ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ VĂN CƢƠNG

PHONG CÁCH TIỂU THUYẾT TRẦN CHIẾN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ VĂN CƢƠNG

PHONG CÁCH TIỂU THUYẾT TRẦN CHIẾN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành:60 22 01 21

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS TÔN THẢO MIÊN

Thái Nguyên - 2017

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc nhất tới Phó

Giáo sư, Tiến sĩ, cô giáo Tôn Thảo Miên, người đã luôn trực tiếp hướng dẫn, tận

tình quan tâm, chỉ bảo tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành

luận văn này.

Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo nhà trường, khoa sau đại

học, trường Đại học Khoa học Thái Nguyên, cùng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp

đã giúp đỡ cũng như đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Học viên thực hiện

Vũ Văn Cƣơng

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là do kết quả nghiên cứu của bản thân tôi

dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Phó Giáo sư, Tiến sĩ, cô giáo Tôn Thảo Miên.

Luận văn này không trùng với bất kì công trình nghiên cứu của tác giả nào đã

được công bố trước đó. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Học viên thực hiện

Vũ Văn Cƣơng

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

LỜI CAM ĐOAN

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề. ................................................................................................. 2

2.1. Những ý kiến về tác giả, tác phẩm ............................................................... 2

2.2. Những ý kiến về tiểu thuyết của Trần Chiến ............................................... 4

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 6

3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 6

3.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 6

4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7

4.1. Mục tiêu nghiên cứu: .................................................................................... 7

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7

5.Phƣơng pháp nghiên cứu: ............................................................................... 7

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8

7. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................... 8

Chƣơng 1 .............................................................................................................. 9

KHÁI LƢỢC VỀ PHONG CÁCH VÀ NHÀ VĂN TRẦN CHIẾN ............... 9

1.1. Khái niệm phong cách ................................................................................. 9

1.2. Đặc trƣng của phong cách ......................................................................... 13

1.2.1. Thống nhất trong sự đa dạng .................................................................. 13

1.2.2. Thể hiện những phẩm chất thẩm mĩ cao, giàu tính nghệ thuật. ........... 14

1.3. Những biểu hiện của phong cách .............................................................. 15

1.3.1. Qua cái nhìn và giọng điệu riêng của tác giả. ........................................ 16

1.3.2. Những sáng tạo độc đáo trong một chỉnh thể nghệ thuật. .................... 17

1.3.3. Các phương thức biểu hiện mang dấu ấn riêng. .................................... 18

1.4. Nhà văn Trần Chiến với thể loại tiểu thuyết ........................................... 19

1.4.1. Vài nét về cuộc đời và tác phẩm .............................................................. 19

1.4.2. Những yếu tố hình thành phong cách Trần Chiến ................................ 20

1.4.3. Nhà văn Trần Chiến và ba bộ tiểu thuyết ............................................... 27

Chƣơng 2 ............................................................................................................ 30

PHONG CÁCH TRẦN CHIẾN QUA CẢM HỨNG, CỐT TRUYỆN VÀ

NHÂN VẬT ........................................................................................................ 30

2.1. Những cảm hứng chính trong tiểu thuyết Trần Chiến ........................... 30

2.1.1. Cảm hứng thế sự, đời thường qua ba tiểu thuyết Bốn chín chưa qua,

Đèn vàng và Cậu ấm .......................................................................................... 30

2.1.2. Cảm hứng về Hà Nội................................................................................ 52

2.1.2.1. Lịch sử và kiến trúc văn hóa Hà Nội qua một nhà báo ......................... 52

2.1.2.2. Văn hóa ứng xử, văn hóa ẩm thực thủ đô qua các thế hệ trong một gia

đình trí thức trung lưu ......................................................................................... 55

2.2. Cốt truyện trong tiểu thuyết. ..................................................................... 58

2.2.1. Cốt truyện theo mô hình truyền thống .................................................... 59

2.2.2. Cốt truyện đan xen, phức hợp ................................................................. 60

2.3. Hình tƣợng nhân vật .................................................................................. 64

2.3.1. Nhân vật trong mối quan hệ biến đổi phức tạp ...................................... 64

2.3.2. Nhân vật thuần khiết về tính cách .......................................................... 71

Chƣơng 3 ............................................................................................................ 76

MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN ........................... 76

3.1. Ngôn ngữ, hình ảnh trong tiểu thuyết của Trần Chiến .......................... 76

3.1.1. Ngôn ngữ đối thoại đời thường, đậm chất dân gian. ............................. 76

3.1.2. Hình ảnh gần gũi, chân thực và sống động ........................................... 83

3.2. Giọng điệu trần thuật ................................................................................. 89

3.2.1. Giọng nhẩn nha, chậm rãi. ...................................................................... 89

3.2.2. Giọng triết lí, suy tư .................................................................................. 91

3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Trần Chiến ...... 95

3.3.1. Thời gian mang dấu ấn đương đại .......................................................... 95

3.3.2. Không gian được chuyển đổi linh hoạt, rộng mở. .................................. 97

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 101

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 103

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Như chúng ta đã biết, đóng góp nổi bật nhất cho bất cứ một nền văn học

nào cũng là thể loại tiểu thuyết. Từ sau năm 1975, đặc biệt là sau công cuộc đổi

mới văn học, tiểu thuyết đã trở thành trụ cột với nhiều phong cách nghệ thuật

mới mẻ, độc đáo góp phần củng cố đặc trưng thể loại, tôn vinh chức năng là

“hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ”[18, tr.229].

Tiểu thuyết thời kỳ hiện đại phát triển đa dạng, mang nhiều dấu ấn của tác

giả và thời đại. Khi xã hội phát triển, tinh thần dân chủ được coi trọng một cách

sâu sắc, cộng với sự hỗ trợ hiệu quả của công nghệ thông tin, in ấn, xuất bản,

…thì tiểu thuyết lại càng phát huy được những ưu thế của nó. Với cấu trúc tự sự

ở quy mô lớn, tiểu thuyết có thể phản ánh hiện thực xã hội, thiên nhiên, con

người,… ở cả chiều sâu lẫn bề rộng một cách mới mẻ với nhiều vấn đề thiết

thực, sâu sắc và ý nghĩa.

Trần Chiến đến với thể loại tiểu thuyết một cách tự nhiên. Tiểu thuyết của

ông mang một phong cách riêng: bình dị, sâu lắng, gói ghém kín đáo những tâm

tư thế sự thông qua việc kết hợp hài hòa giữa những chất liệu của văn hóa truyền

thống với những biến đổi tinh vi của bối cảnh xã hội đương thời. Ngoài thể loại

tiểu thuyết, Trần Chiến còn có những trải nghiệm cũng rất sâu sắc trong truyện

ngắn và một số thể loại khác như tản văn, chân dung. Tuy nhiên, thể loại chủ

công của ông vẫn là tiểu thuyết. Ở thể loại này, Trần Chiến đã ghi dấu tên mình

trong danh sách giải thưởng của Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội, Liên hiệp Văn

học Nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội, Bùi Xuân Phái - vì tình yêu Hà

Nội,…

Tuy đã ghi được những dấu ấn như vậy, nhưng trong thực tiễn sáng tác của

Trần Chiến vẫn chưa được giới thiệu đúng mức. Chưa có một luận án, luận văn

hoặc công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về những tác phẩm

1

của ông. Từ thực tế và nhận thức trên, chúng tôi mạnh dạn lấy “Phong cách tiểu

thuyết Trần Chiến” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng nhận diện một số nét đặc

trưng trong tiểu thuyết của Trần Chiến, từ đó làm nổi bật phong cách sáng tác

của nhà văn, cũng như khẳng định những đóng góp của Trần Chiến vào nền văn

chương đương đại Việt nam.

2. Lịch sử vấn đề.

Do chưa có một luận án, luận văn hoặc công trình nào nghiên cứu một cách

đầy đủ, hệ thống về những tác phẩm của nhà văn Trần Chiến nên khi tìm hiểu

các hướng nghiên cứu liên quan đến đề tài, chúng tôi chủ yếu dựa vào các lời

tựa, các bài báo giới thiệu về tác phẩm của Trần Chiến.

2.1. Những ý kiến về tác giả, tác phẩm

Khi tiến hành tìm hiểu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy đa số các bài báo

giới thiệu về tác giả Trần Chiến đều cho rằng ông là một nhà văn khá kiệm lời

trước đám đông. Trên báo Thể thao và Văn hóa, tác giả Việt Quỳnh cho rằng:

“Ông tham gia văn đàn với sự dịu dàng trầm mặc pha lẫn ngại ngần của người

ưa quan sát, hơn là phát ngôn”.[31]. Trần Chiến đến với sáng tác văn học không

sớm, có lẽ một phần lớn là do công việc làm báo với những bộn bề của tin tức,

của các chức năng công việc mà ông đảm nhiệm. Trong suốt 30 năm làm báo,

rất nhiều năm Trần Chiến mới ra một cuốn sách, nhưng mỗi khi tác phẩm mới

của ông chào đời là một lần ông tạo được dấu ấn độc đáo với độc giả. Điều này

cho thấy, Trần Chiến đã ý thức rất sâu sắc về vai trò và trách nhiệm của mình

đối với cuộc sống, công việc và văn chương. Lương tâm của người cầm bút chân

chính khiến ông luôn tự nhủ không thể viết vội vàng, viết cho nhanh, cho nhiều,

đó là điều rất đáng trân trọng ở người nghệ sĩ sáng tác.

Bên cạnh đó có thể thấy chính vì những năm tháng làm báo nên Trần Chiến

đã tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm, nhiều kỹ thuật nghề để ông góp phần

cho cảm hứng sáng tác được thăng hoa. Bạn đọc có thể thấy những dấu ấn báo

2

chí hiện lên cực kỳ đậm đặc trong tiểu thuyết Đèn vàng và hiện lên tinh tế trong

tiểu thuyết Cậu ấm cũng như các sáng tác khác của nhà văn.

Ở mảng truyện ngắn, Trần Chiến cũng gặt hái được những thành công qua

các tập truyện Con bụi (giải nhì 5 năm 1986 - 1990 của Hội liên hiệp Văn học

Nghệ thuật Hà Nội năm 1992), tập Đường đua (giải C, Liên hiệp các hội văn

học Nghệ thuật Việt Nam năm 1997), tập truyện ngắn Hoa nước (2010), tập

truyện giả cổ Gót Thị Mầu đầu Châu Long (2014),… Truyện ngắn của Trần

Chiến cũng khá phong phú về đề tài, đa dạng về nội dung, khi hoài cổ với những

tích xưa chuyện cũ, khi chuyện Tàu Tây, khi lại rất nóng hổi với những trào lưu

hiện đại nhưng tất cả đều hướng về những góc khuất, những mặt còn tồn tại đây

đó của cuộc sống đương đại bằng một giọng văn vừa xót xa vừa tiếc nhớ qua hệ

thống ngôn ngữ khi hài hước dí dỏm, khi trần tục đến đớn đau. Các truyện gây

ấn tượng mạnh như Thượng đẳng thần, Dâm thần, Thị Mầu, Châu Long, Tổ sư

gàn, Gô Ganh và Sô Panh, Bến, Con bụi, Một tình huống sư phạm, Đò rách,

Bốc mộ, Tội nhân, Đường đua, Hoa nước, Táo mèo, Ốc gió, Hạ cánh, Làm đẹp

cho đời,… Khi giới thiệu tập truyện Gót Thị Mầu đầu Châu Long, Nguyễn Thị

Hậu lúc là Phó Tổng Thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho rằng “Trong

những tác phẩm của nhà văn Trần Chiến có tính cách nho sĩ Bắc Hà hòa quyện

với chất liệu dân gian, là một góc nhìn sắc sảo về văn hóa người Việt truyền

thống - những yếu tố mà sử học hiện đại luôn cần được tiếp cận để phục dựng

một “lịch sử xã hội” đa dạng như đời sống vốn có”.[13, tr.7].

Về tản văn, Trần Chiến có tập Hà Nội phố và chợ, A đây rồi Hà Nội 7 món,

đó thực sự là những nỗi niềm trăn trở của tác giả về mảnh đất và con người kinh

kỳ nghìn năm. Những trang văn vừa tự hào lại vừa thấm đẫm những lo âu về sự

đổi thay của thủ đô văn hiến. Nhận xét về mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm,

nhà báo Phương Thúy, VOV - Trung tâm tin cho rằng: “Có lẽ, chính vì phong

cách sống từ tốn, chậm rãi giữa một Hà Nội nhộn nhịp, vội vã đã giúp cho nhà

văn có cái nhìn sâu hơn về Hà Nội. Trần Chiến viết về ẩm thực Hà Thành, viết

về những con phố cũ, về kiến trúc… Ông kể về những con ngõ gợi cảm ở Hà

3

Nội, như là ngõ Đoàn Nhữ Hài toàn nhà thấp, ngõ Tràng An có dáng dấp tiểu tư

sản điển hình, ngõ Phất Lộc ngoằn ngoèo nhất khu “Ba sáu phố phường”. Ông

cũng viết về tính cách của người Hà Nội, vẫn thường được biết đến với sự thanh

lịch, ăn nói nhỏ nhẹ. Nhưng không chỉ nêu bật những nét đẹp trong tính cách Hà

Nội, Trần Chiến còn chỉ ra những “hạn chế” như: xét nét, thiếu tính kỷ luật, dè

dặt trong thái độ sống. Qua mỗi trang viết, người đọc được hình dung về Hà Nội

dưới nhiều góc nhìn, nhiều màu sắc: sự ồn ào, náo nhiệt, đông đúc bởi gia tăng

dân số và đằng sau đó là sự mất ổn định các giá trị, nền nếp”.[39].

Như vậy, ở hai mảng truyện ngắn và tản văn, Trần Chiến đều có những

dấu ấn chung về mặt cảm hứng sáng tác khi hướng những lo âu cho giá trị của

cuộc sống đời thường đang bị xáo trộn, phôi pha và cũng có những cách thức thể

hiện rất riêng trong mỗi một thể loại.

2.2. Những ý kiến về tiểu thuyết của Trần Chiến

Cho tới thời điểm này, Trần Chiến đã xuất bản ba tiểu thuyết và cả ba cuốn

tiểu thuyết của ông đều có những giải thưởng khác nhau. Đầu tiên phải nhắc đến

cuốn Bốn chín chưa qua, cuốn tiểu thuyết này được Nxb Hội Nhà văn in năm

2000, được giải B của Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam 2001. Cuốn thứ 2

là Đèn vàng, được Nxb Phụ nữ in năm 2002, được giải Văn xuôi Hội Nhà văn

Hà Nội 2003. Cuốn thứ ba là Cậu ấm, do Nxb Trẻ in năm 2015, được trao giải

“Bùi Xuân Phái – vì tình yêu Hà Nội” của báo Thể thao Văn hóa 2015 (chung

với tác phẩm A đây rồi Hà Nội 7 món).

Tiểu thuyết của Trần Chiến mang một sức vóc riêng, vượt lên trên nhiều

tiểu thuyết cùng thời để chọn cho mình một vị trí trong nền văn xuôi đương đại

Việt Nam. Vị thế ấy không chỉ khẳng định ở các giải thưởng đã có mà nó thực

sự cũng là một hướng đi cần phải xem xét, nghiên cứu cho thỏa đáng, chí ít cũng

là đề tài về tình yêu Hà Nội. Trong bài “Đôi dòng của người được đọc trước”,

nhà sử học Dương Trung Quốc khi luận bàn về tiểu thuyết Cậu ấm cho rằng:

“…cuốn tiểu thuyết này để cổ vũ cho tác giả Trần Chiến sẽ viết tiếp và mong có

4

nhiều cây bút khác cùng khai quật kho báu tiềm tàng về Hà Nội yêu dấu của

chúng ta, mà rất tiếc cho đến nay những gì từ thế hệ Nguyễn Huy Tưởng đến

những người sau - trong đó có Trần Chiến - mới chỉ là những đóng góp bước

đầu”[9, tr.7]. Bàn về sức hấp dẫn của tiểu thuyết Trần Chiến, tác giả Việt Quỳnh

nhận định: “Cậu ấm, tiểu thuyết dày dặn với gần 500 trang in, đưa người đọc tới

không khí chân thật của Hà Nội của trước và sau năm 1954 cùng sự miêu tả cụ

thể tỉ mỉ kỹ lưỡng như của một sử gia. Với nhân vật chính là một cậu ấm, xuất

thân từ tầng lớp khá giả của Hà Nội. Người đọc, khi đọc tiểu thuyết Cậu ấm của

nhà văn Trần Chiến, rất dễ bị hút xoáy vào những trang viết, để tâm tưởng trôi

theo không gian ba chiều, cùng chiều thứ tư – chiều của tâm tưởng” [31].

Tiểu thuyết của Trần Chiến xuất phát mạnh mẽ từ chất liệu hiện thực. Có lẽ

đây cũng là một trong những yếu tố làm thành sức hút trong các trang văn của

ông. Ở khía cạnh này, người đọc có thể liên tưởng đến yếu tố mang tính gia đình

khi cha của nhà văn chính là nhà sử học Trần Huy Liệu khả kính. Trong mục

Cuộc sống đi vào tiểu thuyết, tác giả Nguyệt Cầm, báo Người lao động nhận

định: “- Những năm làm báo của Trần Chiến gắn với một vùng đất phía Nam:

vùng kinh tế mới Lâm Hà của người Hà Nội vào khai hoang, dựng làng xóm

những năm sau giải phóng. Rồi Lâm Hà trở thành huyện mới của Lâm Đồng.

Trần Chiến từng nhiều lần đến đó, có khi ở lại nhiều ngày. Chuyện ở Lâm Hà đi

vào sáng tác của Trần Chiến, rải rác trong các truyện ngắn và rõ nhất trong

truyện vừa Bốn chín chưa qua (NXB Hội Nhà văn - 2000), ra đời khi tác giả

đang ở cái tuổi bốn chín nặng nợ… Đèn vàng có thể coi là “tập đại thành” 20

năm làm báo của Trần Chiến; ở đó có hầu hết những chuyện của làng báo, người

làm báo và nghề báo hôm nay, thời kinh tế thị trường có định hướng. Đó là

chuyện giữa cái nhìn thấy, nghe thấy, cái biết được của anh nhà báo với những

gì được viết ra và được in trên báo.” [5].

Từ cuộc sống đến cuộc đời rồi bước vào tiểu thuyết với các hình tượng

nghệ thuật, những tín hiệu thẩm mĩ, những thông điệp nhẹ nhàng mà thấm thía

cho nên nếu chỉ kiếm tìm sự li kỳ, kịch tính hoặc những hình ảnh lung linh, ngôn

5

từ mùi mẫn hay đơn giản hơn là đọc chỉ để đọc thì tiểu thuyết của Trần Chiến

không đáp ứng được những mục đích ấy. Hình như trong con người ông, ở độ

tuổi của ông khi viết tiểu thuyết lại hướng tới những giá trị khác. Nói như thế

không có nghĩa là tiểu thuyết của Trần Chiến quá kén độc giả, nhưng khi có một

vốn văn hóa, một kinh nghiệm sống nhất định thì người đọc mới thấm thía được

những điều mà nhà văn trăn trở và đau đáu suốt cả một chặng đường dài của lịch

sử xã hội.

Điểm lại lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết của Trần Chiến, chúng tôi nhận

thấy các tác giả, các học giả, các nhà phê bình đã có những nhìn nhận, những

bàn luận chân xác, mang tính khái quát về các tác phẩm của Trần Chiến nói

chung và ba cuốn tiểu thuyết của Trần Chiến nói riêng. Tuy nhiên, như trên đã

nói, cho đến thời điểm này vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách

toàn diện và có hệ thống về tiểu thuyết của Trần Chiến, cụ thể là chưa có công

trình nào nghiên cứu về phong cách tiểu thuyết Trần Chiến, đó chính là căn cứ

để chúng tôi lựa chọn đề tài này.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Sáng tác của Trần Chiến chủ yếu ở lĩnh vực văn xuôi với nhiều thể loại

quen thuộc như truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn và chân dung. Nhưng cho đến

nay, đóng góp của ông tập trung thăng hoa nhất vẫn là ở thể loại tiểu thuyết. Do

đó, luận văn đi vào tìm hiểu về phong cách tiểu thuyết Trần Chiến qua một số

phương diện nổi bật như cảm hứng, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu

và không gian – thời gian nghệ thuật.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung khảo sát ba tiểu thuyết của Trần Chiến: Bốn chín chưa

qua (Nxb Hội Nhà văn, 2000), Đèn vàng (Nxb Phụ nữ, 2002), Cậu ấm (Nxb

Trẻ, 2015), ngoài ra có so sánh với các thể loại khác của nhà văn để làm rõ hơn

phong cách tiểu thuyết Trần Chiến.

6

4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục tiêu nghiên cứu:

Luận văn tập trung vào việc làm sáng tỏ phong cách tiểu thuyết Trần Chiến

qua một số phương diện nổi bật như cảm hứng sáng tác, cốt truyện, nhân vật và

các phương thức nghệ thuật biểu hiện, từ đó thấy được cái hay, cái độc đáo và

sáng tạo của việc kết hợp hài hòa giữa những yếu tố truyền thống và hiện đại, sự

đan xen giữa ngôn ngữ trang nhã và ngôn ngữ bình dân trong cách thể hiện nội

dung.

Qua việc nghiên cứu phong cách tiểu thuyết Trần Chiến, người viết đi đến

khẳng định tài năng trong cách khám phá thế giới nghệ thuật và đóng góp của

nhà văn đối với văn chương Việt Nam đương đại.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Chúng tôi đặt ra cho luận văn phải giải quyết các nội dung sau đây:

- Tìm hiểu và giới thiệu khái lược lí thuyết phong cách

- Tìm hiểu những nét cơ bản về cuộc đời, về những tác phẩm nổi bật của

Trần Chiến và cơ sở hình thành phong cách tiểu thuyết của nhà văn.

- Tìm hiểu cảm hứng về hiện thực cuộc sống, về cốt truyện, nhân vật trong

tiểu thuyết của nhà văn.

- Tìm hiểu một số phương thức biểu hiện nghệ thuật trong tiểu thuyết của

nhà văn Trần Chiến.

5.Phƣơng pháp nghiên cứu:

Trong quá trình triển khai luận văn, người viết kết hợp sử dụng các phương

pháp nghiên cứu sau đây:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp

- Phương pháp lịch sử - xã hội

- Phương pháp thống kê

- Phương pháp hệ thống

7

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học.

6. Đóng góp của luận văn

Bước đầu xác lập một cách đầy đủ và hệ thống những vấn đề cơ bản về nội

dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết của Trần Chiến. Cùng với các tư liệu, dẫn

chứng và những nhận xét, đánh giá của luận văn sẽ giúp người đọc hình dung,

nhận biết và hiểu được những nét đặc sắc, những sáng tạo trong các cách thể

hiện tiểu thuyết của nhà văn.

Luận văn khẳng định phong cách tiểu thuyết Trần Chiến dựa trên sự kết

hợp sáng tạo, hài hòa giữa những yếu tố truyền thống và hiện đại, ghi nhận

những đóng góp của Trần Chiến đối với tiểu thuyết nói riêng và đối với văn học

Việt Nam sau thời kì đổi mới nói chung.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, nội dung luận văn được triển khai thành ba

chương:

- Chương 1: Khái lược về phong cách và nhà văn Trần Chiến

- Chương 2: Phong cách Trần Chiến qua cảm hứng, cốt truyện và nhân vật

- Chương 3: Một số phương thức nghệ thuật biểu hiện

8

Chƣơng 1

KHÁI LƢỢC VỀ PHONG CÁCH VÀ NHÀ VĂN TRẦN CHIẾN

1.1. Khái niệm phong cách

Đã từ lâu, khái niệm về phong cách đã trở thành đối tượng bàn luận của

nghiên cứu, lí luận và phê bình văn học. Trong thực tiễn, phong cách chính là cơ

sở nền tảng để định hình cho vị trí của tác giả và giá trị của tác phẩm trong dòng

chảy văn học. Từ khi trở thành một khoa học nghiên cứu văn chương, phong

cách học đã đóng góp nhiều thành tựu trong việc chỉ ra những nét độc đáo, riêng

biệt, những dấu ấn sáng tạo của nhà văn đối với lịch sử phát triển văn học. Tuy

xuất hiện sớm nhưng những vấn đề lý luận về phong cách đến nay vẫn còn tồn

tại nhiều quan điểm và ý kiến không giống nhau. Vì vậy, việc xác lập hệ thống

khái niệm công cụ là điều vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết khi nghiên

cứu, phê bình đánh giá về một tác giả văn học.

Trước hết, về thuật ngữ phong cách, chúng ta đều biết rằng nó được bắt

nguồn từ thuật ngữ Stylos của Hy Lạp, Stylus của La Mã với ý nghĩa ban đầu

dùng để chỉ nét chữ, bút pháp, nghĩa rộng hơn là chỉ tình yêu ngôn ngữ, nghệ

thuật dùng từ. Cùng với sự phát triển của xã hội, các trường phái, các trào lưu

sáng tác và đặc biệt là trong đời sống lý luận phê bình, phong cách được sử

dụngnhiều hơn với ý nghĩa rộng hơn, dùng để chỉ những đặc tính nghệ thuật của

tác phẩm văn chương, nó đã trở thành một phương tiện hữu hiệu, một đơn vị

kiến thức lớn trong lí luận và phê bình văn học.

Ở phương Đông, trong lịch sử văn học Trung Quốc, các công trình phê

bình thơ ca như Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, Tùy viên thi thoại của Viên

Mai đã xuất hiện ít nhiều những khái niệm, những thuật ngữ như văn khí, văn

như kỳ nhân,… Những khái niệm và thuật ngữ ấy đã được dùng để định danh sự

độc đáo, khác lạ của những người sáng tạo văn chương. Tuy không trực tiếp

luận bàn đến vấn đề phong cách nhưng qua sự thể hiện và cách trình bày lập

9

luận của người viết mà người đọc hiểu được đó chính là những biểu hiện đầu

tiên của lối phê bình theo phong cách.

Đi tìm hiểu về phong cách nhà văn, cho đến thời điểm này, có lẽ công trình

Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học của Khrapchenco vẫn là

một dấu mốc quan trọng trong hệ thống lí luận về phong cách văn học. Theo

Khrapchenco, hiện vẫn còn tồn tại không ít những khái niệm khác nhau về

phong cách văn học. Trong chương ba, trước khi đi sâu vào những vẫn đề cốt lõi

trong những quan niệm về phong cách của D. Likhachev, A. Grogorian, V.

Turbin, V. Jirmunxky, V. Kôvalev, L. Novichenco, V. Dneprov, Ya. Elsberg, R.

Yakobson, … tác giả Khrapchenco cho rằng: “Hiện đang tồn tại một số lượng

rất lớn những định nghĩa khác nhau về phong cách văn học. Những định nghĩa

này xòe ra như cái quạt giữa sự thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử -

thẩm mĩ rộng nhất, bao quát nhất và sự nhìn nhận nó như những đặc điểm của

những tác phẩm riêng lẻ”. [49, tr.130]. Có thể thấy rằng nhận định của

Khrapchenco một mặt thể hiện sự phong phú đa dạng trong nhận thức của đời

sống lí luận phê bình, một mặt nó cũng thể hiện một quan điểm chung đó là thừa

nhận phong cách là một phạm trù lịch sử - thẩm mĩ rộng nhất, bao quát và chi

phối mạnh mẽ đến sự hình thành cũng như phát triển thế giới nghệ thuật trong

các sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ.

Vì gắn chặt với vai trò của chủ thể sáng tạo nên bàn về phong cách là

chúng ta bàn tới phong cách cá nhân hay còn gọi là phong cách tác giả. Có thể

nói đây là một trong những vấn đề quan trọng của lý thuyết phong cách bởi lẽ

không ai khác, người nghệ sĩ chính là chủ thể sáng tạo, chính là nhân tố quyết

định trong việc tạo định những nét nét riêng biệt và độc đáo trong quá trình lao

động nghệ thuật. Nói như vậy thì suy cho cùng, phong cách tác giả là những

biểu hiện khá hoàn chỉnh của cá tính sáng tạo mà người nghệ sĩ nhìn nhận về

cuộc sống, đánh giá về thế giới thông qua quan điểm sáng tác và hệ thống tác

phẩm của mình.

10

Trên thế giới, khi bàn về đặc điểm của phong cách cá nhân nhà văn trong

sáng tạo nghệ thuật, các nhà lí luận, phê bình, các nhà văn như Buffon, Flaubert,

Vinogradov, Turin, V. Hugo, Khrapchenco, M. Bakhtin,… cũng đã có những

trang viết rất sâu sắc về những vấn đề đã trình bày ở trên. Ở Việt Nam, vào đầu

thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình văn học như Hải Triều, Hoài

Thanh, Vũ Ngọc Phan, Lê Tràng Kiều, Thiếu Sơn, Trương Tửu,… đây đó trong

các bài viết của mình, các tác giả đã vận dụng khá nhiều lý thuyết phê bình tiếp

thu được trong quá trình tiếp xúc với văn hóa, văn học phương Tây, đặc biệt là

văn học Pháp để thẩm định những tác phẩm văn chương. Một điều không thể

phủ nhận đó là trong các bài viết của các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình ấy đã

có sự vận dụng những lý thuyết phê bình theo phong cách. Đi cùng thời gian và

năm tháng, các công trình về phong cách cũng ngày một đa dạng và phong phú

hơn về cả nội dung và cách thức thể hiện.

Trong bộ sách Lí luận văn học (tập 3), Phương Lựu cho rằng: “phong cách

là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện

trong sáng tác của những nhà văn ưu tú”. [28, tr.88].

Trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,

(Nxb Thanh niên, 2003, t.31), Phan Ngọc chỉ ra: “Phong cách là một cấu trúc

hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử, và

chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể

loại, một tác phẩm hay một tác giả”.

Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và

phong cách (Nxb Trẻ, 2005, tr.18) cũng nêu quan niệm: “Phong cách là một

chỉnh thể nghệ thuật. Mỗi nhà văn có phong cách tạo ra cho mình một thế giới

nghệ thuật riêng. Thế giới nghệ thuật ấy dù phong phú đa dạng thế nào, vẫn có

tính thống nhất … Phong cách bao gồm những đặc điểm độc đáo của các tác

phẩm của một nhà văn từ nội dung đến hình thức…Trong quá trình sáng tác của

một nhà văn, phong cách nghệ thuật của ông ta luôn luôn chuyển từ tác phẩm

11

này đến tác phẩm khác. Nhưng dù đổi mới thế nào, phong cách vẫn vận động

trên cơ sở thống nhất… phong cách một khi đã định hình thì thường có tính bền

vững”.

Lại Nguyên Ân trong Từ điển văn học, bộ mới, (Nxb Thế giới, 2005, tr.

1472) cho rằng: “Khái niệm chỉ những nét chung, tương đối bền vững của hệ

thống hình tượng, của các phương thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản

sắc sáng tạo của một nhà văn, một tác phẩm, một khuynh hướng văn học, một

nền văn học dân tộc nào đó.”

Theo Từ điển tiếng Việt: “Những đặc điểm có tính chất hệ thống về tư

tưởng và nghệ thuật, biểu hiện trong các sáng tác của một nghệ sĩ hay trong các

sáng tác nói chung thuộc cùng một thể loại (nói tổng quát).”[32, tr.782].

Còn theo Từ điển thuật ngữ văn học thì: “Phong cách nghệ thuật là một

phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng,

của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng

tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn

học dân tộc” [20, tr.253-254].

Khi bàn về các phương diện của phong cách, Antoine Compagnon cho

rằng:

- Phong cách là một biến hóa hình thức trên một nội dung ổn định (ít hoặc

nhiều);

- Phong cách là một tập hợp những nét đặc trưng của một tác phẩm cho

phép qua đó nhận dạng và nhận ra tác giả (trực giác hơn là phân tích);

- Phong cách là một sự lựa chọn giữa nhiều “lối viết”.[46, tr.285].

Khrapchenco cho rằng: “Nếu như dùng một công thức vắn tắt thì phong

cách cần phải được định nghĩa như thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình

tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả”[49,

tr.152], …

12

Có thể nói, tuy còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về phong cách

nhưng đa số các ý kiến đều nhấn mạnh đến một đặc điểm chung của lối phê bình

này, đó là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ

thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn

độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu

văn học hay văn học dân tộc.

Như vậy, bàn về phong cách là bàn tới tính hệ thống, tính ổn định tương

đối của các phương tiện biểu hiện mà người nghệ sĩ đã thể hiện trong các sáng

tác của mình. Phong cách cũng là căn cứ để chúng ta nhận ra đặc trưng và sự

khác nhau trong các sáng tác của mỗi một nhà văn. Bên cạnh đó, chúng ta cũng

thấy được phong cách còn mang dấu ấn của dân tộc và thời đại.

1.2. Đặc trƣng của phong cách

Như chúng ta đã biết, trong lí luận phê bình văn học, mỗi một khái niệm có

tính nội hàm lớn đều mang những đặc trưng chủ đạo để tạo thành công cụ kiến

thức khi tiến hành thẩm định giá trị tác phẩm và đánh giá vị trí của nhà văn.

Phong cách là một khái niệm có tính nội hàm lớn nên nó cũng mang trong mình

nhiều đặc trưng cơ bản. Trong phạm vi này, chúng tôi muốn đề cập và nhấn

mạnh tới hai đặc trưng tiêu biểu của phong cách văn học như sau:

1.2.1. Thống nhất trong sự đa dạng

Đây là đặc trưng có tính bền vững, chuyên biệt của phong cách văn học.

Đặc trưng này luôn có sự hoà quyện giữa các yếu tố định hình, thống nhất và sự

biến đổi đa dạng, phong phú. Trong hệ thống các tác phẩm của nhà văn thì cái

riêng biệt, vẻ độc đáo phải xuất hiện thường xuyên, được lặp đi lặp lại, mang

tính bền vững và nhất quán. Thống nhất từ cốt lõi bên trong, nhưng khi triển

khai lại phải mới mẻ, muôn màu. Sự thống nhất đó không hề cản trở và cũng

không mâu thuẫn gì với sự đa dạng, phong phú. Mác-xen Prút (1871-1922), nhà

văn Pháp cho rằng: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần

người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì một lần thế giới được tạo lập”. Điều đó nói

13

lên sự phong phú, đa dạng và sự trưởng thành trong bản lĩnh nghệ thuật của một

cá nhân nghệ sĩ sáng tạo. Chúng ta biết rằng, hạt nhân cốt lõi, cảm hứng chủ đạo

trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi chính là tư tưởng yêu nước thương dân

nhưng trong mỗi thể loại, Nguyễn Trãi lại có những dấu ấn rất riêng. Những tác

phẩm chính luận của Nguyễn Trãi như Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh

tập mang tinh thần hào hùng, mạnh mẽ, đanh thép và sắc bén ; nhưng Quốc âm

thi tập, ta lại thấy một Nguyễn Trãi u hoài, suy tư, trầm lắng. Cũng theo hệ hình

như vậy, những tác phẩm của Hồ Chí Minh ở thể loại truyện và kí thì rất hiện

đại, có tính chiến đấu cao ; nhưng thơ chữ Hán của Bác lại mang khí vị Đường

thi, màu sắc phương Đông cổ kính ; thơ tiếng Việt lại đậm đà cốt cách dân gian,

tinh thần dân tộc. Hay hình ảnh về cái đói và cái rét trong các truyện ngắn của

nhà văn Nam Cao. Hình ảnh ánh trăng trong các bài thơ của thi sĩ Hàn Mặc

Tử,… Như vậy, phong cách văn học được nảy sinh từ những nhu cầu của hiện

thực cuộc sống, mà hiện thực cuộc sống luôn đòi hỏi những khám phá có tính

phát hiện, có sự mới mẻ trên nền tảng của vùng thẩm mĩ cá nhân nghệ sĩ sáng

tạo ; đồng thời phong cách văn học cũng xuất phát từ chính những yêu cầu cơ

bản của quá trình sáng tạo văn học, của những cái không lặp lại để tạo thành sự

vận động hấp dẫn đặc thù từ nội dung đến hình thức đối với các thế hệ độc giả,

tiếp nhận và phê bình văn học.

1.2.2. Thể hiện những phẩm chất thẩm mĩ cao, giàu tính nghệ thuật.

Trong bài thơ “Vân chữ”, tác giả Lê Đạt từng viết:

Mỗi công dân đều có một dạng vân tay

Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ

Không trộn lẫn

Các hình ảnh thơ trên ít nhiều cho người ta hình dung ra đặc trưng của

phong cách văn chương qua những dấu ấn nghệ thuật. Trong cái độc đáo, đa

dạng, bền vững và luôn đổi mới của các tác phẩm thì người nghệ sĩ phải có

những phẩm chất thẩm mĩ. Người nghệ sĩ phải không ngừng sáng tạo ra những

14

hình tượng giàu nghệ thuật, sinh động và hấp dẫn. Đây là một trong những đặc

trưng quan trọng bậc nhất của phong cách, bởi khi ấy dấu ấn sáng tạo của người

nghệ sĩ mới thực sự đi vào cuộc sống một cách tự nhiên, bền vững. Đặc trưng

này cũng in đậm dấu ấn lịch sử và thời đại mà tác giả sống. Vôn-te (1694-1778),

văn hào Pháp nói: “Cũng giống như từ gương mặt, ngôn ngữ, hành động cụ thể

có thể nhận ra quốc tịch của con người, thì cũng có thể từ phong cách sáng tác

nhận ra một số là người Ý, người Pháp, người Anh hay người Tây Ban Nhamột

cách dễ dàng”. Còn Lét-xinh (1729-1781), nhà văn Đức khi đọc các tác phẩm

của Sếch-xpia nhận xét rằng “mỗi ưu điểm nhỏ nhất cũng in dấu ấn riêng, dấu ấn

đó có thể lập tức nói với toàn thế giới rằng: Tôi là Sếch-xpia”. Chúng ta không

mấy khó khăn khi bắt gặp ở ngoài xã hội một tính cách của Sở Khanh, của Hoạn

Thư, của Thúc Sinh,… trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ; một Chí Phèo, một

bá Kiến, một lí Cường,… trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao ; một Tào

Tháo, một Lưu Bị,… trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung ; một Gia-

ve, một Giăngvan-giăng, một Phăng-tin,… trong Những người khốn khổ của

V.Huygo ; … Hoặc hình ảnh quen thuộc của cuộc sống đời thường đã trở thành

những dấu ấn nghệ thuật riêng như cái khuy bấm trong bài thơ Chân quê, cái

dậu mồng tơi trong bài Người hàng xóm của Nguyễn Bính ; hình dáng và sắc

màu của hoa tigôn trong bài thơ Hai sắc hoa tigôn của T.T.KH, … Chính những

hình ảnh đó lại trở lại cuộc sống một cách tự nhiên với sự hưởng thụ mĩ cảm dồi

dào của bao thế hệ.

1.3. Những biểu hiện của phong cách

Phong cách chính là cách thức nhà văn thể hiện vào thế giới nghệ thuật -

cuộc sống thứ hai mà người nghệ sĩ sáng tạo ra, cho nên phong cách nghệ thuật

của một nhà văn chỉ được xem xét qua tác phẩm của nhà văn đó. Chúng ta đều

biết rằng, trong thực tế phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ sáng tạo không

đồng nghĩa với phong cách sống của anh ta. Lối sống của người nghệ sĩ là

những đặc điểm về thế giới quan, là những thói quen,... trong đời sống thường

ngày. Những nhân tố đó có thể ảnh hưởng tới quá trình hình thành phong cách

15

nghệ thuật của người nghệ sĩ sáng tạo chứ nhất định không phải là bản chất của

phong cách nghệ thuật. Trong văn học Việt Nam hiện đại thì trường hợp của

Nguyễn Bính, của Vũ Trọng Phụng... là một minh chứng cho điều đó. Phong

cách nghệ thuật có những biểu hiện cơ bản sau:

1.3.1. Qua cái nhìn và giọng điệu riêng của tác giả.

Cái nhìn của nhà văn chính là cách nhà văn khám phá, cảm thụ cuộc đời

một cách đầy tính nghệ thuật. Bản thân nó đã chứa đựng những yếu tố của cá

nhân với hiện thực cuộc sống cho nên khi phân biệt phong cách của các nền văn

học, các thời đại văn học và các tác giả văn học, người ta căn cứ trước hết là ở

cái nhìn và cách cảm thụ đó. Thơ Hồ Xuân Hương có cách nhìn sắc sảo đối với

đời sống trần tục của con người, gián tiếp phê phán xã hội đa thê, gia trưởng, là

tiếng nói cảm thông, bênh vực, ngợi ca người phụ nữ. Bà Huyện Thanh Quan lại

có cách nhìn riêng về mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, cảm giác cô đơn

của con người trước vũ trụ mênh mông, triết lí về thời thế, con người tĩnh lặng,

hoài cổ,... Sang thế kỷ XX, Nguyễn Tuân có cái nhìn tài hoa, có khả năng khám

phá mọi đối tượng từ phương diện thẩm mĩ vào trong các sáng tác của mình. Vì

thế, qua cái nhìn ấy ta thấy con người luôn tiềm ẩn tư chất nghệ sĩ, tài hoa, tài tử,

đến thiên nhiên cũng hiện lên như những công trình tuyệt vời của tạo hoá.

Giọng điệu riêng luôn gắn liền với cảm hứng sáng tác của người nghệ sĩ

sáng tạo nghệ thuật. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú

thường có những lời nhận xét ngắn gọn về giọng điệu của từng người khi ông

giới thiệu các tác giả: Trần Quang Khải thì “lời thơ thanh thoát, nhàn nhã”, Trần

Nguyên Đán thì “cảm khái thế sự, thân tuy ở ẩn, nhưng lòng không quên việc

nước”, Phùng Khắc Khoan thì “lời thơ trong trẻo, dồi dào, khí phách hùng

hồn”,… Văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, ta bắt gặp

giọng điệu trào phúng của Nguyễn Khuyến rất hóm hỉnh, thâm trầm, sâu sắc

trong khi tiếng cười của Tú Xương lại châm biếm sâu cay, đả kích quyết liệt,

trực diện. Đến văn học giai đoạn 1932-1945, ta thấy giọng điệu trong thơ của

16

Huy Cận là giọng ảo não, buồn thương, ngậm ngùi và tiếc nhớ ; của Tố Hữu là

tin tưởng, hào hùng ; trong văn của Thạch Lam là nhỏ nhẹ, man mác buồn ; của

Vũ Trọng Phụng là chua chát và đầy tính giễu nhại,… Từ giọng điệu, quá trình

xác định phong cách sẽ trở nên thuận lợi và có cơ sở khoa học hơn.

1.3.2. Những sáng tạo độc đáo trong một chỉnh thể nghệ thuật.

Sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm cũng in đậm dấu ấn của tác

giả, từ việc lựa chọn đề tài, xác định chủ đề, tới việc triển khai cốt truyện, xây

dựng nhân vật, xác lập tứ thơ, cách thể hiện hình ảnh,… Trong những trang văn

của các cây bút trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thường hướng tới những

con người dưới đáy cùng của chế độ xã hội cũ. Nhắc đến Nam Cao là người ta

nghĩ ngay tới một nhà văn của “những kiếp lầm than” với những nỗi ám ảnh

kinh hoàng về cái đói và cái rét, một người cầm bút với tâm hồn rộng mở, tha

thiết và dằn vặt bằng một cốt truyện tâm lí hết sức sâu sắc, mang màu sắc triết lí.

Thạch Lam hướng ngòi bút của mình tới cuộc sống và tâm hồn những con người

“nhỏ bé” trong môi trường sống quẩn quanh với cái nhìn đôn hậu và sự rung

động thiết tha qua cốt truyện hết sức trữ tình. Vũ Trọng Phụng lại chú ý đặc biệt

vào những góc khuất, những nơi tăm tối, “chó đểu” của xã hội,… thông qua

những phương thức trào phúng đặc sắc, bất ngờ. Trong thơ ca về đề tài của tình

yêu, nhắc tới Xuân Diệu là người đọc nhớ về một hồn thơ luôn khát khao giao

cảm với đời, luôn nồng nàn và đắm say ; nhắc tới Xuân Quỳnh là nhắc tới một

hồn thơ của một người phụ nữ nhiều trắc ẩn, nhưng hồn nhiên tươi tắn, chân

thành và đằm thắm, da diết trong khát vọng về hạnh phúc đời thường. Nhỏ hơn

mà vẫn ấn tượng mạnh là chú dế mèn trong Dế mèn phiêu lưu ký của nhà văn Tô

Hoài, cây xà nu và đôi bàn tay của Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà

văn Nguyễn Trung Thành, cây tre trong Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy,

hình ảnh sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh, hình ảnh hương bưởi

trong bài thơ Hương thầm của thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn, hình ảnh tiếng đàn

trong thi phẩm Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo, hình ảnh bát cháo hành

trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, hình ảnh con thuyền trong

17

truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu,… Đó là

những sáng tạo độc đáo ở nhiều cấp độ khác nhau nhưng đã để lại những dấu ấn

khó phai mở trong độc giả nhiều thế hệ. Mỗi lần nhắc đến những hình ảnh sáng

tạo độc đáo đó, người ta lại nhớ đến tác phẩm, nhớ ngay đến nhà văn. Điều này

góp phần tạo nên sức sống bền bỉ của văn học trong tâm thức và đời sống sinh

hoạt của con người.

1.3.3. Các phương thức biểu hiện mang dấu ấn riêng.

Phong cách là những nét riêng biệt, độc đáo của người nghệ sĩ sáng tạo

trong quá trình thâm nhập, nhận thức, tích lũy và phản ánh cuộc sống. Những

nét độc đáo ấy không chỉ thể hiện ở phương diện nội dung mà nó còn thể hiện

một cách tinh tế trên phương diện nghệ thuật. Hệ thống các phương thức biểu

hiện, các thủ pháp kĩ thuật mà nhà văn lựa chọn để tái hiện đời sống sẽ lưu lại

đậm nét cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật. Đó là cách dùng

từ, lối cấu tạo câu, sử dụng thể loại, tổ chức kết cấu, đến cách kể chuyện, nghệ

thuật xây dựng nhân vật,... Tô Hoài nổi tiếng là nhà văn có tài trong miêu tả

phong tục, khắc hoạ nét đẹp riêng trong cảnh vật và tính cách con người của một

vùng đất. Nguyễn Tuân xứng đáng với danh hiệu bậc thầy trong nghệ thuật sử

dụng ngôn từ với khả năng sáng tạo những từ ngữ độc đáo, hình ảnh mới lạ, bất

ngờ và những câu văn rất linh hoạt xuôi theo dòng chảy của cảm xúc, của suy

tư. Trong các truyện ngắn của Kim Lân, các nhân vật hiện lên với lối khắc họa

giàu chất tạo hình và gợi cảm. Các nhân vật của Nguyễn Khải lại hiện lên ấn

tượng qua các độc thoại nội tâm, đối thoại nội tâm bằng cách thể hiện rất sắc sảo

và triết lí của nhà văn,…

Như vậy, những biểu hiện cơ bản của phong cách nghệ thuật luôn có mối

quan hệ thống nhất, hữu cơ với nhau. Những biểu hiện ấy có lúc bao hàm hoặc

tồn tại trong nhau ở nhiều cấp độ nhưng nhất định chúng không hề tách biệt, li

khai trong chỉnh thể của tác phẩm văn học, trong hệ thống hình tượng mang tính

thẩm mĩ cao với những giá trị độc đáo. Tuy nhiên, không phải nghệ sĩ nào cũng

18

có khả năng độc sáng, thể hiện rõ nét phong cách riêng của mình, kể cả những

nhà văn ưu tú có sự nghiệp sáng tác phong phú về nội dung, đa dạng về hình

thức, thể loại. Mỗi nghệ sĩ sáng tạo chỉ có thể nổi bật ở một vài phương diện vì

thế giới nghệ thuật là thế giới của sự chuyển động mạnh mẽ, vô cùng.

1.4. Nhà văn Trần Chiến với thể loại tiểu thuyết

1.4.1. Vài nét về cuộc đời và tác phẩm

Nhà văn Trần Chiến tên khai sinh là Trần Trường Chiến. Bút danh viết báo:

Hoàng Định. Trần Chiến sinh năm 1951 tại Vĩnh Phúc, quê quán ở Xã Kim

Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Hộ khẩu 53 Lãn Ông, quận Hoàn Kiếm,

Hà Nội. Ông là con trai của nhà sử học Trần Huy Liệu (1901-1969), người đã

từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Cổ động, Chủ tịch Hội Khoa học

Lịch sử Việt Nam,...

Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Trần Chiến lên đường nhập ngũ năm 1968.

Năm 1974, Trần Chiến được quân đội cử đi học lớp Văn của khoa Ngữ văn

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1978, Trần Chiến về Nhà xuất bản

Quân đội làm Biên tập viên Phòng sách Văn nghệ.

Năm 1981, Trần Chiến chính thức chuyển sang ngành báo chí. Trần Chiến

về Báo Hà Nội mới làm phóng viên, sau ông là Trưởng ban Văn hóa - Xã hội

cho đến khi được nghỉ hưu, năm 2011. Trong suốt thời gian làm ở Hà Nội mới,

ông còn cộng tác với nhiều báo khác.

Hiện nay, Trần Chiến ở nhà số 20, ngách 44/1 Đỗ Quang, quận Cầu Giấy

thành phố Hà Nội. Trong suốt 30 năm làm báo chính thống, con người Trần

Chiến mang trong mình hai đặc điểm gần như tương phản. Một mặt là được đi

nhiều và tiếp xúc rộng. Một mặt là ông không thể đưa hết những suy nghĩ, ấn

tượng của mình lên mặt báo. Đây cũng là một nguyên cớ để ông viết văn. Trần

Chiến viết muộn, có lẽ còn vì phải cần thêm thời gian “tiêu hóa” cho hết lý luận

nhà trường (chữ dùng của nhà văn).

19

Đến với văn học, Trần Chiến có các tác phẩm chính đã được xuất bản và

các giải thưởng như sau:

- Con bụi, tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới - 1990, giải nhì 5 năm

(1986 – 1990) Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội năm 1992.

- Hà Nội phố và chợ, tập tản văn, Nxb Hà Nội, năm 1994.

- Đường đua, tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa Thông tin - 1997, giải C Liên

hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1997.

- Bốn chín chưa qua, tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn - 2000, giải B Liên hiệp

Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2001.

- Đường về nghiệp sử, (thể loại chân dung) trong tủ sách danh nhân của

Nxb Kim Đồng năm 2001.

- Đèn vàng, tiểu thuyết, Nxb Phụ nữ - 2002, giải Văn xuôi Hội Nhà văn Hà

Nội năm 2003.

- Chữ văn chữ báo, tản văn, Nxb Văn học năm 2007.

- Cõi người - Trần Huy Liệu, Nxb Kim Đồng năm 2009.

- Hoa nước, tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ năm 2010.

- Gót Thị Mầu đầu Châu Long, tập truyện “giả cổ”, Nxb Trẻ năm 2014.

- Cậu ấm, tiểu thuyết, Nxb Trẻ 2015, giải tác phẩm “Bùi Xuân Phái – vì

tình yêu Hà Nội” của báo Thể thao Văn hóa 2015 (chung với A đây rồi Hà Nội 7

món).

- A đây rồi Hà Nội 7 món, tập tản văn, Nxb Trẻ 2015.

- Trần Chiến – truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn 2015, sách Nhà nước đặt

hàng.

- Ốc gió, tập truyện ngắn, Nxb Trẻ năm 2016.

1.4.2. Những yếu tố hình thành phong cách Trần Chiến

Chúng ta đều biết rằng, để trở thành một nhà văn cần phải hội tụ nhiều yếu

tố, và để trở thành nhà văn có phong cách riêng lại càng cần hơn những yếu tố

20

chuyên biệt, đặc thù. Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi khảo nghiệm và

đánh giá những yếu tố hình thành nên phong cách tiểu thuyết Trần Chiến trên ba

phương diện cơ bản: về hoản cảnh gia đình ; về bối cảnh xã hội ; về tư chất cá

nhân nhà văn.

Về hoàn cảnh gia đình, Trần Chiến là con trai của Giáo sư Trần Huy Liệu

(1901-1969), Bộ trưởng Bộ Thông tin, Tuyên truyền (tiền thân của Bộ Thông tin

và Truyền thông ngày nay), Chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt

Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Đức. Mẹ của Trần Chiến là bà Nguyễn

Thị Hy con gái của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (1890 - 1942), một nhà văn, nhà

giáo, nhà nghiên cứu văn hoá dân tộc nổi tiếng Việt Nam.

Quê ngoại của Trần Chiến ở xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải

Dương. Quê nội của nhà văn xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Hai

mảnh đất với rất nhiều vốn văn hóa truyền thống cũng như có nhiều văn nhân

chí sĩ. Đó cũng là những chất liệu hiện thực quý giá khi Trần Chiến đến với văn

chương sau này. Hình ảnh những triền đê, những ngôi làng, những ngôi nhà bức

bàn năm gian, những hoành phi câu đối, những nhà thợ họ tộc, những tập quán

canh tác, cưới hỏi, ma chay, chôn cất, ... đều trở thành những dấu ấn trong tiểu

thuyết của Trần Chiến. Trần Chiến sinh ra ở Vĩnh Phúc nhưng học hành và

trưởng thành chủ yếu ở Hà Nội. Cha của nhà văn là Trần Huy Liệu, đã từng

tham gia hoạt động cách mạng rất sôi nổi, bị thực dân Pháp bắt và kết án nhiều

lần, bị đày ra Côn Đảo, đày vào nhà tù Sơn La. Tại tù ngục Sơn La, Trần Huy

Liệu với Bí danh Nam Kiều giữ chức Bí thư Chi bộ Nhà tù Sơn La từ tháng

2/1940 đến 5/1940. Sau Cách mạng, Trần Huy Liệu vừa làm chính trị vừa

nghiên cứu khoa học và đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng trong các cơ quan

trung ương của Đảng, Quốc hội, các vụ, viện... Tuy quãng thời gian hai cha con

sống bên nhau ngắn ngủi nhưng hình ảnh người cha lại là nguồn mạch nghĩ suy

không bao giờ vơi cạn trong nhà văn Trần Chiến. Từ con đường cha đi, nhà văn

thấy được rất nhiều biến động đau đớn, dữ dội, hào hùng của lịch sử. Từ mái nhà

thường xuyên vắng bóng người cha mà nhà văn luôn mang trong mình nhiều

21

tâm sự âu lo, thắc thỏm về cuộc sống đời thường, về hạnh phúc gia đình. Cũng

có thể đó là những lí do vì sao trong các tiểu thuyết của nhà văn, nhân vật người

cha thường nổi bật và là trung tâm của tác phẩm.

Về bối cảnh xã hội mà Trần Chiến sống và sáng tác cũng là một trong

những yếu tố quan trọng hình thành nên phong cách nhà văn. Ở phương diện

này, điểm đáng chú ý là sau khi tốt nghiệp trung học năm 1968, Trần Chiến đi

bộ đội. Quãng thời gian trong quân ngũ và hiện thực chiến tranh cũng là một

môi trường cho Trần Chiến cảm thấu những gian khổ của mưa bom bão đạn,

hiểu hơn về người cha khả kính, hiểu hơn những góc khuất phía sau khói súng.

Việc được quân đội cử đi học lớp Văn của khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng

hợp Hà Nội năm 1974 cũng là một tiền đề để Trần Chiến hiểu hơn về văn

chương, nhất là lúc nhà văn vừa đi qua môi trường quân ngũ, đang chín trong độ

tuổi trưởng thành. Như vậy, thời gian học tập, trau dồi và tích lũy kiến thức cũng

chính là nguồn nhựa sống dồi dào cho quá trình sáng tác bên cạnh tài năng của

nhà văn.

Năm 1978, Trần Chiến về Nhà xuất bản Quân đội làm Biên tập viên Phòng

sách Văn nghệ. Thời gian làm biên tập của một nhà xuất bản có uy tín, thêm một

lần nữa, Trần Chiến lại được trau dồi ngôn ngữ, được tiếp cận với kinh nghiệm

sáng tác của nhiều nhà văn. Tuy thời gian làm việc ở đây không lâu, chỉ khoảng

bốn năm, nhưng có lẽ đó cũng là những dấu ấn thực tiễn mà Trần Chiến khai

thác thành công khi miêu tả nhà in Dân Cường trong tiểu thuyết Cậu ấm của

mình. Năm 1981, Trần Chiến chính thức chuyển sang ngành báo chí. Trần Chiến

về Báo Hà Nội mới làm phóng viên, sau là Trưởng ban Văn hóa - Xã hội cho

đến khi được nghỉ hưu, năm 2011. Trong suốt thời gian làm ở Hà Nội mới, ông

còn cộng tác với nhiều báo khác và dấu ấn này cũng được tái hiện khá ấn tượng

trong chuyên mục Có nên? bên báo Nhân vật & Sự kiện ở tiểu thuyết Đèn vàng.

Trong sáng tác, hiện thực cuộc sống bao giờ cũng là chất liệu quan trọng

cho cốt truyện. Đôxtôiépxki từng khuyên một nhà văn trẻ: “Anh hãy nhớ lấy lời

22

tôi. Đừng bao giờ bịa ra các sườn truyện, các tuyến truyện. Anh hãy lấy những

cái do bản thân cuộc sống cung cấp. Cuộc sống phong phú hơn hết thảy những

điều bịa đặt của chúng ta" [18; tr.174]. Chính những năm tháng gắn bó sâu sắc

với thực tế đã làm cho các tiểu thuyết của Trần Chiến có thêm sự hấp dẫn một

cách tự nhiên chứ không phải do kỹ thuật làm nghề. Từ Nam ra Bắc, Trần Chiến

tích lũy cho mình nhiều vốn sống, nhiều sự trải nghiệm để sau này những yếu tố

ấy bước vào tiểu thuyết với giọng điệu triết lí hóm hỉnh.

Điều đáng bàn luận thêm là khi chuyển sang nghề làm báo trong suốt ba

mươi năm, Trần Chiến được củng cố gần như trực tiếp hiện thực đang đổi thay

từng ngày từng giờ ở khắp nơi. Có những đổi thay tích cực, có cả những đổi

thay tiêu cực trước cơ chế thị trường. Mỗi lần cơ chế thay đổi cũng lại là dịp để

những khái quát của nhà văn thêm sâu hơn, gần gũi hơn. Có thể nói rằng, quá

trình học hành và trưởng thành của Trần Chiến chủ yếu ở phố thị nên những lần

thâm nhập vào thực tiễn là những lần tác giả nhận ra những giá trị rất đỗi đời

thường, tích góp cho thêm cho mình nhiều vốn sống và cảm xúc. Những năm

làm báo của Trần Chiến gắn với một vùng đất phía Nam: vùng kinh tế mới Lâm

Hà của người Hà Nội vào khai hoang, dựng làng xóm những năm sau giải

phóng. Rồi Lâm Hà trở thành huyện mới của Lâm Đồng. Trần Chiến từng nhiều

lần đến đó, có khi ở lại nhiều ngày. Chuyện ở Lâm Hà đi vào sáng tác của Trần

Chiến, rải rác trong các truyện ngắn và rõ nhất trong truyện vừa Bốn chín

chưaqua (NXB Hội Nhà văn - 2000), ra đời khi tác giả đang ở cái tuổi bốn chín

nặng nợ. Truyện lại giành được giải nhì của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật

Việt Nam. [5]. Đấy là một điều không thể phủ nhận về mối tương quan giữa văn

chương và đời sống thực tế đang biến động mạnh mẽ, giữa nhà văn và vùng

thẩm mĩ được nhà văn được định hình từ hiện thực khách quan.

Trong sáng tạo nghệ thuật, bối cảnh xã hội và không gian văn học luôn có

mối quan hệ hữu cơ trong cách nhìn nhận của nhà văn. Tiểu thuyết Việt Nam

cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, có nhiều xu hướng, trào lưu. Ở giai đoạn đầu

sau Đổi mới, dấu ấn hậu hiện đại đã xuất hiện ít nhiều trong văn xuôi của Phạm

23

Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp. Do nòng cốt của tiểu thuyết hiện đại với những

biến hóa rất linh hoạt nên càng về sau càng xuất hiện nhiều phương diện của

nghệ thuật biểu hiện như: lối trần thuật đa trị, kiến trúc liên văn bản, giọng điệu

vô âm sắc… Các gương mặt tiểu biểu là Nguyễn Bình Phương, Thuận, Nguyễn

Việt Hà, Hồ Anh Thái, Phong Điệp,… Tuy xuất hiện cùng thời, gắn liền với

những thay đổi mạnh mẽ đó, nhưng Trần Chiến vẫn có một lối thể hiện tiểu

thuyết phù hợp với năng lượng của ngòi bút, với vùng cảm xúc nghệ thuật riêng

của nhà văn.

Một điều không thể phủ nhận là từ hiện thực cuộc sống đến hiện thực tác

phẩm là cả một quá trình rất gian khổ. Nếu không gian khổ, không có tài năng

văn học thì có lẽ tất cả những người bình thường đều trở thành những nhà văn

có phong cách. Trong hiện thực mà nhà văn đã trải qua đó luôn chứa những điều

mà nhà văn thấy thích, thấy xúc động hoặc gợi liên tưởng đến sự vật, sự việc,

tình tiết khác. Với Trần Chiến cũng vậy, trước sự vươn dậy mạnh mẽ của các

thành phố, đô thị, trong đó có Hà Nội, Trần Chiến và nhiều cây bút thể hiện cá

tính sáng tạo của mình như Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tiến, Đỗ Phấn,...

Nhưng dù cùng chung mảng đề tài ấy thì mỗi người lại có một sự lựa chọn riêng

phù hợp với sức của mình. Mỗi người viết có một vùng đất, bước ra ngoài là

loạng choạng rồi. Tôi mà kể thôn quê hay lớp trẻ hôm nay là dại dột. Cũng là

thị dân nhưng người nghèo, dân anh chị, giới giang hồ thì chỉ đọc chứ có sống

thực gì đâu. Cái “mỏ” Hà Nội này còn nhiều lớp quặng chưa khai, chỗ mình

khá thuộc thì sao không xông vào. [38]. Đây cũng là những yếu tố quan trọng để

ta nhìn nhận rõ hơn về sự hình thành phong cách tiểu thuyết của nhà văn Trần

Chiến. Những điều đó đã góp phần định hình nên phong cách nhà văn.

Về tư chất của nhà văn trong quá trình sáng tạo văn học. Đây là yếu tố có

tính chất quyết định cho công việc sáng tác văn chương. Ở phương diện này, ta

có thể hiểu đó là tư chất, trí tuệ có sẵn, là năng khiếu bẩm sinh của nhà văn.

Năng khiếu bẩm sinh có thể xuất phát từ di truyền hoặc biến dị. Đuypren, nhà

triết học Đức đã giải thích năng khiếu nghệ thuật là sự chuẩn bị âm thầm qua

24

nhiều thế hệ: “Với tính cách như một năng khiếu bẩm sinh, tưởng tượng nghệ

thuật chỉ có thể có được thông qua nhiều thế hệ do khả năng nối dõi, củng cố và

nhờ các điều kiện thuận lợi đã diễn ra ngoài tầm mắt của chúng ta, khả năng

này từ trạng thái vô hình nó sẽ hiện lên ở nghệ sĩ". [18; t.120]. Trong thực tế,

nhiều nhà nghiên cứu đã có những công trình khẳng định tính chất trên. Đối với

Trần Chiến, yếu tố di truyền này càng rõ ràng khi chúng ta thấy cha của nhà văn

là Trần Huy Liệu đã có những tác phẩm, những công trình để đời như: Lịch sử

80 năm chống Pháp, (tác phẩm được đưa vào làm sách giáo khoa trong các

trường đại học chuyên ngành), Một bầu tâm sự, Ngòi bút sắc, Hiến thân vì nước,

Câu chuyện chung, Ngục trung ký sự, Anh hùng yêu nước.Thái Nguyên khởi

nghĩa, Ba người anh kiệt nước Ý, Lịch sử Hà Nội, Lê Văn Tám,... Khi Trần Huy

Liệu qua đời, ông còn để lại hàng chục tập bản thảo các loại cho Trần Chiến.

Trong cơ chế di truyền sinh học cũng đã khẳng định sự tồn tại của cơ chế di

truyền chéo, nghĩa là những phẩm chất nổi bật của ông ngoại có mặt ở cháu trai.

Và như thế cũng có nghĩa là năng lực văn chương cũng được chuẩn bị âm thầm

từ thế hệ trước. Ông ngoại của Trần Chiến là Nguyễn Văn Ngọc, một học giả

lừng lẫy với tên chữ là Ôn Như, người chuyên soạn sách khảo cứu văn hóa dân

tộc, văn học dân gian và cho ra đời nhiều cuốn sách bằng tiếng Hán, tiếng Pháp

và chữ Quốc ngữ quý báu. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc tham gia biên soạn các

sách giáo khoa như Phổ thông độc bản, Phổ thông độc bản lớp đồng ấu, Luân lý

giáo khoa thư, Giáo khoa văn học An Nam, Đông Tây ngụ ngôn. Nguyễn Văn

Ngọc có lòng say mê đặc biệt với văn hóa, văn học phương Đông, nhất là văn

hóa, văn học dân tộc cho nên Nguyễn Văn Ngọc có nhiều tác phẩm tác phẩm lớn

về lĩnh vực khảo cứu: Cổ học tinh hoa, Nam thi hợp tuyển, Đào nương ca,

Truyện cổ nước Nam, Ngụ ngôn, Tục ngữ phong dao,... Khi bàn về mối quan hệ

huyết thống này, Trần Chiến rất ít khi muốn biểu lộ ra bên ngoài, bởi con người

nhà văn vốn nặng về nội tâm, suy tư chứ không nặng về phô trương, hình thức.

Cơ chế di truyền ấy cũng là những ưu thế mang tính trội, sẵn có để Trần Chiến

viết văn.

25

Trong tư chất của nhà văn thì bản chất giàu xúc cảm, khả năng quan sát

rộng rãi, tinh tế cũng là những yếu tố định hình nên phong cách tiểu thuyết của

nhà văn Trần Chiến. Giống như nhiều nhà văn chân chính xưa nay, bản chất cảm

xúc luôn hướng trái tim nhà văn ra với thế giới hiện thực để đồng cảm, để sẻ

chia, để được giác ngộ. Một trong những đề tài mà tiểu thuyết Trần Chiến hướng

tới chính là Hà Nội. Không chỉ nhận xét, xác định tính cách Hà Nội, Trần Chiến

còn cảm thấy thương mảnh đất mà ông gắn bó. Tác giả viết: "Tôi thường có ý

thương Hà Nội". Tác giả thương thành phố chen chúc, nhem nhếch vì rác rưởi.

Ông thương thành phố bị phá vỡ cơ cấu dân cư, kèm theo đó là sự mất ổn định

các giá trị, nền nếp. Ông cũng thương thành phố đã trở nên vô hồn, bởi đám

đông ồn ào kia tuy sống nhờ Hà Nội, không muốn rời Hà Nội, nhưng họ chỉ coi

Hà Nội là một phương tiện chứ không phải là nhà.[37]. Như vậy, nhờ khả năng

quan sát của mình mà Trần Chiến đã phát hiện ra còn một Hà Nội còn nhiều rác

rưởi bởi tình trạng dân cư đông đúc, chen chúc bên cạnh một Hà Nội văn minh,

sạch đẹp. Quan trọng hơn, từ khả năng quan sát ấy cộng với tâm hồn tinh tế

nhạy cảm, Trần Chiến còn thấy được ý thức, hành vi cũng như đời sống tâm hồn

của những cư dân mới đã và đang làm phá vỡ cơ cấu dân cư của thủ đô.

Khả năng liên tưởng, tưởng tượng cũng là một trong những ưu thế trong tố

chất văn chương Trần Chiến. Từ những quan sát, chiêm nghiệm đời sống thực

tiễn, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông hiện lên sống động, chân thực.

Những cuộc đối thoại trong tác phẩm khiến người đọc lúc thấy thú vị, lúc thấy

ấm ức, lúc thấy phẫn nộ, lúc lại thấy xót xa, tê dại. Hoặc việc ông để cho các

nhân vật trong tiểu thuyết của mình bị ám ảnh về những bờ đê sạt lở, những ngôi

mộ, di ảnh,... cũng phản ánh khả năng liên tưởng, tưởng tượng sinh động của

tác giả.

Khi đi sâu vào những vấn đề của quá khứ, nhà văn cũng cần phải có một trí

tuệ sắc bén để tiếp cận những vấn đề phức tạp của lịch sử, một khả năng ghi nhớ

những sự kiện, những biến cố, những phong tục tập quán của nhân dân. Ở

phương diện này, Trần Chiến cũng đã có những thể nghiệm thành công khi ông

26

viết về văn hóa làng quê, văn minh đô thị,... với nhiều tầng bậc liên kết với nhau

một cách chặt chẽ trong một chỉnh thể thống nhất.

Có thể nói rằng, ở Trần Chiến, các yếu tố hình thành nên tư chất của nhà

văn khá rõ. Từ những phương diện chủ quan, khách quan của đời sống gia đình,

của đời sống xã hội và của năng lực cá nhân đến những dấu ấn sau này trong

tiểu thuyết của ông đều cơ bản được bộc lộ. Từ những vấn đề trên, chúng tôi tìm

hiểu và đã phát hiện thấy những dấu ấn đậm nét trong phong cách nghệ thuật

tiểu thuyết Trần Chiến, đó là các nguồn cảm hứng, cách tổ chức cốt truyện và

phương thức xây dựng nhân vật.

1.4.3. Nhà văn Trần Chiến và ba bộ tiểu thuyết

Trần Chiến đến với văn chương không sớm. Sự nghiệp văn học của ông tập

trung và thành công ở cả bốn thể loại: truyện ngắn, tản văn, chân dung và tiểu

thuyết. Tiểu thuyết của Trần Chiến cho đến hiện tại có ba cuốn và cả ba tác

phẩm đều được nhận được những giải thưởng khác nhau.

Tiểu thuyết Bốn chín chưa qua, Nxb Hội Nhà văn xuất bản năm 2000. Năm

2001 được giải thưởng Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

Tiểu thuyết Đèn vàng, Nxb Phụ nữ xuất bản năm 2002. Năm 2003 được

giải thưởng Văn xuôi Hội Nhà văn Hà Nội.

Tiểu thuyết Cậu ấm, Nxb Trẻ xuất bản năm 2015, sau đó ít lâu được nhận

giải tác phẩm “Bùi Xuân Phái – vì tình yêu Hà Nội” của báo Thể thao Văn hóa

2015 (chung với A đây rồi Hà Nội 7 món).

Bên cạnh sự ghi nhận bằng các giải thưởng, các tiểu thuyết của ông còn có

một sức sống riêng, tiềm tàng các giá trị, không dễ lẫn với các tiểu thuyết khác

và điều đó làm nên phong cách tiểu thuyết Trần Chiến.

Như chúng ta đã biết, tiểu thuyết là thể loại tự sự dài hơi với khả năng tái

hiện thời gian và không gian hiện thực rất lớn. Đến với thể loại tiểu thuyết, Trần

Chiến có những thuận lợi nhất định do 30 năm làm báo chuyên nghiệp, từ những

điều mắt thấy tai nghe trong vô vàn những chi tiết và sự việc mà ông khoác vai

27

phóng viên văn hóa xã hội. Đi sâu vào nghiệp báo chí, ngòi bút Trần Chiến ngày

càng thể hiện được tầm nhìn mang tính vĩ mô, những mạch chảy đời sống sâu

rộng về văn hóa, về lịch sử, về phong tục. Ở mỗi cuốn tiểu thuyết, Trần Chiến

đều có cái nhìn riêng về đời sống xã hội và tập quán trên cái mạch chủ đạo của

giọng điệu, của nghệ thuật ngôn từ và thế giới hình tượng của ông.

Trước khi đến với tiểu thuyết, Trần Chiến đã trải nghiệm qua truyện ngắn,

tạp văn và sau này là chân dung lịch sử. Đây là những yếu tố thứ hai để góp

phần củng cố niềm tin, tạo đà khi cầm bút. Tiểu thuyết không phải là truyện

ngắn mở rộng, tiểu thuyết với những đặc trưng riêng của nó đã làm nên một lịch

sử thể loại mà bất cứ một nền văn học dân tộc nào, quốc gia nào cũng không thể

đưa đóng góp của nó lên đầu bảng. Vì những giá trị riêng biệt của tiểu thuyết

nên có thể nhà văn đã chuẩn bị khá kĩ lưỡng hành trang nghệ thuật khi bước vào

thế giới của thể loại này. Đây cũng là sự phát triển tự nhiên của nhiều nhà văn

trong và ngoài nước, hơn nữa lại là cây bút với ba thập kỉ sống và viết với loại

hình báo chí.

Điều quan trọng hơn, có lẽ là năng lực viết và độ chín về tư tưởng, cảm xúc

của nhà văn bắt đầu cho phép ông đến với thể loại đầy mạo hiểm nhưng cũng

vinh quang này. Lịch sử văn học đã cho chúng ta thấy có những nhà văn chỉ

thành công ở một loại thể hoặc thơ ca, hoặc văn xuôi hoặc kịch ; trong văn xuôi,

có cây bút rất giỏi ở thể loại truyện ngắn nhưng sang thể loại tiểu thuyết lại

không thành công. Lịch sử văn học cũng cho ta thấy năng lực văn chương của

người sáng tác không phải lúc nào cũng phát triển từ khi còn thơ bé, thậm chí có

những cây bút chẳng bao giờ có ý đồ xây dựng cho mình một sự nghiệp văn

chương nhưng thực tiễn đòi hỏi họ viết và thực tiễn cũng công nhận họ là cây

bút có tầm cỡ, nhà văn có phong cách ưu tú,... Nguyên nhân viết văn và nguyên

nhân dẫn tới thành công trong đời sống văn học rất phong phú và đa dạng.

Chính điều đó luôn hấp dẫn các cây bút thử nghiệm mình, và chính điều đó sẽ

làm nên bề dày đa diện của văn học.

28

Đi tìm hiểu phong cách tiểu thuyết Trần Chiến, chúng ta sẽ lần lượt khai

thác các đặc trưng cơ bản nhất trong tiểu thuyết của ông trên các phương diện:

nguồn cảm hứng chủ đạo, cách thức tổ chức cốt truyện và phương thức xây

dựng nhân vật. Qua những phương diện tiêu biểu ấy, chúng ta thấy được sự vận

động không ngừng nghỉ của văn học - nghệ thuật nói chung, thể loại tiểu thuyết

Việt Nam đương đại nói riêng, trong đó có những đóng góp cá nhân của nhà văn

Trần Chiến.

Có thể nói rằng, những đặc trưng, những biểu hiện của phong cách văn

học và những nét cơ bản về cuộc đời, về tác phẩm cũng như những yếu tố hình

thành nên phong cách nhà văn Trần Chiến chính là những cơ sở lí luận và cơ sở

thực tiễn giúp chúng ta tiếp cận tiểu thuyết Trần Chiến một cách hiệu quả, khoa

học hơn. Từ quá trình làm rõ các đơn vị kiến thức, chúng ta đi đến khẳng định

sự xuất hiện phong cách tiểu thuyết Trần Chiến là có những căn cứ xác đáng, rõ

ràng và đầy đủ.

29

Chƣơng 2

PHONG CÁCH TRẦN CHIẾN QUA CẢM HỨNG,

CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT

2.1. Những cảm hứng chính trong tiểu thuyết Trần Chiến

2.1.1. Cảm hứng thế sự, đời thường qua ba tiểu thuyết Bốn chín chƣa qua,

Đèn vàng và Cậu ấm

Trong mối quan hệ với các thể loại khác thì tiểu thuyết vốn được coi là thể

loại chủ công khi tái hiện sinh động và toàn vẹn những bức tranh hiện thực một

cách hệ thống, hấp dẫn. Để làm được điều đó, nhà văn phải có cái nhìn thấu đáo,

đa chiều về cuộc sống. Giữa muôn vàn các sự việc và chi tiết tiêu biểu mà nhà

văn đã quan sát ấy, nguồn cảm hứng của nhà văn được phát huy, vùng thẩm mĩ

của nhà văn được xác định.

Cảm hứng thế sự đời thường không còn là một vấn đề mới đối với văn học

Việt Nam, đặc biệt là từ khi nền văn học dân tộc đã đi qua thời kì kháng chiến

và với sức sống nội tại trước sự đổi thay của hoàn cảnh lịch sử xã hội. Vốn là

nhà văn đã trải qua những giai đoạn chuyển mình đớn đau của chiến tranh, của

cải cách văn hóa, của phong trào xây dựng vùng kinh tế mới, cơ chế sản xuất tập

trung theo mô hình hợp tác xã,... Trần Chiến đã tiếp nối những dòng chảy của

quá khứ với hiện tại và tạo cho mình một không gian riêng với lăng kính cá nhân

của người nghệ sĩ sáng tạo.

Viết về vùng kinh tế mới Tây Nguyên trong tiểu thuyết Bốn chín chưa qua,

Trần Chiến không đi ngay vào những gì thuộc về chủ trương, chính sách hay

văn bản luật pháp nào đó như chúng ta thường thấy mà nhà văn lại dành hẳn 10

chương trong phần một để phản ánh về thực trạng nông thôn Bắc bộ truyền

thống với những tập tục, tập quán đặc trưng. Mở đầu tiểu thuyết là một cảnh bốc

mộ vào thời khắc đêm khuya buốt giá cuối năm 1985, một cảnh tượng được

miêu tả mà khiến cho những người lớn tuổi không khỏi suy nghĩ về lẽ sinh tử

30

của con người ta muôn đời nay. Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết chính là con

rể của người đàn bà được bốc mộ. Toán hiện lên như một người con hiếu nghĩa

khi tận tay mình mò hài cốt của mẹ vợ trong quan tài với sự khéo léo, cẩn trọng

của một người có chút năng khiếu nghệ thuật, vừa có sự dũng cảm của một

người nông dân mưa nắng.

Cái đời thường trong tiểu thuyết Bốn chín chưa qua cũng đã ẩn chứa ngay

những mảng tối của cuộc sống nông thôn. Sau khi bốc mộ, Toán bỗng nhiên

thấy lạnh kinh khủng, anh uống rượu về thẳng nhà và lăn ra ngủ đến tận tối, khi

tỉnh dậy, anh đội sụp mũ đi thẳng tới xóm Đông, vào nhà cô giáo Thơm dạy

trường mầm non trong làng, chồng hi sinh, đang nuôi con trai 5 tuổi. Chỉ đợi khi

vị khách của cô giáo về, Toán và Thơm đã môi má nóng bỏng tìm nhau trong

hối hả, họ vồ quấn lấy nhau mà không thèm đóng cửa. Toán hiền lành, anh chưa

bao giờ đánh vợ, chửi con. Thơm xinh đẹp, hội phụ nữ xã quý, đi đâu cũng nhắc

gương trung liệt,... Như vậy, nếu chỉ nhìn hình dáng, công việc và thái độ lao

động của Thơm và Toán thì người ta không thể hiểu đúng bản chất bên trong

của họ.

Cũng chính vì mối quan hệ bất chính một cách khá dễ dàng này mà người

ta dần nhận ra những nguyên nhân sâu xa trong mối quan hệ gia đình, dòng họ,

làng trên xóm dưới trong tiểu thuyết. Về gia đình, Toán hầu như lúc nào cũng

yên tâm vì vợ anh - Xuyên quá ổn định, thằng Téo và con Tèo là hai đứa con

đang lớn dần, bố vợ - ông Năm hiền lành lại có thêm nghề tò he và ở nhà riêng,

bố mẹ đẻ đã qua đời, họ hàng thì cũng xa dần. Xã của Thơm và xã của Toán chỉ

cách nhau một cánh đồng, ông bà rồi bố mẹ đẻ ra Thơm đều là người dân ngụ cư

và cũng đã mất cả.

Sự lặp đi lặp lại của mối quan hệ ấy đã dẫn đến sự sụp đổ trong cấu trúc gia

đình chính thức của Toán. Nhà văn tập trung vào sự ham muốn trong quan hệ

vụng trộm giữa Toán và Thơm như một nguyên nhân quyết định cho sự vận

động và biến đổi của nội dung. Toán tìm đến thơm vì đẹp, vì nồng nàn trong

31

quan hệ, điều này khác hẳn với vợ anh. Thơm luôn tìm mọi cách để có Toán ghé

thăm vì Toán phong trần, hóm hỉnh không như đám đàn ông trong thôn, cán bộ

trong xã trông cứ hèn hèn thế nào,... Khi sự việc vỡ lở nghiêm trọng, lan ra làng

xã thì những gì của nông thôn cũng lại bùng lên dữ dội. Xuyên chì chiết, hờn

giận. Toán cảm thấy hối lỗi, sợ sệt. Ông Năm vừa khuyên bảo con gái nhưng

cũng có những dấu hiệu tỏ ra đồng cảm cho con rể. Làng xóm có dịp củng cố

thêm về nhân cách của Thơm, nào là những đồ đĩ, không biết giữ thân, thài lài

gặp cứt chó,... càng được rộ lên và họ coi thường, khinh bỉ Thơm ra mặt.

Khai thác xung đột gia đình, ngòi bút của nhà văn không hướng tới nỗi cực

nhọc về việc kiếm tiền mặc dù cuộc sống lúc đó vô cùng khó khăn. Chính vì bi

kịch gia đình tan vỡ không phải là do gánh nặng cơm áo gạo tiền nên nó cứ âm

thầm, dai dẳng mà hạt nhân trung tâm của vấn đề là ở chỗ: Toán thấy mình có

tình cảm đẹp với người tình nên muốn giữ, nhưng lại muốn giữ cả gia đình êm

ấm mà anh đang có. Anh vừa đắp sửa những rạn nứt trong tình cảm gia đình với

Xuyên, vừa muốn đường hoàng tận hưởng tình yêu với Thơm. Sự tham lam ấy

của Toán không thể tồn tại lâu được, nhất là khi anh đang sống trong xã hội

nông thôn truyền thống.

Cái độc đáo trong điểm nhìn của nhà văn ở phần đầu tiểu thuyết Bốn chín

chưa qua là như thế! Bi kịch gia đình là bi kịch tinh thần, bi kịch ấy lại là do

những ham muốn thỏa mãn tình cảm, tình dục từ người chồng chứ không phải

người vợ. Trong cuộc sống, chúng ta thường thấy, khi người đàn ông ngoại tình,

họ thường về kiếm cớ gây chuyện chửi vợ, nẹt con để lấp liếm hành vi không

chính đáng hoặc quyết tạo ra nguyên cớ từ bỏ gia đình của anh ta, nhưng ở đây

Toán không hề là một người chồng như thế, anh vẫn yêu các con, vẫn nhìn vợ

bằng ánh mắt vừa sợ hãi vừa thương hại. Thông thường, người đàn ông ngoại

tình khi nhận diện được sự sai phạm của mình thì họ thường cải tà quy chính để

trở về sửa chữa những lỗi lầm nhưng ở đây Toán, ngoài những lúc tỏ thái độ

sám hối thì bóng hình người tình vẫn không hề nguôi ngoai trong anh và anh vẫn

âm thầm, lén lút sang làng Đông với Thơm. Vì thế, toàn bộ phần một của tiểu

32

thuyết xoay quanh một cuộc tình vụng trộm ở một làng quê và kết thúc bằng

một cuộc bỏ trốn tới một vùng đất mới.

Sang phần sau - Đất mới, tiểu thuyết Bốn chín chưa qua đã dành 19 chương

để phán ánh những biến động âm thầm mà dữ dội của vùng đất Tây Nguyên xã

xôi. Trần Chiến vẫn tập trung vào khai thác cuộc sống của Toán và Thơm nơi

đất khách quê người. Cũng từ phần hai, khả năng tái hiện cuộc sống của tiểu

thuyết được phát huy cao độ. Những góc khuất của cuộc sống được phơi bày

nhiều hơn, những gì thuộc về con người cá nhân cũng được trải nghiệm qua

những môi trường mưu sinh đầy cam go, thử thách. Toán và Thơm trở thành vợ

chồng mà không cần giấy chứng hôn. Vợ chồng Toán sống nhờ gian bếp của gia

đình ông Hiếu - ông anh họ của Thơm làm tuyên huấn ở huyện ủy Tân Bắc.

Thơm rất sợ bà Lành vì bà chị dâu ấy chúa ghét cái loại cướp chồng thiên hạ.

Còn Toán khóc thương nhớ hai con đến nhàu nhó tấm ảnh.

Mối quan hệ xã hội của nhân vật Toán được mở rộng khi anh đi làm thuê,

làm mướn theo mùa vụ để nuôi sống gia đình mới của anh đang phải đi ở nhờ,

còn vợ của anh đang vừa phải nuôi con thơ vừa phải mua sắn về làm bánh rán

đem bán ngoài đường chợ mỗi sáng. Thông qua việc Toán làm thuê cho trưởng

phòng thương nghiệp Lê Hữu Quyền, người ta mới hiểu được ông sao lại có

nhiều tiền đến vậy, dựng nhà hai tầng toàn bằng gỗ thông dầu quý. Tiếp đến,

Toán nhập bọn với Cung "xồm" trốn trại từ ngoài Bắc vào cùng mười người thợ

xẻ vốn là nông dân từ Nghĩa Đàn trở thành nhóm lâm tặc. Từ việc miêu tả hành

trình của của nhóm người khai thác gỗ trái phép, nhà văn giúp người đọc nhận ra

những mâu thuẫn về quyền lợi giữa các thành viên trong nhóm, sự ác độc và thủ

đoạn của trưởng nhóm cũng như những khó khổ, thậm chí phải đổ máu của bản

thân mỗi cá nhân trong nhóm khi phải đối mặt với khí hậu lạnh lẽo, những nguy

hiểm của rừng sâu và sự vây bắt của pháp luật.

Hiện thực cuộc sống còn được Trần Chiến tái hiện ở nhiều góc cạnh trong

tiểu thuyết. Thơm, trong khi bụng mang dạ chửa ngồi bán hàng mà vẫn bị lão

33

Viên - tên quản lí chợ gạ gẫm trăng hoa. Những hẻm ngách của cuộc đời cứ lần

lượt hiện ra với bao điều đáng phải suy ngẫm. Nhận được tin bố vợ mất, Toán

vượt qua sự đấu tranh, anh vẫn quyết tâm ra Bắc bởi vì trước sau ông cụ có bao

nhiêu nghĩa với anh. Quê hương dù nghèo nhưng vẫn là quê hương, gia đình dù

khuyết vế thì vẫn là gia đình. Toán trở về mang nhiều nỗi niềm của kẻ bỏ vợ con

đi xa xứ, nhưng điều khiến người ta cảm động chính là ở nhà vẫn giấu làng

chuyện anh theo gái góa trốn vào Tây Nguyên. Gặp lại vợ con, họ hàng và được

nghe những câu chuyện liên quan tới người đã khuất, kể cả những chuyện liên

quan tới Thơm, anh tự cảm thấy sợ khi phải đối mặt với những nấm mồ và

những di ảnh họ hàng ba bên.

Toán trở vào Tây Nguyên sau khi đã bán nhà của Thơm và mang theo

thằng Téo trong nỗi đau nghẹn nấc và thỉu đi không còn khóc được nữa của

Xuyên. Gia đình lại một lần nữa chia li. Cảm xúc ngày một lì trơ hay nỗi đau

quặt thắt trong những gia đình không thể hòa hợp? Tác giả Trần Chiến cứ lần

lượt trình bày các sự việc, các tình tiết của cuộc sống trong thời buổi đất nước

còn nhiều khó khăn. Nguồn cảm hứng mà nhà văn tạo dựng nó chứa đựng nhiều

tâm sự kín đáo về thời thế. Những người đàn ông và quyền lực trong gia đình,

những người phụ nữ thuần hậu đến nhu mì, những người đàn bà nồng nàn tình

cảm mà phải đơn côi, những đứa trẻ khi phải sống với một vế phụ huynh, những

cán bộ huyện, những kẻ quản lí chợ với những mánh khóe, những tên tù trốn trại

thành kẻ cầm đầu xã hội đen, những người nông dân đói khổ phải bỏ quê hương

bản quán để theo đuổi nhiều kiểu làm ăn ở cái nơi mà họ hi vọng có thể làm cho

họ đổi đời.

Những ẩn số của cuộc sống đời thường cứ hiện lên một cách tự nhiên trong

các trang tiểu thuyết. Dõi theo những bước đường của nhân vật, người đọc càng

thấy thấm thía những cảnh đời khốn khổ và tinh thần của họ. Tích lũy được ít

tiền, Toán bàn với Thơm mua xe máy vì nhà nước đi lên từ các ngành kinh tế

mũi nhọn. Mũi nhọn của nhà ta là xe ôm em ạ. Sau những chuyến chở hàng, chở

khách, Toán bị cướp xe nơi rừng sâu trong đêm tối, may có người K‟ho cứu

34

giúp. Khi anh nhúc nhắc đi làm được thì cũng là lúc Thơm trở dạ và vỡ ối trong

một đêm giá lạnh. Khó khổ chồng chất khó khổ và nếu không có một tinh thần

vững vàng thì chắc cả gia đình mới của anh tan vỡ. Sau một thời gian, với sự nỗ

lực của anh và Thơm, kinh tế gia đình đã hồi phục trở lại, hai người vay mượn

thêm để mua một mảnh vườn để kết thúc cuộc đời làm mướn và cũng phải cho

Téo (Minh) nghỉ học để phụ giúp Toán làm vườn trong sự băn khoăn vì Minh

học khá.

Điểm nhìn về cuộc sống đời thường của nhà văn trong tiểu thuyết còn

chính là ở những điều bất ngờ luôn mang đến cho bạn đọc. Toán mua được

mảnh vườn mới nhưng trong sự bấp bênh vì đất ấy đã qua nhiều chủ, khi nào

nhà nước thu lại thì xác định là đất không. Vườn đất ấy không ngờ lại nằm trong

sự quản lí của trưởng thôn Lò Văn Thuận có biệt danh Vua Mèo, khét tiếng với

những luật riêng của núi rừng làm Toán phải hết sức tỉnh táo và linh hoạt để cư

xử, đối phó. Toán đến nhà trưởng thôn thưa chuyện mua vườn lại của gia đình

ông Trực và bất giác anh phát hiện ra Thuận buôn bán gỗ quý trái phép đằng sau

cái chiêu trò đem giọng chính quyền trấn áp kẻ mới đến. Bố con Toán làm cái

lán tạm bợ để cải tạo vườn hoang, ba mẹ con Thơm vẫn ở nhờ gian bếp của gia

đình ông Hiếu. Cuộc sống có ai ngờ, rời bỏ quê hương vào đến đây rồi mà vẫn

còn phải sống xa cách. Xa mặt thành ra cách lòng, Toán với bản năng, tâm tính

của người đàn ông đã bất ngờ phải lòng cô Mùi bán thịt ở cùng xóm vắng. Toán

thật không ngờ Mùi quê ở Bắc Giang bỏ làng vào Tây Nguyên đây, một mình

nuôi con đã được hai năm. Mùi vào Tây Nguyên không phải vì gia đình cô

nghèo túng mà do các cụ đuổi đi vì chửa trước, tác giả của cái thai trong bụng

cô cũng phải chạy làng vì sợ điều tiếng. Có tối tại nhà Mùi, Toán bất giác giật

mình, hóa ra trưởng thôn Thuận cũng thường xuyên qua lại chỗ Mùi. Chính do

sự phát hiện ấy của Toán mà từ đó anh lại phải gặp nhiều khó khăn do Thuận

cậy quyền hạch sách, nhũng nhiễu.

Càng về cuối cuốn tiểu thuyết, hiện thực cuộc sống càng được dồn nén đậm

đặc hơn, đưa người đọc liên tục đến những điều bất ngờ tưởng vô lí mà lại có lí.

35

Nhờ phát triển kinh tế vườn chuyên canh, Toán sắm được máy xay xát, bố con

anh khá vất vả vì khách rất đông thì trưởng thôn Thuận lại tìm mọi cách để tịch

thu máy xát. Toán phải nhờ đến ông Hiếu tuyên huấn báo sang cho Viện kiểm

soát đưa vụ Thuận buôn bán gỗ pơ-mu trái phép xuống xã thì Toán mới được

yên. Công việc xay xát của Toán tuy mệt nhọc nhưng Mùi còn vắt kiệt sức anh

trong những đêm gặp gỡ. Thế rồi, chuyện chung chạ đến tai Thơm. Một buổi

chạng vạng, đang dở bữa bên nhà Mùi, Toán cứng hàm thấy Thơm đi vào. Anh

luýnh quýnh suýt rơi bát, không nói được câu nào, hết nhìn vợ lại đưa mắt sang

Mùi mặt mũi cũng đang thất sắc. Thơm đã trực tiếp xử lí bằng cách riêng của

chị. Đời sống vợ chồng cũng từ đó chỉ còn là nghĩa vụ, và tình hình đó kéo dài

tới tận nửa năm cho đến khi Toán phải ra Bắc vì trận ốm nặng của vợ,... Như

vậy, nhà văn đã xâu chuỗi rất khéo léo nhiều chi tiết và sự việc nhức nhối về

cuộc sống ở mảnh đất tưởng như lòng tốt của đồng bào vẫn còn cao như núi, sâu

như suối kia nhiều điều đáng phải suy ngẫm. Từ chính những điều đó nó cũng

báo hiệu sự đổi thay khi xã hội đang chuyển mình sang cơ chế mới, với những

cuộc di dân mới.

Những trang tiểu thuyết cuối cùng, vợ chồng Toán đã xây được ngôi nhà

gạch đổ mái bằng ở sườn đồi, mặt quay ra mé đường. Trong nhà, gian giữa bên

trên có bàn thờ lục thân phụ mẫu và bố cu Tí. Bức thứ tám là người phụ nữ còn

trẻ nhưng héo hon, đôi mắt buồn nghiêm nghị nhìn xuống cả nhà. Xuyên ra đi vì

một lí do khá bất ngờ, trong một lần đi tưới rau, chị dẫm phải mảnh sắt gỉ, lên

cơn uốn ván. Toán bỏ dở vụ cà phê, vác một cục tiền ra và chỉ kịp chăm vợ

những ngày cuối cùng. Tang lễ được cử hành trọng thể, ma chay đủ đầy. Toán

nhờ ông chú trông nom mồ mà, hương hỏa rồi dẫn con gái Tèo (Mẫn) theo mình

vào Tây Nguyên. Toán đã là ông chủ ấy vừa làm vừa chỉ huy ba người thuê hái

cà phê. Năm ấy, cà phê được nhiều, kinh tế gia đình khá hơn nhưng giữa lúc ấy,

sức khỏe của Toán giảm đi rất nhiều, rồi anh đột ngột ngã bệnh. Toán được bệnh

viện trả về với những khuyến cáo tránh lao động nặng và xúc động mạnh. Toán

nghĩ lại cuộc đời mình, thầm cảm ơn Trời đã độ để thắng được Vua Mèo mà

36

phất lên. Hôm nay chúng mình rời Bắc được sáu năm tròn ; Anh cũng sắp ra

Bắc thi vào trường Điện ảnh đây,... Đó là những dấu hiệu thường thấy của một

người đang trong cảnh ngộ gần đất xa trời. Ba ngày sau, Toán ra đi chưa đầy

bốn mươi chín tuổi. Đám ma không nhiều tiếng khóc. Mộ của anh bên cây dầu

lực lưỡng xanh lá bốn mùa. Thơm dự định tới ngày 49, cô sẽ đặt một tấm bia lên

mộ anh và băn khoăn có nên khắc thêm mặt sau dòng chữ Chết vì đã sống quá

nhiều theo ý dặn dò của anh không.

Như thế, tất cả những diễn biến về gia đình, về bản thân Toán khi kinh tế

hồi phục đã diễn ra khá nhanh chóng, gấp gáp và nhiều bất ngờ. Dường như khi

cuộc sống bước vào giai đoạn sung sướng hơn thì cũng đồng nghĩa với sức khỏe

suy sụp nhanh hơn. Phải chăng, cuộc sống lao động luôn để lại những giá trị mà

qua đó con người ta khẳng định được tên tuổi của mình? Thành quả làm việc là

hoa trái ngọt ngào mà quá trình làm ra thành quả ấy lại là những chùm rễ vô

cùng đắng cay và khổ nhục. Đôi khi hoa trái không được như ý muốn, có phải

chăng nó đã không được sống với đúng môi trường của nó, hoặc không đủ mạnh

để bứt phá, để được thực hiện đúng chức năng sinh tồn của nó. Những suy tư thế

sự từ cuộc sống đời thường, những diễn biến bất ngờ từ tiểu thuyết Bốn chín

chưa qua luôn mở ra cho người đọc nhiều suy nghĩ về kiếp người, lẽ sinh tử,

cách thức để sống cho ý nghĩa hay chỉ tồn tại như áng mây trôi.

Ở tiểu thuyết Đèn vàng, cũng với cảm hứng thế sự đời thường, nhưng tác

giả Trần Chiến hướng cái nhìn của mình về những người trí thức ở một nghề cụ

thể, tại một cơ quan cụ thể. Nghề báo chí, cơ quan thường trực tại Hà Nội. Tờ

báo trong tiểu thuyết là báo Ngôi sao - tiếng nói đại diện của Thủ đô. Như chúng

ta đã biết, nếu xét về mức độ cập nhật thông tin thì nghề báo rất đậm chất đời

thường với những sự việc nóng hổi, dễ tạo được những ấn tượng mạnh cho công

chúng. Nhưng nếu xét ở khả năng phản ánh một cách tầm cỡ, quy mô về cuộc

sống thì phải có sự can thiệp của thể loại tiểu thuyết văn học. Trần Chiến với ba

thập kỷ cầm bút cho báo Hà Nội mới - một tờ báo lớn và có uy tín của Hà Nội,

được thành lập ngày 29 tháng 1 năm 1968, có trụ sở ở số 44 Lê Thái Tổ, phường

37

Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây cũng là một thuận lợi nhưng cũng

là một khó khăn rất lớn cho Trần Chiến. Thuận lợi là nguồn tư liệu sống rất dồi

dào, được đi đây đó nhiều, được tiếp xúc với cảnh vật và con người ở nhiều nơi,

các kỹ thuật, quy trình làm báo khá tượng tận. Khó khăn đó là hệ thống các

thuận lợi đó vào văn học một cách nghệ thuật, mang hình tượng thẩm mĩ cao,

đem đến cho người đọc những vấn đề tươi mới như vừa mới xảy ra đâu đó. Nếu

không xác định đặc trưng của tiểu thuyết thì tác giả sẽ bị ảnh hưởng rất lớn từ

công việc đã quen tay mấy chục năm ; cũng như không có bản lĩnh, tư duy và

cảm xúc của người nghệ sĩ sáng tạo văn chương thì tác phẩm sẽ trở thành một tổ

hợp về các sự việc và chi tiết tiêu biểu đã qua.

Trần Chiến đã bứt phá thành công những rào cản của thể loại, những đánh

giá cá nhân về nghề báo đã từng gắn bó sâu nặng một thời với ông để cho tiểu

thuyết Đèn vàng của mình thực sự là một tiểu thuyết văn học đáng để đọc. Thoát

li khỏi những dấu ấn của sự mô phỏng, phản ánh, bình luận, ngay những trang

đầu của tiểu thuyết, độc giả đã đến với một phiên họp giao ban vào mỗi sáng thứ

hai hằng tuần tại tòa soạn. Tổng biên tập Lương Đức Lập, Thư kí tòa soạn Bùi

Hữu Quốc và các tổ, các phòng ban. Tuy quy định nghiêm ngặt nhưng các cuộc

giao ban ấy ít khi đông đủ. Những ề à, trà nước, chờ đợi,... trước khi vào cuộc

họp được nhà văn miêu tả rất đời thường, nó gợi cho chúng ta liên tưởng tới rất

nhiều các cuộc họp hành, giao ban ở nhiều ngành, ở nhiều địa phương. Rồi mọi

ý kiến cuối cùng cũng liên quan tới tiền.

Có lẽ, trong suốt chặng đường dài song hành cùng báo chí nên ngay những

trang văn đầu tiên, tác giả đã tái hiện một không khí nóng hổi của một cơ quan

phụ trách truyền thông tin tức chính thống của thủ đô. Miêu tả cuộc họp giao

ban, Trần Chiến đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa một bên là mục tiêu nhiệm

vụ và một bên là hình thức phản ánh ; giữa tính chất họp hành của một cơ quan

và nội dung thực tiễn cuộc họp. Trong cuộc họp ấy, mọi nhẽ thường tình của

nghề, của đời cứ được bộc lộ tự nhiên như bao nhiêu năm vẫn họp hành. Những

công thức viết bài, đưa tin: Đại hội Đảng bộ thì khó khăn - khắc phục - thành

38

công, thảo luận sôi nổi, biểu quyết nhất trí ; hội thi thì vụ này phải khen ban

giám khảo cứng vía trước mọi sức ép, vụ kia thì lấy làm tiếc rằng..., hoặc sẽ

xứng đáng hơn, nếu... Cũng ngay những trang văn đầu tiên, Trần Chiến đã hé

mở những kĩ thuật phản hồi theo mẫu sẵn Chúng tôi đã nhận được ý kiến phản

ánh của quý bạn đọc. Chúng tôi sẽ thẩm tra, xem xét sự phản ánh đó để cân

nhắc, sử dụng. Trân trọng cảm ơn và mong được cộng tác tiếp tục. Báo Ngôi

Sao, mỗi ngày chỉ cần điền ngày tháng và địa chỉ, tòa soạn gửi hàng chục lá thư

in sẵn như thế. Đã là cuộc sống đời thường nên tất cả những gì thuộc về cuộc

sống ấy đều được nhà văn thể hiện khá sinh động từ những con người trong cơ

quan đến những đặc thù nghề nghiệp, những tâm sự nghề nghiệp, những tính

cách trong lập luận và phản biện. Khắc tính nóng nảy, phải đi lại nhiều với dân

thể thao được ví là ông Thiên lôi trong phản biện với cách phê bình làm người ta

không tiếp thu được. Xuyên, người nhà của Tổng biên tập - chậm chạp, nặng nề,

hạn chế về mặt Hán tự. Tổng biên tập Lập giữ lối xử thế đã thành bản lĩnh, là

không để ai mất lòng. Vĩnh - nhà báo có lương tâm, hiểu biết, được Lập bảo anh

Vĩnh đến là cuộc họp của chúng ta thành công,... Như vậy, không phải cứ ở một

cơ quan ngôn luận đặc biệt của thành phố trung tâm thì không có chuyện họp

hành lúc nào cũng nghiêm túc, không có cơ chế người nhà, mọi thành viên đều

được thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích của báo chí.

Những vấn đề tồn tại của đời sống báo chí được nhà văn bộc bạch một cách

thẳng thắn dù dùng cách nói xa hay gần, trực tiếp hay gián tiếp. Họp hành thì đi

muộn, ăn theo, nói leo, về trước. Viết bài thì tôi chả cần đi, cứ ở nhà cũng viết

được tin như các anh. Nhưng đi thì hơn vì có phong bì. Viết gì thì viết, điều đầu

tiên phải tránh những sai phạm về chính trị, khác đường lối thì coi là công việc

nội bộ. Những kỳ cuộc nhất trí cao, nhất định phải đánh giá từ thành công đến

thành công rực rỡ. Làm nghề báo, khi những vấn đề gai góc, nhức nhối hay một

vấn đề tâm huyết mà không được đăng thì hãy xác định ấm ức là chuyện vặt,....

Phải chăng đó là những góc thật sâu trong nghề báo chí, nó đã và đang làm cho

báo chí thực hiện tiếng nói ngôn luận rơi vào tình cảnh nhạt nhẽo, ảm đạm ; các

39

cơ quan đặt báo cũng chỉ vì thực hiện theo công văn, hướng dẫn của cấp trên?

Và như thế, ngay chương đầu, bạn đọc còn nhận ra một góc sâu kín nhất, đã đúc

kết thành cốt tử đó là: Nó đảm bảo cho tờ báo tồn tại, ban biên tập vững ghế, và

trước hết, yên ổn cho người cầm bút. Đến báo chí với những quyền lực mạnh mẽ

trong đời sống xã hội mà còn thế thì các ngành khác sẽ như thế nào trước những

sự việc nan giải, những nhập nhằng trong quy định tuyển dụng, quy trình bổ

nhiệm, quy chế cơ quan.

Dám nhìn thẳng vào sự thật, vào những điểm yếu trong ngành, trong cơ

quan, tiểu thuyết Đèn vàng còn là môi trường cho những vấn đề nhức nhối tồn

tại trong xã hội bấy lâu nay được lên tiếng, chân dung của người cầm bút hiện

lên một cách tự nhiên, sinh động. Nhà báo Vĩnh, nhân vật được coi là trung tâm

của tiểu thuyết dường như đã thực hiện đúng vai trò là nhân vật quy tụ nhiều vấn

đề mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Điều đầu tiên dễ nhận thấy đó là việc anh

rất quan tâm đến đời sống của nhân dân, nhất là bà con nông dân ngoại thành.

Chứng kiến cảnh đê sạt lở ở xã Minh Tiến, mỗi sáng ra nhìn vạt cà chua trôi

xuống sông một ít, lòng người như xát muối, tuy vượt qua ngoài phần mình phụ

trách nhưng Vĩnh vẫn nộp lên tòa soạn tin đất sông Cái lở trôi hoa mầu. Tuy hơi

khó chịu về cuộc điện thoại đánh thức mình vào lúc 11 giờ đêm nhưng Vĩnh sẵn

sàng suy nghĩ nghiêm túc về một thông tin từ một ông cụ nguyên là giáo viên

dạy Sử đã nghỉ hưu: Người ta sắp làm khách sạn Mây Tím bên bờ hồ đấy.

Dõi theo điểm nhìn và mối quan hệ của nhân vật trung tâm, dường như mọi

thứ của cuộc sống đời thường, đời sống cá nhân cứ theo trình tự mà xuất hiện.

Ngọc Xuyên khoe với Vĩnh về việc được đi dự Lễ động thổ khách sạn Mây Tím

và có phong bì. Vĩnh trăn trở viết bài về khách sạn Mây Tím nếu được xây dựng

thì sẽ gây ra những hệ lụy gì cho Hồ Gươm. Bài Thư đi Cali của anh viết chặt

quá không cắt được đăng số Tết nhưng lại không được khen vì bên Tuyên huấn

nhắc nhở phải hạn chế những bài chê địa phương mình. Trời đất bắt đầu vào

xuân, Vĩnh thoáng nghĩ đến người tình tên Thư một cách rất tự nhiên, rồi chuyển

hẳn sang tuổi trẻ và tình yêu của mình với Trâm - người vợ ăn đời ở kiếp của

40

anh. Những khó khăn trong buổi đầu kết hôn cũng như những nỗ lực vượt khó

của hai người cũng là những khó khăn chung của xã hội thời kỳ bao cấp. Vĩnh

nhận ra những hòa hợp trong gia đình không phải dễ khắc phục và anh cũng

nhận ra mình không có phẩm chất chung thủy, anh lần lượt nghĩ đến những

người tình của mình đã từng có quan hệ sâu sắc. Từ các mối quan hệ ấy mà Vĩnh

biết thêm về Tổng biên tập Lập có tính rất hay ăn vụng các nữ sinh viên với lời

hứa cho một chân phóng viên sau này. Đấy là góc khuất trong trái tim anh và

đồng nghiệp. Tệ hại hơn là Tổng biên tập lại giữ một chuyên đề ở trường Báo

chí với những bài giảng cực kỳ đạo đức.

Sắc màu đời thường được nhà văn tiếp tục khai thác ở nhiều mảng sáng tối

khác nhau. Trong những người tình của Vĩnh, có lẽ Lạc Thư là người mà Vĩnh

nhớ nhất và có mối quan hệ lâu dài nhất trong cuộc đời của mình. Vĩnh quen

Thư trong một đêm biểu diễn nghệ thuật ủng hộ đồng bào bị lũ lụt. Qua câu hỏi

của Thư dành cho ban tổ chức và qua lời bảo ban riêng của Vĩnh, người ta nhận

ra một thực tế xót đau đằng sau các chương trình nghệ thuật từ thiện: Cái đám

Tú Lam, Danh Linh ấy nó đòi“cát xê” hàng chục triệu mỗi đêm, ban tổ chức

nào dám mời. Lũ lụt không là cái đinh với chúng nó. Trong chuyến du xuân dọc

sông Hồng tháng Giêng năm ấy, những lỗ hổng trong giáo dục cũng được phơi

bày qua cuộc trò chuyện của mọi người trên thuyền. Biên soạn sách giáo khoa

thì vị nào cũng đòi phần tâm đắc của mình vào chương trình học nhưng không

đủ chỗ nên sinh ra sách tham khảo ; cô giáo ra lệnh thì con bộ trưởng giáo dục

cũng phải mua, vì thế trẻ thành phố giống như con lừa, đi lớp một đã vác cái

cặp hai cân. Rồi chuyện quy hoạch đô thị Hà Nội thì nhố nhăng, như cái tổ kiến

khổng lồ với những cánh tay cần cẩu xương xẩu bên những ngôi nhà cao tầng

đang lên dở. Thậm chí, người anh em của mình là báo hình Trung Ương cũng

đầy những xáo mòn mà người xem không cần nhìn cũng đoán được câu chuyện

đi đến đâu: “Chào bác”. “Chào cháu”. “Bác có khỏe không ạ?”. “Cám ơn

cháu, bác rất khỏe”. “Thế thì cháu rất mừng”. Thoại gì mà thoại thế!... ; cao

41

hơn là sự đàn áp về văn hóa khi phải phát sóng các chương trình không thể khơi

dậy những tinh hoa của văn hóa dân tộc.

Vĩnh giúp Thư và Ban biên tập mở chuyên mục Có nên trên báo Sự kiện &

nhân vật, qua đó tăng cường mối quan hệ, kiếm thêm thu nhập, xả những mối ưu

tư khi báo nhà không đăng được. Trong quá trình làm báo, Vĩnh nhận ra mối

quan hệ ghê gớm của nhà thơ Minh Tâm với một vị lãnh đạo cao cấp của Thành

ủy khiến báo nào cũng phải nể sợ mà đăng bài. Lập muốn Vĩnh giới thiệu một

chương trường ca của Minh Tâm để Chào mừng Đại hội Đảng sắp diễn ra.

Trước sức ép trực diện, trực tiếp của Minh Tâm và tổng biên tập Lập, anh với

cương vị phó ban phóng viên, phụ trách phần văn nghệ của báo buộc phải gạn

đục khơi trong với nhiều ẩn ức. Từ thực tế đó, cho thấy không phải cứ tác phẩm

đăng lên báo là đã hay, không phải biên tập viên nào cũng được thỏa nguyện khi

chọn bài. Văn chương có phải lúc nào cũng song hành với chính trị? Người làm

văn nghệ có thật vô tư hay đã có những thủ đoạn? Nguyên nhân khiến bạn đọc

mất dần niềm tin là gì?

Hết bổ nhiệm người nhà, Lập lại giới thiệu tình nhân. Cô Dung từ nhân

viên tạp vụ lên làm phóng viên. Dù nhiều ý kiến trái chiều nhưng cuối cùng

Tổng biên tập vẫn chuyển về phòng Nông nghiệp của báo. Sắc - một phóng viên

đậm chất đầu gấu đi cùng Vĩnh và Văn về điểm nóng Lệ Viên làm phóng sự về

việc đền bù đất đai. Không khí căng thẳng, vào ra nghiêm ngặt. Văn giao cho

Sắc sau hai ngày phải xong, Văn nộp cho Tổng biên tập nhưng không được

đăng. Vĩnh đấu tranh tư tưởng với rất nhiều thứ liên quan tới công việc của anh,

các bài vở gửi đến, các nhân vật trực tiếp đến gặp, gọi điện này nọ. Lập giao cho

Vĩnh một bài khó với mục đích lấy lòng một nhân vật mới trong Thành ủy phụ

trách cả vấn đề báo chí của cơ quan, trong khi đó Vĩnh vẫn trăn trở với Văn về

khách sạn Mây Tím. Đó là những sự việc tưởng rất đỗi đời thường nhưng lại

chứa đựng những gai góc trong đời sống tòa soạn mà không dễ dàng giải quyết

trong một sớm một chiều.

42

Trở lại quá khứ, tiểu thuyết viết về Tổng biên tập Lập. Anh quê ở khu IV

nghèo, cha và anh trai đều là liệt sĩ. Lập có một quá trình phấn đấu không ngừng

nghỉ để khi 50 tuổi được làm Tổng biên tập báo Ngôi Sao, cơ quan ngôn luận

chính thống của Thủ đô. Khi ở chức vụ cao nhất của báo, Lập bộc lộ những thủ

đoạn, những kế sách trong nghề, những ham hố xác thịt, những vụ ăn tạp và

những đấu tranh nội tâm dù không nhiều. Như vậy, có thể thấy vấn đề đặt ra

trong tiểu thuyết đó là khi một người chuyển sang vị trí đứng đầu một cơ quan

thì những năng lực, phẩm chất và những mánh khóe của người đó thường được

bộc lộ khá rõ. Cơ chế nào cho người đầu ngành, đầu cấp?

Trong tiểu thuyết, người ta còn nhận thấy một tình tiết cũng rất đỗi đời

thường đó là tình tiết Thanh là bạn của Thư, đã gọi điện cho Vĩnh giảng giải về

mối quan hệ giữa Vĩnh và Thư. Sau cuộc gọi, Vĩnh nhớ lại thời kỳ hai vợ chồng

vui sướng, hạnh phúc dù mệt nhọc. Cuộc sống giờ đủ đầy hơn nhưng cảm hứng

sống lại vơi đi nhiều. Cuộc sống gia đình Vĩnh với những chuyện đời thường mà

thành ra những cãi nhau vặt về việc con cái đi học thêm, những áp lực từ giáo

dục khiến anh rất khó chịu. Phải chăng đó cũng là một quy luật của đời sống khi

nói về hạnh phúc gia đình mà nhà văn muốn gửi gắm với xã hội hiện tại?

Cảm hứng thế sự đời thường trong tiểu thuyết Đèn vàng còn gắn liền với

những sự việc gây bất ngờ cho người đọc. Khách sạn Mây Tím, tuy đốt pháo

khởi công từ Tết nhưng cứ im lìm đắp chăn khiến người ta đặt giả thiết chủ đầu

tư vội vã, làm ăn kiểu chụp giật. Mãi đến sang thu, nhờ có công ty môi giới, tư

vấn nào đó mới tập trung máy móc trở lại. Những cụ già đi tập thể dục sáng bên

mép nước nhìn sang ngao ngán. Sau Đại hội Mỹ thuật ở Đồ Sơn, Vĩnh lại thấy

những thực tại ngán ngẩm về quy hoạch, kiến trúc đô thị. Thư và Vĩnh vẫn hẹn

hò và gặp nhau nhưng chưa bao giờ đi quá giới hạn cho đến khi đi chùa Vạn

Ứng về. Niềm đồng cảm đã dẫn họ đến nơi rất hợp cho những kẻ ăn vụng. Cuộc

đời và hoàn cảnh gia đình của Thư cũng nhiều phức tạp. Mẹ Thư rất thức thời,

bố Thư thì nhu nhược và những hệ quả của cách mạng văn hóa ảnh hưởng từ

43

Trung Quốc khiến bố mẹ Thư li thân. Thư lấy chồng, có một đứa con rồi sau đó

cô cũng li hôn.

Thêm một điều bất ngờ đó là Lập phải đến gặp Bí thư thành ủy để trao đổi

về người kế nhiệm. Lập phải hình dung lựa chọn để báo cáo nhân sự với bao nỗi

ưu tư về sự nghiệp, về đời sống riêng tư. Những cố gắng của anh để được ở lại

vị trí thêm 5 năm như người tiền nhiệm thật mong manh. Sắc cố nài Vĩnh đi dự

tiệc liên hoan Phường Hàng Bí mới nhận huân chương Lao động hạng ba về văn

hóa thông tin ở khách sạn Hồng Hoang. Ai ngờ chủ khách sạn lại là Nhân chồng

của Thư, anh làm ở công ti tư vấn Hưng Nguyên với quyền lợi khá cao. Sau bữa

tiệc, Nhân ngả bài luôn với Vĩnh nếu ngưng đánh khách sạn Mây Tím nữa,

Hưng Nguyên sẽ không quên ơn anh... chúng em mời anh chị với các cháu đi du

lịch Trung Quốc một chuyến. Vĩnh thật không ngờ Sắc lại nguy hiểm đến thế.

Nhân làm sao có thể biết được mình là tác giả bài báo Thư đi Cali ở Ngôi Sao và

Hồ Gươm còn một chút này đăng bên Nhân vật & Sự kiện. Nhân làm sao biết

được một cách hệ thống những việc Vĩnh cùng nhóm “Bèo dạt mây trôi“ đã làm

về vụ Hồ Gươm. Tệ hơn, nó đã phun cả vợ con mình. Vĩnh cảm thấy cả sự đe

dọa trong cách nhấn giọng của Nhân tới gia đình anh. Những đấu đá ngấm

ngầm trong nghề, những thủ đoạn kinh doanh cần bịt miệng các nhà báo chân

chính. Có thật là muốn làm nhà báo chân chính khó quá không? Những vấn đề

đời thường mà tiểu thuyết cứ lần lượt đặt ra đâu có thể nhắm mắt cho qua được.

Những mảng màu trong bức tranh đời sống tưởng ấn tượng nhưng nhìn kĩ lại rất

đen tối, nhức nhối. Những mối quan hệ càng ngày càng phức tạp, chồng chéo

của gia đình, đồng nghiệp và xã hội.

Không được như ý, Mây Tím bất ngờ tố cáo Vĩnh ăn tiền mấy kiến trúc sư

thua thầu vẽ khách sạn Mây Tím và phá hoại chủ trương thu hút đầu tư nước

ngoài của Đảng và Chính phủ nhưng bên nguyên đơn vẫn không được gì trước

thái độ và tài năng của Vĩnh. Vụ Mây Tím lan rộng làm khối người đau đầu.

Đúng lúc khó khăn thì việc Vĩnh - Thư gian díu đến tai Trâm, Ngọc Xuyên lại

nhảy vào bơm thêm vào đầu Trâm điều bậy bạ. Không khí gia đình Vĩnh căng

44

như dây đàn khiến Vĩnh phải tạm lánh đến cơ quan. Văn đến gặp Trâm nói

chuyện với hi vọng tình hình gia đình Vĩnh được cải thiện nhưng sự chuyển biến

theo hướng tích cực rất ít. Vĩnh lại bị bọn xấu chơi đểu khi có kẻ viết thư gửi về

trường cho con gái Nguyễn Thanh Tú của anh đang học lớp 11C trường Lê Lợi,

trong thư kèm theo tấm danh thiếp của anh vẫn dùng, ở mặt sau có ghi rõ số tiền

hát và uống bia ở quán là 180 nghìn với một chữ kí vớ vẩn. Rõ ràng, những thủ

đoạn tanh bẩn đã được đem ra áp dụng cho nhà báo chân chính đang cố gắng

phanh phui những lợi ích nhóm.

Vào mùa nóng nực nhất, khách sạn Mây Tím bị đánh tung xới từ Bắc -

Trung - Nam. Tài liệu thật của khách sạn bị phát lộ do mâu thuẫn nội bộ. Nhóm

Bèo dạt mây trôi quyết tâm đánh Mây Tím đến cùng. Gia đình càng bị khủng bố,

Vĩnh phải nhờ Văn để có sự giúp đỡ của công an hình sự. Cũng giống như tiểu

thuyết Bốn chín chưa qua, những trang cuối cùng của Đèn vàng cũng đầy bất

ngờ. Vĩnh trở về đoàn tụ cùng gia đình, Lương Đức Lập đã về hưu đúng tuổi dù

đã bao cúc cung tận tụy, thăm viếng, tỏ bày với cấp trên không chỉ phải bằng ý

nguyện được cống hiến tiếp tục, nhưng rõ ràng thời gian đến là giũ phắt. Liên

hoan chia tay trọng thể mà nhạt nhẽo, cỗ thừa ba mâm do phóng viên đi làm

nhiều. Đau ngấm ngầm, âm ỉ nhất là khi ngỏ lời với ban lãnh đạo mới của Ngôi

Sao một chân cộng tác viên, họ phải ngần ngừ: “Biết nhờ anh việc gì nhỉ?”.

Không phải họ nói đểu, vì Lập chừng ấy năm gạch xóa, chỉ thị, giờ mới biết rõ

mình không tường một li bếp núc phóng viên. Tiếp đến, do công luận được đánh

động bởi hai bài báo của Vĩnh, các hội Sử học, Kiến trúc, Bảo vệ di tích, rồi hơn

một trăm bài về cảnh quan Hồ Gươm trên đủ các mặt báo đã khiến Phó Thủ

tướng phải ký quyết định đình chỉ công trình khách sạn Mây Tím.

Có thể thấy trong lịch sử văn học tác phẩm văn học Việt Nam viết trọn vẹn

về nghề báo chí và người làm báo không nhiều, chưa muốn nói là hiếm hoi. Do

đó, tiểu thuyết Đèn vàng của Trần Chiến đã tạo được dấu ấn mới khi viết về

người làm báo và nghề báo chí. Tiểu thuyết đặt ra những vấn đề không dễ nhận

thấy trong ngành báo chí, những mảng tối trong xã hội thị thành và nông thôn

45

ngoại thành, những bất hợp lí trong giáo dục, những ảnh hưởng dai dẳng của cơ

chế cũ đối với một số gia đình, những ấm ức của người trí thức muốn sống hẳn

hoi nhưng lại ở trạng thái đèn vàng - giữa đi và cấm.

Tiểu thuyết Cậu ấm của Trần Chiến là tiểu thuyết thứ ba và là tiểu thuyết

dày dặn hơn cả. Tiểu thuyết xấp xỉ 500 trang được chia là bốn phần, mỗi phần

nhiều chương, mỗi chương nhiều mảng nhiều mục. Ra đời sau, tiểu thuyết Cậu

ấm dường như mang rất nhiều sức trẻ để đi qua nhiều không gian địa lí và thời

gian lịch sử của dân tộc. Mỗi một giai đoạn được đề cập trong tiểu thuyết là một

góc nhìn trầm lặng, là một nỗi niềm suy tư về đời sống xã hội, phong tục và

tập quán.

Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết đúng nghĩa là cậu ấm - Đỗ Như Vận.

Trong một ngày chủ nhật khi đất nước vừa giành được độc lập, vợ chồng Vận bế

theo con trai Như Tín đi hưởng ứng Tuần lễ vàng, ủng hộ Chính phủ Việt Minh.

Không khí những ngày độc lập đầu tiên thật nô nức, vui sướng, đâu đâu cũng là

đồng chí, anh em. Tuy nhiên nhà văn không đi sâu vào bề mặt mà ai cũng dễ

hình dung và nhận diện ra giữa phố phường cờ hoa buổi ấy với người người, nhà

nhà, quân đội, an ninh nghiêm ngặt, tươi vui ; Trần Chiến lại đi sâu khai thác

những mảnh đời thường nhật ở ngay trong cái không khí ấy. Trên chuyến tàu

điện Bờ Hồ - Hà Đông, mấy bà buôn thúng bán mẹt ngang ngược, láo xược nhảy

lên tàu rồi mà để quang gánh, hàng hóa bừa bộn lại còn đòi không phải trả tiền

vé ; đó là cậu bé dắt bà mẹ mù đi ăn xin bị ông soát vé cấm hát vì những bài hát

rong ấy đã cũ, Chính phủ giờ đã mới rồi ; đó là ông cụ cử Chén vẫn say sưa nhờ

treo dòng chữ Hán trên tàu mừng Đất nước độc lập,... Rồi việc bố cậu ấm biết

chuyện vợ chồng Vận hiến tặng cái kiềng vàng nặng một lạng, ông không hề

bằng lòng việc làm đó vì một phần vợ chồng cậu chưa xin phép ông, phần lớn

hơn đó là ông muốn biết chính quyền mới tài năng, đức độ của họ đến đâu,

muốn lập nên cái gì sau khi bỏ cái cũ đi, chứ không hẳn là ông đã tiếc, thậm chí

ông còn hiến tặng nhiều hơn thế nhiều.

46

Điểm nhìn của nhà văn không phải là những nóng bỏng của súng đạn chiến

tranh, những căng thẳng một mất một còn của thời vận mà là cuộc sống phía sau

của người dân, của gia đình giàu có, những trí thức của mảnh đất Thăng Long,

những thế hệ nối tiếp nhau đã âm thầm bảo vệ văn hóa Kinh kì, góp phần tạo

dựng văn hóa dân tộc đúng nghĩa nhân văn hòa hợp, phát triển cho dù họ có phải

trả giá, phải hi sinh nhiều lẽ thiêng liêng.

Trong tiểu thuyết, người đọc bắt gặp những người Pháp sang Việt Nam dạy

học rất tốt bụng. Đó là thầy Ănggiơli hiệu trưởng trường tư thục Pháp - Việt đã

tạo điều kiện đặc biệt cho Đỗ Như Thản (bố của cậu ấm) hồi đó được theo học

cấp cao hơn để Đỗ Như Thản sau này tốt nghiệp loại ưu và có học bổng. Đó là

thầy Misen hiền lành, đạo đức, hiểu biết. Trong cuộc nói chuyện với Như Thản,

thầy Misen thừa nhận Chúa đã mang tới tin lành, nhưng giặc lại núp sau bóng

Chúa, nhiều người Pháp sang đây tham lam, độc ác. Rồi mãi sau này là thầy

Erich Lơru dạy văn chương Pháp ở Cao đẳng tiểu học thuộc địa Hàng Chuối mà

Vận theo học. Thầy Erich Lơru đã cho Vận động lực lấy lại vị trí nhất nhì lớp,

đã gieo cho Vận lẽ sống tình thương, tập cho Vận biết khái quát lịch sử, xã hội

giữa lúc anh đang gõ cửa vào tuổi trưởng thành.

Đó còn là những người Pháp khác gắn bó với Vận một thuở ở biệt thự Hoa

Hồng của gia đình anh. Annhét, cô bé hàng xóm với Vận mỗi khi trốn ngủ trưa

là những trò chơi rất hồn nhiên của tuổi thơ. Khi Vận dọn chỗ của một người

Nhật mà gia đình buộc cho thuê hồi trước Cách mạng để mở quán Bún thang

Vườn hồng kiếm thêm thu nhập, thỏa mãn sở thích. Quán ăn ngon tới mức báo

chí viết bài, tướng Víchto Pháp tìm đến để thưởng thức, nửa tháng sau, Víchto

lại đến cùng người bạn là Bơnoa làm ở Viễn Đông Bác Cổ. Sau này, trong một

lần tiếp khách quốc tế, Vận đã được gặp lại Bơnoa tư cách lúc ấy là một nhà

khoa học đến từ Camphuchia vì rất yêu mến mảnh đất và con người nơi đây

nhưng cuộc chiến tranh không cho phép Bơnoa ở lại Hà Nội. Cả Víchto và

Bơnoa đều rất chân thành xin lỗi vụ việc lính Pháp đã giết bố của Vận. Sau này,

họ tìm ra nguyên nhân chính là do lính Pháp hiểu lầm và cả hai bên cùng nóng

47

giận. Khi Vận bị bọn phản động bí mật bắt giam, Bơnoa đã hứa với bà Hiền

Thục tìm mọi cách trả tự do cho Vận nếu Vận thực sự không phải là Việt Minh.

Những góc khuất mà tiểu thuyết hướng tới còn là hình ảnh những cô gái

vô tình trở thành nạn nhân tội nghiệp của cuộc chiến. Cô Bông, ít học, sống ở

bãi giữa sông Hồng, xóm ấy bất trị ấy gọi cô là phò Bông. Bọn tứ chiếng đôi khi

không có tiền trả bèn gán quần áo giày dép, me sấu kiếm được gán cho Bông.

Bông đem đến những địa chỉ bí mật đổi ra tiền. Có lần Vận và Dục đi tắm chỗ

cầu Long Biên về, Dục đã cứu Bông đúng lúc cô bị một lão trung niên chơi xong

không giả tiền, còn lấy quần áo của cô. Khi Cách mạng về, Bông bị một đội

quân tự vệ áp giải, những cú xô đẩy, những lời thóa mạ trên phố với bốn cô gái

khác, treo biển trước ngực với những nội dung ô nhục. Trong năm người, có

Bông và hai cô khác dường như trơ lì, vô cảm. Bông dường như ngạc nhiên vì

sao mình lại bị đối xử như vậy. Đó còn là trường hợp của cô Tuyết khi cùng Vận

đi phục vụ thương binh tại một trạm xá trên khu căn cứ địa. Tuyết lăn lóc đủ

việc của đàn ông mà lúc nào cũng tươi giòn. Rồi một đem văn nghệ để tăng

hiệu quả điều trị cho thương binh, Tuyết, Vận và những người liên quan bị bắt

giam vì có màu sắc tiểu tư sản ở đoạn hay nhất chương trình. Khoảng một tháng

sau, Tuyết lưu lạc đến vùng giao tranh giữa ta và địch bán cà phê. Cuộc sống

riêng thành ra phải chung chạ. Khi hòa bình trở lại, Tuyết lấy một anh thương

binh nhưng rồi phải lạy sống bố mẹ chồng bỏ đi vì không thể ở được nữa với

người chồng cay nghiệt. Trong cơ chế bao cấp, Tuyết một mình nuôi đứa con và

trở thành Tuyết phe ở chợ hàng Da.

Cái nhìn của nhà văn về những bất cập thường nhật trong mỗi giai đoạn

của xã hội đều chứa đựng nhiều điều khiến người đọc phải suy nghĩ. Hạt nhân

quy tụ của tiểu thuyết vẫn là cậu ấm Đỗ Như Vận. Từ Vận và các mối quan hệ

của anh, người ta sẽ thấy được những bất cập của cuộc sống. Khi Vận đi học

Cao đẳng tiểu học cũng là lúc anh phải chung sống cùng với thằng Chiêm con

bà Phú (họ hàng xa về nhà bà Hiền Thục) lưu lạc đã mấy đời trên Thái Nguyên.

Chiêm được gia đình Vận cưu mang ăn học nhưng lại luôn gây sự và chửi nhau

48

với Vận vì Chiêm cho rằng gia đình Vận là tư sản, bám theo Tây, Đầm. Và suốt

cả nửa cuộc đời của Vận, luôn có bàn tay Chiêm tìm cách gây khó khăn trả thù,

từ việc Chiêm mang về vườn sau biệt thự Hoa Hồng chôn giấu nhiều vũ khí, đến

việc nhẫn tâm giết thầy Lơru trước mặt Vận rồi lại tố cáo Vận không dám bắn

người Pháp, rồi đêm văn nghệ định mệnh ở vùng căn cứ địa,... Như vậy, bằng

cái nhìn quy kết, lợi dụng chính sách, Chiến đã giẫm đạp lên những giá trị rất

đỗi đời thường, thỏa mãn tư tưởng cá nhân của anh giữa thời cuộc nhạy cảm về

chính trị, về sinh mệnh con người.

Trong thời buổi kinh tế khó khăn, Như Ý - vợ của Vận đã trực tiếp xắn

tay cải tổ lại nhà in Dân Cường, điều hành việc kinh doanh rất hiệu quả, cải tạo

lại cách làm ăn cũ nát. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, Đất nước bị chia cắt làm hai

miền, người Hà Nội nhốn nháo việc đi hay ở nhưng vợ chồng Vận vẫn ở lại với

Hà Nội dù gia đình thừa sức vào nam. Con trai Như Tín đã lớn và đang tích cực

học tập cũng như tham gia các hoạt động sân khấu hóa những chính sách của

Chính quyền cách mạng. Biệt thự Hoa Hồng của vợ chồng Vận chỉ được giữ lại

một nửa, còn một nửa phải cho gia đình khác đến ở. Nhà in Dân Cường bị sáp

nhập với hai cơ sở khác để tạo thành một đơn vị sản xuất mới của thành phố.

Trong phong trào đấu tố địa chủ, vợ Vận cũng bị triệu đi để giải trình nhưng chị

lại thêm một lần nữa chứng tỏ mình là người phụ nữ thức thời, Như Ý nhẫn

nhục hết sức vì chồng, vì con dù tài sản bị gia đình biến thành của công và phải

dọn dẹp vệ sinh nơi hôi bẩn nhất của nhà máy,... Trong hoàn cảnh như thế, tiểu

thuyết đặt ra vấn đề dường như làm giàu ở thời buổi ấy là một cái tội vô cùng

khủng khiếp, nó khủng khiếp đến mức như mẹ của Chiêm ở trên Thái Nguyên

cũng bị người ta đem ra đấu tố và quy kết là địa chủ vì có nhiều đất khai phá

canh tác của ông bà để lại. Chính điều đó khiến Chiêm cảm thấy rất xấu hổ và

hối hận khi gặp lại Vận ở bến xe.

Tiểu thuyết còn nêu ra một hiện trạng khá nhức nhối về những con người

đấu tố địa chủ trong cuộc cải cách ruộng đất và cơ chế sản xuất tập trung, bao

cấp. Điển hình trong tiểu thuyết là nhân vật Bảng. Bảng ngày xưa bị Như Ý cho

49

thôi việc mấy bữa vì lười biếng và liên tục ăn cắp giấy ở nhà in Dân Cường của

gia đình Vận, được mấy hôm vẫn chứng nào tật ấy, Như Ý cho xuống quyét dọn

vệ sinh thì nay Bảng tố cáo Như Ý trước chính quyền mới là đã cướp mất bát

cơm manh áo của gia đình Bảng. Toàn bộ tài sản bị tịch thu, Như Ý từ địa vị bà

chủ phải xuống làm lao công dọn vệ sinh cùng cực nhất của nhà máy mà công

nhân thì nhiều người ý thức kém. Nhờ tố cáo Như Ý, Bảng trở thành chủ tịch

Công đoàn nhưng Bảng vẫn không nguôi đay chì, chửi bới, trù dập khiến Như Ý

bị trầm cảm nhẹ. Ở nhà máy, vì làm tập thể nên người ta rất tùy tiện và vung

phí: Lô mực chưa thấm đã cho chạy, in hỏng cả một đống giấy mới dừng lại ;

hút thuốc lào trong kho giấy. Bài bạc trước đánh đêm giờ công khai ban ngày ;

con gái nhà người ta hai tay đang bê khay mực, có thằng giời đánh chạy đến bóp

lấy bóp để ; khách hàng phản ánh nhà in sắp chữ nghiêng, chữ đứng không đúng

với bản thảo thì cãi lại chữ nào chả vậy với lại trí thức các ông giỏi vẽ chuyện

công nông chúng tôi chỉ cần đọc thế thôi. Báo cáo thành tích lúc nào cũng tốt,

tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Chả còn ai cạnh tranh ai cũng phải mua

làm gì chả tăng. Như vậy, tổ chức Công đoàn đã không chăm lo, bảo vệ được

quyền lợi hợp pháp cho người lao động lại còn tư thù cá nhân một cách dai

dẳng, quyết liệt. Đó là một sự đắng cay của cơ chế quan liêu. Hoạt động của nhà

máy đã bộc lộ sự vi phạm trắng trợn luật pháp và đạo đức, lãng phí nghiêm

trọng tài sản quốc gia, lãnh đạo sản xuất bảo thủ trì trệ. Điều đó đã kìm hãm dai

dẳng, tác động ghê gớm đến sự yêu kém nền kinh tế, văn hóa của cả một thời kỳ

mà bề mặt của nó có vẻ như yên ổn, đoàn kết, hòa hợp và thuận lợi.

Mặt trái của đời sống còn được tiểu thuyết đưa ra qua cái nhìn về những

gia đình sống chung trong một ngôi nhà. Khi Vận nhờ quà cáp chỗ quen biết

mới được chọn người đến ở cùng trong diện ưu tiên của chính sách, vợ chồng

anh quyết định đón gia đình Đằng (chủ yếu do Như Ý cũng muốn cảm ơn Đằng

xưa kia đã giúp Như Ý tìm Vận đang ở chỗ Tuyết vùng giáp ranh trở về nhà).

Hai vợ Đằng Tứ với ba người con ở tầng trên. Cuộc sống văn minh nay phải cố

gắng phải làm cho nó tụt hậu lại để không xa rời quần chúng, khỏi bị đem ra đấu

50

tố. Những vay mượn không nói đến trả, những tục tằn đánh cãi chửi nhau,

những thói sinh hoạt vô cùng bẩn tưởi,... Vợ chồng Vận phải ngậm đắng nuốt

cay vì sự vô ý thức của nhà trên bởi nếu động đến thì hóa rồ, hoặc lại vi phạm

giai cấp. Từ những người sống tạm bợ lang bạt, vợ chồng Đằng có nhà ở, có cơ

hội và leo dần lên những chỗ làm mới như những bà con thành phố đã sống bao

nhiêu năm.

Thời bao cấp, những người mua hàng hóa theo tem phiếu cũng được nhà

văn phản ánh cụ thể sinh động. Đằng sau vẻ văn minh theo trình tự phân phát,

mua bán ấy là sự nhộm nhoạm vị trí, là uy quyền của mậu dịch, là sự hống hách

của tạp hóa viên, của bảo vệ, của tâm lí đám đông. Chi tiết Vận đi từ 4 giờ sáng

để nhận chỗ mua hàng mà vẫn bị tranh cướp là một ví dụ. Tiếp đến là sự việc

Tín con trai Vận đi uống bia hơi với Đại ở nhà hàng Thủy Tạ và va chạm với

Bích kem lộng quyền, anh phải nhảy xuống Hồ Gươm mò lại cốc là một trong

những đỉnh cao của thời kỳ tem phiếu. Nêu vấn đề lên, nhà văn đã chỉ ra một

thực trạng ghê gớm đó là ai cũng biết sự vô lí đến cùng cực của cơ chế bao cấp

nhưng không ai dám lên tiếng, và một số kẻ vì tư lợi cá nhân cũng ùa theo cơ

chế đó như một sự chiến thắng của bình quyền, của dân chủ.

Cách tạo bất ngờ trong cảm hứng đời thường càng về cuối tác phẩm càng

lớn cũng được nhà văn duy trì ở tiểu thuyết này. Khi Bân con trai lớn của vợ

chồng Đằng, cũng là thành viên của nhà trên thân thiện nhất với nhà dưới lên

đường đánh giặc Mĩ ; Bảng xuống chào Như Ý, rồi bất ngờ thay mặt gia đình

mình xin lỗi về những điều không phải trong thời gian về đây chung sống. Điều

này khiến Như Ý vô cùng ngạc nhiên và cảm động, cô bèn đứng dậy mở tủ lấy

cái khăn len mình đan định tặng cho một cậu em cùng nhà máy cũng lên đường

đợt này tặng luôn cho Bân. Lên đường đánh Mĩ ở đợt sau là Tín con trai của vợ

chồng Như Ý. Cả hai đi được một thời gian thì gia đình Đằng nhận được giấy

báo tử, Bân đã hi sinh, rồi đến những điều ngu muội kêu gào của bà Tứ trong lễ

truy điệu cùng với ba người nữa cũng hi sinh ở chiến trường Tây Nguyên. Nhiều

tháng trôi qua, giữa bao nhiêu bom đạn phá hoại thủ đô, bao nhiêu người nằm

51

xuống ở các mặt trận mà vợ chồng Vận không hề nhận được một mẩu tin tức về

con trai của mình. Mãi trong khắc khoải mỏi mòn cho đến khi hiệp định vừa

được ký ở đâu đó thì Tín trở về - Mở cửa bố mẹ ơi. Con Tín đây!

Có thể nói rằng, tiểu thuyết Cậu ấm đã đặt ra rất nhiều vấn đề của cuộc

sống đời thường, những mảng màu phía sau của mỗi thời kỳ mà dân tộc đã đi

qua. Tiểu thuyết đã giúp chúng ta hình dung rõ hơn về bức tranh toàn cảnh của

đất nước trong suốt thời kỳ dài của thế kỷ XX, nhìn thấu hơn những lẽ sinh tử

trong chiến tranh, những đóng góp âm thầm của người trí thức cho văn hóa Hà

Nội xưa nay.

2.1.2. Cảm hứng về Hà Nội

Hà Nội với quá khứ rực rỡ qua bao nhiêu triều đại. Hà Nội hiện tại là thủ

đô, là trái tim của cả nước, nên địa danh này mãi luôn là một nguồn cảm hứng

bất tận cho bất kỳ người nghệ sĩ nào đã từng sống, thăm thú, thậm chí chỉ cần

biết đến thì Hà Nội cũng có thể được nhắc tới trong các sáng tác nghệ thuật của

họ. Người ta bắt gặp một Hà Nội trong tất cả các loại hình nghệ thuật. Nhưng có

lẽ, ấn tượng về Hà Nội vẫn thuộc về văn chương.

Trần Chiến lớn lên trên mảnh đất thủ đô cho nên những kí ức của ông về

Hà Nội vừa chứa đầy hiện thực lại vừa chan chứa cảm xúc. Hình ảnh thủ đô

được Trần Chiến thể hiện ở các góc độ khác nhau trong các tản văn (Hà Nội phố

và chợ, A đây rồi Hà Nội 7 món), mức độ đậm nhạt trong một số truyện ngắn và

trong tiểu thuyết. Cho đến hiện tại, Trần Chiến có ba tiểu thuyết thì có đến hai

tác phẩm thể hiện nguồn cảm hứng về đề tài thủ đô Hà Nội một cách mạnh mẽ.

Đó là Đèn vàng và Cậu ấm. Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi điểm những

nét cơ bản nhất của hai tác phẩm này.

2.1.2.1. Lịch sử và kiến trúc văn hóa Hà Nội qua một nhà báo.

Ở phương diện này, nhân vật đảm nhận thành công mạch cảm hứng đó

chính là nhà báo Nguyễn Vĩnh phó ban phóng viên, phụ trách phần văn nghệ

của báo Ngôi Sao trong tiểu thuyết Đèn vàng. Ở Vĩnh, bạn đọc luôn cảm nhận

52

được tình yêu của anh dành cho Hà Nội dù có lúc nồng nàn, có khi thoảng qua,

lúc trực tiếp, khi gián tiếp nhưng trước sau tình yêu ấy vẫn không hề đổi thay.

Tình yêu ấy là tình yêu dành cho không gian văn hóa Hà Nội. Chẳng phải Vĩnh

làm ở một tờ báo lớn của thủ đô, sống ở thủ đô mà yêu Hà Nội. Những yếu tố đó

vẫn chỉ là chất xúc tác cho phản ứng tình yêu Hà Nội trong anh hoàn thiện.

Trước hết là không gian lịch sử ngoại thành. Hà Nội, thành phố được bao

bộc bởi các dòng sông. Vĩnh rất lấy làm sốt ruột khi nhận được thông tin bờ đê

quai sông Cái ở xã Minh Tiến ngoại thành sạt lở liên tục, mà một tờ báo đại diện

cho tiếng nói của chính quyền và nhân dân thủ đô lại không phản ánh kịp thời.

Trước hiện trạng đó, dù không phải mảng mình phụ trách nhưng Vĩnh vẫn tranh

thủ buổi tối xuống thực tế gặp bà con, Vĩnh thấy mỗi ngày con sông lôi xuống

một ít vạt cà chua, một ít hoa mầu mà cũng thấy lòng người như xát muối. Vĩnh

hứa sẽ viết bài đưa tin cho thành phố thủng nhưng vẫn không được đăng, dù sau

đó một tuần lãnh đạo và các cơ quan liên quan của thành phố xuống Minh Tiến

và thấy không đơn giản là đê sông Cái sạt lở mà là sụt lở.

Vĩnh, trong phạm vi phụ trách luôn cố gắng hoàn thành chuyên mục để

xứng đáng với tờ báo của thủ đô. Đó cũng là một nét của không gian văn hóa trí

thức nơi làm việc. Anh rất lấy làm khó chịu, bực tức và cả cảm giác coi khinh

khi bị ép phải giới thiệu hẳn một chương trường ca của Minh Tâm trong chuyên

mục của mình phụ trách trên báo. Đó là những biểu hiện của lương tâm, của

trách nhiệm ở người cầm bút làm việc cho tờ báo lớn của thủ đô. Nếu không có

tình yêu Hà Nội thực sự chắc anh cũng không thể có được trạng thái ấy.

Tình yêu Hà Nội trong Vĩnh còn thể hiện qua cái nhìn về các công trình

và kiến trúc văn hóa đô thị. Phố phường cao thấp như tổ kiến khổng lồ chẳng

thuộc về một sự quy hoạch nào, những cần cẩu những cánh tay sắt bên những

tòa nhà đang xây dang dở. Không bằng lòng nhiều với xây dựng hiện đại, Vĩnh

thường tìm đến những công trình lịch sử tâm linh, những ngôi đền - chùa cổ, đặc

biệt là đền An Dương Vương. Ở những địa danh đó, Vĩnh được thả những hồn

53

mình với những nét suy tư về lịch sử văn hóa dân tộc, nền văn hiến của thủ đô,

củng cố cho mình những tình cảm yêu mến, xây dựng những giá trị văn minh.

Tình yêu lịch sử và kiến trúc văn hóa Hà Nội trong Vĩnh được biểu hiện

sâu đậm nhất, mạnh mẽ và quyết liệt nhất chính là cuộc chiến đấu với dự án xây

khách sạn Mây Tím xây bên cạnh Hồ Gươm. Dấu hiệu của cuộc chiến xuất hiện

ngay ở đầu tác phẩm cho đến những trang cuối cùng của tiểu thuyết. Nhận được

tin báo về khách sạn Mây Tím vào lúc 11 giờ đêm, dù đang lơ mơ trong giấc

ngủ nhưng Vĩnh đã lờ mờ thấy vấn đề nghiêm trọng, thấy cần phải hành

động“top” nó lại ngay. Là một dự án trọng điểm liên quan đến nhiều sở vụ của

thành phố, liên quan đến nhiều mối lợi ích nhóm của nhiều bên nên vấn đề

không hề dễ dàng. Vĩnh có hai bài gây xôn xao dư luận: bài thứ nhất Thư đi Cali

được đăng trên báo nhà vì lúc giáp Tết, Lập còn bận nhiều việc khác không để ý

quá kỹ; bài thứ hai là Hồ Gươm còn một chút này đăng bên Nhân vật & Sự kiện.

Hai bài báo đã nổ ngòi cho gần trăm bài báo khắp từ Bắc - Trung - Nam viết về

Mây Tím, làm cho dư luận càng nóng hơn.

Kiên quyết không để Hồ Gươm mất nốt góc phía Tây cổ tích, Vĩnh còn

cùng với nhóm Bèo dạt mây trôi hợp sức với đông đảo những người yêu Hà Nội

quyết đánh Mây Tím. Cuối cùng, trước sức ép của công luận, của thực tiễn, Hội

đồng nhân dân thành phố phải vào cuộc, Chính phủ ra quyết định đình chỉ công

trình khách sạn Mây Tím dù đã động thổ và đang thi công trở lại. Để được kết

quả ấy, Vĩnh đã phải sống trong rất nhiều cam go, thử thách. Các đối tác của

công trình luôn tìm cách mua chuộc, Vĩnh bị chính đồng nghiệp Sắc ngấm ngầm

tiếp tay cho các thế lực xấu, sự an nguy của gia đình và những người thân luôn

bị đe dọa, tinh thần bị khủng bố dai dẳng, nặng nề,... Đó là những điều mà trong

thực tiễn cuộc sống không phải nhà báo nào cũng có thể nhận diện, có thể đấu

tranh, có thể dám xả thân một cách mạnh mẽ như Vĩnh trong tiểu thuyết.

Như thế, tình yêu lịch sử và kiến trúc văn hóa Hà Nội trong Vĩnh là quan

điểm vững vàng trước những biểu hiện sai phạm, là thái độ kiên quyết đấu tranh

54

để bảo vệ lẽ phải, là tinh thần hi sinh cho những giá trị văn hóa vĩnh hằng của

thủ đô.

2.1.2.2. Văn hóa ứng xử, văn hóa ẩm thực thủ đô qua các thế hệ trong một gia

đình trí thức trung lưu.

Nguồn cảm hứng về văn hóa Hà Nội còn được nhà văn thể hiện qua các

thế hệ trong gia đình cậu ấm Đỗ Như Vận - một gia đình trí thức trung lưu ở Hà

Nội. Gia đình Vận - trải qua bao sóng gió của thời cuộc để giữ được một tình

yêu Hà Nội. Bố của cậu ấm từ Hải Dương ra Hà Nội từ lúc chưa đầy chín tuổi ;

khi ấy, một mình ông cụ lăn lộn kiếm sống, vừa làm vừa tự học một cách sáng

tạo mà trưởng thành; chủ động học tiếng Pháp để chiếm lĩnh những giá trị văn

hóa Pháp và trực tiếp làm ăn với họ sau này. Ông Đỗ Như Thản lấy bà Hiền

Thục - con gái Hà Nội và đã kế thừa xuất sắc công việc làm ăn ở xưởng thêu mà

bố vợ cho hai vợ chồng làm của hồi môn. Vì hoàn cảnh mà phải Hà Nội sinh

sống, học tập và làm giàu cho Hà Nội chính là một biểu hiện văn hóa của tình

yêu Hà Nội.

Từ đầu thế kỷ XX, khi Hán học suy tàn, bố của cậu ấm vẫn trân trọng các

văn nghệ sĩ cuối mùa kinh sử, vẫn cho cậu ấm sớm giao lưu và tiếp xúc với nền

văn hóa Nho giáo, nhưng đồng thời Đỗ Như Thản vẫn mở rộng cánh cửa đón

nhận những giá trị tinh hoa văn hóa mà người Pháp mang tới. Biệt thự Hoa

Hồng được ông xây theo kiến trúc Pháp. Trong ngôi biệt thự kiểu Tây ấy là lề

lối gia phong vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa sang trọng mà vừa gần gũi.

Luôn giáo dục con những điều hay lẽ phải và cũng là người tôn trọng vợ con

nhiều nhất. Phạt con vì tội nghỉ học nhưng cũng không ép con tới cùng phải theo

nghề kinh doanh của mình ; dù rất không hài lòng với cung cách sinh hoạt nhố

nhăng, bợm bạo của Chiêm - thằng cháu họ xa về đằng vợ mà nhà mình đang

phải cưu mang, nhưng ông lại không muốn vì việc đó mà sức khỏe của vợ bị ảnh

hưởng. Đó là biểu hiện của văn hóa ứng xử thanh lịch của người Hà Nội.

55

Văn hóa ứng xử ấy còn được tiếp nối bằng việc phát huy cao độ văn hóa

dân tộc với tinh thần thương người như thể thương thân. Gần ngày Cách mạng

thắng lợi, nạn đói diễn ra khủng khiếp ở khắp nơi, bà Hiền Thục mang tiền, gạo

của gia đình đi làm từ thiện tối sớm ở chùa An Lạc. Đất nước được độc lập, Vận

xung phong lên đường xuống các tỉnh nghèo ven biển dạy bình dân học vụ cho

tới tận khi Pháp quay trở lại bạo biến Hà Nội. Văn hóa ứng xử còn là biểu hiện

kiên cường của con người trước những hành vi phản văn hóa, phi nhân văn. Lúc

lính Pháp đến gia đình Vận cướp vàng, ông Thản đã chỉ thẳng mặt Chúng mày

làm vấy bẩn lá cờ nước Pháp! Người Hà Nội không bao giờ chấp nhận những

hành vi vô đạo, cho dù ngay sau đó ông Thản đã bị chúng sát hại.

Tình yêu Hà Nội tập trung nhiều hơn trong cách nhìn của Vận. Khi Hà

Nội trong tay Pháp, Vận gửi mẹ về quê, vợ và con cho sang ngoại còn mình dù

rất hãi hùng cảnh đầu rơi máu chảy nhưng vẫn quyết ở lại Hà Nội vào đội quân

tự vệ của thành phố để chiến đấu bảo vệ thủ đô. Tiếp đến, Vận lên bản Mún

phục vụ một trạm xá kháng chiến nhiệt tình dẫu nhiều gian khổ, cực nhọc. Sau

một thời gian, rồi những điều hiểu lầm xảy ra ở đêm văn nghệ, Vận được trả lại

tự do, anh trải mình giữa vùng giao tranh Đãn Trừu chẳng tây cũng chẳng ta

bằng nghề nấu nướng. Khi Như Ý lên tìm, Vận trở về Hà Nội mở quán Bún

thang Vườn hồng. Rồi lại những bắt bớ nhầm lẫn của bọn Việt gian phản động,

khiến mẹ anh suy sụp nhanh và qua đời đúng lúc anh trở về nhà. Những tin tức

về chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, đất nước tạm chia cắt hai miền, một số

người Hà Nội nhốn nháo giữa việc đi hay ở lại nhưng gia đình Vận vẫn ở lại thủ

đô, dù sau đó phải đối mặt với một cuộc đấu tố địa chủ đầy vô lí và đắng cay.

Ở Vận, tuy không đi theo nghiệp của cha, nhưng anh cũng giống cha mình

trong cách cư xử với gia đình: tôn trọng vợ con. Anh không bao giờ can dự sâu

vào công việc của Như Ý khi cô quyết tâm phục dựng kinh tế của gia đình từ tài

sản của bố mẹ chồng để lại. Vận không bao giờ chửi mắng vợ trừ khi việc làm

của vợ liên quan trực tiếp tới tính mạng của cả gia đình. Biến căng đến mấy,

Vận vẫn điều hòa được không khí sinh hoạt. Khó khăn bao nhiêu, Vận vẫn tổ

56

chức Tết trung thu cho con và trẻ trong xóm, cho con đi múa hát thoải mái trong

những buổi sinh hoạt sân khấu hóa những chủ trương của chính quyền, tôn trọng

con trong việc chọn trường, chọn nơi làm việc ở miền núi, chọn bạn gái là người

đồng bào thiểu số và đặc biệt là tôn trọng quyết định về việc lên đường vào Nam

đánh Mĩ dù gia đình Vận chỉ có mỗi Tín là con. Đấy là những nét đẹp trong tính

cách, trong văn hóa ứng xử mà không phải vùng đất nào cũng tạo lập, gìn giữ và

có được.

Người cha đã để con theo nghề ẩm thực nên Vận dường như dồn hết tình

yêu nghề nghiệp cho việc nấu nướng ngay từ hồi còn đi học. Dù bị quát mắng,

trách phạt nhưng Vận luôn chú ý vun vén và làm giàu kiến thức ẩm thực cho bản

thân những cách thức chế biến món ngon, đặc biệt là món ngon Hà Nội. Ngay từ

bé, Vận đã học và tập làm được những món ngon từ anh Căn - bếp trưởng của

gia đình. Trong một lần trò chuyện với bố, Vận nói sử sách mình toàn ghi những

anh hùng cứu nước,... chả thấy ai nấu bếp ngon, hát hay, múa đẹp, làm nhà giỏi.

Có phải lúc nào cũng chiến tranh đâu, phải có lúc hòa bình để nghe câu nói

đẹp, ăn miếng ngon chứ. Có lần Vận bỏ đến một nhà hàng nổi tiếng để chui vào

bếp nấu nướng, khách đến ăn khen ngon, bèn cho gọi người pha chế lên tán

thưởng, ai ngờ đó lại chính là bố của Vận và các bạn của ông.

Lớn lên, bất kỳ ở đâu, mỗi khi có điều kiện là Vận lại trổ tài nấu nướng

bằng mọi nguyên liệu có thể, từ những ngày toàn quốc kháng chiến, quá trình

cải tạo tư sản, những biến động âm ỉ trong chiến tranh vệ quốc,... Vận vẫn sống

chết theo đuổi đam mê. Vì thế, vào những năm tháng Mĩ leo thang bắn phá ác

liệt nhất, những năm khan hiếm hàng hóa nhất Vận vẫn tìm thấy chỗ đứng trong

nhà hàng Mỹ Vị tiếng tăm của thành phố. Tài năng của anh dần cũng được tài

năng đi trước phát hiện và giúp đỡ. Vì thế, Vận được giám đốc giao chuẩn bị

toàn bộ chương trình ăn uống phục vụ đoàn khách khoa học quốc tế đến hội thảo

ở Việt Nam.

57

Chúng ta biết rằng văn hóa Thăng Long vốn được hình thành và được tồn

tại cũng như phát triển phong phú chủ yếu là nhờ vào tầng lớp trí thức ở tầng lớp

trên, trong đó có những con người như Vận trong tiểu thuyết Cậu ấm. Sự đa

dạng của văn hóa đó được Vận gửi gắm sâu sắc vào văn hóa ẩm thực mà anh

đam mê. Trong hoàn cảnh xã hội biến động đầy phức tạp, tình hình của gia đình

cũng nhiều xáo trộn, cậu ấm đã có những lựa chọn phù hợp với văn hóa ẩm thực

của dân tộc, của nhân dân thì đó cũng là biểu hiện của con người yêu Hà Nội.

Tình yêu Hà Nội được truyền sang Tín, con trai anh với đam mê trong công

việc, sẵn sàng và lên đường bảo vệ đất nước, quê hương. Trong ngày trở về, Tín

thấy Hà Nội bao nhiêu kí ức giữa bộn bề của cuộc phá hoại mới đi qua, thấy

ngôi biệt thự của mẹ cha và tinh thần không thể để nó câm nín im ỉm được. Đấy

là sự tiếp nối âm ỉ mà mãnh liệt giữa các thế hệ trong một gia đình tri thức trung

lưu ở Hà Nội. Nguồn mạch ấy cộng với nhiều nguồn mạch khác tạo thành dòng

chảy sâu rộng nuôi dưỡng, đắp bồi cho văn hóa ứng xử, văn hóa ẩm thực thủ đô

ngày thêm rực rỡ, vững bền.

Có thể nói rằng, mỗi tiểu thuyết đã thể hiện rất sinh động cảm hứng thế sự

đời thường và cảm hứng về thủ đô Hà Nội của nhà văn. Ở tác phẩm Đèn vàng và

tác phẩm Cậu ấm, hai nguồn cảm hứng ấy còn bổ sung cho nhau, cùng nhau

cộng hưởng làm nên những đặc trưng riêng về người trí thức và văn hóa Hà Nội.

2.2. Cốt truyện trong tiểu thuyết.

Vai trò của cốt truyện trong tiểu thuyết là tạo nên sức mạnh cho toàn bộ

tác phẩm. Do những đặc trưng về dung lượng của thể loại mà cốt truyện trở

thành nhân tố quan trọng bậc nhất để các nhân tố khác của tiểu thuyết thành

công. Cốt truyện không hay, tính cách nhân vật trở nên giả tạo ; cốt truyện

không chặt chẽ, cách tổ chức xung đột thành ra khập khiễng ; cốt truyện không

mang tính hoàn chỉnh, các giá trị của tác phẩm sẽ vỡ vụn,... Từ những quan

điểm trên, chúng tôi nhận thấy rằng trong các tiểu thuyết của Trần Chiến, cốt

truyện thường mang hai đặc điểm nổi bật sau: Cốt truyện rõ ràng, dễ theo dõi ;

58

và cốt truyện mang nhiều trăn trở, suy tư về cuộc sống. Hai đặc điểm này song

song tồn tại và bổ sung cho nhau. Tùy vào mỗi tiểu thuyết mà có đặc điểm thứ

nhất hoặc thứ hai nổi bật hơn cả.

2.2.1. Cốt truyện theo mô hình truyền thống

Nhìn nhận ở phương diện này, cốt truyện thường gắn với những kiểu tác

phẩm mà không có quá nhiều nhân vật tham gia, câu chuyện phát triển theo

mạch tuyến tính, đơn giản, dễ theo dõi. Trong phần này, chúng tôi lấy tiểu

thuyết Bốn chín chưa qua làm minh chứng.

Toán là một anh nông dân lúc ấy 35 tuổi, có một vợ và hai con, một trai

và một gái. Ngoài việc đồng áng theo mùa vụ bắc bộ, Toán còn là một thành

viên trong đội chiếu bóng của huyện. Trong một lần chiếu bóng ở xã bên, Toán

gặp Thơm 28 tuổi là vợ liệt sĩ, đang nuôi thằng con trai 5 tuổi. Thơm là cô giáo

mầm non trường làng. Từ chuyện đùa vui, hai người bỗng thấy gần gũi, nhớ

nhung. Thi thoảng, Toán thường đi tắt cánh đồng sang nhà Thơm và cả hai có

quan hệ tình cảm sâu sắc với nhau.

Xuyên, vợ của Toán, kém chồng năm tuổi, khi biết chuyện chồng mình

ngoại tình với Thơm, chị đã phản ứng dữ dội và tiêu cực khiến cuộc sống gia

đình có lúc như rơi vào chốn địa ngục. Toán tìm đến bố vợ để được chia sẻ

nhưng tình cảnh không thay đổi được bao nhiêu, nhẹ thì hờn mát, nặng ra là tan

đình đổ chùa. Sau đó, Toán cùng mẹ con Thơm bỏ quê vào Tây Nguyên. Tại

vùng đất mới, họ được ở nhờ gian bếp của vợ chồng anh Hiếu, họ hàng xa với

Thơm. Ông Hiếu làm bên Tuyên huấn của Huyện ủy Tân Bắc ; bà Lành vợ ông

buôn bán hàng hóa ở phố huyện, chúa ghét cái loại cướp chồng thiên hạ nên

Thơm rất hãi. Toán và Thơm từ đó tìm mọi nghề để kiếm sống.

Cuộc sống nơi xứ xa khá cơ cực, Thơm dù bụng mang dạ chửa nhưng

thức khuya dậy sớm làm bánh rán và mang xuống phố chợ bán vào mỗi sáng.

Toán làm đủ nghề từ phu hồ, đục đẽo thuê đến cả việc đi khai thác gỗ trái phép.

Khi cuộc sống đã dần ổn định thì Toán nhận được điện báo của con trai nhắn về

59

quê ngay ông ngoại chết. Toán về quê dù Thơm không hề muốn. Anh về quê

trong sự bất ngờ của mọi người. Cuộc sống với Xuyên nhẹ nhàng hơn xưa

nhưng Toán vẫn quyết tâm ra đi và mang theo luôn cả thằng Téo, con trai lớn

của gia đình.

Toán vẫn cho Téo đi học, còn anh đổi sang nghề xe ôm. Đời sống gia đình

khá hơn, nhưng sau đó anh bị cướp xe trong một đêm vắng nơi rừng xa. Khi

Toán nhúc nhắc đi lại được cũng là lúc Thơm trở dạ và sinh cho anh một bé gái.

Toán tích cực đi làm thuê và dồn vốn mua được mảnh vườn tạp ở Krông-nóc.

Toán buộc phải cho Téo nghỉ học, hai bố con xuống đó cải tạo vườn tạp để

thành vườn chuyên canh. Tại đây, trưởng thôn Lò Văn Thuận có biệt danh Vua

Mèo đã cậy quyền, dùng thủ đoạn khiến Toán lao đao, khốn cùng ; và mãi về

sau này, Toán mới thắng nổi Vua Mèo. Cũng tại đây, Toán bị Thơm lên trực tiếp

giải quyết việc anh qua lại với Mùi, cô bán thịt quê ở Bắc Giang đang một mình

nuôi con.

Nửa năm sau, Toán ra Bắc vì Xuyên ốm nặng vì bệnh uốn ván, anh chỉ

kịp chăm sóc vợ mấy ngày cuối cùng. Chăm lo mọi chuyện hậu sự xong, Toán

đưa nốt cái Tèo vào Tây Nguyên cùng anh. Toán xây được nhà mái bằng ở sườn

đồi, là ông chủ nhưng vẫn lao động rất tích cực. Thằng Téo học sửa xe mấy dưới

phố huyện, các con còn lại chuẩn bị theo học dưới Đà Lạt. Bất ngờ, Toán đổ

bệnh và ra đi ở tuổi 43. Mộ của anh bên cạnh cây dầu lực lưỡng xanh lá bốn

mùa. Thơm dự định ngày thứ bốn mươi chín sẽ đặt tấm bia lên mộ cho anh và

băn khoăn không biết có nên khắc thêm dòng chữ Chết vì đã sống quá nhiều vào

sau tấm bia theo di nguyện của Toán hay không.

2.2.2. Cốt truyện đan xen, phức hợp

Ở phương diện này, cốt truyện lại gắn liền với những tâm tư thế sự của

các nhân vật chính. Nó cần nhiều các sự kiện phức tạp, các biến cố và các tình

tiết cụ thể, thời gian và không gian xảy ra sự việc đôi khi chồng lấn lên nhau,

trong bối cảnh đó các nhân vật có điều kiện thể hiện những trăn trở, suy tư của

60

mình về cuộc sống, về thời đại. Trong phần này, chúng tôi lấy tiểu thuyết Cậu

ấm làm minh chứng.

Tổ tiên của cậu ấm ở Hải Dương. Ông nội của cậu ấm có hai người con

trai. Bố của cậu ấm là con trai thứ hai - Đỗ Như Thản, thấy anh mình là Đỗ Như

Chung theo nghiệp kinh sử Nho giáo nhiều mà đỗ đạt không cao, lại gặp thời kỳ

Nho học suy tàn nên bỏ quê Hải Dương ra Hà Nội kiếm sống từ lúc còn chưa

đầy chín tuổi. Tại Hà Nội, sau một thời gian, Đỗ Như Thản gặp gia đình bác Đỗ

Chính Bình ở chi trên và được vợ chồng bác cưu mang. Đỗ Như Thản ham đọc

lại học thêm võ nên khỏe mạnh, nhận thức nhanh nên có thể vừa ngồi kéo quạt

cho một lớp học con nhà giàu trong trường tư thục Pháp - Việt vừa tiếp thu kiến

thức như một học sinh ưu tú trong lớp và luôn kèm theo câu hỏi tại sao trước

mỗi vấn đề lạ. Trước sức vươn của Đỗ Như Thản, hiệu trưởng Ănggiơli đã tạo

điều kiện đặc biệt cho cậu bé Thản theo học cấp cao hơn. Thản tốt nghiệp loại

ưu,chuyển thẳng lên cao đẳng, có học bổng, sắp lấy bằng thành chung thì ngưng

vì mẹ mất, ít lâu sau bố cũng bỏ anh em theo mẹ. Cái chết của mẹ, làm Thản

nghĩ rất nhiều về cha, về sự mê tín đến kinh khiếp của những người ở nông thôn.

Thản trở lại Hà Nội, được thầy Misen hiểu biết, tốt bụng giới thiệu Thản đi học

tiếp nhưng Thản quyết định dừng lại. Một thời gian sau, Thản gặp Hiền Thục và

phải lòng cô một cách vô tư lự. Hiền Thục con gái một cự phú, thương con gái

lấy học trò nghèo nên ông bố đã cho xưởng thêu làm của hồi môn. Đỗ Như Thản

là người kinh doanh có tài và sự nghiệp kinh tế phất lên từ đó. Vợ chồng Đỗ

Như Thản còn mua lại cả nhà in Dân Cường, sau đó mua cả một tờ báo để cứu

nó khi nó đang trên đà hấp hối.

Cậu ấm Đỗ Như Vận ra đời trong nhung lụa, sớm được giao lưu nhiều

chỗ thân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, trung lưu và thượng lưu Hà thành. Bà Hiền

Thục mắc bệnh tim bẩm sinh, yếu ớt nên ông Thản không cho đẻ thêm nữa. Đỗ

Như Vận cũng giống cha trong đón nhận tri thức với những câu hỏi tại sao khi đi

học nhưng cũng khác cha ở chỗ Vận có thiên hướng ẩm thực nhiều hơn kinh

doanh. Vận lớn lên khi xã hội đang chuyển mình mạnh mẽ.

61

Vận thích nấu ăn, thích chìm mình vào văn hóa ẩm thực, giữa lúc Nhật -

Pháp đang căng thẳng nên Vận muốn bỏ học. Điều này làm bố Vận tức sôi máu,

anh con bác rất thân với Vận là Đỗ Chính Dục khuyên can nhưng Vận vẫn

không suy suyển ý tưởng bỏ học. Cuối cùng trước nhiều nguồn động viên và sức

ép Vận vẫn phải đến học Cao đẳng tiểu học thuộc địa Hàng Chuối. Tại đây, Vận

gặp nhiều thầy cô, trong đó có Erich Lơru dạy văn chương Pháp, tuy trông khắc

khổ nhưng bài dạy lại rất ấn tượng, cho Vận hiểu biết thêm nhiều điều về lẽ sống

tình thương, văn hóa và văn chương. Cũng thời gian này, Vận phải ở chung và

học cùng lớp với Chiêm, con trai dì Phú ở trên Thái Nguyên xuống. Sự xuất

hiện của Chiêm khiến Vận lao đao khốn khổ không biết bao nhiêu lần, cho đến

tận thời kỳ đấu tố địa chủ.

Những ngày Nhật - Pháp - Việt Minh đấu tranh cam go nhất, bà Hiền

Thục làm từ thiện ở chùa An Lạc không xuể trong khi nhà in của ông Thản phải

hoạt động rất cầm chừng (sau này ông rất bất ngờ vì nhà in của ông đã từng in

truyền đơn kháng Nhật - Pháp nhiều lần). Những ngày đầu tiên của nước Việt

Nam độc lập, vợ chồng cậu ấm bế cu Tín đi hưởng ứng Tuần lễ vàng, ủng hộ

Chính phủ Việt Minh một vòng kiềng vàng một lạng. Sau đó, Vận đi xuống các

tỉnh ven biển dạy cho các lớp bình dân học vụ theo phong trào của Chính phủ

lâm thời. Khi Pháp tái chiếm Hà Nội, Vận trở về trong không khí cực kỳ nguy

hiểm. Chính ông Thản dù rất yêu thích văn hóa Pháp nhưng cũng bị những kẻ

phản động Pháp sát hại. Vận ở lại Hà Nội quyết tâm chiến đấu bảo vệ Thủ đô,

sau đó Vận làm cấp dưỡng trạm phẫu, rồi bị bắt giam trong đêm biểu diễn văn

nghệ cho thương binh. Những biến cố ấy đã để lại cho Vận không biết bao suy

tư về chiến tranh, về cuộc đời, về kiếp người, về nghệ thuật. Sau những lang

thang, Vận về Hà Nội mở quán bán hàng, được một thời gian lại bị bọn phản

động tay sai của Pháp bắt giam với nhiều đòn hỏi cung ghê sợ. Bà Hiền Thục

cũng vì thương con, đi tìm Vận khắp nơi mà nhanh suy sụp, đúng ngày Vận

được về nhà thì cũng là lúc mẹ đang hấp hối.

62

Trước tình hình kinh tế của gia đình, Như Ý xắn tay vào cải tạo cách thức

làm ăn của nhà in Dân Cường, khiến cho Vận phải nể phục. Năm 1954, hòa bình

trở lại miền Bắc, vợ chồng Vận vẫn kiên quyết bám trụ Hà Nội, con trai Vận đã

dần lớn khôn, tham gia tích cực các hoạt động văn nghệ ở phường phố cách

mạng. Tất cả quá khứ của gia đình Vận vẫn bị mang ra đấu tố. Tài sản nhà in

Dân Cường bị tịch thu. Vì muốn con trai sau này được chọn trường Đại học nó

thích, vì muốn gia đình được yên ổn nên Như Ý đã phải chịu trăm đắng, ngàn

cay. Cuộc đấu tố và cung cách sản xuất của các hợp tác xã khiến người ta phải

suy nghĩ rất nhiều, có khi phải đỏ mặt mỗi khi nhắc lại cơ chế tập trung quan

liêu. Biệt thự Hoa Hồng của vợ chồng Vận cũng giống như bao biệt thự khác,

cũng bị chia ra một nửa cho những gia đình mới đến sống tạm bợ ở Hà Nội như

vợ chồng Đằng - Từ. Nền văn hóa trí thức lâu đời của thủ đô bị cào bằng với nền

văn hóa của những người đói khổ khắp nơi về Hà Nội để không có chuyện phân

biệt giai cấp. Chế độ tem phiếu những nhiễu cửa quyền, hống hách khắp mọi

lúc, mọi nơi mà chẳng ai dám lên tiếng phản đối.

Dù kết quả học tập loại ưu, dù tham gia tích cực phong trào đoàn thể

nhưng Tín vẫn không được chọn các trường top đầu. Tín đi học trường top hai

cũng rất xuất sắc rồi lên nông trường Mộc Châu gắn bó với nghề. Chiến tranh

ngày một leo thang, con trai cả của vợ chồng Đằng - Tứ rồi đến Tín cũng lên

đường bảo vệ Tổ quốc. Vận có một chân trong nhà hàng ăn uống Mỹ Vị uy tín

của thành phố, tài năng của anh về ẩm thực lại được dịp thăng hoa như một dấu

mốc quan trọng đối với một con người mà niềm đam mê ẩm thực đã đeo bám

suốt từ thơ bé. Khi vợ chồng Đằng - Tứ nhận được tin con trai Bân đã hi sinh ở

chiến trường Tây Nguyên cũng là lúc vợ chồng Vận suy nghĩ nhiều nhất về

chiến tranh, về sự được - mất. Hiệp định Paris được ký kết, Tín được trở về và

bùi ngùi gõ cửa biệt thự Hoa Hồng.

Tiểu thuyết Cậu ấm với nhiều góc độ mô tả, phản ánh đời sống xã hội gần

như trong suốt thế kỷ XX với bao vật đổi sao dời, bao thế hệ nối tiếp đã để lại

63

cho người ta bao ưu tư, chiêm nghiệm về văn hóa, về lẽ sinh tồn. Chiến tranh đã

qua, dù các bên tham gia có thắng hay bại thì tất cả đều bị tổn thương.

Như vậy, tiếp cận với tiểu thuyết của Trần Chiến, người đọc không quá

khó khăn trong việc hình dung sơ đồ về nhân vật nếu xác định rõ cách tổ chức

cốt truyện trong tác phẩm của nhà văn, từ đó dễ dàng tiếp nhận được các giá trị

nội dung, tư tưởng và hình thức nghệ thuật trong các tác phẩm của nhà văn.

2.3. Hình tƣợng nhân vật

Không giống với nhân vật trong các thể loại khác, nhân vật trong tiểu

thuyết được trải nghiệm gần như toàn diện trong khung cảnh rộng lớn của không

gian và thời gian. Nhân vật trong tiểu thuyết là hạt nhân trung tâm của cốt

truyện, là nơi tác giả gửi gắm những quan niệm của mình về con người, là nơi

độc giả tìm thấy ý nghĩa từ tác phẩm. Nhân vật trong tiểu thuyết của Trần Chiến

chủ yếu hiện lên ở hai phương diện sau:

2.3.1. Nhân vật trong mối quan hệ biến đổi phức tạp

Ở phương diện này, nhân vật nam chính thường có tài, có chút nghệ sĩ, có

tâm hồn ăn uống và xu hướng ngoại tình. Các nhân vật nam chính vừa có những

phẩm chất truyền thống, lại vừa có những cá tính rất hiện đại. Từ đặc điểm

chung đó mà ở mỗi tiểu thuyết, Trần Chiến lại có cách xây dựng riêng, sinh

động, độc đáo.

Nhân vật Toán trong Bốn chín chưa qua, tuy là một nông dân của một

vùng quê Bắc bộ nhưng anh lại giữ ghế thuyết minh phim tâm lí nước ngoài khi

đi chiếu phim màn ảnh rộng. Gặp Thơm, vợ liệt sĩ còn son trẻ và đáo để nhưng

Toán cũng phiêu lưu không kém: Chả phải tay tôi. Toán này đã tán ai thì cũng

gật ráo. Vài chén rượu làm anh cao hứng và nhận lời thách của anh em trong

đội. Cuối cùng cái gương trung liệt kia cũng đổ xiêu đổ vẹo. Thơm cảm nhận ở

anh phong trần, bụi bặm nhưng đường hoàng không vụng trộm rồi có những

mẩu chuyện khôi hài, tình cảm mà đám cán bộ xã và bọn bố trẻ con nhà quê

không thể có.

64

Vận luôn tạo điều kiện cho lũ trẻ được ngồi gần màn hình mỗi lần chiếu

phim nhưng anh cũng chẳng nghĩ đến hai đứa con còn nhỏ của mình khi bỏ đi

với Thơm vào Tây Nguyên, để rồi khi ở nơi xứ xa thật rồi anh lại hối hận khóc

thương chúng đến nỗi tấm ảnh các con nhàu nhúa. Téo Tèo ơi, bố bỏ con rồi, tội

nghiệp các con tôi. Để biện hộ nỗi khổ đang hiện diện do chính lòng tham của

anh, anh đã liên tưởng tới các bộ phim mà anh đã chiếu chả có chán vạn thằng

đàn ông, con đàn bà tham vục mặt đấy ư? Đôi khi giữa thực tế với điện ảnh

cũng làm cho Vận xáo trộn tư tưởng và hành động. Anh vừa tỏ ra là người

chồng chăm chỉ của Xuyên, người bố cho Tèo, Téo nương dựa, một chàng rể

hiếu thảo của ông Năm ; nhưng anh lại khát khao, cuồng dại đến bên Thơm, anh

muốn đường hoàng có mẹ con Thơm về dưới mái nhà của anh đang ở với Xuyên

và các con.

Phần vì xa vợ, một phần cũng thích ăn uống, rượu thịt nên Toán đã một

lần nữa phải lòng cô Mùi bán thịt ở xóm vườn mới mà bố con anh đang cải tạo.

Cô Mùi gái một con, có bộ ngực khủng khiếp, bỏ quê, sống một mình lại tốt

bụng nên suốt một thời gian khá dài Toán không thể sống xa hơi Mùi dù có lúc

anh cảm thấy mình đang bị vắt kiệt hết cả sức.

Toán không đủ ác để làm điều tàn nhẫn, nhưng anh cũng không đủ khả

năng để xoay chuyển cái ác theo chiều hướng có lợi cho mình. Khi nhập bọn

Cung "xồm" vào rừng sâu chặt phá rừng trái phép, Toán biết hắn ác và thủ đoạn

đấy, định ăn chặn tiền của anh em nhưng Toán và Tuynh phải đấu trí quyết liệt

lắm mới có được tiền công trong sự hậm hực của Cung "xồm". Căng thẳng và

nguy hiểm nhất là cuộc chiến đấu với trưởng thôn Lò Văn Thuận có biệt danh

Vua Mèo. Toán đã ứng xử đủ đường nhưng anh không thể thuyết phục được hắn

để mình được sống tự do làm ăn, mãi cuối cùng, anh phải nhờ đến ông Hiếu

Tuyên huấn huyện ủy mới có thể bắt được hắn với tội danh buôn lậu gỗ pơ-mu.

Đa tình, đôi lúc hành động theo cảm hứng nghệ sĩ hơn là lí trí nhưng Toán

cũng không nỡ phụ bạc đến cạn tàu ráo máng với những người đã một thời tình

65

nghĩa gắn bó. Khi bố vợ qua đời, dù kinh tế mới hồi phục, dù xa xôi cách trở, dù

Thơm có bực tức, giận dỗi nhưng Toán vẫn về chịu tang đàng hoàng, quà cáp

cho họ hàng đầy đủ. Khi Xuyên lâm bệnh trọng, Toán bỏ dở vụ cà phê, vác một

cục tiền ra, kịp chăm vợ những ngày cuối. Toán lo ma chay chu đáo, gửi gắm

nhà cửa phần mộ cho ông chú cẩn thận mới cùng con gái vào Tây Nguyên.

Xuất hiện ở đầu tiểu thuyết, Toán ở tuổi 35 trong cảnh trực tiếp bốc mộ

cho mẹ vợ ở miền Bắc và kết thúc tiểu thuyết là cảnh Thơm bên nấm mộ của

anh ở miền Nam (Tây Nguyên). Cả hai sự việc đều diễn ra vào gần những ngày

cùng tháng tận. Cuộc đời của Toán chưa hẳn là bi kịch ghê gớm. Nhưng những

dai dẳng nặng nề trong cuộc mưu sinh cứ đeo bám, ghì siết ; những khát khao về

gia đình hạnh phúc và đời sống tình dục luôn làm anh bối rối ; một chút văn

nghệ sĩ và một chút khả năng ăn uống rượu chè luôn hiển hiện trong cuộc

đời anh.

Nhân vật Vĩnh trong tiểu thuyết Đèn vàng là một nhà báo, làm cho một tờ

báo lớn của Thủ đô. Cũng giống như nhân vật nam chính trong các tiểu thuyết

của Trần Chiến, Vĩnh có nhiều phẩm chất quý của một phóng viên báo chí, có

chút nghệ sĩ, có tâm hồn ăn uống và xu hướng ngoại tình. Trong Vĩnh vừa tồn

tại con người truyền thống, vừa tồn tại những cá tính rất hiện đại.

Khi hướng dẫn Khánh - sinh viên trường Đại học Tổng hợp đến thực tập,

Vĩnh không hề tỏ ra cửa quyền hách dịch, anh đi thẳng vào vấn đề một cách

ngắn gọn và hẹn luôn chiều hôm ấy cùng đến dự họp báo hội đền Bà Tấm.

Những điều đó cho thấy Vĩnh là người trọng thực tế - nguyên tắc tối thượng của

báo chí. Anh giao ngay nhiệm vụ cho Khánh khi đi họp báo về rồi qua những

trực tiếp sửa chữa, giảng giải cho Khánh hiểu. Lần sau, qua những tin bài, Vĩnh

chia sẻ luôn những nguyên tắc làm báo và những mối quan hệ giữa báo chí với

đời sống xã hội. Khi thấy cần thiết, Vĩnh đã giao cho Khánh tự mình trực tiếp

xuống cơ sở để viết được những bài lớn hơn. Bài Từ một góc chợ Bồm của

Khánh được Vĩnh chỉnh lại cho kín kẽ làm Văn rất thích. Ở địa vị hướng dẫn

66

thực tập, có thể nói rằng Vĩnh là một người tâm huyết với nghề mà không hề đòi

hỏi những thứ mà khiến cho anh trở nên tầm thường.

Tâm huyết là thế nhưng trong Vĩnh vẫn còn góc khuất trong sâu thẳm trái

tim anh, đó là khả năng ngoại tình, mặc dù không phải đối tượng nào anh cũng

đi quá giới hạn. Khi đất trời vào xuân, Vĩnh thấy nhớ Lạc Thư, thấy nhớ tuổi trẻ

của anh với Trâm bây giờ đang là vợ anh, để rồi sau đó Vĩnh cũng nhận ra rằng

mình không có phẩm chất chung thủy. Đầu tiên là với Thu, họ cùng tán thưởng

một vở kịch, rồi họ đến và đi trong đời nhau rất nhẹ nhàng. Tiếp đến là Cúc, xinh

hơn Thu nhưng thực dụng và quyến rũ ; sau đó là Thắm - đẹp một cách nhạt

nhẽo. Riêng Khánh, Vĩnh chưa bao giờ đi quá bổn phận của người hướng dẫn,

anh chỉ xót xa cho sự chân thành và căm giận kẻ lợi dụng. Lạc Thư vừa là đồng

nghiệp, vừa là người tình gắn bó với Vĩnh lâu nhất, chia sẻ với Vĩnh nỗi buồn

vui về nghề, về gia đình, về xã hội.

Ở Vĩnh, có cùng đặc điểm với Toán trong Bốn chín chưa qua và Vận

trong Cậu ấm là dù ngoại tình nhưng không bao giờ trở về tổ ấm lại đánh chửi

vợ con. Tất cả những chuyện gian díu bên ngoài, được Vĩnh đậy điệm khá kĩ

càng và phủ lên trên bằng những việc làm hết sức tử tế trong gia đình và ở ngoài

cơ quan. Ở Vĩnh, việc che đậy của anh thuận lợi hơn vì anh làm nghề báo chí

phải đi nhiều nơi nhiều chỗ lấy tin viết bài, và cũng vì thế mà mối quan hệ giữa

Vĩnh và Thư mãi về cuối mới bại lộ. Đó cũng là đặc tính tham lam của cả ba

nhân vật khi nhận ra vợ chồng đã gấp vào nhau những nếp phẳng lì, chuyện

chăn gối vợ chồng chỉ còn như là một nghĩa vụ.

Vĩnh rất trân trọng quá khứ của nhân dân, anh đã từng cho rằng một số

chương trình truyền hình hiện nay chẳng khác nào sự đàn áp về văn hóa khi

không thể khơi dậy những tinh hoa của văn hóa dân tộc. Nhưng những cách tư

duy tếu táo của Hộ sau chuyến du xuân sông Hồng đầu năm khiến Vĩnh không

thể không đặt vấn đề xem xét lại các vị thánh trong dân gian, đặc biệt là Mẫu

67

Liễu Hạnh, rồi dòng suy tư cứ miên man để bất giác Vĩnh phải đứng dậy thắp

hương, cho mình đỡ báng bổ hơn.

Nhà báo Vĩnh cũng mang một đặc điểm là không đủ khả năng để xoay

chuyển cái ác theo chiều hướng có lợi cho mình. Vĩnh thừa biết đồng nghiệp Sắc

cùng cơ quan có tài nhưng cũng rất lắm tật, nhiều chiêu trò thực dụng, quá bặm

trợn, sẵn sàng tạo ra thư bạn đọc để đi đến những cơ quan này kia có thể või

vĩnh tiền bỏ túi riêng, có khả năng tạo ra dư luận tốt cho một hội chợ đang chất

chứa hàng hóa ế ẩm khi có nhiều tiền và rượu quý. Sắc từng biện minh với Vĩnh

khi nhận tiền viết bài: Mẹ kiếp. Ở đời toàn thằng cần một nửa sự thật. Chính bản

thân Sắc cũng đã từng bị các đối tác chế giễu là chuyên gia biến không thành có.

Vĩnh quá hiểu Sắc, không thể kéo Sắc về hội thuyền với mình, không thể thân

với Sắc vì phải cảnh giác nhưng rồi chính anh cũng bị Sắc ngấm ngầm chơi đểu

trong vụ đánh Mây Tím, để cuối cùng anh phải ngậm ngùi trong đắng cay mà

không làm gì được Sắc.

Trong gia đình, Vĩnh rất thích được cùng cả nhà ăn những món ngon, thi

thoảng anh lại dẫn vợ con đi thưởng thức những món đặc trưng ở các phố ẩm

thực Hà Nội. Những lúc buồn bã, có tâm sự Vĩnh thường đi uống bia với Văn để

rồi một loạt triết lí về bia lại ra đời, như Bia hơi Hà Nội ngon nhất thế giới ; Bia

vào thì lời phải ra. Bầu trời thoáng đãng trên đầu luôn thúc giục hùng tâm tráng

trí ; trong toàn thiên hạ thì bia hơi hẳn là thức uống của mọi đàn ông chân

chính. Khi về thực tế ở Lệ Viên, Vĩnh còn ấn tượng với nhiều món ngon, rượu

đã ngà ngà. Thịt chó ngon không chọi lại cá rô ron rán vàng, còn tú hụ trên

mảnh lá chuối,... Dù ăn ở đâu, nhà hay phố, hoặc khách sạn Vĩnh đều chú ý đến

cách ăn uống sao cho ngon nhất và thoải mái nhất.

Dù cuộc sống luôn bề bộn với nghề nghiệp nhưng Vĩnh vẫn thu xếp công

việc cho những ngày của riêng anh. Vĩnh hay thăm đền chùa cổ, nhất là Cổ Loa,

khi Thư bỏ đi vào Nam làm biệt phái cho báo Nhân vật & Sự kiện, anh vẫn đến

thăm viếng. Vĩnh đối thoại trong tâm tưởng khi nguyện cầu trong am thờ Mỵ

68

Châu. Vĩnh nhớ tới bố con nhà thơ nông dân mới lên thăm mình, thuở xưa bố

con nghèo khổ lên tòa soạn gặp mình giờ đã trở nên giàu có nhờ từ bỏ giấc mơ

ấp ủ sự nghiệp thơ văn. Rồi Vĩnh lại trở về với thực tại với bao nỗi hối hả của

cuộc sống thường ngày.

Với nhân vật Vận trong tiểu thuyết Cậu ấm, ai cũng nghĩ rằng, cậu sẽ kế

thừa xuất sắc vai trò là ông chủ kinh doanh lớn ở Hà thành khi cha của cậu lui về

phía hậu trường. Nhưng không, Vận bộc lộ niềm đam mê với nghệ thuật ẩm

thực ngay từ thời thơ bé, Vận hỏi anh Căn, đầu bếp của gia đình bất cứ thứ gì

mà Vận chưa hiểu như ốc luộc phải đi với là gừng vì gừng thơm sẽ làm vợi mùi

tanh, cho miếng ốc khêu ra mặc áo xanh. Và vì để thỏa mãn niềm đam mê như

thế mà Vận đã phải chịu nhiều thiệt thòi, đánh liều với nhiều phen vụ khác nhau.

Đọc tác phẩm Cậu ấm, qua cách mà Vận nhìn nhận, mô tả và nấu nướng, người

ta sẽ tưởng cậu là một bếp trưởng tài danh từ ngoài đời đang bước vào tiểu

thuyết. Quả thật, ấn tượng nổi bật nhất về Vận là tài năng thưởng thức và nấu

nướng món ngon. Với cậu, nấu nướng là văn hóa - văn hóa ẩm thực với triết lí

bình dị mà sâu sắc: Có phải lúc nào cũng chiến tranh đâu, phải có lúc hòa bình

để nghe câu nói đẹp, ăn miếng ngon chứ.

Cài tài của Vận gắn chặt với niềm đam mê ẩm thực của anh, Vận am

tường hầu như mọi món, từ đặc sản vùng miền lẫn những món cao cấp. Khi dạy

bình dân học vụ ở miền biển, Vận bảo chả rươi mà thiếu thì là với vỏ quýt thì ăn

dở mồm lắm. Khi trong đội dân quân tự vệ của thủ đô, Vận bảo xương ống đập

dập băm nhỏ, hành mỡ phi lên bỏ vào, đích thị là món đầu vị của Đường Minh

Hoàng, vị vua Trung Hoa ăn chơi tinh tế vào bậc nhất. Khi lên bản Mún phục

vụ thương binh, Vận kiếm được mấy quả bưởi rừng về, bóc ra cả mớ tép chua

rức răng, trộn với hoa chuối thái làm nộm. Không có lạc vừng, anh rang gạo

giã thính bỏ thêm, cả trạm như lại được cái ngày liên hoan kỉ niệm ngày nước

nhà độc lập. Khi bơ vơ, đói khát ở vùng đất chẳng tây cũng chẳng phải ta, nhờ

tài năng nấu phở mà Vận sống một cách thoải mái. Khi về biệt thự Hoa Hồng

của mình, Vận mở quán Bún thang Vườn hồng, tiếng tăm của anh vang dội, báo

69

chí đến tìm, tướng Pháp, chuyên gia trường Viễn Đông Bác Cổ ghé thăm không

phải một lần. Cũng nhờ tài năng ấy mà Vận khẳng định được vị trí và vai trò của

mình trong một nhà hàng nối tiếng của thành phố, và gặp lại Bơnoa năm xưa,...

Cái tật của anh cũng là cái tật chung của các nhân vật nam chính trong

tiểu thuyết của Trần Chiến đó là tính ngoại tình. Vận tuy đã có vợ đẹp, con khôn

nhưng anh không bao giờ cưỡng lại được vẻ đẹp của các cô gái, anh quấn lấy họ

bằng tri thức, chinh phục họ bằng tài năng pha chế, nấu nướng. Chính những

năng lượng ấy khiến cho các cô ở lớp học bình dân học vụ, các cô trên trạm y tế

bản Mún dù biết anh đã có gia đình ; rồi đến cả các cô gái có chồng (như Tin

làm quán phở ở phố Đãn Trừu) cũng đeo bám lấy anh. Nhưng không phải đối

tượng nào Vận cũng dễ dàng qua lại. Người con gái duy nhất mà Vận có quan

hệ sâu sắc đó Tuyết, sau này là Tuyết phe ở chợ hàng Da.

Dù cậu ấm là độc đinh trong một gia đình trung lưu, sớm tiếp xúc với văn

hóa thị thành nhưng mọi việc làm ăn, kinh doanh lại đều do Như Ý vợ anh quyết

định. Anh ít có được những quyết sách có tính chiến lược, dù là dự thảo cho việc

kinh doanh của gia đình. Văn hóa thị thành thời biến động không cho Vận

những lì lợm, táo bạo như người ta vẫn thường hình dung, cho nên Vận rất sợ bị

bắt, bị tra tấn, có lần anh phải bật khóc vì bị địch hỏi cung. Vận chỉ đấu trí được

với Chiêm con dì Phú chứ không thể có gan liều mạng như nó, nhưng cũng

không đủ khả năng để xoay chuyển cái ác theo chiều hướng có lợi cho mình,

thành ra nhiều lúc Vận ấm ức, tức bực mà không thể làm gì nổi. Có quyền, có trí

tuệ nhưng vì tình mà phải thua Chiêm bợm bạm, câng câng không ít lần.

Trong chiến tranh, trong hoàn cảnh gia đình như Vận, với tính cách như

Vận, người ta có thể dễ dàng suy luận anh có thể cùng gia đình bỏ đi Nam hoặc

tách hẳn mình ra khỏi cuộc kháng chiến mưa bom bão đạn. Nhưng không, Vận

vẫn vui vẻ ủng hộ kháng chiến kiềng vàng, đem trí tuệ đi dạy bình dân học vụ ở

nơi xa, tham gia đội tự vệ thủ đô, giúp mẹ làm từ thiện cứu đói, lên căn cứ phục

vụ thương binh, cùng với Dục đi vận động thân sĩ trí thức ra giúp chính quyền

70

mới, mua trái phiếu ủng hộ kháng chiến, không hề khai báo những gì thuộc về

cơ sở cách mạng dù rất sợ đòn roi, cho con đi tham gia văn nghệ quần chúng

phố phường rồi lên đường chiến đấu, tuân thủ các quy định của chính quyền

mới, không rời bỏ thủ đô trước những bước ngoặt của lịch sử,... Vận bình dị

giữa cuộc sống mà nặng lòng với cuộc đời. Giữa bão tố của thời cuộc, Vận vẫn

chắt chiu những giá trị văn hóa của Hà thành mà anh đã gửi cả vào văn hóa ẩm

thực đầy hấp dẫn.

2.3.2. Nhân vật thuần khiết về tính cách

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi tạm đặt ra khái niệm thuần

khiết về tính cách khi tiến hành khảo sát tiểu thuyết của Trần Chiến. Từ công

việc ấy, chúng tôi tạm quy ước khái niệm thuần khiết về tính cách có nghĩa là

duy trì một kiểu lối sống nhất định: có niềm tin thì thuần hậu, trong sáng nhưng

khi mất niềm tin thì nghi ngờ, đấu tranh đòi lại song cũng không nhất thiết phải

đòi lại bằng mọi giá. Từ quy ước đó chúng tôi mới có thể nhận diện đặc điểm

chung của các nhân vật trong tiểu thuyết của Trần Chiến. Ở phương diện này,

các nhân vật thường là các bà vợ yêu thương và tin tưởng chồng con một cách

rất bình dị. Khi người chồng có gian díu bên ngoài, họ rất bất bình nhưng họ

không bao giờ dùng những chiêu trò đánh ghen tàn nhẫn, những thủ đoạn trả thù

tàn bạo. Và ở mỗi nhân vật, sự biểu hiện cũng rất phong phú, tự nhiên.

Đầu tiên phải nói về Xuyên, vợ của Toán trong tiểu thuyết Bốn chín chưa

qua. Xuyên kém chồng năm tuổi, là một người phụ nữ nông thôn trung hậu, hiền

lành. Xuyên yêu gia đình một cách đơn giản, tin vào chồng như mình tin yêu

vào gia đình của mình. Xuyên không bao giờ hoài nghi về Toán, một phần công

việc chiếu bóng mỗi đêm ở các xã, một phần Toán vẫn rất chăm chỉ lao động

cho gia đình, không kiếm cớ đánh vợ, chửi con. Đấy là niềm tin của những

người phụ nữ có tính truyền thống trong xã hội nông thôn bao đời nay.

Tuy nhiên, khi niềm tin ấy bị phản bội cũng lại trở nên hết sức dữ dội. Khi

biết chuyện chồng mình ngoại tình với Thơm, Xuyên đã phản ứng rất mạnh mẽ.

71

Lại còn cãi cho nó. Chồng chết thì đâm anh đâm em chú bác họ hàng về mà

chầy cối chứ rủ rê mãi đâu đâu. Quân cướp chồng người chỉ đáng trôi sông.

Dường như càng tin yêu thì khi mất đi càng đau khổ đến cùng cực. Xuyên bộc lộ

những cảm xúc qua những lời than khóc rất não lòng, đánh mắng con gái khi nó

nhõng nhẽo, mượn cớ chửi nó để nhiếc móc luôn cả chồng. Trong cơn phẫn uất,

Xuyên chạy ra sân đạp vỡ chum, vỡ né. Giận thân, giận đời đến mất tỉnh táo,

Xuyên trở nên lắm mồm. Bất cứ lúc nào là có thể là chì chiết, hoặc chan tương

đổ mẻ ngay được. Những phản ứng đôi khi rất tiêu cực của Xuyên khiến cuộc

sống gia đình có lúc như rơi vào chốn địa ngục.

Mẹ Xuyên đã mất, bố cô khuyên cũng chẳng được, chồng ngỏ ý xin cưới

Thơm làm vợ hai nhưng Xuyên nhất định không chịu chấp nhận chồng chung

với người đàn bà khác. Dù phẫn nộ như thế, và có thừa khả năng tìm Thơm để

lành làm gáo, vỡ bỏ đi nhưng Xuyên không hề làm cũng như không thấy cô

sang xóm giềng than vãn này nọ. Muốn có một sự sửa chữa thực sự từ Toán,

Xuyên âm thầm chịu đựng, cũng như cắn răng khi Toán bỏ nhà đi với Thơm, lần

sau về lại lấy luôn thằng Téo mang theo vào Tây Nguyên. Xuyên bền bỉ, âm

thầm cho đến khi lâm bệnh và qua đời.

Nhân vật Trâm, vợ nhà báo Vĩnh trong tiểu thuyết Đèn vàng cũng là một

người tin yêu gia đình chồng con hết mực. Lấy nhau từ những năm tháng bao

cấp khó nhọc, cả hai đùm bọc lấy nhau nuôi con cái, ra sức làm thêm để có tiền

chi tiêu. Điều đó lại củng cố cho Trâm niềm tin về gia đình của mình. Khi các

con đã lớn, Vĩnh dù làm báo, đi nhiều nơi, chơi nhiều chỗ vẫn ân cần với các

con, dù cũng có những lúc không bằng lòng nhưng vợ chồng đầu gối tay ấp,

Vĩnh luôn quý trọng những bữa ăn của cả gia đình, tuân thủ nguyên tắc không

cãi nhau trước mặt con.

Tuy bận rộn với công việc kiểm toán nhưng mọi việc chi tiêu trong gia

đình, Trâm quán xuyến khá tốt, khiến Vĩnh cũng yên tâm với nghề. Thấy chồng

yêu nghề quá, hay giãi bày những điều khổ sở vì những điều phải viết những bài

72

báo không như ý, Trâm rất lo cho chồng. Tuy sự động viên của cô mang màu

sắc bình quân chủ nghĩa quá, nào là do cơ cấu chung, nào là còn tại trời nữa

chứ, nhưng cũng là một điều dễ được thông cảm, cũng là một cách muốn chồng

đừng quá buồn lòng với nhan nhản những thứ còn đang bất cập trong cuộc sống.

Khi biết chồng có dính dáng tình ái bên ngoài qua điện thoại thôi, Trâm

đã quay sang hét vào mặt cu Minh: Chữ nghĩa thế này à? Tao đã bảo mày bao

nhiêu lần cách trình bày rồi? Một lát sau, rồi gọi Vĩnh xuống nói chuyện bằng

giọng trầm tĩnh nhưng thắt buộc rõ ràng. Anh đừng trí trá. Tôi ghét nhất thói nói

dối. Nói cho anh biết, tôi còn lạ gì... Rồi sự thể không dung hòa được khi những

tích tụ nguồn cơn không được giải tỏa cặn kẽ, Vĩnh phải tản cư đến cơ quan, tạm

xa vợ ít ngày để tránh xung đột không còn lối thoát. Văn có đến khuyên nhủ

Trâm có dịu lại nhưng nhất định không màng đến Vĩnh. Quan điểm của Trâm là

cần một sự tự giác sửa sai từ Vĩnh, do đó khi sóng gió đang chuẩn bị dần qua đi

thì Vĩnh trở về nhà rất bất ngờ. Ra đi đã không lý do lý trấu với nhau, thì trở về

cũng quá đơn giản.

Dù không quá tiêu cực như nhân vật Xuyên ở trong tiểu thuyết Bốn chín

chưa qua, nhưng những biểu hiện trong tính cách yêu thương, niềm tin, giận dữ

ở Trâm cũng khá giống với Xuyên. Và ở tiểu thuyết Đèn vàng này, Trâm cũng

không hề tìm cách nào đó để trả thù Lạc Thư, không hề có những động thái sẽ

dằn mặt nhau cho bõ cơn căm giận cho dù phạm vi Trâm đi tìm gặp Lạc Thư

không quá khăn.

Trầm tĩnh và sâu lắng hơn đó là nhân vật Như Ý, vợ của Vận trong tiểu

thuyết Cậu ấm. Như Ý yêu kính gia đình chồng một cách tự nhiên như quy luật

của tình cảm và bằng một sự hiểu biết của trí tuệ. Như Ý biết cách phụng dưỡng

bố mẹ chồng, biết tâm tính của chồng, biết cách nuôi dạy con. Như Ý biết thân

phận dâu con, biết ăn biết ở nên mọi người trong gia đình Vận cũng rất yêu

thương cô.

73

Khi Vận đi phục vụ trạm y tế thương binh trên miền núi, Như Ý ở nhà,

vừa nuôi con, vừa buôn bán, vừa khởi động lại nhà máy in Dân Cường nên cuộc

sống dần ổn định trở lại, mặc dù lúc ấy cô cũng đang mang rất nhiều âu lo, thắc

thỏm về Vận. Khi biết Vận đang ở với Tuyết vừa bán cà phê, vừa làm thuê cho

hàng phở, Như Ý đã đích thân lên tận nơi. Cô hiện ra thật đĩnh đạc, quần áo tối

màu nhưng là cẩn thận, mắt nghiêm khắc thoáng chút khổ đau nghiệt ngã. Như

Ý xử lí rất lịch sự mà Vận nghe thành ra trơ tráo. Ô, sao nhà ra mà không báo

trước. Đi đường có mệt lắm không? Trong hoàn cảnh ấy, Như Ý với tiền bạc và

quyền lực của mình, cô sẵn sàng cho người xử lí Tuyết một trận theo đúng kiểu

ngứa ghẻ hờn ghen, nhưng cô không làm thế. Như Ý chỉ tay ra phố, chào hỏi rất

chỉnh rồi chân đi, đầu không ngoái lại. Tình thế ấy khiến Vận trở thành người

hùng râu quặp. Rồi sau đó là chi tiết khi màn đêm buông xuống, Vận ngỡ là

được tha, thì vẻ tĩnh mịch đầy đe dọa trở lại khiến anh im thít.

Cách đối diện với sự thể đã rồi của Như Ý vừa bình tĩnh, vừa tỉnh táo lại

nghiêm nghị quyết đoán, lịch sự khiến cho những người liên quan và cả những

người ngoài cuộc không thể chối cãi, đặt điều mà vẫn tuân theo, khiến cho Vận

phải lép vế, im lặng và làm theo. Chính cách xử lí khôn ngoan của Như Ý khiến

cho Vận từ đó về sau, có thèm muốn trăng hoa cũng phải kìm lại trong lòng, có

chán cái cảnh vợ chồng đã gấp vào nhau những nếp quen thuộc thì Vận vẫn phải

gấp tiếp.

Tóm lại, hai phương diện về tính cách của nhân vật trong tiểu thuyết Trần

Chiến không hề đối kháng hoặc triệt tiêu nhau mà chúng song song tồn tại, cùng

bổ sung cho nhau để các nhân vật phát triển hợp lí, tự nhiên và hoàn thiện tính

cách của mình.

Có thể nói rằng, điểm nhìn của Trần Chiến trong cảm hứng thế sự đời

thường được nhà văn thể hiện khá đa dạng với nhiều góc độ, nhiều mảng màu

sáng, tối, đan xen. Đi bên cạnh những sự kiện trọng đại trong bước chuyển mình

của lịch sử là một dòng chảy âm thầm mạnh mẽ, cuốn trong đó rất nhiều những

74

mặt khác nhau của đời sống xã hội. Cảm hứng về Hà Nội cũng chứa đựng nhiều

góc nhìn mới về mảnh đất, văn hóa và con người tri thức thủ đô. Dưới những

khẩu hiệu, những phong trào, còn là những góc khuất của cuộc sống với những

kiếp người mới chuyển đến Hà Nội sinh sống. Cốt truyện không phức tạp nhưng

vẫn đủ đầy tính hấp dẫn, tính hiện thực lịch sử, tính nghệ thuật của thể loại.

Nhân vật vừa thống nhất về mẫu số tính cách nhưng ở mỗi nhân vật lại có những

biểu hiện tự nhiên, sinh động, đặc thù trong các tiểu thuyết của nhà văn. Đó

cũng chính là những dấu ấn riêng trong phong cách tiểu thuyết Trần Chiến.

75

Chƣơng 3

MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

3.1. Ngôn ngữ, hình ảnh trong tiểu thuyết của Trần Chiến

Như chúng tôi đã nhận định: Tiểu thuyết của Trần Chiến mang một phong

cách riêng: bình dị, sâu lắng, gói ghém kín đáo những tâm tư thế sự thông qua

việc kết hợp hài hòa giữa những chất liệu của văn hóa truyền thống với những

biến đổi tinh vi của bối cảnh xã hội đương thời. Góp phần thể hiện phong cách

ấy là hệ thống các phương tiện nghệ thuật biểu hiện trong tiểu thuyết của

nhà văn.

3.1.1. Ngôn ngữ đối thoại đời thường, đậm chất dân gian.

Các nhân vật trong tiểu thuyết của Trần Chiến đều sử dụng ngôn ngữ rất

đời thường, đậm chất dân gian trong giao tiếp đối thoại giữa các nhân vật với

nhau hoặc chính nhân vật đối thoại với chính mình. Hệ thống ngôn ngữ ấy vừa

phù hợp với sự phát triển của tính cách, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống lại vừa thể

hiện sự sáng tạo thẩm mĩ trong phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Ngôn ngữ đối thoại mang tính đời thường được sử dụng xuyên suốt các

tác phẩm gắn liền với các sự việc và tình tiết. Tính đời thường ở đây gắn chặt

với bối cảnh xã hội mà nhân vật giao tiếp và thể hiện. Trong Bốn chín chưa qua,

khi dự bữa cơm bốc mộ cho bà Năm, bà Nhu bảo chồng Giời đi vắng, ông tôi

hôm nay nói hay quá. Lúc Xuyên nói chuyện với bố về việc Toán ngoại tình,

ông Năm mắng con gái: Con đừng có xồn xồn lên, đanh đá là hỏng việc. Khi

Toán từ Tây Nguyên về quê lúc ông Năm đã qua đời, gặp Bõ Kíp, Bõ Kíp nói

với Toán: Bác Toán đấy ư? Gớm, làm ăn xa, không về chịu tang bố vợ được, tội

nghiệp quá. Hôm đưa ma, cô Xuyên thay anh khấn cho ông cụ đấy,… Những

ngôn ngữ giàu hình ảnh, mang màu sắc cảm thán giúp người đọc hình dung rõ

nét một cảnh giao tiếp sinh hoạt rất quen thuộc trong cuộc sống đời thường ở

nông thôn Việt Nam.

76

Hệ thống ngôn ngữ đối thoại đời thường này còn được nhà văn sử dụng

rất thành thạo, linh hoạt khi viết về cuộc sống nơi phố thị. Trong Đèn vàng, khi

phản ánh về công trình khách sạn Mây Tím sẽ xây dựng bên Hồ Gươm mà báo

Ngôi Sao đăng tin,bác họ Vĩnh, nguyên giáo viên dạy Sử đã gọi điện cho Vĩnh,

nói: Rõ thế mà các anh không thủng a? Chết thật, đang đi làm mà thế thì người

về hưu chúng tôi trông cậy thế nào… Một khi tòa nhà ấy mọc lên thì những ông

già bà cả đi dạo ven hồ sẽ đặt mắt vào đâu, hả. Tất cả các hướng nhìn đều bị

chặn lại rồi. Bức bối lắm. Trong lời phản ánh, ta thấy đúng là nỗi bức xúc của

một người trí thức gạo cội của thủ đô đang rất lo lắng cho một công trình có quy

mô bề thế xây bên cạnh Hồ Gươm. Những ngôn ngữ mang tính chất đời thường

kể cả trong hoạt động nghề nghiệp cũng được Trần Chiến sử dụng khi miêu tả

các cuộc họp giao ban. Tổng biên tập Lập nhận xét: - Phần văn hóa xã hội, anh

Vĩnh gác kỹ nên không có tin bài đáng tiếc nào lọt. Việc học thêm của trẻ con,

tôi thấy ta xới lên như thế đủ rồi, phần còn lại để ngành giáo dục giải quyết nốt.

Báo chí chỉ nên phát hiện, đặt vấn đề cho các cơ quan chức năng. À này, sao

không có thơ hay nhỉ? Trong trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ, ta thấy nhân vật

cũng không quá cầu kì với ngôn ngữ báo chí chuyên biệt hoặc hành chính công

vụ. Rồi Lập lại tiếp: Thôi, phần nghiệp vụ hãy tạm thế đã, kẻo các ông lại bảo

tổng biên tập nói hết buổi. Ta chuyển sang phát biểu. Văn ý kiến về vụ Lệ Viên:

- Cái chính phải vạch ra là chính quyền huyện và ban đền bù của thành phố dìm

giá đất xuống quá đáng,… Như thế, ngôn ngữ giao ban cũng rất đời thường, đan

xen tự nhiên giữa vấn đề chuyên môn và vấn đề của cuộc sống, quan hệ giữa

người nói với người nghe, giữa thủ trưởng đơn vị với các cấp dưới và nhân viên.

Khi bị tay chân của công trình Mây Tím giả giọng tình nhân của Vĩnh, gọi điện

đến nhà tấn công Trâm. Đêm ấy, Vĩnh biết mình có lỗi, Vĩnh quàng tay sang bên

vợ, Trâm nằm như khúc gỗ dù Vĩnh thế nào cũng không thèm đáp lại nên anh

bèn phải nằm riêng ra, thầm nghĩ: Oái ăm thật. Nếu mà không có gì, anh dám

cho cái tát. Như thế, kể cả trong độc thoại nội tâm, nhân vật cũng có những

ngôn ngữ cũng hết sức đời thường.

77

Trong tiểu thuyết Cậu ấm, ngôn ngữ đối thoại đời thường này có thể

thành một hệ thống với những mảng lớn nhỏ khác nhau trong suốt một chiều dài

của thời gian và chiều rộng của không gian nghệ thuật. Lúc Vận còn nhỏ, ông

Thản hỏi: Con đã bao giờ để ý đến cơ ngơi nhà mình chưa? Câu hỏi có vẻ rất

bình thường nhưng lại ẩn chứa tính giáo dục, nhắc nhở con ý thức về gia đình,

về công lao của bố mẹ, về tương lai của con. Khi Vận đi học, Vận đã khéo léo

để thầy Lơru phải trả lời điều đang diễn ra trên đất nước của mình: “Giặc núp

sau bóng Chúa” chứ gì? Vận muốn chính thầy phải khẳng định trước mình và

trước cả lớp một cách thẳng thắn sự thật về việc nhiều người Pháp lợi dụng việc

truyền đạo để xâm chiếm An Nam. Khi xuống xã Dục Thúy dạy bình dân học

vụ, Vận có ý khuyên một bà mẹ không nên ép gả con gái lấy chồng sớm, Vận

nhận được ngay một câu: Ối dào, tỉnh thành các thầy cứ vẽ. Tôi ba năm đôi, vừa

đẻ xong đã ra đồng, đêm về chồng lại đòi, có làm sao. Như thế, đến với thực tế,

ngôn ngữ đối thoại đời thường của người nông dân cũng giúp anh hiểu thêm

được những lí lẽ ở đời, đặc thù lề thói trong cuộc sống mỗi vùng quê.

Cũng trong tiểu thuyết Cậu ấm, ông cử Chén khi được Vận và Dục mời ra

giúp sức cho Chính quyền mới, ông đã than thở về cái thời quân Tây Dương

sang cướp nước ta: Bao nhiêu lễ nghĩa vua tôi, thầy trò, chủ khách, bố mẹ với

con cái, vợ với chồng lộn tùng phèo ráo. Ra đường toàn thấy họ nhà tôm đội cứt

lên đầu tôi đau đớn lắm. Rõ ràng đó là những lời lẽ của một trí thức Nho học

hoài tiếc về nền Nho giáo đã suy tàn, căm giận quân cướp nước đã làm đảo lộn

cuộc sống truyền thống của dân tộc mà ông và nhiều người dân khác chưa thể

làm gì nổi. Khi tinh thần đấu tố địa chủ đang lên cao trong quần chúng, Dục

khuyên vợ chồng Vận cẩn thận, Dục nói với Vận: Chú có gánh bún thang tiếp

tục được. Công nông hay tư sản gì gì đều phải ăn, thích ăn ngon chứ. Trong lời

khuyên ấy, ta thấy chất chứa nhiều nguyên tắc sống cơ bản lúc bấy giờ như: đảm

bảo không bị soi vào diện ăn trên ngồi chốc, bóc lột người lao động, vẫn có cơ

hội tăng thêm thu nhập, ăn uống là điều kiện cơ bản của sự sống rồi mới đến giai

cấp nọ kia, đã nấu ăn thì phải ngon,…

78

Trong ngôn ngữ đời thường ấy chứa đựng luôn cả giọng điệu vừa tưng

tức, vừa hài hước. Trong Bốn chín chưa qua, Thơm bảo với Toán: Em định phá

hỏng tất cả. Rồi ra thế nào lại mua vò rượu thuốc này… cho đàn ông lắm vợ.

Khi Xuyên biết chuyện, Xuyên dằn bát chạy ra sân. Choang, cái chum mẻ vỡ

tan. “Phập phập”. Cái né cũ đựng sau cối giã gạo bị chặt tan tành. May mà

Xuyên chỉ phá toàn những thứ hỏng nát,… Trong tiểu thuyết Đèn vàng, lúc làm

phóng sự về tình trạng dạy thêm, học thêm, Vĩnh đã phải tranh thủ hết sức mới

tiếp cận được với Bình - một thầy ôn luyện Toán có tiếng của thành phố đang

dạy ca kíp ngày đêm. Bình chia sẻ nhiều thứ, trong đó chi tiết: Cầm tiền rồi thì

phải lo trả chữ cho xứng đáng, không học sinh nó khinh mình. Nhưng nghĩ đi

nghĩ lại thì nhà giáo có phải ông thánh đâu mà người ta cứ hỏi nhiều. Một lần,

Vĩnh đang có những ấn tượng về thơ văn như một kỉ niệm quý, Vĩnh chợt nhớ:

Năm kia sang nhà mới, Vĩnh khuân cả đống sách cũ ra đồng nát. Các vị đã gói

xôi ngô, xôi lạc, xôi xéo rưới nước mỡ, hoặc đã được nghiền thành bột làm mũ

cối che đầu, vừa mát vừa cả an toàn nếu đem đánh nhau. Thơ văn, cái chức

năng thứ chín thứ mười này chẳng ai tổng kết đến. Trong tiểu thuyết Cậu ấm,

sau vụ đấu tố địa chủ, Như Ý phải giữ chân lao công khổ cùng nhất trong nhà

máy, kẻ tố chị cũng chưa tha, dù món đòn trả thù đê tiện đó có diễn ra ở nơi thối

tha, hôi hám nhất trong nhà máy. Như Ý chia sẻ với chồng: “Một anh ở tổ sửa

bài thấy có người ị bậy lên bờ, tức mình rút cái bút chì luôn để trong túi áo, vốn

để nhặt lỗi ra, đề lên tường Ỉa cho đúng lỗ mới tài, Ỉa chệch ra ngoài trình độ

còn non. Hôm sau thủ phạm vào, cũng vẫn sẵn bút chì, sinh hứng họa lại Còn

lon thì mặc còn lon, Một hòn ra ngoài nào đã chết ai. Anh sửa bài truy kích

Chết ai thì chẳng chết ai, Một hòn ra ngoài thì mất vệ sinh. Thủ phạm lại cãi

cùn Vệ xinh thì mặc vệ xinh, Kỹ thuật chung bình chỉ có thế thôi. Sự ngoan cố bị

truy kích đến cùng Thế thôi thì hãy về nhà, Bao giờ tiến bộ thì ra đây ngồi, kèm

theo một câu chửi rất tục”. Tất nhiên, sau đó kẻ ngang cùn không thể đối đáp

thêm, và Như Ý không phải dọn những đống bậy bạ nữa. Lúc thằng Sâm con thứ

hai của vợ chồng Đằng Tứ cậy bố là cán bộ, ra chợ Đồng Xuân làm những điều

79

xấu xa, mất dạy, bà Tứ xích chân con vào gầm cầu thang, cầm đòn gánh nện túi

bụi, vừa đánh vừa chửi: Đẻ con khôn mát l.. rười rượi đẻ con dại thảm hại cái

l… Lớn rồi chỗ nào cũng liếm như thằng bố mày thôi. Vừa chửi xong, Đằng đi

họp về nghe thấy, liền chạy lên tát thẳng cánh vào mặt vợ “Đ. mẹ bố mày làm

cán bộ rồi mày còn giở thói lăng loàn để tao có đằng tiến bộ không hả hả”,…

Những ngôn ngữ giáo dục của vợ chồng dân Hà Nội quê cứ ngang tai trái mắt

như thế… Tất cả đều được nhà văn tái hiện rất sinh động, phù hợp với nhân vật

và hoàn cảnh giao tiếp, tạo nên ấn tượng đặc biệt.

Tính đời thường trong ngôn ngữ đối thoại còn thể hiện một cách khá

thông tục, qua những lời mắng mỏ, chửi rủa hoặc những trò chuyện ngoài lề.

Trong Bốn chín chưa qua, Toán nói chuyện về việc khai thác gỗ lậu, Cung

“xồm” văng tục: Đ.mẹ bọn kiểm lâm, tha đ.gì chúng nó. Toán nói chuyện tiền

công lao động nên trả cho anh em, Cung “xồm” chửi rất tục tĩu: Tiền cái đ.mẹ

mày,…Những từ ngữ ấy đã góp phần tố đậm bản chất lưu manh, khốn nạn của

kẻ cầm đầu nhóm lâm tặc đã từng trốn trại.

Trong tiểu thuyết Đèn vàng, khi Sắc nài nỉ và động viên Vĩnh đi ăn liên

hoan quận Hàng Bí đón huân chương Lao động, Vĩnh bảo Sắc: Tôi thì văn

chương chó gì. - Vĩnh cười hô hố. Đoạn Vĩnh và Văn nói chuyện ở quán bia hơi

về việc Sắc ăn hối lộ nhiều, ở dưới cơ sở họ kêu ầm ầm, Vĩnh bảo Văn: - Thì

ông là sếp, ông góp ý thẳng với nó đi. Văn phản ứng: - Cậu định xui tớ ăn cứt gà

sáp đấy hả? Ta thấy, ngoài công việc, những nhà báo trong những lúc chuyện

trò vẫn là những người rất đời thường, ngôn ngữ cũng rất thông tục, không quá

câu nệ, khách sáo hoặc lịch sự thái quá.

Trong tiểu thuyết Cậu ấm, ngay những trang đầu tiên, hình ảnh những

người đi buôn mang gánh gồng lên đi tàu điện, tỏ thái độ ngang bướng thì ngôn

ngữ của họ cũng được tác giả tái hiện một cách tự nhiên: - Đang ế rau bỏ mẹ

đây! Rồi khi được Vận góp ý, một bà nổi cáu: Tự do gì có thứ ấy. Thích ngửi cứt

thì bày lên bàn thờ nhà mình chứ? Đó là một thứ ngôn ngữ theo kiểu chợ búa,

80

coi thường pháp luật, không có ý thức xây dựng nếp sống văn minh, mặc dù sau

đó họ phải nộp tiền vé và thu dọn hàng hóa gọn gàng trước những lời phân tích

đầy nghiêm chỉnh của Vận. Còn khi Chiêm và Vận tranh luận về thành phần

trong xã hội, Chiêm văng tục: - Bì thế nào được. Nhà tao căn cốt nông dân,

không bao giờ thèm giẫm cứt Tây đầm. Vận nói: - Nhưng nông dân đang ở nhờ

nhà tao đây thôi. Chiêm cáu cục: - Cứ đợi đấy. Bố mày đè bỏ mẹ bọn thị thành

có ngày. Chơi nhau chứ! Sợ hả! Ngôn ngữ ấy đã biểu hiện một thái độ hết sức

ngang bướng, ngông cuồng của Chiêm. Chiêm cố ý tỏ ra phân biệt giai cấp, miệt

thị thành phố, nuôi nấng mối thù trong khi Chiêm còn đang ăn học và ở nhờ gia

đình Vận. Khi đi dạy lớp bình dân học vụ ở miền biển, lòng tốt của Vận bị đáp

lại một tràng: Biết thì nói cười thơn thớt không biết dựa cột mà nghe. Đừng có

mà trêu vào gái góa này, chọc cứt ra mà ngửi đấy. Những lời lẽ đó quả là rất

khó nghe, nhất là đối với một trí thức nhiệt tình như Vận. Nhưng nó cũng nhắc

nhở anh phải cẩn trọng hơn và cần có những giới hạn trong giao tiếp mặc dù nó

xuất phát từ lòng chân thành giản dị.

Không chỉ là sự hiểu biết lời ăn tiếng nói của dân gian, các nhân vật trong

tiểu thuyết của Trần Chiến còn vận dụng sáng tạo cách nói của người xưa để

tăng sức biểu cảm, tăng hiệu quả diễn đạt trong đối thoại, nhất là những hoàn

cảnh mới. Ta bắt gặp một loạt các hình ảnh, từ ngữ trích ở ca dao, tục ngữ, thành

ngữ, khẩu ngữ,…ở cả ba bộ tiểu thuyết. Trong Bốn chín chưa qua, lấy câu tục

ngữ “Ăn vụng phải biết chùi mép”, nhân vật Toán tự biện hộ cho mình không

thấy mình có lỗi với vợ, chỉ tự nhủ phải chùi mép kỹ mới được. Nói về Thơm khi

cặp kè gian díu với Toán, mấy người rỗi việc kháo nhau đúng là “Thài lài gặp

cứt chó rồi”. Xuyên mắng rủa chồng khi biết tin chồng bội bạc, vụng trộm với

gái góa là cô Thơm xóm Đông: Sướng nhỉ, được con mèo mả gà đồng chồng

chết thối ra không có thằng nào quờ nó ẵm, nó hút hết hồn vía. Bố đẻ khuyên

Xuyên bình tĩnh, lựa lời, Xuyên phản ứng rất mạnh mẽ: Lành làm gáo, vỡ vứt đi,

chứ tiếc gì. Những câu thành ngữ, tục ngữ trong dân gian như “mèo mả, gà

đồng” ; “lành làm gáo, vỡ làm môi, lôi thôi làm thìa” được vận dụng khá thành

81

công và táo bạo. Khi Minh bị sốt li bì ở khu vườn đang cải tạo, Toán nằm bên

cạnh con: Chết thôi, ông tướng chưa nóng nước đã đỏ gọng. Thành ngữ “chưa

nóng nước đã đỏ gọng” vừa để chỉ sức con non quá, vừa thể hiện nỗi niềm

thương con của Toán,...

Đến tiểu thuyết Đèn vàng, từ thành ngữ “Chó treo, mèo đậy”, nhưng để

diễn tả tâm trạng của Lập mấy hôm nghỉ tết đến bây giờ mới được đi gặp Dung

tình nhân, nhà văn lại chuyển thành Cơm treo, mèo nhịn. Lập muốn Dung từ

nhân viên tạp vụ lười biếng nhưng xinh đẹp lên làm phóng viên, lúc được

Xuyên, đại diện cho Công đoàn ủng hộ, tác giả viết: Lời nói làm Lập mở cờ

trong bụng. Thật đáng đồng tiền bát gạo, khi cách đây một năm, ông đặt Xuyên

vào ghế thư ký công đoàn. Trong trường hợp này cả thành ngữ “mở cờ trong

bụng” và khẩu ngữ “đáng đồng tiền bát gạo” được xử lý rất khéo để diễn tả tâm

trạng đắc ý, vui sướng vì công của Lập đã bỏ ra có hiệu quả. Khi chia tay các

nhà báo, cán bộ xã Lệ Viên bần thần: “Thôi, thế nhé, các ông có viết gì thì đoái

trông xuống mặt nước ao bèo…” Hình ảnh “mặt nước ao bèo” rất gần gũi với

thôn quê và từ lâu đã là biểu tượng cho thân phận bé mọn, nổi nênh của những

người nông dân nghèo khổ,...

Sang đến tiểu thuyết Cậu ấm, ngôn ngữ đối thoại đậm chất dân gian cũng

được nhà văn thể hiện một cách sinh động, rõ ràng. Nói về gia đình ông cử Chén

vẫn thiết tha với giá trị của Nho giáo, tác giả viết: ông lấy bà răng đen con nhà

chân chỉ hạt bột, đẻ đàn con nhất mực nuôi dạy theo kiểu “giấy rách phải giữ

lấy lề”. Khẩu ngữ “chân chỉ hạt bột” và tục ngữ “giấy rách phải giữ lấy lề” ở

đây dùng để khẳng định một lần nữa sự chủ động lựa chọn và quyết tâm sống

theo đường lối Nho giáo của ông cử Chén, cho dù xã hội đã bước sang thời kỳ

mưa Âu gió Mĩ. Hồi ông Đỗ Như Thản còn nhỏ, chạy bán lạc rang cho bà Thái,

vợ ông bác Đỗ Chính Bình, sau khi nghe dự tính của Thản bà Thái nói: Cái

thằng này, chưa nóng nước đã đỏ gọng. Lần này thành ngữ “chưa nóng nước đã

đỏ gọng”, bên cạnh nghĩa còn non nớt, nó lại dùng để nhắc nhở cháu đừng vội

làm ăn trộn trẹo, không biết giữ chữ tín. Hai anh em đi tắm sông Hồng đoạn

82

Long Biên, Dục khuyên Vận nên học hành, Vận lại bảo chỉ thích nấu ăn. Dục

thấy Vận nói mãi về sở thích của mình, liền bảo em: Ừ, thôi thân lừa ưa nặng

thì sau này khỏi kêu. Trong trường hợp này, thành ngữ “thân lừa ưa nặng” được

sử dụng rất hợp lí vì Vận là cậu ấm con nhà gia giáo, trung lưu, lẽ ra phải biết

phát huy sự nghiệp của gia đình để trở thành ông chủ, hoặc cũng trở thành

những gương mặt mà nhiều người mơ ước lúc bấy giờ như bác sĩ, thông ngôn,

thầy phán,... để được người khác phục vụ. Lúc dì Phú mang Chiêm xuống gia

đình bác Thản gửi gắm, dì đẩy Chiêm về phía Vận, bảo: “Anh Vận đấy, con chịu

khó học, gần đèn thế nào cũng sáng”. Câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn

thì sáng”, bà Phú chỉ lấy vế sau, điều chỉnh một ít nhưng giữ lại nguyên nghĩa

nhằm: ngợi ca ông bà Thản đã giáo dục con tốt, thể hiện niềm cung kính, sự

khiêm nhường của người bề dưới đang đi nhờ vả một việc hết sức quan trọng,

các con các cháu cùng giúp đỡ nhau tiến bộ, thể hiện sự an tâm và niềm tin

tưởng vào sự đổi thay,…

Có thể nói rằng, ngôn ngữ đối thoại đời thường, đậm chất dân gian được

Trần Chiến sử dụng rất uyển chuyển, sáng tạo, linh hoạt ; vì thế nó đem đến cho

văn hóa, văn học dân gian thêm những giá trị mới. Chỉ qua một số ví dụ tiêu

biểu, ta thấy khả năng vận dụng ngôn ngữ dân tộc của các nhà văn nói chung và

của Trần Chiến nói riêng là vô cùng lớn. Điều đó cũng biểu hiện cách hành văn

rất riêng của Trần Chiến.

3.1.2. Hình ảnh gần gũi, chân thực và sống động

Trước hết, là các hình ảnh lớn, có tính đại diện, mang tính cộng đồng. Về

phương diện này, cả ba tiểu thuyết đều đề cập đến hình ảnh gia đình một cách cụ

thể, gần gũi và chân thực. Ở tiểu thuyết Bốn chín chưa qua là một mô hình gia

đình nông thôn với những bất ổn mà ban đầu thuộc về phía người chồng. Sự

tham lam của anh Toán khiến mô hình gia đình của anh mở rộng, dù sự mở rộng

về phía sau chưa được pháp lí ở quê hương công nhận. Chính vì thế, cái được

gọi là gia đình của Toán trong vùng đất mới Tây Nguyên có rất nhiều ảnh thờ:

83

ảnh thờ bố mẹ Toán, ảnh thờ bố mẹ Xuyên, ảnh thờ bố mẹ Thơm, ảnh thờ chồng

của Thơm, ảnh thờ của Xuyên. Về các con, Toán có đủ cả cấu trúc “con anh,

con tôi, con chúng ta”, bao gồm: thằng Téo (Minh), cái Tèo (Mẫn) là con của

Toán, thằng Lâm là con của Thơm và cái Thúy là con của Toán và Thơm.

Nhưng cuối cùng Toán cũng ra đi mà nguyên nhân do chính anh kết luận: “Chết

vì đã sống quá nhiều”. Đây là một mô hình gia đình không mới trong xã hội

nông thôn Việt Nam từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ XX. Sự vận động của

mô hình này khiến cho chúng ta cảm thấy những con người như Toán, Xuyên,

Thơm vừa đáng giận lại vừa đáng thương. Nó phán ánh một thực trạng xã hội

sau khi Đất nước tiến hành công cuộc đổi mới.

Hình ảnh gia đình trong tiểu thuyết Đèn vàng là một gia đình trí thức thủ

đô thời kinh tế thị trường đã xâm lấn gần như trọn vẹn nền kinh tế hàng hóa tập

trung bao cấp. Vĩnh là một nhà báo yêu nghề nhưng tình yêu nghề của anh lại

không dễ chia sẻ một cách ngọn ngành và cảm xúc với Trâm. Cuộc sống, nghề

nghiệp đã đưa Vĩnh đến với những cơ hội khác, trong đó có Lạc Thư. Lạc Thư

và Vĩnh có mối đồng cảm khá sâu sắc trong nghề nghiệp. Cả hai đều trọng tình

nghĩa, không quá nặng nề về kinh tế. Lạc Thư đã bỏ chồng và một mình nuôi

đứa con gái vì chồng của cô quá thực dụng, can thiệp cả vào những tình cảm

thiêng liêng của Thư. Vĩnh may mắn hơn, Trâm làm kiểm toán nhưng rất biết

chăm lo hạnh phúc gia đình. Hai vợ chồng yêu nhau từ trong gian khó nên Trâm

rất tin yêu chồng. Vĩnh cũng không hẳn là tham lam nhưng anh cũng không phải

là người nghiêm túc trong tình yêu, coi trọng sự chung thủy. Anh vẫn yêu

thương vợ con nhưng cũng “sắt son” với bồ bịch. Khi sự vụ đã ảnh hưởng

nghiêm trọng thì Vĩnh và Thư đã biết dừng lại. Đây là một biểu hiện của một

kiểu mô hình gia đình mới trong xã hội hiện đại. Hai vợ chồng vẫn nêu cao trách

nhiệm với con cái và ông bà hai bên, vẫn biết ở mỗi người đều có những khoảng

trời riêng nhưng cũng sẵn sàng tha thứ cho nhau khi bên có lỗi đã thực sự ăn

năn, hối cải.

84

Gia đình trong tiểu thuyết Cậu ấm là gia đình lớn, trải qua nhiều thời kì

khác nhau của lịch sử. Gia đình cậu ấm Vận là gia đình trí thức trung lưu. Từ

đời ông Thản, bố cậu ấm đã duy trì được nền nếp vừa hiện đại lại vừa truyền

thống. Nhà ở kiểu Tây nhưng nghi lễ truyền thống, sinh hoạt trong gia đình lại

hài hòa giữa văn minh Hà thành và văn minh phương Tây. Điều đáng lưu ý, đây

là mô hình gia đình gần như mẫu mực. Vợ chồng, con cái tuy có lúc này lúc

khác nhưng đạo nghĩa thì vẫn giữ trọn thứ tự tôn ti trên dưới. Bà Hiền Thục rồi

đến con dâu Như Ý đều là những người phụ nữ sống có trước sau. Ông Thản,

tuy có nhiều điều kiện, nhưng cũng không lấy vợ hai mặc dù đàn ông giàu có ở

đầu thế kỷ XX, lấy nhiều vợ là chuyện rất bình thường. Đến cậu ấm Vận, tuy có

lúc sa ngã theo bản năng đàn ông và máu nghệ sĩ với Tuyết nhưng cả hai cũng

xác định dừng lại, để những gì đẹp đẽ trên Đãn Trừu không bị phai. Sau là Tín,

con trai của Vận cũng rất chăm chỉ học hành, lao động và chiến đấu, Tín cũng

mang trong mình tình yêu với Dịu rất ngọt ngào nhưng Tín vẫn biết đạo làm

con. Đây là một trong những mô hình gia đình của Hà Nội văn minh, thanh lịch,

để lại cho chúng ta rất nhiều cảm xúc và suy nghĩ về mối quan hệ giữa gia đình

và thời cuộc.

Bên cạnh đó là hình ảnh về mô hình những gia đình phải ở ghép trong

một ngôi nhà tại Hà Nội. Nguyên nhân phải ở chung nhà là thời kỳ xã hội tiến

hành cải cách tư sản, đấu tố địa chủ. Đó là trường hợp gia đình của Vĩnh trong

Đèn vàng, là gia đình của Vận trong Cậu ấm. Cả hai gia đình này đều có những

nét khá giống nhau. Nhà hai tầng, trong nhà nhiều tài sản quý, xung quanh đều

có những cây long não và hoa cảnh rất đẹp. Họ phải ở ghép với những gia đình

quê Thanh Hóa, ban đầu rất lễ phép, sau đấy giảm dần thái độ biết ơn, rồi tự cho

mình buông tuồng, suồng sã để hợp với quần chúng. Tuy mỗi gia đình một tầng

riêng nhưng cả gia đình Vĩnh và Vận đều phải chịu cảnh gia đình mới đến vay

mượn đủ thứ cho sinh hoạt từ thìa mỡ, đến lít nước mắm, rồi rất tùy tiện trong

sinh hoạt chung và vệ sinh cá nhân. Thi thoảng họ lại phải lắng nghe những chửi

bới rất tục tằn, thô lỗ ; chứng kiến những tiếng đánh tát lẫn nhau thô bạo ; thậm

85

chí là những lời xỉa xói về giai cấp, bóng gió về bóc lột rất cay nghiệt từ những

gia đình mới đến. Tác giả gọi vui những gia đình mới đến là những người “Hà

Nội quê”.

Tiếp đến là những hình ảnh cụ thể hơn nhưng được sử dụng nhiều lần như

một ám ảnh nghệ thuật. Đó hình ảnh bờ đê sông Cái sạt lở. Trong cái làng của

Toán ở tiểu thuyết Đèn vàng được miêu tả: Nhưng làng Đóm mỗi ngày mối leo

lét. Bởi sông Cái lở, những hộ có đất ngoài bãi phải bỏ đi khá nhiều, kẻ vác rá

ăn xin quanh các lễ hội, người vào tận cao nguyên lập nghiệp. Trong Đèn vàng

là cái làng của Trâm, vợ Vĩnh: Nhưng hai năm rồi dòng chuyển, con nước vặn

về bên này, chảy xói vào, bờ sông dựng đứng thành vại đêm đêm lở ùm ùm. Mỗi

sáng ra, nhìn vạt cà chua trôi xuống sông một ít, lòng người như xát muối. Cả

hai hình ảnh quen thuộc đều gợi lên thực tại những xót xa, những kiếp sống khó

nhọc, những sự bất lực của con người trước thiên nhiên và gợi lên cả cảnh xóm

làng li biệt. Cũng là dòng sông sụt lở ấy nhưng làng quê của vợ Vĩnh sau đó một

vài tuần còn được chính quyền chú ý còn làng quê của Toán dường như chưa

thấy dấu hiệu của cải tạo, bồi đắp, nó cứ biền biệt trôi đi vào quên lãng.

Hình ảnh về những nấm mộ và nỗi ám ảnh khi nhìn vào những tấm hình

thờ người chết cũng được nhà văn gợi tả khá mạnh. Trong tiểu thuyết Bốn chín

chưa qua, đó là nấm mộ của bà Năm, mẹ vợ của Toán sau khi bốc. Nấm mộ đã

xong, nằm chênh chếch miệng huyệt cũ, nom gọn ghẽ đến bé nhỏ. Đến khi ông

Năm chết, Toán về, thấy : Mộ ông Năm đắp cao, vuông vức nằm cạnh nấm mồ

nhỏ của bà vợ. Mưa tháng tư chưa đủ để những mầm cỏ lên, thành thử trông cứ

trơn chuối như thành vại. Đó còn chính là nấm mộ của Toán ở cuối tác phẩm,

nấm đất mới đắp phủ kín tấm áo quan bên dưới, bên trong là anh còn chưa kịp

cạo râu,… Những ngôi mộ dường như đang gợi hình về chính cuộc đời của

những người nằm xuống. Cuộc đời bà Năm có vẻ “chênh vênh” nên bà đã chết

trước ông Năm ; ông Năm chết sau nhưng chắc chẳng còn ai được các cháu gần

gũi chăm nom, tất cả cứ trơn chuối ; cuộc đời Toán sống hối hả, tham lam nên

khi chuẩn bị nằm xuống cũng còn chẳng kịp cạo râu. Trong tiểu thuyết Cậu ấm,

86

sau khi đưa mẹ về quê an táng bên cạnh cha, Vận thấy mình trở lại bãi tha ma.

Hai ngôi mộ song thân, một mới một cũ, giờ trông có vẻ bề thế, nhưng ít hôm

nữa sẽ giản dị như những nhà bên cạnh, lâu lâu thành nấm lùn, trăm năm nữa

thành vô chủ, chắc thế. Có lẽ, nhà giàu, sống có trước sau nên khi chết đi, mồ

mả cũng bề thế chăng? Và cả những quy luật phủ định của thời gian nữa.

Về nỗi ám ảnh về những tấm hình người chết được miêu tả khá cụ thể

trong cảm nhận của Toán ở tiểu thuyết Bốn chín chưa qua. Đầu tiên là việc anh

về nhà chịu tang bố vợ, sau đó anh sang nhà Thơm quét dọn thu xếp bán nhà.

Toán lau bàn thờ, ảnh hai thân Thơm nhìn rõ nghiêm khắc, như thể mày là cái

thằng nào mà đụng vào con gái tao. Rồi đến giá treo ảnh của chồng Thơm với

độc bát hương, anh ta trẻ, trông hiền lành lắm, so với vợ thì non nớt hơn nhiều.

Anh dồn ảnh của các cụ để mang vào Tây Nguyên. Đêm xuống, Toán thắp ba

nén hương rồi tắt đèn. Ba chấm đỏ như ba con mắt nhìn anh nghiêm khắc. Các

cụ đấy, thân sinh ra Thơm, ra anh, rồi ông bà Năm, những người đáng kính nay

đã thành thiên cổ cả. Sau cùng là những ám ảnh của Thơm khi lần cuối cùng

Toán ra Bắc vì Xuyên ốm nặng và qua đời. Anh trở vào Tây Nguyên cùng con

gái Mẫn và mang theo ảnh của vợ. Bên trên có bàn thờ lục thân phụ mẫu và bố

cu Tí. Bức thứ tám là người phụ nữ còn trẻ nhưng héo hon, đôi mắt buồn nghiêm

nghị nhìn xuống cả nhà. Trong tiểu thuyết Cậu ấm, đó là hình ảnh bàn thờ tổ

tiên và ảnh bố mẹ Vận. Khi gia đình Đằng Tứ bên trên không có ý thức giữ gìn

không gian thờ tự thiêng liêng của gia đình Vận, vợ chồng Vận buộc phải mua

gạch xây ngăn lại, buộc phải chấp nhận tự thu hẹp không gian lại dù đã được

phân chia ngay từ đầu. Trên bàn thờ, ông Đỗ Như Thản và bà Hiền Thục chừng

như cũng đồng ý, dịch bát hương mà chả ỏ ê phạt con cháu. Cũng là vì trước đó

vợ chồng Vận về tận quê, mộ xin. Nhìn vào những bức ảnh thờ tự là việc rất bình

thường trong không gian văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Nhưng khi đi vào

tiểu thuyết của Trần Chiến, nó đã trở thành những dấu ấn riêng, góp phần vào

quá trình xây dựng và phát triển tâm lí nhân vật của nhà văn.

87

Một hình ảnh nữa được trở đi trở lại trong cả ba cuốn tiểu thuyết của Trần

Chiến đó là các nhân vật xỉa răng. Điều đặc biệt là mỗi lần nhà văn miêu tả động

tác xỉa răng của các nhân vật là thường gắn liền với những tình tiết hoặc biến cố

quan trọng trong cốt truyện. Ở tiểu thuyết Bốn chín chưa qua, khi Toán bị vợ

hỏi đột ngột về việc có anh đã có người khác phải không. Cái tăm đang xỉa dở

chọc cứng vào lợi, chẳng biết đau. Vào Tây Nguyên, lúc ông Hiếu gọi Thơm lên

nhà, bảo cô về động viên chồng nên đi làm thêm, ông Hiếu sẽ giới thiệu cho,

còn việc bán bánh rán thu nhập ít, mình Thơm làm là đủ. Đây cũng là bước

ngoặt của Toán. Miêu tả ông Hiếu nói chuyện với Thơm, nhà văn viết: Cái tăm

đưa đi, đưa lại choanh choách, miệng súc xả oằm oặp. Trong Đèn vàng, để làm

được chùm phóng sự thuyết phục về thực trạng dạy thêm - học thêm, Vĩnh phải

gặp được những tác giả điển hình cho sự thuyết phục đó. Những ẩn số được giải

mã sau cái nhấp tợp rượu, xỉa răng tanh tách của thầy Nguyễn Lâm Bình dạy ôn

thi ca kíp kín ngày. Khi con gái Nguyễn Thanh Tú lên tòa soạn gặp Vĩnh về việc

có kẻ đã gửi thư đến trường bảo Vĩnh nợ tiền quán sá kèm theo tấm danh thiếp

của anh. Vĩnh giải thích cho con rồi dẫn con đi ăn tối. Ăn tối xong, Vĩnh ngầy

ngà, tước nhỏ cái tăm, chọc choanh choách rồi mới lại lựa lời nói với con về

chuyện tại sao mình phải lánh gia đình lên tòa soạn ở một thời gian. Ở tiểu

thuyết Cậu ấm, hôm đầu tiên Như Ý lên Đãn Trừu, cô lịch sự, nghiêm khắc bảo

Vận về nhà, tối ấy vợ chồng ăn cơm xong, Như Ý lấy tăm cho Vận, tác giả viết:

Vợ chồng ăn cơm, chuyện rời rạc, những ân cần thăm hỏi thỏm vào bóng tối.

Ngụm nước que tăm, đưa ngập ngượng đón lạnh lẽo. Rồi một lần đi mua thức

ăn về cải thiện một bữa ngon, Vận trở lại cửa hàng bún bị chiếm mất chỗ, cãi

nhau cũng chả lấy lại được, hình ảnh xỉa răng cũng hiện lên: Hận con nhà mậu

tự dưng bán sớm lên nửa tiếng mọi khi tám giờ mới đi ăn về mở cửa đi ra đi vào

đái ỉa xỉa răng chán kia mà,… Lấy tăm xỉa răng, rồi súc miệng là một hoạt động

rất đỗi quen thuộc sau khi ăn của con người trong đời sống sinh hoạt thường

ngày của người Việt Nam xưa nay nhưng khi vào tiểu thuyết của Trần Chiến,

88

mỗi nhân vật lại có những biểu hiện và ý nghĩa riêng, làm cho sự việc trở nên ấn

tượng đặc biệt và thú vị.

Tóm lại, những hình ảnh trong tiểu thuyết của Trần Chiến vừa quen thuộc

lại vừa mới mẻ. Quen thuộc vì nó là cuộc sống hằng ngày đã và đang diễn ra.

Mới mẻ ở chỗ, những hình ảnh đó đã được mang thêm những giá trị mới, thậm

chí lần đầu tiên nó đi vào tiểu thuyết hiện đại như những tín hiệu thẩm mĩ đầy

chất tạo hình và gợi cảm cho tác phẩm.

3.2. Giọng điệu trần thuật

3.2.1. Giọng nhẩn nha, chậm rãi.

Ở phương diện này, giọng nhẩn nha, chậm rãi được gắn chặt với người kể

chuyện. Đọc tiểu thuyết của Trần Chiến, người ta dễ nhận ra những câu văn,

những đoạn văn mang đậm sắc thái bình luận của người kể chuyện. Người kể

chuyện trong tác phẩm của Trần Chiến không phải được xây dựng thành một

nhân vật như một số tác phẩm khác, người kể chuyện trong tiểu thuyết của Trần

Chiến chủ yếu hiện lên với vai trò giúp người đọc có thêm một cái nhìn mới

hoặc củng cố tâm lí cho nhân vật mà nhà văn xây dựng. Chính vì thế nên yếu tố

triết lí được sử dụng khá nhiều. Những triết lý trong tiểu thuyết của Trần Chiến

mang giọng điệu của một người có tuổi chứ không phải là những triết lí của một

người đang tuổi thanh xuân, vì thế nó khá nhẩn nha và chậm rãi.

Biểu hiện đầu tiên đó là những bình luận của người kể chuyện về “những

nếp gấp quen thuộc” trong đời sống chồng vợ cũng như đan xen vào đó là những

yếu tố sex. Trong thực tiễn, khi vợ chồng ăn ở với nhau một thời gian, khi đã

quen tính thuộc nết của nhau thì thường có những việc phải làm theo nghĩa vụ.

Nói về nỗi lòng của Toán khi si mê Thơm, trong tiểu thuyết Bốn chín chưa qua,

Trần Chiến viết: Người phụ nữ ấy luôn gây một cảm giác tươi tắn, gần như rạo

rực trong lòng anh, khác hẳn Xuyên quá ổn định đến cũ kỹ, vợ chồng đã khâu

vào nhau những nếp gấp mõm mòm. Sau đó là những lần Toán và Thơm ăn nằm

bên nhau: Tối ấy, Thơm trao thân cho anh, tức tưởi, nghẹn ngập ; rồi đến mấy

89

ngày sau mới được gặp lại, cả hai cùng hối hả cuồng dại. Khi Toán đã dịu

xuống, chị còn rúc mãi vào nách anh hít hà, Sau lần đầu tiên nhập bọn Cung

“xồm” khai thác gỗ trái phép về, Toán đưa vợ nắm tiền, rồi nhìn quanh, đóng

cửa chốt lại đè chúi vợ ra. Đói khát, ngấu nghiến như con thú,…

Vợ chồng Vĩnh trong tiểu thuyết Đèn vàng, sau khi công việc, con cái đã

đủ đầy. Vợ chồng nồng thắm và cũng chẳng nghĩ đến việc xây dựng “tập hai”

như ai để om xòm nhà cửa. Nhưng ở mãi, chưa mở mồm đã biết sắp nói gì, gấp

vào nhau những nếp phẳng lì cũng chán chứ. Lần đầu tiên quan hệ với Thư

trong nhà nghỉ, tác giả viết về trạng thái của Vĩnh: Trần truồng, mệt mỏi nhưng

no đủ. Vợ chồng Vận trong tiểu thuyết Cậu ấm cũng có những nếp gấp đã biết

mà khó có thể sửa được vì điều kiện kinh tế, vì công việc kinh doanh của cái gia

đình ưa thích sự phong lưu. Như Ý mải mê tối sớm công việc ngoài nhà in, mỗi

khi về ngủ với chồng, Vận thấy nằm bên không phải người đàn bà nóng hổi.

Điều đó có nghĩa là chuyện chăn gối xưa nồng nàn giờ đã thành nguội lạnh.

Một điều dễ nhận thấy nữa, khi người kể chuyện bình luận về con người

hoặc sự việc thì yếu tố so sánh bao giờ cũng tỏ ra có hiệu quả. Về phương diện

này, nhà văn tỏ ra rất có kinh nghiệm. Trong tiểu thuyết Bốn Chín chưa qua, sau

khi bà Nhu khen chồng, tác giả viết Lời khen quá bằng quả mắng, làm ông

chồng lại oải như cái bánh đa gặp nước. Khi chồng Thơm hi sinh. Đơn vị về

đón, Thơm lên làm tang chồng rồi trở về như tàu chuối hơ lửa. Những hình ảnh

so sánh “nước”, “lửa”, “tàu chuối”, “bánh đa”,… vừa cụ thể vừa rất gần gũi với

cuộc sống lao động, sinh hoạt đời thường của bà con nông dân ta từ bao đời nay.

Khi Toán thấy các con của mình đã lớn dần, bé Thúy đã được mười bốn tháng,

khát vọng làm giàu lại vươn lên mạnh mẽ trong anh, nhà văn viết: Nhưng hơn

hết, Toán đã có một ham muốn ngày càng mãnh liệt, như cái cây nảy từ hạt

mầm, nỗi ham muốn bất cứ người đi tìm Đất Hứa nào cũng mang theo, làm

hành trang bất khả ly thân. Những hình ảnh so sánh trên cũng mang đậm dấu ấn

của những con người đi khai phá miền đất đỏ badan, lập vùng kinh tế mới trên

núi đồi Tây Nguyên.

90

Ở tiểu thuyết Đèn vàng, khi giải thích cho việc xuống tàu muộn, để mọi

người phải đợi, Vĩnh than thở vì con bắt mua sách tham khảo mới đến trường.

Minh Nhật ôn tồn xen vào: Ông để con ở quê chưa biết đấy thôi. Trẻ thành phố

giống như con lừa, đi lớp một đã vác cái cặp hai cân. Không có sách thì nó chết

với cô giáo rồi mình chết với nó. Hình ảnh so sánh thật hài hước và tội nghiệp,

nó phản ánh một thực trạng của các gia đình thành phố với nỗi khổ loạn sách và

những bất cập trong giáo dục bấy lâu nay. Cũng trong tiểu thuyết Đèn vàng này,

khi bàn luận về những ông chồng đi uống bia với nhau, người kể chuyện bình:

Uống xong, về ăn cơm với gia đình thì chao ôi, kẻ coi vợ bằng vung, người nem

nép hối hận. Mà vợ là cái giống nói dối nó còn chả tin, nữa là nói thật. Đó cũng

là một triết lí mang màu sắc hài hước mà thực tế vẫn đang diễn ra trong xã hội

ngày nay.

Trong tiểu thuyết Cậu ấm, khi nói về việc Vận lấy vợ hơi sớm, cái hay

trong đời sống vợ chồng đang chuẩn bị cũ dần, giọng bình luận của người kể

chuyện xuất hiện: Kể khí sớm khi không được dắt nhau đi du lịch đây đó, nhưng

nghĩ tới sinh vật đương hình thành trong bụng, tưởng ra nó hồng hào bi bô lại

là khúc sung sướng khác. Gia đình bé nhỏ nhưng nó là của riêng mình, cái điều

đơn giản ai cũng có nhưng đến lượt mình vẫn vô cùng quý giá. Chúng ta thấy rõ

hơn vai trò của việc sinh nở để duy trì giống nòi là một quy luật hết sức tự nhiên

của con người trong đời sống vợ chồng, quy luật đó thiêng liêng và ấm áp vô

cùng. Đến lượt ai, người đó sẽ thấy thích thú và hạnh phúc. Đó cũng là động lực

cho cuộc sống của các thành viên trong gia đình.

3.2.2. Giọng triết lí, suy tư

Ở tiểu thuyết Trần Chiến, bên cạnh giọng điệu nhẩn nha, chậm rãi còn là

giọng điệu triết lí, suy tư. Giọng điệu triết lí, suy tư ấy gắn liền với những khái

quát của nhân vật, trước tiên là những khái quát có tính kinh nghiệm. Ông Năm

trong tiểu thuyết Bốn chín chưa qua khuyên con gái khi thấy con mình đang

nóng giận quá mức vì Toán qua lại với gái góa: - Bố thấy những cái đáng khen

91

của nó thì con chả nhận thấy bao giờ. Đàn ông chứ có phải cái cối trong nhà để

mà đặt đâu cũng được đâu. Cần nhất bây giờ là phải bình tĩnh, lựa lời chồng,

chồng nào chả ưa ngọt, hả con. Lời khuyên ấy như một sự tổng kết của chính

cuộc đời ông. Nhân vật ông Hiếu nói và động viên vợ chồng Thơm mới vào Tây

Nguyên đây thì cần phải làm việc tích cực. Đàn ông ngồi rồi là hỏng, mà đàn bà

cũng vậy thôi. Hồi mới vào đây nhà tôi cũng như cô chú bây giờ, cái bát mẻ

cũng chả có. Khi vợ chồng xin chuyển đi vùng đất mới mua, bà Lành vợ ông

Hiếu bảo: Cô chú có ra đấy thì cốt nhất là đào cái giếng. Cứ úp mấy cái bát

xuống đấy, chỗ nào sáng ra hơi nước bám vào là có mạch. Đào mươi bữa là

xong ngay ấy mà. Khái quát ấy vừa thực tiễn từ nhiều đời, vừa mang tính nêu

gương và lại vừa mang tính động viên khuyến khích, của chính người nói.

Cũng ở phương diện này, trong tiểu thuyết Đèn vàng, khi không bằng

lòng với việc tổng biên tập Lập bảo báo chí mình chỉ nên phát hiện và đặt vấn đề

cho các cơ quan, Văn liền phản ứng vụ đền bù đất ở Lệ Viên: Con giun xéo lắm

cũng quằn. Nông dân ta tốt vô cùng, đã cho đất nước này cả xương máu rồi.

Nhưng phải đền bù cho thỏa đáng chứ. Bị tước mảnh ruộng với giá ấy, họ không

phản ứng sao được. Tổng kết ấy là tổng kết mối quan hệ giữa nhân dân và chính

quyền cơ sở trong việc minh bạch giá đất đền bù, là nhắc lại chức năng thực sự

của báo chí và vai trò của người cầm bút. Khi Văn đến nhà Vĩnh động viên

Trâm đừng quá căng thẳng trong chuyện vợ chồng, Văn bảo: “Sông có khúc,

người có lúc. Cuộc sống nó thay đổi chứ, mình như cũ mãi thế nào. Có điều vợ

chồng lệch đâu kê đấy, bỏ nhau thì dễ lắm. Thằng Vĩnh nó là cục vàng đấy, tuy

chẳng phải vàng mười, mà mỗi ngày mỗi nặng thêm”. Lời khuyên ấy tự nhiên,

chân thành mà sâu sắc. Có gia đình nào mà không có chỗ lệch cần phải cùng

nhau kê lại cho vừa.

Ở tiểu thuyết Cậu ấm, khi thầy Lơru dạy lớp Vận học, thầy bảo cả lớp:

“Kiến thức là thứ phải tự tìm lấy, trong sách, trong đời, chả thầy nào theo các

em mãi để giải đáp được”. Lời khuyên dạy ngắn gọn nhưng đầy đủ mang tính

tổng kết rất cao, nói đòi hỏi quá trình học phải biết từ sách vở lẫn kiến thức thực

92

tiễn, quan trọng nhất vẫn là tinh thần và thái độ tự học của mỗi người. Lúc Vận

than phiền với mẹ mình về thái độ của Chiêm về gia đình nhà mình, bà Hiền

Thục khuyên Vận: “Một điều nhịn là chín điều lành. Em nó chưa biết nghĩ, có

rộng tình sau này nó chả phụ con ạ”. Vì là một người mẹ, lại đứng giữa bên là

cháu trai về đằng họ nhà mình, một bên là con trai nên lời khuyên của bà mang

tính dĩ hòa vi quý, thiên về giải quyết bằng tình cảm hơn là xung đột căng thẳng.

Đấy cũng là đặc tính chung trong tâm lí của người phụ nữ truyền thống.

Bên cạnh đó là những khái quát của nhân vật được giác ngộ và nảy sinh

trong hoàn cảnh nhất định. Ví như, trong tiểu thuyết Bốn chín chưa qua, bất chợt

ông Hiếu phát hiện ra Toán tham gia nhóm lâm tặc của Cung “xồm”, ông nói:

Phá rừng là phạm luật đấy. Có điều chú phải kiếm ăn, tôi vẫn giấu mọi người.

Đừng có phô cho ai là em ông tuyên huấn huyện ủy lại đi chém rừng nguyên

sinh đấy. Trong lời khuyên ấy vừa có cái nhẫn nhịn là người anh vì em còn đói

khổ nên coi như chưa biết gì thằng em đang làm chuyện phạm pháp, đồng thời

trong lời khuyên ấy cũng chứa đựng cả sự răn đe, cảnh báo không được làm mất

uy tín cán bộ của người anh, nếu người em không tỉnh táo mà vẫn quá đà theo

lối cũ thì người anh cũng không thể bảo lãnh cho bất cứ điều gì khi tai họa ập

đến và quan trọng nhất là không thể làm việc phạm pháp ấy lâu được.

Trong tiểu thuyết Đèn vàng, Thư và Thanh đi dạo phố, bàn chuyện về

Vĩnh, Thanh nói với Thư: Tao hiểu. Nhưng tao thích ý của nó. Trọng Thủy

không có quyền chọn cha mẹ, tổ quốc của mình, lớn lên lãnh ý thức sứ mạng,

sang đây làm gián điệp, chứ gì? Ác cái là nó gặp phải cô công chúa đẹp người,

đẹp nết quá nên không thể không yêu. Mà yêu ác liệt, nên mới dính vụ tự tử sau

này chứ? Mâu thuẫn thế nên được lập miếu thờ là phải. Tình huống đồng tình

ấy của Thanh dành cho Vĩnh không phải là không có cơ sở, mặc dù trong cuộc

nói chuyện đang hướng tới mục đích khác, nhưng rõ ràng nó cũng đang giải

quyết những hoài nghi vì sao ở Việt Nam lại có đền thờ Trọng Thủy. Nhân việc

nói chuyện về tình yêu của thầy giáo đã từng dạy Vĩnh hồi học đại học, hôm nay

cũng có mặt tại đại hội Mỹ thuật ở Đồ Sơn, Vĩnh nói với Lạc Thư: Phụ nữ hình

93

như khi yêu thì mạnh mẽ hơn đàn ông. Câu nói của Vĩnh mang nhiều nghĩa, anh

đang hướng đến câu chuyện của Thư khi có cô bạn gái yêu thầy, cũng có khi

Vĩnh đang hướng đến Thư, và quan trọng là Vĩnh muốn Thư hiểu cái sự mạnh

mẽ ở đây là mạnh mẽ về phương diện gì trong quan hệ tình cảm của hai người.

Khi bố con Vận trong tiểu thuyết Cậu ấm, tranh luận về việc ủng hộ chính

phủ Việt Minh, ông Thản thấy con quyết liệt quá bèn nói: Bố là người làm ăn,

đứng giữa dòng chả theo ai sất. Làm sao cho cái nhà này tồn tại phong lưu

được, thợ thuyền không mất nồi cơm là quan trọng nhất. Chính trị là nhất thời.

Nếu không đặt trong hoàn cảnh của ông Thản, ta sẽ nghĩ rằng ông thờ ơ với đất

nước nhưng kỳ thực ông rất yêu nước. Chế độ nào cũng cần phải chăm lo đến

đời sống nhân dân, gia đình có cững thì nước mới mạnh và không phải ai cũng

có khả năng làm chính trị. Làm chính trị không tốt còn mang tội cho nhân dân.

Như vậy, ông Thản vừa hạ nhiệt được tinh thần bốc lửa của con trai, vừa thể

hiện quan điểm của mình một cách nhẹ nhàng, thấm thía cho con trai hiểu được

trách nhiệm hiện tại của một người cha trong gia đình mà vẫn giữ được tình cảm

cha con. Hoặc khi Vận và Dục đi vận động trí thức yêu nước ra giúp Chính phủ

mới, cả hai cùng tìm đến Kiến Văn, một luật sư học ở Pháp về, nổi tiếng trong

thành phố, luật sư kể lại, hồi Pháp trở lại thiết lập chính quyền ở Hà Nội, có một

anh thanh niên đã treo cờ đỏ sao vàng trên Tháp Rùa và bị thực dân Pháp cho ra

hầu tòa, luật sư phải đứng ra bào chữa giúp:“cờ ấy do quốc hội năm 1946 thông

qua nay chưa có văn bản nào phế bỏ nên treo không có gì là sai”. Tình huống

bất ngờ ấy khiến cho tòa đành phải kết trắng án cho anh thanh niên kia vì rất khó

bác bỏ.

Có thể nói rằng, giọng điệu nhẩn nha, chậm rãi gắn liền với những bình

luận của người kể chuyện, giọng triết lí, suy tư gắn với những khái quát của

nhân vật đã làm tăng thêm sự hấp dẫn trong tiểu thuyết của Trần Chiến. Giọng

điệu trần thuật ấy đã giúp ta nhận diện rõ hơn về tính cách nhân vật, làm cho kết

cấu cốt truyện trở nên chặt chẽ, đồng thời giúp chúng ta nhận định rõ hơn về tư

tưởng của tác phẩm và phong cách tiểu thuyết của nhà văn.

94

3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Trần Chiến

3.3.1. Thời gian mang dấu ấn đương đại

Thời gian trong tiểu thuyết của Trần Chiến in đậm những dấu ấn của thời

đại. Trần Chiến không “đi tìm thời gian đã mất” một cách vô thức, cảm tính mà

ông đi xây dựng cốt truyện trên cơ sở khai thác và nghệ thuật hóa những biến

động trong lịch sử xã hội.

Ở tiểu thuyết Bốn chín chưa qua là bối cảnh xã hội đất nước bắt đầu bước

vào giai đoạn mở cửa nền kinh tế thị trường. Sau một thập kỷ thống nhất nước

nhà, những cơ chế tập trung sản xuất hàng hóa theo mô hình hợp tác xã tự cung

tự cấp đã tỏ ra thất bại thảm hại trước hiện thực ngày càng nóng nỏng của sự

phát triển. Tuy nhiên, do mới mở cửa nên cả xã hội vẫn còn những quán tính sản

xuất và sinh hoạt hết sức lạc hậu, những quan niệm duy trì một cách dai dẳng

nặng nề,… tất cả đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống của nhân dân, nhất là

người nông dân ở các vùng nông thôn, những miền xa xôi, hiểm trở. Tình trạng

người dân bỏ làng đi tìm kiếm những vùng đất mà họ hi vọng đổi đời diễn ra rất

vất vả, gian nan.

Những phòng trào xây dựng vùng kinh tế mới chưa bám rễ sâu vào quần

chúng nên sự tự phát và mức độ quản lí ở các địa phương còn bộc lộ nhiều yếu

kém. Toán và Thơm vào Tây Nguyên sinh sống thành vợ chồng mà chẳng cần

giấy kết hôn mà cũng chẳng thấy ai đến hỏi. Tình trạng tự do lấn đất khai hoang

của đồng bào dân tộc ít người, sau đó người đến trước bán lại cho người đến sau

chẳng có biên bản hợp pháp nào, trưởng thôn chỉ chứng nhận suông. Hiện trạng

khai thác rừng nguyên sinh diễn ra không ngừng, sự vào cuộc của kiểm lâm

cũng chưa thể quyết liệt, thậm chí việc buôn bán gỗ quốc cấm còn diễn ra ngay

trong gia đình các quan chức địa phương như nhà ông trưởng phòng Thương

nghiệp huyện Lê Hữu Quyền, nhà trưởng thôn Lò Văn Thuận,… Vùng đất của

đồng bào thiểu số có khi trở thành nơi tụ hội của những kẻ lưu manh như Thuận,

kẻ trốn trại như Cung “xồm”, những cô gái đã chót dại xấu hổ rồi bỏ làng với

95

cái thai đang lớn dần trong bụng như Mùi, những người vừa xấu hổ vừa đói khát

như Toán, Thơm,…

Trong tiểu thuyết Đèn vàng, dấu ấn của thời kỳ cải tạo tư bản, ảnh hưởng

từ cách mạng văn hóa Trung Quốc vẫn hiện lên đầy ngột ngạt trong hồi ức của

Vĩnh về tuổi thơ. Cũng qua giọng văn hồi tưởng, tác giả còn tái hiện thời kì xây

dựng xã hội chủ nghĩa dưới phương thức sản xuất theo cơ chế kinh tế tập trung

trong thời gian Vĩnh và Trâm lấy nhau. Tuy chỉ được giới thiệu thoáng qua

nhưng cũng đủ cho ta thấy những hệ lụy từ việc quản lí đầy yếu kém trong sản

xuất, chăn nuôi. Tiểu thuyết tập trung vào thời kỳ công cuộc đổi mới đang bắt

đầu có những khởi sắc nhưng nó cũng biểu hiện một loạt những hạn chế dù

không quá lớn nhưng không phát hiện và giải quyết kịp thời thì cũng sẽ gây ra

những hậu quả nghiêm trọng. Đó là những công ty theo lợi ích nhóm như công ti

Hưng Nguyên, làm ăn chộp giật ; những công trình hiện đại, bề thế được cấp

phép nhưng lại vi phạm nghiêm trọng không gian văn hóa như khách sạn Mây

Tím bên Hồ Gươm; vấn đề sản xuất nông nghiệp và đền bù đất đai cho bà con

nông dân ngoại thành như ở Minh Tiến, ở Lệ Viên ; vấn đề dạy và học trong

giáo dục đào tạo ở Hà Nội ; vấn đề đạo đức nhà báo ; vấn đề hạnh phúc và sự

thủy chung trong gia đình hiện đại, vấn đề bổ nhiệm của người đứng đầu các

đơn vị ; vấn đề về các băng nhóm xã hội đen,…

Trong tiểu thuyết Cậu ấm, dường như là bức tranh toàn cảnh về những

thời kỳ lớn với những bước chuyển mình mạnh mẽ của lịch sử xã hội thế kỷ XX.

Thông qua ba thế hệ của gia đình cậu ấm mà người ta hình dung cuộc sống phía

sau của những sự kiện lớn như: Dấu ấn cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp;

những tàn tích của Nho giáo còn vương sót qua nhân vật ông cử Chén ; những

hòa trộn văn hóa Đông - Tây qua những trường tư thục Việt - Pháp, qua cách

sinh hoạt của giới tri thức, của tầng lớp trung và thượng lưu, vừa tôn ti khuôn

mẫu truyền thống nhưng cũng không khước từ những bộ phim từ Nhà hát lớn

của Pháp;… Đó còn là những sự kiện ba bên Nhật - Pháp - Việt Minh trước

Cách mạng tháng Tám, sự kiện Pháp trở lại và toàn quốc kháng chiến ; đó còn là

96

những cải cách đau đớn về giai cấp tư sản như hình ảnh Như Ý bị đấu tố, tài sản

nhà in bị tịch thu ; những chế độ chính sách mang tính cào bằng giai cấp nhà bị

phân chia và ở ghép như biệt thự Hoa Hồng của gia đình Vận và tầng trên của

Đằng Tứ. Đó là những ám ảnh bởi lí lịch như Tín dù học giỏi đến bao nhiêu,

hoạt động phong trào tích cực đến mức nào, dù mẹ Tín có phải cắn răng chịu

đựng làm lao công cho nhà máy của nhà nước thì Tín cũng không được quyền

chọn những trường đại học top đầu mà anh mơ ước. Những vấn đề tại cửa hàng

mậu dịch mà cả Vận và Tín đều phải trải qua. Những chiến tranh leo thang bắn

phá, những trai tráng thủ đô lên đường, những đau đớn, những âu lo, những tự

hào, những may mắn vui mừng,… Tất cả đã hòa cùng nhau để tạo nên bản giao

hưởng thời đại với nhiều nốt nhạc trầm buồn bên cạnh những tin yêu và hi vọng.

3.3.2. Không gian được chuyển đổi linh hoạt, rộng mở.

Đường biên của tiểu thuyết rất rộng nên không gian nghệ thuật trong tiểu

thuyết của Trần Chiến cũng chuyển đổi rất linh hoạt và rộng mở. Không gian

trong tiểu thuyết Trần Chiến thường là không gian rộng, nó bao bọc suốt hành

trình phát triển tính cách của nhân vật.

Trong tiểu thuyết Bốn chín chưa qua, không gian chủ yếu được chuyển

đổi theo nhân vật Toán. Khi ở ngoài Bắc, không gian ấy gắn liền với các hình

ảnh đặc thù của thôn quê: trong nhà, dưới bếp, bên hàng xóm, ông ngoại, đồng

ruộng, đường đê, sông Cái. Không gian ấy dần mở rộng khi Toán xuống huyện

làm, đi chiếu phim ở các xã, không gian ngoại tình,… Khi Toán vào Nam, đến

vùng Tây Nguyên, không gian ấy gắn liền với sông suối, đồi núi, huyện lị sơn

cước. Khi Toán đi làm, không gian ấy là không gian của rừng sâu, của những

đồng bào dân tộc ít người, của chợ búa, của vườn tạp, vườn chuyên canh, không

gian ngoại tình, không gian gia đình, không gian thờ phụng,...

Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Bốn chín chưa qua còn là không

gian nhiều chiều cao thấp khác nhau. Đan xen những cảnh ra Bắc vào Nam của

Toán là không gian tâm tưởng, nhất là khi một mình Toán ở bên những nấm mộ

97

của những người thân, đối diện với những tấm ảnh thờ người chết, ký ức về

những bộ phim mà anh đã đi thuyết minh,…

Trong tiểu thuyết Đèn vàng, tuy không gian chủ yếu ở thủ đô nhưng nó

cũng được chuyển đổi linh hoạt theo dấu chân của những người phóng viên báo

chí, chủ yếu là nhân vật Vĩnh. Lúc ở ngoại thành với những bờ đê, dòng sông,

bãi bồi, hoa mầu, vạt cà chua,… rồi đến thành cổ, đình, chùa, đền, miếu, am, cây

đa, giếng nước… Khi Vĩnh đi công tác xa, đó là không gian miền biển Đồ Sơn,

Hải Phòng, không gian hội thảo, không gian sân khấu biểu diễn nghệ thuật.

Nhóm bạn thân của Vĩnh đi du xuân, đó là không gian của tàu phà, bến nước,

dòng sông Hồng, không gian tâm linh thờ Chử Đồng Tử,… Vĩnh và Thư hẹn hò,

đấy còn là không gian vụng trộm nơi quán nước, trong nhà nghỉ, … Trong nội

thành là không gian của gia đình, phố phường, cơ quan, phòng họp, phòng làm

việc, phòng tiếp khách, quán bia hơi, nhà hàng, khách sạn, Hồ Gươm, chợ Đồng

Xuân,… Trong tiểu thuyết còn có cả không gian của ký ức khi Vĩnh nhớ đến các

cô bạn tình, không gian hồi ức khi nhớ về thời thơ bé phải ở nhà ghép, không

gian của sám hối khi nghĩ sai về các vị thánh được thờ phụng trong dân gian,…

Trong tiểu thuyết Cậu ấm, không gian được mở rộng gần như hết cỡ. Ban

đầu gắn nhiều với ông Thản, bố cậu ấm Vận. Ông Thản bỏ nhà từ Hải Dương

lên Hà Nội từ bé, nghĩa là từ một vùng quê thanh bình, yên tĩnh đến một đô thị

ồn ào, náo nhiệt. Không gian Hà Nội đầu thế kỷ XX đã bắt đầu in đậm những

dấu ấn của người Pháp: trường học tư thục Việt - Pháp, những thầy dạy học

người Pháp, những lớp học song ngữ, những phụ nữ An Nam lấy chồng Pháp,

những tờ nhật trình, các nhà in tư nhân,… Tuy vậy, Hà Nội trong những năm ấy

vẫn mang đậm những sinh hoạt truyền thống với không gian của những buổi tối

thết khách, uống rượu, bình văn nghệ, đi nghe hát cô đầu ở phố Khâm Thiên,

không gian gia đình với những tranh, bình, ấm, tích, cốc, chén, và những đồ vật

cổ quý khác,…

98

Không gian trong tiểu thuyết Cậu ấm còn được mở rộng theo nhiều chiều

khi tác giả tập trung vào nhân vật Vận. Trước hết là không gian khuôn viên xung

quanh biệt thự gia đình: gắn liền với các hình ảnh Vận chơi cùng với cô bé

Annhét người Pháp, phải cho một người Nhật thuê, Vận mở quá Bún thang

Vườn hồng, tổ chức Tết trung thu cho Tín và trẻ hàng xóm, là sự bừa bộn của

gia đình Đằng Tứ khi đến ở chung,... Tiếp đến là không ngoại thành với hình

ảnh sông Hồng, cầu Long Biên, túp lều của cô Bông bán hoa ở xóm tự trị bãi

giữa. Không gian các tỉnh khi ông Thản cho Vận nghỉ học một năm, các tỉnh

Thái Bình, Ninh Bình khi Vận lớp bình dân học vụ, nhà dì Phú trên Thái

Nguyên,… Không gian chiến tranh với các hình ảnh của đội tự vệ thủ đô, ở bản

Mún, tạm xá thương binh, phòng giam xét, phố Đãn Trừu, bom đạn, hầm trú ẩn,

chiến trường miền nam, Tây Nguyên… Không gian tâm linh với hình ảnh bà

Hiền Thục đi làm từ thiện ở chùa An Lạc, Tháp Rùa, nhà thờ họ ở Hải Dương,

bàn thờ tổ tiên trong gia đình. Không gian hoài niệm về một nền Nho giáo đã tàn

lụi qua những lần Vận gặp ông cử Chén. Không gian tang lễ và chôn cất với các

hình ảnh về nghi thức của bố mẹ ông Thản, sau này là cảnh hạ huyệt của ông

Thản, bà Hiền Thục, các liệt sĩ hi sinh cùng Bân. Không gian ẩm thực ở phố

hàng Buồm khi Vận trốn gia đình đến đó pha chế thức ăn ; quán phở, cà phê ở

Đãn Trừu ; Bún thang Vườn hồng ; nhà hàng Mỹ Vị,…

Tiểu thuyết Cậu ấm, còn chứa không gian hồi tưởng khi Vận nhớ lại

những tháng ngày đến trường cùng với Chiêm còn dì Phú trên Thái Nguyên, các

văn nghệ sĩ kháng chiến, gặp lại Bơnoa,… Không gian trường lớp gắn với các

hình ảnh về trường Việt - Pháp, cao đẳng Tiểu học, đại học Nông Lâm. Không

gian miền núi, nông trường gắn với các hình ảnh ở bản Mún, nông trường Mộc

Châu,… Không gian các gia đình ở ghép sau cải cách tư sản và đấu tố địa chủ

với hình ảnh tiêu biểu của gia đình Vận và gia đình Đằng Tứ. Tất cả các hình

thái không gian ấy đan cài vào nhau tạo nên một không gian quy mô lớn trong

tiểu thuyết.

99

Có thể nói rằng, thời gian đã đan cài vào không gian một cách hài hòa,

hợp lí và tự nhiên trong cả ba bộ tiểu thuyết của Trần Chiến. Chính điều đó

khiến cho không khí của tác phẩm trở nên hấp dẫn, người đọc lần lượt trải

nghiệm vào không gian xã hội và bước đi theo những sự kiện, tình tiết của tiểu

thuyết một cách tự nhiên. Đồng thời cũng đánh dấu năng lực ở thể thể loại tiểu

thuyết của nhà văn, ghi nhận và khẳng định phong cách tiểu thuyết Trần Chiến.

100

KẾT LUẬN

Trên cơ sở tìm hiểu phong cách tiểu thuyết Trần Chiến, chúng tôi rút ra

một số kết luận sau:

Ba tiểu thuyết của Trần Chiến gồm Bốn chín chưa qua, Đèn vàng và Cậu

ấm đều có những giá trị sâu sắc về cuộc sống và con người Việt Nam ở mỗi

bước chuyển mình của lịch sử xã hội. Cái nhìn của Trần Chiến không phải là cái

nhìn chỉ tập trung vào những vấn đề chính trị, thời sự lớn lao hào hùng, bi tráng

mà nhà văn chủ yếu hướng cái nhìn của mình tới cuộc sống bình dị với những

góc khuất đời thường của con người. Cái nhìn ấy là sự thống nhất từ trong cốt

lõi nhưng khi triển khai thì lại trở nên linh hoạt, đa dạng. Đó là cảm hứng thế sự

đời thường và cảm hứng về thủ đô Hà Nội. Từ hai mạch cảm hứng chủ đạo đó

mà đi vào tiểu thuyết nó đã trở thành những vấn đề chung của xã hội mà bấy lâu

nay ta vẫn cứ chấp nhận, thậm chí cứ làm theo một như một thói quen vô thức.

Cuộc sống những người nông dân ngoại thành khi đê điều sạt lở, khi cơ chế bao

cấp còn nặng nề thì việc người dân bỏ làng đi tìm miền đất hứa là điều tất yếu

nhưng miền đất mà họ hi vọng ấy có thực sự làm cho họ đổi đời hay lại là miền

đất với rất nhiều sự tụ hội khắc nghiệt để đến khi đổi đời thì họ cũng qua đời.

Đó còn là những vấn đề đặt ra trong một gia đình công chức hiện đại như niềm

tin yêu, sự thủy chung, công việc và gia đình. Những mảng màu tối trong cuộc

sống đời thường còn là những dư chấn từ các phong trào cải tạo tư sản, những

khẩu hiệu được thực hiện một cách máy móc, những tình huống xử lí rất cứng

nhắc khiến cho người ta không thể và không dám lên tiếng vì sự phát triển và

tiến bộ. Bên cạnh đó là giao diện của cuộc sống thủ đô qua một nhà báo yêu

nghề, thiết tha với tình yêu Hà Nội, đặc biệt là qua các thế hệ trong một gia đình

trí thức trung lưu. Người thì vì cảnh quan văn hóa cho thủ đô lịch sử, cho thành

phố văn minh, người thì làm giàu cho thành phố cả về vật chất và tinh thần,

người thì say mê xây dựng văn hóa Hà Nội bằng cách gửi trọn tình yêu vào văn

101

hóa ẩm thực,... Tiểu thuyết “Đèn vàng” còn là tiểu thuyết đầu tiên viết riêng cho

nghề báo và người làm báo ở Hà Nội.

Chính nhờ khai thác mạch nguồn truyền thống kết hợp với những giá trị

đang biến đổi tinh vi của bối cảnh xã hội đương thời mà Trần Chiến đã định

hình và tạo nên cho mình một phong cách riêng: bình dị, sâu lắng, gói ghém kín

đáo những tâm tư thế sự của cuộc sống đời thường. Từ những vùng thẩm mĩ bất

biến về cốt truyện, về nhân vật, hình ảnh, giọng điệu tự sự triết lí mà Trần Chiến

đã sáng tạo và biến đổi thành một thế giới nghệ thuật đặc sắc: những gia đình ở

ghép vào một ngôi nhà, những gia đình mở rộng cấu trúc tự do về mặt cơ học,

những nếp gấp mõm mòm trong đời sống vợ chồng, những văn háo ẩm thực

vùng miền, những cách xỉa răng, những vùng đất “chẳng của tây cũng chẳng

phải của ta”, những ám ảnh từ những tấm hình thờ người chết, những câu ca

dao, tục ngữ, thành ngữ,… có thêm giá trị mới trong quá trình sáng tạo nghệ

thuật. Trong cả ba tiểu thuyết đều có đan xen những câu dân ca, những bài vè,

bài sấm, bài thơ… mang đặc trưng của bối cảnh xã hội mà nhân vật xuất hiện.

Chính tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm nên sức sống và phong cách tiểu

thuyết của Trần Chiến.

Chúng tôi hi vọng luận văn này sẽ góp sức cho những khai phá đầu tiên

trên con đường lí giải sức mạnh trầm sâu trong tiểu thuyết của Trần Chiến ở

những phương diện quan trọng nhất của phong cách nghệ thuật nhà văn. Qua đó,

chúng ta có thêm những đánh giá chân thực, thuyết phục nhất về những sáng tác

của Trần Chiến nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng cũng như những đóng

góp của nhà văn vào nền văn chương đương đại Việt Nam. Trên cơ sở đó tiếp

tục nghiên cứu và giải mã các tác giả khác có cùng hệ quy chiếu, chúng tôi sẽ

tiếp thu những góp ý chân thành để nâng cấp luận văn trong tương lai không xa.

102

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1999), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định,

Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, tài liệu Viện Văn học.

2. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới - Hội nhà

văn Việt Nam.

3. Nguyễn Văn Bảo (2003) Thành ngữ - Cách ngôn gốc Hán, NXB Đạihọc Sư

Phạm.

4. Lê Huy Bắc (2015), Văn học hậu hiện đại, lý thuyết và tiếp nhận, NXB Đại

học Sư phạm.

5. Nguyệt Cầm (2003), “Trần Chiến cùng Đèn vàng”,http://nld.com.vn/van-

hoa-van-nghe/tran-chien-cung-den-vang-3805.htm

6. Nguyễn Việt Chiến, (2013), “Chuyện với con trai nhà sử học Trần Huy

Liệu”, http://tbdn.com.vn/chuyen-voi-con-trai-nha-su-hoc-tran-huy-lieu-

n8674.html

7. Trần Chiến (2015), A đây rồi Hà Nội 7 món, Quảng Văn, NXB Hội nhà văn.

8. Trần Chiến (2000), Bốn chín chưa qua, NXB Hội nhà văn.

9. Trần Chiến (2014), Cậu ấm, NXB Trẻ.

10. Trần Chiến (1990), Con bụi, NXB Tác phẩm mới.

11. Trần Chiến (2005), Đèn vàng, NXB Hội Nhà văn.

12. Trần Chiến (1997), Đường đua, NXB Văn hóa Thông tin.

13. Trần Chiến (2014), Gót Thị Mầu đầu Châu Long, NXB Trẻ.

14. Nguyễn Văn Dân (2000), Lí luận văn học so sánh, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội.

15. Phan Cự Đệ (1974, 1975), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập I, tập II, NXB

Đại học và trung học chuyên nghiệp.

16. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí

Dũng, Hà Văn Đức (2001), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Giáo trình đại

học, NXB Giáo dục.

103

17. Trịnh Bá Đĩnh chủ biên (2013), Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt Nam,

NXB Khoa học xã hội.

18. Hà Minh Đức, Phạm Thành Hưng, Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long,

Nguyễn Văn Nam, Đoàn Đức Phương, Trần Khánh Thành, Lý Hoài Thu

(2014), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.

19. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục.

20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - đồng chủ biên (2007), Từ

điển Thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục.

21. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, NXB Giáo

dục.

22. Đỗ Đức Hiểu (1985), “Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn

học Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 3.

23. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn.

24. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn hóa.

25. Mã Giang Lân (2003), Văn học Việt Nam 1945 - 1954, Giáo trình đại học,

NXB Giáo dục.

26. Nguyễn Lân (2007), Từ điển Thành ngữ và Tục ngữ Việt Nam, NXB Văn

học.

27. Phương Lựu (2012), Lí thuyết Văn học hậu hiện đại, NXB Đại học Sư phạm.

28. Phương Lựu, La Khắc Hòa, Nguyễn Nghĩa Trọng, Lê Lưu Oanh, Trần Mạnh

Tiến (2014, 2016), Lí luận Văn học, tập 1, tập 3. NXB Đại học Sư phạm.

29. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, Giáo

trình đào tạo cử nhân, thạc sĩ và nghiên cứu sinh, Đại học Sư phạm Hà Nội

1.

30. Tôn Thảo Miên (2016), Văn học Việt Nam, Dấu ấn - Giao lưu - Tác động,

NXB Văn học.

31. Việt Quỳnh (2014), “Nhà văn Trần Chiến - Ưa ẩn mình nơi đám đông”,

http://thethaovanhoa.vn/bong-da/nha-van-tran-chien-ua-an-minh-noi-dam-

dong-n20141026070948137.htm

104

32. Hoàng Phê chủ biên (2004), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm

Từ điển học.

33. Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Nam (2014),

Lí luận Văn học, tập 2, NXB Đại học Sư phạm.

34. Trần Đình Sử (2014), Lí luận và Phê bình Văn học, NXB Giáo dục Việt

Nam.

35. Trần Đình Sử (2016), Trên đường biên của Lí luận Văn học, NXB Phụ nữ.

36. Trần Ngọc Thêm (2007), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh.

37. Lam Thu (2014), “Nhà văn Trần Chiến đi tìm một tính cách Hà

Nội”,http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nha-van-tran-chien-di-

tim-mot-tinh-cach-ha-noi-3102863.html

38. Cẩm Thúy (2016), “Nhà văn Trần Chiến: Ít nhiều tự

tại”,http://archive.is/X8TR0#selection-657.0-657.35

39. Phương Thúy (2014), “Nhà văn Trần Chiến ra mắt tản văn về „Hà Nội 7

món‟”, http://vov.vn/van-hoa-giai-tri/nha-van-tran-chien-ra-mat-tan-van-ve-

ha-noi-7-mon-362472.vov

40. Bùi Đức Tịnh (1999), Ngôn ngữ và Văn học, tập 2, NXB Văn nghệ Tp. Hồ

Chí Minh.

41. Bùi Minh Toán (2012), Ngôn ngữ với Văn chương, NXB Giáo dục Việt

Nam.

42. P.Vũ (2017), Con trai út nhà sử học Trần Huy Liệu: Ông tự 'chuốc' khổ tâm,

http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/

43. Trần Ngọc Vương (2010), Văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX,

Giáo trình Đại học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

44. Trần Ngọc Vương (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX, những vấn đề lí

luận và lịch sử, NXB Giáo dục.

45. Trần Quốc Vượng (2007), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn

học.

105

46. Antoine Compagnon (2006), Bản mệnh của lý thuyết - Văn chương và cảm

nghĩ thông thường, Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch, NXB Đại học Sư

phạm.

47. G.N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 2, Trần Đình Sử,

Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, NXB Giáo dục.

48. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển

chọn và dịch, NXB Hội Nhà văn.

49. M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận

nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

50. M.B. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển

văn học, Lê Sơn - Nguyễn Minh dịch, NXB Tác phẩm mới - Hội nhà văn

Việt Nam.

51. M. CaGan (2004), Hình thái học của Nghệ thuật - Phan Ngọc dịch, NXB

Hội nhà văn.

106