VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG NGỌC TÀI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG NGỌC TÀI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
HÀ NỘI - năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Minh Tuyên. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Đặng Ngọc Tài
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ .......... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ ......................................................................................... 5
1.2. Mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ ................................................................... 11
1.3. Chủ thể và nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ ...................................................................................................... 23
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG
PHÒNG NGỪA TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐÀ NẴNG ......................................................... 33
2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng .................... 33
2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng ................................................................................... 47
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...................................... 57
3.1. Dự báo những yếu tố liên quan đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng............................. 57
3.2. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà
Nẵng ............................................................................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CSGT : CSGT
TP : Thành phố
TTATGT : Trật tự an toàn giao thông
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân và điều kiện khách quan và
chủ quan khác nhau, tình hình tội phạm nói chung, tình hình các tội xâm phạm
TTATGT nói riêng (trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ) diễn biến phức tạp gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài
sản của người dân, nhất là ở những thành phố lớn như Đà Nẵng.
Theo thống kế của Phòng CSGT Công an TP Đà Nẵng trong 5 năm gần đây (từ
năm 2016 đến năm 2020) trên địa bàn TP đã phát hiện 333.297 trường hợp vi phạm
quy định về bảo đảm TTATGT đường bộ, trong đó lập biên bản xử lý 322.656 trường
hợp (chiếm 96,8%). Trong tổng số các vụ vi phạm TTATGT đường bộ có 89 vụ khởi
tố hình sự.
Trước tình trạng trên, Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân TP Đà Nẵng đã
triển khai đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau, bước đầu đã kiềm chế được sự gia tăng
các trường hợp vi phạm, kéo giảm được cả ba tiêu chí về tai nạn giao thông. Mặc dù
vậy, tình hình TTATGT đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng tuy có giảm nhưng không
bền vững, tính chất vi phạm vẫn hết sức phức tạp, hậu quả do tai nạn giao thông đường
bộ gây ra vẫn còn rất nghiêm trọng...
Nguyên nhân của tình trạng này có cả những yếu tố thuộc môi trường địa lý tự
nhiên - xã hôi, có cả những yếu tố thuộc về chủ thể vi phạm, đặc biệt là ý thức tuân thủ
pháp luật khi tham gia giao thông của người dân.
Về lý luận, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn
diện về phòng ngừa tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa
bàn TP Đà Nẵng. Do vậy, có nhiều vấn đề lý luận về vấn đề này cần phải làm sáng tỏ
để chỉ dẫn thực tiễn.
Như vậy, cả thực tiễn và lý luận đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu toàn
diện, hệ thống chuyên sâu về phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ trên địa bàn một thành phố lớn ở nước ta.
Vì lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng" để nghiên
cứu làm Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Tội phạm học.
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tình hình nhóm tội
phạm cũng như từng loại tội phạm cụ thể nói riêng được nhiều nhà tội phạm học quan
tâm nghiên cứu. Do vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố về chủ
đề này thuộc hai chuyên ngành: Luật hình sự và tội phạm học.
Trước hết, về chuyên ngành Luật hình sự có các công trình tiêu biểu như: Luận
văn thạc sĩ "Tội phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng" của tác giả Võ Văn Hòa,
công bố năm 2014; luận văn thạc sĩ "Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình" của
tác giả Nguyễn Thị Bích Hồng, công bố năm 2016; luận án tiến sĩ "Các tội xâm phạm
an toàn giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của
Tòa án quân sự ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Văn Nam, công bố năm 2019, v.v...
Các công trình này đã đề cập đến những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và
thực tiễn áp dụng ở một số địa bàn cụ thể.
Về chuyên ngành tội phạm học: Có các công trình như: Luận án tiến sĩ: "Hoạt
động phòng ngừa tội xâm phạm an toàn giao thông vận tải đường bộ của lực lượng
Cảnh sát nhân dân" của tác giả Vũ Văn Thiết, công bố năm 2017; Luận án tiến sĩ:
"Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTATGT đường bộ trên địa bàn các tỉnh Tây
Nam Bộ", công bố năm 2020; Luận văn thạc sĩ: "Tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa"
của tác giả Đặng Tuấn Vũ, công bố năm 2014; Luận văn thạc sĩ: "Tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng: tình
hình, nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa" của tác giả Hồ Ngọc Hải, công bố năm
2020; Luận án tiến sĩ: "Đấu tranh phòng, chống tình hình tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn TP Hải Phòng" của tác giả
Nguyễn Thế Anh, v.v... Những công trình này đã đề cập đến những vấn đề lý luận,
thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm TTATGT nói chung, hoặc tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, trên cơ sở đó đưa ra
các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực này, trên phạm vi địa
2
bàn rộng, hẹp khác nhau.
Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống,
toàn diện về phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tam gia giao thông đường
bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng. Vì thế, đề tài này không trùng với các công trình nghiên
cứu đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm vi quy
định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng để từ đó thiết lập các
giải pháp tăng cường phòng ngừa trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Để đạt được mục đích trên, cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
+ Nghiên cứu, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên các phương diện: khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa, nội dung, biện pháp, nguyên tắc và chủ thể phòng ngừa.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, rút ra những kết quả
đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục.
+ Dự báo những yếu tố tác động đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề ra
mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm này trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: bao gồm những vấn đề lý luận và thực tiễn phòng
ngừa tình hình tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ dưới góc độ tội phạm học.
+ Về không gian, thời gian: nghiên cứu thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm
này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong 5 năm, từ năm 2016 đến năm 2020.
3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo
đảm TTATGT, về đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức cũng như lợi ích chung của xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành tội phạm học
để làm rõ những nội dung nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
quan sát, v.v..
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, chuyên sâu về phòng
ngừa tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cả về lý luận và thực tiễn.
Do vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm phong phú thêm lý luận chuyên ngành tội phạm học về phòng
ngừa tình hình một tội phạm cụ thể, ở một địa bàn cụ thể.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu luận văn có thể tham khảo để triển khai hoạt động phòng ngừa
không chỉ ở địa bàn TP Đà Nẵng mà còn ở các địa bàn khác trong phạm vi cả nước.
Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập,
nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo ngành luật của cả nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ.
Chương 2: Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng phòng ngừa tình hình tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ.
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
Phòng ngừa tình hình tội phạm là một trong những đối tượng, nội dung nghiên
cứu quan trọng của tội phạm học, đồng thời cũng là mục đích cuối cùng của tội phạm
học. Tội phạm học nghiên cứu tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm, nhân thân người phạm tội, phát hiện quy luật phát sinh tồn tại và vận
động của tình hình tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp tác động vào quy luật đó
nhằm mục đích cuối cùng là không để cho tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, cho đến nay,
khi đề cập đến khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm vẫn còn nhiều quan điểm
khác như: "Phòng ngừa tội phạm được hiểu là tổng hợp các biện pháp do cơ quan, tổ
chức và mọi công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền nhằm tác động
vào các yếu tố làm phát sinh tội phạm cũng như loại trừ các yếu tố này vì mục đích
ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội phạm ra khỏi đời sống xã hội" [23, tr.59], hoặc:
"Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính nhà
nước, xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô
hiệu hóa (làm yếu, hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình
hình tội phạm" [32, tr.154]; "Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ
chức và công dân, thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm
nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác động của tội phạm để kiểm soát,
hạn chế tác động và loại trừ những nhóm nguyên nhân này..." [11, tr.31].
Mặc dù cách diễn đạt có khác nhau, nhưng các quan điểm về phòng ngừa tình
hình tội phạm nêu trên đều thống nhất ở chỗ phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp
dụng tổng thể các biện pháp khác nhau nhằm khắc phục, hạn chế, triệt tiêu những yếu
tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm, ngăn ngừa không để
cho tội phạm xảy ra. Đây là những quan điểm về phòng ngừa tình hình tội phạm theo
nghĩa hẹp, tức là theo đúng nghĩa của từ "phòng ngừa". Tuy nhiên hiện nay, trong lý
luận cũng như thực tiễn, phòng ngừa tình hình tội phạm còn được hiểu theo nghĩa
5
rộng, theo đó: "Phòng ngừa tội phạm bao hàm một mặt, không để cho tội phạm xảy ra,
thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội; mặt khác, bằng mọi cách để ngăn chặn tội
phạm, kịp thời phát kiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội, đưa
họ trở thành công dân có ích cho xã hội" [19, tr.97]. Với quan niệm như vậy, hoạt
động phòng ngừa tội phạm được triển khai theo hai phướng cơ bản: Một là, tập trung
vao việc không để cho tội phạm xảy ra, tức là hướng vào việc hạn chế, tiến tới loại trừ,
thủ tiêu những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm; hai là, bằng
mọi cách để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh tội phạm, giáo dục cải
tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. Như vậy, hiểu theo nghĩa
rộng, phòng ngừa tình hình tội phạm bao hàm cả hoạt động phòng và cả hoạt động
chống (hay đấu tranh chống) tội phạm. Đấu tranh chống tội phạm là hoạt động phát
hiện và xử lý tội phạm đã xảy ra. Trái lại, phòng ngừa tội phạm (theo đúng nghĩa) là
hoạt động nhằm không để cho tội phạm xảy ra. Với bản chất như vậy, hoạt động đấu
tranh chống tội phạm và hoạt động phòng ngừa tội phạm là hai hoạt động có nội dung
riêng không đồng nhất với nhau. Song, hai hoạt động này không độc lập hoàn toàn với
nhau mà có mối quan hệ biện chứng với nhau. Có thể coi phòng ngừa tội phạm và đấu
tranh chống tội phạm là hai mặt không thể tách rời của một tổng thể thống nhất, chống
tội phạm vừa là một bộ phận không thể thiếu của phòng ngừa tội phạm, nhưng đồng
thời cũng là mặt khác của phòng ngừa tội phạm, có ý nghĩa không nhỏ đối với phòng
ngừa tội phạm. Tuy nhiên, không nên coi đấu tranh chống tội phạm là phương hướng
cơ bản, vì hoạt động này không thể giải quyết tận gốc vấn đề tội phạm trong xã hội, là
biện pháp mang tính chất thụ động. Ngược lại, phòng ngừa tội phạm theo đúng nghĩa
của nó là hoạt động nhằm hạn chế, tiến tới xóa bỏ những yếu tố có thể trở thành
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, không để cho tội phạm xảy ra. Hoạt
động này có ưu điểm là xã hội không phải gánh chịu những hậu quả của tội phạm, cơ
quan bảo vệ pháp luật không phải bỏ ra những chi phí cần thiết cho việc giải quyết vấn
đề tội phạm, người dân không phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Vì vậy, phòng
ngừa tội phạm luôn được coi là phương hướng chính, cơ bản trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Để đạt được mục tiêu ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi, loại trừ tội
phạm ra khỏi đời sống xã hội cần kết hợp chặt chẽ giữa chủ động, tích cực phòng ngừa
với kiên quyết đấu tranh chống tội phạm. Đây là phương châm chỉ đạo trong chính
6
sách phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta.
Để có thể đưa ra một khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm chính xác về mặt
khoa học và phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cần
thống nhất nhận thức những vấn đề sau đây:
+ Một là, phòng ngừa tình hình tội phạm là trách nhiệm của tất cả các cơ quan
nhà nước, các tổ chức và mọi người dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều
hành của Nhà nước;
+ Hai là, phòng ngừa tình tội phạm xét về bản chất là hoạt động hạn chế, từng
bước loại trừ những yếu tố đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội
phạm, do vậy cần được tiến hành, thường xuyên liên tục, lâu dài mới có thể giải quyết
tận gốc vấn đề tội phạm.
+ Ba là, phòng ngừa tình hình tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với đấu tranh
phòng chống tội phạm, mà chủ yếu là phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng,nghiêm
minh tội phạm đã xảy ra, giáo dục cải tạo người phạm tội hoàn lương, không tái phạm.
+ Bốn là, phòng ngừa tình hình tội phạm cần phải được triển khai bằng nhiều
biện pháp khác nhau, với nhiều cấp độ khác nhau.
Tóm lại, trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm khoa học về
phòng ngừa tình hình tội phạm nêu trên, kết hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm ở nước ta hiện nay, chúng tôi cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm cần
phải hiểu là: "Hoạt động do tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và toàn thể nhân
dân tiến hành thông qua việc áp dụng tổng thể các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế,
xóa bỏ những yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, không
để tội phạm xảy ra trong đời sống xã hội".
Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là
phòng ngừa tình hình một loại tội phạm cụ thể, do vậy khái niệm phòng ngừa tình hình
tội vi phạm quy định về tham giao giao thông đường bộ cũng được xây dựng trên cơ
sở khái niệm chung về phòng ngừa tình hình tội phạm.
Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:
"Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là
hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi cá nhân thông qua
việc áp dụng tổng thể các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế, xóa bỏ những yếu tố hình
7
thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ không để tội phạm này xảy ra trong đời sống xã hội".
Từ khái niệm trên, đồng thời qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình
hình tội phạm cho thấy, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ có một số đặc điểm sau đây:
+ Thứ nhất, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành, các tổ chức,
các địa phương và mọi người dân, trong đó các cơ quan, lực lượng chuyên trách giữ
vai trò nòng cốt.
Ở nước ta, phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là trách nhiệm chung của toàn xã hội,
chứ không phải là trách nhiệm riêng của một cơ quan, tổ chức nào. Chỉ khi nào có sự
tham gia của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, tổ chức kinh tế và mọi người dân thì hoạt động này mới có thể đạt được
hiệu quả thiết thực. Vì vậy, để cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm (trong đó có tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ) giành được kết quả thiết thực cần
phải xây dựng và thực hiện cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng
tham gia phòng, chống tội phạm, phát huy vai trò nòng cốt của cơ quan, lực lượng
chuyên trách, nhất là lực lượng CSGT, cũng như những người tham gia giao thông.
Mặt khác, để bảo đảm thắng lợi, cuộc đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,
sự quản lý điều hành thống nhất của chính quyền các cấp từ trung ương đến địa
phương, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống tội phạm. Đây là
vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo thắng lợi cuộc đấu tranh này.
+ Thứ hai, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ chủ yếu tập trung vào việc hạn chế, xóa bỏ những yếu tố là nguyên nhân,
điều kiện làm phát sinh tội phạm này.
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ nói riêng (hiểu trong phạm vi nguyên nghĩa của nó) là
những hoạt động hạn chế, loại trừ, làm thay đổi nguyên nhân, điều kiện của tội phạm
hoặc khống chế tác dụng của nó nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra. Do vậy, để phòng
ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có hiệu quả, thì
8
mọi biện pháp phòng ngừa cần tập trung vào việc hạn chế, xóa bỏ những thành tố là
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm này.
Tội phạm nói chung, tội vi phạm những quy định về tham gia giao thông đường
bộ nói riêng phát sinh, tồn tại, vận động trong đời sống xã hội luôn là kết quả của sự
tác động qua lại giữa những yếu tố tiêu cực trong môi trường sống và những yếu tố
tâm sinh lý- xã hội tiêu cực thuộc bản thân con người sống trong môi trường ấy. Do
vậy, hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ, trước hết phải hướng vào việc hạn chế, loại bỏ những yếu tố tiêu cực thuộc
môi trường sống trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo
dục, tổ chức quản lý xã hội, chính sách, pháp luật.
Mặt khác, tội vi phạm theo quy định về tham gia giao thông đường bộ là do con
người gây ra, vì thế hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm này còn phải hướng vào
việc khắc phục những phẩm chất cá nhân tiêu cực và những yếu tố không thuận lợi
trong đời sống của họ, nhất là những người tham gia giao thông đường bộ, người có
nguy cơ phạm tội cao.
Tuy nhiên, nếu tội phạm này đã xảy ra trên thực tế thì cần tập trung phát hiện kịp
thời, xử lý nghiêm minh người phạm tội, giáo dục cải tạo họ trở thành người có ý thức
tuân thủ các quy định về tham gia giao thông đường bộ, không tái phạm. Điều cần lưu
ý là, trong hai hướng phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ nêu trên thì hoạt động hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội
phạm này là phương hướng chính, phương hướng cơ bản.
+ Thứ ba, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ phải được tiến hành bằng nhiều biện pháp thiết thực khác nhau, trong đó có
cả những biện pháp phòng ngừa xã hội và cả những biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ
(chuyên biệt) của các cơ quan, lực lượng chức năng.
Tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ nói riêng xảy ra trong đời sống xã hội hết sức đa dạng với những
nguyên nhân, điều kiện cụ thể khác nhau. Điều đó đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm này cần phải sử dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau mới có thể ngăn
chặn, loại trừ được tội phạm này trong đời sống xã hội.
Đây có thể là những biện pháp do Đảng, Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội
9
và mọi người dân tiến hành nhằm nâng cao mọi mặt đời sống xã hội, hạn chế, loại trừ
những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng xấu đến lối sống cộng đồng, đến trật tự an toàn công
cộng (trong đó có trật tự, an toàn giao thông đường bộ) cũng như ảnh hưởng đến quá
trình hình thành nhân cách của từng cá nhân khi tham gia giao thông đường bộ.
Bên cạnh những biện pháp phòng ngừa xã hội chung, các cơ quan và lực lượng
chức năng (nhất là lực lượng CSGT. Thanh tra giao thông...) còn triển khai thực hiện
các biện pháp phòng ngừa có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ (phòng ngừa chuyên
biệt) nhằm trực tiếp hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội vi phạm quy định
về tham giao giao thông đường bộ, ngăn chặn tội phạm này xảy ra.
1.1.2. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
- Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo đảm
trật tự công cộng an toàn, bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản của Nhà
nước, của các tổ chức và tài sản riêng của công dân.
Với bản chất là hoạt động nhằm hạn chế, xóa bỏ những yếu tố tiêu cực cực hình
thành nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm, không để cho tội phạm xảy ra,
phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có hiệu
quả thì xã hội không phải gánh chịu những thiệt hại về người, về của do tội phạm này
gây ra, người dân (nhất là những người tham gia giao thông đường bộ) không phải
chịu sự trừng phạt của pháp luật. Với nghĩa đó, phòng ngừa tình hình tội phạm này có
giá trị nhân đạo và tiến bộ xã hội to lớn.
- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có
hiệu quả còn đem lại những lợi ích kinh tế nhất định. Điều này thể hiện ở chỗ hoạt động
phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội phạm này không chỉ có tác dụng hạn chế được
những thiệt hại to lớn về kinh tế do tội phạm trực tiếp gây ra, mà còn có tác dụng giảm
bớt những chi phí mà Nhà nước, xã hội phải bỏ ra để khắc phục những hậu quả của tội
phạm (hậu quả gián tiếp của tội phạm). Mặt khác, tổ chức phòng ngừa tốt tình hình tội
phạm này thì tỷ lệ tội phạm xảy ra trên thực tế sẽ giảm. Điều đó sẽ kéo theo khả năng
giảm ngân sách nhà nước dành cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm.
- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
còn góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự nhất là
10
quản lý nhà nước về bảo đảm TTATGT thông.
Ở khía cạnh quản lý xã hội, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ là một "kênh", một mặt quản lý xã hội, đó là quản lý nhà nước
về an ninh trật tự, mà trực tiếp là quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông đường bộ. Thông qua hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ, các cơ quan chức năng của nhà nước có khả
năng kiểm soát được tình hình tội phạm này, từ đó đề ra các quyết định quản lý đúng
đắn, phù hợp với thực tế. Mặt khác, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, nhất
là biện pháp tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội không chỉ có tác dụng phòng
ngừa tội phạm này mà còn có tác dụng duy trì trật tự xã hội, trong đó có trật tự giao
thông đường bộ. Với nghĩa đó, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ có ý nghĩa không nhỏ về mặt quản lý xã hội nói chung, quản lý nhà
nước trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ nói riêng.
1.2. Mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.2.1. Mục đích, nhiệm vụ
* Mục đích phòng ngừa
Mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ chính là kết quả cuối cùng mà hoạt động này đặt ra và cần đạt đến.
Cũng như phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tình hình tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ luôn hướng tới mục đích kiềm chế sự
gia tăng, làm giảm dần và tiến tới loại bỏ, thủ tiêu tội phạm này trong đời sống xã hội.
Như vậy, mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ có các mức độ khác nhau: Trước hết là kiềm chế sự gia tăng, làm
giảm dần tình hình tội phạm này; tiếp theo là tiến tới loại bỏ, thủ tiêu tình hình tội
phạm này trong đời sống xã hội.
Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể của đất
nước cũng như từng địa phương mà mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ được đặt ra với những mức độ khác nhau.
Căn cứ vào tình hình hiện nay ở nước ta, cũng như ở từng địa phương, phòng
ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cần hướng tới
11
mục đích: kiềm chế, làm giảm mức độ xảy ra của tội phạm này, tạo môi trường xã hội
lành mạnh, an toàn, trật tự phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, bảo
vệ cuộc sống hạnh phúc, bình yên cho nhân dân.
Để đạt được mục đích này, đòi hỏi phải đưa ra được hệ thống các biện pháp
phòng ngừa phù hợp với thực trạng, diễn biến của tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương;
đồng thời phải tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa một cách đồng
bộ và có hiệu quả trên thực tế.
Muốn vậy, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ phải được xây dựng trên cơ sở: khảo sát, đánh giá đầy đủ, toàn
diện tình hình tội phạm đã xảy ra, dự báo được tình hình tội phạm này trong thời gian
tới; xác định đúng nguyên nhân, điều kiện của tội phạm. Mặt khác, các biện pháp
phòng ngừa tình hình tội phạm này còn phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế
của đất nước cũng như ở từng địa bàn cụ thể nhằm đảm bảo tính khả thi, tính hiệu quả
của các biện pháp phòng ngừa.
* Nhiệm vụ phòng ngừa
Nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ là những cộng việc cụ thể phải thực hiện để đạt được mục đích đặt ra. Đây là
những công việc mà tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi người dân đều
phải tham gia thực hiện tùy thuộc vào chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mình.
Để có thể đạt được mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ nêu trên, cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
+ Thứ nhất, tiến hành nghiên cứu nhằm phác họa được bức tranh toàn cảnh về tình
hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong phạm vi cả nước cũng
như ở từng khu vực, từng địa bàn cụ thể; xác định chính xác nguyên nhân, điều kiện làm
phát sinh tội phạm này. Đây là nhiệm vụ đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo
cho việc xây dựng phương án, đề xuất nội dung, biện pháp phòng ngừa phù hợp.
Nhiệm vụ này đòi hỏi sự tham gia của các nhà tội phạm học và các lực lượng
chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm.
+ Thứ hai, dự báo diễn biến của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ, những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến tội phạm này trong thời gian tới.
Đây cũng là nhiệm vụ không kém phần quan trọng đối với việc chủ động xác
12
định phương hướng, xây dựng chương trình, kế hoạch, đề ra biện pháp cũng như
chuẩn bị lực lượng, phương tiện để phòng ngừa tình hình tội phạm có hiệu quả.
Nội dung dự báo cần tập trung vào các vấn đề như: Trạng thái và xu hướng vận
động của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; những yếu
tố sẽ tác động, ảnh hưởng đến tình hình tội phạm này, nhất là những yếu tố có khả
năng sẽ trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm; khả năng phòng
ngừa các cơ quan chức năng, v.v...
Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhất là trong điều kiện ở nước ta hiện nay
công tác dự báo tình hình tội phạm ít được quan tâm đúng mức.
+ Thứ ba, xây dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch, xác định phương hướng,
nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, phòng ngừa tình
hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ nói riêng là hoạt động có định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể; mặt khác
đây là hoạt động do nhiều lực lượng tiến hành. Vì vậy, để hoạt động phòng ngừa có
hiệu quả cần thiết phải xây dựng chương trình, đề án, kế hoạch, xác định nội dung,
biện pháp phòng ngừa phù hợp đối với từng hệ, loại đối ượng, từng tuyến địa bàn cụ
thể, cũng như phù hợp với khả năng của từng loại chủ thể phòng ngừa trong những
điều kiện địa lý, kinh tế- xã hội cụ thể. Trong mỗi chương trình, đề án, kế hoạch phòng
ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cần xác định rõ
mục đích, yêu cầu, nội dung, biện pháp phòng ngừa phù hợp, có tính khả thi; xác định
rõ trách nhiệm tham gia và mối quan hệ phối kết hợp giữa các lực lượng tham gia
phòng, chống tội phạm.
Đây là nhiệm vụ của Nhà nước và các chủ thể có chức năng, nhiệm vụ phòng
ngừa tình hình tội phạm mà luật định.
+ Thứ tư, tổ chức thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch, nội dung, biện pháp
phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên thực
tế. Nếu chỉ dừng lại ở việc soạn thảo chương trình, kề án, kế hoạch, xác định nội dung,
biện pháp phòng ngừa thì chưa đủ cơ sở để đạt được mục đích phòng ngừa tội phạm
này. Vì thế, điều quan trọng là phải tổ chức thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch,
biện pháp phòng ngừa một cách khoa học và hiệu quả nhất.
13
Công việc đầu tiên khi thực hiện nhiệm vụ này là tiến hành phổ biến, quán triệt
chương trình, đề án, kế hoạch, nhằm tạo sự đồng thuận về mục đích, yêu cầu, nội
dung, biện pháp tiến hành đối với các chủ thể có trách nhiệm phòng ngừa tình hình tội
phạm này. Tiếp theo, là triển khai thực hiện từng nội dung, biện pháp phòng ngừa cụ
thể ở địa bàn, lĩnh vực nhất định.
Trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch, biện pháp
phòng ngừa cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, điều hành hoạt động phòng ngừa
theo chương trình, đề án, kế hoạch đã vạch ra.
Sau khi kết thúc từng phần hoặc toàn bộ chương trình, đề án, kế hoạch phòng
ngừa cần tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá công việc đã thực hiện, rút ra những kết
quả đã đạt được, cũng như những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Trên cơ sở đó đề ra
phương hướng, biện pháp phát huy những kết quả đạt được cũng như khắc phục những
vấn đề còn tồn tại, hạn chế.
1.2.2. Nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ
1.2.2.1. Nội dung phòng ngừa
Cho đến nay xoay quanh vấn đề nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm (trong
đó có tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ) vẫn còn những
quan điểm và cách tiếp cận khác nhau:
Có quan điểm cho rằng, nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm là tất cả những
mặt hoạt động cần tiến hành để phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả. Với quan điểm và
cách tiếp cận như vậy, những người theo quan điểm này đã chỉ ra hai mặt (phương diện)
hoạt động cơ bản cần tiến hành để phòng ngừa tội phạm, đó là: 1) Tiến hành các hoạt
động nhằm hạn chế, loại bỏ những yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát
sinh tội phạm như cải thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xóa bỏ
những yếu tố tiêu cực... để tình hình tội phạm không có cơ sở phát sinh, tồn tại; 2) Phát
hiện, xử lý tội phạm mà trọng tâm là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo giáo dục
người phạm tội. Như vậy, theo quan điểm này, thì nội dung phòng ngừa tình hình tội
phạm bao hàm cả hoạt động phòng và cả hoạt động chống (đấu tranh chống) tội phạm.
Theo quan điểm khác, thì phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm hai bộ phận:
một bộ phận gồm các hoạt động tác động vào "nhân" được gọi là hoạt động loại trừ tội
phạm; bộ phận khác tác động vào "quả", được gọi là hoạt động ngăn chặn tội phạm.
14
Chúng tôi đồng tình quan điểm này, bởi mục đích của phòng ngừa tình hình tội
phạm là ngăn chặn, loại trừ tội phạm trong xã hội. Để đạt được mục đích này, phòng
ngừa tình hình tội phạm phải được triển khai theo hai hướng: một là, hoạt động loại trừ
tội phạm và hai là, hoạt động ngăn chặn tội phạm. Đây là hai nội dụng cơ bản của hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm.
* Hoạt động loại trừ tội phạm chính là những hoạt động do các cơ quan nhà
nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và mọi người dân tiến hành nhằm hạn chế, triệt tiêu
các yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.
Tội phạm phát sinh luôn là kết quả của sự tác động qua lại giữa những yếu tố tiêu
cực thuộc môi trường sống bên ngoài và những yếu tố tâm- sinh lý xã hội, phẩm chất cá
nhân tiêu cực thuộc bản thân người phạm tội. Do vậy, hoạt động loại trừ tội phạm cần
tác động tới cả môi trường xã hội và cả con người sống trong môi trường đó. Trong hai
hướng tác động đó, thì hoạt động tác động vào môi trường xã hội là hướng cơ bản, bởi
môi trường xã hội vừa ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách cá nhân vừa là một thành
tố tương tác với con người tạo thành nguyên nhân của tình hình tội phạm.
Tóm lại, hoạt động loại trừ tội phạm thực chất là hoạt động loại trừ những yếu tố
tiêu cực trong môi trường xã hội và những yếu tố tâm- sinh lý tiêu cực của cá nhân
sống trong môi trường đó mà trong sự tương tác lẫn nhau làm phát sinh tội phạm.
* Hoạt động ngăn chặn tội phạm là tổng thể những hoạt động nhằm ngăn ngừa
các tội phạm tiềm tàng trong xã hội, không để chúng xảy ra, không để cho chúng thực
hiện được đến cùng và không để xảy ra tái phạm
Với bản chất như vậy, hoạt động ngăn chặn tội phạm có đối tượng tác động
không phải là các yếu tố tiêu cực đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm
mà là tội phạm tiềm tàng (hay tình hình tội phạm tiềm tàng).
Tội phạm tiềm tàng có ba trạng thái khác nhau, đó là: trạng thái tội phạm chưa
xảy ra, trạng thái tội phạm đang xảy ra nhưng chưa kết thúc, tức là vẫn tiếp tục tiếp
diễn và trạng thái tội phạm đã bị xử lý nhưng vẫn có khả năng tiếp tục xảy ra (tái
phạm). Thích ứng với ba trạng thái này, có ba dạng hoạt động (biện pháp) ngăn chặn
tội phạm, đó là:
- Thứ nhất, những hoạt động ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Đây là những
hoạt động kiểm soát và quản lý xã hội đối với những điều kiện tồn tại của hành vi
phạm tội tiềm tàng, người phạm tội tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm
15
nhằm làm tê liệt việc phạm tội, hay nói cách khác là không để tội phạm xảy ra.
Những điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội thường là những môi trường, hoàn
cảnh, tình huống thuận lợi cho việc phạm tội, tức là những môi trường, hoàn cảnh, tình
huống cụ thể mà ở đó hành vi phạm tội tiềm tàng có khả năng xảy ra, người phạm tôi
tiềm tàng có khả năng thực hiện tội phạm, nạn nhân tiềm tàng của tội phạm có khả
năng trở thành nạn nhân hiện thực của tội phạm. Đây cũng chính là cơ sở thực tế để
dựa vào đó mà thiết lập các biện pháp ngăn chặn tội phạm thích ứng.
Đối với trạng thái tội phạm chưa xảy ra, nhưng có khả năng hiện thực sẽ xảy ra
thì việc ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra đòi hỏi phải tiến hành ba nhóm biện
pháp, đó là:
1) Nhóm biện pháp làm tê liệt quá trình hiện thực hóa hành vi phạm tội tiềm
tàng. Đây là những biện pháp tác động vào môi trường hoàn cảnh, tình huống có khả
năng xảy ra tội phạm đã được nhận diện nhằm làm tê liệt quá trình hiện thực hóa hành
vi phạm tội tiềm tàng.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ ở nước ta cho thấy, những lĩnh vực, địa bàn, hoàn cảnh, tình huống có nguy
cơ xảy ra tội phạm này thường là, khu đông dân cư, trường học, những điểm đen và
giao thông, v.v...
2) Nhóm biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát người phạm tội tiềm tàng (người
có nguy cơ phạm tội cao) được nhận diện trên cơ sở phân tích tình hình tội phạm của
một số đối tượng trong các năm trước đó.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ ở nước ta cho thấy, số đối tượng có nguy cơ phạm tội này thường là những
người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nghiện ma túy, rượu và các chất
kích thích khác... Đối với số đối tượng này không thể áp dụng các biện pháp quản lý,
kiểm tra, kiểm soát (như kiểm tra nồng độ cồn có trong hơi thở của lái xe) để họ không
có điều kiện gây ra tai nạn giao thông, dẫn tới phạm tội.
3) Nhóm biện pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm. Đây là nhóm
biện pháp hướng tới việc triệt tiêu những nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm đối
với một số đối tượng.
Thực tế đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ ở nước ta trong những năm qua cho thấy, nạn nhân tiềm tàng của tội phạm này thường
16
là những người không có ý thức bảo vệ an toàn cho chính mình, không có ý thức chấp
hành quy định của pháp luật về tham gia giao thông đường bộ, hoặc là trẻ em...
- Thứ hai, những hoạt động ngăn chặn không để tội phạm tiếp tục diễn ra. Đây là
những hoạt động mang tính cấp bách thể hiện sự phản ứng của Nhà nước và xã hội đối
với hành vi phạm tội đang diễn ra hoặc có khả năng lặp đi, lặp lại nhiều lần nhằm chặn
đứng hành vi phạm tội đang được thực hiện, không để cho hành vi phạm tội tiếp tục
gây thiệt hại cho xã hội hoặc nhằm chặn đứng quá trình lặp lại của hành vi phạm tội,
không để cho hành vi phạm tội được thực hiện nhiều lần. Với tính chất như vậy, những
hoạt động (biện pháp) này chủ yếu do lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống
tội phạm của ngành Công an thực hiện, đặc biệt là lực lượng CSGT.
- Thứ ba, những hoạt động ngăn chặn không để xảy ra tái phạm. Đây là những hoạt
động (biện pháp) được triển khai thực hiện đối với trạng thái tội phạm đã xảy ra, đã được
xử lý hình sự nhưng sau đó vẫn có khả năng tiếp tục xảy ra nhằm ngăn chặn hành vi tái
phạm. Những biện pháp này chủ yếu do Cơ quan thi hành án hình sự tiến hành thông qua
việc giáo dục, cải tạo người phạm tội hoàn lương, trở thành người có ích cho xã hội.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, nếu tội phạm xảy
ra mà được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật và bảo đảm thi
hành án có hiệu quả sẽ: gây được lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp
luật, qua đó nâng cao được tính tích cực của mọi người dân trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm; làm mất hy vọng trốn tránh pháp luật của người phạm tội, vô hiệu hóa
điều kiện tiếp tục phạm tội; người phạm tội nhận thức được tội lỗi của mình và quyết
tâm cải tạo hoàn lương, không tái phạm.
1.2.2.2. Hệ thống các biện pháp phòng ngừa
Để phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ nói riêng đạt được hiệu quả và mục đích đề ra cần phải
có hệ thống các biện pháp phòng ngừa đa dạng, đa cấp độ, có cơ sở lý luận và thực
tiễn và bảo đảm tính khả thi.
Hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ là tổng thể các biện pháp khác nhau, trong đó mỗi biện pháp có
tính chất, phạm vi, mức độ tác động khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn
nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất nhằm hạn chế, loại trừ những yếu tố hình
17
thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm này, ngăn chặn không
để tội phạm xảy ra.
- Căn cứ vào tính chất, chủ thể và mục đích áp dụng, các biện pháp phòng ngừa
tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có thể được phân
thành hai tiểu hệ thống; đó là: hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội và hệ thống
các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt (hay còn gọi là các biện pháp phòng ngừa
chuyên môn, nghiệp vụ).
+ Hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội bao gồm những biện pháp kinh tế,
chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo dục; tổ chức- quản lý xã hội, chính sách pháp luật... do
tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và mọi người dân tiến hành
dưới nhiều hình thức khác nhau trong quá trình xây dựng và phát triển mọi mặt đời sống
xã hội nhằm tạo ra một mội trường xã hội tích cực làm tiền đề cho việc hạn chế, loại trừ
những yếu tố có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm này.
Với bản chất như vậy, các biện pháp phòng ngừa xã hội có một số đặc trưng cơ
bản sau đây:
Về tính chất: Các biện pháp phòng ngừa xã hội đều là những biện pháp mang
tính xã hội, thể hiện sự phản ứng phòng vệ của xã hội mà mục đích của sự phản ứng
đó là phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Việc áp dụng các biện pháp kinh tế, chính trị-
tư tưởng, văn hóa- giáo dục, tổ chức- quản lý xã hội và chính sách- pháp luật đều
hướng tới việc cải thiện mọi mặt đời sống xã hội, tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh
thần cho người dân, giáo dục lối sống tuân thủ các chuẩn mực xã hội, nhất là các quy
định của pháp luật về tham gia giao thông đường bộ... nhằm tạo ra môi trường xã hội
tích cực, thuận lợi cho việc hình thành nhân cách con người, hạn chế tối đa những yêu
tố tiêu cực có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.
Về chủ thể: Chủ thể phòng ngừa xã hội tình hình tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ hết sức đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ
chức, đoàn thể quần chúng và mọi người dân dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự
điều hành, quản lý của chính quyền các cấp với vai trò làm chủ của nhân dân.
Về mục đích, các biện pháp phòng ngừa xã hội không nhằm mục đích trực tiếp
hạn chế, loại bỏ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm mà hướng tới việc cải
thiện toàn diện các điều kiện kinh tế, chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo dục, tổ chức-
18
quản lý xã hội (nhất là quản lý nhà nước về an ninh trật tự), pháp luật làm tiền đề căn
bản cho việc loại trừ các yếu tố tiêu cực có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm
phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Về phạm vi tác động: Các biện pháp phòng ngừa xã hội có phạm vi tác động
rộng đến nhiều yếu tố, nhiều đối tượng trong xã hội và có khả năng giải quyết tận gốc
vấn đề tội phạm trong xã hội.
+ Hệ thống các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt bao gồm chủ yếu các biện
pháp có tính chất chuyên môn- nghiệp vụ do các cơ quan bảo vệ pháp luật có chức
năng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm tiến hành nhằm trực tiếp phát hiện,
ngăn chặn, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện của tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ, ngăn chặn không để tội phạm này xảy ra.
Như vậy, các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt có một số đặc trưng khác với
phòng ngừa xã hội, đó là:
Về tính chất: Các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt không mang tính xã hội
chung mà mang tính chuyên môn, nghiệp vụ riêng của từng cơ quan có chức năng trực
tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Về chủ thể: Chủ thể phòng ngừa chuyên biệt chỉ bao gồm những cơ quan, lực
lượng có chức năng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ như: Lực lượng CSGT của ngành Công an, Thanh tra giao thông,
Viện Kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành hình sự, v.v...
Về mục đích: Các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt đều hướng tới việc hạn
chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ, ngăn chặn không cho tội phạm này xảy ra, thực hiện đến cùng và
tái phạm.
Về phạm vi tác động: Các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt có phạm vi tác
động hẹp, đối với từng lĩnh vực, hệ loại đối tượng cụ thể tùy thuộc vào chức năng của
chủ thể tiến hành.
Mối quan hệ giữa phòng ngừa xã hội và phòng ngừa chuyên biệt có sự khác
nhau nhất định về tính chất biện pháp, chủ thể tiến hành, phạm vi, mục đích áp dụng
nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động hỗ trợ cho nhau để đạt được mục đích
chung là hạn chế, loại trừ tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ra
19
khỏi đời sống xã hội.
- Căn cứ vào phạm vi tác động, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ có thể chia thành hai nhóm: Các biện pháp
phòng ngừa chung và các biện pháp phòng ngừa cá biệt.
+ Các biện pháp phòng ngừa chung có phạm vi đối tượng tác động là những yếu
tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ có tính phổ biến nhằm ngăn ngừa tội phạm này trên diện rộng.
+ Các biện pháp phòng ngừa cá biệt là những biện pháp tác động trực tiếp đến
những đối tượng cụ thể nhằm hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh
hành vi phạm tội của đối tượng trong những tình huống xác định.
Mục đích của phòng ngừa cá biệt là ngăn chặn trước, ngăn chặn trực tiếp tội
phạm xảy ra và phòng ngừa sự tái phạm của một loại đối tượng cụ thể.
Là một trong những biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ, phòng ngừa cá biệt có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Những biện pháp này có khả năng tác động
trực tiếp đến những cá nhân có nguy cơ phạm tội cao, sống làm việc trong một môi
trường với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Do vậy, việc xác định đúng đối tượng
cần phải phòng ngừa cá biệt và các biện pháp cụ thể cần phải áp dụng không chỉ đảm
bảo cho hoạt động phòng ngừa có trọng tâm, trọng điểm, mà còn hạn chế được tình
trạng phân tán, dài trải, gây lãng phí, kém hiệu quả. Muốn vậy, trong từng lĩnh vực,
từng địa bàn cụ thể thì lực lượng có chức năng phòng ngừa cần phải xác định được
những đối tượng cần áp dụng biện pháp phòng ngừa cá biệt.
- Căn cứ vào nội dung, tính chất tác động, các biện pháp phòng ngừa có thể chia
thành: Biện pháp kinh tế- xã hội; biện pháp chính trị, tư tưởng; biện pháp văn hóa,
giáo dục; biện pháp tổ chức, quản lý và biện pháp pháp luật.
+ Biện pháp kinh tế- xã hội là biện pháp tác động về mặt kinh tế- xã hội thông
qua việc phát huy tính tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng
thời khắc phục, hạn chế sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, giải quyết thỏa
đáng những vấn đề xã hội bức xúc như công ăn, việc làm, đói nghèo, tệ nạn xã hội,
mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, v.v...
Thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, tình hình tội phạm,
20
trong đó có tình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phát sinh, tồn
tại, vận động trong đời sống xã hội có nguyên nhân, điều kiện từ lĩnh vực kinh tế- xã
hội. Vì vậy, để chủ động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ thì một trong những biện pháp có hiệu quẳ là tập trung phát triển kinh
tế, tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước cũng như ở từng địa phương. Qua đó tạo
tiền đề cho việc giải quyết những vấn đề xã hội như: Tạo công ăn việc làm cho người
lao động, chống thất nghiệp; xóa đói giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất cho người
dân.... Cùng với việc phát triển kinh tế, cần tập trung khắc phục những biểu hiện mặt
trái của nền kinh tế thị trường, những tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy...
Những biện pháp mang tính kinh tế- xã hội nêu trên nếu được tiến hành thường
xuyên, toàn diện chắc chẵn sẽ tạo tiền đề vững chắc về kinh tế- xã hội, góp phần kiềm
chế, nhằm khắc phục và dần loại trừ nguyên nhân, điều kiện trong lĩnh vực kinh tế- xã
hội của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
+ Biện pháp chính trị, tư tưởng là biện pháp hướng vào giữ vững ổn định về
chính trị tư tưởng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước và xã hội; nâng cao ý thức giác ngộ chính trị trong nhân dân, củng cố lòng tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ XHCN; kích thích lòng yêu nước,
tự tôn dân tộc, trách nhiệm công dân; phát huy tư tưởng nhân ái; bao dung của con
người Việt Nam, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước, đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an
toàn, trật tự xã hội, nhất là TTATGT đường bộ.
+ Biện pháp văn hóa, giáo dục là biện pháp hướng tới việc cải thiện, nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần cho người dân; mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo, nâng cao trình độ dân trí, hình thành nhân cách, lối sống, thói quen, sở thích lành
mạnh, phù hợp với các chuẩn mực xã hội... Qua đó tạo ra một môi trường xã hội có văn
hóa, nhất là văn hóa tham gia giao thông, góp phần tích cực vào việc hạn chế sự hình
thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực, những thói quen, tật xấu đóng vai trò là nguyên
nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Văn hóa giao thông cũng như giáo dục về pháp luật về giao thông đường bộ là
trách nhiệm của các cấp các ngành và của toàn xã hội tuy nhiên ở TP Đà Nẵng hay ở
nhiều địa phương khác cũng vậy, văn hóa giao thông cũng như việc chấp hành các quy
21
định của pháp luật giao thông lại thường được coi là trách nhiệm của cơ quan công an,
chính vì vậy nên công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục về pháp luật giao thông
đường bộ trên địa bàn còn nhiều khó khăn hạn chế, không được chú trọng quan tâm.
Có những đối tượng sinh ra và sinh sống trong những gia đình có điều kiện
không thuận lợi trong sự phát triển nhân cách, đã hình thành trong mình những tâm lý
sai lệch, có thể dẫn đến tội vi phạm quy định về TGGTĐB.
Gia đình là nền tảng của xã hội vai trò của gia đình có ý nghĩa rất to lớn đến việc
hình thành nhân cách cũng như thói quen và sở thích của mỗi cá nhân, cha mẹ ông bà
là tấm gương để cho con cháu noi theo đối với những gia đình thường xuyên chăm lo
cho con cái thì hình thành những nhân cách tốt cho con cái, tuy nhiên bên cạnh đó
những gia đình không thường xuyên quan tâm con cái hay những gia đình khuyết
thiếu, thiếu sự quan tâm dậy dỗ của cha mẹ hình thành nên những thói quen tùy tiện
thích gì làm đấy thậm chí làm những điều trái với đạo đức và lương tâm vi phạm pháp
luật.Đối với tội vi phạm quy định về TGGTĐB cũng vậy gia đình thiếu quan tâm hay
gia đình khuyết thiếu cha hoặc mẹ tạo cho các em những thói quen xấu, thường xuyên
tụ tập tụm năm tụm ba khi nổi hứng lên có thể là tổ chức đua xe gọi là cho vui hoặc
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà chạy qua tốc độ rú ga, lạng lách, đánh
võng trên đường.
Môi trường nhà trường đây cũng là môi trường quan trọng trong việc hình thành
đạo đức nhân cách của một con người, người xưa có câu “tiên học lễ, hậu học văn”
trước tiên là học đạo đức lối sống sau đó mới học văn. Môi trường nhà trường mà có
kỷ luật nghiêm thường xuyên tu dưỡng rèn luyện các em về đạo đức, lối sống và kỹ
năng sống giúp các học sinh có thể nhận thức và định hướng các hành vi của mình.
Còn ngược lại môi trường nhà trường mà kỷ luật lỏng lẻo, thiếu quan tâm đến cán bộ
và học viên, cán bộ giáo viên còn vi phạm quy định nhà trường, vi phạm đạo đức lối
sống hay vi phạm pháp luật dẫn đến hình thành trong ý thức của học viên là thiếu sự
tôn trọng, sự coi thường và việc giáo dục đạo đức, lối sống trong môi trường nhà
trường chỉ còn là hình thưc không đạt được hiệu quả đề ra.
Đối với lĩnh vực trật tự an toàn giao thông môi trường là nơi tuyên truyền có ý
nghĩa nhất ngay từ bậc học mầm non đến tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông hay bậc đại học đều có những tiết học tìm hiểu về luật giao thông ngay khi còn
22
ngồi trên ghế nhà trường các em đã được trang bị một cách đầy đủ các kiến thức về
pháp luật giao thông đường bộ cũng như các kỹ năng khi tham gia giao thông chính vì
vậy nhà trường nào mà thường xuyên quan tâm đến trật tự an toàn giao thông thì nhà
trường đó tỉ lệ học sinh khi tham gia giao thông là vi phạm rất ít.
Nơi công tác đây cũng là nơi mà việc chấp hành các quy định trở thành phong
trào có sức lan tỏa rộng. Ở những cơ quan đơn vị kỷ luật nghiêm coi việc vi phạm luật
giao thông đường bộ là vi phạm nội quy và quy định thi đua của cá nhân và đơn vị thì
nơi đó việc chấp hành rất tốt, còn những nơi mà lơ là coi nhẹ xem nhẹ kỷ luật của
người đứng đầu không nghiêm thi ở nơi đó việc chấp hành các quy định nội quy nói
chung của cơ quan đơn vị kém.
+ Biện pháp tổ chức, quản lý là biện pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả
quản lý mọi mặt đời sống xã hội, khắc phục những sơ hở, yếu kém trong quản lý, nhất
là quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm
chất chính trị vững vàng, có lối sống trong sáng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
giỏi đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
+ Biện pháp luật là biện pháp hướng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về
phòng chống tội phạm và tổ chức thực hiện áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
1.3. Chủ thể và nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
1.3.1. Chủ thể phòng ngừa
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ nói riêng là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế, các đoàn thể quần chúng
và mọi người dân, trong đó các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan Công an, Viện
Kiểm sát, Tòa án...) giữ vai trò nòng cốt, xung kích.
Như vậy, chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm (trong đó có tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ) hết sức đa dạng, đó là:
* Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Điều 4 Hiến pháp năm 2013
23
khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam- Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tàng tư tưởng, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội".
Với trọng trách như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi phòng ngừa tình
hình tội phạm, trong đó có phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ là vấn đề quan trọng của các cấp ủy, tổ chức Đảng.
Đảng lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm bằng đường lối, chính
sách, bằng biện pháp kiểm tra, giám sát và công tác tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung,
tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là một trong
những đảm bảo để hoạt động phòng ngừa tội phạm được triển khai đúng hướng và có
hiệu quả. Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động phòng ngừa tội
phạm, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị để chỉ đạo, định hướng hoạt động
phòng ngừa tội phạm, điển hình là Chỉ thị số 48CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ
Chính trị về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội
phạm trong tình hình mới".
Ngoài ra, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm còn
được phát huy thông qua sự gương mẫu của Đảng viên trong phòng phòng ngừa tình
hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ nói riêng.
* Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu của nhân dân
có vai trò đặc biệt quan trọng đối với công tác phòng chống tội phạm, trong đó có tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Vai trò của cơ quan này trong
phòng ngừa tình hình tội phạm được thể hiện trên nhiều phương diện như:
Ban hành nghị quyết, đạo luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống tội
phạm; tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm
trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương; giám sát chặt chẽ việc tuân thủ
pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
24
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương cũng có
vai trò không nhỏ trong phòng, chống tội phạm ở địa phương. Trong phạm vi thẩm
quyền của mình, Hội đồng nhân dân các cấp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan đến đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quyết định các chủ trương chính
sách, các biện pháp phát triển kinh tế- xã hội, văn hóa- giáo dục... tạo tiền đề cho việc
phòng chống tội phạm ở địa phương; kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức và nhân
dân ở địa phương thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm.
* Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc Hội. Do vậy,
Chính phủ có vai trò vô cùng quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong
đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Vai trò phòng ngừa tình
hình tội phạm của Chính phủ được thể hiện thông qua nhiều hoạt động của Chính phủ
liên quan đến phòng, chống tội phạm như: Thống nhất quản lý, điều hành hoạt động
phòng ngừa tội phạm trong phạm vi cả nước; ban hành các văn bản pháp quy, tổ chức
thi hành pháp luật có liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh
trật tự; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình quốc gia, các đề án, kế hoạch
phòng ngừa tội phạm; đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động phòng ngừa tội phạm...
Ngoài ra, Chính phủ còn xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội, văn hóa- giáo dục, an ninh- quốc phòng, đối ngoại... qua đó tạo tiền đề cho hoạt
động phòng, chống tội phạm đạt được kết quả.
Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương, có
nhiệm vụ triển khai các chương trình, đề án, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm
của Chính phủ, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp về phòng, chống tội
phạm ở địa phương; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch phòng,
chống tội phạm tại địa phương, phát động phong trào toàn dân tích cực tham gia
phòng, chống tội phạm, cảm hóa, giáo dục người phạm tội ở địa phương. Ngoài ra, Ủy
ban nhân dân các cấp còn có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và tổ chức thực
hiện các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, văn hóa, giáo dục, bảo đảm an ninh trật tự
tại đại phương, tạo tiền đề cho hoạt động phòng, chống tội phạm.
* Các cơ quan bảo vệ pháp luật
Đây là chủ thể chuyên trách, nòng cốt trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội
25
phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về tham giao giao thông đường bộ. Các cơ
quan bảo vệ pháp luật gồm: Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án, trong đó:
- Lực lượng Công an nhân dân có vai trò tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong
việc hoạch định các chương trình, đề án đấu tranh phòng, chống tội phạm; thực hiện
quản lý nhà nước về an ninh trật tự, trong đó có quản lý nhà nước về bảo đảm
TTATGT thông đường bộ; trực tiếp triển khai các hoạt động phòng, chống tội phạm
bằng các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ; chủ động mở các đợt cao điểm tấn công
trấn áp tội phạm; trực tiếp quản lý, giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có
ích cho xã hội. Ngoài ra, lực lượng Công an nhân dân còn có trách nhiệm hướng dẫn,
giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm, giám sát giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.
- Viện Kiểm sát nhân dân
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của VKSND, Khoản 3 Điều 20 BLTTHS năm
2015 khẳng định: "Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý
kịp thời, nghiêm minh, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội không làm oan người vô tội".
Từ quy định này cho thấy, Viện Kiểm sát là chủ thể có vai trò quan trọng trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vai trò này của Viện Kiểm sát được thể hiện ở hai
phương diện:
Một là, Viện Kiểm sát thực hiện tổng thể các biện pháp phòng ngừa tội phạm
thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Ở phương diện này, Viện Kiểm sát sử dụng các biện pháp đặc thù thuộc thẩm
quyền của mình do pháp luật quy định để phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các
loại tội phạm (trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ),
đảm bảo không để bất cứ hành vi phạm tội nào xảy ra mà không bị phát hiện, xử lý.
Ngoài ra, Viện Kiểm sát còn đóng vai trò đầu mối phối hợp hoạt động giữa các chủ thể
nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm được chính xác, đúng quy định
của pháp luật. Có thể thấy rằng, các biện pháp thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của VKSND có tác dụng trực tiếp ngăn chặn tội phạm, hạn chế
26
hậu quả thiệt hại do tội phạm gây ra, góp phần tích cực vào việc kiềm chế, đẩy lùi từng
bước và tiến tới loại trừ tội phạm trong xã hội.
Hai là, VKSND trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm với tính chất
là một cơ quan nhà nước. Ở phương diện này, VKSND áp dụng các biện pháp chuyên
môn của một chủ thể phòng ngừa trong phạm vi trách nhiệm của mình nhằm hướng tới
mục tiêu chung của hoạt động phòng ngừa tội phạm như: Tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật, thống kê tội phạm; nghiên cứu tổng kết thực tiễn và kiến nghị áp dụng
các biện pháp phòng ngừa tội phạm; tham gia xây dựng hoàn thiện pháp luật làm cơ sở
cho hoạt động phòng ngừa tội phạm; hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà
nước, các tổ chức cá nhân phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giám sát giáo dục
người phạm tội tại cộng đồng.
- Tòa án nhân dân
Với tính chất là một trong những cơ quan bảo vệ pháp luật, TAND thực hiện chức
năng, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự. Cụ
thể là: "Bằng hoạt động của mình, TAND góp phần giáo dục công dân... có ý thức đấu
tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác" (khoản 1 Điều 2 Luật Tổ
chức TAND năm 2014); đồng thời, "cùng với cơ quan, tổ chức nghiên cứu, đề xuất các
chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tội phạm, bảo đoảm an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội" (khoản 2 Điều 17 Luật Tổ chức TAND năm 2014).
Bên cạnh đó, thông qua hoạt động xét xử, TAND phát hiện nguyên nhân, điều
kiện của tình hình tội phạm, từ đó yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục. Đồng
thời phối hợp với các chủ thể khác trong xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng,
chống tội phạm.
* Các tổ chức, đoàn thể quần chúng và cá nhân
Đây là lực lượng kết sức đông đảo, giữ vai trò hết sức quan trọng trong phòng
ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ. Điều 46 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Công dân có nghĩa vụ tuân
theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng". Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013,
khoản 2, 3 Điều 4 BLHS năm 2015 quy định: "Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục
người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ và tuân theo
27
pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống XHCN; kịp thời có biện pháp loại trừ
nguyên nhân điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan tổ chức mình. Mọi công dân có
nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm". Đồng thời, khoản 2 Điều 5
BLTTHS năm 2015 cũng quy định: "Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện,
tố giác, tin báo về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm..." tiếp đó
khoản 3 Điều 5 BLTTHS năm 2015 quy định: "Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tham gia
đấu tranh phòng, chống tội phạm".
Từ những quy định trên đây cho thấy, các tổ chức trong xã hội tham gia phòng,
chống tội phạm thông qua hoạt động tuyên truyền, giáp dục cán bột hành viên thuộc tổ
chức mình tuân thủ các quy định của pháp luật, các nguyên tắc của cuộc sống cộng
động; kiểm tra, giám sát cán bộ, thành viên của tổ chức mình tham gia thực hiện các
biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, tham gia vào việc xây dựng các chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.
Các cá nhân tham gia phòng, chống tội phạm thông qua việc tuân thủ các quy định
của pháp luật; phát hiện, tố cáo các hành vi phạm tội, kiến nghị với chính quyền hoặc cơ
quan chuyên trách khắc phục những sơ hở, thiếu sots là nguyên nhân, điều kiện của tình
hình tội phạm. Bên cạnh đó, cá nhân còn giúp đỡ những đối tượng có tiền án, tiền sự,
mãn hạn tù tái hòa nhập cộng đồng; tích cực hưởng ứng phong trào toàn dân tham gia
bảo vệ an ninh trật tự, tham gia bảo vệ an ninh trật tự, tham gia phòng, chống tội phạm
tại địa bàn dân cư, tham gia xây dựng khu phố, thôn, xóm an toàn...
1.3.2. Các nguyên tắc phòng ngừa
Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ là:
Một là, mọi hoạt động phòng ngừa tội phạm của nguyên tắc pháp chế các cơ
quan nhà nước, tổ chức, các công dân phải hợp hiến và hợp pháp.
Hai là, nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa cơ quan tổ chức công dân đều có thể
tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm và nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho các
phát huy chủ thể tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm được mọi nguồn lực trong
xã hội vào việc phòng ngừa tội phạm.
Ba là, nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa pháp phòng ngừa tội phạm không
28
được hạ thấp danh dự nhân phẩm con người mà phải nhằm khôi phục con người và tạo
điều kiện để con người phát triển.
Bốn là, nguyên tắc khoa học và tiến bộ trong phòng ngừa các biện pháp phòng
ngừa phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, các thành tựu khoa học nhất định, phải
ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ trong việc xây dựng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm luôn phải đảm bảo cho mọi
người có cơ hội phát triển bình đẳng, không được phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới
tính, thái độ chính trị.
Năm là, nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể trong công tác phòng
ngừa tội phạm, mỗi chủ thể khi tham gia phòng ngừa tội phạm trong phạm vi và nhiệm
vụ phòng ngừa ở từng địa phương, từng ngành mà mình quản lý đồng thời có sự phối
hợp chặt chẽ với các chủ thể khác để có thể thực hiện một cách tốt nhất hoạt động
phòng ngừa tội phạm.
Sáu là, nguyên tắc cụ thể hóa trong phòng ngừa tội phạm: biện pháp phòng ngừa
tội phạm luôn được nhận thức rõ ràng, chứa đựng các giải pháp khả thi và phù hợp với
điều kiện đặc thù về phòng chống tội phạm ở mỗi địa phương mỗi ngành mỗi lĩnh vực.
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ là hoạt động phức tạp, tác động không chỉ đến xã hội
mà cả con người, do vậy cần phải tuân thủ một số nguyên tác nhất định.
Đây là những tư tưởng cơ bản chỉ đạo toàn bộ các hoạt động phòng ngừa tội
phạm để đạt được mục đích đề ra.
Cả lý luận và thực tiễn phòng ngừa tội phạm ở nước ta cho thấy, việc phòng ngừa
tội phạm dù ở cấp độ nào, phạm vi nào đi chăng nữa đều phải tuân thủ các nguyên tắc
cơ bản sau:
* Nguyên tắc pháp chế XHCN
Phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ do pháp luật điều chỉnh ở những mức độ khác nhau, do
đó cần phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN.
Nguyên tắc này đòi hỏi, việc triển khai các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
phạm phải dựa trên và phù hợp với các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Bởi vậy,
không vì bất cứ lý do gì (kể cả lý do an ninh, quốc phòng) việc phòng ngừa tình hình
tội phạm thoát ly khỏi các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Chỉ trên cơ sở thực
29
hiện đúng quy định của pháp luật, thì hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm mới
hợp pháp,mới có thể bảo vệ được quyền con người, quyền công dân, bảo vệ được lợi
ích của Nhà nước và xã hội, đồng thời mới hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Để nguyên tắc pháp chế được thực hiện trên thực tế, một mặt phải có một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, phù hợp, thực sự là công cụ pháp lý hữu hiệu
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; mặt khác, các chủ thể phòng ngừa tội phạm
phải có ý thức tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh khi thực hiện chức năng,
nhiệm vụ phòng, chống tội phạm.
Tuân thủ nguyên tắc này là một trong những đảm bảo quan trọng để hoạt động
phòng ngừa tội phạm được đúng luật, có tính hợp pháp.
* Nguyên tắc dân chủ XHCN
Phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ là hoạt động có tính xã hội rộng rãi, do đó phải tuân thủ
nguyên tắc dân chủ XHCN. Nguyên tắc này đòi hỏi: Phải đảm bảo sự tham gia tích
cực và có hiệu quả của mọi tầng lớp nhân dân vào công tác phòng ngừa tình hình tội
phạm; phải coi hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm là công việc chung của toàn
dân, là trách nhiệm của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi người dân;
phải đảm bảo cho mọi chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm đều có khả năng phát
huy sáng kiến, khả năng của mình trong phòng ngừa tình hình tội phạm.
Để nguyên tắc dân chủ được thực hiện trên thực tế, trước hết cần phải thực hiện tốt
cơ chế: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" công tác phòng ngừa tình hình tội
phạm. Đồng thời phải tổ chức tốt phong trào toàn dân tích cực tham gia phòng, chống
tội phạmm, cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư. Chính quyền các
cấp cần tạo điều kiện, giúp đỡ người dân tích cực tham gia phòng, chống tội phạm thông
qua các tổ chức, đoàn thể như: Đội tự quản, đội dân phòng, khu phố tự quản, thiết lập
rộng rãi các hộp tin báo về tội phạm, số điện thoại nóng về tội phạm, v.v...
Tuân thủ nguyên tắc này sẽ khai thác được tất cả các tiềm năng, sáng kiến, sức
mạnh của nhân dân đấu tranh phòng, chống tội phạm.
* Nguyên tắc nhân đạo XHCN
Nhân đạo là giá trị xã hội tiến bộ và được đề cao trong xã hội hiện đại. Trong xã
hội XHCN, mọi hoạt động của Nhà nước, xã hội đều phải hướng tới con người. Phòng
30
ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ nói riêng cũng không nằm ngoài mục đích đó, bởi vì đối tượng tác
động của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trước hết là con người kể cả trường
hợp họ là người phạm tội.
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động, biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm (kể
cả biện pháp phòng ngừa chuyên biệt) cũng không được xâm phạm quyền con người,
quyền công dân, đặc biệt không được hạ thấp danh dự, nhân phẩm của con người. Ngược
lại, phải hướng tới việc giáo dục, cảm hóa, sửa chữa nhân cách lệch lạc của người phạm
tội, giúp họ trở về với cuộc sống lương thiện. Mặt khác, phải bằng mọi biện pháp không
để cho bất cứ ai, bất cứ thành viên nào của xã hội đi vào con đường phạm tội, vào vòng
lao lý; để Nhà nước, xã hội và người dân không phải gánh ghịu những hậu quả tác hại do
tội phạm gây ra, để không một ai phải chịu sự trừng phạt của pháp luật.
Tuân thủ nguyên tắc này sẽ có tác dụng hạn chế được những tổn thương cho bản
thân người phạm tội nói riêng, cho xã hội nói chung.
* Nguyên tác khoa học
Xuất phát từ tính chất phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro khó khắc phục của hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm vì thế hoạt động này cần phải tuân thủ nguyên tắc khoa
học. Nguyên tắc này đòi hỏi việc xây dựng chương trình, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa
tội phạm phải có cơ sở khoa học (có cơ sở lý luận và thực tiễn) để đảm bảo tính khả thi và
hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội phạm. Để đáp ứng được yêu cầu này, việc xây
dựng chương trình, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa tội phạm không thể là việc làm bộc
phát, thiếu luận cứ khoa học, mà phải dựa vào: kết quả nghiên cứu, đánh giá đúng tình
hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm; kết quả dự báo về tình hình
tội phạm và những yếu tố tác động đến tình hình tội phạm trong tương lai. Có như vậy,
chương trình, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa tội phạm mới phù hợp với thực tế khách
quan, mới có tính khả thi và đem lại hiệu quả thiết thực. Mặt khác, phải đặc biệt chú ý sử
dụng các thành tựu khoa học- kỹ thuật, công nghệ trong phòng ngừa tội phạm.
Tuân thủ nguyên tắc này sẽ đảm bảo khả năng thành công, tiết kiệm nguồn lực và
hạn chế được rủi ro, tổn thất trong phòng ngừa tội phạm.
31
* Nguyên tắc đảm bảo sự phân công, phân cấp rõ, cụ thể, sự phối hợp chặt chẽ
của các lực lượng phòng ngừa tội phạm
Phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ là trách nhiệm của toàn xã hội, có sự tham gia của nhiều
chủ thể khác nhau, trong đó mỗi chủ thể có trách nhiệm, khả năng, điều kiện phòng
ngừa tội phạm khác nhau, do đó cần có sự phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng về chức
năng, nhiệm vụ, đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các lực
lượng tham gia phòng ngừa tình hình tội phạm.
Để đáp ứng yêu cầu này, trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý,
điều hành tập trung thống nhất của Nhà nước mà trực tiếp là cơ quan đầu mối, cơ quan
chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt là không để xảy ra tình trạng
đùn đẩy trách nhiệm, tình trạng "quyền anh, quyền tôi" trong phòng ngừa tội phạm. Mặt
khác, phải có một cơ chế phối hợp chặt chẽ, trong đó xác định cụ thể nội dung, hình
thức phối hợp và trách nhiệm của các bên tham gia phòng ngừa tình hình tội phạm.
Tuân thủ nguyên tắc này chắc chắn sẽ phát huy nhiều lợi thế của các chủ thể và
nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm.
Kết luận Chương 1
Với cách tiếp cận có hệ thống, trong Chương 1 của luận văn, tác giả tập trung
phân tích, luận giải tương đối toàn diện những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên các bình diện: Khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa, mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp, chủ thể và nguyên tắc
phòng ngừa. Những vấn đề lý luận này được soạn thảo dựa trên những vấn đề lý luận
chung về phòng ngừa tình hình tội phạm, do vậy có cơ sở khoa học.
Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là
một dạng, một cấp độ phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung. Vì thế, ngoài những
nội dung, đặc điểm chung, thì còn có nội dung và đặc điểm riêng về mục đích, nhiệm
vụ, biện pháp phòng ngừa.
Nhận thức đầy đủ những vấn đề lý luận này là tiền đề quan trọng để khảo sát,
đánh giá thực tiễn phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ ở địa bàn Thành phố Đà Nẵng. Vấn đề này được đề cập ở Chương 2.
32
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG PHÒNG
NGỪA TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐÀ NẴNG
2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng giao
thông đường bộ của Thành phố Đà Nẵng
* Về địa lý tự nhiên
TP Đà Nẵng là một trong những TP trực thuộc trung ương, nằm trong vùng
duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam có diện tích tự nhiên 1.284,88 km2, phía Bắc
giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông. Địa hình TP Đà Nẵng khá đa dạng,
vừa có đồng bằng, vừa có đồi núi, biển đảo nhất là quần đảo Hoàng Sa với diện tích
khoảng 30.500 ha. Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt
độ trung bình hàng năm khoảng 25,9oC, độ ẩm không khí trung bình là 83,4%, lượng
mưa trung bình hàng năm là 2.504 mm/năm. TP Đà Nẵng cũng là một trong những TP
miền Trung chịu ảnh hưởng khá nặng nề của các hiện tượng thiên tai dịch bệnh, nhất
là năm 2020 vừa qua, điều đó cũng gây khó khăn cho việc tham gia giao thông của
người dân, cũng như bảo đảm TTATGT đường bộ của cơ quan chức năng.
* Về kinh tế - xã hội
TP Đà Nẵng là TP tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực, là trung tâm chính trị - kinh
tế - xã hội, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội, và quốc phòng, an ninh, đóng vai
trò là hạt nhân quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung – Tây Nguyên.
Đồng thời, cũng là một trong 5 TP trực thuộc Trung ương, là đô thị loại I ở Việt Nam.
TP Đà Nẵng có 6 quận gồm: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn,
Liên Chiểu, Cẩm Lệ và 2 huyện: Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa
Theo kết quả điều tra dân số năm 2019, tổng dân số của TP Đà Nẵng là
1.134.310 người, trong đó dân số đô thị là 988.561 người (chiếm khoảng 87,2%), dân
số nông thôn là 145.749 người (chiếm khoảng 12,8%); mật độ dân số trung bình 828
người/1 km2.
33
* Về cơ bản hạ tầng giao thông
TP Đà Nẵng nằm gần trung độ của trục giao thông Bắc – Nam về đường bộ,
đường sắt, đường thủy và đường hàng không; là cửa ngõ ra biển của hành lang kinh tế
Đông – Tây, với điểm kết thúc là Cảng Tiên Sa.
Hệ thống giao thông đường bộ của TP Đà Nẵng khá đa dạng, gồm nhiều tuyến
đường khác nhau. Tính đến thời điểm hiện nay, trên địa bàn TP Đà Nẵng có tổng cộng
2.342 tuyến đường với tổng chiều dài là 1.396,36 km, 72 cầu có chiều dài hơn 25m với
tổng chiều dài 14.798m và hai bến xe liên tỉnh. Các tuyến đường bộ trên địa bàn TP
Đà Nẵng tương đối đa dạng, trong đó có: đường cao tốc Đà Nẵng Quảng Nam (đoạn
qua TP Đà Nẵng là 7,97 km); đường quốc lộ (gồm Quốc lộ 1A, 1B, quốc lộ 14B) có
chiều dài 119,98 km. Đường đô thị trên địa bàn TP Đà Nẵng là 1.039,17 km; đường
tỉnh 75km; đường huyện: 64,65 km; đường xã: 46,09 km. Ngoài ra, trên địa bàn TP Đà
Nẵng có 2.446,72 km đường kẹt, hẻm và đường nông thôn khác.
Hệ thống vận tải công cộng của TP Đà Nẵng hiện nay có 14 tuyến xe buýt, 7
công ty tắc – xi và 928.450 xe mô tô (xe máy) tham gia giao thông trên các tuyến
đường bộ của TP.
Với những đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế - xã hội cũng như hệ thống giao
thông như vậy, nên lưu lượng phương tiện tham gia giao thông trên các tuyến đường
bộ của TP rất lớn, do đó tình hình TTATGT (nhất là giao thông đường bộ) diễn biến
phức tạp, gây ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.
2.1.2. Tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng
Tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ hiện
nay trên địa bàn TP Đà Nẵng chính là kết quả và là hệ quả của việc triển khai các biện
pháp phòng ngừa ở địa bàn này vừa qua, đồng thời, cũng là đối tượng phòng ngừa
trong thời gian tới. Do vậy, tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ là một trong những yếu tố tác động liên quan trực tiếp đến việc
triển khai các biện pháp phòng ngừa.
Qua nghiên cứu, đánh giá thực tiễn phòng ngừa ở địa bàn TP Đà Nẵng trong 5
năm qua thấy rằng, tình hình vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói
chung, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng đã được kiểm
34
soát, có xu hướng giảm nhưng không bền vững, đặc biệt là vẫn còn diễn biến phức tạp
khó lường, gây ra nhiều hậu quả về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân.
Theo số liệu thống kê của Phòng CSGT Công an TP Đà Nẵng, từ năm 2016 đến
năm 2020, trên địa bàn TP đã phát hiện 333.297 trường hợp, trong đó lập biên bản xử lý
322.656 trường hợp, chiếm 96,8%. Các hình thức xử lý gồm: phạt tiền: 53.448 trường
hợp (chiếm 10,98%); tạm giữ phương tiện: 16.948 trường hợp (chiếm 5,25%); tước
quyền sử dụng giấy phép lái xe: 38.418 trường hợp (chiếm 11,90%), (xem Bảng 2.1 Phụ
lục). Trong số những trường hợp vi phạm này có 504 trường hợp gây tai nạn giao thông
(trong số đó có cả đường bộ, đường sắt và đường thủy) để lại hậu quả hết sức nghiêm
trọng về tính mạng, sức khỏe và tài sản, cụ thể: làm chết 326 người, bị thương 341
người, thiệt hại về tài sản khoảng 2.808 triệu đồng (xem Bảng 2.2 Phụ lục).
Trong số 431/504 vụ tai nạn giao thông đường bộ thì có 89 vụ khởi tố hình sự
(chiếm 20,64%), 157 không khởi tố hình sự (chiếm 36,42%), số vụ đang thụ lí giải
quyết 185 vụ (chiếm 42,92%). Số vụ không khởi tố hình sự được chuyển xử phạt hành
chính 81/157 trường hợp, trong đó: phạt tiền 55/81 trường hợp (chiếm 67,90%) tước
quyền sử dụng giấy phép lái xe: 26/81 trường hợp tước quyền sử dụng giấy phép lái
xe: 26/81 trường hợp (chiếm 32,09%) (Xem Bảng 2.3 Phụ lục).
Qua những số liệu thống kê nêu trên cho thấy, các vụ tai nạn giao thông đường
bộ có xu hướng giảm, nếu năm 2016 ở địa bàn TP Đà Nẵng xảy ra 137 vụ thì các năm
sau đều giảm so với năm định gốc (năm 2016), cụ thể là: năm 2017: 112 vụ, năm
2018: 96 vụ, năm 2019: 83 vụ, năm 2020: 76 vụ. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe mà
tai nạn giao thông gây ra cũng có xu hướng giảm: nếu năm 2016 (năm định gốc) có 89
trường hợp gây chết người và 99 trường hợp gây thương tích cho nạn nhân thì các năm
tiếp theo như sau: năm 2017 có 70 trường hợp gây chết người và 76 trường hợp gây
hậu quả thương tích; năm 2018 có 60 trường hợp gây hậu quả chết người và 65 trường
hợp gây hậu quả thương tích; năm 2019 có 54 trường hợp gây hậu quả chết người và
43 trường hợp gây hậu quả thương tích; năm 2020 có 53 trường hợp gây hậu quả chết
người và 58 trường hợp gây hậu quả thương tích. Riêng hậu quả về tài sản thì càng
ngày càng lớn (Xem Bảng 2.2 Phụ lục)
Tình hình vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ bị phát hiện, xử lý
thì diễn biến phức tạp hơn. Nếu lấy tổng số 59.062 vụ của năm 2016 để so sánh với
35
tổng số vụ của các năm sau thì thấy rằng, năm 2017, 2018, 2019 đều có số vụ vi phạm
cao hơn năm 2016, cụ thể năm 2017 có 61.842 vụ, năm 2018 có 68.077 vụ, năm 2019
có 84.867 vụ. Riêng năm 2020 thì số vụ vi phạm quy định về tham gia giao thông
giảm so với năm 2019, 2018, 2017 và chỉ tăng hơn năm 2016: 387 vụ (xem Bảng 2.2
Phụ lục).
Số vụ và số đối tượng gây tai nạn giao thông đường bộ bị khởi tố vụ án và bị can
trong vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cũng có xu
hướng giảm. Nếu năm 2016 có 24 vụ với 24 bị can; năm 2018 có 15 vụ và 16 bị can;
năm 2019 có 15 vụ và 15 bị can; năm 2020 có 11 vụ và 11 bị can bị khởi tố hình sự
(xem Bảng 2.3 Phụ lục).
Như vậy, tình hình vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, trong đó
có tình hình tội phạm trên địa bàn TP Đà Nẵng trong 5 năm qua, diễn biến theo chiều
hướng giảm. Điều đó chứng tỏ, việc triển khai các biện pháp phòng ngừa đã thu được
những kết quả nhất định. Về cơ bản, đã kiểm sát, kiềm chế được tình trạng vi phạm và
tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ. Tuy nhiên, kết quả này chưa thật sự bền vững,
số vụ vi phạm vẫn còn cao, thiệt hại về người và tài sản còn lớn. Điều đó đòi hỏi cần
tăng cường hơn nữa công tác phòng ngừa vi phạm và tội phạm này trong những năm tới.
2.1.3. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình vi phạm và tội phạm vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng
Tình hình vi phạm cũng như tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ phát sinh trên địa bàn TP Đà Nẵng trong những năm qua là do những
nguyên nhân, điều kiện nhất định. Do vậy, có nắm vững được nguyên nhân và điều
kiện của tình hình vi phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ ở địa bàn này thì mới có thể đề ra được những giải pháp sát thực, phù hợp,
có tính khả thi. Xét về mặt lý luận, phòng ngừa tình hình tội phạm (theo đúng nghĩa) là
ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra, tức là phải triển khai tổng thể các giải pháp làm
triệt tiêu những yếu tố mà trong sự tác động với nhau làm phát sinh tình hình tội phạm
hay nói một cách khác là triệt tiêu những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của tình
hình tội phạm. Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, tình hình tội phạm nói chung, tình
hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng phát sinh trong
đời sống xã hội luôn là kết quả của sự tác động qua lại (sự tương tác) của hai nhóm
36
yếu tố: các yếu tố tiêu cực trong đời sống xã hội và các yếu tố tâm sinh lý tiêu cực
thuộc cá nhân con người sống trong môi trường xã hội đó, nhất là những người có
nguy cơ phạm tội cao (người phạm tội tiềm tàng). Những yếu tố thuộc đời sống xã hội
đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện của tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ nhìn chung hết sức đa dạng, nhưng chủ yếu là: các
yếu tố kinh tế, xã hội; văn hóa – giáo dục; tổ chức, quản lý xã hội; chính sách pháp
luật. Các yếu tố tâm sinh lý tiêu cực thuộc bản thân con người có thể là: yếu tố sinh
học (như tuổi, giới tính, bệnh lý, (chẳng hạn bệnh ngáo đá); yếu tố tâm lý: ý thức, thói
quen, sở thích và những yếu tố xã hội như: nghề nghiệp, trình độ văn hóa, hoàn cảnh
kinh tế, hoàn cảnh gia đình… Mặt khác, tội vi phạm của quy định về tham gia giao
thông đường bộ xảy ra trong đời sống xã hội còn do một số tình huống do nạn nhân
của tội phạm này gây nên.
Với nhận thức như vậy và qua khảo sát ở địa bàn TP Đà Nãng, chúng tôi thấy,
tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở địa bàn này là do
các nguyên nhân, điều kiện sau:
2.1.3.1. Các nguyên nhân và điều kiện thuộc môi trường sống (môi trường địa lý
tự nhiên, kinh tế, xã hội bên ngoài)
Môi trường sống có nhiều yếu tố tiêu cực đóng vai trò là nguyên nhân và điều
kiện của tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
nói chung. Những yếu tố này có thể có trong môi trường địa lý tự nhiên và môi trường
xã hội.
* Trước hết, về môi trường địa lý tự nhiên
Như đã phân tích ở tiểu mục 2.1.1, Đà Nẵng là một TP trực thuộc Trung ương,
nằm trong vùng duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam là một trong những TP chịu
ảnh hưởng nặng nề của các hiện tượng thiên tai, dịch bệnh. Chỉ tính riêng trong năm
2020 vừa qua, ở địa bàn TP Đà Nẵng đã chịu sự tác động của hai đợt bùng phát dịch
bệnh Covid-19 và 13 cơn bão, lụt. Điều đó gây khó khăn không nhỏ cho việc đảm bảo
TTATGT, nhất là sự đi lại của người dân ở các tuyến đường bị ngập úng, bị phong tỏa.
Mặt khác, TP Đà Nẵng với đặc điểm địa lý tự nhiên của mình trở thành một TP du
lịch, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước, là địa điểm được lựa chọn tổ chức
nhiều sự kiện quan trọng, trong đó có sự kiện mang tầm quốc tế như: Lễ hội pháo hoa
37
quốc tế Đà Nẵng, Tuần lễ cấp cao APEC 2017, Lễ hội giao lưu văn hóa Việt Nam – Nhật
Bản… Đây là một trong những yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư
nước ngoài, song cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức trong công tác bảo đảm
TTATGT.
* Thứ hai, về môi trường xã hội
Môi trường xã hội có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhận
thức, lối sống, quan điểm, ý thức của cá nhân. Ở môi trường xã hội, không chỉ có yếu
tố thuận lợi mà còn có những yếu tố không thuận lợi tác động đến việc hình thành
những phẩm chất cá nhân tiêu cực của con người: Những yếu tố này cũng hết sức đa
dạng, nhưng chủ yếu là các yếu tố sau:
- Một là, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường. Trong lĩnh vực kinh tế,
những yếu tố có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện của tình hình vi phạm cũng như
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ chủ yếu là sự tác động tiêu cực
của mặt trái nền kinh tế thị trường mà điển hình là sự tác động của quy luật giá trị và
lợi nhuận, quy luật cạnh tranh. Thực tế cho thấy, kinh tế thị trường đóng vai trò tích
cực đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Song kinh tế thị trường cũng đẩy con
người vào “vòng xoáy” của lợi nhuận. Vì lợi nhuận, chủ phương tiện giao thông
đường bộ có thể bất chấp cả những quy định về đảm bảo TTATGT đường bộ, khai
thác tối đa tần suất hoạt động của phương tiện và thời gian làm việc của lái xe, tạo
nguy cơ gây mất an toàn khi tham gia giao thông. Thêm vào đó, vì công ăn việc làm và
thu nhập, không ít lái xe phóng nhanh, vượt ẩu, chạy quá tốc độ, chở quá trọng tải,
tranh giành khách. Những vi phạm về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ này chính
là hệ quả của quy luật lợi nhuận, quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Những quy luật này không chỉ tác động trực tiếp đến tình hình vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ mà còn góp phần làm sâu sắc thêm những mặt trái, tiêu
cực vốn có của kinh tế thị trường, nhất là sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo,
sự chênh lệch giữa TP và nông thôn.
Thực tế ở Đà Nẵng cho thấy, hầu hết các chương trình, dự án đầu tư chủ yếu tập
trung vào khu vực TP - nơi có cơ sở hạ tầng thuận lợi, sức tiêu thụ nhanh… Ngược lại,
ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, miền núi thật sự không phải là “môi trường
hấp dẫn” của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đây là nguyên nhân sâu xa của tình
38
trạng “ly nông, ly hương”, là lý do thu hút ngày càng nhiều người dân nông thôn ở Đà
Nẵng cũng như ở các địa phương khác đến TP Đà Nẵng làm ăn, sinh sống.
Hiện tượng di dân tự do, bột phát này đã gây nên tình trạng mất cân đối về dân cư,
tình trạng quá tải của cơ sở hạ tầng giao thông cũng như công tác bảo đảm TTATGT.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh được thừa nhận là một
quyền của cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế, vì thế tại TP Đà Nẵng có
nhiều doanh nghiệp kinh doanh vận tải đường bộ được thành lập, nhiều bến, bãi xe trái
phép được lập ra khắp nơi. Theo số liệu thống kê của Phòng CSGTCông an TP Đà
Nẵng, đến nay có 1.017 công ty kinh doanh vận tải đường bộ, trong đó có 07 công ty
tắc xi đang hoạt động. Do vậy, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp vận tải không sao
tránh khỏi và ngày càng trở nên gay gắt. Vì lợi ích kinh tế, nhiều chủ doanh nghiệp
kinh doanh vận tải ít quan tâm đến các yêu cầu về bảo đảm an toàn của phương tiện và
người điều khiển phương tiện….. Đây cũng là một trong những nguy cơ tiềm ẩn gây ra
những vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.
Thêm vào đó, trong điều kiện kinh tế thị trường, đời sống vật chất, tinh thần của
người dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu mua sắm phương tiện, trong đó có
phương tiện giao thông cá nhân tăng lên rất nhiều. Theo số liệu của Sở giao thông vận
tải TP Đà Nẵng, đến cuối năm 2020 có gần 90.000 ô tô và gần 1,1 triệu mô tô (xe
máy); lượng ô tô ở Đà Nẵng tăng gấp đôi so với 5 năm trước. Trong khi, cơ sở hạ tầng
giao thông đường bộ chưa tương xứng, chưa theo kịp. Điều đó đã tạo nên những bất ổn
về TTATGT đường bộ.
- Hai là, sự tác động của những hạn chế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm TTATGT đường bộ ở địa bàn
TP Đà Nẵng trong những năm qua cho thấy, một trong những yếu tố đóng vai trò là
nguyên nhân, điều kiện của tình hình vi phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ là những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục
+ Trước hết, trong lĩnh vực văn hóa: Bên cạnh những người, khi tham gia giao
thông luôn có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về bảo đảm TTATGT
đường bộ thì vẫn còn một bộ phận người dân có lối hành xử thiếu văn hóa khi điều
khiển các phương tiện giao thông đường bộ, nhất là giới trẻ. Các biểu hiện thiếu văn
hóa khi tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng thường gặp là: điều
39
khiển phương tiện giao thông khi đã uống rượu, bia và các chất kích thích (ma túy đá);
không chấp hành tín hiệu giao thông và hiệu lệnh của người thi hành công vụ; thái độ
thiếu tôn trọng pháp luật, tôn trọng tính mạng, sức khỏe, tài sản của bản thân mình
cũng như của người khác như: không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, bỏ
mặc, không cứu giúp người bị tai nạn giao thông. Đặc biệt hơn, là tình trạng một số
thanh niên, do thích “cảm giác mạnh”, thích “thể hiện bản lĩnh” đã điều khiển xe mô
tô phân khối lớn phóng nhanh, lạng lách, rú còi inh ỏi đua xe trái phép trên đường phố,
gây rối trật tự công cộng.
Thêm vào đó, trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của lối sống, văn hóa
phương Tây mà hiện tượng “đi bão” nhân dịp những sự kiện quan trọng của địa
phương cũng như cả nước…. xảy ra tương đối phổ biến, gây khó khăn cho việc đảm
bảo TTATGT nói riêng, trật tự an toàn công cộng nói chung.
+ Trong lĩnh vực giáo dục: yếu tố tiêu cực đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện
của tình hình vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ chủ yếu
là những hạn chế, thiếu sót trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về
giao thông đường bộ cũng như giáo dục văn hóa, kỹ năng tham gia giao thông tại các cơ
sở giáo dục, đào tạo, khu dân cư, nơi công cộng. Từ thực tiễn của TP Đà Nẵng cho thấy,
hàng năm chỉ vào đầu năm học thì Phòng CSGT Công an TP Đà Nẵng mới cử báo cáo
viên về các cơ sở giáo dục để tuyên truyền phổ biến pháp luật về giao thông nói chung,
pháp luật về giao thông đường bộ nói riêng. Hoạt động này mỗi năm thường chỉ được
triển khai một lần vào đầu năm học, bởi trong chương trình giáo dục đào tạo của các
trường vẫn chưa có một môn học chính thống về vấn đề này. Trong khi đó, số lượng học
sinh, sinh viên tham gia giao thông đường bộ ở TP Đà Nẵng rất lớn.
Công tác giáo dục, phổ biến pháp luật nói chung, pháp luật về an toàn giao thông
nói riêng trong nhà trường còn nặng về lý thuyết, chưa phù hợp với tâm lý lứa tuổi và
nhu cầu của người học, đặc biệt là chưa chú ý đến giáo dục kỹ năng tham gia giao
thông. Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục về bảo đảm
TTATGT chưa thường xuyên, chặt chẽ. Việc giáo dục về bảo đảm TTATGT đường bộ
ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn ít được quan tâm….
Có thể thấy, những hạn chế, thiếu sót nêu trên ít nhiều làm cho ý thức tham gia
giao thông của người dân không những không cao, mà còn có thể hình thành ở họ thói
40
quen tùy tiện khi tham gia giao thông đường bộ
- Ba là, sự tác động của những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước về bảo
đảm TTATGT đường bộ
Từ thực tiễn TP Đà Nẵng trong mấy năm qua cho thấy, công tác quản lý nhà
nước về bảo đảm TTATGT đường bộ, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn
một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Những hạn chế, yếu kém này có ở mọi khâu
trong quá trình quản lý. Cụ thể là:
+ Trong đào tạo, cấp giấy phép lái xe, quản lý, kiển định phương tiện
Qua khảo sát công tác đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe ở TP Đà Nẵng cho
thấy, công tác đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe được giao cho nhiều cơ quan, tổ
chức, nhưng chủ yếu là các cơ quan, tổ chức của ngành giao thông vận tải thực hiện.
Sự chồng chéo giữa các cơ quan (Công an, Quân đội, Giao thông vận tải) trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về TTATGT làm nảy sinh nhiều bất
cập, tiêu cực nhất là trong đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe. Chất lượng đào tạo,
sát hạch cấp giấy phép lái xe hiện nay nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Một
số cơ sở đào tạo lái xe chưa đảm bảo đầy đủ các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ đào
tạo như: phòng học, thiết bị giảng dạy, đội ngũ giáo viên, xe tập, sân tập lái… Việc sát
hạch cấp giấy phép lái xe vẫn còn một số sơ hở cả về nội dung và hình thức sát hạch,
đặc biệt là chưa bao quát hết các tình huồng cần thiết khi tham gia giao thông. Tình
trạng cấp giấy phép lái xe cho đối tượng không đủ tiêu chuẩn theo quy định vẫn còn
xảy ra, thậm chí có nơi có lúc vẫn còn hiện tượng mua bán giấy phép lái xe.
Công tác đăng kí, đăng kiểm phương tiện giao thông chưa thật sự chặt chẽ, vẫn
còn tình trạng một số phương tiện chưa làm thủ tục đăng kí đăng kiểm nhưng vẫn
tham gia giao thông, việc chuyển nhượng phương tiện nhưng không làm thủ tục sang
tên, đổi chủ vẫn còn phổ biến. Chất lượng kiểm định phương tiện chưa thật sự đảm
bảo. Ở một vài trung tâm đăng kiểm vẫn còn tình trạng Đăng kiểm viên không kiểm
tra đầy đủ các hạng mục phải kiểm tra, nhất là các hạng mục đánh giá bằng nhận định
chủ quan, thậm chí có trường hợp việc kiểm tra phương tiện hết sức qua loa, đại khái,
chỉ cần một cuộc điện thoại là Đăng kiểm viên cho xe qua ngay. Do vậy, trên thực tế,
hiện tượng xe hết thời hạn sử dụng, xe kém chất lượng nhưng vẫn ngang nhiên hoạt
động vẫn còn khá phổ biến… Tất cả những hạn chế, thiếu sót trên gây không ít khó
41
khăn, vướng mắc cho công tác quản lý phương tiện cũng như phục vụ yêu cầu nghiệp
vụ trong các trường hợp xử lý vi phạm TTATGT đường bộ trên địa bàn TP.
+ Trong quản lý hoạt động kinh doanh vận tải đường bộ
Qua khảo sát cho thấy, công tác quản lý kinh doanh vận tải đường bộ tại địa bàn
TP Đà Nẵng đôi lúc còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ. Nạn xe dù, bến cóc chưa được xử lý
triệt để. Trong khi đó, ý thức, trách nhiệm của một số chủ doanh nghiệp kinh doanh vận
tải đường bộ chưa cao, việc quản lý phương tiện và lái xe chưa thật sự chặt chẽ, thường
giao khoán phương tiện cho lái xe tự điều hành. Việc bảo dưỡng phương tiện ít được
quan tâm, lịch trình hoạt động của phương tiện không được cập nhật thường xuyên, đầy
đủ. Nhiều lái xe vi phạm về thời gian lái xe liên tục, không được kiểm tra sức khỏe định
kỳ, hồ sơ lái xe không đầy đủ dẫn tới thiếu thông tin về lái xe. Tình trạng lái xe chở quá
trọng tải, quá số lượng hành khách theo quy định vẫn còn khá phổ biến… Đặc biệt là
việc cấp giấy phép kinh doanh vận tải hàng hóa bằng container chưa được thực hiện
theo đúng quy định hiện hành; việc xử lý trách nhiệm của chủ doanh nghiệp vận tải chưa
chặt chẽ, nghiêm minh… Những hạn chế, thiếu sót này phần nào cũng ảnh hưởng tiêu
cực đến bảo đảm TTATGT đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng.
+ Trong tổ chức, điều hành giao thông đường bộ
Theo đánh giá của Phòng CSGT Công an TP Đà Nẵng thấy rằng, việc tổ chức
giao thông ở một số đoạn, tuyến đường tại TP còn bất cập, chưa thật sự phù hợp, còn
thiếu điểm dừng và các bãi đỗ xe. Việc quy hoạch và bố trí các cơ quan hành chính,
các khách sạn, trường học, bệnh viện, khu dân cư chưa phù hợp với tổ chức giao
thông, còn tập trung nhiều ở khu vực trung tâm TP dẫn tới mật độ người phương tiện
tham gia giao thông ở những khu vực này rất lớn, gây quá tải ùn tắc cục bộ, nhất là
vào giờ cao điểm. Hệ thống giám sát, theo dõi hành trình giao thông chưa được thiết
lập đầy đủ. Tổ chức giao thông ở các tuyến đường nông thôn còn bất cập, tình trạng
đường hỗn hợp, không có dải phân cách làn ô tô và xe hai bánh còn nhiều, tiềm ẩn
nguy cơ gây tai nạn.
+ Trong hoạt động thanh tra, tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về
TTATGTđường bộ
Theo báo cáo tổng kết công tác bảo đảm TTATGT của Phòng CSGT Công an TP
Đà Nẵng cho thấy, hoạt động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm TTATGT trên một
42
số tuyến chưa thường xuyên, chưa thực sự quyết liệt, hiệu quả thấp. Do ở nhiều thời
điểm lực lượng CSGT phải thực hiện cùng một lúc nhiều nhiệm vụ, lực lượng, phương
tiện thiếu, do vậy chưa quán xuyến, bố trí được khép kín thời gian, địa bàn tuần tra,
kiểm soát mà chủ yếu ở các địa bàn trọng điểm, theo các đợt cao điểm. Vẫn còn một
số trường hợp, cán bộ chiến sĩ CSGT chưa chấp hành đúng quy trình công tác, xử lý vi
phạm chưa thật sự đúng quy định của pháp luật để báo chí, dư luận và người dân phản
ánh. Việc xử lý những trường hợp sửa chữa làm thay đổi hình dáng, kích thước, đặc
tính của xe mô tô cho các đối tượng gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép chưa
được xử lý nghiêm khắc, mới chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, vận động, cam đoan,
cam kết… nên chưa đủ sức răn đe người vi phạm [20]
+ Bốn là, những hạn chế, bất cập của pháp luật.
Hệ thống pháp luật về bảo đảm TTATGT đường bộ cho tới nay đã được ban
hành khá đầy đủ. Tuy nhiên, vẫn chưa thật sự đồng bộ, còn không ít những bất cập,
hạn chế gây khó khăn vướng mắc cho công tác bảo đảm TTATGT đường bộ nói
chung, xử lý vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng.
Luật Giao thông đường bộ được ban hành năm 2008 để điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát minh trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Song qua hơn chục năm áp dụng
cho thấy, nhiều quy định của đạo luật này tỏ ra bất cập, không đáp ứng được yêu cầu
bảo đảm TTATGT đường bộ trong tình hình mới. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa
có một đạo luật mới được ban hành để thay thế Luật Giao thông đường bộ năm 2008.
Một trong những hạn chế, bất cập của đạo luật này là phạm vi điều chỉnh khá rộng,
bao gồm cả những vấn đề về xây dựng hạ tầng giao thông vận tải và doanh nghiệp
giao thông vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải và vấn đề quản lý nhà nước về bảo đảm
TTATGT đường bộ. Do vậy, dẫn đến sự chồng chéo với các luật khác, gây khó khăn
cho cơ quan chức năng trong việc lựa chọn các quy định phù hợp để áp dụng trong
thực tiễn. Mặt khác, do được quy định trong cùng một đạo luật, nên việc phân định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chức năng chưa rõ ràng, rành mạch
và dẫn tới chồng chéo hoặc bỏ trống một số chức năng, nhiệm vụ không có cơ quan
nào chịu trách nhiệm chính. Do hạn chế, bất cập nêu trên mà đôi lúc, đôi nơi trên địa
bàn TP Đà Nẵng, công tác bảo đảm TTATGT đường bộ bị chia cắt, xé nhỏ và giao cho
nhiều cơ quan thực hiện. Điều đó đã dẫn tới tình trạng chồng chéo, lấn sân nhau cũng
43
như sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thực hiện nhiệm vụ đảm bảo
TTATGT đường bộ. Bên cạnh dó, để việc áp dụng các quy định của pháp luật trong
lĩnh vực giao thông đường bộ, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành gần 200 văn
bản giải thích, hướng dẫn thi hành. Nhưng do có nhiều cơ quan ban hành, nên một số
nội dung hướng dẫn, giải thích không được thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau, gây
không ít khó khăn cho thực tiễn áp dụng.
Cùng với Luật Giao thông đường bộ năm 20058, còn có một số luật khác có liên
quan đến vấn đề bảo đảm TTATGT đường bộ như: Luật Xử lý vi phạm hành chính,
BLHS, BLTTHS. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng đối với việc đấu tranh phòng,
chống vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ. Tuy nhiên,
trong những văn bản quy phạm pháp luật này vẫn còn những quy định chưa đáp ứng
được yêu cầu bảo đảm TTATGT đường bộ trong tình hình mới. Do vậy, đã ảnh hưởng
không nhỏ đến phòng ngừa vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực này.
2.1.3.2. Các nguyên nhân, điều kiện thuộc chủ thể vi phạm
Thực tế cho thấy, môi trường sống của con người có nhiều yếu tố tác động làm
hình thành ở họ những phẩm chất cá nhân tiêu cực. Bởi lẽ, con người là một thực thể
xã hội, luôn chịu sự tác động của hoàn cảnh, môi trường xã hội. Song nếu chỉ coi
những yếu tố thuộc môi trường xã hội là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội
phạm thì không thể lý giải một thực tế là tại sao hàng triệu con người Việt Nam đều
cùng chịu sự tác động của môi trường sống bên ngoài, nhưng chỉ có một số ít người
phạm tội. Như vậy, tội phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ phát sinh trong đời sống xã hội hiện nay không chỉ do sự tác động của các
yếu tố thuộc môi trường xã hội bên ngoài mà còn do sự tác động của những yếu tố
thuộc cá nhân người phạm tội. Bởi vì, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ là do từng cá nhân thực hiện, do đó không thể không mang đặc tính riêng
của mỗi cá nhân. Những đặc tính đó có thể là đặc tính sinh học (như tuổi, giới tính,
bệnh lý), đặc tính tâm lý – xã hội (như tư tưởng, ý thức, sở thích, thói quen, ước
muốn…)
Kết quả phân tích những yếu tố tiêu cực thuộc về chủ thể thực hiện hành vi cho
thấy, những vi phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
phát sinh trên địa bàn TP Đà Nẵng trong những năm qua là do những yếu tố sau đây:
44
+ Một là, do tư tưởng thực dụng, chạy theo đồng tiền, lợi nhuận
Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, một bộ phận dân cư xuất hiện tư
tưởng thực dụng, làm giàu bằng mọi giá, nên chỉ làm những gì có lợi cho bản thân, gia
đình mình, bất chấp lợi ích của người khác, cũng như lợi ích chung của xã hội. Trong
lĩnh vực giao thông đường bộ, không ít những người điều khiển phương tiện giao
thông, nhất là phương tiện vận tải tư nhân vì lợi nhuận sẵn sàng chở quá tải; điều khiển
cho chạy quá tốc độ, phóng nhanh, vượt ẩu; tranh giành hành khách, dừng đỗ đón, trả
khách, bốc hàng, trả hàng không đúng nơi quy định… Vì thế đã gây ra nhiều vụ tai
nạn giao thông nghiêm trọng. Chẳng hạn, theo báo cáo của Phòng CSGT Công an TP
Đà Nẵng, chỉ tính riêng năm 2020 đã có: 9.247 trường hợp chạy quá tốc độ; 8.452
trường hợp không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu; 69 trường hợp chở quá trọng
tải bị phát hiện xử lý. Cũng trong năm này, đã xảy ra 83 vụ tai nạn giao thông làm chết
54 người, bị thương 43 người, làm hư hỏng 24 ô tô, 66 mô tô, gây thiệt hại về tài sản
ước tính khoảng 889 triệu đồng [20].
+ Hai là, do ý thức vô tổ chức, vô kỷ luật, coi thường các quy tắc bảo đảm
TTATGT đường bộ của chủ thể vi phạm
Phân tích các trường hợp vi phạm cũng như những vụ án đã bị khởi tố về tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng cho thấy,
nhiều vụ vi phạm cũng như tội phạm xảy ra trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường
bộ là do ý thức vô tổ chức, vô kỷ luật, coi thường các quy tắc bảo đảm TTATGT
đường bộ của chủ thể vi phạm. Suy cho cùng, những ý thức, thái độ tiêu cực này luôn
do lợi ích kinh tế, các khoản lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh, dịch vụ, vận tải
thúc đẩy, làm cho một bộ phận những người tham gia giao thông đường bộ cố tình
không chấp hành các quy định của pháp luật về bảo đảm TTATGT đường bộ, coi
thường sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của bản thân cũng như của người
khác, coi thường hiệu lệnh của CSGT khi thi hành nhiệm vụ.
+ Ba là, do thái độ quá tự tin hoặc cẩu thả trong khi tham gia giao thông đường
bộ.
Đây là một yếu tố đặc trưng thuộc về chủ thể của tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ. Bởi theo quy định của BLHS thì tội phạm này được thực
hiện với lỗi vô ý (có thể là vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả).
45
Thực tế cho thấy, nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra là do người
điều khiển, tham gia giao thông quá tin vào khả năng của bản thân cũng như yếu tố
khách quan bên ngoài nên cho rằng tai nạn giao thông xảy ra, hoặc do cẩu thả nên
không nhận thức được khả năng gây ra tai nạn khi phóng nhanh, vượt ẩu… Vì thế đã
có hành vi vi phạm quy tắc bảo đảm TTATGT đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng về
tính mạng, sức khỏe, tài sản cho người khác, thậm chí cho chính bản thân mình. Như
vậy những vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra ít nhiều cũng do thái độ chủ quan
của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
+ Bốn là, do sở thích, thói quen không phù hợp với chuẩn mực, quy tắc bảo đảm
an toàn ở nơi công cộng.
Qua khảo sát ở địa bàn TP Đà Nẵng cho thấy, có một số vụ vi phạm TTATGT
xảy ra, trong đó có vụ khởi tố hình sự là do thói quen, sở thích không phù hợp với
những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, phù hợp với những quy tắc sinh hoạt ở nơi công
cộng. Một trong những sở thích, thói quen đó là sở thích, thói quen dùng bia, rượu
hoặc các chất kích thích khác, kể cả khi tham gia giao thông. Do vậy, có rất nhiều vụ
tai nạn giao thông xảy ra là do sử dụng rượu, bia, ma túy nên không làm chủ được bản
thân khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Theo báo cáo của Phòng CSGT
Công an TP Đà Nẵng, trong 5 năm (từ năm 2016 - 2020) trên địa bàn TP đã xử lý
5.192 trường hợp vi phạm do có nồng độ cồn trong cơ thể. [20]
Đặc biệt là giới trẻ hiện nay không chỉ ở TP Đà Nẵng mà còn ở một số TP khác
xuất hiện một sở thích khác người, đó là “thích cảm giác mạnh”, thích làm oai, xem
mình là người tài giỏi nên dẫn tới có hành vi đua xe trái phép, đánh võng, lạng lách,
chạy với tốc độ cao, chạy xe một bánh sau… Có trường hợp tăng tốc bỏ chạy khi gặp
lực lượng CSGT. Chẳng hạn, trong năm 2020 trên địa bàn TP đã phát hiện, giải tán, xử
lý 25 vụ việc thanh, thiếu niên tụ tập đua xe trái phép, cổ vũ đua xe trái phép.
+ Năm là, do trạng thái thần kinh căng thẳng vì chạy xe liên tục nhiều ngày, thời
gian lái xe dài dẫn tới mệt mỏi, ngủ gật, không xử lý linh hoạt, kịp thời tình huống xảy
ra nên đã gây ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.
Mặt khác, một số người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ lại có tâm
lý nôn nóng, bực bội, thiếu bình tĩnh nên đã phóng nhanh, vượt ẩu, chen lẫn nhằm
thoát khỏi tình trạng ùn tắc nên đã gây tai nạn
46
Tóm lại, trên đây là những yếu tố đóng vai trò là nguyên nhân, điềukiện của tình
hình vi phạm nói chung, của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ nói riêng. Những yếu tố này đang hiện hữu tại địa bàn TP Đà Nẵng. Do vậy,
những yếu tố này vừa phản ánh kết quả của công tác phòng ngừa ở địa bàn này trong
những năm vừa qua, vừa là yếu tố định hướng cho công tác phòng ngừa trong những
năm tới. Có thấy được những yếu tố này thì mới có thể thiết lập được các giải pháp
phòng ngừa phù hợp, khả thi.
2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Thực trạng triển khai các biện pháp phòng ngừa xã hội
* Các biện pháp kinh tế - xã hội
Nhận thức được một trong những nguyên nhân cơ bản làm phát tình hình tội
phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói
riêng là những mặt trái của nền kinh tế thị trường, nhất là những hệ lụy tiêu cực của
nó. Do vậy, trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền TP Đà Nẵng đã tập trung
nhiều giải pháp phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho người dân. Có thể thấy 5 năm qua, trong bối cảnh, có nhiều khó khăn,
thách thức, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP Đà Nẵng đã nỗ lực phấn đấu
đạt được nhiều kết quả quan trọng. Kinh tế duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá; môi
trường đầu tư được cải thiện. Ba đột phá nền kinh tế - xã hội đạt kết quả khá rõ nét,
trong đó ngành dịch vụ (nhất là du lịch) trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Hạ tầng
kinh tế xã hội được quan tâm đầu tư (trong đó có hạ tầng giao thông đường bộ), góp
phần thay đổi diện mạo TP theo hướng văn minh, hiện đại. Cụ thể: Giai đoạn 2016 –
2019, tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn TP ước tăng 7,5%/năm, gấp 1,5 lần
năm 2015; tổng sản phẩm xã hội bình quân đầu người ước đạt 95,7 triệu đồng (tương
đương 4.095 USD). Tuy nhiên, bước sang năm 2020, trước tác động của đại dịch
covid-19, tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn ước giảm 9,3% so với năm 2019, dẫn tới
tăng trưởng giai đoạn 2016 – 2020 chỉ đạt 4%/năm. Cơ cấu kinh tế TP chuyển dịch
đúng định hướng với tỉ trọng dịch vụ 65%, công nghiệp – xây dựng 22,3%.
Bên cạnh những thành tựu trên, thì vẫn còn một số nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội còn chậm và chưa theo kịp tình hình, đặc biệt vẫn còn 4/11 chỉ tiêu về kinh tế xã
47
hội chưa đạt. Quy mô kinh tế còn nhỏ nên chưa khẳng định được vai trò đầu tàu, động
lực, tạo sự lan tỏa trong khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Việc khai thác những lợi
thế phát triển kinh tế của TP hiệu quả chưa cao.
Như vậy thực trạng về kinh tế xã hội ở TP Đà Nẵng vừa có mặt tích cực, vừa có
những hạn chế nhất định, trong đó những mặt tích cực, những kết quả đạt được trong
phát triển kinh tế xã hội đã góp phần giảm thiểu những yếu tố tiêu cực trong đời sống
kinh tế xã hội là nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng. Ngược lại, những hạn
chế trong phát triển kinh tế xã hội lại là những yếu tố tiềm ẩn làm cho tình hình tội
phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
tiếp tục diễn biến phức tạp.
* Các biện pháp văn hóa giáo dục
Song song với việc triển khai biện pháp kinh tế xã hội, Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân TP Đà Nẵng rất chú trọng việc đổi mới, cải cách giáo dục, đào tạo, nâng cao
trình độ dân trí, cải thiện đời sống tinh thần cho người dân. Nhờ đó, các lĩnh vực văn
hóa xã hội, xây dựng và phát triển con người Đà Nẵng đạt nhiều tiến bộ, tạo sự chuyển
biến rõ nét trong nhận thức của người dân. Đặc biệt là TP Đà Nẵng đã và đang thúc
đẩy sự phát triển về văn hóa, văn minh đô thị theo hướng xây dựng TP “an toàn, thân
thiện, đáng sống” với các chương trình “TP 5 không, 3 có…” Những chương trình
trên không chỉ làm thay đổi diện mạo, nâng cao tầm vóc, giá trị của TP Đà Nẵng mà
còn tác động rất lớn đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, cách ứng xử của từng con người
Đà Nẵng. Có thể thấy qua việc triển khai các chương trình, thực hiện các nhiệm vụ
phát triển văn hóa giáo dục đào tạo…
Trình độ dân trí, văn hóa của người dân Đà Nẵng được nâng lên rõ rệt, nhất là
văn hóa ứng xử khi tham gia giao thông đường bộ. Nhờ vậy, tình hình vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ có xu hướng giảm, tai nạn giao thông giảm cả
ba tiêu chí.
Mặc dù vậy, văn hóa, xã hội phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của
TP. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông còn tiềm ẩn
những yếu tố phức tạp, khó lường.
48
* Biện pháp chính sách, pháp luật
Chính sách, pháp luật là cơ sở chính trị pháp lý cho công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Nhận thức được vai trò to lớn đó, Đảng bộ, chính quyền TP Đà Nẵng trong những năm
qua đã bám sát và thực hiện nghiêm túc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về đấu tranh, phòng, chống tội phạm được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng như: Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới"; Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa XI) về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ,
đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”; Chiến lược quốc gia
phòng chống tội phạm đến giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030…
Quán triệt những chủ trương, đường lối của Đảng về đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong tình hình mới, Đảng bộ và chính quyền TP Đà Nẵng đã ban hành nhiều chỉ
thị, xây dựng nhiều kế hoạch, chương trình công tác về bảo đảm TTATGT nói chung
về phòng chống vi phạm và tội phạm vi phạm các quy định về tham gia giao thông
đường bộ nói riêng. Điển hình là, trong năm 2020, các cơ quan chức năng (nhất là lực
lượng CSGT) đã thực hiện có hiệu quả các kế hoạch trọng tâm như: Kế hoạch số 99-
KH/TU ngày 07/01/2019 của Thành ủy Đà Nẵng về thực hiện Kết luận số 45-KL/TW
của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc
phục ùn tắc giao thông”; Kế hoạch số 72/KH-CATP-TM-CSGT ngày 10/4/2020 về
bảo đảm TTATGT năm 2020; Kế hoạch số 88/KH/CATD-CSGT ngày 13/5/2020 của
Giám đốc Công an TP về “Tổng kiểm soát phương tiện giao thông cơ giới đường bộ";
Kế hoạch số 80/KH-CATP-CSGT-TM ngày 24/4/2020 về “phòng chống đua xe trái
phép”; Kế hoạch số 168/KH-CATP-CSGT-TM ngày 25/8/2020 về tăng cường tuần
tra, kiểm soát và xử lý hành vi vi phạm của người điều khiển xe trên đường bộ mà
trong cơ thể có chất ma túy, vi phạm nồng độ cồn… Mặc dù trong tình hình dịch bệnh
Covdi-19 diễn biến phức tạp, nhưng các cơ quan chức năng của TP vẫn tổ chức triển
khai quyết liệt các giải pháp đảm bảo an toàn chống dịch theo đúng khuyến cáo của Bộ
Y tế. Nhờ đó, đã tạo hiệu ứng tích cực và ủng hộ cao trong quần chúng nhân dân TP
49
đối với công tác bảo đảm TTATGT và công tác phòng đại dịch Covid-19.
Cùng với đó, Đảng bộ, chính quyền, các sở, ban, ngành và nhân dân TP Đà
Nẵng, nhất là lực lượng CSGT Công an TP còn chủ động tham mưu xây dựng hoàn
thiện pháp luật trực tiếp tham gia góp ý vào dự thảo một số văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan đến bảo đảm TTATGT, điển hình là: Dự thảo Luật Bảo đảm
TTATGT đường bộ; Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia; Nghị định bổ sung Nghị
định số 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ, đường sắt; Nghị định số 100/2019/NĐ-CP; Thông tư quy định về quy
trình đăng kí xe; Thông tư quy định về đào tạo, sát hạch cấp, quản lý giấy phép lái xe;
Thông tư quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát giao
thông đường bộ của CSGT; Thông tư quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ
phối hợp trong công tác điều tra, giải quyết tai nạn giao thông của lực lượng CSGT…
- Để nâng cao hiệu lực hiệu quả của pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, chính quyền và các sở, ban, ngành của TP hết
sức chú trọng tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo đảm
TTATGT, nhất là trong áp dụng pháp luật xử lý vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ, qua đó góp phần quan trọng trong phòng, chống tội phạm.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là pháp
luật về phòng, chống tội phạm, pháp luật về bảo đảm TTATGT được chính quyền, các
sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc của TP tổ chức thực hiện với nhiều nội dung, hình
thức khác nhau mang lại hiệu quả tích cực trong phòng ngừa tình hình vi phạm và tội
phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Đặc biệt là lực lượng CSGT Công an TP đã
xây dựng nhiều kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT, chủ
động sử dụng mạng xã hội Facebook, Zalo và phối hợp với các cơ quan thông tin đại
chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về TTATGT, nhất là trong các đợt cao điểm
phục vụ lễ hội, các sự kiện lớn. Ngoài việc tuyên truyền lưu động, tuyên truyền trên
loa phát thanh tại các nút giao thông, lực lượng CSGT còn đẩy mạnh tuyên truyền
Luật giao thông đường bộ và các văn bản pháp luật có liên quan thông qua đài FM
giao thông, truyền hình an ninh TP, an ninh ti vi, các cơ quan báo, đài của TP. Ngoài
ra, lực lượng CSGT công an TP còn phớp hợp với Sở giao thông vận, Sở giáo dục đào
50
tạo tổ chức tuyên truyền pháo luật, đạo đức người lái xe đến các đối tượng là học viên,
các trung tâm đào tạo lái xe, học sinh, sinh viên các trường, in sao tài liệu, băng ghi
âm, ghi hình, bản ảnh để tuyên truyền ở những nơi công cộng, khu vực đông dân cư,
trường học… Điển hình là năm 2015, Phòng CSGT Công an TP đã tổ chức 850 lượt
tuyên truyền lưu động; phối hợp với Đài phát thanh truyền hình Đà Nẵng thực hiện 94
số phát sóng chương trình FM giao thông 96.3 “An toàn hạnh phúc cho mọi nhà”; phối
hợp với các ban, ngành, đoàn thể tổ chức 50 buổi báo cáo chuyên đề an toàn giao thông,
phối hợp với Sở giao thông vận tải tuyên truyền 43 buổi về văn hóa giao thông, đạo đức
người lái xe… với 36.750 lượt người dự nghe; xây dựng 09 phóng sự về công tác bảo
đảm TTATGT của lực lượng CSGT; lắp đặt 66 pa nô tại 33 trường học tại TP [20].
Có thể thấy, với những nội dung và hình thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục
nêu trên đã làm thay đổi căn bản nhận thức, tình cảm, hành vi ứng xử của người dân
nói chung, người tham gia giao thông nói riêng. Từ đó, hạn chế, loại trừ từng bước
thói quen không chấp hành các quy tắc TTATGT đường bộ của một bộ phận dân cư,
có tác dụng hạn chế tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra.
2.2.2. Thực trạng triển khai các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt (phòng
ngừa chuyên môn, nghiệp vụ)
Như ở Chương 1 đã trình bày, những biện pháp phòng ngừa chuyên biệt là những
biện pháp có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ do cơ quan có chức năng phòng, chống
tội phạm thực hiện nhằm phát hiện, loại bỏ những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện
làm phát sinh vi phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ, ngăn chặn không để vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực này xảy ra.
Để đạt được mục đích loại bỏ những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát
sinh vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, trong 5 năm
qua, các cơ quan chức năng mà nòng cốt là lực lượng CSGT công an TP Đà Nẵng đã
triển khai đồng bộ các biện pháp có tính chất chuyên môn nghiệp vụ sau:
* Các biện pháp tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông đường bộ
Tổ chức điều khiển giao thông đường bộ là một trong những biện pháp công tác cơ
bản của lực lượng CSGT và lực lượng giao thông vận tải của TP. Có thể thấy, trong thời
gian qua các lực lượng này nhất là CSGT đã thường xuyên kiểm tra, ghi nhận nắm bắt
tình hình TTATGT đường bộ trên địa bàn để chủ động tổ chức giao thông, xây dựng
51
phương án phòng ngừa, giải quyết ùn tắc giao thông phù hợp với tình hình thực tế của
TP, đảm bảo hợp lý, an toàn, thông suốt cho người và phương tiện giao thông. Đặc biệt
là, đã huy động tối đa lực lượng, phối hợp với các lực lượng khác thường xuyên làm
nhiệm vụ điều hòa, hướng dẫn giao thông, tổ chức phân luồng, phân tuyến, giải tỏa ùn
tắc ở các nút giao thông (như nút Cầu Rồng, Cầu Trần Thị Lý..) không để xảy ra tình
trạng ùn tắc giao thông kéo dài, ảnh hưởng đến sinh hoạt, đi lại của nhân dân.
Ngoài ra, phòng CSGT đã chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng như Ban
an toàn giao thông TP, Sở xây dựng, Sở giao thông vận tải, Công an các địa phương…
tổ chức nhiều đợt khảo sát các điểm đen, điểm tiềm ẩn về tai nạn giao thông qua đó đề
xuất Ủy ban nhân dân TP chỉ đạo khắc phục nhằm phòng ngừa tai nạn giao thông xảy
ra, bảo đảm an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông …
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác tổ chức, điều khiển giao
thông đường bộ ở một số nơi còn bất cập, nhất là tại khu vực trường học, khu công
nghiệp, khu đông dân cư, chợ; một số tuyến giao thông ở nông thôn còn thiếu hệ thống
thông tin, tín báo hiệu đường bộ, tình trạng đường hỗn hợp còn nhiều, tiềm ẩn nguy cơ
xảy ra tai nạn giao thông…
* Các biện pháp quản lý phương tiện giao thông đường bộ, đào tạo, cấp giấy
phép lái xe
Chất lượng phương tiện giao thông đường bộ là một trong những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến sự an toàn của phương tiện và người điều khiển phương tiện đó
khi tham gia giao thông. Do vậy, hiệu quả công tác quản lý chất lượng phương tiện
giao thông đường bộ có tác dụng đáng kể đối với phòng ngừa vi phạm cũng như tội
phạm trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ.
Với tính chất là cơ quan quản lý phương tiện giao thông đường bộ, Phòng CSGT
Công an TP hàng năm đã tổ chức tốt công tác tiếp nhận, giải quyết đăng kí phương
tiện giao thông đường bộ theo đúng quy định. Chẳng hạn, trong năm 2020, Phòng
CSGT công an TP làm thủ tục đăng kí 7.996 xe ô tô và 6.877 xe mô tô. Tổng số ô tô
đang quản lý là 95.360 xe, còn tổng số xe máy hiện đang quản lý là 9.485 xe. Tiến
hành tra cứu và cung cấp thông tin liên quan đến 1.660 phương tiện (7000 ô tô, 960
mô tô) theo 320 yêu cầu của các đơn vị nghiệp vụ, các tổ tuần tra, kiểm soát giao
thông phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và xử lý các hành vi vi phạm
52
pháp luật khác. Kiểm định, cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật cho nhiều phương
tiện; cấp, đổi, gia hạn giấy phép lái xe cho nhiều trường hợp. Đặc biệt là đã ra quyết
định xử phạt 225 trường hợp vi phạm lỗi không làm thủ tục đăng kí sang tên, cải tạo
xe ô tô theo quy định. Hệ thống dữ liệu về phương tiện, chủ phương tiện được cập nhật
thường xuyên, phục vụ có hiệu quả việc truy nguyên, truy tìm dấu vết phương tiện gây
án trong các vụ xâm phạm TTATGT đường bộ.
Công tác đào tạo và sát hạch cấp giấy phép lái xe được đổi mới và có sự giám sát
chặt chẽ của cơ quan chức năng. Sở giao thông vận tải TP đã chủ động hơn trong quản
lý, giám sát chất lượng đào tạo lái xe, nhất là chất lượng giáo viên dạy lái. Do vậy, chất
lượng người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ngày càng được nâng cao
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý phương tiện cũng
như người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chưa thật sự đảm bảo, vẫn còn
những hạn chết, bất cập nhất định, ảnh hưởng đến chất lượng phương tiện cũng như
người điều khiển phương tiện. Tình trạng phương tiện giao thông đường bộ hết hạn sử
dụng hoặc quá hạn kiểm định vẫn tham gia giao thông… là một minh chứng của hạn
chế, thiếu sót trong công tác này.
* Các biện pháp thanh tra, tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về TTATGT
đường bộ
Đây là một trong những biện pháp mà các lực lượng chức năng (Thanh tra giao
thông và CSGT) của TP tăng cường thực hiện với nhiều hình thức khác nhau, có trọng
tâm, trọng điểm, bám sát các kế hoạch đã được phê duyệt và sự chỉ đạo của Công an
TP và Sở giao thông vận tải. Điển hình năm 2020 trên địa bàn TP Đà Nẵng, đã tiến
hành 205 lượt thanh tra chuyên ngành; 350 lượt tuần tra, kiểm soát lưu động, phát
hiện, lập biên bản 84.867 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 71.884 trường
hợp, chuyển kho bạc nhà nước 54 tỷ đồng [20]
Đặc biệt, Phòng CSGT thường xuyên tập trung chỉ đạo các đội, trạm nâng cao
công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm TTATGT đường bộ, trong đó vừa thực hiện
các đợt tuần tra, kiểm soát cao điển theo chỉ đạo của Bộ Công an, Cục CSGT vừa xử
lý theo chuyên đề; nồng độ cồn, tốc độ, người đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, xe
hết hạn sử dụng, quá hạn kiểm định, xe container…
Qua công tác xử lý theo chuyên đề năm 2020 đã phát hiện xử lý vi phạm nồng độ
53
cồn 586 trường hợp; không đội mũ bảo hiểm 15.638 trường hợp; chạy quá tốc độ:
13.139 trường hợp… [20]
Qua việc triển khai quyết liệt các biện pháp tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm đã
từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về giao thông đường bộ, góp phần tích
cực hạn chế tai nạn giao thông, đảm bảo hoạt động giao thông đường bộ diễn ra một
cách trật tự, an toàn và thông suốt, kéo giảm được tình trạng vi phạm cũng như tình
trạng phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Bên cạnh kết quả nêu trên, hoạt động tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm về
TTATGT đường bộ vẫn còn một số hạn chế, tồn tại nhất định, ảnh hưởng đến hiệu quả
phòng ngừa vi phạm cũng như tội phạm về TTATGT đường bộ như: chưa đồng bộ,
khép kín địa bàn, vẫn còn tuyến, địa bàn chưa được tuần tra, kiểm soát thường xuyên;
có nơi, có lúc còn có biểu hiện né tránh, bỏ qua lỗi vi phạm, xử lý chưa thật sự hợp lý,
công bằng nên không được sự đồng tình, ủng hộ của người dân, của dư luận xã hội.
* Biện pháp điều tra, xử lý tai nạn giao thông đường bộ
Một trong những biện pháp quan trọng, góp phần phòng ngừa tai nạn giao thông
nói chung, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là làm tốt
công tác điều tra, xử lý các vụ tai nạn đã xảy ra. Bởi, qua việc điều tra, xử lý tai nạn
giao thông đường bộ không những làm rõ được mức độ lỗi và trách nhiệm của những
người gây ra vụ tai nạn, làm cơ sở cho việc xử lý theo quy định của pháp luật, mà còn
làm rõ được nguyên nhân, điều kiện dẫn tới tai nạn, tội phạm vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ, phục vụ cho công tác phòng ngừa. Nhận thức được vấn
đề này, các cơ quan chức năng của TP Đà Nẵng đã có cố gắng, nỗ lực triển khai nhiều
biện pháp điều tra cụ thể nhằm nhanh chóng phát hiện, điều tra làm rõ các vụ tai nạn
xảy ra, trên cơ sở đó áp dụng đúng đắn các biện pháp xử lý phù hợp. Theo số liệu
thống kê của Phòng CSGT, Công an TP Đà Nẵng, trong 5 năm qua (Từ năm 2016 đến
năm 2020), trên địa bàn TP đã xảy ra 504 vụ tai nạn làm chết 326 người, bị thương:
341 người, gây thiệt hại về tài sản khoảng 2.808 triệu đồng. Trong tổng số 504 vụ gây
ra tai nạn có 89 vụ bị khởi tố hình sự với 93 bị can. Việc điều tra xử lý này đã góp
phần đáng kể vào việc kiềm chế sự gia tăng của tình trạng tai nạn giao thông nói
chung, của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông nói riêng. Song, bên
cạnh những kết quả nêu trên, công tác điều tra, xử lý các vụ tai nạn giao thông vẫn còn
54
những hạn chế, tồn tại nhất định như: Thời gian điều tra một số vụ còn kéo dài, việc
xử lý đôi khi chưa dứt điểm, dẫn tới việc khiếu kiện; số vụ tai nạn giao thông có dấu
hiệu tội phạm được khởi tố điều tra, xử lý hình sự chiếm tỉ lệ thấp (khoảng 17,6%),
chủ yếu là xử lý hành chính và bồi thường dân sự, vì thế đã làm giảm tính răn đe của
biện pháp xử lý đối với người gây tai nạn.
2.2.3. Khái quát thực trạng tổ chức thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình
hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng
Nhằm nâng cao nhận thức của người trên địa bàn TP Đà Nẵng về chấp hành Luật
Giao thông đường bộ và công tác phòng, chống tội phạm, cần có sự phối hợp tổ chức
thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB. Thực
hiện ý kiến chỉ đạo của UBND TP Đà Nẵng về công tác bảo đảm An toàn giao thông
trên địa bàn, Ban chỉ đạo đã có văn bản đề nghị các cơ quan chức năng TP Đà Nẵng
tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm vi phạm giao thông
đường bộ trên địa bàn.
Phòng Cảnh sát giao thông Công an TP Đà Nẵng đã chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao
thông, Cảnh sát trật tự và Công an các địa phương, đơn vị nâng cao trách nhiệm, siết chặt
kỷ cương trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; tiếp tục huy động lực lượng
thường xuyên tuần tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao
thông, kể cả ngoài giờ hành chính và trong các ngày nghỉ, ngày lễ, cụ thể như:
Kiểm soát xe tải ben, xe container trên các tuyến đường: Quốc lộ 1A, Quốc lộ
14B. Xử lý nghiêm lái xe, chủ xe chở quá tải trọng, chạy quá tốc độ quy định, lấn làn,
vượt ẩu, để đất cát rơi vãi gây ô nhiễm môi trường. Kiểm tra người lái xe về Giấy phép
lái xe phù hợp với xe đang điều khiển, Giấy Đăng ký xe, Giấy chứng nhận an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường còn hiệu lực; kiên quyết đình chỉ hoạt động đối với phương
tiện không có các loại giấy phép trên hoặc đã bị các cơ quan chức năng tạm giữ theo
quy định pháp luật.
Chỉ đạo lực lượng cảnh sát giao thông các Trạm, Đội thuộc phòng thường xuyên
tổ chức tuần tra kiểm soát xử lý vi phạm theo chuyên đề và tập trung xử lý các hành vi
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn giao thông :như chạy quá tốc độ đối với tất cả
các loại phương tiện lưu thông trên các tuyến đường đã lắp đặt biển báo “Đoạn đường
55
thường xuyên giám sát tốc độ”; kiểm tra xử phạt vi phạm làn đường trên các tuyến
đường có kẻ vạch phân làn riêng cho xe cơ giới; người đi mô tô, xe gắn máy (kể cả xe
máy điện) không đội mũ bảo hiểm. Hằng tuần có kế hoạch tổ chức các đợt kiểm tra vi
phạm quy định về nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện trên các tuyến đường
thường xảy ra tai nạn giao thông ban đêm.
Tăng cường lực lượng chỉ huy, điều hòa hướng dẫn giao thông tại các nút giao
thông phức tạp trong thời gian cao điểm buổi sáng và buổi chiều, không để xảy ra tình
trạng phương tiện lưu thông bị ùn ứ kéo dài, xử lý nghiêm tình trạng vượt đèn đỏ,
dừng xe lấn lên vạch dừng hoặc dừng xe qua làn bên trái tại các nút giao thông có tín
hiệu đèn.
Thanh tra sở Giao thông vận tải tiếp tục siết chặt quản lý hoạt động vận tải, tăng
cường kiểm soát tải trọng xe, tập trung quản lý bảo đảm kết cấu hạ tầng giao thông an
toàn, thông suốt; khắc phục kịp thời các vị trí, nút giao thông thường xảy ra tai nạn
giao thông, ùn tắc giao thông.
Kiểm tra, xử lý dứt điểm không để tái diễn tình trạng “xe dù”, “bến cóc”, xe
khách trá hình chạy “chui”, tại một số khu vực như: bến thuyền, bến cá, bệnh viện, các
trường đại học trên địa bàn TP Đà Nẵng.
Phối hợp với các đơn vị chức năng khảo sát những bất cập về tổ chức giao thông,
các điểm đen…để kịp thời đề xuất cấp có thẩm quyền sủa chữa, khắc phục.
Kết luận Chương 2
Để có cơ sở thực tế cho việc đề ra các biện pháp phòng ngừa phù hợp với địa bàn
TP Đà Nẵng, Chương 2 của luận văn chủ yếu phân tích, làm rõ những tình hình, đặc
điểm có liên quan đến phòng ngừa tình hình vi phạm cũng như tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ, trong đó tập trung vào tình hình, đặc điểm về địa lí
tự nhiên, tình hình vi phạm và tội phạm về TTATGT đường bộ và nguyên nhân, điều
kiện của tình hình đó.
Ngoài ra, chương 2 của Luận văn còn khảo sát, đánh giá thực trạng phòng ngừa
tình hình vi phạm và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ trên hai bình diện:
phòng ngừa xã hội và phòng ngừa chuyên biệt; rút ra những kết quả đạt được, cũng
như những vấn đề còn tồn tại, hạn chế cần có giải pháp khắc phục.
56
CHƯƠNG 3
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Dự báo những yếu tố liên quan đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng
3.1.1. Cơ sở dự báo
* Cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội
Trong 5 năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là đại dịch
covid-19, nhưng Đảng bộ, chính quyền, quân và dân TP Đà Nẵng đã nỗ lực phấn đấu,
đạt được nhiều kết quả quan trọng, kinh tế duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá; môi
trường đầu tư được cải thiện. Ba đột phá về kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư, góp
phần thay đổi diện mạo đô thị theo hướng văn minh, hiện đại. Lĩnh vực văn hóa xã
hội, xây dựng và phát triển con người Đà Nẵng đạt được nhiều tiến bộ. Quốc phòng,
an ninh được giữ vững, hoạt động đối ngoại được mở rộng, góp phần khẳng định vị thế
của TP [8].
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng;
còn 5/12 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch. Kết cấu hạ tầng đô thị có mặt chưa đồng bộ. Lĩnh
vực văn hóa xã hội phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của TP. Tình hình
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông còn tiềm ẩn nhiều yếu tố
phức tạp. Những hạn chế này, có nguyên nhân khách quan: do sự tác động của kinh tế
thế giới, thiên tai, dịch bệnh, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan như: việc
triển khai các nhiệm vụ, nhất là cụ thể hóa thực hiện 3 khâu đột phá về kinh tế - xã hội
chưa quyết liệt; khả năng phân tích, dự báo tình hình còn hạn chế; công tác lãnh đạo,
điều hành còn lúng túng khi phát sinh khó khăn, thách thức…
Từ thực tế trên, trong 5 năm tới (2020-2025), TP Đà Nẵng đề ra mục tiêu: “Tiếp
tục đổi mới và phát triển, đưa TP Đà Nẵng trở thành thành đô thị khởi nghiệp, sáng
tạo, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước, là hạt nhân của chuỗi đô thị và tăng
trưởng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung – Tây Nguyên; quốc phòng an ninh và chủ
quyền biển đảo được bảo đảm vững chắc, phấn đấu xây dựng TP giàu đẹp, an bình,
văn minh, hiện đại” [8]. Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, TP Đà Nẵng đã đưa ra một số
57
chỉ tiêu cụ thể về phát triển kinh tế xã hội: Tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2020
– 2025 tăng 9-10%/năm. Tổng thu nhập bình quân đầu người đạt 5.000-5.500 USD.
Tổng vốn đầu tư phát triển xã hội tăng 9-10%/năm. Thu ngân sách tăng bình quân 7-
10%/năm. Tỷ lệ tăng dân số bình quân 2,4%/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 75%.
Không còn hộ nghèo theo chuẩn đa chiều của TP; 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới
nâng cao.
* Cơ sở chính trị pháp lý
Trong thời gian qua, cũng như trong những năm tới, Đảng và Nhà nước nói
chung, Đảng bộ và chính quyền TP Đà Nẵng nói riêng hết sức quan tâm đến việc hoàn
thiện cơ sở chính trị pháp lý cho phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Điều này được thể hiện rõ nét
trong các văn kiện của đảng, văn bản pháp luật của nhà nước, trong đó ghi nhận đường
lối, chủ trương, biện pháp phòng, chống tội phạm nói chung, tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ nói riêng. Trước hết phải kể đến: Chỉ thị số 48-CT/TW
ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới", trong đó đề ra mục đích, yêu cầu và
một số nhiệm vụ chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm; Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư về
“Tăng cường lãnh đạo của đảng đối với công tác bảo đảm TTATGTđường bộ, đường
sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông", trong đó đề ra mục tiêu, yêu
cầu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm bảo đảm TTATGT và khắc phục tình trạng ùn
tắc giao thông, Kết luận số 45-KL/TW ngày 01/02/2019 về “Tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 4/9/2012 của Ban Bí thư khóa XI về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt,
đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông", trong đó đánh giá những kết quả
đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân, đưa ra một số nội dung,
yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội cần
quán triệt và thực hiện.
Về phía Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở
pháp lý cho công tác phòng, chống tội phạm, điển hình là: Luật Giao thông đường bộ
năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật xử lý vi phạm hành chính năm
58
2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đặc biệt là năm 2015, Quốc hội đã ban hành
một số đạo luật quan trọng quy định hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình
sự, trong đó có vụ án về tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ
như: BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); BLTTHS năm 2015, Luật tổ chức
Cơ quan điều tra hình sự năm 2015…
Hiện nay, Chính phủ đã trình Dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) để Ủy
ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến. Trong đó có ý kiến cho rằng, cần tách Luật giao
thông đường bộ thành hai luật: Luật giao thông đường bộ (sửa đổi) và Luật Bảo đảm
TTATGTđường bộ. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến không đồng ý phương án này.
Việc thông qua Luật giao thông đường bộ (sửa đổi) trong năm tới sẽ tạo đột phá trong
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, tổ chức giao thông, quản lý
an toàn kỹ thuật phương tiện giao thông, vận tải đường bộ, quản lý nhà nước về giao
thông đường bộ…
Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành nhiều chiến lược quốc gia liên quan đến
phòng, chống tội phạm và bảo đảm TTATGT đường bộ, điển hình là: Chiến lược quốc
gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030, trong
đó đưa ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống
tội phạm cũng như các chương trình, đề án thực hiện chiến lược, Chiến lược quốc gia
đảm bảo TTATGT đường bộ giai đoạn 2021- 2030 và tầm nhìn đến 2045, trong đó
đưa ra quan điểm, mục tiêu, định hướng chiến lược, giải pháp đột phá cũng như nguồn
kinh phí để thực hiện chiến lược, v.v...
Đây là những văn bản pháp lý quan tọng làm cơ sở cho đấu tranh phòng, chống
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ hiện nay cũng như những năm
tiếp theo.
3.1.2. Nội dung dự báo
Để có cơ sở cho việc thiết lập các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ phù hợp, có tính khả thi, nội dung dự báo cần
tập trung vào những vấn đề sau:
* Thứ nhất, về tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
từ nay đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn TP Đà Nẵng.
Qua việc phân tích những yếu tố là cơ sở để dự báo nêu trên, có thể đưa ra một số
59
dự báo về tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông từ nay đến năm 2025,
tầm nhìn đến năm 2030 như sau:
- Tình hình tội phạm này tiếp tục diễn biến phức tạp, vận động theo xu hướng
tăng, giảm không theo quy luật, tùy thuộc vào việc triển khai các đợt cao điểm, tháng
cao điểm bảo đảm TTATGT đường bộ, cũng như một số yếu tố khách quan tác động:
như bão lụt, dịch bệnh, tổ chức các sự kiện, lễ tết…trên địa bàn TP. Tuy nhiên, do
lượng phương tiện giao thông ngày càng nhiều, nhu cầu đi lại, vận tải hàng hóa tăng
mạnh, hạ tầng giao thông đường bộ chưa theo kịp, nhận thức và ý thức tham gia giao
thông của người dân còn hạn chế …sẽ tiếp tục là nguyên nhân làm cho tình hình tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông có nhiều biến động: có thời điểm tăng, có thời
điểm giảm nhưng nhìn chung sẽ có xu hướng giảm, mặc dù không bền vững.
- Thiệt hại do tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây ra vẫn
đặc biệt nghiêm trọng về tính mạng sức khỏe và tài sản của người dân.
- Đối tượng thực hiện hành vi phạm tội vẫn chủ yếu là người điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ và có sự thay đổi nhất định về thành phần trong những năm
tới. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là nam giới, có độ tuổi từ 18 đến 45, làm nghề lái xe hoặc
lao động tự do. Trong thành phần chủ thể của tội phạm này không loại trừ nữ giới, học
sinh, sinh viên và cả người nước ngoài.
- Phương tiện mà người phạm tội điều khiển khi tham gia giao thông đường bộ
chủ yếu là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, trong đó ô tô (chiếm khoảng
25%); mô tô, xe gắn máy (chiếm 70%), các loại phương tiện khác và người đi bộ
(chiếm khoảng 5%).
- Thời gian xảy ra tội phạm thường ở khung giờ từ 18 giờ đến 22 giờ là phổ biến
nhất, bởi vào thời gian này, lưu lượng người và phương tiện tham gia giao thông
đường bộ rất lớn, trong khi người điều khiển phương tiện giao thông thường ở trong
trạng thái tâm lý mệt mỏi sau một ngày làm việc và trong bối cảnh trời tối…
Mặt khác, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ sẽ xảy ra phổ
biến vào những ngày nghỉ, ngày lễ tết.
- Địa điểm xảy ra tội phạm chủ yếu trên các tuyến quốc lộ 1A, 14B và một số
tuyến đường nội đô có tình hình TTATGT đường bộ phức tạp như khu đông dân cư, khu
công nghiệp, trung tâm thương mại, chợ, trường học, các điểm đen về giao thông…
60
* Thứ hai, về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng trong thời gian tới.
Các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ đã phân tích ở mục 2.1 luận văn sẽ tiếp tục tác động làm cho
tội phạm này diễn biến phức tạp, khó lường. Trong những nguyên nhân, điều kiện làm
phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, thì những nguyên
nhân, điều kiện thuộc môi trường xã hội bên ngoài như: nguyên nhân, điều kiện về
kinh tế - xã hội; về văn hóa – giáo dục; về tổ chức, quản lý nhà nước về bảo đảm
TTATGT; về chính sách pháp luật vẫn tiếp tục đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, tội
phạm là do con người gây ra, do vậy yếu tố tâm sinh lý xã hội tiêu cực thuộc bản thân
con người, nhất là những người tham gia giao thông đường bộ cũng là những tác nhân
trực tiếp gây ra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Dự báo được những yếu tố đóng vai trò là nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ một cách chính xác sẽ có cơ sở
để thiết lập hệ thống biện pháp phòng ngừa phù hợp, có tính khả thi và tính hiệu quả.
3.2. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình
hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành
phố Đà Nẵng
3.2.1. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu
Phòng ngừa tình hình vi phạm TTATGT đường bộ nói chung, tình hình tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là nhiệm vụ hết sức khó
khăn, phức tạp, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược, lâu dài. Do vậy để
đảm bảo hiệu quả của công tác này cần quán triệt các quan điểm có tính chỉ đạo sau:
- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là
một trong những nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, thường xuyên, liên tục và lâu dài rộng
khắp, nhất là ở các tuyến địa bàn trọng điểm nhằm bảo đảm TTATGT đường bộ, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
phải gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trật tự,
chủ quyền biển đảo của TP; phục vụ đắc lực cho mục tiêu xây dựng TP Đà Nẵng giàu
đẹp, an bình, văn minh, hiện đại, TP “5 không”, “3 có”, “4 an”, “TP đáng sống”.
61
- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của các
cấp chính quyền TP, trong đó các cơ quan chức năng (Thanh tra giao thông, CSGT)
giữ vai trò nòng cốt; phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cấp, các
ngành, cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương (quận, huyện, xã phường) nhằm huy động
sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và nhân dân tích cực tham gia có hiệu quả
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; đề cao vai trò, trách nhiệm và tính chủ
động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức đoàn thể quần chúng nhân
dân trong phòng ngừa tội phạm.
- Tập trung mọi lực lượng, sử dụng tổng hợp các biện pháp, chủ động phòng ngừa,
tích cực đấu tranh ngăn chặn, trong đó lấy phòng ngừa là chính; kết hợp giữa phòng
ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ; kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, làm
rõ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh hành vi vi phạm cũng như hành vi phạm tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, coi trọng công tác phòng ngừa xã hội
từ cộng đồng, gia đình, trường học và ngay từ cơ sở, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về TTATGT đường bộ nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật khi tham gia
giao thông, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ;
tăng cường công tác thanh tra, tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi
phạm, hành vi phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
* Mục tiêu
Trên cơ sở mục tiêu của Chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn
2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030 và Chiến lược quốc gia đảm bảo TTATGT
đường bộ… giai đoạn 2021 – 2030, cũng như các văn bản chỉ đạo của Đảng bộ, Chính
quyền TP Đà Nẵng có thể xác định mục tiêu phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ từ nay đến năm 2025, định hướng đến năm
2030 như sau:
- Mục tiêu tổng quát: Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức, trách
nhiệm của các sở, ban ngành, các tầng lớp nhân dân của TP tôn trọng, chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật giao thông đường bộ; hàng năm giảm từ 5-10% số người chết
và bị thương do tai nạn giao thông đường bộ một cách bền vững, tiến tới xây dựng một
xã hội an ninh, an toàn, trật tự, văn minh và thân thiện; người tham gia giao thông có
62
kiến thức, kỹ năng, ý thức chấp hành pháp luật về TTATGT đường bộ, hình thành văn
hóa giao thông an toàn.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Xóa bỏ kịp thời các điểm đen, điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông trên hệ thống
đường bộ; giảm ùn tắc giao thông trên các tuyến đường trọng điểm, các đầu mối giao
thông chính; loại bỏ 100% xe cơ giới hết niên hạn sử dụng; xe tự chế ba, bốn bánh
không được tham gia giao thông. Từng bước đẩy lùi tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ và vi phạm TTATGT, trước mắt kéo giảm 03 tiêu chí về tai nạn
giao thông; Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm
TTATGT cũng như công tác điều tra, truy tố, xét xử tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra
oan sai nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội, góp phần xây dựng một xã hội an toàn,
ổn định; phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của TP.
3.2.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
3.2.2.1. Các giải pháp phòng ngừa xã hội
* Thứ nhất, các giải pháp kinh tế xã hội
Đây là một trong những giải pháp hết sức quan trọng, mang tính tổng thể, tác
động đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có tình hình tội phạm nói chung,
tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng. Do vậy,
trong thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân TP Đà Nẵng cần tập
trung triển khai các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời khắc phục, hạn chế mặt trái là nguyên nhân,
điều kiện của tình hình tội phạm như: Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, bất
bình đẳng xã hội, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các tầng lớp xã hội, hệ lụy tiêu cực
của liên kết, hợp tác, hội nhập kinh tế…
Trong tình hình hiện nay, để phát huy tác dụng của biện pháp kinh tế xã hội trong
phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, cần tập
trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề sau:
+ Thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục ảnh hưởng của đại dịch Covid-19,
sớm lấy lại đà tăng trưởng kinh tế - xã hội của TP. Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng
63
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao
và công nghệ thông tin, gắn với xây dựng đô thị khởi nghiệp sáng tạo, TP thông minh,
tạo nền tảng thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực mới, nhất là kinh tế số, xã hội số
và chính quyền số.
+ Triển khai đồng bộ các giải pháp sớm khôi phục nhịp độ tăng trưởng kinh tế -
xã hội TP sau đại dịch Covid-19, trước hết tập trung các giải pháp phục hồi và phát
triển các ngành dịch vụ phục vụ thị trường trong nước, xuất nhập khẩu, tạo việc làm,
đảm bảo an ninh xã hội, giảm thấp nhất nước tăng trưởng âm những tháng cuối năm
2020; đẩy nhanh triển khai các công trình, dự án trọng điểm nhằm thúc đẩy giải ngân
đầu tư công.
+ Đổi mới mô hình, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng xuất lao động và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Thúc đẩy tăng trưởng và duy trì chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đảm bảo phát triển bền vững. Thực hiện đồng bộ có hiệu quả 3 trụ cột, 5 lĩnh vực mũi
nhọn về phát triển kinh tế
+ Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm theo quy
định chung TP đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mở rộng không gian và phát
triển các khu đô thị mới về hướng Tây, Tây Bắc theo hướng đô thị sinh thái, đô thị
xanh. Phát triển khu trung tâm TP theo mô hình đô thị bán hiện đại. Thí điểm tái thiết
đô thị ở một số khu vực quận Hải Châu, Thanh Khê. Đẩy nhanh triển khai các dự án,
công trình trọng điểm, nhất là: xây dựng bến cảng Liên Chiểu (giai đoạn 1); mở rộng
nhà ga hành khách T1 Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng; di chuyển di dời ga đường
sắt Đà Nẵng; nâng cấp mở rộng quốc lộ 14B, 14G, 14D, đường vành đai phía Tây,
nâng cấp cải tạo đường ĐT 601, đường số 2 kết nối từ đường vành đai phía Nam đến
Hòa Thọ Tây, Hòa Nhơn…
* Thứ hai, các biện pháp văn hóa, giáo dục
Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa giáo dục là nền tảng tinh thần; vừa
là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội của TP, Đảng bộ và Chính
quyền TP Đà Nẵng tiếp tục chú trọng đầu tư phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển
kinh tế, chú trọng xây dựng và phát triển toàn diện con người Đà Nẵng làm nền tảng
phát triển bền vững, xây dựng “Thành phố đáng sống”. Tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng môi trường văn
64
hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao lành mạnh, đẩy mạnh đầu tư phát triển văn hóa, văn
học nghệ thuật. Xây dựng TP là điểm đến tin cậy, an toàn, thân thiện [8].
Đây là những định hướng chung nhằm xây dựng đời sống văn hóa, hoàn thiện
nhân cách con người Đà Nẵng, qua đó xóa bỏ những yếu tố đóng vai trò là nguyên
nhân, điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Trên cơ sở định hướng chung nêu trên, đối với từng lĩnh vực văn hóa cũng như
giáo dục đào tạo cần có những giải pháp riêng. Cụ thể:
- Về văn hóa: tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó tập trung xây dựng con người, lối sống văn hóa; nâng
cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa; xây dựng đời sống văn hóa và
môi trường văn hóa; nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình, làng, khu tập
thể, khu phố văn hóa, tập trung thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc; phát triển văn học
nghệ thuật; tăng cường, chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế, khu vực nền văn hóa;
hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa…
Đặc biệt cần quan tâm, kiên trì xây dựng văn hóa giao thông an toàn, thân thiện
với môi trường cho mọi tầng lớp nhân dân.
- Về giáo dục: Cùng với việc chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa, để phòng
ngừa và đấu tranh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cần triển
khai đồng bộ các giải pháp sau đây:
+ TP cần có chính sách đầu tư lâu dài, thỏa đáng cho giáo dục, đào tạo;
+ Tiếp tục đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới,
đồng thời thích ứng với nhu cầu nguồn nhân lực của TP đối với các lĩnh vực kinh tế xã
hội, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao
Nội dung giáo dục phải toàn diện về mọi mặt, từ giáo dục tri thức đến giáo dục
đạo đức, lối sống, nhân cách con người,chú trọng giáo dục kiến thức bảo đảm
TTATGT; thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn; giáo
dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội;
+ Phát triển, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý
giáo dục, đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu
65
cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Đổi mới chương
trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, giảng viên, chú trọng rèn luyện, giữ gìn và nâng
cao phẩm chất đạo đức nhà giáo
Tiếp tục đổi mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục, tăng cường áp dụng
công nghệ thông tin vào giáo dục, nhất là trong bối cảnh đại dịch covid-19 và cuộc
cách mạng 4.0.
+ Đổi mới về cơ bản tư duy và phương thức quản lý giáo dục theo hướng nâng
cao hiệu lực quản lý nhà nước, phân cấp mạnh mẽ nhằm phát huy tính chủ động và tự
chịu trách nhiệm của TP, của các cơ sở giáo dục, giải quyết một cách có hiệu quả các
vấn đề bức xúc, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, đào tạo
+ Tiếp tục phát triển mạng lưới trường, lớp cơ sở giáo dục của TP theo hướng đa
dạng hóa, chuẩn hóa, liên thông, liên kết gừ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp,
đến giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các
trường chuẩn quốc gia, đặc biệt là xây dựng trường chuyên Lê Quý Đôn trở thành
trường trung học phổ thông chất lượng cao trọng điểm quốc gia; hoàn thành xây dựng
làng đại học Đà Nẵng theo quy hoạch.
+ Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục
+ Đối với giao dục về TTATGT cần phải xây dựng thành một môn học chính
thống và được tổ chức giảng dạy xuyên suốt qua các bậc học từ mẫu giáo đến đại học.
Chương trình nội dung, hình thức giáo dục phải phù hợp với từng loại đối tượng, từng
bậc học. Đơn cử, ở lứa tuổi mầm non, chỉ cần phổ biến giáo dục những vấn đề chung
nhất là TTATGT đường bộ như: về phương tiện giao thông, tín hiệu giao thông, các kĩ
năng đi bộ, qua đường… đồng thời phải gắn với các hoạt động vui chơi, giải trí của trẻ
nhỏ. Ngược lại, ở bậc đại học nội dung giảng dạy nên đi sâu vào quy định của pháp
luật về bảo đảm TTATGT, tình hình tai nạn giao thông nhất là các tình huống thường
xảy ra tai nạn và cách phòng tránh; trách nhiệm của bản thân trong công tác bảo đảm
TTATGT đường bộ…
* Thứ ba, các biện pháp pháp luật
Trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ nói riêng, các biện pháp pháp luật có vai trò hết sức
quan trọng, bởi một trong nhưng chức năng, nhiệm vụ của pháp luật là đấu tranh
66
phòng chống tội phạm. Do vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong
phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì Nhà
nước, cũng như các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương cũng như địa phương (trong
đó có TP Đà Nẵng) cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
Một là, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa đổi bổ sung Điều 260 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ.
Nghiên cứu quy định tại Điều 260 BLHS hiện hành chúng tôi thấy, có một số sửa
đổi, bổ sung mới so với Điều 202 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), đó là:
thay đổi tên điều luật từ “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” thành “tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Việc sửa
đổi này dẫn tới có sự thay đổi về chủ thể của tội phạm này: từ “người điều khiển giao
thông đường bộ” sang “người tham gia giao thông đường bộ”. Người tham gia giao
thông đường bộ gồm: người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ;
người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ. Người điều khiển
phương tiện gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia
giao thông đường bộ (khoản 22, 23 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008).
Thực tiễn áp dụng Điều 260 BLHS năm 2015 để xử lý hình sự thì sẽ không đảm bảo
nguyên tắc công bằng, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự. Vì vậy, theo tác giả,
cần tách Điều 260 BLHS năm 2015 thành 2 điều luật riêng quy định hai tội với chế tài
có mức độ nghiêm khắc khác nhau, đó là: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Cùng với việc sửa đổi này, các cơ quan có thẩm quyền cần sửa sớm ban hành văn
bản chi tiết hoặc hướng dẫn một số quy định của BLHS hiện hành có liên quan đến tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, trước hết là hướng dẫn áp dụng
quy định tại khoản 5 Điều 260 về trường hợp “vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ mà có khả năng thực tiễn dẫn đến hiệu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức
khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời”.
Hai là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật giao thông đường bộ năm 2008
Luật giao thông đường bộ đã được Quốc hội thông qua năm 2008 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2019. Đến nay, sau 11 năm áp dụng thấy rằng nhiều quy định
67
của luật này đã bộc lộ bất cập, hạn chế làm cho công tác bảo đảm TTATGT đường bộ
gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Đặc biệt là Luật giao thông đường bộ năm 2008
điều chỉnh hai vấn đề lớn là: quản lý nhà nước về giao thông đường bộ và quản lý nhà
nước về bảo đảm TTATGT đường bộ, do hai cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm: Cơ
quan thuộc ngành giao thông vận tải và cơ quan thuộc ngành Công an. Với phạm vi
điều chỉnh khá rộng như vậy, rất rễ dẫn tới tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm
vụ của hai cơ quan trên; đồng thời cũng có thể điều chỉnh được đầy đủ những vấn đề
thuộc từng lĩnh vực vốn có sự khác nhau nhất định. Do vậy, chúng tôi nhất trí với quan
điểm, trong lần sửa đổi này, cần ban hành vai luật riêng, điều chỉnh hai lĩnh vực khác
nhau, đó là: Luật giao thông đường bộ điều chỉnh những vấn đề kết cấu hạ tầng giao
thông đường bộ, phương tiện và người tham gia giao thông đường bộ, vận tải đường
bộ và quản lý nhà nước về giao thông đường bộ; Luật bảo đảm TTATGT đường bộ
điều chỉnh những vấn đề hệ thống báo hiệu đường bộ về hệ thống báo hiệu đường bộ,
quy tắc giao thông đường bộ, tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn
tắc giao thông đường bộ, giải quyết tai nạn giao thông đường bộ, quản lý nhà nước về
TTATGT đường bộ.
Tuy nhiên, hiện nay cũng có ý kiến không nên tách luật giao thông đường bộ
thành hai luật với những lý do: 1) khi tách thành hai luật sẽ phát sinh nhiều vấn đề
như: thiếu sự đồng bộ, nhất quán khi xây dựng các văn bản dưới luật; 2) Phá dỡ kết
cấu của luật giao thông đường bộ gồm 4 chế định: kết cấu hạ tầng; phương tiện giao
thông đường bộ, người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và người tham gia
giao thông đường bộ; quy tắc giao thông đường bộ. Vấn đề này cần tiếp tục nghiên
cứu để lựa chọn phương án hoàn thiện pháp luật về giao thông đường bộ cũng như về
bảo đảm TTATGT đường bộ phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở nước ta.
Ba là, trong quá trình áp dụng pháp luật xử lý hành chính, xử lý hình sự là những
hành vi vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ phải đảm bảo công khai,
minh bạch, công bằng, đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt, các hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử phải được tiến hành kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh mọi hành
vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm đồng thời không làm oan người
vô tội.
Bốn là, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
68
về giao thông đường bộ. Luật phòng chống tác hại của rượu bia, tổ chức vận động cán
bộ, đảng viên, công chức nêu gương cùng toàn dân thực hiện chủ trương “đã uống
rượu bia, không lái xe”. Nội dung tuyên truyền, phổ biến giáo dục phải đa dạng, phong
phú. Không chỉ quy định của pháp luật mà cả kĩ năng tham gia giao thông đường bộ, ý
thức tuân thủ pháp luật khi tham gia giao thông… Đồng thời, phải đa dạng hóa hình
thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật như: thông qua chương trình phát
thanh truyền hình của TP, trên loa phát thanh tại các nút giao thông. Đài FM giao
thông, truyền hình an ninh TP, an ninh ti vi; sử dụng đội ngũ tuyên truyền viên, báo
cáo viên; thông qua cuộc thi tìm hiểu pháp luật về giao thông, tủ sách pháp luật, thư
viện pháp luật, pano, áp phích ở những nơi công cộng … Đặc biệt, cần tăng cường
việc sử dụng mạng internet và các trang mạng xã hội (zalo, facebook) để tuyên truyền,
giáo dục, phổ biến pháp luật một cách sâu rộng trong mọi tầng lớp dân cư: Duy trì
phối hợp với các sở giao thông vận tải, sở giáo dục đào tạo tổ chức tuyên truyền giáo
dục pháp luật, đạo đức người lái xe đến các đối tượng học viên các trung tâm đào tạo
học sinh, sinh viên các trường.
3.2.2.2. Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ (chuyên biệt)
Trong chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2016-2025, định
hướng đến năm 2030 có nhấn mạnh: “tập trung mọi lực lượng, sử dụng tổng hợp các
biện pháp, chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh ngăn chặn, trong đó lấy phòng
ngừa là chính; kết hợp giữa phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ…” [27]. Do
vậy, ngoài việc tăng cường các biện pháp phòng ngừa xã hội như đã phân tích ở trên,
cần chú trọng triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ (hay còn gọi là phòng
ngừa chuyên biệt). Đây là những biện pháp mang tính chuyên môn, nghiệp vụ của các
cơ quan chức năng (CSGT, Thanh tra giao thông) nhằm ngăn chặn không để tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ xảy ra, thực hiện đến cùng và tiếp tục
tái phạm. Những biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ mà các cơ quan chức năng của TP
Đà Nẵng cần tập trung triển khai thực hiện trong thời gian tới chủ yếu là:
* Thứ nhất, xiết chặt và nâng cao chất lượng quản lý phương tiện giao thông
đường bộ và người điều khiển phương tiện
Thực tế cho thấy, nếu chỉ triển khai các giải pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về TTATGT và hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ …để
69
phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì chưa
đủ, bởi nhiều vụ tai nạn giao thông đường bộ nghiêm trọng xảy ra là do phương tiện
giao thông không đảm bảo chất lượng cũng như tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định.
Trong khi đó, trên địa bàn TP, tình trạng phương tiện hết niên hạn sử dụng xe tự chế
không đảm bảo an toàn kĩ thuật…vẫn tham gia giao thông. Do vậy, cần tiếp tục tăng
cường quản lý chất lượng phương tiện giao thông đường bộ, theo đó:
+ Hàng năm phải tiến hành tổng kiểm tra về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi
trường đối với tất cả phương tiện cơ giới giao thông đường bộ. Việc tổng kiểm tra
được tiến hành liên tục trong một khoảng thời gian nhất định, sáu đó có thể kiểm tra
định kỳ hoặc đột xuất
+ Kiên quyết đình chỉ tất cả các phương tiện giao thông không đảm bảo các tiêu
chuẩn an toàn kỹ thuật theo quy định hiện hành, buộc chủ phương tiện phải thay thế,
sửa chữa, bổ sung các thiết bị an toàn kỹ thuật thì mới cấp giấy phép an toàn kỹ thuật.
Thời hạn cấp giấy phép lưu hành an toàn đối với từng phương tiện phải dựa trên cơ sở,
đặc điểm, tính năng, tác dụng của phương tiện và chất lượng hiện tại của phương tiện.
+ Chú trọng đầu tư trang thiết bị kĩ thuật hiện đại cho các trung tâm kiểm định
phương tiện nhằm bảo đảm các hạng mục kiểm tra đều được tiến hành bằng thiết bị kỹ
thuật, loại bỏ các khâu, các công đoạn kiểm tra bàng cảm quan, kinh nghiệm của cán
bộ kiểm tra. Thêm vào đó, các cơ quan có chức năng thẩm định cần đẩy mạnh công tác
cải cách hành chính nhằm tránh gây phiền hà cho chủ phương tiện; có cơ chế giám sát
hoạt động tác nghiệp của đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ kiểm định nhằm phát hiện các
sai phạm, biểu hiện tiêu cực để chấn chỉnh, xử lý.
+ Đồng bộ cơ sở giữ liệu quản lý phương tiện giao thông giữa lực lượng CSGT
và Sở giao thông vận tải TP để phát huy hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng chuyên
trách trong công tác xử lý vi phạm về TTATGT đường bộ, đồng thời đơn giản hóa thủ
tục hành chính cho công tác xử lý vi phạm hành chính.
+ Thường xuyên kiểm tra, giám sát xử lý nghiêm các cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa
xe ô tô, mô tô có hành vi làm thay đổi hình dáng kích thước, đặc tính của xe, tiếp tay
cho hoạt động gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép.
+ Đối với cơ sở đào tạo lái xe cần thực hiện nghiêm túc các quy định về đào tạo
lái xe, nhất là các phương tiện, thiết bị đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; chú
70
trọng đào tạo về kỹ năng tham gia giao thông; về bảo dưỡng phương tiện, kỹ năng vận
hành phương tiện, sơ cấp cứu tai nạn giao thông, đạo đức lái xe, văn hóa giao thông;
nghiệp vụ vận tải…
Tăng cường quản lý giám sát các hoạt động đào tạo lái xe, kịp thời chấn chỉnh và
xử lý vi phạm về đào tạo cấp bằng lái xe. Chuẩn hóa trình độ năng lực chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên ứng dụng phần mềm theo dõi công tác đào tạo, sát
hạch cấp giấy phép lái xe; đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án nâng cao chất lượng đào
tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; xử lý nghiêm, đúng quy định, kiên quyết đình chỉ
đào tạo, rút giấy phép đào tạo lái xe đối với các cơ sở đào tạo không có đầy đủ phương
tiện phục vụ đào tạo, những cơ sở có chất lượng đào tạo kém.
Thu hồi tạm thời hoặc thu hồi vĩnh viễn giấy phép lái xe do các cơ sở đào tạo lái
xe không đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định hoặc bị phát hiện có tiêu cực, cắt giảm
chương trình đào tạo. Thu hồi không thời hạn giấy phép lái xe của những người lái xe
nghiện ma túy.
Kiên quyết xử lý nghiêm khắc các hành vi tiêu cực trong lĩnh vực sát hạch, cấp,
đổi giấy phép lái xe.
* Thứ hai, tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh vận
tải đường bộ
Với sự gia tăng của các phương tiện giao thông vận tải cũng như các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ vận tải trên địa bàn TP đòi hỏi phải tăng cường quản lý đối với loại
hình kinh doanh, dịch vụ đặc biệt này. Mặt khác, trong số những yếu tố đóng vai trò là
nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ là những hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý kinh doanh dịch vụ vận tải.
Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót này, cần tập trung làm tốt một số việc sau đây:
+ Đổi mới nội dung, phương thức quản lý dịch vụ kinh doanh vận tải nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Chú trọng thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh vận
tải của các doanh nghiệp, hộ cá thể trên địa bàn TP, nhất là vào dịp nhu cầu vận tải
tăng cao. Xử lý nghiêm những trường hợp kinh doanh vận tải không có giấy phép,
phương tiện vận tải không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kĩ thuật, chở quá trọng tải, hành
khách… Hoàn thiện hệ thống trạm cân tự động theo đề án quy hoạch.
+ Quản lý chặt chẽ các điều kiện kinh doanh vận tải hành khách, nhất là các điều
71
kiện bảo đảm an toàn cho hành khách, điều kiện về phòng dịch Covid-19; điều kiện về
đội ngũ lái xe (nhất là thời gian làm việc, tình trạng sức khỏe, tiêu chuẩn, điều kiện lái
xe khách…)
+ Quy định liên tới chịu trách nhiệm của chủ phương tiện và chủ hàng khi để xảy
ra vi phạm về trọng tải hàng hóa, hành khách…
+ Thứ ba, tăng cường hoạt động tuần tra, kiểm sát, chủ động phát hiện, ngăn
chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh theo pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật giao
thông đường bộ
Hoạt động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm TTATGT đường bộ giữ vị trí hết
sức quan trọng đối với công tác phòng ngừa tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ. Mặc dù vậy, trong thời gian qua, như đã phân tích ở trên, hoạt động
tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định. Do vậy,
để khắc phục những hạn chế, tồn tại này nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, thời gian tới cần làm tốt những việc
sau đây:
+ Hàng năm, hàng tháng cần xây dựng các kế hoạch tuần tra, kiểm soát và xử lý
vi phạm ở các điểm, tuyến, địa bàn trọng điểm, trú trọng các tuyến, địa bàn thường
xuyên xảy ra tai nạn giao thông.
+ Mở các đợt cao điểm tuần tra, kiểm soát, xử lý theo chuyên đề, nhất là chuyên
đề nồng độ cồn trong máu và khí thở của lái xe; chuyên đề phương tiện tham gia giao
thông đã hết hạn sử dụng, xe tự chế; chuyên đề đua xe trái phép…
+ Phát hiện kịp thời xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quy định về bảo
đảm TTATGT đường bộ như: chạy quá tốc độ, đánh võng lạng lách, chở quá tải, quá
số hành khách theo quy định; người điều khiển không có giấy phép lái xe, có nồng độ
cồn trong khí thở quá mức quy định, vi phạm về phòng dịch Covid-19. Thường xuyên
kiểm tra, xử lý tình trạng lấn chiếm hành lang, lòng đường để họp chợ, buôn bán, kinh
doanh, nhất là không để tình trạng tái lấn chiếm xảy ra.
Đẩy mạnh việc phát hiện và xử lý vi phạm TTATGT đường bộ bằng các phương
tiện kỹ thuật công nghệ cao, tiếp tục nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm TTATGT đường
bộ qua hệ thống camera giám sát giao thông
Việc xử lý vi phạm cần quán triệt phương trâm: “lấy giáo dục là chính”, nghiêm
72
cấm hành vi tiêu cực, thái độ cửa quyền trong việc kiểm tra, xử lý vi phạm, tạo dư luận
không tốt, ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng chức năng và hiệu quả công tác.
+ Thiết lập mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng CSGT với Thanh tra
giao thông cũng như những lực lượng khác trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm
soát và xử lý vi phạm về TTATGT đường bộ nhằm phát huy lợi thế của từng lực lượng,
tiết kiệm nguồn nhân lực, tận dụng trang thiết bị trong quá trình thực thi nhiệm vụ
+ Tăng cường hơn nữa đầu tư trang thiết bị hiện đại tiên tiến phục vụ cho hoạt
động kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, xử lý vi phạm.
* Thứ tư, nâng cao chất lượng điều tra, xử lý tai nạn giao thông đường bộ trên
địa bàn TP
Kết quả điều tra xử lý các vụ tai nạn giao thông có tác dụng làm rõ không chỉ
nguyên nhân, điều kiện của vụ tai nạn mà còn nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Do vậy, để tăng cường phòng
ngừa tình hình các tội xâm phạm TTATGT đường bộ nói chung, tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng thì cần nâng cao hơn nữa chất
lượng điều tra, xử lý tai nạn giao thông xảy ra trên địa bàn TP, trong đó cần lưu ý một
số vấn đề sau:
+ Cần khắc phục vấn đề hành chính hóa, dân sự hóa trong việc xử lý các vụ tai
nạn giao thông đường bộ có dấu hiệu tội phạm, dẫn tới bỏ lọt tội phạm. Vấn đề này đã
và đang xảy ra ở nhiều địa phương, trong đó có TP Đà Nẵng, ảnh hưởng đến tính
nghiêm minh của pháp luật, không phản ánh đúng tính chất nghiêm trọng của hành vi
vi phạm TTATGT đường bộ.
+ Tổ chức tốt việc khám nghiệm hiện trường, thu thập dấu vết trong điều tra các
vụ tai nạn giao thông đường bộ. Khi tiếp nhận tin báo phải khẩn trương xác minh phân
loại, đánh giá để có hướng giải quyết, bố trí lực lượng tiếp cận hiện trường nhanh nhất,
thực hiện các biện pháp khẩn cấp bảo vệ hiện trường vụ tai nạn. Chuẩn bị đầy đủ các
phương tiện, thiết bị cần thiết phục vụ khám nghiệm. Khi khám nghiệm, cần chú ý thu
thập các dấu vết, vật chứng cứ có liên quan, bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ
đã thu thập được. Cùng với việc khám nghiệm hiện trường, phải khẩn trương lấy lời
khai ban đầu của nhân chứng, người liên quan đến vụ tai nạn để nắm được sơ bộ diễn
biến vụ tai nạn.
73
+ Khẩn trương khám phương tiện và xem xét dấu vết trên thân thể nạn nhân của
vụ tai nạn để thu thập, ghi nhận các dấu vết va chạm trên phương tiện, trên nạn nhân,
từ đó đưa ra nhận định về diễn biến vụ tai nạn
+ Nhanh chóng lấy lời khai của người gây tai nạn, nạn nhân, nhân chứng và
những người có liên quan để có cơ sở đưa ra kết luận về vụ tai nạn.
+ Hoàn thiện hồ sơ đề nghị xử lý. Trường hợp đủ căn cứ để xử lý hình sự thì phải
nhanh chóng tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án đảm bảo đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
+ Đối với lực lượng CSGT, cần tiếp tục nâng cao chất lượng công tác nghiệp vụ
cơ bản đáp ứng yêu cầu bảo đảm TTATGT đường bộ và phòng ngừa tình hình tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân có vị trí quan trọng
trong bảo đảm TTATGT cũng như phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn TP.
Thông qua công tác nắm tình hình, xác định tuyến, địa bàn trọng điểm; những sự việc,
hiện tượng, đối tượng có liên quan, trên cơ sở đó đề ra các chủ trương, kế hoạch, biện
pháp, phòng ngừa hiệu quả. Do vậy lực lượng CSGT Công an TP, căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ cần tập trung làm tốt công tác điều tra cơ bản tuyến, địa bàn trọng
điểm, phức tạp về TTATGT, tình hình tội phạm, đối tượng, thủ đoạn phạm tội…để
chủ động có biện pháp giải quyết.
Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Công an, Công an TP Đà Nẵng, cũng như tình hình
thực tiễn tại địa bàn TP, để nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác nghiệp vụ cơ bản,
cần tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau:
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện công tác điều tra cơ bản trên các tuyến, địa bàn
giao thông của TP, xác định tuyến trọng điểm, địa bàn phức tạp về TTATGT đường bộ
để có biện pháp bảo đảm TTATGT đường bộ trên địa bàn, chủ động đấu tranh ngăn
chặn những hành vi vi phạm TTATGTđường bộ
+ Mở rộng lĩnh vực điều tra cơ bản phục vụ công tác bảo đảm TTATGT đường
bộ và phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
như: lĩnh vực quản lý phương tiện, đào tạo lái xe, đăng kiểm phương tiện, kinh doanh
vận tải đường bộ… Đây là những lĩnh vực cần nhiều yếu tố gây bất ổn cho TTATGT
đường bộ.
74
Về đối tượng cần tập trung điều tra cơ bản đối với các hệ loại đối tượng như:
học sinh, sinh viên, thanh, thiếu niên, đội ngũ lái xe chuyên nghiệp, người dân sống
dọc theo các tuyến giao thông
+ Xây dựng bổ sung các cơ sở bí mật, chú ý xây dựng những cá nhân là người
am hiểu pháp luật có uy tín trong nhân dân, có ý thức tuân thủ các quy tắc giao thông
đường bộ…
+ Các thông tin, tài liệu thu thập được từ công tác nghiệp vụ cơ bản cần được
chuyển hóa và sử dụng theo đúng quy định, chú ý không để lộ nguồn trinh sát bí mật.
3.2.2.3. Các biện pháp khác
Ngoài những biện pháp phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ nêu trên,
để đảm bảo hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ, cần triển khai một số biện pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức và vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền TP về công tác phòng ngừa tình hình vi phạm cũng như tội phạm xâm
phạm TTATGT đường bộ
Một trong những nội dung quan trọng đối với công tác phòng ngừa tình hình vi
phạm và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ (trong đó có tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ) là tăng cường nhận thức về mục đích, ý nghia, nguyên
tắc nội dung, biện pháp phòng ngừa tội phạm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
sở, ban, ngành và toàn thể nhân dân TP Đà Nẵng.
Trước hết, các cấp ủy Đảng, chính quyền… TP cần nhận thức được tính chất
mức độ nguy hiểm, nhất là hậu quả tác hại do vi phạm TTATGT đường bộ gây ra cho
xã hội; sự cần thiết phải phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng này để TP Đà Nẵng trở
thành một điểm đến bình yên, an toàn, thân thiện, TP “đáng sống”.
Muốn vậy, cần phải phác họa được "bức tranh toàn cảnh" về tình hình vi phạm
và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ trên địa bàn TP; xác định được nguyên
nhân, điều kiện của tình hình đó. Đánh giá được những kết quả đạt được, cũng như
những hạn chế, tồn tại của công tác phòng ngừa đã được triển khai trên địa bàn TP.
Đặc biệt là phải dự báo được những yếu tố tác động đến công tác phòng ngừa vi phạm
TTATGT đường bộ trong tương lai (từ nay đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030). Để từ
đó xây dựng chương trình, kế hoạch, chủ động chuẩn bị lực lượng, phương tiện, dự
75
kiến các biện pháp cần triển khai trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tình
hình vi phạm và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ phục vụ cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của TP.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về sự cần thiết mục đích, ý nghĩa …của công
tác phòng ngừa tình hình vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT
đường bộ, Đảng bộ và chính quyền TP phải chủ động xây dựng chương trình, kế
hoạch, đề án, ban hành các chỉ thị, nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo đảm
TTATGT, phòng ngừa vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực này.
Trước mắt, cần tiếp tục quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức hiện có hiệu
quả các kế hoạch, chương trình công tác, văn bản chỉ đạo của Bộ Công an, Cục CSGT,
Chủ tịch UBND TP, Ban An toàn giao thông TP và Giám đốc Công an TP, trọng tâm
là Kế hoạch số 99-KH/TW ngày 07/01/2019 của Thành ủy Đà Nẵng về thực hiện Kết
luận số 45-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt,
đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông; Kế hoạch số 80/KH-CATP-CSGT-
TM ngày 24/4/2020 về phòng chống đua xe trái phép trên địa bàn TP.
Các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương (nhất là Công an TP, Sở giao
thông vận tải, Sở xây dựng, Ban An toàn giao thông TP…) phải làm tốt vai trò, trách
nhiệm trong lĩnh vực quản lý được giao. Thêm vào đó cần phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng và toàn thể nhân dân trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm
Đặc biệt là cần đẩy mạnh và phát huy hơn nữa “Phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc và phòng chống tội phạm”; các cuộc vận động “văn hóa giao thông với
bình yên sông nước” “năm an toàn giao thông” nhất là cuộc vận động “đã uống rượu,
bia, không lái xe”…
Thêm vào đó cần tăng cường công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, bồi dưỡng
đào tạo nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ TTATGT
đường bộ, kết hợp với việc kiểm tra, đôn đốc, chấn chỉnh cán bộ, chiến sĩ trong hoạt
động thanh tra tuần tra, kiểm soát, xử lí vi phạm nhằm nang cao hơn nữa vai trò, trách
nhiệm, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động trong toàn lực lượng.
76
Cán bộ, chiến sĩ, công chức khi đi thi hành nhiệm vụ, công vụ phải chấp hành nghiêm
chỉnh quy trình, chế độ công tác, tích cực học tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ, có ý
thức giữ gìn và xây dựng hình ảnh người CSGT, người thanh tra giao thông ngày càng
đẹp hơn trong lòng nhân dân.
Hai là, tăng cường đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, tiến
hành tổ chức giao thông khoa học và hợp lý
Phát triển nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ là một trong những
nhiệm vụ quan trọng, góp phần bảo đảm TTATGT tạo điều kiện cho người và phương
tiện tham gia giao thông được thuận lợi và an toàn. Do vậy, cũng có tác dụng không
nhỏ đối với công tác phòng ngừa vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực bảo đảm
TTATGT đường bộ. Do vậy, TP cần tăng cường đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng giao
thông đường bộ theo hướng:
+ Tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể dài hạn về phát triển hệ thống giao
thông đường bộ của TP đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Trong quy hoạch cần
lấy chiến lược phát triển lâu dài, toàn diện, bền vững của TP làm trung tâm; phát triển
hệ thống giao thông đường bộ phải gắn với quy hoạch tổng thể của TP như: quy hoạch
khu dân cư, khu công nghiệp, khu du lịch, vui chơi, giải trí…một cách hợp lí. Ưu tiên
phát triển các phương tiện giao thông công cộng như: xe buýt, hạn chế phương tiện cá
nhân, nhất là xe mô tô, có như vậy mới có thể làm giảm lưu lượng phương tiện tham
gia giao thông, để tránh hiện tượng ùn tắc và tai nạn giao thông. Hệ thống mạng lưới
giao thông công cộng cần phải được tăng cường cả về mật độ, tuyến phục vụ và số
phương tiện hoạt động trong ngày
+ Tiến hành nâng cấp, cải tạo xây dựng hệ thống các tuyến đường giao thông
chính của TP, đảm bảo các thông số an toàn kĩ thuật về vỉa hè, mặt đường phù hợp với
các loại phương tiện tham gia giao thông, tránh hiện tượng đào bới lòng đường, vỉa hè
nhiều lần.
Đi đôi với việc cải tạo, cần thiết lập hệ thống quản lý, giám sát việc cải tạo,
nâng cấp đường. Đặc biệt là phải kiên quyết giải phóng lòng đường, vỉa hè, loại trừ
các vật cả, vật che khuất tầm nhìn trên các tuyến đường, nhất là ở ngã ba, ngã tư. Rà
soát, phân loại các điểm giao cắt giữa đường bộ với đường sắt để thiết lập đường
ngang có phòng vệ phù hợp với quy định của pháp luật. Tiếp tục bổ sung đầy đủ các
77
công trình phụ trợ phòng ngừa và hạn chế thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra tại các
khu vực đèo, dốc.
+ Lắp đặt đầy đủ và thường xuyên kiểm tra hệ thống báo hiệu, tín hiệu, chỉ dẫn,
đèn chiếu sáng ban đêm trên các tuyến đường của TP bảo đảm đủ độ ánh sáng.
+ Áp dụng công nghệ tiên tiến trong tổ chức, phân làn, phân tuyến giao thông
nhất là tại các nút giao thông, các điểm giao cắt. Xây dựng các trung tâm điều khiển
giao thông với hệ thống điều khiển thông minh ITS, trước mắt ưu tiên lắp đặt tại các
tuyến quốc lộ đi qua khu đông dân cư, khu vực nội thành, nội thị…
Kết luận chương 3
Trên cơ sở dự báo những yếu tố tác động đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ như: tình hình kinh tế xã hội, chính trị pháp
lý, tình hình vi phạm và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ; đồng thời căn cứ
vào những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn phòng ngừa tại TP Đà Nẵng trong nhưng
năm qua, Luận văn đã đưa ra và phân tích những quan điểm chỉ đạo, xác định mục tiêu
phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong thời
gian tới
Để đạt được mục tiêu phòng ngừa đặt ra, luận văn đã đề xuất hai hệ thống giải
pháp gồm: các giải pháp phòng ngừa xã hội, trong đó tập trung vào các giải pháp như:
1) Giải pháp kinh tế xã hộ, văn hóa giáo dục, chính sách pháp luật; 2) giải pháp nghiệp
vụ mà chủ yếu là các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo
đảm TTATGT đường bộ; cuối cùng là các giải pháp khác như: nâng cao nhận thức, vai
trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền TP, tổ chức lực lượng, phương
tiện phòng ngừa; hoàn thiện nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ… Những
giải pháp này được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn của TP Đà Nẵng, do vậy
không chỉ đảm bảo tính phù hợp mà còn có tính khả thi cao.
78
KẾT LUẬN
Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có ý
nghĩa rất lớn đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, hạn chế tai nạn giao thông
gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân.
Để có nhận thức thống nhất về vấn đề phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ, cần phân tích luận giải những vấn đề lý luận về
phòng ngừa tình hình tội phạm này trên các bình diện: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa,
nội dung, biện pháp, nguyên tắc, chủ thể phòng ngừa. Có làm rõ được những vấn đề
này thì mới có cơ sở lý luận để đánh giá thực tiễn phòng ngừa, nhất là thiết lập những
biện pháp phòng ngừa có cơ sở khoa học.
Ngoài những vấn đề lý luận, cần thiết phải đánh giá toàn diện thực tiễn phòng
ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở một địa bàn cụ
thể, đặc biệt là phải rút ra được những kết quả, cũng như những tồn tại, hạn chế của
các giải pháp phòng ngừa đã áp dụng. Bởi đây là cơ sở thực hiện để xây dựng các giải
pháp phòng ngừa phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng địa bàn nhất định, trong đó
có TP Đà Nẵng trong thời gian tới.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nhận diện, đồng thời dựa trên kết quả dự báo
những yếu tố tác động đến hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông ở địa bàn TP Đà Nẵng thấy rằng, trong thời gian tới cần tăng
cường áp dụng không chỉ các biện pháp phòng ngừa xã hội (biện pháp kinh tế- xã hội;
văn hóa- giáo dục, pháp luật....) mà còn các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ. Có như
vậy, mới có thể ngăn chặn, từng bước loại trừ được tội phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ ra khỏi đời sống xã hội, làm cho TP Đà Nẵng thực sự là điểm đến
tin cậy, an bình, thân thiện, văn minh và hiện đại, "thành phố đáng sống".
Có được những kết quả nghiên cứu bản luận văn này là do sự nỗ lực của bản
thân trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy, cô
giáo được phân công, sự giúp đỡ của Học viện Khoa học xã hội, cũng như các cơ
quan, tổ chức hữu quan...
Tuy nhiên, do điều kiện, khả năng nghiên cứu của học viên còn hạn chế, chắc
chắn bản luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Học viên rất mong
được sự góp ý của các thầy, cô giáo, các nhà lý luận và thực tiễn để học viên chỉnh
sửa, hoàn thiện luận văn có giá trị khoa học cao hơn./.
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thế Anh (2013), Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều
kiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng, Luận văn thạc
sĩ, Học viện KHXH;
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2012) ngày 4/9/2012 về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác đảm bảo TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy
và nội địa;
3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2019), Kết luận số 45-KL/TW ngày 01/2/2019 về
tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo TTATGT
đường bộ, đường sắt, đường thủy và nội địa;
4. Bộ Công an- Bộ Quốc phòng- Bộ Tư pháp- TANDTC- VKSNDTC (2013),
Thông tư liên tịch số 09 ngày 28/8/2013 Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương XIX của BLHS về các tội xâm phạm TTATGT;
5. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới, Hà Nội;
6. Nguyễn Văn Cừ (2007), Một số vấn đề về phòng ngừa cá biệt trong hoạt động
phòng ngừa tội pham, Tạp chí khoa học và giáo dục TTXH, số 2. tr26-29.
7. Lê Thị Dung (2016), Đấu tranh phòng, chống tình hình tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng,
Luận văn tiến sĩ, Học viện KHXH;
8. Đảng bộ TP Đà Nẵng (2020), Văn kiện Đại hội đại biểu TP Đà Nẵng, nhiệm kỳ
XXII, Đà Nẵng;
9. Hồ Ngọc Hảo (2020), Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng: tình hình, nguyên nhân và biện pháp
phòng ngừa, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;
10. Nguyễn Văn Hạnh (1996), Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận
tải và đấu tranh phòng, chống vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận
tải trong quân đội, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật, Hà Nội;
11. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học, Tạp chí
Luật học, tr25-32;
12. Nguyễn Ngọc Hòa (2014), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;
13. Nguyễn Thị Bích Hồng (2016), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam- từ thực tiễn tỉnh Ninh
Bình, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
14. Lê Thị Hồng (213), Tình hình tội phạm ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, Luận văn
thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
15. Nguyễn Mạnh Kháng (2002), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học Việt
Nam- Một số lý luận và thực tiễn;
16. Nguyễn Văn Lan (2017), Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm theo quy định tại Điều 4 BLHS năm 2015
sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Kiểm sát số 20 tr45-49;
17. Nguyễn Văn Nam (2019), Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của Tòa án quân sự ở Việt Nam,
Luân án tiến sĩ, Học viện KHXH;
18. Hồ Văn Ngũ (2005), Phòng ngừa tội phạm ở cộng đồng dân cư, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 6, tr54-60;
19. Đỗ Ngọc Quang (Chủ biên) (1995), Giáo trình tội phạm học, Nxb, Đại học Quốc
gia Hà Nội;
20. Phòng Cảnh sát giao thông - Công an TP Đà Nẵng, Báo cáo tổng kết công tác
bảo đảm TTATGT và TTXH năm 2020;
21. Đào Xuân Thành (2019), Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội
trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH;
22. Hồ Văn Thiết (2007), Hoạt động phòng ngừa tội xâm phạm an toàn giao thông
vận tải đường bộ của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án tiến sĩ, Học viện
Cảnh sát nhân dân, Hà Nội;
23. Phạm Văn Tỉnh (2009), Tội phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội phạm, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 4, tr57-66;
24. Phạm Văn Tỉnh (2009), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 4, tr57-64;
25. Nguyễn Văn Trung (2019), Phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng tại TP
Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;
26. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 phê
chuẩn Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020, Hà Nội;
27. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 phê
chuẩn Chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và hướng
đến 2030, Hà Nội;
28. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1586/QĐ-TTg ngày 24/10/2012 phê
duyệt Chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ đến năm
2020 và tầm hình đến năm 2030, Hà Nội;
29. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 86/QĐ-TTg ngày 24/10/2012 phê
duyệt Chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ giai
đoạn 2021-2030 và tầm hình đến năm 2045, Hà Nội;
30. Thành ủy TP Đà Nẵng (2019), Kế hoạch số 99-KH/TU ngày 7/1/2019 của Thành
ủy TP Đà Nẵng về thực hiện Kết luận số 45-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban
Bí THư Trung ương Đảng (khoa XI) về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc
phục ùn tắc giao thông, Đà Nẵng;
31. Nguyễn Anh Văn (2020), Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTATGT
đường bộ trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ, Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH;
32. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội;
33. Đặng Tuấn Vũ (2014), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ Việt Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,
Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;
34. Cao Xuân Việt (2015), Phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường thủy ở các tỉnh Nam Bộ, thực trạng và giải pháp, Luận án
tiến sĩ, Học viện KHXH;
35. Trịnh Tiến Việt (2008), Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phamju
học, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế- pháp luật số 24, tr185-197;
36. Nguyễn Anh Vũ (2020), Phòng ngừa tình hình tội phạm tại các phương trên địa
bàn quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;
PHỤ LỤC
Bảng 2.1. Tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn TP Đà Nẵng
giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
Hậu quả Diễn biến tăng, giảm so với năm trước Tổng số
Năm vụ tai Chết Thương Số người bị Tài sản Số vụ Số người chết Tài sản nạn người tích thương
2016 137 99 262 triệu 89
giảm 25 vụ giảm 19 người giảm 23 người giảm 34 triệu 70 2017 112 76 228 triệu 18,2% 21,3% 23,2% 12,9%
giảm 16 vụ giảm 10 người giảm 11 người tăng 40 triệu 60 2018 96 65 268 triệu 14,3% 14,3% 14,4% 17,5%
giảm 10 vụ giảm 21 người tăng 621 triệu giảm 3 người 54 2019 93 43 889 triệu 10,7% 32,8% 97,3% 5,2%
tăng 540 triệu giảm 7 vụ giảm 1 người tăng 15 người 53 2020 76 58 1.429 triệu 60,7% 8,42% 34,8% 1,8%
Tổng 504 326 341 2.808 triệu
Nguồn: Phòng Cảnh sát giao thông Công an TP Đà Nẵng
Bảng 2.2. Tình hình phát hiện, xử lý các vụ vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
trên địa bàn TP Đà Nẵng, giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
Diễn biến của số vụ và số tiền phạt Các hình thức xử lý Số vụ vi Số vụ lập so với năm trước Năm phạm biên bản Tạm giữ Tước quyền sử phát hiện xử lý Phạt tiền Số vụ Số tiền phương tiện dụng GPLX
5.365 vụ tăng 4,9 tỷ đồng 2016 59.062 59.062 50.099tr/h 3.336PT 8.236tr/h 10% 17,4%
tăng 2.780tr/h tăng 6,7 tỷ đồng 2017 61.842 55.201 52.567tr/h 3.065PT 6.867tr/h 4,7% 20,3%
tăng 6.235tr/h tăng 8 tỷ đồng 2018 68.077 64.077 58.329tr/h 3.409PT 8.793tr/h 10,1% 12,6%
tăng 17.000tr/h tăng 7,7 tỷ đồng 2019 84.867 84.867 71.884tr/h 3.568PT 8.971tr/h 25,8% 16,5%
giảm 25.418tr/h giảm 4,5 tỷ đồng 2020 59.449 59.449 53.448tr/h 3.570PT 5.549tr/h 29,9% 8,3%
Tổng 333.297 322.656 286.317tr/h 16.948PT 38.418tr/h
Nguồn: Phòng Cảnh sát giao thông Công an TP Đà Nẵng
Bảng 2.3. Tình hình khởi tố điều tra, giải quyết các trường hợp gây tai nạn giao thông
trên địa bàn TP Đà Nẵng, giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
Số vụ, bại can khởi tố hình sự Số vụ xử phạt hành chính Số vụ đang Số vụ không khởi thụ lý Năm Tước quyền sử tố hình sự Bị can Phạt tiền Vụ giải quyết dụng GPLX
2016 24 25 09 04 65 27
2017 24 41 15 08 31 24
2018 15 40 07 05 34 16
2019 15 28 10 06 23 15
2020 11 23 14 03 32 11
Tổng 89 157 55 26 185 93
Nguồn: Phòng Cảnh sát giao thông Công an TP Đà Nẵng