ra nội dung của PTNN, tiêu chí đánh

giá và khung phân tích; kinh nghiệm trong việc phát huy thời cơ và hạn chế

thách thức đến phát triển nông nghiệp.

4

Chương 3: Sử dụng các phương pháp phân tích thống kê, tổng hợp,

logic, sơ đồ, biểu đồ, phương pháp chỉ số, phương pháp so sánh…; rà soát

những cam kết và việc thực thi cam kết; nhằm làm rõ tác động của WTO đến

phát triển nông nghiệp, thời cơ và thách thức; thành tựu, yếu kém và nguyên

nhân của nông nghiệp Việt Nam sau WTO.

Chương 4: Sử dụng phương pháp khái quát hóa rút ra xu hướng phát

triển, đề xuất định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu

quả và bền vững.

5. Những đóng góp khoa học của luận án

- Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá phát triển nông nghiệp.

- Sử dụng bộ tiêu chí để đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp Việt

Nam sau WTO.

- Đề xuất các gợi ý chính sách trên cơ sở xác định những cơ hội, thách

thức khi thực hiện các cam kết WTO và thực trạng phát triển nông nghiệp Việt

Nam sau WTO

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, tóm tắt, bảng các chữ viết tắt, danh mục tài liệu

tham khảo, phụ lục, luận án có kết cấu gồm 4 chương và 12 tiết:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới phát triển nông

nghiệp.

Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển nông

nghiệp sau WTO.

Chương 3: Thực trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam sau WTO.

Chương 4: Quan điểm và giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam

trong thời gian tới.

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, hội nhập

KTQT nói chung và tham gia WTO nói riêng đã trở thành đòi hỏi khách quan

đối với sự phát triển của các nền kinh tế, các quốc gia. Do vậy, đã có nhiều

công trình nghiên cứu của các tổ chức, các học giả kinh tế nghiên cứu về tác

động của hội nhập KTQT và gia nhập WTO, tìm các biện pháp khắc phục hạn

chế và thách thức, phát huy thời cơ và ưu thế làm lợi cho quốc gia, doanh

nghiệp trong quá trình hội nhập. Đặc biệt Việt Nam là một trong nhóm các

nước đang phát triển và chậm phát triển, để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại

hóa (CNH, HĐH) chủ yếu dựa trên phát triển nông nghiệp,. Do vậy luận án đề

cập đến các công trình nghiên cứu có liên quan đến phát triển nông nghiệp và

ảnh hưởng của hội nhập KTQT đến phát triển nông nghiệp. Có thể phân các

công trình nghiên cứu thành hai nhóm: (i) Các nghiên cứu đi sâu về những lý

thuyết phát triển nông nghiệp, CNH, HĐH. (ii) Các nghiên cứu đi sâu về ảnh

hưởng của hội nhập KTQT, những thời cơ và thách thức, cũng như tìm giải

pháp để hạn chế các khó khăn phát huy lợi thế để nâng cao hiệu quả trong quá

trình hội nhập KTQT và tham gia WTO.

1.1. Những lý thuyết và nghiên cứu về phát triển nông nghiệp

Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất có những nét đặc thù, là ngành sản

xuất gắn với sinh vật, bị chi phối bởi quy luật sinh học, các điều kiện ngoại

cảnh (đất đai, thời tiết - khí hậu) và là ngành sản xuất ra sản phẩm tất yếu để xã

hội tồn tại và phát triển, vì thế từ lâu rất được các nhà kinh tế quan tâm và được

đề cập nhiều trong các lý thuyết kinh tế, nhất là trong các mô hình phát triển

kinh tế của các nước chậm phát triển hiện đang tiến hành CNH, HĐH. Để thấy

rõ các thuyết về phát triển nông nghiệp theo các trường phái chính sau:

6

- Trường phái đề cao vai trò của nông nghiệp, coi nông nghiệp là cơ sở

hay tiền đề cho quá trình công nghiệp hoá. Đại diện cho trường phái lý thuyết

này có thể kể đến Mellor và Johnston, và sau nữa là nhà kinh tế học nổi tiếng

người Mỹ Simon Kuznets. Trong nghiên cứu “The Role of Agriculture in

Economic Development” (Vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế) vào

năm 1961, Johnston và Mellor cho rằng, việc xây dựng một nền nông nghiệp

vững mạnh và năng động sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy công nghiệp

phát triển và sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Theo hai học giả này,

nông nghiệp có 5 vai trò quan trọng: 1) cung cấp lương thực, thực phẩm cho

nhu cầu trong nước; 2) xuất khẩu nông sản để thu ngoại tệ; 3) tạo nguồn lao

động cho khu vực công nghiệp; 4) mở rộng thị trường nội địa cho sản phẩm

công nghiệp và 5) tăng nguồn tiết kiệm ở trong nước để tạo vốn cho phát triển

công nghiệp. [88]

Cùng với quan điểm của Johnston và Mellor, năm 1965, Kuznets đã tiếp

tục khẳng định sự đóng góp của nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế thông qua

trao đổi buôn bán sản phẩm với các khu vực khác nhau ở trong và ngoài nước,

cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, vốn, thị trường cho quá trình

CNH, HĐH. Tất cả những điều này được ông thể hiện trong tác phẩm

“Economic Growth and Structure” (Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu) [84].

Các tác giả thuộc trường phái đề cao vai trò của nông nghiệp trong quá

trình phát triển. Họ cho rằng, nông nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong

nền kinh tế. Ở đây, nông nghiệp được đề cao, nhưng xét về thực chất đó là sự

khai thác cạn kiệt các nguồn lực của nông nghiệp để chuẩn bị tiền đề phục vụ

cho sự phát triển công nghiệp hoá, đô thị hoá (CNH, ĐTH).

Theo chúng tôi, hiện tại và trong giai đoạn tới, nông nghiệp có vị trí và

vai trò nhất định. Bởi vì, với xu thế toàn cầu hoá, nếu dựa quá nhiều vào sản

xuất nông nghiệp theo thuyết này sẽ khó đảm bảo cho việc phân bổ nguồn lực

7

một cách hiệu quả. Mặc dù vậy, ở một mức độ nhất định nào đó, thuyết này

vẫn còn có giá trị đối với những nước đang trên con đường tiến tới CNH, HĐH

mà có xuất phát điểm là nông nghiệp.

- Trường phái phát triển hài hoà giữa nông nghiệp và công nghiệp. Đại

diện cho trường phái này là E. Schumacher và một số học giả người Mỹ như

Colander, Roy Cohn, Mark Morlock và Robert Stonebreaker. Trong tác phẩm

“Small is beautiful” (nhỏ là đẹp), E. Schumacher cho rằng, phải chú ý thoả

đáng tới phát triển nông nghiệp, nhất là đối với những nước đang phát triển.

Schumacher đề xuất một quan điểm sâu rộng hơn: đảm bảo cho con người tiếp

xúc với thiên nhiên sinh động; nhân bản hoá và nâng cao chất lượng của nơi

sinh sống rộng lớn hơn dành cho con người; cung cấp lương thực, thực phẩm

và các nguyên liệu cần thiết khác cho việc đảm bảo một cuộc sống đầy đủ và

Về cơ bản, Schumacher đồng tình với quan điểm công nghiệp hoá, song

hợp lý.

ông không tán thành thực hiện công nghiệp hoá bằng cách “bóp nặn” mọi

nguồn lực của nông nghiệp; cần kết hợp hài hoà và phát triển cân đối giữa công

nghiệp và nông nghiệp, phải dùng những thành quả của công nghiệp để phục

vụ lại nông nghiệp làm cho nông nghiệp phát triển bền vững hơn.

Quan điểm phát triển cân đối và hài hoà giữa nông nghiệp và công

nghiệp còn cho rằng, phát triển nông nghiệp cần phải đặt trong xu thế hội nhập

kinh tế toàn cầu; yếu tố cạnh tranh cần được chú trọng và tăng cường trên cơ sở

nâng cao năng suất lao động; nâng cao tính tự chủ của nông dân trong quá trình

ra quyết định sản xuất; đảm bảo chuyển dần nông nghiệp truyền thống sang

nông nghiệp hiện đại; kết hợp phát triển công nghiệp gắn với nông nghiệp và

các ngành công nghiệp khác, nâng cao nguồn lực con người,... Quan điểm này

coi trọng đầu tư cho nông nghiệp và đầu tư vào nguồn nhân lực. Thuyết này

nhấn mạnh tới phát triển bền vững của nền kinh tế, nhất là việc sản xuất nhiều

8

hay ít hàng hoá không quan trọng bằng mục tiêu làm cách nào để sản xuất có

hiệu quả nhất xét cả về lơị ích xã hội lâu dàì. [89]

Như vậy có thể thấy, các quan điểm hay các chủ thuyết về nông nghiệp,

thường thay đổi theo thời gian và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của

mỗi quốc gia. Trường phái thứ hai quan tâm và đề cập nhiều hơn đến môi

trường cũng như sự phát triển nông nghiệp bền vững. Có thể nói rằng hầu hết

các lý thuyết của các nhà kinh tế học trước đây đều không thuần túy tập trung

nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp, mà đều đặt nông nghiệp trong mối quan hệ

với các ngành, các lĩnh vực khác, trước hết là với công nghiệp.

- Lý thuyết về phát triển bền vững: Thuật ngữ “phát triển bền vững” hay

“phát triển bền lâu” được xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ XX nhưng

mãi đến đầu thập niên 80 “phát triển bền vững” mới được Hiệp hội bảo tồn

thiên nhiên và tài nguyên thế giới (IUCN), Chương trình Môi trường Liên hợp

quốc (UPEP) và Quỹ bảo vệ động vật hoang dã quốc tế (WWF) đã được sử

dụng trong “Chiến lược bảo tồn thế giới” đã đề xuất nội dung “phát triển bền

vững” là: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển

kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động

đến môi trường sinh thái”. Trong báo cáo Brundland: “Phát triển bền vững là

sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả

năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai”. Từ đây, khái niệm “Phát triển bền

vững” trở thành khái niệm chìa khóa giúp các quốc gia xây dựng quan điểm,

định hướng, giải pháp tháo gỡ trong các vấn đề phát triển, chủ động điều chỉnh

(tái cơ cấu) nền kinh tế trong đó có nông nghiệp. Đó là sự phát triển kinh tế

dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng những quá trình sinh thái cơ

bản, sự đa dạng sinh học và hệ thống trợ giúp của tự nhiên đối với cuộc sống

con người, động vật và thực vật. Qua thời gian khái niệm này không chỉ dừng

lại ở nhân tố sinh thái mà còn mở rộng thêm nội hàm vào nhân tố xã hội, con

9

người, đặc biệt là bình đẳng xã hội. Như vậy phát triển bền vững là sự kết hợp

hài hòa giữa mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.

Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về môi và phát triển

bền vững họp tại Johannesburg, Nam Phi, trong các văn kiện nêu: Phát triển

bền vững là sự phát triển không những chỉ đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà

còn không làm ảnh hưởng xấu, cản trở đến sự phát triển của các thế hệ tương

lai, là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt

của sự phát triển, gồm: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo

vệ môi trường. Như vậy đã xác định ba trụ cột của phát triển bền vững đó là:

bền vững về kinh tế, bền vững về mặt xã hội và bền vững về môi trường sinh

thái. Các tiêu chí chủ yếu đánh giá sự bền vững là tăng trưởng kinh tế ổn định;

thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm,

hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; nâng cao đời sống và chất lượng

môi trường sống. Trong hội nhập KTQT các vấn đề phát triển bền vững cũng

phải được quan tâm nhằm giải quyết những khía cạnh mang tính toàn cầu của

phát triển bền vững như vấn đề nghèo đói và khoảng cách giầu nghèo, khí thải

và biến đổi khí hậu… [82]

1.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của hội nhập KTQT

Theo tìm hiểu của tác giả, liên quan đến việc nghiên cứu các vấn đề hội nhập

KTQT và gia nhập WTO đã có một số đề tài, nghiên cứu, cụ thể như sau:

Hội nhập quốc tế về thực chất đã có từ rất sớm, tuy nhiên khái niệm về hội

nhập kinh tế được Béla Balassa đề xuất từ thập niên 1960, theo ông hội nhập

kinh tế là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau và

được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách [81].

Nguyễn Xuân Thắng, trong tác phẩm “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập

kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”:

Tác giả nói rõ hơn hội nhập KTQT là quá trình chủ động thực hiện đồng thời

10

hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu

vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa

nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế

kinh tế khu vực và toàn cầu [41].

Theo TS. Phạm Quốc Trụ, Học viện Ngoại giao, trong bài viết “Thực

trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm qua và triển vọng

những năm tới”, đã đề cập một số khía cạnh về lý luận và thực tiễn của khái

niệm hội nhập KTQT, tập trung vào vấn đề định nghĩa và xác định bản chất,

nội hàm, các hình thức và tính chất của hội nhập KTQT; phân tích tính tất yếu

và hệ lụy của hội nhập KTQT như là một xu thế lớn của thế giới hiện đại. Hội

nhập KTQT là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu

vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo

những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu

vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu (Hội nhập trong khuôn khổ WTO

là hình thức hội nhập kinh tế-thương mại toàn cầu). Hội nhập kinh tế có thể

diễn ra theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế

được chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp đến cao như sau:(i) Thỏa thuận

thương mại ưu đãi (PTA), (ii) Khu vực mậu dịch tự do (FTA), (iii) Liên minh

thuế quan (CU), (iv) Thị trường chung (hay thị trường duy nhất), (v)Liên minh

kinh tế-tiền tệ.

Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của thế giới, cũng đồng thời chỉ ra

con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn

cầu hóa. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết định bởi tác động tích cực và

những tác động tiêu cực mà hội nhập KTQT tạo ra cho các nước. Tác giả đề

cập tác động của hội nhập kinh tế nói chung, còn tác động của hội nhập đến

lĩnh vực nông nghiệp chưa được đề cập [47].

11

Bộ ngoại giao Việt Nam, trong tác phẩm “Việt Nam hội nhập kinh tế trong

xu thế toàn cầu hóa: Vấn đề và giải pháp” cho rằng trong các hình thức hội

nhập, hội nhập kinh tế là nền tảng hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững

của hội nhập trong các lĩnh vực khác (đặc biệt cho hội nhập về chính trị) nên

được các nước ưu tiên thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát

triển trong bối cảnh toàn cầu hóa [5].

GS. Cốc Nguyên Dương, trong tác phẩm “Trung Quốc 10 năm đầu thế

kỷ XXI: Phát triển và hợp tác” cho rằng: hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng

tất yếu không một quốc gia nào có thể cưỡng lại, chỉ có thể gia nhập trước hoặc

sau mà thôi. Gia nhập WTO sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc: vị thế

chính trị và kinh tế trên trường quốc tế tăng, thúc đẩy thương mại và thu hút

đầu tư nước ngoài, nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn, các nguồn lực xã hội

được phân bố hợp lý, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so

sánh, những ngành hàng có khả năng cạnh tranh sẽ phát triển, ngành yếu kém

bị đào thải [15].

Nguyễn Thị Hải Yến, trong tác phẩm “Xuất khẩu hàng nông sản ở Việt

Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”. Tác giả đã làm rõ vai trò của

xuất khẩu nông sản trong quá trình CNH, HĐH trong các nước đang phát triển;

khảo cứu, phân tích kinh nghiệm một số nước trên thế giới làm cơ sở kinh

nghiệm cho Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản; phân tích một cách

hệ thống vai trò, đặc điểm, thực trạng của xuất khẩu nông sản Việt Nam, thời

cơ, thách thức trong điều kiện hội nhập KTQT, từ đó đề xuất các nhóm giải

pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng nông sản Việt

Nam trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước và hội nhập KTQT. Tuy

nhiên những tác động cụ thể của WTO đến nông nghiệp mới đề cập những thời

cơ và thách thức trong xuất nhập khẩu nông sản còn những tác động khác chưa

được đề cập nhiều [51].

12

Nguyễn Thị Tươi, trong cuốn “Tác động của việc gia nhập WTO đến

phát triển nông nghiệp Việt Nam” Tác giả đưa ra những nhận xét ban đầu về

những cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam khi gia nhập WTO:

cam kết về mức thuế, về lộ trình cắt giảm thuế đối với hàng nông sản và trợ

cấp với nông nghiệp. Phân tích những tác động tích cực của việc gia nhập

WTO đối với sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam trong các lĩnh vực sản

xuất nông nghiệp, lưu thông và tiêu dùng. Chỉ ra những khó khăn, thách thức

và những tác động tiêu cực của ngành nông nghiệp nước ta khi gia nhập WTO.

Đưa ra và luận giải hệ thống các giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn,

hạn chế những tác động tiêu cực do việc gia nhập WTO gây ra cho ngành nông

nghiệp Việt Nam; hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước như

pháp luật về cạnh tranh, về chống độc quyền, chống bán pháp giá đối với thị

trường nông sản; cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực nông nghiệp. [49].

Bộ Công thương, trong khuôn khổ của “Dự án Hỗ trợ Thương mại đa

biên - MUTRAP”, đã có báo cáo “Tác động của cam kết mở cửa thị trường

trong WTO và các Hiệp định khu vực Thương mại tự do (FTA) đến hoạt động

sản xuất, thương mại của Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện cơ chế điều

hành xuất nhập khẩu giai đoạn 2011-2015”. Dự án đã đánh giá tác động sau 3

năm hội nhập WTO đến kinh tế Việt Nam trong đó có phần nhỏ về nông

nghiệp. Dự án sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích… trước và sau hội

nhập. Đặc biệt khi xét đến năng lực cạnh tranh của các ngành hàng, có một

phương pháp được sử dụng phổ biến để phân loại cấp độ cạnh tranh của từng

ngành hàng cụ thể, phân loại những ngành hàng có sức cạnh tranh và không có

sức cạnh tranh, dựa trên chỉ số lợi thế so sánh biểu hiện bằng chỉ số (RCA).

Chỉ số RCA của một ngành nào đó càng lớn, mức độ chuyên môn hóa của

ngành hàng đó trong một nền kinh tế trong nước so với mức độ chuyên môn

hoá của thế giới càng cao thể hiện rằng lợi thế so sánh của ngành hàng đó cũng

13

mạnh hơn. Chính vì vậy, chỉ số RCA qua thời gian sẽ cung cấp những thông tin

về sự thay đổi lợi thế so sánh của một ngành hàng trong nền kinh tế và sự cải

thiện trong cơ cấu xuất khẩu. RCA = (Eij/Eit)/(Enj/Ent), (E là xuất khẩu, i là

quốc gia, j là hàng hóa, n là tập hợp các nước, t là tập hợp các hàng hóa).

Chỉ số ERP cho biết ảnh hưởng ròng của các chính sách thương mại (bao

gồm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nếu trong tính toán có tính đến 2

yếu tố này) đến người sản xuất. Nói cách khác, chỉ số này tính toán tác động

của chính sách bảo hộ tới giá trị tăng thêm (là chênh lệch giữa doanh thu và chi

phí đầu vào) của một ngành. Cụ thể, chỉ số ERP đo lường phần trăm thay đổi

của mỗi đơn vị giá trị tăng thêm của một ngành nào đó dưới tác động của chính

sách bảo hộ thuế quan và phi thuế quan với mỗi đơn vị giá trị tăng thêm có thể

đạt được nếu không có những rào cản trên và tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu (ERP). Tuy

nhiên phần đánh giá về nông nghiệp chiếm phần nhỏ và chỉ đánh giá thương

mại và xuất khẩu nông sản [3].

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong khuôn khổ hỗ trợ của

Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO đã triển khai dự án “Đánh

giá tác động của việc thực hiện các cam kết WTO và khu vực đối với ngành

nông nghiệp và phát triển nông thôn”; triển khai từ 8/2012 đến 9/2013. Nội

dung của dự án: Đánh giá mức độ nhạy cảm của một số ngành hàng nông sản

của Việt Nam trước các cú sốc bên ngoài; phân tích, đánh giá tác động của hội

nhập đến hiệu quả hoạt động một số ngành hàng nông sản; đánh giá áp lực điều

chỉnh cơ cấu trong một số ngành hàng nông sản; nghiên cứu, đánh giá các vấn

đề sinh kế, giảm nghèo và doanh nghiệp nông thôn trong quá trình hội nhập.

Dự án chọn ba ngành hàng cá tra, sữa và đường để phân tích và dùng các mô

hình mô phỏng đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết WTO và khu

vực; với cú sốc từ bên ngoài, áp lực điều chỉnh cơ cấu…; đến hiệu quả sản

xuất, đến vấn đề sinh kế và giảm nghèo, tác động đến nông thôn trong những

14

năm tới và khuyến nghị chính sách. Tuy nhiên dự án chưa đề cập đến mô hình

phát triển nông nghiệp, những giải pháp phát huy lợi thế và khắc phục những

hạn chế của hội nhập KTQT đến nông nghiệp… [6].

Các nghiên cứu của các nhà kinh tế Trung Quốc về nông nghiệp trong

hội nhập WTO, cho rằng: Trước tiên xác định rõ quyền về đất đai; tăng đầu tư

và hỗ trợ cho nông nghiệp, khoa học công nghệ; đẩy nhanh đầu tư hạ tầng nông

nghiệp, nông thôn và cải thiện môi trường nông nghiệp; tăng đầu tư cho giáo

dục và đào tạo nghề nhằm không ngừng nâng cao kỹ năng và tay nghề cho

nông dân…; khẳng định cải cách và mở cửa mà khoảng cách giàu nghèo tăng

là thất bại. Đại diện là các nhà kinh tế thể hiện ở các công trình nghiên cứu sau:

GS. Cốc Nguyên Dương, Viện trưởng Viện nghiên cứu Phát triển Á Phi,

Trung tâm Nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc: Tình trạng “tam

nông” Trung Quốc: thành tựu, vấn đề và thách thức. Và GS. Lục Học Nghệ,

nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc:

“Nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc: biến đổi và phát triển”. Ở

Trung Quốc, nông dân bị coi là nhóm người yếu thế, thể hiện ở việc hiện nay

quyền tài sản ở nông thôn vẫn chưa rõ ràng, nông dân không có quyền bảo vệ

ruộng đất khoán, thậm chí nhà ở của mình. Bởi vì ruộng đất có thể bị trưng

dụng bất cứ lúc nào, nhà cửa của chính mình có thể bị di dời để giải phóng mặt

bằng. Bởi lẽ đất ở thuộc sở hữu tập thể, nông dân không có quyền đem ra thế

chấp để vay ngân hàng. Hai tác giả đã phân tích những thành tựu của Trung

Quốc về tam nông; đồng thời chỉ ra những tồn tại, khiếm khuyết của tam nông

ở Trung Quốc như: Nông nghiệp tăng trưởng chậm, phát triển kém bền vững,

sức cạnh tranh của hàng nông sản thấp, vệ sinh an toàn thực phẩm thấp… Về

cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm… Hai tác giả cho rằng việc phát

triển khu vực nông nghiệp và cải thiện đời sống người nông dân là nhiệm vụ

trọng tâm, nền tảng để đẩy mạnh CNH, HĐH và là tiền đề tạo điều kiện cho

15

nền kinh tế sớm bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại. Vì vậy, việc giải quyết

vấn đề về “tam nông” được đặt ở mức độ ưu tiên cao nhất.

TS. Lục Nghiên, Viện nghiên cứu Phát triển Á Phi, Trung tâm Nghiên

cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc: “Những vấn đề tồn tại trong giáo dục

nghề nghiệp nông thôn và đào tạo nông dân ở Trung Quốc”. Tác giả phân tích

thành tựu và những bất cập, khiếm khuyết trong đào tạo nghề trong nông thôn

và đào tạo nông dân của Trung Quốc trong giai đoạn vừa qua; đề xuất quan

điểm và hướng giải quyết để tạo ra sự phát triển hài hoà giữa hai khu vực. [38].

TS. Từ Vĩ, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Phát triển Á Phi, Trung tâm

Nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc: “Chuyển dịch sức lao động

dư thừa ở nông thôn và việc làm của nông dân Trung Quốc”. Tác giả phân

tích thực trạng lao động và việc làm ở khu vực nông nghiệp, nông thôn; làn

sóng di cư tự phát từ khu vực miền Tây kinh tế chậm phát triển sang khu vực

miền Đông và những vấn đề xã hội phát sinh; đề xuất quan điểm và hướng giải

quyết… [38].

TS. Jikun Huang, Giám đốc Trung tâm tư vấn Chính sách nông nghiệp

Trung Quốc, học viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc cho rằng, những

thành tựu to lớn mà nông nghiệp Trung Quốc gặt hái được đầu tiên phải nhắc

đến khoa học công nghệ. Trung Quốc đã đầu tư mạnh cho các hoạt động

nghiên cứu nông nghiệp, trong đó tập trung vào công nghệ truyền thống và

công nghệ sinh học để nâng cao chất lượng giống. Hệ quả của chính sách đầu

tư này là người nông dân được hưởng lợi từ việc tăng năng suất các cây trồng

chính của họ như lúa gạo, lúa mì và ngô [39].

Tiêu Xuân Dương, Bành Tính Lư trong tác phẩm “Thị trường và ngành

nghề hóa nông nghiệp”, các nhà kinh tế học Trung Quốc cho rằng ngành nghề

hóa nông nghiệp ở Trung Quốc thể hiện dưới năm hình thức chủ yếu sau đây:

(1) Công ty – nông hộ, công ty đóng vai trò đầu tàu, nông hộ đóng vai trò toa

16

tàu tạo thành một thực thể kinh tế từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ, sự liên kết

này được thể hiện bằng hợp đồng ràng buộc theo nguyên tắc lợi nhuận cùng

hưởng, rủi ro cùng chịu. (2) Hợp tác xã - nông hộ: các hợp tác xã (chủ yếu là

hợp tác xã dịch vụ) liên kết với đông đảo các nông hộ đảm nhận các khâu sản -

chế biến - tiêu thụ. (3) Hội kỹ thuật chuyên ngành nông nghiệp - nông hộ; Hội

cung cấp thông tin khoa học kỹ thuật, kỹ thuật sản xuất, tư liệu sản xuất, vận

chuyển, tiêu thụ, đưa nông dân tiếp cận thị trường. (4) Trang trại - nông hộ;

trang trại có thể do một hoặc nhiều hộ, hoặc các hợp tác xã, hoặc các công ty

hợp thành, hoạt động theo kiểu hình thành những ngành nghề chủ đạo, tiến tới

chuyên môn hóa, quy mô hóa. (5) Thị trường bán buôn chuyên ngành - nông

hộ; thị trường này hướng dẫn nông hộ điều chỉnh sản xuất theo nhu cầu của thị

trường, phục vụ các khâu trước, trong và sau sản xuất của nông hộ. Có thể thấy

rằng dù thể hiện dưới hình thức nào, nông hộ cũng được hướng dẫn, che chở,

giúp đỡ để khó xảy ra tình trạng được mùa thì rớt giá, được giá thì mất mùa

như ở một số nơi khác.

Về đổi mới chế độ ruộng đất: việc đổi mới này, theo các chuyên gia, phải

tuân thủ các nguyên tắc sau đây: 1) Phải coi ruộng đất là hàng hóa, có giá trị sử

dụng đặc biệt và giá trị, là yếu tố sản xuất chủ yếu nhất, cơ bản nhất trong sản

xuất nông nghiệp. Việc trao đổi hàng hóa này cũng phải tuân thủ nguyên tắc:

ngang giá thông qua tiền tệ. 2) Làm cho quyền sở hữu yếu đi, quyền sử dụng

tăng lên. Quyền sở hữu thuộc “nhóm dân thôn”; quyền sử dụng thuộc nông hộ.

3) Giảm bớt chức năng chính trị xã hội của ruộng đất, tăng cường sử dụng hiệu

quả sử dụng đất. 4) Phải có lợi cho kinh doanh quy mô lớn. Kinh doanh tiểu

nông đất đai manh mún, không phù hợp và là một cản trở đối với chế độ ngành

nghề hóa nông nghiệp. Do vậy, theo các học giả Trung Quốc “cần áp dụng chế

độ cổ phần ruộng đất, một loại hình hợp tác kinh tế nông nghiệp kiểu mới”.

Theo chế độ cổ phần ruộng đất thì “nông hộ ký kết với thôn hành chính hoặc

17

thôn tự nhiên, tập hợp ruộng đất khoán của mình dưới hình thức cổ phần, và

kinh doanh theo kiểu công ty”… [16].

Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn, trong tác phẩm “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp

nông thôn Việt Nam”: đã khẳng định về bản chất của phát triển nông nghiệp

nông thôn thực chất là quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn. Quá

trình này diễn ra khá thuận lợi ở các nước Tây Âu; sở dĩ như vậy, là do các

nước đó có thị trường tiêu thụ rộng lớn và nguồn cung cấp tài nguyên, lao động

của các nước thuộc địa; nông nghiệp có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ

thuật… Các ngành công nghiệp hóa nông thôn phát triển không bị công nghiệp

đô thị và công nghiệp nước ngoài cạnh tranh...[1].

TS. Đặng Kim Sơn, trong tác phẩm “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Việt Nam hôm nay và mai sau”, đã phân tích thực trạng nông nghiệp trong 20

năm đổi mới “trong suốt quá trình đổi mới, cơ cấu công - nông nghiệp - dịch

vụ cả nước chuyển đổi đúng theo quy luật theo hướng giảm dần nông nghiệp

và tăng công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp luôn làm tròn vai trò nền tảng cho

công nghiệp và dịch vụ phát triển”. Về tăng trưởng nông nghiệp, GDP nông

lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 4,2%/năm (1988-2007). Về chuyển dịch

cơ cấu, trong cơ cấu kinh tế chung nông nghiệp chỉ còn chiếm 20% GDP toàn

quốc, tuy nhiên trong nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp

và thủy sản tăng với tốc độ cao xong vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp. Tổ chức sản

xuất và dịch vụ trong nông nghiệp còn manh mún, sản xuất nhỏ vẫn là phổ

biến…[36].

Trong tác phẩm “Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông

dân trong quá trình công nghiệp hoá”, tác giả khẳng định “vai trò phát triển

nông nghiệp là tiền đề khởi động công nghiệp hoá và tăng trưởng nông nghiệp

nhanh là nhờ đầu tư mạnh và chính sách đúng”. Đồng thời tác giả đưa ra các

18

câu hỏi về vấn đề tập trung hoá đất đai, vấn đề lao động và di cư lao động ra đô

thị, vấn đề môi trường, vai trò của công nghiệp nông thôn và dân cư nông

thôn…, kinh nghiệm của các nước, những thành công và chưa thành công

trong quá trình công nghiệp hóa ở những nước đang phát triển...[35].

PGS. TS. Nguyễn Danh Sơn, trong cuốn: “Nông nghiệp, nông dân, nông

thôn Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại hoá”.

Tác giả hệ thống hoá các vấn đề lý luận phổ biến của bước chuyển hoá từ một

nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp hiện đại; kinh nghiệm quốc tế

về giải quyết vấn đề nông nghiệp…, trong quá trình phát triển đất nước theo

hướng hiện đại; các vấn đề lý luận và thực tiễn của Việt Nam; các vấn đề phát

triển và định hướng. Về định hướng công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn,

tác giả cho rằng “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không

chỉ nhằm mục đích tự thân mà còn là mục tiêu chính, cơ bản cho công cuộc

PGS.TS. Đỗ Tiến Sâm trong tác phẩm: “Vấn đề tam nông ở Trung Quốc -

công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn…”[37]

Thực trạng và giải pháp”, với tiêu đề Chương hai là “nông nghiệp Trung Quốc

- thực trạng và giải pháp”; tác giả đã nêu những thành công và những bức xúc

của nông nghiệp Trung Quốc trong quá trình phát triển, mở cửa hội nhập và

những giải pháp khắc phục…[33]

Nhiều tác giả trong cuốn: “Nông Dân Nông Thôn Và Nông Nghiệp -

Những vấn đề đang đặt ra” là tập hợp các bài viết trong khuôn khổ đề tài

nghiên cứu về “tam nông” của Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS). Mỗi tác giả

có một cách nhìn riêng và đi sâu vào các khía cạnh khác nhau của vấn đề,

nhưng đều có điểm chung nhau ở chỗ đánh giá thực trạng, vạch rõ nguyên nhân

cốt lõi và đề xuất hướng đi ra khỏi vướng mắc.

Từ cách tiếp cận Xã hội học và căn cứ vào thực trạng ở vùng đồng bằng

sông Hồng. Giáo sư Tương Lai đã nhấn mạnh các giải pháp gắn liền mục tiêu

19

phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Vấn đề dân chủ cơ sở và nền tảng văn

hoá nông thôn cũng được tác giả phân tích sâu sắc.

Từ góc nhìn văn hoá, nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc đã khẳng định rằng

thực chất vấn đề “Tam nông” ở Tây Nguyên là vấn đề Dân tộc gắn liền với

Văn hoá Làng - Rừng. Không giải được vấn đề Dân tộc từ quan điểm Văn hoá

thì không có cách gì giải quyết được vấn đề “tam nông”…

Từ cách tiếp cận Kinh tế học, Giáo sư Đào Thế Tuấn và Tiến sĩ Đặng Kim

Sơn đã đề xuất những giải pháp phát triển Kinh tế nông thôn nhằm gắn kết một

cách hữu cơ giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp, giữa đô thị và nông

thôn, giữa bảo hộ sản xuất nông nghiệp và hội nhập kinh tế toàn cầu…[32]

Vũ Văn Nâm trong cuốn: “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt

Nam”. Tác giả trình bày một số cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông

nghiệp bền vững, kinh nghiệm xây dựng và phát triển nông nghiệp theo xu

hướng bền vững của một số quốc gia trên thế giới, trên cơ sở đó rút ra bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam. Tổng quan về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam,

phân tích những chuyển biến trong phát triển nền nông nghiệp theo xu hướng

bền vững, chỉ ra những mặt đã đạt được, những mặt còn hạn chế cũng như

nguyên nhân của những hạn chế đó. Đánh giá vai trò của nền nông nghiệp phát

triển theo xu hướng bền vững đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân nông

thôn. Đưa ra định hướng và giải pháp: làm tốt công tác quy hoạch phát triển

nông nghiệp, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển

nông nghiệp bền vững, các giải pháp về khoa học-công nghệ, và sự hỗ trợ từ

phía nhà nước nhằm phát triển hơn nữa nền nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

trong những năm tiếp theo [29].

Nguyễn Huy Hùng, luận án tiến sỹ: “Chính sách tiêu thụ nông sản Việt

Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới”.

20

Luận án đã xây dựng khung lý thuyết về chính sách tiêu thụ nông sản trong quá

trình thực hiện các cam kết với WTO. Phân tích thực trạng tiêu thụ nông sản và

đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trước và sau gia nhập WTO,

chỉ ra thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế. Luận án phân tích

những xu hướng mới của thị trường nông sản thế giới để từ đó đưa ra một số

quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản

của Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO. Trọng tâm của

luận án là vấn đề tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết của

WTO, nên luận án chủ yếu đề cập hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản, còn

phát triển nông nghiệp chưa được đề cập.

Ngân hàng phát triển Châu Á, trong cuốn “Thương mại hóa nông

nghiệp, chuỗi giá trị và giảm nghèo”, cho rằng những nước đang phát triển sau

khi đạt được an ninh lương thực quốc gia thì cần chuyển đổi nền nông nghiệp

từ chỗ dựa vào sản xuất lương thực là chính sang một nền nông nghiệp có khả

năng đáp ứng nhu cầu của chuỗi thực phẩm toàn cầu trong khi vẫn đảm bảo an

ninh lương thực quốc gia, tạo thêm thu nhập cho người nông dân và chuyển

dần nền kinh tế sang hoạt động phi nông nghiệp.[80]

Ngoài ra, còn khá nhiều các tác phẩm, báo cáo trong các hội thảo trong

nước và quốc tế; các đề tài, các bài viết "về vấn đề nông nghiệp, nông thôn và

nông dân" đăng tải trên các báo viết và báo mạng như: GS.TS. Tô Duy Hợp,

Viện Xã hội học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam: đã đưa ra những vấn đề xã

hội bức xúc, nan giải trong quá trình đổi mới nông nghiệp, nông thôn, nông

dân Việt Nam trong 20 năm qua và quan điểm định hướng các giải pháp hoá

giải...[23]. Trần Văn Tích “Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung

Quốc hiện nay”, đã hệ thống hoá các quan điểm và thực trạng về vấn đề nông

nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc [42]. Nguyễn Mạnh Tuân với đề tài

“Chính sách đất đai Nông nghiệp của Trung Quốc”. Đề tài đã hệ thống hoá

21

những thay đổi về chính sách đất đai nông nghiệp của Trung Quốc trong giai

đoạn cải cách và mở cửa, những tồn tại và những bất cập [48]. Ngô Đức Cát,

“Phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn”. Cuốn sách phân tích những

chính sách về nông nghiệp trong giai đoạn đầu đổi mới, đặc biệt khoán 100,

khoán 10 trong nông nghiệp và những bất cập phát sinh sau khoán như: ruộng

đất manh mún, sản xuất nhỏ tự phát theo thị trường…[13]. PGS.TS. Trần Thị

Minh Châu trong cuốn “Về chính sách nông nghiệp ở nước ta hiện nay”, đã hệ

thống hoá những chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp, phân tích những bất

cập của các chính sách…[14]. TS. Chử Văn Lâm, trong đề tài: “Tam nông: Một

số vấn đề nổi lên ở Việt Nam hiện nay”. Tác giải đã tổng hợp những vấn đề

bức súc từ thực tế tam nông ở Việt Nam và định hướng cách tháo gỡ… [25].

PGS.TS. Đỗ Tiến Sâm & ThS. Bùi Thị Thanh Hương, Viện Nghiên cứu Trung

Quốc, Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Trung Quốc với việc giải quyết vấn đề

tam nông. Nhóm tác giả tổng hợp thực trạng vấn đề tam nông của Trung Quốc

và kinh nghiệm giải quyết [34].

Cho đến nay, các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập vấn đề nông

nghiệp trong quá trình CNH, HĐH…; hoặc các nghiên cứu về nông nghiệp,

nông dân, nông thôn trong giai đoạn đầu đổi mới và hội nhập KTQT… Có một

số nghiên cứu về tác động của WTO đến nông nghiệp nhưng chưa đề cập một

cách đầy đủ, cụ thể, toàn diện tác động của WTO đến nông nghiệp như: Dự án

Hỗ trợ Thương mại đa biên-MUTRAP, “Báo cáo Tác động của cam kết mở

cửa thị trường trong WTO và các Hiệp định khu vực Thương mại tự do (FTA)

đến hoạt động sản xuất, thương mại của Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện

cơ chế điều hành xuất nhập khẩu giai đoạn 2011-2015”, báo cáo đánh giá tác

động sau 3 năm gia nhập WTO, phần đánh giá nông nghiệp còn hạn chế ở thị

trường và xuất khẩu nông sản… Dự án “Đánh giá tác động của việc thực hiện

các cam kết WTO và khu vực đối với ngành nông nghiệp và phát triển nông

22

thôn” 8/2012-9/2013. Dự án đánh giá mức độ nhạy cảm trước các cú sốc bên

ngoài; phân tích, đánh giá tác động của hội nhập đến hiệu quả; đánh giá áp lực

điều chỉnh cơ cấu trong một số ngành hàng nông sản. Nghiên cứu, đánh giá các

vấn đề sinh kế, giảm nghèo và doanh nghiệp nông thôn trong quá trình hội

nhập. Dự án chọn ba ngành hàng cá tra, sữa và đường để phân tích và dùng các

mô hình mô phỏng đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết WTO và

khu vực và khuyến nghị chính sách cho những năm tới…

1.3. Những vấn đề cần nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

- Một số vấn đề cần đi sâu nghiên cứu: Qua phần tổng quan, chưa có

một nghiên cứu nào trả lời được và đầy đủ câu hỏi: Nông nghiệp Việt Nam phát

triển như thế nào sau khi gia nhập WTO; Việt Nam cần phải làm gì để nền

nông nghiệp tận dụng ở mức tốt nhất cơ hội và vượt qua được những thách

thức khi thực hiện những cam kết với WTO. Để thực hiện đề tài: “Phát triển

nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhậpTổ chưc thương mại thế giới (WTO)”

và trả lời những câu hỏi trên, luận án đã kế thừa và chọn lọc những kết quả

nghiên cứu ở trên và các nghiên cứu khác.

Về khái niệm, có nhiều khái niệm về ngành nông nghiệp, theo nghĩa hẹp;

theo nghĩa rộng, bao gồm có nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp

và thủy hải sản; theo FAO ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm từ

sản xuất, bảo quản, chế biến và marketing các sản phẩm nông lâm thủy hải sản.

Tuy nhiên, để phù hợp với luận án và điều kiện Việt Nam, luận án tiếp cận

ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng, gồm (nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy hải

sản), theo cách phân loại ngành nông nghiệp của hệ thống tài khoản quốc gia

Việt Nam và trong hội nhập KTQT luận án nghiên cứu từ sản xuất, chế biến,

bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời luận án kế thừa một số lý thuyết về

phát triển nông nghiệp và một số nhận định tác động có thể xảy ra khi gia nhập

và thực hiện cam kết WTO đến nền kinh tế và nông nghiệp.

23

- Cách tiếp cận, các nội dung nghiên cứu của luận án bắt đầu từ khái

niệm nông nghiệp, phát triển và phát triển nông nghiệp; vai trò vị trí của nông

nghiệp, các nội dung phát triển nông nghiệp. Trong bối gia nhập và thực hiện

các cam kết WTO, theo luận án để tiếp cận phát triển nông nghiệp phải tiếp cận

như sau: 1) Phát triển nông nghiệp trên cơ sở phát triển các ngành hàng nông

lâm thủy hải sản nhằm mở rộng thị trường và tham gia vào chuỗi giá trị nông

sản toàn cầu nhằm tận dụng cơ hội của hội nhập. 2) Phát triển nông nghiệp phải

tận dụng được lợi thế so sánh của nông nghiệp, lợi thế về qui mô, chuyên môn

hóa và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa. Luận án tiếp cận từ tập trung hóa (TTH),

chuyên môn hóa (CMH), cũng như liên kết kinh tế ngang và dọc; đây là cách

khắc phục hạn chế vốn có của kinh tế nông hộ và trang trại; bởi kinh tế nông

hộ và trang trại dù có phát triển đến qui mô cỡ nào, thì tự bản thân cũng không

thể tiếp cận thị trường hiệu quả nếu không phát triển các hình thức liên kết kinh

tế trong phát triển nông nghiệp. 3) Phát triển nông nghiệp phải đạt mục tiêu

“phát triển bền vững” nhằm phát triển nền nông nghiệp tăng trưởng nhanh và

ổn định; nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo và cải thiện chất lượng sống

của nông dân; phát triển nền nông nghiệp bảo vệ được môi trường sinh thái

(đất, nước, môi trường sản xuất cũng như môi trường sống…), góp phần đạt

được mục tiêu phát triển bền vững quốc gia…

- Về phương pháp nghiên cứu, luận án kế thừa phương pháp nghiên cứu

định tính kết hợp với định lượng (phương pháp so sánh, phương pháp chỉ số để

đánh giá lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh…), trong “Dự án Hỗ trợ

Thương mại đa biên-MUTRAP” và Dự án “Đánh giá tác động của việc thực

hiện các cam kết WTO và khu vực đối với ngành nông nghiệp và phát triển

nông thôn”, ngoài ra luận án có kế thừa một số phân tích, nhận định và đánh

giá tác động khi thực hiện cam kết WTO đến kinh tế trong đó có nông nghiệp ở

các nghiên cứu khác về thu thập, xử lý, phân tích đánh giá thông tin....

24

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN

NÔNG NGHIỆP SAU WTO

Gia nhập WTO thực chất là hội nhập KTQT, chủ yếu liên quan đến vấn

đề kinh tế thương mại bởi những Hiệp định của WTO, trong đó có nông

nghiệp. Do vậy về mặt lý luận phải làm rõ phát triển nông nghiệp; những quy

định, luật định của WTO có liên quan đến nông nghiệp và tác động của nó đến

phát triển nông nghiệp; những cam kết của Việt Nam; những thời cơ, thách

thức và những vấn đề đặt ra đối với phát triển nông nghiệp sau khi gia nhập

WTO. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước sau WTO.

2.1. Nông nghiệp và phát triển nông nghiệp

2.1.1. Nông nghiệp và vai trò của sản xuất nông nghiệp

2.1.1.1. Khái niệm về nông nghiệp

Có nhiều cách hiểu khác nhau về nông nghiệp, theo định nghĩa ở giáo

trình Kinh tế Nông nghiệp, nông nghiệp được hiểu như sau: “Nông nghiệp là

một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp, nó không chỉ là một

ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học, kỹ thuật. Nông nghiệp

hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ

trong nông nghiệp, còn hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả ngành nông nghiệp,

ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản” [31].

Ngày nay, nông nghiệp hiện đại vượt ra khỏi sản xuất nông nghiệp truyền

thống, nó không chỉ là lương thực phẩm phục vụ cho con người, mà còn các

loại sản phẩm khác như: sợi dệt (sợi bông, sợi len, lụa, sợi lanh), nhiên liệu (mê

tan, dầu sinh học, ethanol..), da thú, cây cảnh, sinh vật cảnh, chất hóa học (tinh

bột, đường, mì chính, cồn, nhựa thông), các sản phẩm lai tạo giống, các sản

phẩm vi sinh được tạo ra từ công nghệ sinh học, các chất gây nghiện cả hợp

pháp và không hợp pháp như (thuốc lá, cocaine..)…

25

Trong WTO, Hiệp định nông nghiệp không đưa ra khái niệm cụ thể về

nông nghiệp theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, tại Điều 2 của Hiệp định đã xác định

một số sản phẩm nông nghiệp thuộc biểu thuế Xuất nhập khẩu (HS): như động

vật sống, các sản phẩm động thực vật, các sản phẩm trồng trọt, các sản phẩm

chăn nuôi, sữa, trứng...các sản phẩm này được mô tả từ Chương 1 đến Chương

24 tại biểu thuế HS, có thể thấy sản phẩm nông nghiệp liên quan đến các nội

dung về canh tác, vụ mùa, chăn nuôi và trồng trọt như được mô tả tại biểu thuế

các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, biểu thuế về các sản phẩm của ngành

thủy hải sản… Các định nghĩa về nông nghiệp (theo các khía cạnh kinh tế, xã

hội, luật học và các quy định về diện sản phẩm nông nghiệp tại Hiệp định nông

nghiệp của WTO) cho thấy cách hiểu về định nghĩa nông nghiệp có sự đồng

nhất tương đối [83].

Theo luận án, ngành nông nghiệp được hiểu đầy đủ phải như sau: “Nông

nghiệp là một trong những ngành kinh tế-xã hội quan trọng và phức tạp, nó

không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học, kỹ

thuật. Nông nghiệp hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn

nuôi và ngành dịch vụ trong nông nghiệp, còn hiểu theo nghĩa rộng bao gồm

cả ngành nông nghiệp, ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản”. Ngành nông

nghiệp là ngành kinh tế - xã hội, bởi ý nghĩa xã hội được thể hiện: 1) Là ngành

cung cấp lương thực thực phẩm thiết yếu cho con người, phát triển nông

nghiệp đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia và toàn cầu, góp phần xóa đói

giảm nghèo, góp phần giữ vững an ninh chính trị-xã hội. 2) Phát triển nông

nghiệp bền vững còn góp phần giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái trong sản

xuất và môi trường sống của con người.

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, nông nghiệp là ngành sản

xuất vật chất cơ bản của xã hội; sử dụng đất đai để trồng trọt, chăn nuôi; khai

thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra

26

lương thực thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một

ngành sản xuất lớn bao gồm nhiều chuyên ngành. Nông nghiệp theo nghĩa hẹp

gồm trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản và theo nghĩa rộng bao gồm

thêm lâm nghiệp, thuỷ sản.

Theo Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI)

ban hành năm 2007, ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng gồm ngành nông

nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản), ngành nông nghiệp gồm các hoạt động trồng

cây hàng năm, trồng cây lâu năm, nhân và chăm sóc cây giống nông nghiệp,

chăn nuôi, trồng trọt và chăn nuôi hỗn hợp, hoạt động dịch vụ nông nghiệp, săn

bắt - đánh bẫy và hoạt động dịch vụ có liên quan. Ngành lâm nghiệp gồm các

hoạt động trồng rừng và chăm sóc rừng, khai thác gỗ và lâm sản khác, thu nhặt

sản phẩm từ rừng không phải gỗ và lâm sản, hoạt động dịch vụ lâm nghiệp.

Ngành thủy sản gồm các hoạt động khai thác thủy sản, nuôi trồng thủy hải sản.

Trồng trọt, là tiểu ngành của ngành nông nghiệp là tiểu ngành sử dụng đất

và cây trồng làm đối tượng chính để sản xuất ra lương thực, thực phẩm, nguyên

liệu cho công nghiệp chế biến và thỏa mãn những nhu cầu khác của con người

như tạo cảnh quan, sinh thái (hoa, cây cảnh…). Có nhiều cách phân loại cây

trồng, theo phân loại của Tổng cục Thống kê, phân cây trồng theo thời gian của

chu kỳ sinh trưởng và kết hợp với mục đích sử dụng. Cây trồng được thành hai

nhóm cây hàng năm và cây lâu năm; trong cây hàng năm chia thành nhóm cây

lương thực có hạt và nhóm cây cho củ, nhóm cây công nghiệp hàng năm, nhóm

đồng cỏ và cây thức ăn gia súc, nhóm cây rau và hoa, cây dược liệu; cây lâu

năm chia thành nhóm cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả.

Chăn nuôi, là một trong hai tiểu ngành chính của nông nghiệp ( theo nghĩa

hẹp), với đối tượng sản xuất là động vật nuôi. Chăn nuôi cung cấp thực phẩm

giàu đạm như: thịt các loại, trứng, sữa; cung cấp da, lông cho công nghiệp chế

biến; sản phẩm phụ làm phân bón cho trồng trọt. Nguồn thức ăn cho chăn nuôi

27

chủ yếu lấy từ trồng trọt, phát triển chăn nuôi làm tăng giá trị gia tăng và tăng

hiệu quả của sản xuất trồng trọt.

Lâm nghiệp, bao gồm các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và bảo vệ rừng,

khai thác, chế biến các sản phẩm từ rừng, duy trì tác dụng phòng hộ nhiều mặt

của rừng [50]. Theo luật bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam, rừng là một

hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng,

đất rừng, trong đó cây gỗ, tre lứa hoặc hoặc hệ thực vật đặc trưng có hệ số độ

che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm: rừng trồng và rừng tự nhiên

trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng [27].

Thủy sản, bao gồm đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. Đánh bắt gồm:

đánh bắt cá và các sinh vật thủy hải sản; việc đánh bắt phải kết hợp với bảo vệ

các nguồn lợi thủy hải sản nhằm bảo vệ môi trường và duy trì nguồn thủy hải

sản trong tương lai. Nuôi trồng thủy hải sản bao gồm nuôi cá, tôm nước mặn,

nước lợ, nước ngọt; nuôi các loài nhuyễn thể như trai, sò, ngao; ngoài ra còn

nuôi trồng rong, tảo…

2.1.1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp

Nông nghiệp là ngành sản xuất đặc thù mà các ngành sản xuất không có,

những đặc điểm đó là:

Ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt, chủ yếu trong nông nghiệp và

ngày càng khan hiếm. Ruộng đất cố định về không gian, nếu trong quá trình sử

dụng hợp lý sẽ không bị hao mòn mà còn làm tăng độ phì nhiêu của đất; ruộng

đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế trong sản xuất nông nghiệp. Do đó,

việc bảo tồn quỹ đất và không ngừng nâng cao độ phì của đất vấn đề sống còn

trong sản xuất và phát triển nông nghiệp.

Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi, những cơ thể

sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo quy luật riêng vốn có của chúng.

Quá trình sản xuất kinh tế nông nghiệp phải gắn với quá trình sinh học, mọi tác

28

động của sản xuất phải tuân theo quá trình sinh trưởng và phát triển của cây

trồng vật nuôi.

Sản xuất nông nghiệp có phân bố rộng khắp phụ thuộc vào đối tượng lao

động: Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên không gian rộng lớn, do đối

tượng sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi, chúng chỉ sinh trưởng và

phát triển tốt gắn với điều kiện tự nhiên, khí hậu thời tiết và môi trường sinh

thái nhất định. Do vậy mỗi vùng tự nhiên, khí hậu thời tiết và sinh thái-cây

trồng vật nuôi cho sản phẩm đặc hữu đặc trưng của vùng. Trong WTO, Hiệp

định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ

(TRIPS), trong đó quy định Chỉ dẫn địa lý trong Điều 22 yêu cầu các nước

thành viên phải bảo vệ các chỉ dẫn đã được xác định theo định nghĩa nhằm

ngăn ngừa sai tên ứng dụng; Điều 27.3b quy định giống cây trồng và các vấn

đề liên quan đến công nghệ sinh học. [55].

Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ rất cao. Do đối tượng của sản

xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi, nên quá trình tái sản xuất nông nghiệp

gắn với quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian lao động gắn với thời gian sản

xuất không hoàn toàn trùng khớp, do vậy sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ

cao, tác động của con người vào cây trồng vật nuôi thông qua tác động vào môi

trường. Điều đó đặt ra vấn đề sử dụng các nguồn lực trong phát triển nông

nghiệp (Sử dụng tài nguyên thiên nhiên, vốn, tư liệu sản xuất, lao động) có

hiệu quả cao và bền vững.

2.1.1.3. Vai trò của nông nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội

Xu hướng của nông nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong nền

kinh tế quốc dân, lao động trong nông nghiệp cũng giảm dần và chuyển dịch

sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đất đai tư liệu sản xuất chủ yếu cũng

có xu hướng thu hẹp do quá trình CNH, ĐTH. Nhưng sản lượng nông lâm thủy

hải sản phải tăng lên để đáp ứng tăng dân số và nguyên liệu cho công nghiệp

29

chế biến. Nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều tài nguyên nhất (đặc biệt là đất

đai) và “phát triển nông nghiệp bền vững” góp phần làm chậm quá trình biến

đổi khí hậu. Như vậy nông nghiệp ngoài vai trò phát triển kinh tế, còn có cả vai

trò xã hội và môi trường như sau:

Phát triển nông nghiệp thúc đẩy phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh

tế khác thể hiện qua các vai trò sau: 1) Nông lâm thủy hải sản là nguyên liệu

đầu vào cho các ngành kinh tế, đặc biệt là công nghiệp chế biến. 2) Nông

nghiệp tạo ra thặng dư ngoại tệ nhờ xuất khẩu nông sản để đầu tư cho CNH –

HĐH. 3) Nông nghiệp là thị trường rộng lớn tiêu thụ trang thiết bị máy móc và

vật tư nông nghiệp (phân bón, hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật...). 4) CNH,

HĐH nông nghiệp tạo ra dư thừa lao động để cung cấp nguồn lao động cho

công nghiệp và dịch vụ...

Phát triển nông nghiệp góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

Phát triển nông nghiệp ngoài mục tiêu loại trừ đói, thiếu ăn cho người nghèo

còn đảm bảo an ninh lương thực. An ninh lương thực đang là vấn đề sống còn

của mỗi quốc gia. Bảo đảm an ninh lương thực sẽ hạn chế những khó khăn, rủi

ro trong phát triển kinh tế và đời sống của người dân, tạo nền tảng cho ổn định

chính trị - xã hội.

Phát triển nông nghiệp bền vững góp phần gìn giữ và bảo vệ môi trường

sinh thái. Trong nông nghiệp, các nguồn lực được sử dụng hợp lý, không chỉ

tạo ra nền nông nghiệp phát triển bền vững mà còn tạo ra môi trường tốt và đa

dạng sinh học, đó cũng là môi trường sống của con người. Bảo vệ môi trường

chính là bảo vệ môi trường sản xuất nông nghiệp, bảo tồn đa dạng sinh học duy

trì cân bằng sinh thái, nhờ đó làm chậm quá trình biến đổi khí hậu. Do vậy,

trong phát triển nông nghiệp cần áp dụng các giải phát, các quy trình công nghệ

canh tác bền vững (Canh tác bền vững có nghĩa là phải đồng thời đáp ứng 3

mục tiêu: i) Bền vững về sinh thái bao gồm: quản lý tài nguyên đất, nước, bảo

30

vệ đa dạng sinh học và các phương thức canh tác bền vững. ii) Lợi ích về kinh

tế. iii) Lợi ích xã hội đối với nông dân và cộng đồng).

Như vậy xét về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường; nông nghiệp có

vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện hiện

nay, nhất là các nước có nền kinh tế mà nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao và

đang trong quá trình CNH, HĐH, nếu không phát triển nông nghiệp bền vững

thì khó có nền kinh tế phát triển bền vững và hội nhập thành công. Chính vì,

nông nghiệp trở thành xuất phát điểm của phát triển kinh tế và cải cách kinh tế.

2.1.2. Phát triển nông nghiệp

2.1.2.1. Khái niệm về phát triển nông nghiệp

Qua tổng quan chưa có nghiên cứu nào đề cập về khái niện phát triển

nông nghiệp, để hiểu rõ hơn, chúng ta đi từ các khái niệm liên quan đến phát

triển kinh tế.

Phát triển kinh tế, hiện có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển kinh

tế, giáo trình Kinh tế của trường đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng ” Phát

triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế, bao

gồm cả việc gia tăng sản lượng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo

hướng tiến bộ và nâng cao chất lượng cuộc sống con người” [26].

Như vậy, phát triển kinh tế được khái quát theo bốn nội dung: Một là,

gia tăng nhanh tổng sản lượng của nền kinh tế (GDP, giá trị gia tăng, kim

ngạch xuất nhập khẩu...); đây là nội dung thể hiện sự biến đổi về lượng của nền

kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống của dân cư trong một quốc gia.

Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiến bộ, một cơ cấu kinh tế tiến bộ phải phát

huy cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, phát huy được lợi thế cạnh tranh, phát

triển ổn định và bền vững, lấy thị trường quốc tế làm căn cứ, cơ cấu đó bao

gồm cơ cấu tổng thể nền kinh tế, cơ cấu các ngành, cơ cấu theo vùng miền, cơ

cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu phân bổ các nguồn lực... Ba là, gia tăng năng lực

31

nội sinh của nền kinh tế, bao gồm năng lực tái đầu tư phát triển, qui mô và chất

lượng của các nguồn lực đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững,

đồng thời nền kinh tế đó phải có năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh

tranh của ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh

của sản phẩm cao, có đủ khả năng để vượt qua những biến động của khủng

hoảng kinh tế và biến động của thị trường. Bốn là, nâng cao chất lượng cuộc

sống, đó là kết quả của nâng cao thu nhập đầu người, đảm bảo công bằng xã

hội, xóa bỏ nghèo đói và thu hẹp khoảng cách giầu nghèo [91].

Phát triển nông nghiệp, nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế

cơ bản của mỗi quốc gia, nên những nội dung của phát triển kinh tế cũng là

những nội dung chủ yếu của phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, nông nghiệp là

ngành kinh tế có những đặc thù riêng mà những ngành kinh tế khác không có;

phát triển luôn là quá trình tự thân vận động của sự vật từ thấp đến cao, từ chưa

hoàn thiện đến hoàn thiện ở mức độ cao hơn; vì vậy luận án sẽ nghiên cứu phát

triển nông nghiệp như phát triển nội tại của ngành kinh tế gắn với những đặc

thù của nông nghiệp. Trước hết hãy xem xét một số quan điểm về ngành kinh

tế và ngành nông nghiệp để hình thành quan niệm về phát triển nông nghiệp.

Theo trường phái cơ cấu kinh tế và quản trị sản xuất thì ngành kinh tế là

kết quả của việc phân công lao động xã hội và ngành này khác với ngành khác

ở chỗ các yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất và sản phẩm làm ra. Theo quan

điểm này, để phát triển nông nghiệp cần phải nâng cao qui mô và chất lượng

yếu tố đầu vào, áp dụng các quy trình, công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng

và đa dạng chủng loại nông lâm thủy hải sản sản xuất ra. Trong đó, khoa học

và công nghệ đóng vai trò quyết định cho phát triển nông nghiệp.

Theo trường phái kinh tế chính trị mà Micheal Porter là đại diện, ngành

được hình thành dựa vào các sản phẩm dễ thay thế nhau và các doanh nghiệp

luôn chịu áp lực cạnh tranh trong nội bộ ngành từ các đối thủ, nhà cung cứng,

32

người tiêu thụ, đối thủ tiềm ẩn và các sản phẩm thay thế… Do đó, các doanh

nghiệp, ngành muốn phát triển phải có chiến lược kinh doanh để chuyển lợi thế

so sánh thành năng lực cạnh tranh như: hạ chí phí sản xuất, tạo ra sự khác biệt

về sản phẩm, nâng cao chất lượng, thương hiệu sản phẩm…; liên tục duy trì

năng lực cạnh tranh để phát triển. Theo quan điểm này để duy trì phát triển

nông nghiệp, các doanh nghiệp nông nghiệp và ngành nông nghiệp sản xuất

theo thị trường và nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, đồng thời phải xây

dựng được mối liên doanh, liên kết, hợp tác hình thành chuỗi liên kết giá trị

ngành hàng nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh ngành mạnh để đưa nông sản đến

người tiêu dùng với chí phí thấp chất lượng cao.

Tổ chức nông lương thế giới (FAO), nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao

gồm cả sản xuất, bảo quản, chế biến và marketing các sản phẩm trồng trọt,

chăn nuôi, lâm sản và thủy hải sản. Đồng thời FAO nhấn mạnh phát triển nông

nghiệp bền vững là yêu cầu của phát triển nông nghiệp hiện nay, khi mà cả thế

giới đang hành động để làm chậm quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu. FAO

cho rằng phát triển nông nghiệp bền vững trên cơ sở quản lý và bảo tồn tài

nguyên thiên nhiên; thay đổi thể chế và công nghệ nhằm đảm bảo duy trì và

thỏa mãn nhu cầu của con người cả thế hệ hiện tại và tương lai. Sự phát triển

bền vững như vậy, đảm bảo không tổn hại đến môi trường, với công nghệ phù

hợp, có hiệu quả về kinh tế và được xã hội chấp nhận. [86]

Khác biệt của ngành nông nghiệp so với ngành kinh tế khác vì những

đặc điểm sau: 1) Nông nghiệp khởi thủy là hoạt động tự nhiên của loài người

(săn, bắt, hái, lượm) để tự nuôi sống bản thân mình. Cùng với quá trình phát

triển xã hội loài người, nhiều nghề, ngành mới hình thành và tách ra khỏi nông

nghiệp, hình thành nền sản xuất hàng hóa... Ngày nay, nhiều ngành kinh tế mới

ra đời, phát triển và có thể mất đi, nhưng dù có phát triển thế nào thì nông

nghiệp cũng vẫn tồn tại. 2) Phương thức sản xuất của nông nghiệp đi từ thủ

33

công đến cơ giới hóa, tự động hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa và

hiện đại hóa... Tuy nhiên, do đối tượng sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật

nuôi trên không gian rộng lại có tính thời vụ, nên bên cạnh phương thức sản

xuất hiện đại vẫn tồn tại phương thức sản xuất truyền thống kết hợp với nhau;

nhiều công đoạn của sản xuất nông nghiệp hiện đại vẫn dùng đến lao động thủ

công và phương thức sản xuất truyền thống. 3) Chủ thể của sản xuất nông

nghiệp chủ yếu là nông dân, bên cạnh phương thức tố chức sản xuất hiện đại,

kinh tế hộ nông dân và trang trại vẫn tồn tại vì tính hiệu quả nhất định của nó.

Do vậy, liên kết và hợp tác tạo thành chuỗi giá trị ngành hàng nông, lâm, thủy

hải sản để nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp và nâng cao năng lực

cạnh tranh là nội dung trong phát triển nông nghiệp.

Ngoài những khác biệt nêu trên, nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập

WTO vẫn là nền nông nghiệp lạc hậu, phát triển chủ yếu vẫn dựa vào nguồn tài

nguyên thiên nhiên và sức lao động, giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp

thấp; trong khi nông nghiệp vẫn là điểm tựa cho phát triển và CNH, HĐH nền

kinh tế trong đó có công nghiệp, xóa đói, giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội

và bảo vệ môi trường.

Tư những phân tích trên, luận án cho rằng: Phát triển nông nghiệp là

quá trình vận động của ngành nông nghiệp nhằm chuyển đổi từ sản xuất thủ

công là chủ yếu sang nền nông nghiệp sử dụng máy móc và công nghệ hiện

đại; chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp là chính thành nền sản xuất hàng

hóa chất lượng cao và tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị nông

sản toàn cầu; và phát triển nhanh nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, nông

nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao..., nhằm đáp ứng mục tiêu của

phát triển nông nghiệp bền vững.

Trong nghiên cứu này, ngành nông nghiệp được hiểu là nông nghiệp

theo nghĩa rộng, bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Áp dụng theo

34

cách phân loại ngành kinh tế trong hệ thống thống kê chính thức của Việt Nam.

2.1.2.2. Nội dung của phát triển nông nghiệp

Khi nghiên cứu phát triển nông nghiệp, luận án xuất phát từ nội tại của

ngành nông nghiệp, nhưng trong quá trình phát triển không thể thoát ly với quá

trình phát triển kinh tế nói chung. Do vậy, nội dung của phát triển nông nghiệp

không thể tách rời với quá trình CNH, HĐH và quá trình hội nhập KTQT. Nên

nội dung của phát triển nông nghiệp hiện nay có những nội dung chính sau:

1) Xây dựng mô hình và tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp hợp lý:

Trên cơ sở nguồn lực của thị trường và nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp

xác định tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) và nông

nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản vừa đảm bảo tính ổn định vừa đảm bảo phát triển

bền vững. Đây là điểm quan trọng, vì suốt trong giai đoạn dài của mở cửa nền

khinh tế và gia nhập WTO, nông nghiệp tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác

các nguồn lực tự nhiên mà ít chú ý đến nguồn lực thị trường và các nguồn lực

khác nên hiệu quả sử dụng các nguồn lực và hiệu quả sản xuất nông nghiệp

thấp. Thứ nữa, là phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang

tăng trưởng theo chiều sâu (tăng trưởng dựa trên giá trị gia tăng); nghĩa là phải

lựa chọn những ngành hàng nông lâm thủy hải sản có lợi thế so sánh, có năng

lực cạnh tranh cao; đồng thời lựa chọn những khâu, những cung đoạn sản xuất

có giá trị gia tăng cao, tỷ suất lợi nhuận lớn để tham gia vào chuỗi giá trị nông

sản toàn cầu. Chẳng hạn trong giai đoạn vừa qua, xuất khẩu lúa gạo có tốc độ

tăng trưởng lớn, góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, nhưng người

sản xuất ở vùng xuất khẩu lúa gạo lớn vẫn nghèo, đó là một nghịch lý.

2) Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tối ưu và hiện đại:

Thuật ngữ “cơ cấu” được sử dụng để chỉ các bộ phận hợp thành của một tổng

thể nào đó và mối quan hệ của các bộ phận đó trong tổng thể. Trong ngành

nông nghiệp, các bộ phận hợp thành có thể xem xét ở ngành, tiểu ngành, phân

35

ngành, lĩnh vực, sản phẩm, vùng hoặc thành phần kinh tế... Tuy nhiên mối, mối

quan hệ giữa các bộ phận rất khác nhau tùy từng tổng thể, từng giai đoạn. Từ

đó luận án cho rằng, cơ cấu sản xuất nông nghiệp là tổng thể các ngành, lĩnh

vực, bộ phận trong sản xuất nông nghiệp với vai trò, vị trí các thành phần hợp

thành theo tỷ lệ tương ứng, ổn định trong một thời gian nhất định.

Cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp luôn thay đổi cùng với sự thay đổi

của cung cầu của thị trường, những tiến bộ của khoa học và công nghệ, chất

lượng nguồn nhân lực, đối thủ cạnh tranh và đối tác kinh tế... Chuyển dịch cơ

cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý và hiện đại (hay tái cơ cấu sản xuất nông

nghiệp) chính là chuyển sang cơ cấu có khả năng tái sản xuất mở rộng, khai

thác được những lợi thế so sánh và tăng năng lực cạnh tranh cũng như tăng

năng lực tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu; đồng thời có giá trị gia tăng

cao, sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao, có thị trường lớn và

ổn định; tăng những bộ phận hay những ngành hàng có lợi thế so sánh và hiệu

suất sử dụng tài nguyên thiên nhiên thấp, có giá trị gia tăng cao và ít gây tổn

hại đến môi trường.

3) Đầu tư theo chiều sâu (thâm canh) trên cơ sở khoa học và công nghệ

tiên tiến: Trong lịch sử phát nông nghiệp của loài người trải qua nhiều phương

thức sản xuất khác nhau: từ chọc lỗ tỉa hạt đến quảng canh và thâm canh...

Quảng canh là phương thức làm tăng sản lượng nông sản bằng việc tăng

diện tích gieo trồng hoặc tăng số đầu gia súc với cơ sở vật chất kỹ thuật thấp

kém và lao động thủ công. Trong giai đoạn đầu phát triển nông nghiệp chủ yếu

dựa vào phương thức này, nhưng xu hướng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp

và xu hướng giảm vụ để đất đai có thời gian tái tạo độ phì nhiêu, nên phát triển

nông nghiệp chuyển dần sang phương thức sản xuất tiến bộ hơn- phương thức

thâm canh.

Thâm canh ngược lại với quảng canh, là phương thức sản xuất tiến bộ

36

hơn nhằm tăng sản lượng nông lâm thủy hải sản bằng cách đầu tư tăng thêm tư

liệu sản xuất, sức lao động trên một đơn vị diện tích hay trên mỗi đầu vật nuôi,

đồng thời hoàn thiện không ngừng biện pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, tổ

chức và quản lý và các yếu tố khác của sản xuất nhằm thu được nhiều sản

phẩm trên một đơn vị diện tích hay trên đầu mỗi vật nuôi, với chi phí thấp.

Theo nhà kinh tế học Paul A.Samuelson, đây chính là tích lũy vốn theo chiều

sâu và điều này chỉ xảy ra khi có cải tiến về giống, kỹ thuật canh tác, áp dụng

công nghệ sinh học, thủy lợi hóa, cơ giới hóa, hóa học hóa, điện khí hóa...,

đồng thời phải nâng cao chất lượng nguồn lực lao động nông nghiệp thông qua

giáo dục và đào tạo nghề. Tuy nhiên, đối tượng của sản xuất nông nghiệp là

cây trồng vật nuôi chúng sinh trưởng và phát triển theo quy luật sinh học riêng;

do vậy tăng đầu tư thâm canh chỉ đạt sản lượng cao có chi phí thấp trong phạm

vi giới hạn nhất định.

Hiện nay, kinh tế trên thế giới tăng trưởng nhanh và đạt ở trình độ cao;

nên phát triển kinh tế nói chung trong đó có nông nghiệp phải phát triển bền

vững; bao gồm bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt xã hội và bền vững

về môi trường sinh thái; đồng thời nhu cầu và thị hiếu về nông lâm thủy hải sản

cũng có thay đổi, không chỉ đòi hỏi chất lượng cao, mà phải đảm bảo an toàn

vệ sinh thực phẩm. Do vậy, phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải xây dựng nền

nông nghiệp dựa trên nền khoa học và công nghệ hiện đại; kết hợp với kỹ thuật

canh tác truyền thống, kỹ thuật bản địa để sản xuất ra những đặc sản nông lâm

thủy hải sản. Nền nông nghiệp dựa trên khoa học và công nghệ hiện đại gồm:

cơ giới hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa, tư động hóa; ngoài ra còn

gồm những quy trình công nghệ: nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ gen,

công nghệ vi sinh, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái...

4) Thúc đẩy mạnh chuyên môn hóa, tập trung hóa và liên kết hợp tác

trong phát triển nông nghiệp: Chuyên môn hóa sản xuất là quá trình tập trung

37

các yếu tố sản xuất của một đơn vị để sản xuất ra một hay một số mặt hàng

nông sản phù hợp điều kiện sinh thái, nguồn lực sẵn có theo nhu cầu của thị

trường [30]. Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp đến trình độ nào đó tất yếu

sẽ dẫn đến tập trung hóa.

Tập trung hóa sản xuất nông nghiệp là tập trung các nguồn lực, các yếu

tố sản xuất để sản xuất ra một hoặc vài mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản nhằm

tạo ra sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn để tạo thuận lợi cho việc đưa khoa

học, công nghệ hiện đại và áp dụng các chương trình, đề án, quy trình sản xuất

bền vững, sản xuất sạch,... vào các khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo

quản, chế biến và tiêu thụ làm tăng giá trị gia tăng và tăng hiệu quả.

Do đặc điểm vốn có của nông nghiệp, nên chuyên môn hóa và tập trung

hóa trong nông nghiệp mang tính tương đối, vì vậy chuyên môn hóa và tập

trung hóa phải kết hợp với phát triển tổng hợp và đa dạng nhằm hỗ trợ cho

chuyên môn hóa và tập trung hóa, đồng thời đảm bảo môi trường sinh thái bền

vững. Đẩy mạnh CMH và TTH tạo điều kiện hình thành các doanh nghiệp

nông nghiệp, các trang trại, các nông hộ có sản xuất nông sản hàng hóa qui mô

lớn, đồng thời còn thúc đẩy phân công, hợp tác, liên kết hình thành chuỗi giá trị

nông sản, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi

giá trị nông sản toàn cầu.

Trong xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế đã thúc đẩy mạnh quá trình

phân công, hợp tác, liên doanh và liên kết; hình thành các công ty, các tập đoàn

đa quốc gia và các chuỗi giá trị hàng hóa toàn cầu, trong đó có nông nghiệp.

Toàn cầu hóa về mặt kinh tế, buộc các nước đều phải lựa chọn những mặt

hàng, những ngành hàng và những khâu, những cung đoạn có lợi thế cạnh

tranh và giá trị gia tăng cao để phát triển; vì thế mà thúc đẩy phân công, hợp

tác, liên doanh và liên kết trong sản xuất nói chung và trong nông nghiệp nói

riêng. Hơn nữa, do đối tượng của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi được sản

38

xuất trên không gian rộng, sự khác biệt về các nguồn lực tự nó đã tạo ra sự

phân công nhất định. Đồng thời các chủ thể trong sản xuất nông nghiệp là các

trang trại, các hộ nông dân qui mô sản xuất thường không quá lớn; nên quá

trình hợp tác, liên doanh và liên kết từ sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ

là đòi hỏi khách quan.

Tuy nhiên, phân công, hợp tác, liên doanh và liên kết trong nông nghiệp

chỉ được hình thành trên nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa ở một qui mô nhất

định. Nên các nước đang và chậm phát triển có nền nông nghiệp lạc hậu, sản

xuất quá nhỏ và manh mún; việc trước tiên là phải phát triển các hình thức tổ

chức sản xuất nông nghiệp như: nông hộ, trang trại, hợp tác xã và các doanh

nghiệp qui mô lớn; đồng thời thúc đẩy mạnh quá trình hợp tác, liên doanh và

liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ. Hợp tác, liên doanh, liên kết theo từng khâu

sản xuất, chế biến, tiêu thụ gọi là liên kết theo chiều ngang (rộng) nhằm mở

rộng qui mô sản xuất; hợp tác, liên doanh và liên kết, từ sản xuất đến chế biến

và tiêu thụ đến người tiêu dùng cuối cùng gọi là liên kết theo chiều dọc (chiều

sâu); hình thành chuỗi giá trị ngành hàng nông sản.

Để đưa nông sản đến người tiêu dùng, mỗi ngành hàng nông sản hình

thành nên chuỗi giá trị ngành hàng riêng của nó. Chuỗi ngành hàng là tập hợp

các tác nhân (hay các bộ phận hợp thành của tác nhân) kinh tế qui tụ trực tiếp

vào việc đưa ra một sản phẩm cuối cùng [24]. Chuỗi giá trị ngành hàng nông

sản được xem như là chuỗi cung cấp của ngành hàng đó. Ở mỗi khâu của chuỗi

ngành hàng nông sản được chuyển từ đối tác này sang đối tác khác, và qua mỗi

khâu giao dịch sẽ làm cho giá trị nông sản tăng thêm. Nhưng trên hết chuỗi giá

trị ngành hàng thể hiện một hệ thống liên kết các đối tác trên chuỗi để nâng cao

hiệu năng hoạt động và chất lượng của chuỗi cung cấp [85]. Chuỗi giá trị

ngành hàng nông sản liên kết chặt chẽ từ người sản xuất, người thu gom, người

chế biến, người bán buôn và người bán lẻ [79].

39

Dòng tài chính và giá trị gia tăng của chuỗi giá trị ngành hàng nông sản,

thì khâu chế biến và tiêu thụ phân phối có giá trị gia tăng cao nhất còn khâu sản

xuất nông nghiệp có giá trị gia tăng thấp nhất; khâu tiêu thụ phân phối có sức

cản lớn nhất khi ra nhập vào chuỗi giá trị ngành hàng.

Để đảm bảo hoạt động của chuỗi thì hạ tầng kỹ thuật như: giao thông,

thông tin liên lạc, dịch vụ kho bãi và logistics, thông tin thị trường, nghiên cứu

và dịch vụ tài chính; ngoài ra thể chế như: qui định, luật định của WTO, hiệp

định thương mại song phương và đa phương, luật trong nước, địa phương, các

hiệp hội... đóng vai trò hỗ trợ nhưng không kém phần quan trọng.

5) Xây dựng một ngành nông nghiệp có năng lực cạnh tranh cao.

Năng lực cạnh tranh có nhiều cấp độ như: năng lực cạnh tranh quốc gia,

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, năng

lực cạnh tranh của ngành hàng cụ thể nào đó và năng lực cạnh tranh của ngành

kinh tế.

Năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng của một nền kinh tế đạt được

tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, đưa đến sự cải thiện lâu dài mức

sống người dân, dựa trên cơ sở tăng năng suất (Theo quan niệm của WEF- diễn

đàn kinh tế thế giới). Có thể nói năng lực cạnh tranh quốc gia bao trùm cả năng

lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp và sản phẩm.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp

trong việc tối đa hoá lợi nhuận, tăng vốn kinh doanh và giá trị doanh nghiệp

trên cơ sở duy trì và mở rộng thị phần, khai thác các nguồn lực đầu vào trong

môi trường cạnh tranh cụ thể. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện

vị thế của doanh nghiệp trên thị trường so với doanh nghiệp khác.

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng chiếm lĩnh và trụ vững

trên thị trường của sản phẩm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đánh giá

qua thị phần của sản phẩm, chất lượng và giá cả sản phẩm. Năng lực cạnh tranh

40

của sản phẩm thể hiện sức sống của sản phẩm với tư cách là một kết quả sản

xuất, kinh doanh của một doanh nghiệp cụ thể.

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm quyết định năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của ngành hàng. Năng lực cạnh tranh của

quốc gia là điều kiện hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và

doanh nghiệp. Từ đó luận án cho rằng, có thể hiểu ngành kinh tế là tổng thể các

ngành hàng, những doanh nghiệp trong mối quan hệ phân công lao động và

hợp tác để tạo ra những sản phẩm cuối cùng nào đó. Theo quan niệm này thì

chủ thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế không những là các quốc gia, các

doanh nghiệp mà còn là tổng thể các doanh nghiệp của từng ngành. Do đó

muốn tham gia cạnh tranh quốc tế thành công thì từng ngành kinh tế của

quốc gia đó phải có năng lực cạnh tranh. Nói tổng quát hơn, năng lực cạnh

tranh của một quốc gia phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của các ngành trong

nền kinh tế. Năng lực cạnh tranh của một ngành lại xuất phát từ năng lực cạnh

tranh của các tiểu ngành, các ngành hàng, các doanh nghiệp trong ngành: khả

năng đổi mới công nghệ, sản phẩm, cung cách quản lý của ngành và môi trường

kinh doanh.

Năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là tổng thể

năng lực cạnh tranh của các tiểu ngành (nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản),

các doanh nghiệp trong ngành và các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản cụ thể.

Xây dựng ngành nông nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là phải nâng cao

năng lực cạnh tranh của từng tiểu ngành; của từng ngành hàng nông, lâm, thủy hải

sản, của các chủ thể sản xuất chế biến và kinh doanh thương mại trong ngành

hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản.

6) Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, bảo quản chế biến, tiêu

thụ đồng bộ và hiện đại. Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật,

kiến trúc đóng vai trò nền tảng cho hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra một cách

bình thường. Trình độ phát triển kết cấu hạ tầng được xem là thước đo trình độ

41

phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Đối với ngành nông nghiệp kết cấu

hạ tầng gồm:

Hệ thống thủy lợi gồm các công trình cấp thoát nước như hồ, đập, đê

ngăn lũ và ngăn mặn, trạm bơm, mương. Thủy lợi đóng vai trò quan trọng

trong việc kiểm soát nước cho cây trồng vật nuôi và giảm tác hại của tự nhiên.

Hệ thống giao thông nội đồng và giao thông nông thôn. Do tính không

thể tách rời giữa nông nghiệp - nông thôn và giữa phát triển kinh tế - xã hội,

mà hệ thống giao thông nông thôn cũng góp phần phát triển nông nghiệp. Hệ

thống cảng biển, cảng sông, cảng cá và khu neo đậu tàu thuyền; các hoạt động

logistics cũng là hạ tầng cho phát triển nông nghiệp.

Hệ thống nhà lưới, nhà kính, sân phơi, lò sấy, kho chứa vật tư, kho chứa

bảo quản nông sản và hạt giống, chuồng trại chăn nuôi và nuôi trồng thủy hải

sản, khu chế biến nông sản, trạm trại giống cây con...

2.1.2.3. Các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp

Các nguồn lực chủ yếu trong phát triển nông nghiệp gồm nguồn tài

nguyên thiên nhiên và môi trường, lao động, vốn, khoa học và công nghệ. Qui

mô và chất lượng của các nguồn lực qui định qui mô phát triển nông nghiệp và

hiệu quả của sản xuất nông nghiệp.

- Tài nguyên thiên nhiên và môi trường, là nguồn lực quan trọng không

thể thiếu trong phát triển nông nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường

trong phát triển nông nghiệp gồm đất đai, ruộng vườn, đồi núi, biển, sông ngòi,

ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển....; nước, khí hậu thời tiết và cả đa dạng

sinh học. Trong nông nghiệp truyền thống, tài nguyên thiên nhiên và môi

trường được coi là nguồn lực thuần túy, nên đã khai thác triệt để và kết quả làm

kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và làm suy giảm môi trường, cũng như

đa dạng sinh học. Hiện nay, quan điểm mới về phát triển nông nghiệp thì tài

nguyên thiên nhiên không chỉ là nguồn lực mà còn là thành tố của môi trường

42

liên quan đến quá trình phát triển nông nghiệp và môi trường sống của con

người và động thực vật. Thách thức lớn đối phát triển nông nghiệp là việc khai

thác tài nguyên thiên nhiên như thế nào để chúng đáp ứng được nhu cầu ngày

càng tăng và đa dạng của con người, nhưng vẫn duy trì được chất lượng lâu dài

của những tài nguyên đó.

- Nguồn lực lao động là lực lượng sản xuất quan trọng, đồng thời là chủ

thể có tính quyết định trong phát triển nông nghiệp và quá trình sinh trưởng,

phát triển của cây trồng vật nuôi. Nông nghiệp truyền thống, lao động không

đòi hỏi phải được đào tạo chuyên nghiệp mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là

chính và lao động nông nghiệp có tính thời vụ; nên trong quá trình phát triển

kinh tế - xã hội, lực lượng lao động nông nghiệp sẽ bị thu hẹp và lao động trẻ

chuyển dần sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy lực lượng lao

động trong nông nghiệp thường có độ tuổi cao và có xu hướng già hóa. Hiện

nay, trong phát triển nông nghiệp hiện đại, lao động nông nghiệp càng dần tiến

đến trình độ chuyên nghiệp và kỹ năng cao để nắm bắt được các quy trình công

nghệ tiên tiến và sử dụng máy móc thiết bị nông nghiệp.

- Vốn sản xuất trong phát triển nông nghiệp, vốn là biểu hiện bằng tiền

của tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài vốn trên, theo nghĩa

rộng, ruộng đất, cơ sở hạ tầng và các tài nguyên thiên nhiên cũng có thể được

coi như là các loại vốn trong sản xuất nông nghiệp. Trong nông nghiệp vốn có

thể chia theo hình thái luân chuyển, hình thái biểu hiện, mục đích sử dụng, hay

theo hình thức sở hữu... Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ, nên vốn trong

nông nghiệp vừa có nhu cầu lớn nhưng mang tính thời vụ; thời gian quay vòng

vốn dài và hệ số quay vòng vốn thấp; vốn đầu tư vào nông nghiệp có tính rủi

do cao không chỉ do khó đoán định được đầu ra của sản phẩm (cả lượng và giá

của sản phẩm), mà còn do thiên tai dịch bệnh có thể mất cả vốn.

- Khoa học và công nghệ trong phát triển nông nghiệp, “Khoa hoc là hệ

43

thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy;

còn công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng bí quyết, công

cụ, phương tiện để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” [28]. Công nghệ

được chia thành “phần cứng” và “phần mền”; phần cứng phản ánh phương

pháp sản xuất, quy trình và kỹ thuật canh tác, quy trình công nghệ sản xuất, kỹ

thuật để tạo ra sản phẩm, nó là điều kiện để nâng cao năng suất lao động. Khi

những tiến bộ đột phá của kỹ thuật sẽ làm thay đổi phương pháp sản xuất, quy

trình và kỹ thuật canh tác, quy trình công nghệ sản xuất... Phần mền là những

nhân tố liên quan đến trình độ thành thạo của con người, những bí quyết, quy

trình, phương pháp, bản thiết kế, công nghệ vi sinh, giống, công nghệ gen..., và

cuối cùng là những thành phần tổ chức thể hiện cách bố trí, xắp xếp, điều phối

và quản lý.

- Sử dụng các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp. Vấn đề huy động

và sử dụng các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp là vấn đề rất quan trọng,

không chỉ hiện tại mà còn liên quan đến phát triển nông nghiệp trong tương lai,

do vậy cần quan tâm vấn đề sau:

Qui mô và chất lượng các nguồn lực được huy động quyết định đến tốc

độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Tăng qui mô khai thác tài nguyên

thiên nhiên, lao động và vốn làm cho nông nghiệp tăng trưởng theo chiều rộng;

cách này hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp không

cao, thậm chí còn làm suy kiệt nguồn tài nguyên. Tăng trưởng theo chiều sâu là

tăng trưởng do tăng năng suất lao động, năng suất lao động cao có được là do

tăng qui mô sử dụng nguồn lực khoa học - công nghệ tiên tiến và nguồn lao

động chất lượng cao. Các nước có nền nông nghiệp phát triển do hội đủ các

điều kiện như chất lượng nguồn nhân lực cao và trình độ khoa học và công

nghệ tiên tiến nên phát triển nông nghiệp theo chiều sâu. Các nước đang và

chậm phát triển do có nguồn lao động và giá nhân công rẻ và tài nguyên còn

44

dồi dào có thể tăng trưởng theo chiều rộng trong một chừng mực nhất định,

nhưng phải chuyển dần sang tăng trưởng theo chiều sâu. [21]

Vai trò của nhà nước và thị trường đối với việc huy động và sử dụng các

lực để phát triển nông nghiệp rất quan trọng. Dưới sự điều tiết của thị trường

và hiệu quả quản lý tốt của nhà nước, các nguồn lực trong xã hội sẽ được huy

động và sử dụng có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp không chỉ

nhằm mục tiêu CNH, HĐH nền kinh tế mà còn gắn liền với an ninh lương

thực, xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường sinh thái; nên chính phủ cần

có biện phát điều tiết quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát

triển nông nghiệp đảm bảo tính hiệu quả cao trong phát triển đất nước.

2.1.2.4. Nhân tố xã hội và chính sách trong phát triển nông nghiệp

Nhân tố xã hội và chính sách trong phát triển nông nghiệp có thể là tập

quán, kinh nghiệm sản xuất và đổi mới chính sách trong nông nghiệp.

- Tập quán và kinh nghiệm sản xuất: Nền nông nghiệp sản xuất nhỏ,

manh mún chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sản xuất theo kiểu cha truyền con nối

và sản xuất tự cung tự cấp. Mục đích của sản xuất tự cung tự cấp chỉ nhằm đảm

bảo cái ăn, ít có ý tưởng thay đổi phương thức sản xuất, tiếp cận thị trường,

nâng cao sức sản xuất và cải thiện thu nhập... Do vậy, phải khuyến khích và

đưa tiến bộ khoa học công nghệ đến với nông dân nhằm nâng cao năng suất lao

động, năng suất cây trồng vật nuôi để tăng thu nhập cho nông dân. Thu nhập

tăng tạo cơ hội nhiều hơn cho nông dân lựa chọn giữa tích lũy đầu tư và tiêu

dùng, kích thích họ đổi mới cuộc sống và nâng cao năng lực sản xuất của chính

họ. Từ xuất phát điểm là nền nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, canh tác lạc

hậu, các nông hộ sản xuất nhỏ phải đối diện nhiều rủi ro như: 1) Khó tiếp cận

thông tin thị trường, sản xuất nhỏ chủ yếu để tự cung tự cấp, thừa mang ra trao

đổi, nên chính họ cũng ít quan tâm đến thị trường; thứ nữa có quan tâm cũng

khó tiếp cận, bởi các đối tác không muốn giao dịch với các nông hộ nhỏ và

45

cũng không thể, họ chỉ muốn giao dịch với các đại diện, đại lý; nên các nông

hộ nhỏ nếu không liên kết khó tiếp nhận được thông tin. 2) Khó tiếp cận vốn và

khoa học công nghệ, các nông hộ qui mô nhỏ nên khó tập hợp đủ nguồn lực

của mình để tiếp cận vốn và khoa học công nghệ để sản xuất ra những sản

phẩm đáp ứng nhu cầu. 3) Khối lượng nông sản sản xuất nhỏ, đây luôn là thách

thức lớn đối với nông hộ và cả trang trại, nếu không liên kết trong sản xuất khó

có khối lượng nông sản đủ lớn và ổn định, khi đó luôn gặp rủi ro về giá và

lượng. 4) Chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm thấp, sản xuất nhỏ và theo

kinh nghiệm thường không theo quy trình canh tác phù hợp, chất lượng nông

sản thấp, không đồng đều, vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo nên rất

khó thâm nhập vào thị trường nông sản toàn cầu.

- Chính sách trong phát triển nông nghiệp, ngày nay, vai trò của nhà

nước trong phát triển kinh tế không còn là vấn đề bàn cãi là cần hay không, mà

là làm thế nào để kết hợp tốt vai trò của nhà nước và thị trường trong phát triển

kinh tế. Vai trò của nhà nước trong phát triển nông nghiệp thể hiện ở những

vấn đề sau: 1) Hoạch định chiến lược; 2) qui hoạch; 3) ban hành chính sách

phát triển nông nghiệp, chính sách hỗ trợ nông dân theo đúng cam kết hội nhập

KTQT (cam kết WTO, khu vực, đa phương và song phương), đổi mới thể chế

nông nghiệp nhằm góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh theo hướng

hiệu quả và bền vững.

Theo nhà kinh tế học Josepth E. Stiglitz cho rằng “Sự thành công về mặt

kinh tế đòi hỏi phải tạo nên lực cân bằng giữa chính phủ và thị trường”. [83]

Thị trường có thể tạo ra cơ chế phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, còn việc sử

dụng hiệu quả các nguồn lực thì thị trường lại không thể; thị trường cũng

không thể hạn chế những rủi ro trong sản xuất nông nghiệp; thị trường cũng

không thể tạo ra cơ hội thu hút dầu tư vào nông nghiệp và nông thôn; thị

trường càng không thể bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình tăng trưởng

46

nông nghiệp. Để đảm bảo được vai trò kinh tế - xã hội, môi trường của nông

nghiệp và đảm bảo bảo nông nghiệp phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững

không thể thiếu vai trò nhà nước thông qua hệ thống phát luật và chính sách.

Chính sách nông nghiệp được xem là tổng thể các biện pháp kinh tế và

các biện pháp khác của nhà nước từ trung ương đến địa phương tác động đến

nông nghiệp và các ngành, các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến nông nghiệp

nhằm đạt những mục đích nhất định, với những điều kiện thực hiện nhất định

và trong một thời hạn xác định. Những nhân tố xã hội tích cực và chính sách

nông nghiệp tốt sẽ trở thành nguồn lực trong phát triển nông nghiệp và ngược

lại nó cản trở sự phát triển nông nghiệp.

2.1.2.5. Tiêu chí đánh giá phát triển nông nghiệp

Từ nghiên cứu vai trò của nông nghiệp, phát triển nông nghiệp và nguồn

lực để phát triển nông nghiệp, những Quy định, Hiệp định của WTO có liên

quan đến lĩnh vực nông nghiệp và tác động của nó đến phát triển nông nghiệp.

Luận án đề xuất một số tiêu chí đánh giá phát triển nông nghiệp trước và sau

khi gia nhập WTO, và các chỉ tiêu đánh gía việc thực hiện các tiêu chí, như

sau:

- Về tăng trưởng nông nghiệp: Để đánh giá tăng trưởng nông nghiệp sử

dụng các chỉ tiêu: tăng trưởng GDP của ngành nông nghiệp, tăng trưởng giá trị

sản xuất nông nghiệp và các tiểu ngành, tăng trưởng xuất khẩu nông, lâm, thủy

hải sản, thặng dư thương mại nông sản trước và sau WTO…

- Về chuyển dịch cơ cấu: Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP, tỷ

trọng giá trị sản xuất của các tiểu ngành, theo thời gian phản ánh tác động của

gia nhập WTO đến việc phân bổ các nguồn lực trong nông nghiệp có phát huy

được lợi thế cạnh tranh và theo thiên hướng phát triển những ngành hàng,

những cây trồng vật nuôi sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều lao động hay là phát

triển ngành hàng có giá trị gia tăng cao…

47

- Đầu tư xây dựng nền nông nghiệp hiện đại dựa trên khoa học và công

nghệ tiên tiến. Các tiêu chí thể hiện khoa học và công nghệ tiên tiến áp dụng

trong nông nghiệp với các chỉ tiêu như: 1) thu hút vốn đầu tư nước ngoài và

trong nước vào sản xuất nông nghiệp; 2) số lượng các mô hình công nghệ tiên

tiến áp dụng trong nông nghiệp…

- Thúc đẩy mạnh chuyên môn hóa, tập trung hóa và hợp tác, liên doanh

liên kết trong phát triển nông nghiệp: Tỷ trọng các ngành hàng trong kim

ngạch xuất khẩu, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, cơ cấu thị trường (thị phần), các

mô hình hợp tác, liên doanh liên kết…

- Xây dựng nền nông nghiệp có năng lực cạnh tranh cao: Để đánh giá

năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị nông

sản toàn cầu được thể hiện thông qua chỉ tiêu như: 1)chỉ số RCA của một số

ngành hàng nông sản xuất khẩu; 2) chỉ số bảo hộ hữu hiệu ERP và danh nghĩa

NPR của nông sản xuất khẩu; 3) thị phần và thị trường xuất khẩu nông sản…

- Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, bảo quản chế biến, tiêu thụ

đồng bộ và hiện đại: Hệ thống chỉ tiêu thể hiện trình độ phát triển hạ tầng phục

vụ nông nghiệp: 1) Diện tích và tỷ lệ được tưới, tiêu; 2) các hồ chứa, đập ngăn

mặn, các trạm bơm; 3) số km đường giao thông, mật độ đường, số xã có đường

ô tô đến trung tâm; 4) diện tích nhà kính, nhà lưới, sân phơi, kho bảo quản, chế

biến; 5) tỷ lệ điện khí hóa, cơ giới hóa, thông tin liên lạc, internet…

2.2. WTO và các Hiệp định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp

2.2.1. Vai trò, nguyên tắc hoạt động của WTO

2.2.1.1. Vai trò của WTO

Tổ chức Thương mại thế giới được thành lập vào ngày 1/1/1995, tại thời

điểm đó, tổng số các bên ký kết GATT là 128 nhưng chỉ có 76 nước trong số

này trở thành Thành viên WTO. Số còn lại sau thời điểm trên mới tham gia

WTO (12/1995). Hiện nay đã có trên 150 nước và vùng lãnh thổ tham gia

48

WTO, Việt Nam là thành viên 150 của tổ chức này. WTO là tập hợp những

Quy định, các Hiệp định, mà nòng cốt là các Hiệp định, được tất cả các thành

viên của WTO đàm phán và ký kết. Những văn bản này tạo thành quy định

pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế.

WTO chiếm 97% GDP và 85% giá trị thương mại hàng hóa và 90% giá

trị thương mại dịch vụ toàn cầu. Khác với GATT chỉ bao quát thương mại hàng

hóa, WTO đã mở rộng phạm vi điều tiết hoạt động thương mại toàn cầu từ lĩnh

vực chủ yếu là thương mại hàng hoá sang các lĩnh vực thương mại dịch vụ,

thương mại liên quan đến đầu tư và thương mại liên quan đến các quyền sở

hữu trí tuệ, và đặc biệt là thương mại nông sản. Mặc dầu khó tính toán được

mức độ đóng góp của WTO, nhưng có thể khẳng định: hơn 10 năm thành lập,

WTO đã có đóng góp đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng thương

mại và đầu tư, giải quyết nhiều vụ tranh chấp kinh tế căng thẳng, góp phần ổn

định kinh tế và thương mại thế giới. Vai trò của WTO như sau:

WTO góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng của kinh tế -

thương mại toàn cầu. WTO tạo ra một môi trường chung lành mạnh cho phát

triển thương mại toàn cầu và qua đó đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế

thế giới. Thông qua việc cắt giảm thuế quan, phi thuế quan, cải cách thể chế

thương mại theo hướng minh bạch, không phân biệt đối xử, nhờ đó thúc đẩy sự

trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, lao động trên phạm vi toàn cầu, tạo

điều kiện cho sản xuất phát triển nhanh hơn.

WTO thể chế hóa khung khổ pháp lý, điều tiết thương mại toàn cầu. Các

Quy định và Hiệp định của WTO là luật chơi chung đối với các nước tham gia

vào kinh tế toàn cầu. Đây là những định chế thương mại quan trọng và có hiệu

lực nhất hiện nay. Sau năm 1995, WTO đã thể chế hoá luật chơi chung của thế

giới mà trước đó chưa từng có. Chính vì vậy, gia nhập WTO là xu thế chung

trên thế giới và đặc biệt đối với các nước đang phát triển và các nền kinh tế

49

chuyển đổi. Có thể đánh giá thành công lớn nhất của WTO là góp phần duy trì

sự ổn định thế giới. WTO thể chế hoá các quy định điều tiết kinh tế thương mại

toàn cầu theo các nguyên tắc chung do đó tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác

và phát triển. WTO giải quyết vấn đề này thông qua việc giải quyết các xung

đột về quyền lợi kinh tế giữa các thành viên làm hạn chế tối đa khả năng xung

đột về quyền lợi kinh tế dẫn tới các xung đột về chính trị, quân sự.

Một số quan điểm khác về vai trò của WTO, hiện nay vẫn còn một số Tổ

chức phi Chính phủ như (NGOs, Oxfam…) có quan điểm tương đối khác về

mục tiêu và đóng góp của WTO. Họ cho rằng gia nhập WTO hiện nay của các

nước thành viên mới là không công bằng. Một số quan điểm khác cho rằng

toàn cầu hoá hiện nay làm phân hoá sâu sắc hơn chênh lệch giầu nghèo, phân

chia lợi ích bất bình đẳng giữa các nước và các nhóm xã hội, làm nảy sinh các

vấn đề khác như ô nhiễm môi trường, xung đột văn hoá, xã hội…

Tóm lại, mặc dù còn có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò và đóng

góp của WTO, tuy nhiên, như Peter Gallagher, tác giả cuốn sách “The first Ten

Years of WTO, 1995-2005” nhận định: “Sau 10 năm thành lập, có thể thấy rõ

rằng, nếu không có WTO, thị trường thế giới sẽ trở nên nhỏ bé hơn, cơ hội

thương mại sẽ trở nên ít ỏi hơn, sẽ có ít hơn các quốc gia thành công từ hội

nhập và những nước chậm phát triển sẽ có ít sự lựa chọn hơn cho sự phát triển

của mình” [87].

2.2.1.2. Nguyên tắc hoạt động của WTO

Các Quy định, Hiệp định của WTO rất dài và phức tạp vì đó là những

văn bản pháp lý quy định rất nhiều lĩnh vực hoạt động như: nông nghiệp, hàng

dệt may, ngân hàng, viễn thông, thị trường công, tiêu chuẩn công nghiệp, quy

định an toàn vệ sinh của sản phẩm, sở hữu trí tuệ và nhiều lĩnh vực khác. Tuy

nhiên, có một số nguyên tắc đơn giản và cơ bản là kim chỉ nam cho tất cả các

lĩnh vực và trở thành nền tảng của hệ thống thương mại đa biên, đó là:

50

- Không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên

tắc đối xử quốc gia). Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): Các ưu đãi thương mại của

một thành viên dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất

cả các thành viên trong WTO. "Tối huệ quốc" có nghĩa là nước được “ưu đãi

nhất", nước được “ưu tiên nhất". Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc

WTO quy định các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương

mại của mình. Đãi ngộ quốc gia (NT): Không được đối xử với hàng hóa và

dịch vụ nước ngoài cũng như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ

đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tự trong nước.

- Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm

phán): Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị

trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải

cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế (cấm, hạn chế, hạn

ngạch, giấy phép...). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO cho

thấy đó là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm cả

đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế, dần dần mở rộng sang đàm phán cả

những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ... Sự nhượng bộ

trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực hiện

thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.

- Tính Dự đoán thông qua cam kết, ràng buộc,ổn định và minh bạch:

Các quy định và quy chế thương mại phải đợc công bố công khai và thực hiện

một cách ổn định. Ðây là nguyên tắc quan trọng của WTO, là nỗ lực của hệ

thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên WTO tạo ra một môi

trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán. Nội dung của nguyên tắc

này bao gồm:

Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan: Bản chất của thương mại trong

WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân nhượng thuế quan cho nhau. Song để

51

chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam kết và không thay

đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau đàm phán,

mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan, gọi

là các mức thuế suất ràng buộc.

Về các biện pháp phi thuế quan: Biện pháp phi thuế quan là biện pháp

sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các

biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền

hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương

mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO

yêu cầu Chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai

"minh bạch" các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình.

Ðồng thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành

viên thông qua cơ chế rà soát chính sách thương mại.

- Thiết lập môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn: Trên thực

tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại, song trong rất

nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về bảo hộ. Do

vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện

pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp..., hoặc các biện

pháp bảo hộ khác. Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường

hợp nào là cạnh tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó

được phép hay không được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ,

chống bán phá giá, chống trợ cấp...

- Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn

cho các nước kém phát triển: Các nước thành viên, trong đó có các nước đang

phát triển, thừa nhận rằng tự do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa

biên trong khuôn khổ của WTO đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia.

Song các thành viên cũng thừa nhận rằng, các nước đang phát triển phải thi

52

hành những nghĩa vụ của các nước phát triển. Trong khi đó, số thành viên của

WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi

nền kinh tế chiếm hơn 3/4 số nước thành viên của WTO. Do đó, WTO đã đưa

ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế ở các nước

đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho những nước

này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu

rộng hơn của các nước này vào hệ thống thương mại đa biên. WTO dành cho

các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh

hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực hiện các Hiệp định của WTO. Ngoài

ra, WTO cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ

kỹ thuật ngày một nhiều hơn.

2.2.2. Các Hiệp định của WTO về nông nghiệp và những cam kết

Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều

chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4

phụ lục của hiệp định về việc thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được kí

kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15/4/1994. Các nước muốn trở thành thành

viên của WTO phải kí kết và phê chuẩn hầu hết những Hiệp định, ngoại trừ các

thỏa thuận tự nguyện. Sau đây sẽ là một số hiệp định của WTO có liên quan

nhiều đến lĩnh vực nông nghiệp:

2.2.2.1. Hiệp định về nông nghiệp (AoA)

Mục tiêu tổng thể của Hiệp định về Nông nghiệp là quy định một khuôn

khổ cho việc cải cách về thương mại nông sản và chính sách nông nghiệp của

các thành viên WTO; trên ba lĩnh vực: tiến cận thị trường, hỗ trợ nông nghiệp

trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản xuất khẩu.

- Về tiếp cận thị trường: Thuật ngữ “tiếp cận thị trường” được dùng trong

Hiệp định này để chỉ khả năng của các sản phẩm nông nghiệp nước ngoài có

thể thâm nhập vào thị trường của các nước nhập khẩu nông sản. Sau nhiều

53

vòng đàm phán, các thành viên WTO đã nhất trí chuyển tất cả các hạn chế về

số lượng đối với việc nhập khẩu hàng nông sản thành thuế quan. Các mức thuế

quan, đã được tính để cắt giảm với một mức trung bình là 36% đối với các

nước phát triển trong vòng 6 năm và với tổng là 24% đối với các nước đang

phát triển trong vòng 10 năm.

- Về hỗ trợ trong nước: Theo Hiệp định về Nông nghiệp, tất cả các thành

viên WTO phải tính tổng giá trị trợ cấp mà chính phủ của họ dành cho các nhà

sản xuất nông nghiệp “Tổng lượng hỗ trợ tính gộp” hay “AMS”. Sau khi đã

xác định được AMS thì các thành viên WTO sẽ phải cam kết cắt giảm bắt buộc

ở mức độ nhất định.

Các biện pháp trợ cấp trong nước không tác động đối với thương mại

quốc tế được gọi là trợ cấp “hộp xanh” được loại trừ khỏi nghĩa vụ phải cắt

giảm. Các chính sách liên quan đến hộp xanh bao gồm hỗ trợ của Chính phủ

đối với nghiên cứu về nông nghiệp, kiểm soát bệnh dịch, hạ tầng nông nghiệp

và an ninh lương thực cũng như các chi trả cho các nhà sản xuất nông nghiệp

không liên quan đến các mức độ sản xuất của họ.

- Về trợ cấp xuất khẩu: Theo Hiệp định, trợ cấp xuất khẩu trong giai đoạn

đầu chưa bị cấm ngay. Các nước phát triển bị yêu cầu phải cắt giảm 36% các

trợ cấp của họ đối với việc xuất khẩu nông nghiệp và 21% số lượng hàng xuất

khẩu được trợ cấp trong vòng 6 năm. Các nước đang phát triển được yêu cầu

thực hiện nghĩa vụ thấp hơn, mức độ cắt giảm chỉ bằng hai phần ba so với mức

độ cắt giảm đặt ra đối với các nước phát triển [52].

2.2.2.2. Hiệp định về áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật

Hiệp định SPS điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm

dịch động thực vật liên quan đến sức khoẻ của người, động thực vật và an toàn

thực phẩm. Hiệp định thừa nhận các Chính phủ có quyền thực hiện các biện

pháp SPS để bảo vệ người dân. Tuy nhiên, các biện pháp này cần được áp dụng

54

ở mức độ cần thiết để phòng ngừa, bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con

người, động thực vật; về bản chất phải có căn cứ khoa học hoặc không phân

biệt đối xử đối với các sản phẩm của các thành viên WTO khác nhau khi có

cùng các điều kiện.

Nói chung, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật phải dựa

trên các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế; và thiết lập các thủ tục áp dụng các quy

chuẩn, tiêu chuẩn SPS. SPS cũng quy định về sự thừa nhận lẫn nhau về các quy

chuẩn, tiêu chuẩn vệ sinh, dịch tễ và kiểm dịch và cũng có các quy định về việc

đánh giá sự phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia và cho phép các sản

phẩm từ các thành viên WTO khác nhau nhập khẩu vào các nước WTO [53].

2.2.2.3. Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở

hữu Trí tuệ (TRIPS)

TRIPS góp phần thúc đẩy chuyển giao và phổ biến công nghệ, đem lại lợi

ích cho người tạo ra và người sử dụng công nghệ, thúc đẩy phát triển kinh tế,

và tạo sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ. TRIPS đề ra các quy định cơ bản

về tiêu chuẩn tối thiểu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: quyền tác giả và các quyền

liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế,

thiết kế bố trí mạch tích hợp, thông tin… Một số lĩnh vực của TRIPS có thể tác

động nhiều nhất đến nông nghiệp: Chỉ dẫn địa lý trong Điều 22 yêu cầu các

nước thành viên phải bảo vệ các chỉ dẫn đã được xác định theo định nghĩa

nhằm ngăn ngừa sai tên ứng dụng; Điều 27.3b quy định giống cây trồng và các

vấn đề liên quan đến công nghệ sinh học. Mục đích Điều 27.3b yêu cầu các

nước thành viên phải đưa ra sự bảo hộ văn bằng sáng chế cho các chủng vi sinh

(như vi khuẩn); bảo vệ văn bằng sang chế cho các quy trình vi sinh và phi sinh

học phục vụ sản xuất cây trồng và vật nuôi; phải bảo hộ các giống cây trồng

thông qua văn bằng sáng chế hoặc một hệ thống riêng thực tế hoặc bằng sự kết

hợp giữa hai hệ thống này dưới mọi hình thức [55].

55

2.2.2.4. Các hiệp định khác có điều chỉnh đến nông nghiệp

- Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại (TBT):

TBT được áp dụng cho các yêu cầu về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được

soạn thảo để áp dụng cho tất cả các sản phẩm, trừ phần các yêu cầu về SPS

được soạn thảo để áp dụng cho sản phẩm là thực phẩm được quy định trong

SPS. TBT công nhận rằng các nước có quyền sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế

để quy định các quy chuẩn, tiêu chuẩn tối thiểu của nước mình mà sản phẩm

nhập khẩu cần phải được đáp ứng, nhưng cũng cho phép các nước được duy trì

các quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành của mình nếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn

đó không tuỳ tiện và phân biệt đối xử đối với hàng hoá của các thành viên

WTO khác. [54]. Chẳng hạn trong đàm phán Hiệp định TTP, Mỹ đưa ra tiêu

chuẩn kỹ thuật tối thiểu mà các nước muốn xuất khẩu nông sản vào Mỹ phải áp

dụng, đó là cản trở cho các nước xuất khẩu nông sản, vấn đề nầy vẫn đang

tranh luận.

- Hiệp định Chống bán phá giá (AD): Theo định nghĩa tại khoản 1 Điều

VI của GATT 1994: “bán phá giá là cách hàng hóa của một nước được đưa vào

thị trường của nước khác với mức giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng

hóa”. Nói cách khác, bán phá giá xảy ra khi giá xuất khẩu thấp hơn giá trị

thông thường. Trong tất cả các cuộc điều tra chống bán phá giá, thì cơ quan

điều tra của nước nhập khẩu phải xác định được có hành vi bán phá giá một sản

phẩm nhất định và phải tính toán được biên độ bán phá giá của sản phẩm đó,

việc này được thực hiện dựa trên việc so sánh giữa “giá xuất khẩu” và “giá trị

thông thường” của sản phẩm.

AD quy định các quyền cơ bản để các thành viên WTO áp dụng các biện

pháp chống lại hành vi bán phá giá để đối phó lại việc xuất khẩu không lành

mạnh các sản phẩm thương mại khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Trên thực

tế, hành vi chống bán phá giá là hành vi của nước nhập khẩu đánh thuế nhập

56

khẩu bổ sung đối với một loại hàng hóa cụ thể từ một nước xuất khẩu cụ thể

nào đó, nhằm cân bằng giữa giá hàng nhập khẩu và giá trị thực của nó, nhằm

giảm thiệt hại đối với sản xuất trong nước nhập khẩu. [56].

Nguyên tắc của WTO là mọi đối tác khi tham gia vào các hoạt động

thương mại quốc tế phải là những thực thể kinh tế độc lập và các quyết định

đưa ra cũng phải độc lập với ý muốn của nhà nước và chỉ dựa trên những lợi

ích về kinh tế (có thể hiểu đó là nền kinh tế thị trường). Theo định nghĩa của

UNCTAD về nền kinh tế “phi thị trường” tại khoản 3 điều VI hiệp định GATT

1994 như sau: - Một nền kinh tế trong đó Chính phủ quyết định các hoạt động

kinh tế phần lớn dựa trên cơ chế kế hoạch hóa tập trung, trái ngược với nền

kinh tế thị trường trong đó các hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào các lực

lượng thị trường để phân bổ nguồn lực sản xuất. - Trong một nền kinh tế “phi

thị trường”, các kế hoạch sản xuất, giá cả, chi phí, phân bổ đầu tư, nguyên vật

liệu, lao động, thương mại quốc tế và các chỉ số kinh tế tổng hợp khác được

triển khai trong một kế hoạch kinh tế tổng thể của cả quốc gia do một cơ quan

kế hoạch trung ương xây dựng; như vậy khu vực công đưa ra các quyết định

chủ yếu ảnh hưởng đến cung cầu trong nền kinh tế. Khi một nước bị coi là có

nền kinh tế phi thị trường, doanh nghiệp của các nước có nền kinh tế phi thị

trường sẽ phải chịu sự phân biệt đối xử so với doanh nghiệp thuộc các nước có

nền kinh tế thị trường.

Các doanh nghiệp xuất khẩu của nước có nền kinh tế phi thị trường sẽ gặp

phải sự bất lợi vô cùng lớn khi các nước nhập khẩu sử dụng Hiệp định Chống

bán phá giá AD, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM) trong

các cuộc điều tra chống bán phá giá do ba nguyên nhân chính sau: Thứ nhất,

việc sử dụng giá và chi phí sản xuất tại nước thay thế sẽ dẫn đến biên độ bán

phá giá rất cao; vì các nhà sản xuất tại nước thay thế đang cạnh tranh với các

nhà xuất khẩu tại nước bị coi là nền kinh tế phi thị trường và do đó, sẽ không

57

có lợi cho họ trong việc giảm thiểu việc tìm ra yếu tố bán phá giá. Thứ hai,

việc sử dụng các số liệu của nước thay thế dẫn đến nhiều lợi thế so sánh của

nước có nền kinh tế phi thị trường không được xem xét trong quá trình điều tra,

triệt tiêu hết lợi thế so sánh. Thứ ba, những quy định lựa chọn nước thay thế

khá chung chung, nên nhiều khi rất tùy tiện, cộng với việc lựa chọn giá thay

thế (phần nào mang tính chủ quan) sẽ ảnh hưởng đáng kể đến kết quả tính biên

độ phá giá.

Cho đến nay, quy chế nền kinh tế phi thị trường mang lại rất nhiều bất lợi

cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam trong các cuộc điều tra chống

bán phá giá so với các doanh nghiệp thuộc các nền kinh tế thị trường. Rất

nhiều doanh nghiệp của Việt Nam trong đó có lĩnh vực nông nghiệp đã và đang

phải chịu nhiều thiệt thòi trong các cuộc điều tra chống bán phá giá vì toàn bộ

số liệu về giá cả và chi phí sản xuất tại Việt Nam đều bị cơ quan điều tra của

nước nhập khẩu từ chối xem xét.

Hiện nay, trong WTO chỉ có hai thành viên cam kết về địa vị nền kinh tế

phi thị trường là Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam chấp nhận bị coi là nền

kinh tế phi thị trường (Non-Market Economy - NME) trong vòng 12 năm kể từ

khi gia nhập WTO (nhưng không muộn hơn 31/12/2018); và chấp nhận không

chỉ các điều khoản liên quan đến chống bán phá giá và các biện pháp đối kháng

(áp thuế chống bán phá giá và áp thuế chống trợ cấp xuất khẩu). So sánh với

Trung Quốc thì có thể thấy rằng, cam kết của chúng ta ít bất lợi hơn nhiều. Khi

gia nhập WTO, Trung Quốc cam kết chấp nhận việc bị coi là nền kinh tế phi

thị trường trong 15 năm kể từ khi gia nhập và chấp nhận không chỉ các điều

khoản liên quan đến chống bán phá giá và các biện pháp đối kháng, mà còn có

thể bị áp dụng cơ chế tự vệ và giám sát đặc biệt.

- Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM): Hiệp định

SCM làm rõ và bổ sung thêm cho các quy định của các Điều 6, 16 và 23 của

58

GATT 1994. SCM đưa ra định nghĩa thế nào được coi là “trợ cấp” và quy định

rõ chỉ các trợ cấp “cụ thể”, tức là các trợ cấp chỉ dành cho một doanh nghiệp

hoặc một ngành cụ thể chứ không phải trợ cấp chung, được điều chỉnh bởi

SCM. Có ba loại trợ cấp được xác định trong Hiệp định SCM cụ thể như sau:

Thứ nhất, các trợ cấp bị cấm là các trợ cấp chỉ dành cho một doanh

nghiệp nếu doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm. Các trợ cấp bị cấm phải bị loại

bỏ ngay lập tức nếu cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO xác định rằng đó

là các trợ cấp bị cấm. Thứ hai, các trợ cấp có thể bị kiện là các trợ cấp của

Chính phủ dành cho các ngành trong lãnh thổ của mình. Nếu các hàng hoá

được sản xuất với những lợi ích có được từ các trợ cấp này được xuất khẩu và

gây ra tổn hại cho các nhà sản xuất các hàng hoá tương tự của nước nhập khẩu,

thì nước nhập khẩu có thể áp thuế đối kháng đối với hàng hoá đó để bù đắp cho

những ảnh hưởng của việc trợ cấp. Thứ ba, các trợ cấp không bị kiện là các trợ

cấp không cụ thể hoặc là các trợ cấp được dành cho việc thúc đẩy nghiên cứu

và phát triển sản xuất hoặc để thúc đẩy phát triển vùng hoặc để hỗ trợ nâng cấp

phương tiện kỹ thuật cho phù hợp với các yêu cầu mới về môi trường. Thuật

ngữ thuế đối kháng (thuế chống trợ cấp xuất khẩu) được hiểu là một khoản

thuế đặc biệt nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản ưu đãi hay trợ cấp dành trực

tiếp hay gián tiếp cho sản xuất, chế biến hay xuất khẩu. [57].

- Hiệp định về các biện pháp tự vệ (SG): SG cụ thể hoá và quy định chi

tiết các quy tắc của Điều XIX của GATT 1994 (điều khoản tự vệ), cho phép

các nước được quyền có các hành động, thông qua thuế quan hoặc hạn ngạch,

để bảo vệ ngành sản xuất cụ thể trong nước tránh khỏi thiệt hại do việc gia tăng

nhập khẩu có quy mô lớn không dự đoán trước của hàng hoá nước ngoài vào.

SG đặt ra tiêu chí để xác định thế nào là thiệt hại nghiêm trọng và đặt ra các

giới hạn về mức độ mà nước nhập khẩu có thể áp dụng để hạn chế việc nhập

khẩu từ nước ngoài [58].

59

2.2.3. Những cơ hội và thách thức đối với phát triển nông nghiệp khi thực

hiện các cam kết với WTO

2.2.3.1. Những cơ hội cho phát triển nông nghiệp

Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp ổn định và bền vững hơn:

Quá trình gia nhập WTO giúp mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, thúc đẩy

thương mại đặc biệt là các nguồn lực vốn, khoa học và công nghệ cho tăng

trưởng nông nghiệp; đồng thời từ nguồn lực thị trường thúc đẩy phân bổ nguồn

lực cho phát triển nông nghiệp hợp lý hơn giúp tăng trưởng nông nghiệp ổn

định và bền vững hơn.

Thứ hai, tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

hợp lý hơn: Phân bổ nguồn lực cho phát triển nông nghiệp hợp lý, tạo điều kiện

cho các ngành hàng nông sản và những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao phát

triển, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp; đồng

thời cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó tăng thu hút đầu tư vào nông

nghiệp; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nhanh và hợp lý hơn.

Thứ ba, thúc đẩy nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và khoa học

công nghệ, tăng nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp: Gia nhập WTO tạo

điều kiện tăng cường hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với

các nước, tiếp thu công nghệ mới và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên

tiến, nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ doanh nghiệp nước ngoài, nhờ đó nguồn

nhân lực, tiềm lực khoa học, công nghệ, vốn trong nông nghiệp được tăng lên.

Thứ tư, tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước liên doanh, liên kết

và tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu: Gia nhập

WTO tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nông nghiệp tiếp cận thị trường quốc

tế, nguồn tín dụng và các đối tác; đồng thời buộc các doanh nghiệp phải nâng

cao năng lực canh tranh, năng lực tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông

sản toàn cầu và hợp tác, liên doanh, liên kết trong phát triển nông nghiệp.

60

Thứ năm, tăng cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các nông sản hàng

hóa đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh: Gia

nhập WTO chúng ta phải mở cửa thị trường nông sản, tăng cường giao lưu

nông sản; nhờ đó tăng khả năng được tiếp cận nhiều hơn với nông sản hàng

hóa đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cả cạnh tranh. Đồng

thời tạo cho nông hộ có nhiều lựa chọn hơn giữa tích lũy, đầu tư và tiêu dùng;

kích thích tăng sản xuất.

Thứ sáu, thúc đẩy đổi mới và hoàn thiện chính sách phát triển nông

nghiệp hợp lý hơn: Gia nhập WTO tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính

sách nắm bắt tốt hơn thị trường nông sản và xu thế phát triển nông nghiệp của

thế giới, từ đó có thể đổi mới chính sách phát triển nông nghiệp hợp lý.

2.2.3.2. Những thách thức đối với phát triển nông nghiệp

Gia nhập WTO và thực hiện các cam kết của nó không chỉ đưa lại những

cơ hội, trái lại nó cũng đặt ra nhiều thách thức cho phát triển nông nghiệp. Tuy

nhiên, giữa cơ hội và thách thức luôn chuyển hóa lẫn nhau; nếu không phát huy

tốt những cơ hội cho phát triển nông nghiệp thì chúng sẽ trở thành thách thức

và ngược lại những thách thức nếu khắc chế được thì chúng lại trở thành những

cơ hội; có thể khái quát một số thách thức như sau:

Một là, gia nhập WTO làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh

nghiệp nông nghiệp và ngành nông nghiệp gặp khó khăn, thậm chí là phá sản,

từ đó gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế - xã hội.

Hai là, gia nhập WTO làm tăng sự phụ thuộc của nông nghiệp nội địa vào

thị trường nông sản thế giới và khiến nền nông nghiệp dễ bị tổn thương trước

những biến động của cung cầu và giá cả nông sản trên thị trường thế giới.

Ba là, gia nhập WTO làm tăng phân phối không công bằng giữa lợi ích và

rủi ro giữa các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ

làm tăng khoảng cách giàu nghèo.

61

Bốn là, trong quá trình gia nhập WTO, các nước đang phát triển phải đối

mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng

tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng

có giá trị gia tăng thấp, dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công

nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên.

2.3. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước

2.3.1. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở Hà Lan

Hà Lan có diện tích tự nhiên 41.543 km2, dân số giữa năm 2012 là 16,7

triệu người; GDP đạt 836.073,6 triệu USD, tốc độ tăng GDP 0,99%, GDP bình

quân đầu người 42.779,3 USD (2011); trong đó GDP nông nghiệp chiếm 2,0%,

công nghiệp chiếm 23,9%, dịch vụ 74,1% (2010); xuất khẩu đạt 693,92 tỷ

USD, nhập khẩu 619,20 USD [45]. Năm 1995 Hà Lan là một trong những

thành viên đầu tiên của WTO, nền nông nghiệp Hà Lan chủ yếu dựa vào trang

trại gia đình là chủ yếu, nhưng nền nông nghiệp được đánh giá có hiệu suất rất

cao, hơn hẳn Nhật Bản, Pháp và Mỹ; kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của

Hà Lan để hội nhập vào kinh tế toàn cầu như sau:

- Nền nông nghiệp của Hà Lan chủ yếu dựa vào trang trại gia đình

nhưng có trình độ chuyên môn hóa và hiện đại hóa rất cao. Dù đất nông

nghiệp bình quân đầu người ở Hà Lan chỉ 0,058 ha (Việt Nam 0,109 ha) nhưng

với trình độ chuyên môn hóa và hiện đại hóa cao độ, tỷ trọng trang trại chuyên

môn hóa chiếm 92%, là hiện tượng hiếm thấy trên thế giới [90]. Tốc độ phát

triển khoa học và công nghệ trong nông nghiệp Hà Lan được xếp vào những

nước hàng đầu thế giới, đặc biệt thành tựu về giống và sản xuất trong nhà kính

với phương thức đầu tư tập trung cao vốn và công nghệ, thu nhập cao, hiệu

suất nông nghiệp cao. Hiệu suất sản xuất đất của Hà Lan năm 1991 đạt 2.468

USD/ha, hiệu suất lao động đạt 44.339 USD/người; mức xuất khẩu đạt 18.570 USD/ha; 1m2 đất tạo 1,86 USD hơn hẳn các nước khác. [40]

62

- Nền nông nghiệp của Hà Lan là nền nông nghiệp xuất khẩu, tạo ra

ngoại tệ. Đất nông nghiệp của Hà Lan rất ít, lại trũng, thấp hơn mực nước biển,

nhưng với chuyên môn hóa và hiện đại hóa cao, nông nghiệp Hà Lan đã tạo lợi

thế cạnh tranh cao để hướng ra xuất khẩu. Ở Hà Lan, có nông sản có hệ số tự

túc thấp như lương thực sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu

trong nước, ngược lại có những nông sản vượt xa nhu cầu tiêu dùng như: thịt

lợn vượt 283%, thịt bò 160%, thịt gà 221%, trứng 253%, pho mát 224%, bơ

153%, rau 256%, khoai tây 145%, đường 194%...[40]. Những nông sản vượt

nhu cầu đều dành cho xuất khẩu; Hà Lan có 9 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu thế

giới là hoa tươi cắt, cây cảnh trong chậu, cà chua, khoai tây, hành tây, trứng gà,

pho mát khô, sữa đặc, bia đại mạch, bánh ca cao, dầu ca cao; và ba mặt hàng

đứng thứ hai là thịt lợn, sản phẩm sô cô la, thuốc lá.

- Hợp tác, liên doanh, liên kết trong nông nghiệp là nền tảng trong phát

triển nông nghiệp của Hà Lan. Nông nghiệp Hà Lan dựa trên các trang trại

chuyên môn hóa và hiện đại hóa thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tạo nên

tổ hợp nông - công - thương (agribusiness hoặc agri complex), trong đó cấu

thành nên những tổ hợp này là trang trại gia đình. Các tổ chức tín dụng đã đóng

vai trò quan trọng liên kết các trang trại gia đình trong quá trình hình thành,

phát triển các tổ chức hợp tác xã và các hiệp hội ngành nghề của nông dân

- Thành tựu của nông nghiệp Hà Lan có vai trò quan trọng của Chính

phủ trong việc hoạch định chính sách, điều tiết các nguồn lực cho phát triển

nông nghiệp như: 1) Chính sách tích tụ đất đai và phát triển trang trại; 2) chính

sách phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển nông nghiệp, Nhà nước

đầu tư hệ thống các công trình đê biển, hệ thống tiêu thoát nước…; 3) chính

sách tài trợ cho phát triển, nghiên cứu, chuyển giao khoa học và công nghệ

trong nông nghiệp, đào tạo nghề cho nông dân; 4) chính sách khuyến khích

63

phát triển nông nghiệp bền vững như cấp chứng chỉ “sản phẩm sinh thái”, thực

hiện “trách nhiệm xã hội…”

Như vậy, phát triển nông nghiệp của Hà Lan trong hội nhập KTQT rất

chú ý phát triển khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, năng lực

cạnh tranh của sản phẩm và hiệu suất của sản xuất; đồng thời thông qua các

hiệp hội thúc đẩy hợp tác, liên kết tạo thành chuỗi cung ứng từ sản xuất, chế

biến, tiêu thụ đến người tiêu dùng nhằm tạo ra ngành hàng có năng lực cạnh

tranh mạnh, điều hòa lợi ích giữa các khâu có giá trị gia tăng và lợi nhuận thấp.

2.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển nông nghiệp

Trung Quốc có diện tích tự nhiên 9.577.3 nghìn km2, dân số 1.350,4

triệu người (giữa năm 2012); GDP đạt 7.318.499,3 triệu USD, tốc độ tăng GDP

là 9,3%, GDP bình quân đầu người 8.400,2 USD; trong đó nông nghiệp chiếm

10,0%, công nghiệp 46,6% và dịch vụ 43,4%; xuất khẩu đạt 2.296,1 tỷ USD,

nhập khẩu 1.998,29 USD (2011). Lực lượng lao động có 783,9 triệu lao động,

lao động có việc làm 761,1 triệu lao động, trong đó nông nghiệp chiếm 36,7%,

lao động công nghiệp 28,7%, lao động dịch vụ là 34,6 % (năm 2010). Một số

nông sản chủ lực của Trung Quốc gồm: thóc 202,667 triệu tấn, lúa mì 117,410

triệu tấn, ngô 192,904 triệu tấn, mía 115,124 triệu tấn…(2011).[45]

Trung Quốc bắt đầu cải cách, đổi mới và mở cửa từ năm 1978; trước cải

cách, nền kinh tế có cơ cấu nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập thấp, đa số dân cư

sống ở nông thôn (trên 80%) và có tỷ lệ hộ nghèo cao. Đến năm 2003, nông

dân chiếm khoảng 70% dân số, lực lượng lao động nông thôn có 490 triệu

người, song chỉ có khoảng 180 triệu người có việc làm ổn định, hơn 300 triệu

còn lại trong tình trạng bán thấp nghiệp do Trung Quốc gia nhập WTO (sau 2

năm), diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. [22]

Trung Quốc chính thức là thành viên của WTO vào ngày 11/12/2001,

sau hơn 15 năm đàm phán. Gia nhập WTO, kinh tế của Trung Quốc và nền

64

nông nghiệp cũng có điểm xuất phát thấp; Trung Quốc cũng từ nền kinh tế

chuyển đổi và phải chấn nhận nền kinh tế phi trường 15 năm kể từ khi gia nhập

WTO. Bối cảnh gia nhập WTO của Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng

giống Việt Nam trên nhiều khía cạnh. Sau 12 năm gia nhập WTO, Trung Quốc

đã gặt hái được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế nói chung và nông

nghiệp nói riêng. Với quyết tâm tranh thủ tốt thời cơ và khắc chế những thách

thức từ việc thực hiện các cam kết với WTO, Trung Quốc đã thực hiện các

chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp như sau:

Thứ nhất, triệt để cải cách nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp theo

hướng hiện đại và phát triển bền vững. Bảo đảm quyền tự chủ, phát huy tính

tích cực của nông dân; phát triển nhiều loại hình sở hữu, tách quyền sở hữu với

quyền sử dụng; xây dựng nhiều mô hình sản xuất như trang trại, xí nghiệp

hưng trấn, hợp tác xã…; kết hợp cải cách nông nghiệp với cải cách nông thôn

theo hướng thị trường.

Thứ hai, chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cải tạo đất và giải

quyết tốt lao động nông nghiệp dôi dư sao có hiệu quả. Kết hợp hài hòa kinh

doanh cần nhiều lao động với kinh doanh lớn tập trung nhiều vốn và hàm

lượng kỹ thuật cao; nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp được phân bổ hợp lý

hơn; từng bước xóa bỏ sản xuất nông nghiệp manh mún để tập trung phát triển

nông nghiệp qui mô lớn, tạo tiền đề cho đầu tư vốn và công nghệ nhằm đạt tới

nền nông nghiệp hiện đại theo hướng hiệu quả và bền vững.

Thứ ba, với tiềm lực kinh tế mạnh Trung Quốc đã tăng đầu tư cho nông

nghiệp, nông thôn “với phương châm cho nhiều hơn lấy”, tăng đầu tư về cơ sở

hạ tầng nông nghiệp nông thôn, đào tạo nghề cho nông dân cả nghề nông

nghiệp và nghề phi nông nghiệp (hàng năm Trung Quốc có khoảng 8 triệu lao

động nông nghiệp ra các thành phố tìm việc), đầu tư cho khoa học kỹ thuật

nông nghiệp, tăng cường trang bị kỹ thuật vật chất cho nông nghiệp, hệ thống

65

ngành nghề nông nghiệp… Đồng thời giảm thuế, phí cho nông dân (Trung

Quốc đã miễn tòan bộ thuế nông nghiệp cho nông dân cả nước vào năm 2006);

kết hợp với chính sách trợ cấp cho nông dân (khoảng 66,4 tỷ NDT, tương

đương 8 tỷ USD); nhờ vậy, dù bị ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu,

nhưng kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng trên 6%/năm.

Thứ tư, Trung Quốc thúc đẩy mạnh hệ thống cung ứng và tiêu thụ nông

sản theo mô hình liên doanh liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã với các hộ

nông dân hình thành chuỗi giá trị ngành hàng; không ngừng nâng cao năng lực

cạnh tranh quốc tế trong nông nghiệp. Thúc đẩy mạnh hệ thống dịch vụ xã hội

hóa nông nghiệp kiểu mới, đặc biệt dịch vụ chuyển giao khoa học kỹ thuật cho

nông dân. Đồng thời Trung Quốc chủ động điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp trên

cơ sở phát huy mạnh ngành hàng có lợi thế so sánh để tăng năng lực cạnh tranh

trên thị trường quốc tế; chủ động điều chỉnh giảm cơ cấu ngành hàng có lợi thế

cạnh tranh yếu, nâng cao mức sản xuất của ruộng đất, hiệu suất lợi dụng tài

nguyên, năng suất, chất lượng cao, đảm bảo môi trường và phát triển bền vững.

Thứ năm, Trong quá trình thực hiện cam kết với WTO, trở lực lớn về

kinh tế và xã hội là vấn đề chính sách đất đai, tính pháp lý về nhà cửa, hộ khẩu

và chính sách an sinh xã hội… Trung Quốc tiến hành sửa đổi luật cư trú (nông

dân được quyền hoạt động kinh doanh ở quê hay kinh doanh ở những nơi khác

được hưởng quyền lợi, nghĩa vụ và không bị phân biệt đối xử; thừa nhận tính

pháp lý đối với nhà ở và hộ khẩu của những người có việc làm ổn định ở nơi

mới đến); sửa đổi luật đất đai, quy định giá đất sát hơn giá thị trường…; đổi

mới chính sách an sinh xã hội, đời sống nông dân được cải thiện, tỷ lệ hộ

nghèo còn có 2,8% (năm 2009).

2.3.3. Kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp của Thái Lan

Thái Lan có diện tích tự nhiên 514 nghìn Km2, dân số giữa năm 2012 là

69,9 triệu người; GDP 345672,2 triệu USD, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2010

66

là 7,81%/năm, năm 2011 là 0,08%/năm, GDP bình quân đầu người là 8646,1

USD; trong GDP: nông nghiệp chiếm 12,4%, công nghiệp và xây dựng chiếm

41,2%, dịch vụ 46,5%; xuất khẩu đạt 265,97 tỷ USD, nhập khẩu 250,29 USD.

Lực lượng lao động có 38,793 triệu lao động, lao động có việc làm 38,465 triệu

người, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 38,69%. Một số nông sản chủ lực

của Thái Lan gồm: mía đạt 95,95 triệu tấn, sắn 21,912 triệu tấn, thóc 34,588

triệu tấn, ngô 4,817 triệu tấn, cao su 3,349 triệu tấn…(năm 2011) [45]. Thái

Lan là một trong 11 nước trong cộng đồng ASEAN có nhiều nét tương đồng

nhau trong lĩnh vực nông nghiệp (trừ Singapore), với phần đông dân cư làm

nông nghiệp và sống ở nông thôn, có nhiều nông sản xuất khẩu. Thái Lan coi

phát triển nông nghiệp là giải pháp quan trọng nhằm đối phó với khó khăn của

khủng hoảng kinh tế và chính sách của Thái Lan tập trung vào các nội dung

phát triển nông nghiệp như sau:

Thứ nhất, Thái Lan phát triển nông nghiệp theo hướng vừa CMH, TTH

kết hợp với đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp. Vì nông nghiệp là ngành ít chịu

tác động của khủng hoảng kinh tế, đa dạng hóa sẽ không ngặp nhiều khó khăn

về vốn và công nghệ; phục hồi đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp tạo thêm việc

làm, thêm thu nhập và góp phần xóa đói giảm nghèo. Thái Lan tập trung vào

chế biến đa dạng các nông sản đem lại giá trị gia tăng cao như gạo sạch (clean

rice), thực phẩm an toàn, hải sản tươi sống và đóng hộp, các loại hoa, rau…

Phát triển giống cây trồng vật nuôi mới cho năng suất cao và phát triển theo mô

hình CMH, TTH để áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất.

Thứ hai, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời tăng

cường hợp tác, liên doanh, liên kết nhằm hình thành chuỗi cung ứng nông sản

xuất khẩu có năng lực cạnh tranh cao. Thái Lan tập trung vào nâng cao chất

lượng nông sản chế biến, thực hiện chặt việc kiểm soát tiêu chuẩn, chất lượng,

vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện đăng ký bản quyền, nguồn gốc xuất xứ

67

địa lý…, nhờ vậy nông sản Thái Lan có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường

nông sản toàn cầu.

Thứ ba, Thái Lan hoàn thiện và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ

công cho nông nghiệp như: 1) Tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ

nông nghiệp như nghiên cứu và triển khai, chuyển giao khoa học công nghệ

trong nông nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp, đặc biệt hỗ trợ khoa học

và công nghệ chế biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ gen,

công nghệ vi sinh, công nghệ sản xuất giống, nhằm tạo ra nhiều giá trị gia tăng

trong sản xuất nông nghiệp; 2) Triển khai chương trình đào tạo và khuyến

nông; 3) nâng cao chất lượng hạ tầng, cải thiện hệ thống tưới tiêu; 4) hỗ trợ các

hoạt động đầu vào, nhất là tín dụng; 5) phát triển hệ thống tiếp thị nông sản.

Thái Lan chú trọng phát triển nông nghiệp hiện đại theo hướng hiệu quả

và bền vững; xây dựng các mối liên kết kinh tế nhằm phát triển các ngành hàng

có khả năng cạnh tranh cao; chú trọng tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ

trong nông nghiệp, đặc biệt đa dạng hóa chế biến sâu nông sản và công nghệ

sau thu hoạch, tăng năng suất lao động trên cơ sở tạo ra nhiều giá trị tăng thêm.

2.3.4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

2.3.4.1. Về phát triển nông nghiệp

Qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước rút

ra những kinh nghiệm cho phát triển nông nghiệp như sau:

Một là, các nước phát triển nông nghiệp có hiệu quả cao và bền vững

đều biết phát huy lợi thế so sánh của ngành nông nghiệp, khai thác có hiệu quả

nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên, kịp thời điều chỉnh tăng trưởng nông

nghiệp từ chiều rộng sang chiều sâu, chuyển dịch cơ cấu sản xuất hướng tới tối

ưu hoá, đảm bảo phát triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Đặc biệt với các

nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi; khi cải cách, đổi

mới và mở cửa phát triển nông nghiệp chủ yếu nhờ vào tăng diện tích và tăng

68

đầu con; xuất khẩu nông sản thô là chính, ít đầu tư cho chế biến sâu, giá trị gia

tăng thấp…; vì thế tăng trưởng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp giảm dần, rất

dễ rơi vào bẫy “thu nhập trung bình”.

Hai là, phát triển nông nghiệp trên cơ sở không ngừng áp dụng những

thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, đồng bộ từ giống, sản xuất, bảo quản,

chế biến, lưu thông và tiêu thụ. Đổi mới phương thức sản xuất theo hướng tăng

giá trị gia tăng nhờ vào chế biến sâu và những nông đặc sản, sản phẩm chế biến

đặc hữu.

Ba là, phát triển nông nghiệp trên cơ sở không ngừng nâng cao năng lực

cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu trên nền tảng

năng lực cạnh tranh của ngành hàng nông sản. Năng lực cạnh tranh của ngành

hàng là tổng hòa năng lực cạnh tranh của sản phẩm và năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp; với hỗ trợ của năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh

quốc gia có được ngoài năng lực của các ngành hàng trong nền kinh tế còn có

đóng góp của cơ chế chính sách và hạ tầng kỹ thuật…

Bốn là, phát triển nông nghiệp có hiệu quả cao và bền vững trên cơ sở

xây dựng ngành nông nghiệp CMH, TTH cao, phân công và hợp tác, liên

doanh liên kết chặt chẽ. Bởi tham gia WTO, cạnh tranh không chỉ trên thị

trường toàn cầu mà còn cạnh tranh ngay cả thị trường nội địa; nếu không xây

dựng được ngành nông nghiệp CMH,TTH cao, phân công, hợp tác, liên doanh

liên kết chặt chẽ, sẽ thua ngay trên sân nhà.

Năm là, phát triển nông nghiệp không thể thiếu vai trò của nhà nước

trong đầu tư hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực; cũng như các chính sách hỗ trợ

cho nông nghiệp nằm trong nhóm hộp xanh (Green box) và nhóm hổ phách

(Amber box), không quá 10% giá trị sản lượng nông nghiệp đối với các nước

đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi mà WTO cho phép.

69

2.3.4.2. Khung phân tích phát triển nông nghiệp

- Một là, Luận án đánh giá sự phát triển nông nghiệp Việt Nam dựa trên

những tiêu chí đã được xây dựng để đánh giá ở các mặt tăng trưởng nông

nghiệp; chuyển dịch cơ cấu; áp dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong

nông nghiệp; CMH, TTH, hợp tác liên kết từ sản xuất chế biến và tiêu thụ;

năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị của nông sản, của ngành

hàng; kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp.

- Hai là, Chỉ ra những nguyên nhân của thành công và tồn tại trên cơ sở

đánh giá phát triển nông nghiệp kết hợp với phân tích những cam kết với WTO

và điều chỉnh chính sách đối với nông nghiệp sau khi gia nhập WTO.

- Ba là, Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp, kinh

nghiệm và xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới; đề xuất định hướng,

quan điểm và giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam đến năm 2025.

Phạm vi nghiên cứu, luận án tập trung vào phát triển nông nghiệp sau

khi Việt Nam gia nhập WTO nhưng có so sánh với trước khi gia nhập WTO ở

những nội dung cần thiết.

70

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

SAU KHI GIA NHẬP WTO

3.1. Rà soát việc thực hiện cam kết với WTO và điều chỉnh chính sách nông

nghiệp của Việt Nam

3.1.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO

3.1.1.1. Quá trình hội nhập KTQT và WTO

Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu

hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90

Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ

đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần... Về hợp tác đa phương và khu

vực, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ

quốc tế như: Ngân hàng phát triển Á Châu (ADB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF),

Ngân hàng thế giới (WB). Tiến trình hội nhập của Việt Nam được đẩy mạnh

hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký

kết các hiệp định hợp tác kinh tế song phương và đa phương. Tháng 7/1995

Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính

thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996 và

(ATIGA) từ 2015. Tiếp đó tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)

năm 1998, tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

(APEC)… và ngày 11/1/2007 Việt Nam trở thành thành viên của WTO.

Trong xu hướng hội nhập KTQT và khu vực, tiến trình ký kết các FTA

của Việt Nam đã được triển khai cùng với tiến trình gia nhập các tổ chức quốc

tế và khu vực. Đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập FTA với 15 nước trong

khung khổ của 6 FTA khu vực, bao gồm: Khu vực thương mại tự do ASEAN

(AFTA) được thiết lập bởi Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung năm

1996; Hiệp định thương mại hàng hoá trong ASEAN (ATIGA/AFTA) có hiệu

71

lực năm 2015. Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc được thiết lập

bởi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế quốc tế ASEAN - Trung Quốc

(ACFTA) năm 2002. Khu vực thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc

(AKFTA). Khu vực thương mại tự do ASEAN - Nhật Bản (AJFTA) và Hiệp

định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJFTA). Khu vực thương mại tự do

ASEAN - Úc và Nwzealanl (AANZFTA). Khu vực thương mại tự do ASEAN

- Ấn độ (AIFTA), Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN - Ấn độ (AITIG)

ký kết năm 2009…

Ngoài việc ký kết các Hiệp định Thương mại tự do với tư cách là thành

viên khối ASEAN, Việt Nam ký kết độc lập Hiệp định đối tác kinh tế Việt

Nam - Nhật Bản, tiếp đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Chi Lê.

Hiện Việt Nam đang triển khai đàm phán FTA với một số đối tác như EFTA

(bao gồm 4 nước là Thuỵ Sỹ, Na Uy, Liechtenstein và Ai-xơ-len), EU, Đài

Loan, Thổ Nhĩ Kỳ...; Liên minh Hải quan (bao gồm 3 nước là Nga, Belarus và

Kazakhstan), Việt Nam cũng đã tham gia vào đàm phán Hiệp định Đối tác kinh

tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ tháng 11/2010…

3.1.1.2. Thực trạng kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO

Khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam vừa có thuận lợi song cũng gặp

những khó khăn thách thức, bởi điểm xuất phát của nền kinh tế thấp hơn nhiều

so với các thành viên của WTO ngay ở khu vực Đông Nam Á; GDP bình quân

đầu người của Việt Nam đạt 730,0 USD/người/năm, Thái Lan là 3115,9 USD,

Indonesia là 1642,6 USD, Malaysia là 5998,3 USD (năm 2006). GDP nông

nghiệp của Việt Nam chiếm 18,73% trong tổng GDP, Thái Lan chiếm 6,9%,

Malaysia chiếm 7,96%, Indonesia chiếm 7,86% (năm 2006). Về tỷ trọng lao

động nông nghiệp, Việt Nam chiếm 55,1%, Thái Lan 41,78%, Indonesia

41,23%, Malaysia 14,78% (năm 2007).

72

Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế của các nước Đông Nam Á

năm 2006 và 2007

GDP BQ đầu người (USD)

730,0

3115,9

5998,3

1642,6

Tỷ trọng GDP NN (%)

18,73

6,90

7,96

7,86

Tỷ trọng LĐ nông nghiệp(%)

55,10

41,78

14,78

39,47

Nguồn: [64], [65], [66]

Việt Nam Thái Lan Malaysia Indonesia

Khi gia nhập WTO không chỉ với điểm xuất phát kinh tế thấp mà kinh tế

Việt Nam vẫn là nền kinh tế nông nghiệp (chiếm 20% GDP), sản xuất nhỏ và

manh mún, năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị nông sản

toàn cầu rất thấp, bên cạnh đó còn phải chấp nhận là nền kinh tế phi thị trường

trong vòng 12 năm kể từ khi gia nhập.

- Tăng trưởng kinh tế, trước WTO, tốc độ tăng trưởng GDP đạt trên

7%/năm và khá ổn định, sau WTO tốc độ tăng trưởng có xu hướng tăng chậm

lại và thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng dao động trên dưới 6%/năm.

Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam

Năm

Tổng

Dịch vụ

Nông nghiệp

2005

8,59

7,55

4,19

Công nghiệp và Xây dựng 8,42

2006

7,29

8,39

6,98

3,80

2007

7,36

8,54

7,13

3,96

2008

4,13

7,55

5,66

4,69

2009

5,98

6,55

5,40

1,91

2010

7,17

7,19

6,42

3,29

2011

6,68

6,83

6,24

4,02

2012

5,75

5,90

5,25

2,68

2013

5,43

6,56

2,67

5,42 Nguồn: (2012), [43] [69]

(Đơn vị: %)

73

Năm 2013, GDP của toàn nền kinh tế tăng 5,42%, khu vực nông

nghiệp tăng 2,67%, xấp xỉ mức tăng năm trước; khu vực công nghiệp và xây

dựng tăng 5,43%, thấp hơn mức tăng 5,75% của năm trước; khu vực dịch vụ

tăng 6,56%, cao hơn mức tăng 5,9% của năm 2012. Trong mức tăng 5,42%

nông nghiệp đóng góp 0,48 điểm phần trăm, công nghiệp đóng góp 2,09,

dịch vụ đóng góp đóng góp 2,85 điểm phần trăm.

Nguyên nhân ngoài yếu tố ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế năm

2007-2008 và 2011-2012, còn do mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào

khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên cả trong công nghiệp và nông nghiệp;

xuất khẩu chủ yếu nguyên nhiên liệu và nông, lâm, thủy hải sản thô; khi nguồn

tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt thì tốc độ tăng trưởng giảm. Tốc độ tăng

trưởng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm dần, bởi mô hình tăng trưởng theo

chiều rộng, chủ yếu dựa vào tăng diện tích gieo trồng, tăng vụ và tăng đầu con,

khi nguồn tài nguyên đất đai cạn kiệt, tốc độ tăng GDP nông nghiệp cũng

giảm. Tuy nhiên, vào những năm khủng hoảng kinh tế, nông nghiệp trở thành

trụ đỡ của nền kinh tế, cụ thể các năm 2008, 2011 tốc độ tăng trưởng GDP của

nông nghiệp đạt trên 4%.

-Về cơ cấu kinh tế, tỷ trọng GDP của nông nghiệp có xu hướng giảm

dần: 24,53% (năm 2000), 18,73% (2006) và 19,67% (2012).

Giai đoạn trước khi gia nhập WTO, tỷ trọng GDP của nông nghiệp trong

tổng GDP của cả nền kinh tế giảm đều qua các năm; sau WTO, GDP nông

nghiệp tăng giảm trồi sụt, đặc biệt những năm 2008 và 2011, GDP của nông

nghiệp chiếm trên 20%; do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, sản xuất công

nghiệp và dịch vụ giảm sút, nông nghiệp lại khẳng định vai trò trụ đỡ cho nền

kinh tế.

74

Bảng 3.3: Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế (theo giá thực tế)

Tổng

Nông nghiệp

Dịch vụ

Năm

100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00

Công nghiệp và Xây dựng 36,73 38,13 38,49 39,47 40,21 38,13 38,58 38,51 37,08 37,39 38,23 37,90 38,63 38,30

38,74 38,63 38,48 37,99 37,98 42,57 42,69 42,83 42,51 43,44 42,88 42,02 41,70 43,30

24,53 23,24 23,03 22,54 21,81 19,30 18,73 18,66 20,41 19,17 18,89 20,08 19,67 18,40

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Nguồn: [65] - [69]

Đơn vị: %

Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng giảm dần, nếu năm

2007 lao động nông nghiệp chiếm 55,1% trong tổng lao động có việc làm của

toàn nền kinh tế, năm 2012 chỉ còn chiếm 47,4%.

- Về GDP bình quân đầu người, năm 2000 đạt 402 USD/người/năm,

năm 2006 đạt 730 USD (tăng 81,59% so với 2000), năm 2012 đạt 1517 USD

so với 2006 tăng gấp hơn 2 lần, so với 2000 tăng gấp hơn 3 lần.

3.1.2. Rà soát việc thực hiện cam kết với WTO về lĩnh vực nông nghiệp

Trong lĩnh vực nông nghiệp, ngoài Hiệp định của WTO, Việt Nam còn

phải thực các Hiệp định của ASEAN, giữa ASEAN và các đối tác trong khu

vực. Tuy nhiên trong khuôn khổ của luận án, tác giả chủ yếu đề cập các cam

kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO về lĩnh vực nông nghiệp; chủ yếu

Hiệp định AoA và Hiệp định SPS, đây là hai Hiệp định quan trọng nhất.

3.1.2.1. Cam kết và thực hiện cam kết Hiệp định nông nghiệp (AoA)

- Về mở cửa thị trường: Về thuế, cam kết cắt giảm 10,6% đối với thuế

nhập khẩu hàng nông sản so với mức MFN hiện hành và giảm khoảng xấp xỉ

75

20% so với mức MFN hiện hành, từ trên 24,5% xuống còn xấp xỉ 20% (nếu

tính theo mức thuế trong hạn ngạch của các mặt hàng trên). Nếu trừ đồ uống,

rượu bia và thuốc lá, mức cam kết giảm thuế nông sản giảm 18% so với mức

MFN hiện hành (từ 22% xuống 18%). Mức độ giảm có sự khác nhau giữa các

sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm. Nhưng tổng quát chung là các sản phẩm chế

biến có mức thuế cao 40%-50% thì bị yêu cầu giảm nhiều hơn so với nông sản

thô. Những nhóm hàng cụ thể phải giảm nhiều hơn là thịt, sữa, rau quả chế

biến, thực phẩm chế biến, quả ôn đới. Các mặt hàng nông sản thô mà Việt Nam

có khả năng xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, cao su, tiêu, điều… không giảm

hoặc giảm rất ít. Thời gian cắt giảm từ 3-5 năm. Việt Nam thực hiện các cam

kết WTO một cách nghiêm túc trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp.

Nông nghiệp, để đảm bảo khi gia nhập WTO và lộ trình cắt giảm thuế

nhập khẩu không ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp,

Việt Nam chỉ cam kết cắt giảm 471 dòng thuế thuộc 88 nhóm hàng trong tổng

số 162 nhóm hàng (nhóm hàng 4 chữ số) thuộc 19 trong tổng số 24 chương.

Mức thuế bình quân của tất cả các mặt hàng nông sản tham gia cắt giảm

tại thời điểm gia nhập WTO là 25,2 % và cam kết cắt giảm xuống còn 20,1%

bắt đầu từ 1/1/2012. Tuy nhiên trên thực tế thuế suất bình quân của các dòng

sản phẩm trên áp dụng bắt đầu từ 1/1/2012 là 19,7 % tức là giảm nhiều hơn so

với cam kết là 0,4 điểm %.

Trong đó nhiều nhóm hàng có mức cắt giảm thuế nhiều so với cam kết,

chẳng hạn nhóm hàng HS0402 sữa và kem, chưa cô đặc, chưa thêm đường

hoặc chất ngọt khác có mức thuế cam kết cắt giảm năm 2012 là 25% nhưng

trên thực tế đã giảm xuống còn 5%; nhóm hàng HS1513 có mức thuế cam kết

đến năm 2012 cắt giảm còn 35% nhưng thực tế chỉ còn 15% và một số sản

phẩm khác... Một số mặt hàng có mức cam kết cắt giảm giảm thuế mạnh nhất,

mức độ cắt giảm từ 18% trở lên nhưng tất cả các mặt hàng này đều cắt giảm

76

đúng hạn so với cam kết. Nhìn chung các mặt hàng nông sản đều có hạn cuối

thực hiện cắt giảm thuế là vào 1/1/2012, qua 5 năm thực hiện các cam kết về

thuế quan khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện tốt các cam kết về cắt

giảm thuế quan. Cụ thể là có 60 nhóm hàng (nhóm 4 chữ số) cắt giảm đúng hạn

chiếm 68,2%, đặc biệt có 25 nhóm hàng (nhóm 4 chữ số) cắt giảm mạnh hơn

so với cam kết (tương đương với 28,4% nhóm hàng), chỉ có 3 nhóm hàng cắt

giảm chậm hơn so với cam kết (chiếm 3,4%) [8].

Trong 7 năm qua (hết năm 2013), nông sản đã cắt giảm được 1.118 dòng

thuế theo cam kết WTO, từ mức thuế bình quân 23,5% vào thời điểm gia nhập

xuống còn 20%. [73]

Lâm nghiệp, khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết cắt giảm thuế quan

bình quân là 14,6% vào thời điểm gia nhập và 10,5% sẽ là mức cắt giảm cuối

cùng. Tính đến 1/12/2012, trong số 22 nhóm thuộc lĩnh vực lâm nghiệp thuộc

chương 44: Gỗ và các mặt hàng từ gỗ; than từ gỗ và một số mã thuộc nhóm

hàng HS9403; đồ nội thất khác có 11 nhóm hàng cắt giảm đúng hạn (chiếm

50%) và 10 nhóm cắt giảm nhanh hơn so với cam kết (chiếm 45,45%), chỉ có

nhóm hàng HS4418 cột trụ và xà, dầm, panen lát sàn các loại khác là có mức

cắt giảm chậm hơn cam kết (chiếm 4,5% nhóm hàng), tuy nhiên sự khác biệt

chỉ là 0,8 điểm % (cam kết 3% và hiện cắt giảm còn 3,8%).

Mức giảm mạnh nhất là các mặt hàng thuộc nhóm hàng mã HS4420 (gỗ

khảm, dát; tráp, và các loại hộp đựng đồ kim hoàn…; tượng nhỏ và đồ trang trí

bằng gỗ; các loại đồ dùng bằng gỗ) từ mức thuế suất trung bình là 40% xuống

còn 20% (giảm 20 điểm %). Sau đó là các mặt hàng thuộc nhóm hàng mã

HS4414 (khung tranh, ảnh, khung gương bằng gỗ hoặc các sản phẩm bằng gỗ

tương tự), nhóm mã hàng HS4419 (bộ đồ ăn, bộ đồ làm bếp bằng gỗ), nhóm

hàng mã HS4421 (các sản phẩm bằng gỗ khác) từ mức thuế suất trung bình là

40% xuống còn mức thuế suất trung bình 25% (giảm15 điểm %) [10]. Đến

77

cuối năm 2013, lâm sản đã cắt giảm thuế 69 mặt hàng, với mức cắt giảm thấp

nhất là 10% và cao nhất 50%.[74]

Thủy sản: Việt Nam đã cam kết điều chỉnh giảm 163 dòng thuế thuộc 9

nhóm hàng. Trong đó: 7 nhóm thuộc chương 3 (cá và động vật giáp xác… và

động vật thủy sinh không sương sống khác), các nhóm này chủ yếu là hàng

tươi, sống hoặc ướp lạnh. 2 nhóm thuộc chương 16 (các chế phẩm từ thịt, cá

hay giáp xác, động vật thân mềm hoặc thủy sinh không xương sống khác), các

nhóm này chủ yếu là hàng đã qua chế biến.

Mức thuế suất cam kết cắt giảm bình quân của lĩnh vực thủy sản là

tương đối lớn, từ mức thuế suất trung bình (khi gia nhập) là 32% xuống còn

20,1% (giảm 11,9 điểm %). Mức giảm mạnh nhất là các mặt hàng thuộc nhóm

cá đông lạnh và cá filê (nhóm HS0303, nhóm HS0304), từ mức thuế suất trung

bình là 30% xuống 14,9% (giảm 15,1 điểm %). Các mặt hàng thuộc nhóm cá

tươi hoặc ướp lạnh như cá ngừ, cá hồi (nhóm HS0302), từ mức thuế suất trung

bình là 30% xuống mức thuế suất trung bình 17,1% (giảm 12,9 điểm %).

Lộ trình cắt giảm thuế của hàng thủy sản là tương đối dài, từ 5 đến 7

năm kể từ khi gia nhập. Số dòng thuế cắt giảm ở từng năm cũng khác nhau.

Năm 2009 cắt giảm 9 dòng thuế, năm 2010 cắt giảm 72 dòng thuế, năm 2011

cắt giảm 37 dòng thuế, năm 2012 cắt giảm 39 dòng thuế và năm 2014 cắt giảm

6 dòng thuế còn lại.

Trong lộ trình phải điều chỉnh 163 dòng thuế thuộc 9 nhóm hàng thủy

sản, từ mức thuế bình quân 32,2% trước thời điểm gia nhập WTO xuống còn

20,1% (giảm 12,1%); đã cắt giảm được 156 dòng thuế, chỉ còn 6 dòng phải cắt

giảm vào năm 2014. [74]

Kết quả, đến 1/1/2014, chúng ta đã thực hiện đúng với lộ trình cam kết

với tất cả các nhóm hàng. Thậm chí, có một số nhóm hàng Việt Nam còn cắt

giảm nhanh hơn so với lộ trình cam kết; nhóm hàng động vật giáp xác tươi

78

hoặc ướp lạnh (HS0306), mức thuế suất cam kết cắt giảm vào năm 2012 là

17,8% nhưng thuế suất áp dụng trong thực tế năm 2012 đã cắt giảm còn 5,8%.

Hoặc nhóm hàng động vật thân mềm tươi sống hoặc ướp lạnh (HS0307) mức

thuế suất cam kết cắt giảm vào năm 2012 là 16,5% nhưng trong thực tế năm

2012 đã chỉ còn 4,6% [11].

Hàng năm vào tháng 11-12 Bộ Tài chính đều ra thông tư ban hành “Biểu

thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế”

cho năm sau; như Thông tư số: 157/2011/TT-BTC, ngày 14/11/2011, Thông tư

số: 164/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013.

Phi thuế: Loại bỏ hoàn toàn các hàng rào phi thuế, nhất là các hạn chế

định lượng nhập khẩu, trừ viêc áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt

hàng là đường, muối, trứng gia cầm và lá thuốc lá. Quyền kinh doanh xuất

nhập khẩu (cam kết trong phần dịch vụ): Các doanh nghiệp nước ngoài được

phép kinh doanh xuất nhập khẩu hàng nông sản ngay khi Việt Nam gia nhập

WTO (trừ gạo đến hết năm 2011); tuy nhiên các doanh nghiệp nước ngoài

không được phép mua trực tiếp từ nông dân mà phải thông qua các đại lý, hoặc

các doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên trên thực tế nhiều tư thương nước ngoài

đã thâm nhập sâu vào thị trường nông sản nội địa mua trực tiếp nông sản từ

nông dân qua các đại lý ảo, nâng giá, tranh mua, mua nông sản mà người bán

không hiểu họ mua để làm gì…; tạo ra nhu cầu nông sản ảo gây nhiều hậu quả

tiêu cực cho sản xuất nông nghiệp của nước ta.

- Về hỗ trợ trong nước: Theo WTO, các chính sách nằm trong nhóm hộp

xanh (Green box) là những chính sách không hoặc rất ít có tác dụng bóp méo

thương mại vì vậy các nước đều được phép áp dụng; sự ưu đãi đặc biệt và khác

biệt (S&D) dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển là được phép

hỗ trợ cho nông nghiệp nằm trong nhóm chính sách gọi là “chương trình phát

triển”. Các nước phải cam kết cắt giảm các chính sách nằm trong nhóm hổ

79

phách (Amber box) nếu vượt quá mức cho phép, gọi là mức tối thiểu (de

minimis). Mức tối thiểu là 5% giá trị sản lượng nông nghiệp dành cho các nước

phát triển và là 10% dành cho các nước đang phát triển.

Căn cứ vào hiện trạng chính sách trong nước và Việt Nam đàm phán với

tư cách là nước đang phát triển và nước có nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam đã

cam kết sẽ thực hiện các chính sách hỗ trợ trong nước cho ngành nông nghiệp

theo đúng tinh thần của Hiệp định. Nghĩa là Việt Nam sẽ tự do áp dụng các

chính sách nằm trong nhóm Hộp xanh và Chương trình phát triển. Nhóm chính

sách hộp hổ phách sẽ áp dụng ở mức tối thiểu là 10% giá trị sản lượng nông

nghiệp. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm được một khoản hỗ trợ nữa vào

khoảng 4000 tỷ đồng/năm. Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách Việt

Nam cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này… Nhìn chung,

các chính sách hỗ trợ sản xuất trong nước của Việt Nam là phù hợp với quy

định của Hiệp định Nông nghiệp và cam kết WTO. Mức hỗ trợ cho nông

nghiệp còn rất thấp không chỉ so với quy định WTO mà còn so với các nước

trong khu vực. Chính vì vậy, về cơ bản, Việt Nam không phải điều chỉnh chính

sách cho phù hợp với quy định và cam kết mà chỉ là xây dựng các chính sách

mới nhằm hỗ trợ nông nghiệp phát triển bền vững trước bối cảnh hội nhập và

biến đổi khí hậu toàn cầu.

- Trợ cấp xuất khẩu: Theo Hiệp định Nông nghiệp, mọi hình thức trợ

cấp xuất khẩu nông sản đều bị nghiêm cấm. Những nước thành viên WTO

đang áp dụng các chính sách trợ cấp xuất khẩu phải kê khai và cam kết cắt

giảm. Sự ưu đãi đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển là

được phép áp dụng 2 hình thức trợ cấp xuất khẩu, đó là trợ cước phí vận tải và

chi phí tiếp thị đối với hàng xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu, do đây là chính sách

có tính bóp méo thương mại nhiều nhất, nên các nước thành viên WTO đòi hỏi

các nước gia nhập WTO phải cam kết không trợ cấp xuất khẩu ngay khi gia

80

nhập đổi lại được hưởng quy chế MFN. Do đó, Việt Nam cũng phải cam kết

cam kết bỏ trợ cấp xuất khẩu ngay khi gia nhập và bảo lưu quyền được hưởng

S&D trong lĩnh vực này. Vào thời điểm Việt Nam gia nhập WTO thì các quy

định cho phép trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản không còn hiệu lực; các cam

kết cụ thể liên quan đến trợ cấp xuất khẩu nông sản phải ở mức bằng không

trong “Biểu cam kết Hàng hoá”. Từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã không áp

dụng bất cứ hình thức trợ cấp xuất khẩu nào.

Tuy vậy, cam kết này không ảnh hưởng đến các quyền của Việt Nam theo

quy định hiện hành của WTO đối với các hỗ trợ trong nước. Việt Nam bảo lưu

quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho các nước đang

phát triển trong lĩnh vực này. Đối với các loại hỗ trợ mà WTO quy định phải

cắt giảm như một số hình thức hỗ trợ lãi xuất để thu mua nông sản, hỗ trợ dưới

hình thức quy định giá sàn cho nông sản (trợ cấp "hổ phách")…, nhìn chung

Việt Nam được duy trì trợ cấp ở mức không quá 10% giá trị sản lượng [7].

3.1.2.2. Cam kết và thực hiện Hiệp định SPS

Việt Nam đã cam kết áp dụng đầy đủ các quy định của Hiệp định SPS kể

từ ngày gia nhập WTO mà không cần có thời gian chuyển đổi, các cơ quan

quản lý chuyên ngành của Việt Nam sẽ áp dụng các biện pháp SPS phù hợp với

tất cả các quy định liên quan của Hiệp định SPS. Việt Nam phải thực hiện các

quy định kỹ thuật về ấn định thời hạn sử dụng đối với nguyên liệu thực phẩm

chưa chế biến và phụ gia thực phẩm vào thời điểm gia nhập WTO. Đối với các

sản phẩm khác, Việt Nam chấp thuận nguyên tắc “sử dụng tốt nhất trước

hạn…” (Best used before term…) theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

Các hạn chế nhập khẩu dựa trên các biện pháp về thời hạn sử dụng được

áp dụng cho các nguyên liệu thực phẩm chưa chế biến và phụ gia thực phẩm

phải được dựa trên các nguyên tắc khoa học bao gồm các tiêu chuẩn quốc tế

liên quan [2], [7].

81

Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phối hợp với các Bộ ngành khác tiến hành

rà soát các quy định trong nước cho phù hợp với Hiệp định SPS, tổ chức phổ

biến cam kết và tập huấn nội dung Hiệp định cho các cán bộ liên quan. Đã triển

khai cổng thông tin điện tử của Văn phòng SPS để trao đổi thông tin giữa văn

phòng với mạng lưới SPS của các Bộ ngành và Ban thư ký Ủy ban SPS của

WTO; xây dựng và ban hành quy chế tổ chức và phối hợp hoạt động giữa Văn

phòng SPS Việt Nam với các điểm thông báo, hỏi đáp về SPS thuộc các Bộ

ngành nhằm đảm bảo thực thi đầy đủ nghĩa vụ minh bạch hóa của Việt Nam

đối với Hiệp định SPS

Các Hiệp định TRIPS, TBT, AD, SCM và SG, Việt Nam đã cam kết có

nghĩa vụ áp dụng đầy đủ các quy định của các Hiệp định kể từ ngày gia nhập

WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào. Các cơ quan quản lý

chuyên ngành của Việt Nam có nghĩa vụ áp dụng các quy định của pháp luật

phù hợp với tất cả các quy định liên quan của Hiệp định; thực tế Việt Nam thực

hiện đầy đủ và nghiêm túc các Hiệp định trên [12].

3.1.3. Điều chỉnh chính sách nông nghiệp

3.1.3.1. Điều chính chính sách liên quan đến mở cửa thị trường

Việt Nam thực hiện các cam kết WTO một cách nghiêm túc trong tất cả

các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản. Về thuế, trước khi bắt đầu vào

năm mới, Bộ Tài chính đều ban hành biểu thuế hàng năm thực hiện các cam

kết WTO; cho đến 1/1/2014, Việt Nam giảm thuế đúng như cam kết về biểu

thuế. Trong lộ trình cắt giảm nhiều mặt hàng còn giảm sâu hơn so với cam kết,

năm 2007, năm đầu tiên thực hiện nghĩa vụ cam kết WTO về thuế, Việt Nam

không chỉ thực hiện đúng tiến độ cam kết mà đã giảm thuế nhiều mặt hàng

nông sản (nhóm thịt tươi sống như thịt trâu bò, lợn, gia cầm) rất cao so với

mức cam kết trước yêu cầu lạm phát, tăng giá thực phẩm trong nước (từ 20-

30% xuống còn 12%)... Năm 2012, có một số nhóm hàng còn cắt giảm nhanh

82

hơn so với lộ trình cam kết, nhóm hàng động vật giáp xác tươi hoặc ướp lạnh

(HS0306), mức thuế suất cam kết cắt giảm là 17,8% nhưng thuế suất áp dụng

trong thực tế giảm còn 5,8%; hoặc nhóm hàng động vật thân mềm tươi sống

hoặc ướp lạnh (HS0307) mức thuế suất cam kết cắt giảm là 16,5% thực tế chỉ

còn 4,6%...

Về phi thuế, những hàng rào phi thuế (hạng ngạch, quy định hạn

lượng...), Việt Nam rỡ bỏ hoàn toàn kể từ khi gia nhập WTO, trừ một số mặt

hàng (như đường, muối...) không đưa vào cam kết WTO nên vẫn có hạn ngạch

nhập khẩu hàng năm để tránh thiệt hại cho sản xuất trong nước. Trước 2006

các hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2005 được quản lý bởi quyết

định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 1/5/2001 về quản lý

xuất nhập khẩu; quyết định này đã bãi bỏ khi gia nhập WTO.

3.1.3.2. Trợ cấp xuất khẩu

Kể từ năm 1998, Chính phủ phải tăng trợ cấp xuất khẩu cho hàng nông

sản. Các chương trình của chính phủ dành cho các nhà xuất khẩu dưới các hình

thức như: miễn giảm thuế trực tiếp; khấu trừ thuế; hỗ trợ tài chính trực tiếp

(cho các nhà xuất khẩu lần đầu), cho những mặt hàng xuất khẩu vào những thị

trường mới, hoặc những mặt hàng gây ra những biến động lớn về giá; và

thưởng xuất khẩu (quyết định số: 02/2002/QĐ-BTM ngày 2/01/2002 ban hành

quy chế thưởng xuất khẩu). Trong giai đoạn 1999-2001 mức trơ cấp xuất khẩu

trung bình 1.103 tỷ đồng (khoảng 73,5 triệu USD) cho 4 mặt hàng: gạo, cà phê,

thịt lợn và rau quả; người được hưởng lợi chủ yếu là các donh nghiệp.[8] Sau

2006, trợ cấp xuất khẩu trong AoA không còn hiệu lực và bằng không; do vậy

từ 2007 đã gỡ bỏ và không còn bất kỳ hình thức trợ cấp xuất khẩu nào.

3.1.3.3. Chính sách nông nghiệp sau WTO

Nhìn chung, các chính sách hỗ trợ sản xuất trong nước là phù hợp với

quy định của Hiệp định Nông nghiệp và cam kết WTO; đánh giá mức hỗ trợ

83

của Việt Nam so với AoA; hầu hết những biện pháp hỗ trợ trong nước thuộc

dạng Hộp xanh lá cây chiếm 91,7%, hỗ trợ Hộp xanh lam chiếm 7,1%, hỗ trợ

Hộp hổ phách khoảng 1,2% tổng giá trị các khoản hỗ trợ trong nước giai đoạn

2001-2004.[8] Mức hỗ trợ cho nông nghiệp còn rất thấp không chỉ so với quy

định WTO mà còn so với các nước trong khu vực. Về cơ bản, Việt Nam chỉ

cần xây dựng các chính sách mới nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững

trước bối cảnh hội nhập, khủng hoảng kinh tế và biến đổi khí hậu toàn cầu.

- Chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp liên quan đến Hiệp định AoA

Nghị định 56/2005/NĐ-CP ngày 26/04/2005 của Chính phủ về khuyến

nông, khuyến ngư. Quyết định số 162/2008/QĐ-TTG ngày 4/12/2008 của Thủ

tướng Chính phủ “Về chính sách khuyến nông, khuyến ngư ở địa bàn khó

khăn”. Hỗ trợ xây dựng các mô hình trình diễn, hỗ trợ 100% chi phí về giống

và các vật tư thiết yếu khác cho các mô hình trình diễn ở địa bàn khó khăn. Hỗ

trợ tập huấn và đào tạo, hỗ trợ 100% về tài liệu, chi phí đi lại, ăn, ở cho người

sản xuất và nhân viên khuyến nông ở các địa bàn khó khăn tham dự các lớp tập

huấn.

Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 23/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ: Về

cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Mục

tiêu: Lúa gạo giảm mức tổn thất từ 11-13% hiện nay xuống 5-6% vào năm

2020. Ngô giảm mức tổn thất từ 13-15% hiện nay xuống còn 8-9% vào năm

2020; hạn chế tối đa mức độ nhiễm độc tố aflatoxin, cải thiện giá bán thương

phẩm khoảng 10%. Cà phê hạn chế tối đa mức độ nhiễm độc tố achrotoxin A,

cải thiện giá bán cà phê nhân khoảng 10%. Thủy sản và rau quả giảm mức độ

tổn thất (cả về số lượng và chất lượng) từ 20% hiện nay xuống dưới 10% vào

năm 2020. Quyết định số 63/2010/QĐ-TTG ngày 15/10/2010 của Thủ tướng

Chính phủ, “Về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với

nông sản, thủy sản”. Áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu 0% đối với các máy

84

móc, thiết bị sản xuất nông nghiệp trong nước chưa chế tạo được. Chính sách

hỗ trợ khoa học công nghệ: Ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí cho các

trường hợp sau: mua giống để áp dụng thử nghiệm lần đầu đối với các giống

lúa, ngô tiến bộ kỹ thuật có năng suất, chất lượng cao; mua bằng sáng chế để tự

sản xuất hoặc phối hợp sản xuất các loại máy móc, thiết bị có khả năng ứng

dụng rộng rãi trong nước nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch; đăng ký sở hữu trí

tuệ đối với những sản phẩm sáng tạo của nông dân có khả năng ứng dụng rộng

rãi trong nước... Quyết định số 65/2011/QĐ-TTG ngày 02/12/2011 của Thủ

tướng Chính phủ, “Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số

63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ

trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản”; mức tiền vay

tối đa để mua máy móc, thiết bị sản xuất trong nước bằng 100% giá trị hàng

hóa. Ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% lãi suất trong 2 năm đầu, từ năm thứ 3 là

50% lãi suất. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, ngô,

kho lạnh bảo quản rau quả, thủy sản, kho tạm trữ cà phê theo quy hoạch, được

miễn tiền thuê đất theo Quyết định số 57/2010/QĐ-TTg ngày 17/9/2010 của

Thủ tướng Chính phủ, được Nhà nước hỗ trợ 20% kinh phí giải phóng mặt

bằng và 30% kinh phí hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào.

Doanh nghiệp mới thành lập để thực hiện dự án đầu tư xây dựng kho dự trữ 4

triệu tấn lúa, kho lạnh bảo quản rau quả, thủy sản, kho tạm trữ cà phê theo quy

hoạch, tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn (theo danh mục địa bàn

ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành kèm theo Nghị định số

124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ) được áp dụng mức thuế

suất 20% trong 10 năm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm và giảm

50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 4 năm tiếp theo; đối với dự

án thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn được áp

dụng mức thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong

85

4 năm và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 9 năm tiếp

theo.

Quyết định số 57/2010/QĐ-TTG ngày 17/9/2010 của Thủ tướng Chính

phủ, “Về miễn tiền thuê đất đối với các dự án xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn

lúa, ngô, kho lạnh bảo quản thủy sản, rau quả và kho tạm trữ cà phê theo quy

hoạch trong vòng 05 năm, kể từ khi dự án bắt đầu đi vào hoạt động”.

Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg 14/11/2013của Thủ tướng Chính phủ

ngày về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp. Ngân sách

nhà nước hỗ trợ phần chênh lệch giữa lãi suất thương mại đối với các khoản

vay dài hạn, trung hạn bằng đồng Việt Nam và lãi suất tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước để thực hiện các dự án đầu tư dây chuyền máy, thiết bị

giảm tổn thất trong nông nghiệp (bao gồm cả nhà xưởng); các dự án chế tạo

máy, thiết bị sản xuất nông nghiệp. Ngân sách nhà nước hỗ trợ phần chênh lệch

giữa lãi suất thương mại đối với các khoản vay dài hạn, trung hạn bằng đồng

Việt Nam và lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để thực hiện các

dự án đầu tư dây chuyền máy, thiết bị giảm tổn thất trong nông nghiệp (bao

gồm cả nhà xưởng); các dự án chế tạo máy, thiết bị sản xuất nông nghiệp. Mức

vay tối đa để mua các loại máy, thiết bị theo quy định tại Quyết định này bằng

100% giá trị hàng hóa. Các khoản vay sẽ được hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay

trong hai năm đầu, 50% trong năm thứ ba.

Quyết định số 497/QĐ-TTG ngày 17/04/2009 của Thủ tướng Chính phủ

về “Việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất

nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn”. Quyết định số

2213/QĐ-TTG ngày 31/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ về “Sửa đổi, bổ

sung một số điều của Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2009

của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết

86

bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực

nông thôn”

Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ “Về chính

sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”. Về cơ chế bảo đảm

tiền vay: tối đa đến 50 triệu đồng đối với đối tượng là các cá nhân, hộ sản xuất

nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; tối đa đến 200 triệu đồng đối với các hộ kinh

doanh, sản xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn;

tối đa đến 500 triệu đồng đối với đối tượng là các hợp tác xã, chủ trang trại. Lãi

suất cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín

dụng được thực hiện theo cơ chế tín dụng thương mại hiện hành.

Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/02/2013 của Thủ tướng Chính

phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo. Mức cho vay đối với hộ cận nghèo do

Ngân hàng Chính sách xã hội và hộ cận nghèo thỏa thuận nhưng không vượt

quá mức cho vay tối đa phục vụ sản xuất kinh doanh áp dụng đối với hộ nghèo

từng thời kỳ. Lãi suất cho vay bằng 130% lãi suất cho vay đối với hộ nghèo

quy định trong từng thời kỳ. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay.

Quyết định số 72/2010/QĐ-TTG ngày 15/11/2010 của Thủ tướng Chính

phủ về việc ban hành Quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình

xúc tiến thương mại quốc gia.

Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng Chính

phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với

tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn, có hiệu lực ngày 10/12/2013.

Quyết định này thay thế Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về

“chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng”.

Quyết định số 201/QĐ-TTG ngày 19/2/2008 của Thủ tướng Chính phủ

về “chính sách hỗ trợ khôi phục sản xuất lúa vụ Đông Xuân 2007-2008 và chăn

nuôi trâu, bò bị thiệt hại do ảnh hưởng rét đậm, rét hại năm 2008”. Nội dung hỗ

87

trợ 50% giá giống lúa, hỗ trợ bình quân 1 triệu đồng/con trâu, bò, bê, nghé bị

chết do rét. Quyết định số 935/QĐ-TTG ngày 16/7/2008 của Thủ tướng Chính

phủ “Về việc xuất thuốc dự trữ quốc gia cho tỉnh Bình Thuận để phòng trừ

dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá”. Quyết định số 794/QĐ-TTG ngày

10/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ về “việc hỗ trợ kinh phí chống hạn vụ

Đông - Xuân 2008-2009 cho một số tỉnh Bắc bộ” tổng kinh phí 47,1 tỷ đồng.

Quyết định số 1580/QĐ-TTG ngày 9/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ về

“việc hỗ trợ kinh phí bơm, tát nước chống ngập úng cho một số địa phương

đồng bằng Sông Cửu Long” tổng kinh phí hỗ trợ 37,5 tỷ đồng. Quyết định số

49/2012/QĐ-TTg ngày 8/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về “Sửa đổi, bổ

sung Điều 3 của Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về

cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản

xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh”.

- Chính sách phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp công nghệ cao

và các đề án phát triển

Quyết định số 11/2006/QĐ-TTG ngày 12/01/2006 của Thủ tướng Chính

phủ về phê duyệt "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ

sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020".

Quyết định số 69/2007/QĐ-TTG ngày 18/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về

“Phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đến 2010 và định hướng đến

năm 2020”.

Quyết định số 10/QĐ-TTg ngày 16/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ

về “Phê duyệt Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020”. Mục tiêu đến

năm 2020 cơ bản chuyển sang phương thức chăn nuôi trang trại và công

nghiệp; tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đến năm 2020 đạt trên 42%, năm

2015 đạt 38%, năm 2010 đạt 32%; chăn nuôi đảm an toàn dịch bệnh, đảm bảo

88

vệ sinh và an toàn thực phẩm; bảo vệ và giảm ô nhiễm môi trường… Quyết

định số 2194/QĐ-TTG ngày 25/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt

Đề án phát triển giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản

đến năm 2020. Quyết định số 176/QĐ-TTG ngày 29/1/2010 của Thủ tướng

Chính phủ “Về phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ

cao đến năm 2020”. Giai đoạn 2010-2015 đưa tỷ trọng giá trị sản xuất nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 10-15% tổng giá trị sản xuất nông

nghiệp của cả nước. Giai đoạn 2016-2020 đưa tỷ trọng giá trị sản xuất nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 30-35% tổng giá trị sản xuất nông

nghiệp của cả nước.

Quyết định số 1690/QĐ-TTg ngày 16/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ

về “Phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020” với

mục tiêu là: Tiếp tục CNH - HĐH ngành thủy sản và phát triển toàn diện theo

hướng bền vững, thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có cơ cấu và các hình

thức tổ chức sản xuất hợp lý, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, có thương

hiệu uy tín, có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập vững chắc vào kinh tế thế

giới. Kinh tế thủy sản đóng góp 30-35% GDP trong nông lâm ngư nghiệp, tốc

độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8-10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu

thủy sản đạt 8-9 tỷ USD. Tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5-7 triệu tấn, trong đó

nuôi trồng chiếm 65-70% tổng sản lượng. Tạo việc làm cho 5 triệu lao động

nghề cá có thu nhập bình quân đầu người cao gấp 3 lần so với hiện nay; trên

40% tổng số lao động nghề cá qua đào tạo…

Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ

về phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị

gia tăng và phát triển bền vững”. Mục tiêu: Duy trì tăng trưởng, nâng cao hiệu

quả và khả năng cạnh tranh thông qua tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia

tăng. Nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho cư dân nông thôn, đảm bảo

89

an ninh lương thực. Tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải

khí nhà kính và các tác động tiêu cực khác đối với môi trường, khai thác tốt các

lợi ích về môi trường. Nội dung: Tái cơ cấu trồng trọt theo hướng phát triển

sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo

chuỗi giá trị. Duy trì và sử dụng linh hoạt 3,8 triệu ha diện tích đất trồng lúa để

bảo đảm an ninh lương thực và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Ổn định diện

tích trồng cà phê khoảng 500 ngàn ha. Tập trung sản xuất rau, hoa, quả công

nghệ cao, quy mô lớn ở những địa phương có lợi thế. Cơ cấu lại hệ thống tổ

chức sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích doanh

nghiệp liên kết, ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản với nông dân. Áp

dụng các biện pháp thâm canh bền vững. Chăn nuôi: từng bước chuyển chăn

nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi tập trung, trang trại, gia trại. Hỗ

trợ chăn nuôi nông hộ theo hình thức công nghiệp, áp dụng kỹ thuật và công

nghệ phù hợp. Thủy sản: giảm dần, tiến tới ổn định sản lượng khai thác thủy

sản gần bờ; từng bước chuyển khai thác bằng tàu công suất lớn hoạt động xa

bờ. Đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại trong chế biến nâng cao giá trị sản

phẩm. Lâm nghiệp: phát triển lâm nghiệp nhằm tăng giá trị kinh tế ngành và

tăng năng lực, hiệu lực bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, ứng phó hiệu quả

với biến đổi khí hậu. Tập trung phát triển và tăng tỷ lệ rừng kinh tế trong tổng

diện tích rừng. Công nghệ: Ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến tinh,

chế biến sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị kết hợp với các biện pháp về tổ chức

sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nhằm nâng cao giá trị gia tăng nông, lâm, thủy sản;

phấn đấu mỗi ngành hàng có mức tăng ít nhất 20% giá trị gia tăng trong vòng

10 năm…

Quyết định số 1250/QĐ-TTg ngày 31/07/2013 của Thủ tướng Chính phủ

về “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030. Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg ngày 9/1/2012 của Thủ

90

tướng Chính phủ “Về một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng Quy trình thực

hành sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản”.

Ngân sách nhà nước đầu tư 100% kinh phí về điều tra cơ bản, khảo sát địa

hình, phân tích mẫu đất, mẫu nước, mẫu không khí để xác định các vùng sản

xuất tập trung thực hiện các dự án sản xuất nông, lâm, thủy sản áp dụng

VietGAP do cấp có thẩm quyền phê duyệt. Ngân sách nhà nước hỗ trợ không

quá 50% tổng vốn đầu tư xây dựng, cải tạo đường giao thông, hệ thống thủy

lợi, trạm bơm, điện hạ thế, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống cấp thoát nước

của vùng sản xuất tập trung để phù hợp với yêu cầu kỹ thuật VietGAP. Kinh

phí hỗ trợ thực hiện theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Đào tạo, tập

huấn cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ khuyến nông các cấp; dạy nghề

cho lao động nông thôn áp dụng VietGAP trong sản xuất, sơ chế sản phẩm an

toàn; biên soạn, in ấn tài liệu, biểu mẫu phục vụ các lớp đào tạo, tập huấn. Hỗ

trợ một lần kinh phí thuê tổ chức chứng nhận đánh giá để được cấp Giấy chứng

nhận sản phẩm an toàn.

Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/09/2012 của Thủ tướng Chính phủ

về “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh”. Với nhiệm vụ: giảm

phát thải khí nhà kinh, xanh hóa sản xuất, xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu

dùng bền vững. Trong lĩnh vực nông nghiệp để giảm phát thải khí nhà kính

thông qua phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững.

Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 của Chính phủ “Về quản

lý, sử dụng đất trồng lúa”. Hạn chế tối đa việc chuyển đất chuyên trồng lúa

nước sang sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp; khuyến khích việc khai

hoang mở rộng diện tích đất trồng lúa, cải tạo đất lúa khác thành đất chuyên

trồng lúa nước; chỉ cho phép chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang sử dụng

vào các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và

phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Hỗ trợ 500.000

91

đồng/ha/năm trên đất chuyên trồng lúa nước, hỗ trợ 100.000 đồng/ha/năm trên

đất lúa khác (trừ đất lúa nương được mở rộng tự phát không theo quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất trồng lúa). Hỗ trợ sản xuất lúa bị thiệt hại do thiên tai, dịch

bệnh: Hỗ trợ 70% chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật khi sản xuất lúa bị

thiệt hại trên 70%; hỗ trợ 50% chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật khi

sản xuất lúa bị thiệt hại từ 30-70%. Hỗ trợ trợ 70% chi phí khai hoang, cải tạo

đất trồng lúa. Thông tư số 47/2013/TT-BNNPTNT ngày 8/11/2013 của Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về “Hướng dẫn việc chuyển đổi từ trồng

lúa sang trồng cây hàng năm, kết hợp nuôi trồng thủy sản trên đất trồng lúa” có

hiệu lực từ ngày 01/01/2014.

- Chính sách điều tiết thị trường liên quan đến Hộp hổ phách

Quyết định số 481/QĐ-TTg ngày 13/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ

về việc hỗ trợ mua tạm trữ cà phê 2009-2010. Thông tư số 83/2010/TT-BTC

ngày 8/6/2010 của Bộ Tài chính: hướng dẫn hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng để

mua tạm trữ cà phê niên vụ 2009-2010; quy định lượng mua tối đa 200 ngàn

tấn, thời gian mua tạm trữ từ ngày 15/4/-15/7/2010, thời gian tạm trữ từ ngày

15/4/-15/10/2010; giá để tính hỗ trợ là giá mua cà phê thực tế theo giá thị

trường; hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng với mức 6% /năm.

Nghị định số 109/2010/NĐ-CP ngày 4/11/2010 của Chính phủ về kinh

doanh xuất khẩu gạo và điều kiện kinh doanh; điều hành kinh doanh xuất nhập

khẩu lúa gạo. Thông tư số 44/2010/TT-BCT ngày 31/12/2010 của Bô Công

Thương quy định chi tiết một số điều của nghị định số 109/2010/NĐ-CP ngày

04/11/2010 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, thông tư có hiệu lực

từ ngày 14/2/2010.

Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 7/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ về

mua tạm trữ 1 triệu tấn quy gạo vụ đông xuân năm 2012-2013 ở ĐBSCL, thời

hạn thu mua tạm trữ tối đa là 3 tháng (từ 20/2 – 20/5/2013) và được Ngân sách

92

Nhà nước hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay. Thông tư số 50/2013/TT-BTC ngày

26/4/2013 hướng dẫn về việc hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng để mua tạm trữ

thóc gạo vụ Đông Xuân 2012-2013.

Quyết định số 850/QĐ-TTg ngày 4/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về

mua tạm trữ thóc gạo vụ Hè Thu 2013; quy định thời hạn mua tạm trữ tính từ

ngày 15/6-31/7/2013. Ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay

mua tạm trữ với thời gian tạm trữ được hỗ trợ lãi suất tối đa là 3 tháng, từ ngày

15/6-15/9/2013, quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Quyết định

số 1415/QĐ-BNN-CB ban hành Quy chế kiểm tra, giám sát việc mua tạm trữ

lúa gạo vụ Hè Thu 2013.

Quyết định số 373a/QĐ-TTg ngày 15/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ

về mua tạm trữ thóc, gạo vụ Đông Xuân 2013-2014. Thông tư số 65/2014/TT-

BTC ngày 19/5/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn hỗ trợ lãi suất tiền vay để

mua tạm trữ thóc, gạo vụ Đông Xuân 2013-2014, thông tư có hiệu lực thi hành

kể từ ngày ký.

- Những chính sách liên quan Hiệp định TRIPs, SPS và TBT

Nghị định số 88/2010/NĐ-CP ngày 16/8/2010 của Chính phủ về “Quy

định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với giống

cây trồng”. Thông tư số 16/2013/TT-BNNPTNT ngày 28/02/2013 của Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về “Hướng dẫn về bảo hộ quyền đối với

giống cây trồng”; hướng dẫn thi hành một số nội dung về xác lập quyền đối với

cây trồng, đại diện quyền đối với cây trồng, giám định quyền đối với cây trồng

và biểu mẫu về bảo hộ đối với cây trồng; có hiệu lực ngày 13/04/2013.

Nghị định số 98/2011/NĐ-CP ngày 26/10/2011 của Chính phủ về “Sửa

đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về nông nghiệp” Gồm: 1). Sửa đổi,

bổ sung một số điều Nghị định số 88/2010/NĐ-CP ngày 16/8/2010 của Chính

93

phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ

và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với

giống cây trồng. 2). Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 02/2007/NĐ-

CP ngày 05/01/2007 của Chính phủ về kiểm dịch thực vật. 3). Sửa đổi, bổ sung

một số điều của nghị định 58/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ. 4).

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 119/2008/NĐ-CP ngày

28/11/2008 của Chính phủ về “sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

33/2005/NĐ-CP ngày 15/3/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của

Pháp lệnh Thú y”. Ngoài ra còn có các thông tư của các bộ có liên quan hướng

dẫn thi hành các quyết định trên.

* Những nhận xét và đánh giá về những chính sách ban hành sau WTO

Qua rà soát những chính sách ban hành sau WTO đều phù hợp với luật

định của WTO. Những chính sách liên quan đến Hiệp định AoA về hỗ trợ phát

triển (cả hộp xanh lơ, hộp xanh lá cây và hộp hổ phách) gồm: chính sách

khuyến nông, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch trong nông nghiệp thông

qua hỗ trợ tín dụng để đầu tư vào bảo quản chế biến và mua máy móc thiết

bị..., chính sách bảo đảm tiền vay và hỗ trợ lãi xuất cho nông dân mua vật tư,

thiết bị máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, chính sách hỗ trợ trực tiếp

nông dân vùng bị thiên tại dịch bệnh, chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp

xanh, nông nghiệp công nghệ cao; chính sách điều tiết thị trường một số mặt

hàng nông sản (lúa gạo, cà phê); chính sách hỗ trợ đảm bảo diện tích trồng lúa

và chính sách chuyển đổi đất lúa sang trồng màu và nuôi trồng thủy sản; chính

sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông

sản, xây dựng cánh đồng lớn và những chính sách liên qua đến Hiệp định SPS,

TRIPs và TBT.

Riêng chính sách điều tiết thị trường thông qua hỗ trợ lãi suất mua tạm

trữ lúa gạo vụ Đông Xuân 2012-2013 mua được 951.630 tấn quy gạo doanh số

94

cho vay của các ngân hàng thương mại 7612 tỷ đồng với lãi suất tối đa

11%/năm; ngân sách nhà nước chi ra khoảng 200 tỷ đồng; cả năm 2013 tính cả

vụ Đông Xuân và Hè Thu ngân sách chi ra khoảng trên dưới 400 tỷ đồng. [75]

Vụ Đông Xuân năm 2014 mua tạm trữ 995.494 tấn quy gạo, đạt doanh số

8256,49 tỷ đồng, lãi suất vay hầu hết là 7%/năm; ngân sách chi ra khoảng gần

145 tỷ đồng. [76]

Sắp tới nếu chính sách hỗ trợ đóng tầu sắt cho ngư dân vươn biển đánh

bắt xa bờ và bảo vệ chủ quyền biển đảo đã được Quốc hội thông qua khoản

10.000 tỷ đồng triển khai thực hiện năm 2014; với mức hỗ trợ lãi suất 100%

cho những năm đầu, một năm ngân sách chi khoảng 700 tỷ đồng.

Theo Hiệp định nông nghiệp, tổng hỗ trợ gộp là 13,3% giá trị sản xuất

nông nghiệp (trong vòng 10 năm đầu gia nhập), theo giá trị sản xuất nông

nghiệp năm 2013 đạt 801.256,9 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010, theo giá thực tế

còn cao hơn); tổng hỗ trợ gộp khoảng 106 nghìn tỷ cộng với 4.000 tỷ bảo lưu,

hỗ trơ gộp đạt 110.000 tỷ đồng, năm 2013 hỗ trợ tạm trữ khoảng 400 tỷ chiếm

3,64%. Hiện chưa có số liệu tổng hợp tổng mức hỗ trợ của Việt Nam cho nông

nghiệp hiện nay là bao nhiêu, theo luận án chắc chắn con số tổng hỗ trợ gộp

này thấp hơn nhiều lần so với quy định mà WTO cho phép; cho nên các chính

sách trên hoàn toàn phù hợp với WTO.

Qua nghiên cứu các chính sách và thực tế, tính khả thi và lan tỏa của

những chính sách còn thấp. Chẳng hạn những chính sách tín dụng hỗ trợ để

triển khai mua máy móc, thiết bị và vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp thực

tế cho vay không nhiều; do sản xuất nhỏ, manh mún, thiếu liên kết hợp tác nên

nhu cầu lớn nhưng lại rất phân tán; do chi tiêu chủ yếu bằng tiền mặt nên nó

không chỉ gây khó mà còn làm tăng chi phí quản lý giám sát các khoản vay và

thủ tục thanh quyết toán phức tạp nên cả người đi vay và người cho vay đều có

tâm lý e ngại khó tiếp cận nhau.

95

Chính sách điều tiết thị trường thông qua hỗ trợ lãi suất mua tạm trữ với

mục tiêu tăng lợi nhuận cho người sản xuất song cũng chỉ là giải pháp tình thế,

hiệu quả của chính sách đạt thấp. Nguyên nhân vẫn là sản xuất nhỏ manh mún,

thiếu hợp tác và liên kết, chưa hình thành chuỗi giá trị ngành hàng nên lợi ích

từ chính sách này phân bổ chủ yếu vào doanh nghiệp và thương nhân mua gom

nông sản còn nông dân sản xuất trực tiếp hưởng lợi không đáng kể...

Tóm lại, sau WTO hệ thống chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp

theo hướng bền vững và hiệu quả đã được hoàn thiện thêm một bước nhưng

vẫn chưa theo kịp với tiến trình hội nhập WTO. Chính sách chưa đồng bộ và

chưa có tính đột phá, vẫn là giải pháp ngắn hạn mang tính tình thế và những

vấn đề tồn tại của nông nghiệp như hiệu quả thấp, tăng trưởng kém bền vững,

chuyển dịch cơ cấu chậm, sản xuất nhỏ manh mún, thiếu hợp tác, thiếu liên

doanh liên kết, chưa hình thành chuỗi giá trị ngành hàng, năng lực cạnh tranh

thấp...; chưa được khắc phục.

3.2. Thực trạng phát triển ngành nông nghiệp sau WTO

3.2.1. Tăng trưởng ngành nông nghiệp

3.2.1.1. Tăng trưởng GDP, giá trị sản xuất và xuất khẩu

- Tăng trưởng GDP: Qua hơn 7 năm hội nhập WTO, ngành nông nghiệp

đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn; GDP nông nghiệp luôn tăng

thực dương trong giai đoạn 2000-2013.

Tuy nhiên, tốc độ tăng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm theo thời

gian: giai đoạn 2000-2006 tăng bình quân 3,81%/năm, giai đoạn 2007-2013

tăng 3,20%/năm. So với tốc độ tăng GDP chung của nền kinh tế, giai đoạn

2000-2006 tốc độ tăng bình quân 7,63%/năm, giai đoạn 2007-2013 tăng

6,21%/năm; GDP nông nghiệp có xu hướng tăng thấp hơn và không tương

đồng với tăng trưởng chung của nền kinh tế.

96

9

Trước WTO

Sau WTO

8.46

8.44

8.23

7.79

8

7.34

7.08

6.79 6.89

6.78

7

6.31

5.89

6

5.42

5.32

5.25

5

4.68

4.63

4.36

4.17

4.02

4

4

3.69 3.76

3.62

3

2.98

2.78

2.68 2.67

2

1.83

1

0

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011* 2012* 2013*

GDP chung

GDP NN

Nguồn: [44], [69]

Tỷ đồng

Trước WTO

Sau WTO

1200 00 1000 00 8000 0 6000 0 4000 0 2000 0

0

11 20

12 20

05 20

13 20

06 20

08 20

07 20

10 20

09 20

01 20

00 20

04 20

03 20

02 20

nông nghiệp

Lâm nghiệp

Thủy sản

Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp

Nguồn: [45], [69]

Biểu đồ 3.2: GDP ngành nông nghiệp 2000-2013 (giá so sánh năm 1994)

Tốc độ tăng GDP của thủy sản mặc dù cao hơn tốc độ tăng chung của

toàn ngành nông nghiệp, nhưng lại giảm mạnh hơn sau WTO: 4,19 %/năm giai

97

đoạn 2007-2013 so với 10,4%/năm giai đoạn 2000-2006. Trong khi đó GDP

lâm nghiệp có xu hướng ngược lại: 3,24%/năm trong 7 năm sau WTO, so với

0,97%/năm của 7 năm trước khi gia nhập WTO. Năm 2013, GDP ngành nông

nghiệp tăng 2,67%, trong đó nông nghiệp tăng 2,21%, lâm nghiệp 5,78%, thủy

sản 3,98%. [69]

- Tăng trưởng giá trị sản xuất: Tốc độ tăng giá trị sản xuất (GTSX) bình

quân của ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần, giai đoạn 2000-2006 tăng

%

25

Trước WTO

Sau WTO

20

15

10

5

0

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011*

2012*

2013*

NLTS

Chăn nuôi

Lâm nghiệp

Thủy sản

Trồng trọt

5,65%/năm, giai đoạn 2007-2013 tăng 4,55%/năm, (giảm 1,1 điểm %).

Biểu đồ 3.3: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,

Nguồn: [44], [69]

thủy sản (giá so sánh năm 1994 và 2010).

Trong đó, tốc độ tăng GTSX bình quân của lâm nghiệp và trồng trọt sau

WTO cao hơn trước WTO; cụ thể giai đoạn 2007-2013 tăng 4,67%/năm, giai

đoạn 2000-2006 tăng 1,54%/năm (tăng 3,13 điểm %); trồng trọt giai đoạn

2007-2013 tăng 3,83%/năm, giai đoạn 2000-2006 tăng 3,65%/năm (giảm 0,08

điểm %). Thủy sản giai đoạn 2007-2013 tăng 4,67%/năm, giai đoạn 2000-2006

tăng 11,62%/năm (giảm 6,95 điểm %). Chăn nuôi giai đoạn 2007-2013 tăng

98

5,32%/năm, giai đoạn 2000-2006 tăng 7,23%/năm (giảm 1,91 điểm %). Trong

tăng trưởng GTSX chỉ có lâm nghiệp tăng đều và khá ổn định, còn lại xu

hướng chung sau WTO có tốc độ tăng GTSX chậm lại và thiếu ổn định.

Thực tế cho thấy, khi thị trường thế giới có nhu cầu cao về một loại nông

sản nào đó thì nông sản đó tăng, khi nhu cầu giảm thì nông sản đó giảm; do đó

nguồn lực thị trường nông sản thế giới tham gia vào điều tiết sản xuất nông

nghiệp trong nước.

Tr.USD

Sau WTO

Trước WTO

35000

30000

25000

20000

15000

10000

5000

0

2003

2000

2002

2004

2005

2006

2007

2009

2010

2011

2013

2001

2008

2012

Nông sản

Lâm sản, gỗ & SP từ gỗ

Thủy sản

- Tăng trưởng xuất khẩu:

Nguồn: [43], [69]

Biểu đồ 3.4: Giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản giai đoạn 2000-2013

Giá trị xuất khẩu toàn ngành tăng khá nhanh trong giai đoạn từ năm

2000-2013 (trừ năm 2009), tuy nhiên tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu bình

quân có xu hướng tăng chậm lại, giai đoạn 2000-2006 tăng 15,94%/năm cao

hơn so với giai đoạn 2007-2013 chỉ tăng 13,27%/năm (giảm 1,67 điểm %).

Trong đó, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu bình quân của lâm sản giảm

mạnh từ 29,87%/năm giai đoạn 2000-2006, xuống còn 15,55%/năm giai đoạn

99

2007-2013; thủy sản giảm từ 14,65%/năm xuống 10,09%/năm; nông sản tăng

từ 13,05%/năm lên 13,9%/năm.

Trong tổng kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp, hàng nông sản

chiếm tỉ trọng lớn và có xu hướng giảm nhẹ trong tổng số, từ 56,86% (2000)

giảm xuống 53,49% (2013); thủy sản giảm từ 32,79% xuống còn 23,34%; lâm

Tr.USD

Trước WTO

Sau WTO

0

0

0

5

1

0

0

0

0

1

0

0

0

5

0

5 0 0 2

3 0 0 2

7 0 0 2

2 0 0 2

9 0 0 2

1 1 0 2

4 0 0 2

0 1 0 2

3 1 0 2

2 1 0 2

6 0 0 2

1 0 0 2

8 0 0 2

0

0

0

- 5

0

0

0

0

- 1

0

0

0

5

- 1

0

0

0

0

Chung

Nông nghiệp

- 2

sản, gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng từ 10,53% lên 23,17%.

Nguồn: [44], [69]

Biểu đồ 3.5: Cán cân thương mại chung và thương mại nông nghiệp

Một điều đáng ghi nhận là ngành nông nghiệp luôn luôn duy trì được

thặng dư thương mại, ngược với xu hướng thâm hụt của nền kinh tế. Năm 2001

thặng dư thương mại của nông nghiệp có 2,3 tỷ USD, năm 2012 thặng dư

thương mại lên đến 12,3 tỷ USD và năm 2013 cũng thặng dư được 8,5 tỷ USD.

3.2.1.2. Tăng trưởng nông nghiệp

- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất (GTSX) nông nghiệp: Trước khi gia

nhập WTO (2001-2006), tốc độ tăng GTSX bình quân nông nghiệp tăng

4,42%/năm (trồng trọt 3,75%/năm, chăn nuôi 7,70%/năm, dịch vụ nông nghiệp

tăng 2,65%/năm). Sau khi gia nhập WTO (2007-2013) tốc độ tăng GTSX bình

100

quân là 4,11%/năm (trồng trọt bình quân 3,83%/năm, chăn nuôi tăng 5,32%/năm,

dịch vụ tăng 3%/năm), chăn nuôi giảm so với bình quân 6 năm trước WTO.

Tr.USD

Sau WTO

Trước WTO

4000

3500

3000

2500

2000

1500

1000

500

0

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Điều

Gạo

Cao su

Cà phê

Hạt Tiêu

Chè

- Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu

Nguồn: [43]; [45], [69]

Đồ thị 3.1: Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng nông sản

Giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản phẩm năm 2000 của Việt Nam chỉ

đạt 2.563,3 triệu USD, đến năm 2006 giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 5.352,45

triệu USD, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2000-2006 tăng 13,06%/năm. Sau

WTO, xuất khẩu nông sản tiếp tục đà tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu nông

sản năm 2007 đạt 7.032,82 triệu USD, bằng 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu

cả nước, đến năm 2012 kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm 14,7%, năm 2013

chiếm khảng 12,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nền kinh tế; tốc độ tăng

bình quân giai đoạn 2007-2013 tăng 13,90%/năm.

Kim ngạch xuất khẩu 6 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành nông

nghiệp là gạo, cà phê, tiêu, cao su, điều và chè với kim ngạch xuất khẩu lớn và

101

không ngừng tăng về kim ngạch, tốc độ có xu hướng giảm dần ở giai đoạn sau

khi gia nhập WTO (trừ hạt tiêu và chè). Cụ thể, tốc độ tăng trưởng kim ngạch

xuất khẩu của điều 17,32%/năm, gạo là 12,28%/năm, cao su 9,61%/năm, cà

phê 5,84%/năm, tiêu 22,06%/năm và chè 9,09%/năm giai đoạn 2007-2013; so

với giai đoạn 2002-2006 lần lượt là 28,29%/năm, 15,13%/năm, 44,95%/năm,

Trước WTO

Sau WTO

Sản lượng

Giá trị

1000 tấn

D S U

. r t

9000 8000 7000 6000 5000 4000 3000 2000 1000 0

4000 3500 3000 2500 2000 1500 1000 500 0

2012

2008

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2009

2010

2011

2013

14,92%/năm và 7,42%/năm.

Nguồn: [43]

Biểu đồ 3.6: Giá trị và lượng xuất khẩu gạo giai đoạn 2001 - 2013

Tuy nhiên, điều đáng chú ý là tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chủ yếu

nhờ vào tăng khối lượng chứ không phải tăng giá, điều đáng lo ngại cho sản

xuất cũng như xuất khẩu nông sản. Chẳng hạn, đối với ngành hàng lúa gạo, giá

trị xuất khẩu năm 2013 giảm 21,23%, nhưng lượng gạo xuất khẩu giảm

17,66% so với năm trước. Tương tự giá trị xuất khẩu ngành hàng cà phê năm

2012 tăng 33,4%, nhưng lượng xuất khẩu tăng 37,8% so với năm trước, phản

ánh mức giá xuất khẩu trên đơn vị giảm.

Tuy vậy, tăng trưởng của ngành nông nghiệp chưa thực sự bền vững, thể

hiện về năng suất, chất lượng, hiệu quả quả và năng lực canh tranh của ngành

và sản phẩm còn thấp.

102

3.2.1.3. Tăng trưởng lâm nghiệp

- Tăng trưởng về GTSX: Trước khi gia nhập WTO, lâm nghiệp đã

chuyển hướng sang tập trung xây dựng vốn rừng và đầu tư theo các chương

trình, dự án, giao đất lâm nghiệp ổn định lâu dài cho hộ gia đình giảm khai

thác, vốn rừng được phát triển và độ che phủ của rừng tăng lên, tốc độ tăng

trưởng GTSX giai đoạn 2001-2006 thấp, tăng 1,28%/năm.

Sau khi gia nhập WTO, chế biến và kinh doanh gỗ tận dụng tốt cơ hội do

WTO mang lại nên đã phát triển mạnh; củng cố uy tín trên thị trường trong

nước và xuất khẩu, sản phẩm gỗ đã xuất sang khoảng 120 quốc gia, với các thị

trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc…. Trong 7 năm qua xuất khẩu

gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ đã mang lại một khối lượng lớn ngoài tệ, góp

vào nâng cao GTSX và tốc độ tăng trưởng của lâm nghiệp. Tốc độ tăng trưởng

GTSX giai đoạn 2007-2013 tăng 4,67%/năm. GDP lâm nghiệp 17.101 tỷ đồng

(2013) tăng 5,78%; GTSX đạt 22.413 tỷ đồng tăng 6,04% so với 2012.[69]

- Tăng trưởng xuất nhập khẩu: Lâm nghiệp vừa có nhập (nhập nguyên

liệu gỗ) vừa có xuất (xuất hàng đã qua chế biến).

Trước WTO

Sau WTO

Nhập khẩu nguyên liệu gỗ

Nguồn: [43], [44]

Đồ thị 3.2: Giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ 2002 - 2011

103

Trong giai đoạn 2002-2006 để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu,

ngành lâm nghiệp phải nhập khẩu 2.511,46 triệu USD nguyên liệu gỗ từ nước

ngoài, chiếm 44,68% kim ngạch xuất khẩu; từ năm 2007-2011 tổng giá trị gỗ

nguyên liệu nhập khẩu là 5.355,82 triệu USD chiếm 36,44% kim ngạch xuất khẩu.

Giai đoạn 2002-2006, ASENA là thị trường cung cấp nguyên liệu gỗ

chính chiếm 55,73% tổng giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu (Campuchia

8,99%, Lào 12,78%, Malaysia 22,7% còn lại là các nước khác của ASEAN).

Tiếp đến là Hoa kỳ chiếm 6,33% và Trung Quốc chiếm 6,16%. Giai đoạn

2007-2011 cơ cấu thị trường cung cấp nguyên liệu gỗ có thay đổi, ASEAN vẫn

thị trường chính nhưng tỷ trọng đã giảm xuống còn 44,5% tổng giá trị nhập

khẩu gỗ nguyên (Campuchia 4,85%, Lào 14,16%, Malaysia 12,7% còn lại là

các nước ASEAN khác); tỷ trọng của thị trường Trung Quốc và Hoa Kỳ tăng

gần gấp đôi so với trước khi ra nhập WTO, tương ứng là 12,43% và 11,53%

tổng giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu.

Tr.USD

Trước WTO

Sau WTO

6000

5000

4000

3000

2000

1000

0

2000

2004

2005

2002

2009

2011

2013

2006

2012

2001

2003

2007

2008

2010

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ

Nguồn: [43] , [45], [69]

Biểu đồ 3.7: Giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ từ 2000-2013

104

Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng

khá nhanh, giai đoạn 2000-2006 tăng bình quân 35,68%/năm; giai đoạn 2007-

2013 tăng bình quân 14,95%/năm. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ và

các sản phẩm làm bằng gỗ đạt 5,5 tỷ USD tăng 17,8% so với năm 2012.

Ngành công nghiệp chế biến gỗ đang phát triển mạnh và có uy tín trên

thị trường, thị trường xuất khẩu tương đối ổn định, sản phẩm gỗ đã có mặt ở

khoảng 120 quốc gia; Việt Nam đã vươn lên là quốc gia đứng vào tốp đầu về

xuất khẩu sản phẩm gỗ trong khu vực ASEAN.

3.2.1.2. Tăng trưởng thủy sản

- Tăng trưởng GTSX: Giai đoạn 2000-2006 (trước WTO), tốc độ tăng

GTSX thuỷ sản bình quân tăng 12,97%/năm; giai đoạn 2007-2013 tốc độ tăng

6,67%/năm, giảm gần 1/2 so với trước WTO.

Tốc độ tăng trưởng GTSX của khai thác và nuôi trồng đều tăng dương,

nhưng tốc độ tăng trưởng chậm dần, nhất là sau WTO. Về khai thác, tốc độ

tăng trưởng GTSX tăng 11,8%/năm (2005) giảm xuống còn tăng có 5,5%/năm

(2011) và tăng 4,0%/năm (2012). Về nuôi trồng, tốc độ tăng trưởng GTSX tăng

20,5%/năm (2005), giảm còn 17,6%/năm (2007) và 3,2%/năm (2012).

- Tăng trưởng xuất nhập khẩu thủy hải sản

Nhập khẩu thủy hải sản: Nhập khẩu thủy hải sản gồm cá đông lạnh cho

tiêu dùng và nhập động vật giáp xác tươi sống vừa tiêu dùng vừa chế biến xuất

khẩu. Việt Nam nhập khẩu thủy sản từ 77 quốc gia và vùng lãnh thổ, mặt hàng

nhập chủ yếu là cá đông lạnh (HS 0303) chiếm 52%, động vật giáp xác tươi

sống (HS 0306) chiếm tới 30%, các loại mặt hàng khác chỉ chiếm khoảng 18%

trong tổng kim ngạch nhập khấu (2013). Giá trị nhập khẩu tăng mạnh, trung

bình giai đoạn (2002-2006) nhập khẩu khoảng 154,2 triệu USD/năm, nhưng

sau WTO (2007-2013) đã tăng lên 423,47 triệu USD/năm.

105

Sau WTO

Trước WTO

800

653.2 670.1

700

Triêu USD

600

508.4

500

400

324.6

302.9

257.7

247.4

300

196.5 205.9

167.9

200

92.7 108

100

0

2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Nguồn: [43] , [45], [69]

Biểu đồ 3.8: Kim ngạch nhập khẩu hàng thủy sản (triệu USD)

Do gia nhập WTO phải cắt giảm thuế nhập khẩu từ mức thuế suất trung

bình 30% xuống còn 20,1%; nên số quốc gia và vùng lãnh thổ xuất khẩu thủy

sản vào Việt Nam ngày một tăng, nếu như trước WTO chỉ có khoảng 30 quốc

gia và vùng lãnh thổ, sau WTO đã tăng lên 77.

Xuất khẩu thủy hải sản: Kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản tăng mạnh,

giai đoạn 2000-2006 kim ngạch xuất khẩu thủy sản trung bình đạt 2,288 tỷ

USD/năm, tốc độ tăng bình quân 14,65%/năm; giai đoạn 2007-2013 đạt 5,207

tỷ USD/năm, tốc độ tăng bình quân 10,09%/năm, tốc độ tăng chậm so với

trước WTO. Tỷ trọng mặt hàng qua chế biến xuất khẩu ngày càng cao, trước

WTO giá trị hàng thủy sản đã qua chế biến xuất khẩu chỉ chiếm 6,7%; sau

WTO tỷ lệ này đã đạt tới 15% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu (tăng gấp

hơn 2 lần). Gia nhập WTO đã thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến thủy sản

phát triển; làm cho giá trị gia tăng và lợi nhuận thu được thông qua xuất khẩu

cũng tăng. Năm 2013 kim ngạch xuất khẩu đạt 6,7 tỷ USD, chiếm 5,1% tổng

kim ngạch xuất khẩu của cả nền kinh tế.[69]

106

Tr.USD

8000

Trước WTO

Sau WTO

6700

7000

6088.5

6112.4

6000

5016.9

5000

4510.1

4255.3

3763.4

4000

3358

2732.5

3000

2408.1

2199.6

2021.7

1816.4

2000

1478.5

1000

0

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Biểu đồ 3.9: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản2000-2013

Nguồn: [43] , [45], [69]

Sau WTO tốc độ tăng trưởng nông nghiệp vẫn tăng trưởng dương nhưng

tăng chậm dần. GDP ngành nông nghiệp giai đoạn 2000-2006 tăng trưởng

bình quân đạt 3,81%/năm, giai đoạn 2007-2013 còn 3,20%/năm.

Nguyên nhân: - Về khách quan, do biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch

bệnh xuất hiện với tần suất càng ngày càng tăng nên đã tác động đến tăng

trưởng của nông nghiệp sau WTO. Khủng khoảng kinh tế 2007-2008 và 2011

mặc dù tác động không nhiều như với công nghiệp và dịch vụ, song ngành

nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.

- Về mặt chủ quan: Theo kinh nghiệm quốc tế, trong quá trình hội nhập

KTQT, các nước đang phát triển thường phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng

nhiều tài nguyên nên dẫn đến dễ bị cạn kiệt nguồn tài nguyên. Ở Việt Nam,

trong thời gian từ khi đổi mới mở cửa và hội nhập KTQT, ngành nông nghiệp

tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng nhờ tăng diện tích, tăng vụ và tăng đầu

107

con; sau WTO nguồn lực tự nhiên có giới hạn này dần cạn kiệt nên xu hướng

tăng trưởng chậm lại. Tăng trưởng theo chiều sâu như: tăng trưởng nhờ quy

mô, nhờ khoa học kỹ thuật và công nghệ, tăng trưởng nhờ tăng giá trị gia

tăng... chưa được phát huy tốt. Đồng thời hệ thống chính sách không đồng bộ

và không theo kịp cùng với tiến trình hội nhập đã không thúc đẩy phát triển

nông nghiệp, chưa thúc đẩy tăng trưởng theo chiều sâu và theo hướng bền

vững, hiệu quả nên tăng trưởng có xu hướng chậm dần.

3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp

3.2.2.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp

Trước WTO

Sau WTO

100%

80%

11.35 11.51 11.97 12.45 13.19 13.77 14.69 14.86 15.13 15.37 15.58 16.00 16.41 3.90 3.76 3.65 3.53 3.43 3.35 3.28 3.19 3.24 3.27 3.31

3.12

3.02

60%

40%

84.75 84.73 84.38 84.02 83.38 82.88 82.03 81.95 81.63 81.36 81.11 80.88 80.57

20%

0%

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Nông nghiệp

Lâm nghiệp

Thủy sản

- Cơ cấu giá trị gia tăng ngành nông nghiệp

Nguồn: [44], [69]

Biểu đồ 3.10: Cơ cấu giá trị gia tăng ngành nông nghiệp

Cơ cấu giá trị gia tăng nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản có sự

chuyển dịch theo hướng tích cực, tuy nhiên tốc độ chuyển dịch chậm. Cơ cấu

108

giá trị gia tăng nông nghiệp có xu hướng giảm vị thế trong cơ cấu ngành nhưng

vẫn chiếm tỷ trọng lớn, trong khi lâm nghiệp và thủy hải sản có nhiều tiềm

năng phát triển nhưng chiếm tỷ trọng chưa tương xứng. Gia nhập WTO đã thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản thông qua việc

huy động và phân bổ nguồn lực đất đai, lao động và vốn vào các lĩnh vực có

thế mạnh xuất khẩu, đặc biệt là trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và một số

cây trồng có lợi thế xuất khẩu như: lúa gạo, cà phê, cao su, điều, hồ tiêu....

Cơ cấu giá trị gia tăng nông nghiệp là 84,75%, lâm nghiệp 3,90%, thủy

sản là 11,35% (2001); đến năm 2013 nông nghiệp vẫn chiếm 80,57%, thủy sản

tăng lên 16,41%, lâm nghiệp giảm còn 3,02%. Cơ cấu GDP ngành nông nghiệp

trong đó nông nghiệp 77,63%, lâm nghiệp 3,27%, thủy sản 19,10% (2012);

năm 2013, nông nghiệp 76,41%, lâm nghiệp 3,64%, thủy sản là 19,95%.

- Cơ cấu GTSX: Cơ cấu GTSX ngành nông nghiệp năm 2000: nông

nghiệp 80,2%, thủy sản 15,6%, lâm nghiệp 4,2%; năm 2013 tương ứng là:

Năm 2013

Năm 2000

3%

1%

3%

3%

9%

56%

10%

65%

13%

18%

6%

13%

Khác Khai thác thủy sản Chăn nuôi

Khai thác lâm sản Nuôi trồng thủy sản Trồng trọt

Khác Khai thác thủy sản Chăn nuôi

Khai thác lâm sản Nuôi trồng thủy sản Trồng trọt

76,41%, 19,95%, 3,64%; thủy sản tăng, nông nghiệp và lâm nghiệp giảm.

Nguồn: [42], [69]

Biểu đồ 3.11: Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp

Trong nội bộ ngành nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ

trọng đóng góp của chăn nuôi vào GTSX ngành nông nghiệp tăng từ 13,00%

(2000) lên 18,44% (2013); nuôi trồng thủy sản tăng từ 6% lên 13,3%; ngược

109

lại, trồng trọt giảm từ 65% xuống 55,56%; khai thác thủy sản giảm từ 10%

xuống 8,73%; khai thác lâm sản giảm từ 3% xuống 2,6%.

- Chuyển dịch cơ cấu lao động ngành nông nghiệp: Lao động nông, lâm,

thủy sản (NLTS) tiếp tục giảm nhanh và chuyển dịch theo hướng tích cực. Về

số lượng, năm 2012 cả nước có 19,859 triệu lao động chia ra: nông nghiệp

chiếm 91,51%, thủy sản chiếm 7,65% và lâm nghiệp chiếm 0,84%. So với

2006, lao động NLTS giảm 3069,5 nghìn người, chia ra: nông nghiệp giảm

3090,5 nghìn người, thủy sản giảm 47,7 nghìn người, lâm nghiệp tăng 68,7

nghìn người. So với năm 2001, lao động NLTS giảm 4670,7 nghìn người.

2013

2006

2011

73,6

98,1

150,1 1 137,7 1 566,9 1 448,3 100,00 100,00 100,00 92,22 92,74 95,06 0,73 0,43 0,30 7,05 6,83 4,64

2001 1. Lao động NLTS (1000 người) 24 530,1 22 928,9 20 558,3 19 859,4 23 318,8 21 263,9 18 959,9 18 173,4 Nông nghiệp 166,8 Lâm nghiệp 1 519,2 Thủy sản 100,00 2. Cơ cấu lao động NLTS (%) 91,51 Nông nghiệp 0,84 Lâm nghiệp 7,65 Thủy sản

Nguồn: [44], [69]

Bảng 3.4: Số lượng, cơ cấu lao động nông, lâm, thủy sản

Lao động NLTS giai đoạn 2001-2006 giảm 1,34%, trong đó nông nghiệp

giảm 1,83%, lâm nghiệp tăng 5,92%, thủy sản tăng 6,61%; giai đoạn 2006-

2013 lao động NLTS giảm 2,03%, trong đó nông nghiệp giảm 2,21%, thủy sản

giảm nhẹ 0,44%, lâm nghiệp tăng 7,88%.

- Chuyển dịch nguồn lực đất đai, tổng diện tích đất nông nghiệp 26,21

triệu ha chiếm 75% diện tích tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp 10,13 triệu ha

(38,64%), đất lâm nghiệp gần 15,37 triệu ha (58,63%), đất nuôi trồng thủy sản

gần 690 nghìn ha (2,63%) và đất nông nghiệp khác 26,1 nghìn ha. Đất trồng

cây hàng năm, năm 2011 có 6437,6 nghìn ha, tăng 79 nghìn ha (tăng 1,2%) so

với 2006. Đất lúa 1/1/2011 có hơn 4,12 triệu ha, giảm gần 32 nghìn ha (giảm

110

0,76%) so với 2006. Đất trồng cây lâu năm có gần 3,7 triệu ha, từ 2006 đến

2011 tăng 634,4 nghìn ha (gần 21%). Đất lâm nghiệp năm 2011 cả nước có gần

15,37 triệu ha, tăng 929 nghìn ha (tăng 6,44%). Đất nuôi trồng thủy sản năm

2011 có gần 690 nghìn ha giảm 11,8 nghìn ha (giảm 1,7%) so với 2006.[46]

3.2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp

- Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp

Bảng 3.5: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp

(Đơn vị tính %)

100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

19,3 19,6 21,0 22,3 21,6 24,6 24,4 24,3 27,1 27,1 25,1 25,3 26,8 24,5

2,4 2,5 2,3 2,2 2,1 1,8 1,8 1,7 1,5 1,6 1,5 1,3 1,9 1,6

78,3 77,9 76,7 75,5 76,3 73,6 73,8 73,9 71,4 71,3 73,4 73,4 71,3 73,9

Nguồn: [45], [69]

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Năm Tổng Trồng trọt Chăn Nuôi Dịch Vụ

Trong nông nghiệp: trồng trọt và dịch vụ giảm tỷ trọng trong cơ cấu

GTSX, nhưng tỷ trọng giảm chậm; tỷ trọng của chăn nuôi tăng, nhưng tỷ trọng

tăng chậm; thể hiện chuyển dịch chậm chạp. Chuyển dịch cơ cấu trong nông

nghiệp thiếu bền vững thể hiện tốc độ tăng trưởng bập bõm nhất là sau WTO;

năm 2009 tăng trưởng GTSX chăn nuôi tăng 10,54%/năm, trồng trọt tăng

0,87%/năm; năm 2013 trồng trọt tăng 2,60%/năm, chăn nuôi tăng 2,01%/năm;

hoặc trong mối quan hệ giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến, ngành hàng điều

công suất chế biến lớn hơn nhiều so với khả năng cung ứng nguyên liệu điều

thô trong nước.

111

- Chuyển dịch cơ cấu lâm nghiệp: Trong lâm nghiệp, tỷ trọng khai thác

lâm sản chiếm trên dưới 80%, trồng và chăm sóc rừng chỉ chiếm trên dưới 14%

trong cơ cấu GTSX lâm nghiệp; giữa trồng và khai thác tỷ trọng không thay

đổi nhiều từ năm 2000 cho đến nay.

Năm

Tổng số

Trồng và chăm sóc rừng

Khai thác lâm sản

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

Dịch vụ và các hoạt động lâm nghiệp khác 4,0 4,0 4,6 6,1 5,8 5,7 5,7 5,7 5,6 5,6 5,6 5,3 5,3 5,2

81,3 82,8 81,5 79,5 79,2 79,5 79,9 80,8 80,2 80,2 79,9 81,9 84,4 84,3

14,7 13,2 13,9 14,4 15,0 14,8 14,4 13,5 14,2 14,2 14,5 12,8 10,3 10,5

Nguồn: [45], [69]

Bảng 3.6: Cơ cấu giá trị sản xuất lâm nghiệp (Đơn vị: %)

- Chuyển dịch cơ cấu thủy hải sản, trong cơ cấu GTSX của thủy hải sản

có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng khai thác giảm, năm 2000 chiếm tỷ trọng

55,5%, năm 2013 chỉ còn 39,6%; nuôi trồng thủy hải sản năm 2000 chiếm tỷ

trọng 44,5%, năm 2013 chiếm 60,4% trong tổng cơ cấu GTSX thủy sản.

Năm 2013, nhóm hàng thuỷ sản đạt 6,7 tỷ USD, tăng 10,6% và chiếm

5,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, (Năm 2012 đạt 6,1 tỷ USD và

chiếm 5,3%).

112

Năm

Tổng

Khai thác

Nuôi trồng

55,5 47,6 42,6 39,7 36,4 35,8 33,8 32,8 37,9 40,7 38,4 37,8 39,0 39,6

100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

44,5 52,4 57,4 60,3 63,6 64,2 66,2 67,2 62,1 59,3 61,6 62,2 61,0 60,4

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Nguồn: [45], [69]

Bảng 3.7: Cơ cấu giá trị sản xuất thủy hải sản (Đơn vị: %)

Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp và trong nội bộ ngành theo

hướng phát triển bền vững, hiệu quả và tăng giá trị gia tăng còn chậm,chưa có

tính đột phá. Nguyên nhân do một thời gian dài phát triển nông nghiệp theo

chiều rộng và khai thác nguồn lực tự nhiên; đồng thời sau WTO những chính

sách và giải pháp về tái cơ cấu chưa đồng bộ và chưa theo kịp tiến trình hội

nhập. Chẳng hạn trong nội bộ ngành nông nghiệp mới phê duyệt đề án tái cơ

cấu lâm nghiệp và thủy sản; còn trồng trọt, chăn nuôi, chế biến… đang trong

quá trình hoàn thiện đề án…

3.2.3. Đầu tư và áp dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp

3.2.3.1. Đầu tư nước ngoài (FDI) và đầu tư trong nước vào nông nghiệp

- Đầu tư nước ngoài, giai đoạn 2007-2011 sau khi gia nhập WTO, thu

hút đầu tư nước ngoài (FDI) được 6.737 dự án FDI, tổng vốn đăng ký 151.685

triệu USD; trong khi giai đoạn 2002 - 2006 là 4.367 dự án, tổng vốn đăng ký

29.581 triệu USD, giai đoạn 2007-2011 vốn đầu tư nước ngoài tăng gấp trên 3

lần giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa thu hút được nhiều vốn

113

FDI vào một số lĩnh vực mong muốn như: công nghiệp công nghệ cao, nông

lâm thủy hải sản, khoa học công nghệ... FDI đầu tư vào nông, lâm nghiệp và

thủy hải sản lũy kế đến 31/12/2011 có 495 dự án với tổng số vốn đăng ký

3264,5 triệu USD. FDI đầu vào hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ

có 1162 dự án với vốn đăng ký 976,1 triệu USD [46].

Bảng 3.8: Vốn đầu tư toàn nền kinh tế và ngành nông nghiệp

Toàn nền kinh tế

Nông nghiệp

Theo giá thực tế Theo giá so sánh 1994

Tổng (Tỷ đồng)

Nông nghiệp Tổng (Tỷ đồng)

Cơ cấu (%)

Tổng (Tỷ đồng)

Tốc độ tăng (%)

Tổng (Tỷ đồng)

Tốc độ tăng (%)

2000 2002 2003 2004 2005 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

151.183 199.105 231.616 275.000 343.135 532.093 616.735 708.826 830.278 877.850 885.125 897.260

20.933 17.448 19.576 23.300 25.715 33.907 39.697 44.309 51.062 52.495 54.720 56.121

13,85 8,80 8,50 8,50 7,49 6,37 6,44 6,25 6,15 5,98 6,18 6,25

115.089 148.067 167.228 186.556 213.931 309.117 333.226 371.302 400.183 362.845 354.050 358.800

100,00 128,65 112,94 111,56 114,67 144,49 107,80 111,43 107,78 90,67 97,70 101,30

15.935 100,00 12.976 81,43 14.134 108,92 15.806 111,83 15.942 100,86 20.729 130,03 23.712 114,39 25.580 107,88 27.533 107,63 87,51 24.093 22.821 91,60 23.125 100,90

Nguồn: [44], [45], [46]

Năm

- Đầu tư trong nước vào nền kinh tế và ngành nông nghiệp, đầu tư trong

nước vào tất cả các lĩnh vực luôn ở mức khá cao, trước khi gia nhập WTO vốn

đầu tư toàn xã hội luôn chiếm khoảng trên dưới 40% GDP và liên tục tăng qua

các năm. Sau khi gia nhập WTO mức vốn đầu tư toàn xã hội rất thất thường,

năm 2007 vốn đầu tư chiếm 46,5% GDP, năm 2011 tỷ trọng vốn đầu tư chỉ còn

chiếm 36,4% GDP. Vốn đầu tư toàn xã hội vào nông nghiệp rất thấp, năm 2000

chiếm 13,85%, năm 2005 tỷ trọng còn 7,49%, năm 2013 còn 6,25%. Tốc độ

tăng vốn đầu tư toàn xã hội vào nền kinh tế giai đoạn 2000-2005 tăng

114

16,76%/năm, giai đoạn 2007-2013 tăng 2,25%/năm; trong đó tốc độ tăng vốn

đầu tư vào ngành nông nghiệp tương ứng là 0,01%/năm và 1,84%/năm.

Về cơ giới hóa trong nông nghiệp năm 2013 tăng nhiều lần so với năm

2006; riêng sản xuất lúa, số lượng máy kéo tăng 1,3 lần, máy gặt các loại tăng

4,3 lần; cơ giới hóa các khâu trồng lúa tăng, làm đất đạt 80%; thu hoạch đạt

30% (vùng ĐBSCL đạt 58%); sấy lúa chủ động ở ĐBSCL đạt 42%.[72]

3.2.3.2. Khoa học công nghệ trong nông nghiệp

- Về giống cây trồng và vật nuôi, trong những năm qua đã nghiên cứu và

chuyển giao đưa vào sản xuất nhiều loại giống cây, con có năng suất, chất

lượng, độ đồng đều cao vào sản xuất. Trong sản xuất lúa gạo đưa các giống lúa

lai 2 dòng, 3 dòng, giống lúa thuần phù hợp với từng vùng sinh thái như: lúa lai

ba dòng Pioneer brand 27P31, lúa lai ba dòng Thịnh dụ 11, lúa lai ba dòng

CNR02, lúa lai ba dòng Hương ưu, lúa lai 3 dòng Du ưu 600, lúa lai 3 dòng

HR182, lúa lai 3 dòng HR182, lúa lai 3 dòng Đại dương 8, lúa lai ba dòng

Xuyên hương 178 (XH 178); lúa lai hai dòng TH7-2, lúa lai hai dòng HYT108;

lúa thuần P376, lúa thuần Q.Nam1, lúa thuần Hoa ưu 109, lúa thuần PC6, lúa

thuần ĐS1, lúa thuần VS1… Đối ngô: ngô lai đơn NK 6326, ngô lai Pioneer

Brand 30B80, ngô lai DK 9955, ngô lai SSC 586, ngô lai Pioneer Brand

30N34, ngô nếp lai SD 268, ngô lai CP 555, ngô lai B265, ngô lai SSC 557,

ngô lai SSC131… Giống cà phê: giống cà phê vối TR4, TR5, TR6, TR9,

TR11, TR12, TR13 để tái canh cà phê ở vùng Tây Nguyên và các giống cà phê

arabica TN1 và TN2 cho vùng Tây Bắc, Quảng Trị, Đăk Lăk, Lâm Đồng. Giống

cao su cao sản IAN 873 cho các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Quảng Trị…

Giổng cao su chịu lạnh VNg 77-2, VNg 77-4 cho các tỉnh phía Bắc…

Friesian thuần chủng từ New Zealand, Canada và Australia. Phát triển đàn lợn

Trong chăn nuôi bò sữa, đã nhập nội và phát triển giống bò sữa Holstein

115

siêu nạc bằng việc đưa các giống lai F1 với tỷ lệ từ 3/4 máu ngoại trở lên với

giống thuần chủng Landrace, Yorkshire, Duroc, Pietrain…

- Về quy trình công nghệ, đã triển khai áp dụng các quy trình sản xuất

sạch, sản xuất bền vững trong sản xuất nông lâm thủy hải sản như: mô hình

quản lý cây trồng tổng hợp ICM, phòng trừ sâu hại tổng hợp IPM và các biện

pháp tưới nước tiết kiệm, bón phân hợp lý cho tất cả các cây trồng. Trong sản

xuất cà phê thực hiện tốt quy trình “ba giảm - ba phải - ba tăng”; trong đó,

giảm phân bón - nước tưới - thuốc bảo vệ thực vật, phải trồng mới bằng giống

tốt - trồng cây che bóng - thu hoạch đúng độ chín đẻ tăng chất lượng - hiệu quả

- năng lực cạnh tranh. Phát triển rộng mô hình cà phê Utz, Rain Forest, "Dự án

sáng kiến nông nghiệp bền vững" SAI, 4C (Common Code for the Coffee

Community - Bộ nguyên tắc chung cho cộng đồng cà phê, Hiệp hội Cà phê

toàn cầu 4C). Từng bước nâng tỷ lệ diện tích cà phê áp dụng các mô hình sản

xuất bền vững… Hết năm 2013, ngành nông nghiệp đã ban hành 32 Quy

chuẩn, 49 Tiêu chuẩn Việt Nam. [72]

- Về áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất NLTS, đã triển khai

áp dụng tiêu chuẩn VietGAP (đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

ban hành ngày 28-1-2008) trong cả 3 lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản.

VietGAP (Vietnamese Good Agricultural Practices) là thực hành sản xuất nông

nghiệp tốt ở Việt Nam; được xây dựng dựa trên 4 tiêu chí: tiêu chuẩn về quy

trình kỹ thuật sản xuất; an toàn thực phẩm; môi trường làm việc và truy

tìm nguồn gốc sản phẩm. Tiêu chuẩn này là tập hợp những nguyên tắc, trình tự,

thủ tục hướng dẫn tổ chức, cá nhân sản xuất, thu hoạch, sơ chế bảo đảm an

toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo phúc lợi xã

hội, sức khoẻ người sản xuất và người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và truy

nguyên nguồn gốc sản phẩm. VietGAP được xây dựng trên cơ sở thừa kế các

tiêu chuẩn GAP đã trước đó: GlobalGAP, AseanGAP và các GAP khác trên

116

thế giới. Áp dụng VietGAP là hướng đi đúng đắn để bảo vệ người tiêu dùng và

hướng tới một nền nông nghiệp “phát triển bền vững”…

3.2.3.3. Đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho lao động nông nghiệp

- Trình độ lao động nông thôn, nông nghiệp đã được nâng lên một bước

nhưng còn rất chậm: số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở

lên năm 2011 chiếm tỷ lệ là 11,2% (năm 2006 đạt 8,2% và 2001 đạt 6,2%);

trong đó trình độ trung cấp lần lượt ở các năm 2011, 2006 và 2001 là 4,3%, 3%

và 2,5%; trình độ đại học là 2,2%, 1,1% và 0,7% trong ba năm tương ứng.

Vùng có tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề từ trung cấp trở lên cao nhất là

ĐBSH đạt 12,7%, ĐNB đạt 8,9%, BTB&DHMT 7,5%, thấp nhất là TN đạt

5,4% và ĐBSCL đạt 5%.

- Về trình độ chuyên môn của lao động nông, lâm, thủy sản: năm 2011

so với năm 2006 trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông nghiệp được

nâng cao nhưng vẫn còn chậm. Lao động có chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở

lên năm 2011 chiếm 2,95% (2006 là 2,48). Vùng có tỷ lệ cao về lao động có

tay nghề được đào tạo từ sơ cấp trở lên là Đông Nam Bộ đạt 5,25%; thấp nhất

là đồng bằng sông Cửu Long đạt 1,71%. Tỷ lệ lao động có trình độ trung cấp là

1,23% (2006 là 0,89); trình độ đại học đạt 0,21% (2006 là 0,11%).

Tuy nhiên năng suất lao động của Việt Nam rất thấp, Tổ chức Lao động

Quốc tế đưa ra mới đây, năng suất lao động Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất ở

Châu Á-Thái Bình Dương, chỉ bằng 1/15 Singapore, 1/11 Nhật Bản và 1/10

Hàn Quốc. Thậm chí so với các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập

trung bình chỉ bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. [77] Trong nông nghiệp

năng suất lao động của Thái Lan gấp 2,43 lần Việt Nam.

- Năng suất đất đai, nhờ áp dụng khoa học và công nghệ, cũng như trình

độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông nghiệp đã được nâng lên một bước,

năng suất đất đai đã tăng lên. Năm 2006 giá trị sản xuất của 1ha đất trồng trọt

117

đạt 26,4 triệu đồng, 1ha mặt nước nuôi trồng thủy sản đạt 55,4 triệu đồng; năm

2013 đạt tương ứng là 73,9 triệu đồng và 152,0 triệu đồng.

Bảng 3.9: GTSX trên 1ha đất trồng trọt và mặt nước nuôi trồng thủy sản

Đất trồng trọt Mặt nước NTTS

Năm

2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Chỉ số P.T (%) 100,0 112,1 112,0 119,4 139,0 103,7 120,0 132,2 100,8 101,5 Giá trị Tr. đồng 42,5 47,4 55,4 67,4 77,4 87,1 103,8 135,2 145,3 152,0 Chỉ số P.T (%) 100,0 111,6 116,7 121,6 114,9 112,5 119,2 130,3 107,5 104,6 Giá trị Tr. đồng 21,1 23,6 26,4 31,6 43,9 45,5 54,6 72,2 72,8 73,9 Nguồn: [45]

3.2.4. Tập trung kinh tế và liên doanh, liên kết trong nông nghiệp

3.2.4.1. Các loại hình tổ chức trong sản xuất nông nghiệp

Trong sản xuất nông nghiệp hiện đang tồn tại 4 loại hình sản xuất nông

nghiệp chủ yếu là: hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp và các hợp tác xã.

- Về hộ nông dân, năm 2011 cả nước có 11,95 triệu hộ có sử dụng đất

sản xuất nông nghiệp, tăng 295 nghìn hộ (tăng 2,5%), so với năm 2006; quy

mô đất của hộ không thay đổi, phổ biến vẫn là nhỏ. Năm 2011 có 69% số hộ có

quy mô đất sản xuất nông nghiệp dưới 0,5 ha (năm 2006 là 69%); trong đó có

34,7% có qui mô dưới 0,2 ha. Tuy nhiên số hộ có quy mô trên 2 ha là 740

nghìn hộ (chiếm 6,2%), tăng 55 nghìn hộ (8,1%) so với năm 2006.

Quy mô sử dụng đất trồng cây hàng năm của hộ, năm 2011 có gần 10,36

triệu hộ, bình quân 0,62 ha; trong đó số hộ có quy mô dưới 0,2 ha chiếm 40%,

từ 0,2 đến dưới 1ha chiếm 48,3%, từ 1 đến 2ha chiếm 7,7%, trên 2 ha chiếm

4,0% (tăng 0,08% so với năm 2006).

Quy mô sử dụng đất trồng lúa của hộ, năm 2011 có gần 9,3 triệu hộ

118

trồng lúa, giảm 12 nghìn hộ so với năm 2006, bình quân 1hộ có 0,44 ha/hộ, hầu

như không thay đổi so với năm 2006.

Quy mô sử dụng đất trồng cà phê của hộ, năm 2011 cả nước có trên 635

nghìn hộ trồng cà phê, tăng gần 1/3 so với năm 2006, vùng Tây Nguyên chiếm

86% số hộ, tăng 27% so với năm 2006. Về quy mô, nhóm hộ có quy mô dưới

0,5 ha chiếm 31,3%, nhóm từ 0,5 - 1ha chiếm 30,1%, nhóm từ 1ha đến dưới

2ha chiếm 28%, nhóm trên 2ha chiếm hơn 10%. Vùng trọng điểm cà phê Tây

Nguyên năm 2011, ba nhóm có quy mô dưới 0,5ha, từ 0,5ha - 1ha, từ 1ha đến

dưới 2ha đều chiếm từ 29% đến 30%, nhóm từ 2ha trở lên chiếm 11,4% (trong

đó 1/3 có quy mô trên 3ha trở lên) trong tổng số hộ trồng cà phê.

Quy mô sử dụng đất trồng cao su của hộ, năm 2011 cả nước có 258 hộ

trồng cao su (tăng 43% so với 2006), Đông Nam Bộ chiếm 56% (tăng 118% so

với năm 2006), Tây Nguyên 22% (tăng 290%). Về quy mô, năm 2011 nhóm hộ

từ 1 - 2ha chiếm 30%, nhóm dưới 0,5ha và nhóm từ 0,5ha - 1ha đều chiếm trên

20%, nhóm từ 2 - 3ha chiếm 13% và từ 3ha trở lên chiếm 14%.

Về quy mô chăn nuôi lợn, tính đến 1/7/2011, cả nước có trên 4,13 triệu

hộ chăn nuôi lợn, miền Bắc và miền Trung chiếm 80% tổng số hộ có nuôi lợn,

so với năm 2006 đã giảm 2,2 triệu hộ, gần 35% là các hộ nuôi quy mô nhỏ

(dưới 10 con), số hộ từ 10 đến 49 con tăng 3,5%; đặc biệt đã có trên 32.000 hộ

nuôi từ 50 con trở lên tăng gần 80% so với năm 2006.

Hộ chăn nuôi gà, năm 2011 cả nước có gần 7.9 triệu hộ nuôi gà (73%

tập trung ở miền Bắc và miền Trung), so với năm 2006 tăng 0,8%, nhóm hộ

chăn nuôi nhỏ lẻ giảm, nhóm hộ có quy mô cận trang trại (từ 100 con trở lên)

tăng 145% so với năm 2006, đặc biệt có 16600 hộ nuôi gà có quy mô rất lớn

(trên 1000 con) chiếm 0,21% trong tổng số hộ chăn nuôi gà, tăng 4,32 lần so

với năm 2006.

Quy mô đất đai và quy mô gia súc gia cầm của hộ bước đầu chuyển dịch

119

theo hướng sản xuất hàng hóa, song vẫn chậm; quy mô nhỏ vẫn chiếm tỷ trọng

lớn; CMH – TTH trong sản xuất nông nghiệp diễn ra còn chậm. [46]

- Trang trại, năm 2012 cả nước có 22655 trang trại, trong đó trồng trọt

chiếm 39,11%, chăn nuôi chiếm 35,9%, nuôi trồng thủy sản chiếm 20,83%,

trang trại khác 4,16%; vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây

Nguyên chiếm trên 70% tổng số trang trại cả nước.

Năm

Bảng 3.10: Trang trại trong ngành nông nghiệp

2009

2010

Đơn vị: Trang trại 2012#

120699

135437

145880

20078

22655

2008 2011#

58576

63649

68268

6835

8861

Tổng

17635

20809

23558

6267

8133

Trồng trọt

34989

35489

37142

4440

4720

Chăn nuôi

-

-

-

736

941

Thủy sản

Nguồn: [44] [45]

* Bao gồm: Trang trại lâm nghiệp và trang trại tổng hợp.

#: 13/4/2011 thông tư 27/2011TT-BNNPTNT quy đinh tiêu chí mới về trang trại.

TT Khác*

Đến 1/7/2011, các trang trại sử dụng 154,9 nghìn ha đất, trong đó 36,6

nghìn ha đất trồng cây hàng năm, 77,1 ha đất trồng cây lâu năm, 8,9 nghìn ha

đất lâm nghiệp và 32,2 nghìn ha mặt nước nuôi trồng thủy sản. Quy mô trang

trại tùy thuộc vào điều kiện từng vùng và loại hình trang trại, bình quân 1 trang

trại 7,7ha, vùng Đông Nam Bộ đạt 11,2ha/trang trại, đồng bằng sông Hồng

thấp nhất 3,5ha. Các trang trại sử dụng 95 nghìn lao động; số lao động chưa

qua đào tạo nghề chiếm 73,9% số còn lại có trình độ như sau: đào tạo nhưng

không có chứng chỉ nghề 12,5%, trình độ sơ cấp nghề 7,3%; trung cấp nghề và

trung cấp chuyên nghiệp 3,4%; cao đẳng nghề gần 0,4%; cao đẳng gần 0,6% và

đại học chiếm gần 2%. Bình quân một trang trại có 4,8 lao động/trang trại,

trồng trọt 5,3 người, thủy sản là 4,3 người, chăn nuôi là 4,2 lao động.

120

Kết quả sản xuất, các trang trại tạo ra gần 39,1 nghìn tỷ đồng chia ra:

nông nghiệp 31,2 nghìn tỷ đồng (chiếm gần 80%), từ thủy sản 7,8 nghìn tỷ

đồng (19,9%), từ lâm nghiệp 0,3%. Giá trị thu từ nông lâm thủy sản bình quân

một trang trại là 1952 triệu đồng/năm. Giá trị thu từ 1ha đất trồng trọt từ hoạt

động nông lâm thủy sản của trang trại trồng trọt đạt 103,5 triệu/ha (2011). [46]

- Doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản: Kết thúc năm 2010 cả

nước có 2536 doanh nghiệp tăng 400 doanh nghiệp (18,7%) so với năm 2006.

Về loại hình có 170 doanh nghiệp nhà nước, 186 công ty TNHH nhà nước,

1027 doanh nghiệp tư nhân, 89 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (FDI)…

Theo 3 ngành sản xuất chính: có 955 doanh nghiệp nông nghiệp, 434 doanh

nghiệp lâm nghiệp, 1147 doanh nghiệp thủy sản.

Về vốn sản xuất kinh doanh cuối năm 2010 đạt 36,3 tỷ đồng/doanh

nghiệp, trong đó vốn phải trả là 12,7 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần năm 2006. Bình

quân 1 doanh nghiệp sử dụng 95 lao động giảm 27 người so với năm 2006.

Về đất dai, các doanh nghiệp nông, lâm thủy sản sử dụng 2309 ha chia

ra: đất trồng cây hàng năm chiếm 3,3%, đất trồng cây lâu năm 16,3%, đất lâm

nghiệp 79,5%, đất nuôi trồng thủy sản 0,9%. Chia theo lĩnh vực hoạt động:

doanh nghiệp nông nghiệp 518,1 nghìn ha (22,4%), doanh nghiệp lâm nghiệp

1763,6 ha (76,4%), doanh nghiệp thủy sản 27,3 nghìn ha (1,2%).

Kết quả sản xuất, doanh thu của 1 doanh nghiệp là 19,5 tỷ đồng gấp 2

lần năm 2005, trong đó: doanh nghiệp nông nghiệp đạt 37,9 tỷ đồng (tăng

49,6%), doanh nghiệp lâm nghiệp 5,2 tỷ đồng (giảm 9,6%), doanh nghiệp thủy

sản đạt 9,5 tỷ đồng (tăng 4 lần). [46]

- HTX nông, lâm nghiệp và thủy sản: Đến 31/12/2011, trong cả nước có

6302 HTX nông lâm thủy hải sản, số đang hoạt động là 6072 HTX trong đó:

96,3% HTX nông nghiệp, 3,2% HTX thủy sản, 0,5% HTX lâm nghiệp. Năm

2011 giảm 935 HTX (12,9%) so với năm 2006 và giảm 16% so với năm 2001,

121

giảm cả ở 3 ngành.

Qui mô đất sử dụng bình quân của 1HTX nông nghiệp là 37,4 ha đất cây

hàng năm, 2,6 ha đất trồng cây lâu năm, 8,2 ha đất lâm nghiệp, 4 ha đất nuôi

trồng thủy sản. HTX lâm nghiệp sử dụng 25 ha đất cây hàng năm, 23,8 ha đất

cây lâu năm, 160 ha đất lâm nghiệp. HTX thủy sản sử dụng 0,7 ha đất cây hàng

năm, 5,5 ha đất cây lâu năm, 1,2 ha đất lâm nghiệp, 120 ha đất nuôi trồng thủy

sản. Vốn bình quân đạt 59,8 triệu đồng, tăng 13,9% so với năm 2005. Lao động

thường xuyên bình quân đạt 21,6 người/HTX, tăng 24,1% so với 2006.

HTX có doanh thu bình quân 1lao động dạt 38,3 triệu đồng/người, tăng

33,4% so với 2005, lợi nhuận trước thuế bình quân đạt 3,7 triệu đồng/lao động,

tăng 31% so với 2005.

Sản xuất kinh doanh của các HTX có chuyển biến trên một số mặt như:

làm được một số khâu dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất, tuy nhiên kết quả sản

xuất tuy có tăng nhưng chậm và chưa vững chắc, nếu loại trừ yếu tố trượt giá

thì chỉ tiêu kết quả sản xuất và lợi nhuận giảm so với 2005 (vì chỉ số trượt giá

2010 so với 2005 là 165,32%). [46]

Ngoài những loại hình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất nông

nghiệp còn có những doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản, những

doanh nghiệp cung ứng đầu vào và những doanh nghiệp thương mại tiêu thụ và

xuất khẩu nông lâm thủy hải sản…

3.2.4.2. Thực trạng TTKT, CMH và hợp tác, liên kết trong phát triển nông nghiệp

Các chủ thể sản xuất (hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp nông, lâm

thủy sản), chế biến, kinh doanh xuất khẩu trong ngành nông nghiệp Việt Nam

vừa nhỏ bé, manh mún lại thiếu sự liên doanh, liên kết, thiếu sự lãnh đạo trong

chuỗi nên phản ứng yếu ớt với sức ép cạnh tranh từ bên ngoài, thua ngay trên

sân nhà, ép giá ngay tại thị trường nội địa...

122

TTKT trong sản xuất nông nghiệp thông qua việc dồn điền đổi thửa đã

thực hiện trong nhiều năm, nhưng quy mô diện tích canh tác của hộ vẫn nhỏ,

nhiều mảnh, nhiều thửa. Việc thực hiện cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất lúa

gạo thí điểm ở An Giang, Thanh Hóa đã mang lại kết quả bước đầu, đặc biệt ở

An Giang vùng lúa xuất khẩu, còn ở Thanh Hóa hiệu quả chưa cao; trong sản

xuất cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm quy mô canh tác lớn vẫn chiếm tỷ lệ

thấp; trong chăn nuôi gia cầm, gia súc và đại gia súc, tỷ lệ hộ chăn nuôi quy mô

nhỏ vẫn chiếm tỷ lệ cao.

TTKT theo chiều dọc và theo chiều chéo: Để nâng cao năng lực cạnh

tranh và không bị chặt dứt, phá vỡ chuỗi cung ứng nông sản không còn con

đường nào khác là TTKT, tuy nhiên để TTKT bằng con đường nội sinh tự các

doanh nghiệp tích luỹ tư bản phải có thời gian và chắc không bắt kịp tốc độ hội

nhập sâu rộng nhanh như hiện nay. Do đó TTKT bằng con đường sáp nhập,

hợp nhất, mua lại và liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp với các hộ

nông dân, với các trang trại và với các doanh nghiệp với nhau để hình thành

các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có năng lực cạnh tranh và chuyển

sang mô hình độc quyền nhóm hoặc hình thành các doanh nghiệp có quyền lực

thị trường là con đường duy nhất. TTKT có thể theo chiều ngang, chiều dọc và

theo đường chéo; TTKT dọc thường có tác dụng hạ giá thành và cũng tăng khả

năng kiểm soát dòng gía trị gia tăng. Ngoài ra những doanh nghiệp TTKT dọc

còn có thể kiểm soát giá cả và chi phí của mình trên các phân khúc sản xuất

khác nhau của ngành mình để kiếm lời ở những phân khúc có giá trị gia tăng

cao nhất. Tuy nhiên quá trình TTKT bằng mua bán, sát nhập, liên doanh và liên

kết trong ngành nông nghiệp diễn ra rất chậm chạp, ngay cả với ngành hàng

nông sản xuất khẩu lớn thì tình trạng thiếu liên doanh liên kết hợp tác vẫn là

phổ biến, hoặc có liên doanh liên kết nhưng lại rất lỏng lẻo.

Trong ngành nông nghiệp Việt Nam hiện nay, từ sản xuất đến chế biến,

lưu thông phân phối và xuất khẩu đều trong tình trạng manh mún, nhỏ lẻ;

123

mạnh ai lấy làm, kinh doanh theo phi vụ thiếu tính chuyên nghiệp; năng lực

cạnh tranh, năng lực tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu rất

thấp; nên tình trạng tranh mua, tranh bán diễn ra phổ biến và tình trạng được

mùa thì rớt giá, thua ngay trên sân nhà trước sức ép cạnh tranh từ các công ty

đa quốc gia và các tập đoàn nước ngoài.

3.2.5. Thực trạng về năng lực cạnh tranh

3.2.5.1. Năng lực cạnh tranh của một số ngành hàng nông sản

Năng lực cạnh tranh của hàng nông sản thể hiện qua các mặt sau: So sánh

chỉ số RCA của các mặt hàng nông - lâm - thủy sản của Việt Nam với một số

đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan,

Indonexia, Malaixia, Philippine cho thấy Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao ở

các mặt hàng như thủy hải sản, lúa, cà phê, tiêu, cao su nguyên liệu, gỗ và các

sản phẩm làm từ gỗ…

So sánh về sản xuất một số ngành hàng nông sản với các đối thủ cạnh

tranh: về lượng bao gồm diện tích gieo trồng, năng suất, sản lượng, lượng xuất

khẩu... Việt Nam có lợi thế trong các ngành hồ tiêu và điều, diện tích trồng hồ

tiêu đứng thứ 4 thế giới và diện tích trồng điều đứng thứ 3. Về năng suất, có lợi

thế trong hai ngành hàng cà phê và hạt điều so với các nước xuất khẩu cạnh

tranh khác như Brazil, Indonesia, Ấn Độ. Về sản lượng sản xuất, có lợi thế về

sản lượng đối với ba ngành hàng, cà phê robusta, điều và hồ tiêu. Về lượng

xuất khẩu, điều và tiêu là những mặt hàng xuất khẩu đứng đầu thế giới, cà phê

đứng sau Brazil, đứng thứ đầu về cà phê Robusta, gạo đứng thứ 2, thứ 3…

124

Chè

Năm

Gạo

Thủy sản 17,2 16,1 14,3 13,5 14,2 14.0 13,7 11,0 8,9

Hạt Tiêu 45,97 39,87 47,26 42,74 42,82 40,17 37,10 38,83 37,49

12,59 7,26 9,84 8,77 8,00 8,45 6,86 7,15 3,90

Lâm sản 2,00 2,25 3,44 4,10 4,32 4,56 4,84 4,82 5,12

2002 2004 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Cao su 28,75 28,39 27,21 29,30 29,06 27,83 24,43 28,24 15,46

Cà phê 18,81 24,74 24,02 19,18 24,87 30,78 24,51 18,70 15,87

43,37 41,48 50,74 70,06 59,95 66,01 114,80 89,37 70,16 Nguồn: [4]

Bảng 3.11: Chỉ số RCA của một số ngành hàng nông sản xuất khẩu

Trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh của các mặt hàng cụ thể trên nhiều

khía cạnh, có thể chia thành các nhóm như sau: 1) Nhóm có lợi thế so sánh và

có cơ hội mở rộng thị trường gồm: lúa gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hồ tiêu,

thủy sản, gỗ chế biến và các sản phẩm làm từ gỗ. 2) Nhóm các ngành hàng vừa

có cơ hội mở rộng thị trường vừa phải đối mặt với nhiều thách thức là rau, hoa,

quả và muối. 3) Nhóm ít có lợi thế so sánh và bị tác động mạnh trong hội nhập

gồm các ngành hàng chăn nuôi, mía đường, thức ăn chăn nuôi và sữa…

Lợi thế so sánh và chuyển hóa lợi thế so sánh thành năng lực cạnh tranh

của hàng nông sản có mức độ rất khác nhau, nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố

khác ngoài lợi thế so sánh. Hoặc chuyển hóa từ năng lực cạnh tranh sản phẩm

thành năng lực cạnh tranh của ngành hàng phụ thuộc vào: năng lực cạnh tranh

của từng doanh nghiệp, vào CMH, TTH và hợp tác, liên kết hình thành mạng

sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị; đây là vấn đề hạn chế nhất trong việc

nâng cao năng lực cạnh tranh.

Cho đến nay, sản xuất nông sản hàng hóa cho tiêu dùng trong nước hầu như ít

được bảo hộ. Khi hội nhập WTO càng làm cho mức độ bảo hộ hữu hiệu đối với các

nông sản thô giảm mạnh, tuy nhiên các nông sản đã qua chế biến mức bảo hộ lại

tăng. Như vậy, các nông sản thô sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn với các nông sản

125

nhập khẩu và điều này lần nữa thể hiện chính sách của Việt Nam đang theo

hướng khuyến khích tiêu dùng các nông sản đã qua chế biến.

3.2.5.2. Năng lực cạnh tranh của một số ngành hàng lâm sản

- Thị trường xuất khẩu gỗ: Giá trị kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản

phẩm từ gỗ năm 2000 đạt 311,4 triệu USD, năm 2006 đạt 1943,1 triệu USD,

năm 2007 đạt 2384,6 triệu USD, năm 2013 đạt 5500,0 triệu USD. Tốc độ tăng

kim ngạch xuất khẩu bình quân là 35,68%/năm (2000-2006) và 14,59%/năm

(2007-2013). Bên cạnh việc duy trì những thị trường truyền thống như: Mỹ,

EU, Nhật Bản... và bước đầu xâm nhập được những thị trường mới rất tiềm

2002 - 2006

2007 - 2012

5%

10%

10%

11%

4%

4%

21%

28%

1%

32%

2%

39%

14%

19%

EU Trung Quốc

Hàn Quốc Asean

EU Trung Quốc

Hàn Quốc Asean

Mỹ Nhật Bản Nước khác

Mỹ Nhật Bản Nước khác

năng: Trung Quốc, Ấn Độ, Úc Niu di lân…

Nguồn: [45]

Biểu đồ 3.12: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gỗ từ 2002-2012

Cơ cấu thị trường xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ ít có sự thay đổi

trong 10 năm qua, kể cả sau WTO, thị trường xuất khẩu gỗ tập trung ở thị

trường lớn là Hoa kỳ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc.

- Chỉ số lợi thế so sánh, các sản phẩm gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ thực

sự có lợi thế so sánh và có cơ hội mở rộng thị trường tăng theo thời gian hội

nhập, đặc biệt là từ sau WTO tại thị trường Mỹ và EU. Ở thị trường Trung

quốc và ASEAN sản phẩm này có chỉ số lợi thế so sánh thực dương, nhưng

126

năng lực cạnh tranh hầu như không có.

Các sản phẩm gỗ đã qua chế biến và các sản phẩm làm từ gỗ: giường, tủ,

bàn ghế có hệ số NPR lớn hơn 1 cho thấy các sản phẩm này đang được bảo hộ,

tuy nhiên các biện pháp bảo hộ bằng thuế quan đang được cắt giảm theo lộ

trình cam kết. Đồng thời nhóm sản phẩm này có ERP từ năm 2005-2009 đều

cao hơn NPR, điều đó chứng tỏ ngoài việc sử dụng biện pháp thuế quan để hỗ

trợ, còn sử dụng nhiều biện pháp phi thuế để bảo hộ sản xuất trong nước.

Bảng 3.12: Chỉ số RCA hàng gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ xuất khẩu

Nhật

EU

Asean

Năm

Chung

Mỹ

0,95 1,32 2,75 4,20 4,84 6,17 7,58 8,85 9,72

2,00 2,25 3,44 4,10 4,32 4,56 4,84 4,82 5,12

Hàn Quốc 4,50 4,65 5,14 8,09 8,03 6,94 7,37 6,59 4,04

1,56 2,05 2,26 2,24 2,41 2,51 2,52 2,86 3,29

Trung quốc 0,07 0,06 0,09 0,14 0,23 0,33 0,23 0,39 0,64

12,31 17,56 36,14 40,19 37,05 34,47 39,37 26,26 19,41

0,04 0,02 0,04 0,02 0,02 0,02 0,01 0,02 0,04

2002 2004 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Nguồn: [4]

ở một số thị trường

Chỉ số bảo hộ hữu hiệu ERP từ năm 2005-2009 đối với các nhóm sản

phẩm lâm nghiệp đều giảm, đặc biệt là đối với 2 sản phẩm gỗ tròn và sản phẩm

lâm nghiệp khác giảm mạnh. Trồng rừng và chăm sóc rừng có giá trị ERP âm,

nhưng tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa NRP dương, nghĩa là giá trị gia tăng của hai sản

phẩm này (nội địa) nhỏ hơn giá trị gia tăng của sản phẩm nhập khẩu; cho thấy

một phần là quy trình công nghệ trồng và chăm sóc rừng có trình độ thấp và lạc

hậu hơn so với công nghệ sản xuất hàng nhập khẩu, và một phần là do chưa có

biện pháp bảo hộ hoặc có nhưng chưa phát huy được tác dụng; mức động tăng

trưởng của hai sản phẩm này phụ thuộc vào những sản phẩm nhập khẩu.

127

3.2.5.3. Năng lực cạnh tranh của ngành hàng thủy hải sản

Cơ cấu (%)

Giá trị xuất khẩu TB (triệu USD/năm)

TT

Thị trường

Trước WTO 2002-2006

Sau WTO 2007-2012

Nhật Bản Mỹ Hàn Quốc Đức Nga Ucraina Italia Tây Ban Nha Hà Lan Ôxtrâylia Đài Loan Canađa Bỉ

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 Hồng Kông 15

Pháp

Trước WTO 2002-2006 729,9 673,5 154,0 49,7 36,0 4,5 47,9 41,6 36,9 78,2 108,7 45,7 52,0 69,6 30,4 386,5 2.545,2

Sau WTO 2007-2012 851,0 839,0 354,6 203,9 123,6 75,0 143,7 155,0 135,7 140,8 129,1 114,2 106,1 90,0 97,5 1.131,0 4.690,3

Các nước khác

Tổng cộng

Chênh lệch -10,5 -8,6 1,5 2,4 1,2 1,4 1,2 1,7 1,4 -0,1 -1,5 0,6 0,2 -0,8 0,9 8,9 -

18,1 17,9 7,6 4,3 2,6 1,6 3,1 3,3 2,9 3,0 2,8 2,4 2,3 1,9 2,1 24,1 100,0

28,7 26,5 6,1 2,0 1,4 0,2 1,9 1,6 1,5 3,1 4,3 1,8 2,0 2,7 1,2 15,2 100,0

Nguồn: [43]

Bảng 3.13: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy hải sản

- Thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu dịch chuyển một cách rõ

nét, không quá tập trung vào một số thị trường mà phát triển đều ở nhiều thị

trường khác nhau. Hiện thủy sản xuất khẩu sang 133 quốc gia và vùng lãnh

thổ, có 15 quốc gia nhập với khối lượng lớn (Top 15) chiếm 75,9% tổng giá trị

xuất khẩu; đặc biệt là thị trường Nhật Bản và Mỹ. Sau WTO, các nước đã cắt

giảm thuế, nên xuất khẩu thủy sản có cơ hội đến với nhiều quốc gia. Tỷ trọng

xuất khẩu thủy sản vào các thị trường truyền thống Nhật Bản và Mỹ giảm, thay

vào đó là tăng ở các nước khác. Trước WTO tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản

chiếm tới 28,7%, sau WTO còn 18,1% (giảm 10,5 điểm %); thị trường Mỹ

cũng giảm 8,6 điểm %. Tỷ trọng xuất khẩu vào nhiều nước khác tăng trung

bình khoản từ 1 đến 2,4% như Hàn Quốc, Đức, Nga, Ucraina, Tây Ban Nha…

128

- Chỉ số lợi thế so sánh: Những mặt hàng thủy sản có lợi thế rất lớn

trong xuất khẩu, khi hội nhập mặt hàng thủy sản chịu nhiều áp lực cạnh tranh

nên lợi thế so sánh ngày càng giảm; thể hiện RCA lớn hơn 1, đang giảm dần,

Trước WTO

Sau WTO

năm 2002 chỉ số RCA đạt tới 17,2; năm 2006 còn 14,2 và năm 2010 còn 8,898.

Nguồn: [4]

Đồ thị 3.3: Chỉ số lợi thế so sánh hữu hiệu RCA thủy sản

Trong giai đoạn từ 2007 trở lại đây các nước nhập khẩu hàng thủy sản sử

dụng Hiệp định SPS về an toàn vệ sinh thực phẩm, SG, SCM, AD để kiện về

trợ cấp, bán phá giá, biện pháp phòng vệ và truy xuất nguồn gốc từ khai thác

(IUU), cũng như tồn dư chất kháng sinh trong hàng thủy sản xuất khẩu ngày

càng nhiều. Điển hình như Mỹ kiện trợ cấp, bán phá giá cá tra, tôm; Nhật Bản

tăng cường kiểm tra 100% lô hàng tôm xuất khẩu vào thị trường Nhật; Tổ chức

WWF có ý định đưa cá tra vào danh sách khuyến cáo không nên sử dụng châu

Âu... Điều đó làm cho hàng thủy hải sản có lợi thế lớn đang có xu hướng ngày

một giảm do việc áp thuế chống phá giá, trợ cấp và các biện pháp phòng vệ….

Tính theo kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản/lao động nông

nghiệp, Việt Nam cao hơn Trung Quốc và Indonesia. Kim ngạch xuất khẩu

129

nông sản/lao động nông nghiệp của Việt Nam đạt 290 USD/lao động (2005) và

355,7 USD/lao động (2006), Indonesia đạt 208 USD, Trung Quốc chỉ đạt 17

USD (2005). Cao nhất vẫn là Hoa Kỳ đạt 49270 USD (2006) và thứ hai là Thái

Lan là 1218 USD (2005).

Nhìn chung, nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản có lợi thế so sánh

lớn, nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của ngành hàng không cao, thể

hiện: Việt Nam có nhiều mặt hàng có sản lượng xuất khẩu cao, đứng nhất, nhì

thế giới, nhưng kim ngạch xuất khẩu thu về không tương xứng, chịu nhiều thua

thiệt, rủi ro khi tham gia giao thương trên thị trường thế giới. Nguyên nhân

chính là do: TTH, CMH hóa thấp nên không tạo được khối lượng nông, lâm,

sản lớn có chất lượng tốt và đồng đều; đầu tư khoa học và công nghệ thấp nên

chất lượng sản phẩm thấp, năng suất thấp, giá thành cao; thiếu hợp tác, liên

kết và chưa tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị nông

sản toàn cầu; hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất nông nghiệp

thấp kém ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh; Các chủ thể từ sản xuất đến chế

biến, lưu thông phân phối và xuất khẩu đều có qui mô nhỏ; nguồn lực thấp

kém; cộng với không nắm được thị trường, không chú trọng xây dựng thương

hiệu sản phẩm, quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và sản phẩm... Những yếu

kém đó đã làm giảm năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp. Ngoài ra

năng lực cạnh tranh quốc gia còn thấp không hỗ trợ và nâng đỡ năng lực cạnh

tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp nông nghiệp và của ngành hàng.

3.2.6. Hạ tầng phục vụ cho phát triển nông nghiệp

- Hệ thống điện nông thôn, tính đến 1/7/2011 cả nước có 9054 xã có

điện, bằng 99,8% tổng số xã, tăng 0,9% so với năm 2006; nếu so với năm

2001, số xã tăng là 1044 xã (tăng 13%).

- Hệ thống giao thông nông thôn, tính đến 1/7/2011 cả nước có 8944 xã

có đường ô tô đến trụ sở xã, chiếm 98,6% tổng số xã (năm 2001 đạt 94,2% và

130

năm 2006 đạt 96,9%). Chất lượng đường nông thôn cũng được tăng, tỷ lệ

đường nhựa, đường bê tông tăng.

- Hệ thống thủy lợi, đến cuối năm 2011 cả nước có 16 nghìn trạm bơm

phục vụ sản xuất nông lâm thủy sản trên địa bàn xã, tăng 7130 trạm (tăng 81%)

so với năm 2001, bình quân 1 xã có 1,8 trạm bơm nước (năm 2006 là 1,5 trạm)

- Hệ thống thông tin liên lạc: Hệ thống thông tin liên lạc tăng mạnh và

phục vụ tốt nhu cầu thông tin của quản lý, cho hoạt động sản xuất của doanh

nghiệp và các hộ. Tỷ lệ hộ nông thôn có điện thoại tăng nhanh từ 5,3% năm

2001 lên 86,6% năm 2011. Hệ thống mạng lưới kinh doanh internet tư nhân ở

nông thôn tăng nhanh. Tỷ lệ xã có điểm kinh doanh internet tư nhân năm 2011

đạt 53,7% (năm 2006 là 32,5 %).

- Hệ thống cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản: Hệ thống cơ sở chế biến

nông, lâm, thủy sản tăng nhanh, năm 2001 có 252 nghìn cơ sở, 2006 có 428

nghìn, tăng 69,9% so với năm 2001; năm 2011 có 501 nghìn cơ sở, tăng 17%

so với 2006, tăng gấp 2 lần 2001.

- Hệ thống cơ sở nghiên cứu khoa học và dịch vụ khoa học kỹ thuật và

hệ thống đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển nông nghiệp tuy đã

được đầu tư trong nhiều năm qua, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của

phát triển nông nghiệp trong những năm tới. [46]

3.3. Đánh giá chung về phát triển nông nghiệp của Việt Nam sau WTO

3.3.1. Những thành tựu

Trong quá trình hội nhập KTQT, nền kinh tế Việt Nam ngày càng gắn

kết chặt chẽ với kinh tế thế giới, đặc biệt khi là thành viên chính thức của

WTO; sự biến động của kinh tế thế giới đều tác động đến kinh tế Việt Nam,

trong đó có phát triển nông nghiệp. Từ khi là thành viên của WTO, quá trình

phát triển nông nghiệp đã đạt được những thành tựu sau:

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm nhưng

131

vẫn dương và ở mức khá cao (trên dưới 4%/năm); đặc biệt khi kinh tế thế giới

gặp khủng khoảng (những năm 2007-2008 và 2011-2012), nông nghiệp đã trở

thành trụ đỡ cho nền kinh tế, nhờ tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp cao bù

cho suy giảm của công nghiệp, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng trưởng

xuất khẩu nông sản năm sau cao hơn năm trước (trừ năm 2009), thăng dư

thương mại nông sản luôn cao và ngược với xu hướng thâm hụt của nền kinh

tế, nhờ đó kéo giảm thâm hụt cán cân thanh toán. Thặng dư xuất khẩu nông sản

tăng, đạt mức kỷ lục: 9 tỷ USD năm 2011, tăng 45,8% so với năm 2008.

Thứ hai, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm khai

thác tài nguyên thiên nhiên, giảm sản lượng những sản phẩm sử dụng nhiều

nguồn lực tài nguyên trên đơn vị sản phẩm, lựa chọn những khâu những cung

đoạn có giá trị gia tăng cao để phát triển; đặc biệt phát triển công nghiệp chế

biến nông lâm thủy sản. Trong cơ cấu của nền kinh tế tỷ trọng ngành nông

nghiệp giảm; trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp: tỷ trọng nông nghiệp

giảm, lâm nghiệp và thủy sản tăng. Trong cơ cấu nông nghiệp: tỷ trọng trồng

trọt giảm, chăn nuôi tăng. Trong cơ cấu thủy sản: tỷ trọng nuôi trồng tăng, khai

thác giảm. Trong lâm nghiệp, tỷ trọng chế biến gỗ - khâu có gía trị gia tăng cao

tăng… Đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn, như vùng sản xuất lúa

gạo ĐBSCL, vùng cao su, cà phê ở Tây Nguyên và Đông Nam bộ, nuôi trồng

thủy sản vùng ven biển của các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ và vùng ĐBSCL,

vùng chăn nuôi bò sữa ở một số địa phương…

Thứ ba, đầu tư cho nông nghiệp, áp dụng và chuyển giao khoa học công

nghệ có chuyển biến sau WTO. Giai đoạn sau WTO, vốn FDI đầu tư vào nông

nghiệp tăng 3 lần so với giai đoạn trước WTO; nhiều cây trồng, vật nuôi có

năng suất chất lượng cao; nhiều quy trình công nghệ cao, công nghệ sạch, công

nghệ thân thiện với môi trường được đưa vào sản xuất nông nghiệp... Đặc biệt

đã bước đầu hình thành và phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ

132

cao và hiện đại. Năng suất cây trồng, vật nuôi, năng sất đất đai tăng. Năng suất

cà phê cao nhất thế giới, GTSX 1ha đất trồng trọt đạt 73,9 triệu đồng, GTSX

1ha mặt nước nuôi trồng thủy sản đạt 152,0 triệu đồng (năm 2013)...

Thứ tư, TTH, CMH và liên doanh liên kết trong sản xuất nông nghiệp đã

có những chuyển biến sau WTO, số hộ chăn nuôi, trồng trọt quy mô lớn tăng,

đã xuất hiện mô hình liên kết để hình thành cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất

lúa gạo xuất khẩu ở An Giang; một số mô hình liên kết dọc trong sản xuất chế

biến và tiêu thụ ở ngành hàng cà phê, ngành hàng thủy sản, ngành hàng sữa...,

tạo ra đột phá mới trong phát triển nông nghiệp.

Thứ năm, sau WTO, năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp, của

các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản và năng lực cạnh tranh của sản phẩm

nông lâm thủy sản được cải thiện. Nhiều mặt hàng như: thủy sản, cà phê, tiêu,

cao su, lúa gạo, gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ có lợi thế so sánh cao, đây là

nguồn lực để chuyển từ lợi thế so sánh thành năng lực cạnh tranh. Thị phần của

nhiều sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản ngày càng mở rộng, đã thâm nhập vào

thị trường đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như vệ sinh an toàn

thực phẩm như thị trường Mỹ, Tây Âu, Nhật...

Thứ sáu, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, chế biến và tiệu thụ nông

lâm thủy hải sản gồm: Hệ thống điện nông thôn, hệ thống giao thông, hệ thống

thủy lợi, hệ thống tin liên lạc được đầu tư nhiều hơn giai đoạn trước WTO; cơ

sở chế biến nông, lâm, thủy sản năm 2010 tăng trên 17% so với năm 2006.

3.3.2. Những hạn chế

Một là, từ khi đổi mới kinh tế năm 1986 và hội nhập khu vực ASEAN

năm 1996, đến gia nhập WTO năm 2007, tăng trưởng GDP nông nghiệp chủ

yếu dựa vào khai thác nguồn lực tài nguyên thiên nhiên. Diện tích đất trồng trọt

và diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng nhanh, đặc biệt diện tích gieo

trồng những mặt hàng nông lâm thủy sản có lợi thế cạnh tranh tăng mạnh như:

133

lúa gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, thủy sản. Tuy nhiên, sau WTO tốc độ tăng

trưởng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm dần; kim ngạch

xuất khẩu tăng chủ yếu do tăng lượng còn giá bấp bênh thiếu ổn định, xuất

khẩu nông sản chủ yếu nông sản thô và sơ chế. Đồng thời phát triển nông

nghiệp trong giai đoạn vừa qua như một kỳ tích cũng để lại nhiều hậu quả về

môi trường sinh thái và xã hội như: khai thác quá mức đất rừng tự nhiên kể cả

rừng ngập mặn để phát triển nông nghiệp; phát triển nông nghiệp thiếu ổn định,

hiện tượng trồng và chặt phá diễn ra với nhiều loại cây trồng; vùng sản xuất lúa

gạo xuất khẩu góp phần đảm an ninh lương thực toàn cầu thì đời sống của nông

dân vẫn chưa được cải thiện nhiều.

Hai là, chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp và cả nội bộ (nông

nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản) vẫn còn chậm, chưa bền vững, vẫn trong vòng

luẩn quẩn trồng chặt, chặt trồng. Hoặc một nghịch lý là, năm 2013 Việt Nam

đã thu về 2,95 tỷ USD xuất khẩu gạo, nhưng nhập khẩu thức ăn gia súc và

nguyên liệu 3 tỷ USD; hiện tiêu thụ khoảng 12,5 triệu tấn thức ăn chăn nuôi,

nhưng phải nhập tới 9 triệu tấn nguyên liệu (chiếm 72%); 6 tháng đầu năm

2014 đã nhập khẩu 2,33 triệu tấn ngô, kim ngạch khoảng 600 triệu USD. [70]

Đời sống nông dân vẫn còn nghèo, khoảng cách giàu nghèo giữa thành

thị và nông thôn, đặc biệt khoảng cách về mức sống giữa miền xuôi và miền

ngược; giữa nông dân vùng trồng lúa và vùng trồng cây công nghiệp, thủy sản

cũng đang doãng ra… Trước thực trạng này, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết

định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013, phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông

nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. [61].

Ba là, sau WTO, khoa học và công nghệ được áp dụng nhiều hơn trong

nông nghiệp, chủ yếu là giống cây con, nhưng chất lượng giống còn thấp, quy

trình công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ vi sinh, công nghệ trồng hoa

rau trong nhà kính, công nghệ chăn nuôi bò sữa hiện đại… chủ yếu triển khai ở

134

doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp lớn và một số ngành hàng mà chưa nhân rộng

trong toàn ngành, cũng như sản xuất nông hộ và trang trại. Đồng thời khoa học

công nghệ triển khai trong nông nghiệp chưa đồng bộ, chủ yếu tập trung ở

khâu sản xuất nông nghiệp còn bảo quản, chế biến và tiêu thụ chưa áp dụng

nhiều, nên tổn thất sau thu hoạch còn khá lớn.

Bốn là, sau khi gia nhập WTO, TTH, CMH và liên kết, liên doanh sản

xuất có được cải thiện, số nông hộ và số trang trại sản xuất có quy mô lớn có

tăng nhưng tăng chậm; CMH sâu như trồng cùng loại giống, cùng mùa vụ đã

hình thành mô hình cánh đồng mẫu lớn ở An Giang nhưng chưa nhân rộng

được. Liên doanh, liên kết đã xuất hiện ở một số ngành hàng, nhưng rất lỏng

lẻo và rất dễ bị phá vỡ bất kỳ lúc nào; chưa hình thành mạng sản xuất, chuỗi

cung ứng và chuỗi giá trị ngành hàng nên tình trạng tranh mua, tranh bán, được

mùa rớt giá vẫn là chuyện hàng ngày của nông nghiệp. Chính liên doanh, liên

kết và chuỗi cung ứng hàng nông sản lỏng lẻo, cộng với tâm lý tiểu nông và

sản xuất nhỏ, đã tạo điều kiện cho các thương nhân Trung Quốc làm rối loạn

thị trường nông sản nội địa. Tóm lại, tình trạng sản xuất của ngành nông

nghiệp vẫn còn manh mún, phân tán, nhất là vùng ĐBSH, vùng Miền núi và

Trung du Bắc bộ và duyên hải miền Trung; nền nông nghiệp chủ yếu dựa vào

sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm và tỷ suất hàng hóa rất

thấp đang là trở ngại trong phát triển nông nghiệp sau WTO.

Năm là, nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản của Việt Nam thực sự

có lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh; nhưng năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp thấp về: năng lực tài chính, công nghệ, nguồn nhân lực; năng lực cạnh

tranh của ngành hàng thấp do thiếu phân công, hợp tác, liên doanh, liên kết đã

không hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản mà còn làm

giảm năng lực cạnh tranh của nó. Năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp

và năng lực cạnh tranh quốc gia yếu nên không trợ để nâng cao năng lực cạnh

135

tranh của doanh nghiệp, của ngành hàng và của hàng nông sản; thể hiện khi gia

nhập WTO, Việt Nam cam kết nền kinh tế “phi thị trường” trong vòng 12 năm

kể từ khi gia nhập (kết thúc năm 2018); vì vậy mà nhiều nước liên tục áp dụng

AD, SCM và SG một cách phi lý để áp thuế bổ sung cao làm triệt tiêu năng lực

cạnh tranh của hàng nông lâm thủy hải sản. Điển hình như mặt hàng tôm và cá

tra ở thị trường Mỹ đã nhiều lần bị áp thuế bổ sung cao từ khi gia nhập WTO.

Gần đây, theo một lãnh đạo Hội Nghề cá, “lý giải về việc tôm Việt Nam đã

từng được “minh oan” trong POR7, vị này cho biết thực chất thị trường Mỹ lúc

đó “đói” tôm nên chúng ta được áp thuế suất bằng 0%. Hiện nay, sản phẩm

tôm ở thị trường này dồi dào trở lại nên Mỹ muốn ngăn cản nguồn nhập khẩu

cạnh tranh với hàng tôm nội địa”. [71]

Sáu là, hệ thống hạ tầng phục vụ cho phát triển nông nghiệp tuy được

đầu tư cao hơn kể từ khi gia nhập WTO, nhưng chưa đồng bộ và chưa đáp ứng

được phát triển nông nghiệp trong giai đoạn tới.

3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong phát triển nông nghiệp

3.3.3.1. Những nguyên nhân do điều khiện tự nhiên:

- Nguồn lực tự nhiên có giới hạn và dần cạn kiệt: Trong sản xuất nông

nghiệp, đối tượng là cây trồng, vật nuôi có quá trình sinh trưởng và phát triển

theo quy luật riêng vốn có, khi năng suất cây trồng vật nuôi đạt đến ngưỡng

sinh học thì không tăng được nữa nếu không thay đổi giống, thay đổi công

nghệ gieo trồng, chăm sóc… Đất, nước và đa dạng sinh học cũng có giới hạn,

nếu khai thác kém, hiệu quả nguồn lực dần cạn kiệt và suy giảm; đặc biệt đất

đai trong nông nghiệp đang giảm do CNH-ĐTH.

- Những biến động bất thường của khí hậu-thời tiết: Những năm gần đây

do biến đổi khí hậu toàn cầu; những hình thái khí hậu cực đoan: bão, lốc, mưa,

mưa đá, úng lụt, nắng hạn… với tần suất xuất hiện ngày càng tăng đã ảnh

hưởng đến phát triển nông nghiệp ngày càng lớn.

136

- Dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi: do biến đổi khí hậu thời tiết cực

đoan có tần suất cao, nên dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy

sản cũng tăng; như dịch lở mồm long móng trên đàn trâu bò, dịch tai xanh trên

đàn lợn, dịch cúm gia cầm, dịch bệnh ở tôm, cá…; ảnh hưởng đến phát triển

nông nghiệp.

3.3.3.2. Những nguyên nhân do trình độ phát triển của các nguồn lực

- Vốn và đầu tư cho phát triển nông nghiệp còn thấp: vốn đầu tư cho

nông nghiệp tuy có tăng so với trước WTO, nhưng tốc độ tăng so với các lĩnh

vực kinh tế khác thì nông nghiệp có tốc độ tăng vẫn dương nhưng giảm dần cả

vốn đầu tư trong nước và đầu tư FDI. Vốn sản xuất của doanh nghiệp và của hộ

nông dân tính trên đơn vị diện tích so với các nước trong khu vực; trên một lao

động thấp so với các lĩnh vực kinh tế khác. Tiếp cận vốn vay của nông dân,

doanh nghiệp nông ngiệp rất khó khăn do vậy ảnh hưởng đến phát triển, tăng

trưởng nông nghiệp.

- Trình độ và chất lượng của lao động nông nghiệp rất thấp: lao động

nông nghiệp hầu hết là những người lớn tuổi vì đa số thanh niên đến tuổi lao

động rời quê tìm việc tại các thành phố và khu công nghiệp. Lao động nông

nghiệp chưa qua đào tạo, năm 2011 điều tra nông thôn nông nghiệp, lao động

được đào tạo nghề chiếm có 11,2% trong lao động nông thôn, lao động nông

nghiệp được đào tạo nghề có 2,95%.

- Khoa học và công nghệ trong nông nghiệp: áp dụng khoa học và công

nghệ trong sản xuất nông nghiệp rất thấp. Cơ giới hóa trong nông nghiệp mới ở

một số khâu làm đất, thu hoạch; tỷ lệ cơ giới hóa ở từng cây trồng vật nuôi

khác nhau, nhưng nói chung là thấp. Giống cây trồng vật nuôi chất lượng thấp,

nhiều giống cây trồng vật nuôi vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu như giống lúa

lai… Các quy trình công nghệ cao, hiện đại, công nghệ sản xuất xanh sạch,

công nghệ sinh thái…; chủ yếu mới ở dạng mô hình trình diễn, thí điểm, còn

137

dự án còn mô hình, khi dự án rút thì mô hình cũng hết. Khoa học và công nghệ

chủ yếu tập trung cho sản xuất nông nghiệp, khoa học công nghệ sau thu

hoạch, bảo quản, chế biến chưa được chú ý; xuất khẩu nông sản thô vẫn là chủ

yếu…

3.3.3.3. Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp:

Các nguồn lực trong nông nghiệp là điều kiện cần cho phát triển nông

nghiệp; còn phát triển như thế nào lại tùy thuộc vào việc huy động và sử dụng

các nguồn lực ấy, đặc biệt phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, hiệu

quả và có giá trị gia tăng cao. Trong quá trình hội nhập KTQT, các nước đang

phát triển thường rơi vào bẫy tăng trưởng theo cơ cấu tự nhiên với thiên hướng

tập trung vào những ngành, những cung đoạn sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều

lao động, dẫn đến khai thác kiệt quệ tài nguyên và làm suy giảm môi trường.

Do vậy vai trò của nhà nước trong việc ban hành chính sách và giải pháp

nhằm định hướng trong huy động và phân bổ nguồn lực giữ vai trò quan trọng

trong phát triển nông nghiệp bền vững, hiệu quả và có giá trị gia tăng cao. Sau

WTO, nhiều chính sách được ban hành, nhưng vẫn chưa đủ và chưa đồng bộ,

chưa bắt kịp với tiến trình hội nhập, hiệu quả của chính sách thấp…

- Chính sách khuyến khích TTH-CMH: chính sách tập trung nguồn lực

như dồn điền đổi thửa triển khai trong thời gian dài nhưng quy mô sản xuất của

các nông hộ và trang trại vẫn nhỏ chưa thoát khỏi sản xuất manh mún. Luật đất

đai 2013 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực 1/7/2014, nhưng luật cũng

chưa có đột phá cho phát triển nông nghiệp, thời hạn giao đất vẫn mơ hồ...

- Chính sách tín dụng ưu đãi: hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp phát triển

sản xuất, mua máy móc, dây chuyền thiết bị, dây chuyền công nghệ chế

biến…, khuyến kích đầu tư vào lĩnh vực sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất và

bảo quản, chế biến cung đoạn có giá trị gia tăng cao…; nông dân, doanh

nghiệp vẫn khó tiếp cận nguồn vốn…

138

- Chính sách khuyến khích sản xuất xanh sạch và công nghệ cao: nông

dân sản xuất ra sản phẩm không có đơn vị bao tiêu, khó bán vì chi phí cao, lợi

nhuận thấp.

- Chính sách khuyến khích liên doanh, liên kết, hợp tác trong sản xuất

tiêu thụ nông sản: Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về chính

sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng và được

thay thế bằng Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng

Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn

với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn, có hiệu lực ngày 10/12/2013.

Cho đến nay, sản xuất nông nghiệp chưa có liên kết và hợp tác, nếu có hợp tác,

liên kết rất lỏng lẻo và bị phá vỡ bất cứ lúc nào; tình trạng được mùa thì rớt giá,

được giá thì mất mùa vẫn xảy ra thường xuyên; mạng sản xuất, chuỗi cung

ứng, chuỗi giá trị nông sản vẫn chưa hình thành. PGS.TS Nguyễn Văn Nam đã

nhận xét “Doanh nghiệp thương mại Việt Nam không phải là doanh nghiệp

thương mại đúng nghĩa sản xuất hàng hóa kinh tế thị trường, chẳng qua chỉ là

thương lái ăn chặn, trung gian mà thôi”; đây là nguyên nhân ảnh hưởng đến

phát triển nông nghiệp bền vững, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của ngành

hàng nông sản. [78]

- Những chính sách điều tiết thị trường: như chính sách hỗ trợ lãi xuất

mua tạm trữ lúa gạo, cà phê với mục đích điều tiết cung cầu trên thị trường,

nâng đỡ giá nhằm nâng cao thu nhập của nông dân sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên

hiệu quả không đạt được như mong muốn trong điều hành do: 1) Đặc điểm của

thị trường lương thực thế giới nhu cầu lớn, nhưng nhu cầu có khả năng thanh

toán có hạn, chẳng hạn các nước châu Phi nhu cầu lớn nhưng khả năng thanh

toán có hạn nên họ nhập gạo cấp thấp hoặc nhập các loại lương thực thay thế

khác. 2) Vì an ninh lương thực quốc gia, các nước đều có chính sách bảo hộ

cho sản xuất trong nước và có chính sách can thiệp hoặc độc quyền thị trường

139

lương thực; vì vậy chúng ta sản xuất lúa gạo vì an ninh lương thực của thế giới

mà người sản xuất lúa vẫn nghèo có nên không. 3) Do thực tại của ngành hàng

lúa gạo, mục tiêu nâng cao thu nhập của nông dân vùng sản xuất lúa gạo không

đạt được, bằng cách nào đó lợi ích chủ yếu rơi vào các doanh nghiệp thương

mại lúa gạo, còn nông dân được chẳng đáng là bao. Bên cạnh đó chúng ta vừa

có chính sách hỗ trợ trực tiếp giữ diện tích trồng lúa, vừa có chính sách khuyến

khích chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng màu và nuôi trồng thủ sản…

* Nguyên nhân của hệ thống chính sách nông nghiệp đã ban hành sau

WTO không đi vào cuộc sống là do:

- Chất lượng của chính sách thấp: 1) Chính sách không xuất phát từ nhu

cầu của thực tế; 2) Quy trình xây dựng chính sách không phù hợp, nhiều chính

sách xuất phát từ ý muốn chủ quan không có sự tham gia của đối tượng thụ

hưởng chính sách…; 3) Chính sách không thỏa mãn lợi ích của các đối tượng

thụ hưởng chính sách, thậm chí còn mang lợi ích nhóm; 4) Nội dung của chính

sách không phù hợp, hoặc thiếu giải pháp để đạt mục tiêu của chính sách, nội

dung chồng chéo nhau trên nhiều văn bản chính sách; 5) Thiếu nguồn lực để

thực thi chính sách, nhiều chính sách mang tính hô hào, khuyến khích chung

chung; 6) Phổ biến và triển khai chính sách không đến được trực tiếp các đồi

tượng hưởng thụ chính sách.

- Năng lực tổ chức thực hiện chính sách: Năng lực tổ chức, quản trị của

ngành nông nghiệp từ trung đến cơ sở, của ngành hàng và các tổ chức hiệp hội

sản xuất và ngành hàng thấp; vẫn chưa có chuyển đổi thích ứng với cơ chế kinh

tế thị trường trong điều kiện hội nhập KTQT sâu rộng; chưa chuyển từ điều

hành, quản lý trực tiếp sang điều hành, quản trị thông qua nguồn lực thị trường

thúc đẩy phát triển các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp, huy động và

phân bổ nguồn lực một cách tối ưu cho phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu

quả, bền vững và tăng nhanh giá trị gia tăng trong nông nghiệp…

140

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ĐẾN NĂM 2025

4.1. Xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới

Một là, nền nông nghiệp (nghĩa rộng) thế giới đang phát triển theo xu

hướng một nền nông nghiệp “phát triển bền vững”.

Trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa về kinh tế, các nguồn lực

được phân bổ hợp lý hơn và hiệu quả cao hơn; tuy nhiên do tác động của kinh

tế và thị trường toàn cầu, các yếu tố rủi ro và phát triển thiếu ổn định do kinh tế

thị trường mang lại có xu hướng ngày càng tăng; cộng với biến đổi khí hậu

ngày càng phức tạp và khó lường vì thế “phát triển bền vững” là đòi hỏi khách

quan trong phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng.

“Phát triển bền vững” là phát triển dựa trên ba trụ cột: bền vững về kinh tế, bền

vững về mội trường và bền vững về mặt xã hội.

Hai là, nền nông nghiệp thế giới phát triển theo xu hướng tăng cường áp

dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ xanh, công nghệ hữu

cơ...; nhằm sản xuất ra những nông lâm thủy hải sản có chất lượng, năng suất

cao và sạch hơn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho con người.

Trên thế giới, nhiều nước đã ứng dụng công nghệ cao vào phát triển

nông nghiệp, đặc biệt là các nước phát triển; điển hình là Isarel, một nước bán

sa mạc, khí hậu khắc nghiệt, nhưng họ đã làm nên điều kỳ diệu về nền nông

nghiệp xanh công nghệ cao trên hoang mạc. Là nước có diện tích rất nhỏ,

nhưng Israel lại được mệnh danh là “thung lũng Silicon” của thế giới trong lĩnh

vực nông nghiệp và công nghệ. Chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp nhưng

Israel là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, khoảng 3

tỷ USD nông sản/năm. Kinh nghiệm xây dựng nền nông nghiệp hiện đại của

Israel là đầu tư cho khoa học kỹ thuật; năm 1950, một nông dân Israel cung cấp

141

lương thực thực phẩm đủ cho 17 người và hiện nay là 90 người. Một ha đất

gieo trồng cho 3 triệu bông hồng, hay 500 tấn cà chua/vụ; một con bò cho tới

11 tấn sữa/năm (55lít sữa/con/ngày), mức năng suất mà chưa một nước nào

trên thế giới có được.

Hà Lan là quốc gia đã được mệnh danh "nước đất trũng", có 1/4 diện

tích lãnh thổ thấp hơn mực nước biển và 1/3 diện tích lãnh thổ chịu sự uy hiếp

thường nhật của nước mặn và nước sông gây ngập úng. Vì thiếu đất canh tác,

Hà Lan thực thi chiến lược "đầu tư cao-sản xuất nhiều" với việc phát triển thủy

lợi và hệ thống nhà kính. Diện tích nhà kính của Hà Lan gần 11000 ha, chiếm

25% tổng diện tích nhà kính trên toàn thế giới. Trong đó, có tới 40% dùng để

sản xuất rau, 35% sản xuất hoa, 20% sản xuất cây ăn quả, hiệu quả tăng 5-6 lần

sản xuất ngoài trời [59].

Về công nghệ sinh học, các nước phát triển đi vào giai đoạn hai của việc

áp dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, các nước đang phát triển đang

ở giai đoạn một với mục tiêu tăng năng suất, giá trị và chất lượng nông, thủy

hải sản. Trong các nước đang phát triển, Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil là những

nước có tiềm năng lớn từ nội lực trong nước về công nghệ sinh học; Quỹ Nông

nghiệp và Phát triển quốc tế (IFAD) của Liên hợp quốc đang lỗ lực giúp các

nước trên thế giới tăng nhanh diện tích canh tác bằng công nghệ sinh học

không dùng hóa chất làm phân bón và thuốc trừ sâu. Đó là những công nghệ

lấy hữu cơ làm cơ sở phát triển các phương pháp canh tác tự nhiên và truyền

thống. Phương pháp canh tác bằng công nghệ hữu cơ đang được tổ chức có

hiệu quả tại Ấn Độ và Trung Quốc - nơi chiếm gần một nửa số hộ nông dân

trên toàn cầu. Trên thế giới hiện nay có 26 triệu ha đất nông nghiệp đang được

quản lý sản xuất theo công nghệ hữu cơ (Asia Times tháng 3/2006). Ước tính

giá trị nông sản canh tác bằng công nghệ hữu cơ trên toàn cầu năm 2005 đạt

gần 30 tỷ USD, xu hướng này đang tăng rất nhanh. Riêng Trung Quốc, giá trị

142

xuất khẩu nông sản canh tác bằng công nghệ hữu cơ tăng từ mức dưới 1 triệu

USD giữa những năm 1990 đến gần 200 triệu USD trong năm 2004. Hiện

Trung Quốc có hơn 1.000 công ty nông nghiệp và nông trại được cấp giấy xác

nhận là sản xuất bằng công nghệ sạch hữu cơ. Còn tại Ấn Độ có khoảng 2,5

triệu ha được cấp giấy chứng nhận sản xuất bằng công nghệ hữu cơ [60].

Trong khuôn khổ Hiệp định AoA, SPS, TBT… khuyến khích phát triển

nền nông nghiệp “phát triển bền vững”, “nông nghiệp công nghệ cao”, “nông

nghiệp sinh học”, “nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp hữu cơ…”; thể hiện ở

các Hiệp định như: các chính sách được phép hỗ trợ trong Hộp xanh lá cây,

Hộp xanh lam (AoA); công nhận các quốc gia có quyền sử dụng các biện pháp

hạn chế thương mại để bảo vệ sức khỏe con người, động vật và thực vật (SPS);

ban hành các quy trình kỹ thuật (TBT); đề ra các tiêu chuẩn tối thiểu bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ như “Chỉ dẫn địa lý”, “Giống cây trồng và vật nuôi”,

“chủng vi sinh, vi khuẩn”, bảo vệ văn bằng sáng chế “cho các quy trình vi sinh

và phi sinh học phục vụ sản xuất cây trồng và vật nuôi” (TRIPS)…

Ba là, nền nông nghiệp thế giới phát triển theo xu hướng hình thành

mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.

Tự do hoá thương mại hàng nông sản đang đang diễn ra với mức độ

ngày càng tăng, phân công lao động trong chuỗi giá trị hàng nông sản toàn cầu

ngày càng sâu sắc với mức độ chuyên môn hoá ngày càng cao, từ khâu nghiên

cứu và phát triển (R&D) sản phẩm, sản xuất sản phẩm (từ khâu nuôi trồng đến

chế biến) đến marketing và phân phối, tiêu thụ sản phẩm. Các nước tham gia

vào chuỗi giá trị hàng nông sản đang tìm cách thâm nhập vào những khâu tạo

ra giá trị gia tăng nhiều nhất, như các khâu R&D, marketing, tiêu thụ và phân

phối sản phẩm. Trong những năm gần đây, nhiều nước đang phát triển đã từng

bước cải thiện vị trí của mình trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, tham gia

vào những khâu, những công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao. Thực tế cho thấy,

143

tham gia vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu đang là xu thế phổ biến hiện nay

và sự tham gia này mang lại lợi ích kinh tế và xã hội to lớn, kể cả đối với các

nước đang phát triển.

4.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp Việt Nam

4.2.1. Phát triển nông nghiệp theo hướng “phát triển bền vững”

Phát triển nông nghiệp bền vững theo ba trụ cột: bền vững về kinh tế,

bền vững về mặt xã hội, bền vững về mặt sinh thái và môi trường, đây là quan

điểm xuyên suốt và quan điểm của mọi quan điểm về phát triển nông nghiệp.

Trong xu hướng hội nhập KTQT và khu vực, nền kinh tế “phát triển bền

vững” là một đòi hỏi khách quan, trong đó có nông nghiệp. Đại hội XI của

Đảng đã khẳng định quan điểm: "Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững

ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả,

sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển

kinh tế tri thức… Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện

môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát

triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát

triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho

phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau

trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội" [18].

Trong “phát triển bền vững” về kinh tế nói chung, nông nghiệp có vai trò

cực kỳ quan trọng không thể thiếu nó, do đó phát triển nông nghiệp theo hướng

“phát triển bền vững” là đòi hỏi khách quan cấp thiết. Bởi đối tượng của sản

xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi; mà năng suất, chất lượng của cây trồng

vật nuôi lại phụ thuộc rất nhiều vào môi trường và sinh thái, chính nông nghiệp

“phát triển bền vững” lại tạo ra môi trường sinh thái bền vững. Phát triển nông

nghiệp bền vững về mặt kinh tế, nghĩa là chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ

144

khai thác nguồn lực tự nhiên là chính sang khai thác lợi thế cạnh tranh và giá

trị gia tăng, nâng cao hiệu quả của sản xuất và phát triển theo chiều sâu. Hơn

nữa nông dân và công nhân nông nghiệp là những người trực tiếp sản xuất

trong lĩnh vực nông nghiệp, họ sống ở nông thôn, do đó nông nghiệp “phát

triển bền vững” phải gắn với xã hội nông thôn bền vững.

4.2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh là đòi hỏi của phát triển nông nghiệp

Phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, khai thác triệt để lợi thế của

nông nghiệp nhiệt đới, á nhiệt đới, lợi thế của các vùng sinh thái, lựa chọn cây

trồng vật nuôi chủ lực có lợi thế cạnh tranh, biến lợi thế cạnh tranh thành

năng lực cạnh tranh, để phát triển sản xuất hàng hoá lớn với năng suất, chất

lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh cao gắn với phát triển bền vững.

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội XI của Đảng đã định

hướng phát triển nông nghiệp như sau: "Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp

nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hoá lớn với năng suất, chất lượng, hiệu

quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản lượng và kim ngạch xuất khẩu

nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống nông dân, bảo đảm vững chắc an ninh

lương thực quốc gia. [20].

Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa đặc thù, đất nước trải dài trên

15 vĩ tuyến, có một nền khí hậu đa dạng: Nam bộ và Nam Trung bộ là hai vùng

khí hậu nhiệt đới, Tây Nguyên là vùng khí hậu nhiệt đới cao nguyên, từ Thừa

Thiên - Huế trở ra là vùng khí hậu cận nhiệt đới, trong đó có một số tiểu vùng

khí hậu ôn đới. Nền nhiệt độ đa dạng cùng với lượng mưa hàng năm lớn, ánh

sáng dồi dào, đất đai màu mỡ tạo điều kiện để phát triển nền nông nghiệp đa

dạng với các sản phẩm đặc hữu riêng có của Việt Nam.

Tuy nhiên, Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào KTQT và khu

vực, tự do hoá thương mại hàng nông, lâm, thủy hải sản đang đang diễn ra với

mức độ ngày càng cao, cạnh tranh ngày càng quyết liệt không chỉ ở thị trường

145

xuất khẩu mà ngay cả thị trường nội địa. Năng lực cạnh tranh là một tiêu chí

quan trọng đo lường sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường. Cạnh tranh

làm bộc lộ khiếm khuyết của sản phẩm và khả năng của các chủ thể kinh tế.

Trong môi trường cạnh tranh, các sản phẩm và các chủ thể tham gia thị trường

phải không ngừng phát huy lợi thế so sánh, chuyển lợi thế so sánh thành năng

lực cạnh tranh; đồng thời, luôn tìm cách tạo lập năng lực cạnh tranh mới nhằm

không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, mở rộng thị trường,

phát triển sản xuất-kinh doanh. Đây chính là triết lý tăng trưởng mới - tăng

trưởng dựa trên năng lực cạnh tranh.

Qua phân tích lợi thế so sánh và năng lực cạnh tranh của mỗi ngành hàng

nông sản có mức độ rất khác nhau, có thể chia thành các nhóm như sau: 1).

Nhóm có lợi thế so sánh lớn và có cơ hội mở rộng thị trường trong hội nhập

WTO gồm: lúa gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hồ tiêu, thủy sản, gỗ chế biến và

các sản phẩm làm từ gỗ. 2). Nhóm các ngành hàng vừa có cơ hội mở rộng thị

trường vừa phải đối mặt với nhiều thách thức là rau, hoa, quả và muối. 3).

Nhóm ít có lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh yếu và bị tác động mạnh trong

hội nhập gồm các ngành hàng chăn nuôi, mía đường, thức ăn chăn nuôi và

sữa…

Do vậy, muốn nông nghiệp “phát triển bền vững” phải lựa chọn những

cây trồng vật nuôi có lợi thế cạnh tranh để phát triển, đồng thời chuyển lợi thế

cạnh tranh thành năng lực cạnh tranh, cũng như không ngừng nâng cao năng

lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp, của ngành hàng và nâng cao

năng lực tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu. Nghĩa là, ưu tiên phát triển

cây trồng vật nuôi có lợi thế cạnh tranh, hạn chế hoặc phát triển chừng mực

nào đó cây trồng vật nuôi có lợi thế cạnh tranh thấp. Tuy nhiên “lợi thế cạnh

tranh” để chuyển thành “năng lực cạnh tranh” cần có những điều kiện nhất

định, mặt khác “năng lực cạnh tranh” không tồn tại viễn viễn theo thời gian, do

146

đó không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực cạnh là đòi hỏi khách quan của

kinh tế thị trường.

4.2.3. Hình thành mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị ngành

hàng trong phát triển nông nghiệp

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội XI của Đảng đã định

hướng phát triển nông nghiệp như sau: “Xây dựng mô hình sản xuất kinh

doanh phù hợp với từng loại cây con. Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát

triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp..., gắn kết chặt chẽ, hài hoà lợi ích

giữa người sản xuất, người chế biến và người tiêu thụ…, đổi mới cơ bản

phương thức tổ chức kinh doanh nông sản…, bảo đảm phân phối lợi ích hợp lý

trong từng công đoạn từ sản xuất đến tiêu dùng, phát triển hệ thống kho chứa

nông sản, góp phần điều tiết cung cầu, tiếp tục đổi mới, xây dựng mô hình tổ

chức để phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với cơ chế thị trường" [20].

Đẩy mạnh tập trung ruộng đất, tăng quy mô sử dụng ruộng đất của nông

hộ, phát triển trang trại, liên kết hình thành những cánh đồng mẫu lớn trong sản

xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế hợp tác, phát triển doanh nghiệp nông

nghiệp, đẩy mạnh phân công và chuyên môn hóa trong sản xuất nông nghiệp.

Tự do hoá thương mại hàng nông sản đang đang diễn ra với mức độ

ngày càng cao, phân công lao động trong chuỗi giá trị hàng nông sản toàn cầu

ngày càng sâu sắc với mức độ chuyên môn hoá ngày càng cao, từ khâu nghiên

cứu và phát triển (R&D) sản phẩm, sản xuất sản phẩm đến marketing và phân

phối, tiêu thụ sản phẩm. Các nước tham gia vào chuỗi giá trị hàng nông sản

đang tìm cách thâm nhập vào những khâu tạo ra giá trị gia tăng nhiều nhất, đó

là các khâu nghiên cứu và phát triển, chế biến, phân phối và tiêu thụ sản phẩm.

Trong những năm gần đây, nhiều nước đang phát triển đã từng bước cải

thiện vị trí của mình trong chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu, tham

gia vào những công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao. Thực tế cho thấy, tham gia

147

vào chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu đang là xu thế phổ biến hiện

nay và sự tham gia này mang lại lợi ích kinh tế và xã hội to lớn, kể cả đối với

các nước đang và kém phát triển. Là một nước có tiềm năng và lợi thế trong

sản xuất nhiều mặt hàng nông sản nhiệt đới, Việt Nam đang có vị trí ngày càng

quan trọng trong thị trường hàng nông, lâm, thủy hải sản thế giới. Hiện tại,

Việt Nam đang là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trong khu vực

và thế giới với nhiều sản phẩm đặc trưng như: cà phê, điều, hồ tiêu, chè, cao

su, gạo, đồ gỗ đã qua chế biến, thủy hải sản đông lạnh (tôm, cá da trơn)…

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, nông nghiệp Việt Nam đã bộc lộ

những lỗ hổng lớn trong chuỗi sản xuất. Nông sản của Việt Nam chưa tham gia

được vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, nếu có còn lỏng lẻo và mới chỉ dừng

lại ở việc cung cấp nông, lâm, thủy hải sản thô đầu vào, trong khi giá trị gia

tăng lại chủ yếu ở khâu chế biến, bao gói và hoạt động thương mại. Hay nói

cách khác, Việt Nam mới tham gia vào khâu có giá trị gia tăng ít nhất trong

chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.

Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020, Đảng ta

khẳng định: "Toàn cầu hoá kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và

hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách

thức đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng

lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng

sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở

thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự tuỳ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh

tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến" [19].

Trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, vấn đề tiếp cận mạng

sản xuất và chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị một mặt giúp làm ăn hiệu quả hơn;

mặt khác, giúp các doanh nghiệp nhỏ, nền kinh tế yếu tìm ra chỗ đứng tối ưu

cho mình để tồn tại trong thị trường khu vực và toàn cầu. Cho đến nay, ở Việt

148

Nam, cách tiếp cận mạng sản xuất và chuỗi cung ứng giá trị vẫn chưa được áp

dụng một cách có hệ thống trong quản lý kinh tế của nhà nước cũng như trong

hoạch định chiến lược phát triển của ngành, chiến lược sản xuất kinh doanh của

các chủ thể trong nông nghiệp.

Nhìn lại sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam thời gian qua,

mặc dù đạt số lượng xuất khẩu khá lớn; nhưng về chất lượng và giá cả…, vẫn

còn thất thế so với các nước xuất khẩu nông sản trên thế giới. Việt Nam hội

nhập vào thị trường nông sản thế giới trong bối cảnh thị trường này được hình

thành từ lâu và đã được phân chia, nhất là những khâu, những cung đoạn có giá

trị gia tăng cao đã được an vị và Việt Nam khó chen vào những khâu này.

Nhằm không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, khẳng định vị trí của

nông sản Việt Nam, tất yếu ngành nông nghiệp Việt Nam phải tham gia vào

mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu ở những khâu,

những cung đoạn Việt Nam có lợi thế tuyệt đối cũng như lợi thế tương đối và

chuyển những lợi thế đó thành năng lực cạnh tranh. Do đó, cần phải đánh giá,

định vị, nhìn nhận cơ hội và hoạch định một cách khách quan và chuyên

nghiệp lựa chọn tham gia vào khâu nào, cung đoạn nào của mạng sản xuất và

chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu.

4.2.4. Tăng cường áp dụng khoa học và công nghệ trong phát triển nông

nghiệp

Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố quyết định năng lực

cạnh tranh của hàng nông sản, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm

là mục tiêu phấn đấu của ngành nông nghiệp hiện nay và trong tương lai;

muốn vậy phải tăng cường áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến từ khâu

sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm và quy trình công nghệ quản lý tổ

chức sản xuất hiện đại; đưa giống mới có năng suất, chất lượng cao, các quy

trình công nghệ sạch, công nghệ vi sinh, công nghệ cao, công nghệ hữu cơ,

149

công nghệ sau thu hoạch và bảo quản chế biến…, sản xuất có chứng nhận

nguồn gốc xuất xứ và bảo vệ môi trường…

4.2.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong phát

triển nông nghiệp

Phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

và hệ thống chính sách phù hợp với cam kết trong WTO và các FTA khu vực,

song phương và đa phương; tạo môi trường cạnh tranh hợp lý, bình đẳng thúc

đẩy nông nghiệp phát triển nhanh và phát triển bền vững.

Trong thập niên 90, phát triển nông nghiệp nhờ các chính sách đổi mới

trong nông nghiệp như: chính sách tự do hoá thương mại, chính sách khuyến

khích phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hộ, chính sách đất đai, chính sách đổi

mới trong các doanh nghiệp nông nghiệp,… Bên cạnh đó Luật Doanh nghiệp

ra đời và tham gia AFTA nên thuế nhập khẩu cho đầu vào sản xuất giảm…

Từ năm 2000 đến nay, các chính sách được ban hành chủ yếu khắc phục

khủng hoảng giá và nguồn cung dư thừa nhằm định hướng cho nông nghiệp

phát triển bền vững như: khuyến khích các doanh nghiệp tăng lượng hàng xuất

khẩu thông qua chính sách thưởng xuất khẩu (chính sách này không áp dụng

khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO), thu mua tạm trữ. Chính sách

tín dụng ưu đãi: khoanh nợ, giãn nợ, lãi suất thấp cho các đối tượng tham gia

nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ hàng nông, lâm, thủy hải sản vào những năm

giá thấp. Chính sách hỗ trợ: cấp đất, gạo, vải cho đồng bào dân tộc thiểu số và

các hộ nghèo trồng cà phê. Cho phép công ty nước ngoài tham gia xuất khẩu

hàng nông, lâm, thủy hải sản thông qua nguồn cung từ các doanh nghiệp, các

đại lý trong nước. Ban hành quy định chất lượng hàng nông, lâm, thủy hải sản

xuất khẩu…

Tuy nhiên, hệ thống luật và những chính sách trên chưa tạo được môi

trường cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước với các công ty đa

quốc gia, các tập đoàn chế biến và phân phối hàng nông, lâm, thủy hải sản.

150

Hiện tại các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đang từng

bước thâm nhập vào những khâu, những cung đoạn (tử huyệt) trong chuỗi cung

ứng nông, lâm, thủy hải sản nguyên liệu của Việt Nam, phá vỡ và thâu tóm bằng

các chính sách tập trung kinh tế: liên doanh, liên kết, sát nhập... Do vậy, việc hoàn

thiện hệ thống luật pháp và hệ thống chính sách trong khuôn khổ WTO cho phép

nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tham gia chuỗi cung ứng và

chuỗi giá trị hàng nông, lâm, thủy hải sản toàn cầu của các chủ thể sản xuất kinh

doanh nội là yêu cầu bức bách.

4.3. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, hiệu quả

và tăng giá trị gia tăng

4.3.1. Nhóm giải pháp chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp

Trong quá trình hội nhập ngành nông nghiệp đã giữ vai trò quan trọng,

có lúc trở thành cứu cánh cho nền kinh tế vượt qua khủng khoảng kinh tế

những năm 2007-2008, 2011-2012. Hội nhập KTQT giúp khai thác tốt hơn lợi

thế cạnh tranh của sản phẩm. Trong xuất nhập khẩu hàng nông sản, Việt Nam

có nhiều lợi thế cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu một số hàng nông sản

nhiệt đới, á nhiệt đới. Hội nhập KTQT sẽ giúp các nhà sản xuất trong nước định

hướng rõ hơn trong phát huy lợi thế so sánh để khai thác và sử dụng có hiệu quả

tối ưu nguồn lực sản xuất trong nước. Sau hội nhập WTO, kinh ngạch xuất

khẩu nông, lâm, thủy hải sản năm 2013 đạt 27,5 tỷ USD, tăng 0,7% so với năm

2012, thặng dư thương mại đạt hơn 8,5 tỷ USD; trong đó: Thủy sản đạt 6,7 tỷ

USD (tăng 10,6%), đồ gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 5,5 tỷ USD (tăng 17,8%),

riêng rau quả tăng 25,7%, hạt điều tăng 12,9%, hạt tiêu tăng 13,4%; tôm tăng

25%. Các mặt hàng giảm kim ngạch xuất khẩu gồm: gạo đạt 3,0 tỷ USD, giảm

18,7%; cà phê đạt 2,7 tỷ USD, giảm 26,6%; cao su đạt 2,5 tỷ USD, giảm

11,7%.[72] Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, nông nghiệp lộ những yếu

kém như: Tăng trưởng nông nghiệp chưa đi vào chiều sâu, tăng xuất khẩu chủ

151

yếu là tăng lượng, hiệu quả sản xuất và xuất khẩu thấp; năng lực cạnh tranh của

sản phẩm, của doanh nghiệp, của ngành hàng thấp; thu nhập của nông dân qua

xuất khẩu nông sản vẫn thấp…

Do đó chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp là đòi hỏi khách

quan của quá trình hội nhập nền nông nghiệp vào mạng sản xuất và chuỗi giá

trị nông sản toàn cầu. Để quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng thành công

phải theo các hướng sau: 1). Phát huy tối đa lợi thế so sánh của cây trồng vật

nuôi có lợi thế so sánh cao và không ngừng tạo ra những lợi thế so sánh mới

trong quá trình tăng trưởng và phát triển. 2). Không ngừng nâng cao giá trị gia

tăng trong sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ nông sản nhằm đạt được

hiệu quả cao. 3). Không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông,

lâm, thủy hải sản, của các chủ thể (sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ),

của ngành hàng và cả năng lực cạnh tranh quốc gia. 4). Chuyển đổi theo hướng

phát triển bền vững theo ba trụ cột bền vững về kinh tế, bền vững về môi

trường sinh thái và bền vững về xã hội. 5). Chuyển đổi mô hình tăng trưởng và

tái cấu trúc ngành nông nghiệp tuy là 2 nội dung khác nhau, song có mối quan

hệ vừa là điều kiện vừa là tiền đề của nhau cùng mục tiêu phát triển. Do đó,

cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa chuyển đổi mô hình tăng trưởng với tái cấu

trúc ngành nông nghiệp theo hướng bền vững và nâng cao giá trị gia tăng.

4.3.1.1. Tái cơ cấu trồng trọt phải thực hiện một số điều chỉnh lớn như sau:

- Cây lương thực: An ninh lương thực không chỉ đảm bảo đủ lương thực,

đảm bảo ăn no mà khái niện này đã mở rộng đảm bảo đủ calo, đủ dinh dưỡng;

do vậy an ninh lương thực bao gồm lương thực và thực phẩm: lúa gạo, ngô, thịt

các loại, trứng, sữa, đường, dầu ăn… Do vậy đảm bảo an ninh lương thực, thực

phẩm không chỉ là lúa gạo mà cả cây làm thức ăn cho gia súc. Hiện nay diện

tích gieo cấy lúa của cả nước đạt khoảng 7,9 triệu ha, sản lượng khoảng trên

44,1 triệu tấn (2013).[69] Nhưng sản xuất lúa gạo đang là ngành có hiệu quả

152

thấp nhất trong toàn ngành trồng trọt, nông dân thu lời rất ít, kim ngạch xuất

khẩu lớn, chỉ số lợi thế so sánh cao, nhưng năng lực cạnh tranh thấp nguyên

nhân có nhiều trong đó do: quy mô sản xuất nhỏ, manh mún; trình độ khoa học

công nghệ thấp, cơ giới hóa thấp, tổn thất sau thu hoạch cao…; chưa hình

thành mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị ngành lúa gạo…

Theo nhiều nhà khoa học, Việt Nam sản xuất lúa gạo xuất khẩu không

chỉ đảm bảo an ninh lương thực phẩm trong nước mà còn giúp giải quyết an

ninh lương thực thế giới, nhưng có nghịch lý là xuất khẩu càng nhiều thì nông

dân vùng chuyên canh lúa xuất khẩu càng nghèo. Bởi vậy không nên cố định

diện tích canh tác lúa từ 3,8-4 triệu ha như hiện nay, mà diện tích gieo trồng lúa

linh động khoảng từ 5,8-6 triệu ha, sản lượng đạt trên 35 triệu tấn đảm bảo an

ninh lương thực cho 100-130 triệu người, linh hoạt chuyển đổi từ 1,8-2 triệu ha

gieo trồng sang trồng ngô, đậu tương và cây thức ăn gia súc. Như vậy ngành

sản xuất lúa gạo không còn là ngành luôn được ưu tiên sản xuất hướng ra xuất

khẩu, mà chỉ được ưu tiên khi nhu cầu thế giới tăng và giá gạo thế giới cao.

- Cây thức ăn chăn nuôi: Nhu cầu tiêu dùng thực phẩm giầu đạm có xu

hướng ngày càng tăng, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi ngày càng giữ vai trò

quan trọng trong ngành trồng trọt, là bộ phận không thể tách rời của nội hàm an

ninh lương thực - thực phẩm. Với nhu cầu thức ăn chăn nuôi công nghiệp hàng

năm khoảng 26 triệu tấn, trong đó cần tới 16 triệu tấn thức ăn tinh bột và nhu

cầu này còn tăng nhanh trong thời gian tới, là thị trường lớn và ổn định đối với

sản phẩm ngô. Bởi vậy việc điều chỉnh giảm khoảng 2 triệu ha, tức khoảng

30% trong tổng số diện tích gieo trồng lúa để trồng cây làm thức ăn chăn nuôi,

chủ yếu là ngô, đậu tương và cỏ xanh là cần thiết.

- Cây công nghiệp lâu năm: Các cây công nghiệp lâu năm đang là nhóm

cây có thế mạnh của nước ta gồm: Cao su, cà phê, điều, chè, hồ tiêu…; diện

tích cho thu hoạch và sản lượng năm 2013 so với năm 2012 như sau: Diện tích

153

chè đạt 114,1 nghìn ha; sản lượng đạt 921,7 nghìn tấn, tăng 1,3%. Cà phê diện

tích đạt 584,6 nghìn ha, tăng 2,1%; sản lượng đạt 1289,5 nghìn tấn, tăng 2,3%.

Cao su diện tích đạt 545,6 nghìn ha, tăng 7%; sản lượng đạt 949,1 nghìn tấn, tăng

8,2%. Hồ tiêu diện tích đạt 51,1 nghìn ha, tăng 6%; sản lượng đạt 122,1 nghìn tấn,

tăng 5,3%. [69] Kim ngạch xuất khẩu đạt 9,1 tỷ USD, chiếm 70% tổng kim

ngạch xuất khẩu nông sản của cả nước (2012). Phần lớn các cây công nghiệp

lâu năm đã phát triển tới ngưỡng tối đa, thậm chí có loại cây vượt cả mức tối

ưu, trồng trên cả đất xấu, năng suất, chất lượng thấp, làm giảm lợi thế so sánh,

giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Do vậy, các ngành sản xuất cây công

nghiệp lâu năm phải đi theo hướng phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh,

nâng cao chuỗi giá trị gia tăng của các sản phẩm này… Chẳng hạn diện tích cà

phê cho thu hoạch là 584,6 ngàn ha (năm 2013); nên ổn định diện tích cà phê ở

mức 500 ngàn ha, loại bỏ diện tích cà phê trồng trên đất có độ dốc cao, tầng

canh tác mỏng, diện tích cà phê thiếu nước tưới và trồng xen cây bóng mát,

thực hiện tái canh cây cà phê với các giống có năng suất chất lượng cao…

- Rau, hoa, quả: Ngành rau, hoa quả trên thế giới được đánh giá là ngành

tạo ra sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, ngon, làm đẹp và tôn tạo cảnh quan

sinh thái, là ngành sản xuất với công nghệ cao, có tỷ suất giá trị gia tăng và tỷ

suất lợi nhuận cao. Với thế mạnh về khí hậu đa dạng, nước ta có điều kiện phát

triển các ngành sản xuất này cực kỳ phong phú và hiệu quả cao, có lợi thế cạnh

tranh lớn trong khu vực và quốc tế. Cần tập trung để chọn một số ngành sản

xuất chủ lực gồm vài loại rau, hoa cao cấp ở Đà Lạt, Sa Pa, cao nguyên Mộc

Châu… và khoảng trên 10 loài cây ăn quả quý. Sản lượng một số cay ăn quả

năm 2013: cam đạt 530,9 nghìn tấn, chuối đạt 1,9 triệu tấn, bưởi đạt 449,3

nghìn tấn, vải và chôm chôm đạt 641,1 nghìn tấn, quýt đạt 177,7 nghìn tấn.[69]

Sản xuất rau, hoa, quả phổ biến ở mọi vùng miền đất nước, tạo cơ hội

làm giàu phổ biến cho đông đảo nông dân cả nước, đặc biệt, là những vùng đất

154

chật người đông và những vùng có khí hậu đặc thù. Theo đó, sản xuất rau, hoa,

quả phải trở thành ngành sản xuất chủ lực của ngành trồng trọt phục vụ yêu cầu

đời sống nhân dân và có khả năng tạo ra kim ngạch xuất khẩu lớn trong tương

lai không xa.

- Cây dược liệu và cây hương liệu: Cây dược liệu, cây hương liệu rất

phù hợp với điều kiện và tập quán canh tác của đồng bào miền núi, cũng có thể

coi là cây lâm sản ngoài gỗ quan trọng của ngành lâm nghiệp, như quế, hoa

hồi, trẩu, thảo quả…

4.3.1.2. Chăn nuôi

Chăn nuôi rất quan trọng chiếm khoảng 30% tổng giá trị nông nghiệp và

đã có bước phát triển đáng kể, nhưng chưa tạo lập được vai trò chủ lực có hiệu

quả cao. Trong khi nhu cầu về sản phẩm chăn nuôi ngày càng tăng bao gồm:

thịt các loại, trứng, đặc biệt sữa và các sản phẩm từ sữa. Trong những năm qua

riêng các sản phẩm sữa cho trẻ em hàng năm nhập khẩu khoảng 1 tỷ USD. Từ

đầu năm đến hết tháng 8/2013, cả nước đã nhập khẩu 661,9 triệu USD mặt

hàng sữa và sản phẩm từ sữa, tăng 10,29% so với cùng kỳ năm 2012 [62].

Trong việc tái cơ cấu lại chăn nuôi, chọn ra ngành hàng chủ lực có nhiều

dư địa để phát triển, đó là chăn nuôi bò sữa. Do thứ nhất, có thị trường nội địa

với tiềm năng tiêu thụ lớn, trung bình năm 2010, mỗi người dân Việt Nam tiêu

dùng 15 lít sữa nước/năm, năm 2015 nhu cầu sữa của một người dân ước là

21lít/người/năm, năm 2020 tương ứng là 27 lít/người/năm; sản lượng sữa

tương ứng năm 2015 đạt 1,9 tỷ lít sữa tươi, năm 2020 là 2,6 tỷ lít, năm 2025 là

3,4 tỷ lít sữa tươi [63]. Thứ nữa, những công nghệ cao của thế giới về chăn

nuôi bò sữa và chế biến sữa, như sử dụng giống bò sữa cao sản; ứng dụng công

nghệ cấy phôi và sử dụng tinh giới tính; công nghệ nuôi nhốt và công nghệ vắt

sữa hiện đại; sử dụng giống cỏ mới và công nghệ thức ăn hiện đại, đã hội tụ

được hầu hết các công nghệ cao của ngành công nghiệp sữa thế giới đã được áp

155

dụng có hiệu quả ở Việt Nam. Chẳng hạn, tập đoàn TH đã đầu tư nhà máy chế

biến sữa tươi lớn nhất Đông Nam Á ở Nam Đàn, có công nghệ hiện đại bậc

nhất thế giới, tư động hóa bằng robot nhập khẩu từ các nước G7 và châu Âu.

Các sản phẩm của nhà máy được sản xuất và quản lý hoàn toàn theo tiêu chuẩn

ISO 22000 nhằm đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm và

tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001; hệ thống phân phối TH True Mart với những

quy chuẩn công nghệ hiện đại. Ước tính tiêu thụ sữa của nước ta tương đương

với mức tiêu thụ sữa của những nước đang phát triển là 60 lít/người/năm, nhu

cầu sữa của gần 100 triệu dân hiện nay và 130 triệu dân trong tương lai, hàng

năm sản lượng sữa đạt 6-8 triệu tấn/năm và tổng đàn bò sữa khoảng 2 triệu

con, trong đó 1 triệu con vắt sữa. Các con nuôi khác như: lợn, trâu và bò thịt,

gia cầm, duy trì tốc độ tăng trưởng đàn theo nhu cầu tiêu thụ trong nước [44].

Hiên tại, đến cuối năm 2013 như sau: Đàn trâu có 2,6 triệu con, giảm

2,6% so với năm 2012; đàn bò có 5,2 triệu con, giảm 0,7%, riêng nuôi bò sữa

có 186,3 nghìn con, tăng 11,6%; đàn lợn có 26,3 triệu con, giảm 0,9%; đàn gia

cầm 314,7 triệu con, tăng 2,04%, trong đó đàn gà 231,8 triệu con, tăng 3,6%.

Sản lượng thịt hơi các loại năm 2013 ước đạt 4,3 triệu tấn, tăng 1,5%.[69]

4.3.1.3. Thủy hải sản

Phát triển vùng nuôi tôm, cá da trơn công nghiệp đảm bảo nguyên liệu

cho công nghiệp chế biến thủy hải sản cho xuất khẩu, tập trung ở vùng ven

biển duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Khai thác triệt để

mặt nước, trong đó có mặt nước của các hồ lớn để phát triển nuôi các loại thủy

sản quý hiếm, cao cấp, cá nước lạnh gắn với chế biến xuất khẩu. Tiếp tục phát

triển ngành đánh bắt cá biển, nhất là ngành đánh bắt xa bờ. Nắm bắt công nghệ

mới nuôi trồng tảo nước nợ và nước mặn để phát triển ngành nuôi trồng tảo,

hình thành ngành mới trong chiến lược phát triển kinh tế biển…

156

Năm 2013: Sản lượng thuỷ sản đạt 5.919 nghìn tấn, tăng 3,2% so với

năm 2012, trong đó cá đạt 4400 nghìn tấn, tăng 1,3%; tôm đạt 704 nghìn tấn,

tăng 11,7%. Trong đó, sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 3.210 nghìn tấn,

tăng 3,2% so với (2012), trong đó cá 2.407 nghìn tấn, tăng 0,2%; tôm 544,9

nghìn tấn, tăng 15%. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 1037 nghìn ha, giảm

0,2% so với (2012), trong đó diện tích nuôi cá tra 10 nghìn ha, giảm 7,2%;

diện tích nuôi tôm 637 nghìn ha, tăng 1,6%. Sản lượng thủy sản khai thác

năm 2013 đạt 2.709 nghìn tấn, tăng 3,3% so với (2012), trong đó khai thác

biển đạt 2.519 nghìn tấn, tăng 3,5%. [69]

4.3.1.4. Lâm nghiệp

Tạo ra chuyển biến bước ngoặt đối với lâm nghiệp, ưu tiên phát triển cây

lấy gỗ, nâng cao năng lực chế biến gỗ nguyên liệu như dăm gỗ, ván sàn gỗ ép,

sản xuất đồ gỗ và các sản phẩm từ gỗ, vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, vừa góp

phần sản xuất vật liệu tái tạo cho nhu cầu xây dựng mà thế giới đang nâng lên

thành chính sách “an ninh gỗ”. Phát triển các ngành hàng sản xuất lâm nghiệp

ngoài gỗ để nâng cao hiệu quả của đất rừng.

4.3.2. Nhóm giải pháp đẩy mạnh áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến

đồng bộ vào sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ nông lâm thủy hải

sản tạo đột phá mới trong phát triển nông nghiệp

Khoa học kỹ thuật và công nghệ là chìa khoá để nâng cao chất lượng,

không những tạo ra sự khác biệt của sản phẩm mà còn tăng năng suất lao động

và năng suất sản lượng nông, lâm, thủy hải sản, giảm chi phí sản xuất và giá

thành, tạo ra lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của các mặt hàng nông, lâm,

thủy hải sản. Đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở khai thác tối

đa lợi thế so sánh trên thị trường xuất khẩu và nội địa nhằm phát triển bền

vững; đồng thời hiện đại hoá đồng bộ các khâu: từ sản xuất, chế biến, kinh

doanh và tiêu thụ.

157

Thứ nhất, triển khai có hiệu quả chương trình giống cây, con đưa vào

sản xuất nông, lâm, thủy hải sản. Theo một số chuyên gia, khoa học kỹ thuật

và công nghệ đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng của sản xuất nông lâm thủy

hải sản của nước ta. Trong khi đó, tỷ suất này ở Trung Quốc như sau: Quảng

Tây là 40%; Quảng Đông 60%; Thượng Hải 70%; ở các nước tiên tiến khác từ

80-90% [64].

Thứ hai, tăng cường áp dụng khoa học và công nghệ cao, công nghệ

sinh học, công nghệ hữu cơ, công nghệ vi sinh…gắn với các quy trình sản xuất

tiên tiến bền vững trong sản xuất nông, lâm, thủy hải sản. Khoa học công nghệ

gắn với các quy trình sản xuất bền vững không chỉ có đóng rất lớn vào tăng

trưởng và nâng cao giá trị gia tăng mà còn thúc đẩy “phát triển bền vững” trong

sản xuất nông, lâm, thủy hải sản. Nông nghiệp của nước ta trong thời gian dài

với mục tiêu tăng trưởng nhanh: nhiều hàng nông, lâm, thủy hải sản có sản

lượng và kim ngạch xuất khẩu đứng nhất nhì thế giới (lúa gạo, cà phê, hồ

tiêu…), nhưng chất lượng ít được cải thiện, năng lực cạnh tranh thấp, phát triển

thiếu ổn định… Nguyên nhân do lạm dụng quá mức khoa học công nghệ khai

thác triệt để năng suất cây trồng, vật nuôi, đất đai và hệ sinh thái như: sử dụng

quá mức phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, thuốc kháng sinh

trong nuôi trồng thủy hải sản, giảm diện tích cây bóng mát trong sản xuất chè,

cà phê; không tuân thủ các quy trình sản xuất bền vững phá vỡ hệ sinh thái…

Do vậy áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao, công nghệ sinh học phải

gắn với quy trình sản xuất tiên tiến và phát triển bền vững.

Tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao trong tạo giống

cây trồng, vật nuôi như: công nghệ nuôi cấy mô, ứng dụng công nghệ cấy phôi

và sử dụng tinh giới tính, lai ghép, công nghệ lai đơn dòng, hai dòng, ba

dòng… nhằm tạo ra những giống con lai, giống thuần có ưu thế về năng suất,

chất lượng…

158

Thứ ba, hiện đại hoá đồng bộ từ sản xuất đến thu hoạch, sơ chế, bảo

quản và chế biến. Trong sản xuất nông, lâm, thủy hải sản trong giai đoạn vừa

qua, việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại thiếu đồng bộ, chủ

yếu áp dụng công nghệ cao trong việc chọn lựa, lai tạo giống cây con, các khâu

sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến chưa được cơ giới hóa, áp dụng công

nghệ cao ở những khâu này còn nhiều hạn chế; dẫn đến chất lượng bị suy giảm,

tổn thất trong và sau thu hoạch rất lớn. Do đó khuyến khích nông dân liên kết,

hợp tác đầu tư trang thiết bị và công nghệ hiện đại trong thu hoạch, sơ chế, bảo

quản. Tập trung đầu tư nghiên cứu chế tạo trong nước các dây chuyền sơ chế,

sấy công suất vừa và nhỏ, có công nghệ hiện đại, phù hợp với quy mô sản xuất;

chú trọng các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường, bảo đảm sản xuất bền vững.

Khuyến khích các doanh nghiệp chủ động đầu tư trang bị các máy móc, thiết bị

hiện đại, áp dụng công nghệ hiện đại tự động hoá dây chuyền sản xuất và giám

sát chất lượng sản phẩm, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn

ISO: 9000, HACCP, ISO: 14000…

Hiện tại ngành chăn nuôi bò sữa là ngành đi tiên phong trong việc áp

dụng đồng bộ công nghệ cao của thế giới từ trồng cỏ, chế biến thức ăn, đến

chăn nuôi và chế biến sữa; như sử dụng giống bò sữa cao sản, ứng dụng công

nghệ cấy phôi và sử dụng tinh giới tính, công nghệ nuôi nhốt và công nghệ vắt

sữa hiện đại, sử dụng giống cỏ mới và công nghệ thức ăn hiện đại, đã hội tụ

được hầu hết các công nghệ cao của ngành công nghiệp sữa thế giới. Điển hình

là TH true MILK đã mua toàn bộ công nghệ và quy trình kỹ thuật chăn nuôi bò

sữa của Israel và quy trình chế biến từ các nước tiên tiến. Để đảm bảo sự tuân

thủ đúng quy trình, TH true MILK đã thuê chuyên gia của Israel vận hành máy

móc và hướng dẫn, đào tạo nông dân. TH true MILK đã xây dựng hệ thống làm

việc chuyên nghiệp, được quản lý trực tiếp bởi hai công ty đa quốc gia là công

159

ty SAE-AFIKIM của Israel về quản trị đàn bò và công ty Totally Vets của New

Zealand quản trị thú y.

Thứ tư, xây dựng và khẳng định thương hiệu hàng nông, lâm, thủy hải

sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. Nâng cao nhận thức của các chủ thể từ

sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ các mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản

trong việc xây dựng thương hiệu, củng cố sự tin cậy đối với khách hàng và là

công cụ bảo vệ lợi ích của các chủ thể. Trên cơ sở nâng cao chất lượng sản

phẩm, từng ngành hàng và từng doanh nghiệp phải tích cực xúc tiến việc xây

dựng và phát triển thương hiệu hàng nông, lâm, thủy hải sản nói chung và của

mỗi doanh nghiệp nói riêng, từng bước khẳng định xuất xứ địa lý và uy tín của

hàng nông, lâm, thủy hải sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thúc đẩy thực hiện

sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Tiến tới tổ chức chuỗi ngành hàng theo mô

hình kết nối từ chủ thể sản xuất hàng nông, lâm, thủy hải sản tới doanh nghiệp

chế biến và xuất khẩu, đăng ký thương hiệu và bảo hộ thương hiệu trong nước

và trên thế giới.

Thứ năm, xây dựng hệ thống tiêu thụ hàng nông, lâm, thủy hải sản hiện

đại, thích ứng với mậu dịch mua bán trong nước và quốc tế. Xây dựng những

kênh thông tin hữu hiệu nhằm kết nối thông tin hai chiều, cung cấp và phổ biến

thông tin thị trường, cải tiến tổ chức và quản lý ngành hàng, các chiến lược xúc

tiến thương mại, dự báo mùa vụ, tạo ra sự điều phối thống nhất trong các ngành

hàng nông, lâm, thủy hải sản. Hoàn thiện hệ thống thông tin về môi trường

kinh doanh, thông tin về hệ thống phân phối, giá cả…, chủ động áp dụng

thương mại điện tử trong giao dịch mua, bán, ký gửi hàng nông, lâm, thủy hải

sản trong nước và quốc tế. Trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm sàn giao dịch nông,

lâm, thủy hải sản hiện có và học tập kinh nghiệm các sàn giao dịch lớn trên thế

giới, tiến hành xây dựng “Đề án phát triển hệ thống thương mại nông, lâm,

thủy hải sản” ở nước ta, bảo đảm tính hiện đại, văn minh thương mại và thích

160

ứng với quá trình mua, bán, ký gửi ở từng vùng trong nước. Xây dựng các kho

ký gửi nông, lâm, thủy hải sản, đăc biệt là lúa gạo và cà phê ở các vùng chuyên

canh lớn.

4.3.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tham gia

chuỗi giá trị nông sản và năng lực tổ chức thực hiện chính sách phát triển

nông nghiệp

Trong các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản hiện nay, từ sản xuất chế

biến, đến lưu thông phân phối và xuất khẩu đều trong tình trạng manh mún,

nhỏ lẻ; mạnh ai nấy làm, kinh doanh theo phi vụ, thiếu tính chuyên nghiệp;

năng lực cạnh tranh, năng lực tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu

rất thấp. Tình trạng tranh mua, tranh bán diễn ra phổ biến; được mùa thì rớt

giá, thua ngay trên sân nhà trước sức ép cạnh tranh từ các công ty đa quốc gia

và các tập đoàn nước ngoài. Một trong những nguyên nhân của tình trạng cạnh

tranh quá mức ở thị trường nội địa là do sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiệu

thụ manh mún, nhỏ lẻ... làm giảm năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia

chuỗi giá trị toàn cầu. Để nâng cao năng lực cạnh tranh cần thực hiện các giải

pháp sau:

Thứ nhất, thúc đẩy tập trung kinh tế trong sản xuất nông, lâm, thủy hải

sản quy mô lớn; hình thành mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông sản. Sản xuất

quy mô lớn tạo thuận lợi để đưa tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại và áp

dụng các chương trình, đề án, quy trình sản xuất bền vững, sản xuất sạch,... vào

các khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản và chế biến và tiêu thụ làm

tăng giá trị gia tăng và tăng hiệu quả. Những chính sách khuyến khích mua,

bán, sang nhượng, thuê, mướn,... tạo nên tích tụ ruộng đất được triển khai trong

giai đoạn vừa qua đạt hiệu quả chưa cao. Do vậy phải thúc đẩy nhanh liên

doanh, liên kết và các hình thức hợp tác trong sản xuất nông, lâm, thủy hải sản

để hình thành sản xuất lớn rất quan trọng. Muốn vậy, không thể để nông dân tự

nguyện, tự tổ chức, mà phải có vai trò của nhà nước - vai trò bà đỡ, bằng việc

161

đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật, các điều kiện trong kinh doanh, sản xuất, chế

biến, kinh doanh hàng nông, lâm, thủy hải sản (như: phải có vùng nguyên liệu,

có kho dự trữ tối thiểu, có công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn...), mô hình này

đang áp dụng trong kinh doanh lúa gạo xuất khẩu. Khi đó buộc các chủ thể

muốn tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị nông, lâm, thủy hải sản phải

tổ chức vùng nguyên liệu dưới các hình thức liên doanh, liên kết; lúc ấy các

doanh nghiệp và các hộ nông dân phải liên kết, hợp tác từ sản xuất đến tiêu thụ.

Nhân rộng mô hình liên doanh liên kết hình thành cánh đồng mẫu lớn

trong sản xuất lúa gạo ở An Giang; liên kết trong nuôi trồng đánh bắt thủy hải

sản; trong chăn nuôi bò sữa của tập đoàn TH true MILK, Vinamilk; trong sản

xuất cà phê: Công ty Cà phê Nets, Tập đoàn Cà phê Thái Hoà…

Thứ hai, đẩy nhanh quá trình tập trung kinh tế trong chế biến, kinh

doanh tiêu thụ và xuất khẩu nông, lâm, thủy hải sản. Các chủ thể sản xuất, chế

biến, kinh doanh xuất khẩu trong các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản Việt

Nam vừa nhỏ bé, manh mún lại thiếu sự liên doanh, liên kết, thiếu sự lãnh đạo

trong chuỗi nên phản ứng yếu ớt với sức ép cạnh tranh từ bên ngoài, thua ngay

trên sân nhà, bị ép giá ngay tại thị trường nội địa... Để chống lại sức ép cạnh

tranh và tồn tại, không bị chặt đứt, phá vỡ chuỗi cung ứng, không còn con

đường nào khác là tập trung kinh tế. Tuy nhiên để tập trung kinh tế bằng con

đường nội sinh, tự các doanh nghiệp phải có thời gian tích luỹ và có lẽ không

bắt kịp tốc độ hội nhập KTQT sâu rộng nhanh như hiện nay. Do đó, tập trung

kinh tế bằng con đường sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh, liên kết giữa

các doanh nghiệp hình thành các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có

năng lực cạnh tranh và chuyển sang mô hình độc quyền nhóm hoặc hình thành

các doanh nghiệp có quyền lực trên thị trường là con đường duy nhất. Tập

trung kinh tế có thể theo chiều ngang, theo chiều dọc và theo đường chéo; tập

trung kinh tế dọc có tác dụng hạ giá thành và cũng tăng khả năng kiểm soát

dòng giá trị gia tăng. Ngoài ra, những doanh nghiệp tập trung kinh tế dọc còn

162

có thể kiểm soát giá cả và chi phí trên toàn bộ chuỗi gía trị và các phân khúc

khác nhau để kiếm lời ở những nơi có mức tỷ suất giá trị gia tăng cao nhất. Mô

hình này đang áp dụng trong nuôi trồng thủy hải sản, trong ngành bò sữa. Tuy

nhiên mô hình chỉ phát triển bền vững khi chia sẻ lợi ích đồng đều cho mọi

thành viên trong chuỗi. Trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản vừa qua

những doanh nghiệp biết chia sẻ lợi ích giữa nuôi trồng, chế biến và kinh

doanh xuất khẩu vẫn giữ được vùng nguyên liệu và phát triển ổn định.

Thứ ba, hoàn thiện các tổ chức hiệp hội ngành hàng nông, lâm, thủy hải

sản. Bằng giải pháp tập trung kinh tế, tự bản thân ngành hàng nông lâm thủy

hải sản đã hình thành nên mạng sản xuất và chuỗi cung ứng nông, lâm, thủy

hải sản, nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi giá trị

nông sản toàn cầu. Nhưng để duy trì cạnh tranh - động lực của phát triển,

kiểm soát độc quyền và điều hoà lợi ích giữa các chủ thể tham gia trong

chuỗi, giữa các công đoạn trong chuỗi giá trị và hạn chế lợi ích nhóm…,

phải hoàn thiện lại tổ chức hiệp hội các ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản.

Hiện nay các hiệp hội ngành hàng nông, lâm, thủy hải sản chưa bao quát và

chưa đại diện lợi ích cho toàn bộ các chủ thể tham gia trong ngành hàng.

Chẳng hạn hiệp hội Cà phê - Ca cao, hiệp hội Lúa gạo, hiệp hội Thủy sản,

hiệp hội Điều, hiệp hội Mía đường…; hiệp hội mới chỉ đại diện cho những

doanh nghiệp sản xuất, chế biến và kinh doanh xuất khẩu; còn nông dân

nuôi trồng chưa có tiếng nói của mình trong tổ chức hiệp hội ngành hàng.

Thâm chí tuy là thành viên của hiệp hội (các doanh nghiệp) ít khi chịu ngồi

lại với nhau để trao đổi ý kiến, cùng bàn bạc, bảo vệ lẫn nhau và bảo vệ thương

hiệu hàng nông lâm thủy hải sản của Việt Nam, mà cứ mạnh ai nấy xuất, ngầm

hạ giá bán để xuất khẩu được, hại lẫn nhau, hại luôn nông dân vì họ sẽ mua

nông sản với giá rẻ hơn... Hoàn thiện hiệp hội về tổ chức hiệp hội, cả khung

pháp lý và cơ chế hoạt động…

163

Thứ tư, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chính sách phát triển nông

nghiệp. Đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn được Đảng và nhà nước

đặc biệt quan tâm và đã có nhiều chương trình và chính sách lớn. Tuy vậy, hiệu

quả và kết quả còn nhiều hạn chế. Cần nâng cao năng lực tổ chức thực hiện

chính sách tạo ra chuyển biến trong nhận thức và hành động, nhằm nâng cao

hiệu quả chính sách góp phần thực hiện chuyển đổi và phát triển nông nghiệp

một cách có hiệu quả và bền vững.

4.3.4. Nhóm chính sách giải quyết mối quan hệ nông nghiệp - nông dân -

nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững

Một nền nông nghiệp “phát triển bền vững” phải đạt được ba tiêu chí đó

là: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường sinh

thái. Ở khía cạnh nào đó muốn nông nghiệp phát triển bền vững phải giải quyết

hài hòa mối quan hệ giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn; bởi vì nông dân

là chủ thể chủ yếu và nông thôn chính là địa bàn của sản xuất nông nghiệp.

Trong xu hướng hội nhập KTQT ngày càng sâu rộng không chỉ nông nghiệp bị

tác động mà nông dân và nông thôn cũng bị tác động rất mạnh. Để giải quyết

những tồn tại cơ bản nhất trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn trước

những cơ hội và thách thức mới trong hội nhập KTQT, thúc đẩy nông nghiệp,

nông thôn và nông dân chuyển biến hợp quy luật và phát triển bền vững cần

giải quyết một số vấn đề chủ chốt sau:

Thứ nhất, tái cấu trúc hợp lý nguồn lực trong nông nghiệp, nông dân và

nông thôn là điều kiện tiên quyết cho phát triển bền vững. Trong nông nghiệp,

nông dân và nông thôn đất đai và sức lao động là hai yếu tố vật chất không thể

không có trong sản xuất nông nghiệp. Sự phát triển của nông nghiệp tùy thuộc

rất nhiều vào sự chuyển hóa hay thay đổi lao động và ruộng đất. Bởi vậy, giải

quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong giai đoạn hiện nay chính

là phải hàng hóa hóa ruộng đất và sức lao động.

164

Về nguồn lực lao động: phải nâng cao năng lực nguồn lao động thích ứng

với thị trường lao động (trong đó có nông nghiệp) và tạo điều kiện để lao động

có thể di chuyển sang các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế với thu nhập

thích ứng, lấy đào tạo nghề là giải pháp cơ bản lâu dài đối với không chỉ phát

triển nông nghiệp, nông thôn mà còn của toàn nền kinh tế.

Về nguồn lực đất đai, phân bổ lại nguồn lực đất nông nghiệp theo hướng

tích tụ ruộng đất vào những nông dân thực sự có nhu cầu và khả năng kinh

doanh trong lĩnh vực nông nghiệp để sản xuất lớn. Bên cạnh đó, nhà nước phải

dần tiến tới xây dựng và phát triển thị trường đất đai trong nông nghiệp, nông

thôn để đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất, tạo điều kiện cho

nông dân muốn làm giàu từ nông nghiệp có khả năng tích tụ ruộng đất cao hơn.

Hơn nữa, thông qua giá thị trường đất nông nghiệp để tối ưu hoá các nguồn lực

đất đai trong nông thôn. Ngoài ra, cần thúc đẩy thực hiện chính sách sang,

nhượng, cho thuê mướn quyền sử dụng đất, thực hiện dồn điền, dồn thửa trên

cơ sở xây dựng tiêu chí phân loại đất đai, hệ số quy đổi, để tạo cơ hội tích tụ

ruộng đất…

Hai là, huy động nguồn lực của toàn xã hội và sử dụng có hiệu quả nguồn

lực hỗ trợ của quốc tế để xây dựng nông thôn mới. Hoàn thiện bộ tiêu chí về

nông thôn mới hài hòa với phát triển kinh tế ở từng giai đoạn và phù hợp với

trình độ phát triển kinh tế, hài hòa với phong tục tập quán và văn hóa bản địa,

cũng như hài hòa với môi trường sinh thái của từng vùng; tránh hình thức và

chạy theo phong trào; xây dựng nông thôn mới phải theo hướng phát triển bền

vững…

Ba là, nâng cao thu nhập của nông dân trong sản xuất nông lâm ngư

nghiệp phát triển bền vững thông qua những biện pháp hỗ trợ trực tiếp mà

WTO cho phép (hộp hổ phách, xanh lam và xanh lá cây) như sản xuất sạch

165

hơn, sản xuất gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ đa dạng sinh

học…

4.3.5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hệ thống

chính sách phù hợp với WTO

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hoạt động quản lý Nhà nước trong

quá trình hội nhập KTQT ngày càng sâu rộng. Nghĩa là các cơ quan Chính phủ

sẽ chuyển từ quản lý, kiểm soát là chính sang tạo lập môi trường sản xuất kinh

doanh thuận lợi, thủ tục hành chính đơn giản thông thoáng, các chính sách

minh bạch rõ ràng và bình đẳng nhằm tạo điều kiện hơn nữa để chủ thể sản

xuất, chế biến, kinh doanh tiêu thụ và các ngành hàng phát triển. Đồng thời

Chính phủ sẽ chuyển từ kiểm soát một nền kinh tế đang chuyển đổi sang xây

dựng “lợi thế cạnh tranh” cho một nền kinh tế thị trường. Thông qua hoạch

định chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng, tăng đầu tư khoa học công nghệ trong

nông nghiệp, đặc biệt vùng sản xuất chuyên canh như: vùng lúa gạo ĐBSCL,

vùng chuyên canh cây cà phê, cao su, hồ tiêu, vùng nuôi trồng thủy hải sản,

vùng chăn nuôi bò sữa tập trung…; định hướng và tái cấu trúc nền nông nghiệp

theo hường phát triển bền vững và không ngừng nâng cao giá trị gia tăng

(thông qua quá trình tập trung kinh tế, sản xuất quy mô lớn, liên doanh, liên

kết, sát nhập các doanh nghiệp..), hình thành mạng sản xuất và các chuỗi giá trị

nông sản để tham gia vào các chuỗi gía trị nông sản toàn cầu...

Thứ hai, hoàn thiện Đề án phát triển nông nghiệp bền vững trong dài

hạn. Bao gồm các đề án phát triển bền vững từng ngành hàng nông lâm thủy

hải sản như: tái phân bổ nguồn lực đất đai và phải có chính sách khuyến

khích tích tụ tập trung; quy hoạch vùng nguyên liệu; định hướng tổ chức

chuỗi giá trị ngành hàng; xây dựng chiến lược phát triển thị trường; chiến

lược sản phẩm hướng đến các thị trường có giá trị gia tăng cao; chiến lược

không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh; chiến lược thâm nhập vào chuỗi

giá trị nông sản toàn cầu, đặc biệt những phân khúc có giá trị gia tăng cao…

166

Đặc biệt những ngành hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh: ngành hàng

nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản, ngành hàng sản xuất chế biến gỗ nguyên

liệu và các sản phẩm làm từ gỗ, ngành hàng cà phê, cao su, tiêu, điều…

Thứ ba, xây dựng hệ thống chính sách hỗ trợ để không ngừng nâng

cao “năng lực cạnh tranh” trên cả ba bình diện: năng lực cạnh tranh của

ngành hàng, của chủ thể sản xuất kinh doanh hàng nông, lâm, thủy hải sản

và năng lực cạnh tranh của sản phẩm mà WTO cho phép. Tổ chức lại các

ngành hàng theo hướng hình thành chuỗi giá trị, tổ chức lại các Hiệp hội

ngành hàng cả về mặt tổ chức, khung pháp lý, chức năng và nhiệm vụ. Quy

định các ngành hàng kinh doanh xuất khẩu nông, lâm, thủy hải sản có điều

kiện (quy mô, trình độ công nghệ chế biến, vùng nguyên liệu, kho bãi, kinh

nghiệm kinh doanh xuất khẩu thông qua thành tựu xuất khẩu…), nhằm giảm

đầu mối xuất khẩu, giảm áp lực cạnh tranh quá mức ở thị trường trong nước,

thúc đẩy hình thành liên doanh liên kết và hợp tác, hình thành mạng sản xuất

và chuỗi giá trị.

Xây dựng những chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các chủ thể sản xuất

kinh doanh tiêu thụ và xuất khẩu nông, lâm, thủy hải sản (bao gồm cả nông

dân) khi thay đổi quy trình, công nghệ sản xuất và quy trình quản lý quá

trình sản xuất theo các tiêu chuẩn GMP, ISO nhằm sản xuất sạch hơn, thân

thiện với môi trường sinh thái và phát triển bền vững.

Xây dựng những chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá sản

phẩm; xây dựng và bảo vệ thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa; đăng ký chỉ dẫn

địa lý, nguồn gốc xuất sứ…

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội (ASXH) nhằm

đảm bảo thu nhập và không ngừng nâng cao đời sống của nông dân trong

quá trình hội nhập KTQT. Đảm bảo ASXH là bộ phận không thể thiếu trong

phát triển bền vững, đồng thời đảm bảo ASXH còn làm giảm mặt tiêu cực

của kinh tế thị trường và của hội nhập KTQT, bao gồm:

167

Xây dựng chính sách hỗ trợ trực tiếp cho lao động khi di chuyển ra

ngoài lĩnh vực sản xuất nông, lâm, thủy hải sản, do quá trình tích tụ ruộng

đất cho sản xuất nông lâm thủy hản sản quy mô lớn, đô thị hóa nông thôn,

do phân bổ nguồn lực đất đai cho các lĩnh vực phi nông nghiệp… Kèm với

nó là các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng

nghề và dịch vụ; chính sách thu hút lao động nông nghiệp, nông thôn. Chính

sách giáo dục và đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nông nghiệp…

Hoàn thiện chính sách ASXH cho các vùng nghèo, các hộ nghèo và

cận nghèo. Kinh tế thị trường và hội nhập KTQT làm cho hệ thống ASXH

truyền thống dựa trên cơ sở cộng đồng có xu hướng bị xói mòn. Trong khi đó,

với điều kiện ngân sách còn hạn hẹp nên khả năng đảm bảo ASXH cho các đối

tượng nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, không chỉ Nhà nước, các tổ

chức Quốc tế mà phải huy động các nguồn lực toàn xã hội chung sức trợ giúp

nông dân thoát khỏi nghèo. Đồng thời thay đổi phương thức trợ giúp người

nghèo, cách tiệp cận của người nghèo với các dịch vụ…

Thứ năm, tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn theo phương

châm đầu tư nhiều lấy đi ít. Chiến lược và chính sách phát triển hạ tầng nông

thôn qua phương châm “xây dựng hệ thống hạ tầng nông thôn: điện, đường,

trường, trạm, thủy lợi” đã phát huy tác dụng tích cực đối với phát triển nông

nghiệp, nông thôn.

Tuy nhiên để tái cơ cấu nền nông nghiệp theo hướng phát triển phát triển

bền vững và tăng giá trị gia tăng phải đầu tư lại hệ thống tưới tiêu, xây dựng

đồng ruộng, chuồng trại và mặt nước nuôi trồng thủy sản có một ý nghĩa quyết

định. Đầu tư công nghệ hiện đại cho sơ chế và chế biến, cũng như hệ thống kho

bảo quản, hệ thống thương mại.

Tăng đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ trong sản xuất nông

lâm thủy hải sản. Tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ,

168

đặc biệt là công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản và mạng lưới cơ sở vật

chất kỹ thuật hiện đại phục vụ sản xuất nông nghiệp mà thời gian qua được đầu

tư với tỷ lệ rất thấp cũng như chưa được quan tâm đúng mức. Đây là những

yếu tố cần thiết để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

169

KẾT LUẬN

Phát triển nông nghiệp sau khi gia nhập WTO luôn là vấn đề được nhiều

nhà nghiên cứu và các quốc gia quan tâm, bởi phát triển nông nghiệp theo

hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững liên quan đến không chỉ việc giải quyết

vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm; mà còn là vấn đề về môi trường sinh

thái…. Tuy nhiên, do đặc thù của mỗi nước khác nhau, mà phương pháp tiếp

cận, nội dung, đối tượng, phạm vi nghiên cứu phát triển nông nghiệp theo

những chiều hướng khác nhau.

Luận án “Phát triển nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức

thương mại thế giới (WTO)” đã tập trung nghiên cứu những vấn đề về lý luận

và thực tiễn phát triển nông nghiệp Việt Nam từ những năm 2000 đến nay và

đã đạt được kết quả như sau:

Thứ nhất, Đã tổng quan các công trình nghiên cứu của nhiều học giả

trong và ngoài nước về PTNN gồm: CNH-HĐH nông nghiệp, tác động của hội

nhập KTQT đến PTNN và bối cảnh kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO; từ đó

luận án đưa ra những vấn đề cần nghiên cứu và giải đáp sâu hơn cả về lý luận

và thực tiễn đối với nông nghiệp Việt Nam.

Thứ hai, Qua nghiên cứu các khái niệm, đặc điểm, vai trò và vị trí của

nông nghiệp với phát triển kinh tế; các lý thuyết về phát triển kinh tế và

PTNN… Luận án đã làm rõ và đề xuất nội dung của phát triển nông nghiệp;

xây dựng bộ tiêu chí với 6 nội dung đánh giá PTNN, làm cơ sở cho phân tích

và luận giải hiện trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam trên sáu trục nội dung

được so sánh trước và sau khi gia nhập WTO. Đồng nghiên cứu kinh nghiệm

quốc tế về PTNN, rút ra được những bài học kinh nghiệm và khung phân tích

của đề tài luận án. Từ đó, góp phần làm rõ và phát triển cơ sở lý luận về phát

triển nông nghiệp sau khi gia nhập WTO.

170

Thứ ba, luận án đã đánh giá thực trạng PTNN từ năm 2000-2013 trên

sáu trục nội dung gồm: Tăng trưởng ngành nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu

ngành nông nghiệp và trong nội bộ ngành; thực trạng đầu tư và áp dụng khoa

học và công nghệ trong nông nghiệp; phân tích lợi thế so sánh của một số

ngành hàng và năng lực cạnh tranh; phân tích TTH, CMH, hợp tác, liên kết và

phát triển mạng sản xuất, mạng cung ứng và chuỗi giá; đánh giá hạ tầng cơ sở

và kỹ thuật; Từ đó, đã rút ra và khẳng định được những thành tựu, tồn tại và

nguyên nhân trong PTNN và những vấn đề đặt ra, làm cơ sở cho luận giải đề

xuất giải pháp về PTNN.

Thứ tư, nghiên cứu làm rõ xu hướng PTNN trên thế giới và thực trạng

PTNN Việt Nam; luận án đề xuất năm quan điểm và năm nhóm giải pháp,

gồm: nhóm giải pháp chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại ngành

nông nghiệp; nhóm giải pháp đẩy mạnh áp dụng khoa học và công nghệ tiên

tiến, đồng bộ vào sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ nông, lâm, thủy hải

sản; nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia chuỗi

giá trị nông sản toàn cầu; nhóm chính sách giải quyết mối quan hệ nông nghiệp

- nông dân - nông thôn trong PTNN bền vững; hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường và hệ thống chính sách.

Tuy, đã có nhiều cố gắng và nỗ lực trong nghiên cứu, song đây là vấn đề

rộng và phức tạp, nên không tránh khỏi những thiếu sót; tác giả rất mong nhận

được ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu để hoàn thiện và

phát triển hơn nữa nghiên cứu của mình.

171

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Phùng Văn Dũng (2011), Chính sách đất nông nghiệp của Trung

Quốc – Một số gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số

3(115), tháng 3/2011.

2. Phùng Văn Dũng (2013), “Thoát nghèo – no đủ - làm giàu”, bước

đường đi của người nông dân trong hội nhập, Tạp chí Nông thôn mới, số 351,

kỳ II, tháng 9/2013.

3. Phùng Văn Dũng (2013), Nông nghiệp, nông thôn và nút thắt trong

thu hút vốn FDI, Tạp chí Thuế Nhà nước, số 42 (452), tháng 10/2013.

4. Phùng Văn Dũng (2013), Kinh tế hộ nông dân trong quá trình phát

triển nông nghiệp và giải pháp trong thời gian tới, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,

số 11 (426), tháng 11/2013.

172

Tiếng Việt

1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(2002), “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

Việt Nam”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2007), “Việt Nam - WTO những cam kết

liên quan đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn và doanh nghiệp”, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. Bộ Công thương (Tháng 9/2011), Dự án Hỗ trợ Thương mại đa biên-

MUTRAP, “Báo cáo Tác động của cam kết mở cửa thị trường trong WTO và

các Hiệp định khu vực Thương mại tự do (FTA) đến hoạt động sản xuất,

thương mại của Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện cơ chế điều hành xuất

nhập khẩu giai đoạn 2011-2015”.

4. Bộ Công Thương (2011) Báo cáo đánh giá sau 3 năm ra nhập WTO của dự án

MUTRAP II.

5. Bộ Ngoại giao (2002), “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa:

Vấn đề và giải pháp”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (8/2012-9/2013) trong khuôn khổ hỗ

trợ của Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO đã triển khai dự án

“Đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết WTO và khu vực đối với

ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn”.

7. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2007), "Các cam kết của Việt Nam

với WTO trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn", Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

8. CEG/AusAID - Bộ Nông nghiệp và PTNT (2005), “WTO & Ngành Nông

nghiệp Việt Nam”, Nxb Văn hóa Dân tộc, Tr 6-10

TÀI LIỆU THAM KHẢO

173

định mức thuế suất của Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, ưu

đãi đặc biệt theo danh mục mặt hàng chịu thuế (Biểu thuế năm 2012)”.

Phụ lục 1.1: Thực hiện cam kết cắt giảm thuế theo WTO trong nông nghiệp.

10. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số157/2011/TT-BTC, Ngày 14/11/2011 “Quy

định mức thuế suất của Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, ưu

đãi đặc biệt theo danh mục mặt hàng chịu thuế (Biểu thuế năm 2012)”.

Phụ lục 1.2: Thực hiện cam kết cắt giảm thuế theo WTO trong nông nghiệp.

11. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số157/2011/TT-BTC, Ngày 14/11/2011 “Quy

định mức thuế suất của Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, ưu

đãi đặc biệt theo danh mục mặt hàng chịu thuế (Biểu thuế năm 2012)”.

Phụ lục 1.3: Thực hiện cam kết cắt giảm thuế theo WTO trong nông nghiệp

12. Bộ Thương mại (2001), "Các cam kết gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới

của Việt Nam", Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội – 2007.

13. Ngô Đức Cát (Chủ biên), “Phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn”,

Nxb Thống kê, Hà Nội.

14. Trần Thị Minh Châu (2007), “Về chính sách nông nghiệp ở nước ta hiện nay”,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Cốc Nguyên Dương (2006), “Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI: Phát triển

và hợp tác”. Nghiên cứu Trung Quốc, số 1 (65).

16. Tiêu Xuân Dương, Bành Tính Lư (2000), “Thị trường và ngành nghề hóa

nông nghiệp”, Nxb Quản lý kinh tế, Bắc Kinh.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành

Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. tr.179.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 98-99.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 96-97.

9. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 157/2011/TT-BTC, Ngày 14/11/2011 “Quy

174

XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 113-114.

21. Võ Văn Đức (chủ biên) (2009), ”Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu

nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế Việt Nam”, Nxb chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

22. Hoàng Ngọc Hà (2008), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình

đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta”, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

23. Tô Duy Hợp (2009),“Một số vấn đề xã hội nan giải trong quá trình đổi mới

tam nông Việt Nam”. Bài trình bày tại Hội thảo "Công nghiệp hoá nông thôn

và phát triển nông thôn Việt Nam - Đài Loan", do Viện Khoa học Xã hội Việt

Nam và Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan tổ chức tại Hà Nội ngày

17/12/2009.

24. Phạm Văn Khôi (2007),”Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp, nông

thôn”, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr 69.

25. Chử Văn Lâm (2008), Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt

Nam chủ nhiệm đề tài: “Tam nông: Một số vấn đề nổi lên ở Việt Nam”.

26. Phạm Ngọc Linh và Nguyễn Thị Kim Dung (2008), ”Giáo trình Kinh tế kinh

tế phát triển”, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, Tr14.

27. Vũ Văn Nâm (2009), “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam”, Nxb

Đại Học Kinh tế.

28. Nguyễn Thế Nhã, Vũ Đình Thắng (2002), ”Giáo trình kinh tế nông nghiệp”,

Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, tr222

29. Nhiều tác giả (2008), Giáo trình Kinh tế nông nghiệp - Đại học Kinh tế quốc

dân, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân.

30. Nhiều tác giả (12-2008), “Nông dân, nông thôn và nông nghiệp - Những vấn

đề đang đặt ra”, Nxb Tri Thức.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

175

(2000), Luật bảo vệ và phát triển rừng.

32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XI, kỳ họp thứ 4,

(2003), Luật Khoa học Công nghệ.

33. Đỗ Tiến Sâm (3/2008),“Vấn đề tam nông ở Trung Quốc - Thực trạng và giải

pháp”, Viện khoa học xã hội Việt Nam - Viện nghiên cứu Trung Quốc, NXB

Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

34. Đỗ Tiến Sâm & Bùi Thị Thanh Hương, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện

Khoa học xã hội Việt Nam, “Trung Quốc với việc giải quyết vấn đề tam

nông”.

35. Đặng Kim Sơn (2000), “Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông

dân trong quá trình công nghiệp hoá”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Đặng Kim Sơn (2008), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm

nay và mai sau”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

37. Nguyễn Danh Sơn Chủ biên (2010), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt

Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại hoá”; Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

38. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc vụ

viện Trung Quốc, (2007), “Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân: kinh

nghiệm của trung Quốc và Việt Nam”, Tài liệu Hội thảo quốc tế.

39. Trung tâm Phụ nữ và Phát triển - Viện CS&CL PTNNNT (IPSARD), “Kinh

nghiệm quốc tế về Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn”, Tài liệu Hội thảo

quốc tế.

40. Nguyễn Công Tạn, 2005, Nghiên cứu về Hà Lan, Báo Nông thôn ngày nay

41. Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên), (2007), “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập

kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 21-24.

31. Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7,

176

hiện nay”, Bản dịch tiếng Việt của Viện Nghiên cứu Trung Quốc.

43. Tổng cục Hải quan, “Báo cáo hàng năm”

44. TCTK (2012), “Niên giám thông kê năm 2011”, Nxb Thống kê, Hà Nội.

45. TCTK (2013), “Niên giám thông kê 2012’, Nxb Thống kê.

46. TCTK (2012), “Kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2011”,

Nxb Thống kê.

47. Phạm Quốc Trụ, (2010), “Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

những năm qua và triển vọng những năm tới”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số

1 (80).

48. Nguyễn Mạnh Tuân (2009),“Chính sách đất đai Nông nghiệp của Trung

Quốc”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia, Hà Nội.

49. Nguyễn Thị Tươi (2008), “Tác động của việc gia nhập WTO đến phát triển

nông nghiệp Việt Nam”, Nhà xuất bản ĐHKT.

50. Bùi Minh Vũ, (2001), Giáo trình Kinh tế Lâm nghiệp, NxbThống kê, tr7

51. Nguyễn Thị Hải Yến (2007), “Xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Nxb Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng

viên lý luận chính trị.

52. WTO, Hiệp định Nông nghiệp AoA.

53. WTO, Hiệp định SPS.

54. WTO, Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại TBT

55. WTO, Hiệp định TRIPS

56. WTO, Hiệp định Chống bán phá giá AD

57. WTO, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng SCM

58. WTO, Hiệp định về các biện pháp tự vệ - SG

Web:

59. www.Trademap.org “Trade statistics for international business development”

42. Trần Văn Tích “Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc

177

cua-nong-nghiep-vn-20130828113542543.htm

61. www.vietbao.vn/The-gioi/Xu-huong-nong-nghiep-thoi-dai-toan-cau-

hoa/70038451/159/

62. www.vinanet.com.vn/tin-thi-truong-hang-hoa-viet

nam.gplist.294.gpopen.218253.gpside.1.gpnewtitle.thi-truong-sua-va-nhap-

khau-thang-8-8-thang-nam-2013.asmx

63. wwww.giaoduc.net.vn/Kinh-te/Nguoi-Viet-hang-Viet/Nhung-con-so-chung-

minh-ba-chu-TH-Milk-ngoa-ngon/207434.gd

64. www.sonongnghiephatinh.gov.vn/news2553/Mot-so-van-de-tai-co-cau-nganh-

nong-nghiep.htm

65. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=388&idmid=3&ItemID=14483

66. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=396&idmid=3&ItemID=14038

67. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=396&idmid=3&ItemID=14044

68. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=396&idmid=3&ItemID=14042

69. www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=13843

70. www.baodientu.chinhphu.vn/Bai-toan-tai-co-cau-nong-nghiep/Tim-loi-giai-

bai-toan-thuc-an-chan-nuoi/194218.vgp

71. www.nld.com.vn/kinh-te/my-lai-ep-tom-viet-nam-20140326225352239.htm

72. www.wrd.gov.vn/Noi-dung/Bao-cao-Tong-ket-nganh-Nong-nghiep-va-PTNT-

nam-2013/31146.news

73. www.vtca.vn/vtca.nsf/0/Gia-nhap-WTO-nong-nghiep-the-hien-ro-vai-tro-tru-

do-5.htm

74. www.kinhtenongthon.com.vn/Story/kinhte-thitruong/2013/11/44262.html

75. www.baodientu.chinhphu.vn/Home/Hon-7600-ty-dong-cho-vay-mua-tam-tru-

thoc-gao/20134/165789.vgp.

76. www.baoapbac.vn/kinh-te/201406/thu-mua-tam-tru-da-cuu-gia-lua-gao-

496841/

60. www.dddn.com.vn/chuyen-de/cong-nghe-cao-con-duong-phat-trien-ben-vung-

178

quyet-doan-hon.html

78. www.baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/phu-thuoc-trung-quoc-viet-nam-roi-vao-

dieu-toi-ky-3043448/

Tiếng Anh

79. Anita Regmi, Mark Gehlhar (2005), New directions in global food markets,

USDA, p15.

80. Asian Development Bank, Agriculture commercialization, Value Chains and

Poverty Redu ction, (2004), www. Markets4poor.org

81. Béla Balassa (1961), The Theory of Economic Integration, R.D. Irwin,

Homewood, IL.

82. Geoff A. Wilson, Multifunctional Agrculture: A Transition Theory

Perspective (2007), Cromwell, Press, Trowbridge, UK. p.57

83. Josepth E. Stiglitz, 2008, trong tác phẩm “ Vận hành toàn cầu hóa”, Nxb Trẻ

TP Hồ Chí Minh, tr.17

84. Kuznets (1965), “Economic Growth and Structure”.

85. Martin Christopher, Logistics and Supply Chain Management, 2005, Prentice

Hall, London, p16

86. FAO, Participatory policy development for sustainable agriculture and rural

development, Rome, 2005, tr.11

87. Peter Gallagher, “The first Ten Years of WTO, 1995 – 2005.

88. Simon Kuznets. Trong nghiên cứu “The Role of Agriculture in Economic

Development” (Vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế) năm 1961.

89. E. Schumacher, “Small is beautiful” (nhỏ là đẹp) xuất bản năm 1973

90. Statistical Yearbook of the Nethelands, 2007

91. Tatyana P. Soubbotina, ” Không chỉ là tăng trưởng kinh tế”, World Bank, Nxb

Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2005

77. www.vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/178410/lich-su-buoc-nguoi-viet-phai-

179

PHỤ LỤC

GTSX theo giá so sánh 1994, 2010 ( tỷ đồng)

Tốc độ tăng trưởng (%)

Năm

Tổng

B.Q

Chăn Nuôi

Dịch Vụ

Bảng 1: Giá trị sản xuất nông nghiệp và tốc độ tăng trưởng

Trồng Trọt 91.067,4

Trồng trọt 18.360,4 2.074,2 5,01

Chăn nuôi 6,85

Dịch Vụ 2,9 5,98

2000 109.502,0

2001 114.955,2 92.904,5 19.254,6 2.796,3 3,15 4,87 3,16 4,98

2002 122.116,9 98.060,7 21.166,6 2.889,6 5,55 9,93 3,20 6,23

2003 127.611,4 101.786,3 22.867,6 2.957,5 3,80 8,04 2,35 4,50

2004 132.840,4 106.422,5 23.391,0 3.026,9 4,55 2,29 2,35 4,10

2005 137.054,9 107.897,6 26.050,5 3.106,8 1,39 11,37 2,64 3,18

2006 142.642,6 111.613,0 27.838,9 3.190,6 3,44 6,87 2,70 4,08

2007 147.764,7 115.374,8 29.114,1 3.275,8 3,37 4,58 2,67 3,60

2008 158.108,3 123.391,2 31.326,3 3.390,8 6,95 7,60 3,51 6,94

2009 162.593,1 124.462,5 34.627,5 3.503 0,87 10,54 3,31 2,84

2010 169.503,2 129.382,7 36.508,2 3.612,3 3,95 5,43 3,12 4,25

2011* 571.885,8 421.925,4 141.204,2 8.756,2 6,30 4,50 5,60 5,90

2012* 587.792,7 433.870,1 144.862,5 9.060,1 2,80 2,60 3,50 2,80

Nguồn: [44], [45], [69] (*:2011 - 2013 giá so sánh 2010)

2013* 602.295,9 445.168,0 147.771,6 9.356,3 2,60 2,01 3,27 2,47

Năm

Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)

Tỷ trọng (%) so với tổng kim ngạch XK của nền kinh tế 17,7

Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản và nông sản chế biến

2000 2.563,30

16,1 2001 2.421,30

14,3 2002 2.396,60

13,2 2003 2.672,00

12,8 2004 3.383,62

13,8 2005 4.467,36

13,4 2006 5.352,45

14,5 2007 7.032,82

14,7 2008 9.239,57

14,6 2009 8.352,80

13,8 2010 9.950,00

13,9 2011 13.400,00

14,7 2012 15.454,70

Nguồn: [44], [45]

12,5 2013 15.353,00

Bảng 3: Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng nông sản

Hạt

Năm

Điều

Gạo

Cao su

Cà phê

Chè

Tiêu

ĐVT: triệu USD

2002 176,76 726,26 329,44 321,64 109,72 82,98

2003 282,91 719,92 504,61 504,89 105,39 58,39

2004 436,72 950,31 693,49 641,98 152,10 96,69

2005 513,61 1.408,38 910,67 740,31 152,22 99,43

2006 478,79 1.275,90 1.454,30 1.217,17 191,35 110,43

2007 636,14 1.490,18 1.600,50 1.916,65 272,11 133,50

2008 910,02 2.895,94 1.906,47 2.113,76 312,12 147,33

2009 883,80 2.666,06 1.555,70 1.730,57 349,37 180,22

2010 1.134,74 2.271,43 1.864,25 1.955,93 421,40 124,07

2011 1.473,20 3.659,00 3.234,40 2.760,20 732,50 205,50

2012 1.473,30 3.672,80 2.856,80 3.672,80 793,40 224,60

Nguồn: [43]; [44], [45]

2013 1.659,00 2.986,00 2.522,55 2.694,00 899,72 225,00

Năm

Diện tích rừng trồng (1000 ha)

Sản lượng gỗ khai thác (1000 m3)

Tốc độ tăng trưởng (%)

GTSX theo giá so sánh 1994,2010 (tỷ đồng)

Bảng 4: Giá trị sản xuất, diện tích rừng 2002-2013

1920,0 2504,0 6107,6 1,56 2002

2090,0 2435,8 6174,8 1,10 2003

2219,0 2627,8 6242,4 1,09 2004

2889,0 2996,4 6315,6 1,17 2005

2486,0 3128,5 6408,4 1,47 2006

2551,0 3461,8 6603,1 3,04 2007

2770,0 3610,4 6786,0 2,77 2008

2920,0 3766,7 7043,2 3,79 2009

3083,0 4042,6 7365,0 4,57 2010

3229,7 4692,0 19822,6 5,90 2011*

- 5251,0 21136,0 6,60 2012*

Nguồn: [45], [69] (*: giá so sánh 2010)

- 5608,0 22413,0 6,04 2013*

HS

2000

2001

2002

2003

Bảng 5: Giá trị xuất khẩu thủy sản phân theo nhóm hàng

2006

0301

19,6

1,0

5,3

44,9

26,2

30,5

4,1

0302

30,7

62,8

71,5

76,8

69,7

31,3

37,6

Trước WTO Cá và động vật giáp xác, thân mềm Cá tươi hoặc ướp lạnh 0303 Cá đông lạnh 0304 Cá filê 0305 Cá sấy khô

98,6 43,1 48,7

125,6 60,4 78,5

170,0 96,0 84,4

118,9 138,1 52,2

121,5 300,2 48,2

67,6 515,1 52,3

91,5 954,3 70,8

0306

840,4 1047,1 1187,2 1369,0

1362,6 1408,1 1421,0

0307

378,5

360,4

320,1

274,8

269,5

332,9

375,8

1604

6,1

27,3

32,2

47,2

58,3

86,2

114,1

1605

12,9

40,9

63,8

74,7

146,6

220,9

281,9

Động vật giáp xác tươi hoặc ướp lạnh Động vật thân mềm tươi hoặc ướp lạnh Cá đã được chế biến Động vật giáp xác, thân mềm đã chế biến

Tổng Tỷ trọng hàng chế biến (%)

HS

1478,5 1816,4 2021,7 2199,6 5,5 2010

1,3 2007

3,8 2008

4,7 2009

2408,0 2732,5 3358,0 11,8 2013

11,2 2012

8,5 2011

0301

4,4

8,8

7,6

7,8

6,6

0302

32,3

27,8

37,3

59,8

73,4

88,4

107,9

Sau WTO Cá và động vật giáp xác, thân mềm Cá tươi hoặc ướp lạnh 0303 Cá đông lạnh 0304 Cá filê 0305 Cá sấy khô

156,2 100,6 1246,1 1833,8 1609,3 1805,6 84,2

81,4

73,7

58,7

165,4 2362,8 81,3

0306

1440,2 1406,2 1399,1 1622,4

1749,9

0307

402,8

434,3

375,5

390,8

503,6

1604

155,6

198,0

175,0

212,5

281,2

1605

294,5

365,4

421,4

652,7

849,4

Động vật giáp xác tươi hoặc ướp lạnh Động vật thân mềm tươi hoặc ướp lạnh Cá đã được chế biến Động vật giáp xác, thân mềm đã chế biến

Tổng

Tỷ trọng hàng chế biến (%)

3763,4 4510,1 4255,3 5016,9 17,3

12,0

12,7

14,2

6112,4 6088,5 6700,0

18,6

Nguồn: [43]; [45], [69]

Đơn vị: triệu USD 2005 2004

Bảng 6: Chỉ số bảo hộ hữu hiệu ERP và danh nghĩa NPR

Đơn vị: %

2005

2006

2007

2008

2009

TT Ngành I. Tỉ lệ bảo hộ hữu hiệu ERP 1 2 3 4 5 6

0,228 0,046 -0,010 0.104 0.275 -0.005

0.220 0.054 -0.025 0.086 0.321 -0.047

0.213 0.070 -0.003 0.112 0.098 0.000

0.206 0.050 -0.021 0.087 0.299 -0.037

0.130 0.061 -0.032 0.081 0.344 -0.070

7

0.159

0.273

0.237

0.256

0.295

Thóc Cây hàng năm khác Cao su mủ khô Cà phê nhân xô Chè lá và chè búp tươi Cây lâu năm khác Thịt chế biến và bảo quản; các sản phẩm từ thịt Rau, quả chế biến và bảo quản Sữa và các sản phẩm từ sữa

8 9 10 Gạo 11 Đường 12 Cà phê đã qua chế biến II. Tỉ lệ bảo hộ danh nghĩa NPR 1 2 3 4 5 6

0.427 0.110 -2.333 0.060 0.291 0.146 0.031 0.010 0.068 0.189 0.019

0.618 0.246 -1.145 0.041 0.473 0.141 0.034 0.010 0.081 0.231 0.020

0.403 0.129 1.223 0.581 0.256 0.137 0.042 0.010 0.069 0.075 0.019

0.573 0.229 -1.080 0.039 0.436 0.132 0.032 0.009 0.075 0.214 0.019

0.673 0.266 0.194 0.044 0.520 0.086 0.037 0.010 0.087 0.251 0.017

7

0.031

0.051

0.048

0.047

0.054

Thóc Cây hàng năm khác Cao su mủ khô Cà phê nhân xô Chè lá và chè búp tươi Cây lâu năm khác Thịt chế biến và bảo quản; các sản phẩm từ thịt Rau, quả chế biến và bảo quản Sữa và các sản phẩm từ sữa

8 9 10 Gạo 11 Đường 12 Cà phê đã qua chế biến

0.132 0.062 0.033 0.033 0.188

0.184 0.117 0.071 0.033 0.294

0.130 0.083 0.154 0.171 0.171

0.171 0.109 0.067 0.031 0.272

0.200 0.126 0.077 0.035 0.321

Nguồn: [4]

của nông sản xuất khẩu

2006

2005

Năm

2008

2009

I. Tỷ lê bảo hộ danh nghĩa NRP (t) (%)

Gỗ tròn (gỗ khai thác)

0,05

0,07

0,04

0,07

0,08

Gỗ (đã qua chế biến) và các sản phẩm từ gỗ

1,39

1,08

3,3

1,01

1,15

Giường, tủ, bàn, ghế

16,18

13,33

13,12

13,01

13,34

Sản phẩm lâm nghiệp khác; Dịch vụ lâm

0,33

0,36

0,36

0,38

0,36

nghiệp, Trồng rừng và chăm sóc rừng

II. Tỷ lệ bảo hữu hiệu ERP(%)

Gỗ tròn (gỗ khai thác)

-0,88

-0,73

-0,85

-0,67

-0,75

Gỗ (đã qua chế biến) và các sản phẩm từ gỗ

0,89

5,76

0,83

0,97

1,44

Giường, tủ, bàn, ghế

27,73

25,78

27,12

27,64

33,6

Sản phẩm lâm nghiệp khác; Dịch vụ lâm

-0,01

0

-0,05

0,07

-0,05

nghiệp, Trồng rừng và chăm sóc rừng

Nguồn: [4]

Bảng 7: Chỉ số ERP, NPR lâm nghiệp 2007