VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG NGỌC TÀI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - năm 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG NGỌC TÀI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI - năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi

dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Minh Tuyên. Các số liệu, ví dụ và

trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Đặng Ngọc Tài

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ .......... 5

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ ......................................................................................... 5

1.2. Mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ ................................................................... 11

1.3. Chủ thể và nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ ...................................................................................................... 23

CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG

PHÒNG NGỪA TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐÀ NẴNG ......................................................... 33

2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng .................... 33

2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng ................................................................................... 47

CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...................................... 57

3.1. Dự báo những yếu tố liên quan đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng............................. 57

3.2. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà

Nẵng ............................................................................................................................... 61

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

CSGT : CSGT

TP : Thành phố

TTATGT : Trật tự an toàn giao thông

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân và điều kiện khách quan và

chủ quan khác nhau, tình hình tội phạm nói chung, tình hình các tội xâm phạm

TTATGT nói riêng (trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ) diễn biến phức tạp gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài

sản của người dân, nhất là ở những thành phố lớn như Đà Nẵng.

Theo thống kế của Phòng CSGT Công an TP Đà Nẵng trong 5 năm gần đây (từ

năm 2016 đến năm 2020) trên địa bàn TP đã phát hiện 333.297 trường hợp vi phạm

quy định về bảo đảm TTATGT đường bộ, trong đó lập biên bản xử lý 322.656 trường

hợp (chiếm 96,8%). Trong tổng số các vụ vi phạm TTATGT đường bộ có 89 vụ khởi

tố hình sự.

Trước tình trạng trên, Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân TP Đà Nẵng đã

triển khai đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau, bước đầu đã kiềm chế được sự gia tăng

các trường hợp vi phạm, kéo giảm được cả ba tiêu chí về tai nạn giao thông. Mặc dù

vậy, tình hình TTATGT đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng tuy có giảm nhưng không

bền vững, tính chất vi phạm vẫn hết sức phức tạp, hậu quả do tai nạn giao thông đường

bộ gây ra vẫn còn rất nghiêm trọng...

Nguyên nhân của tình trạng này có cả những yếu tố thuộc môi trường địa lý tự

nhiên - xã hôi, có cả những yếu tố thuộc về chủ thể vi phạm, đặc biệt là ý thức tuân thủ

pháp luật khi tham gia giao thông của người dân.

Về lý luận, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn

diện về phòng ngừa tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa

bàn TP Đà Nẵng. Do vậy, có nhiều vấn đề lý luận về vấn đề này cần phải làm sáng tỏ

để chỉ dẫn thực tiễn.

Như vậy, cả thực tiễn và lý luận đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu toàn

diện, hệ thống chuyên sâu về phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ trên địa bàn một thành phố lớn ở nước ta.

Vì lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng" để nghiên

cứu làm Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Tội phạm học.

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tình hình nhóm tội

phạm cũng như từng loại tội phạm cụ thể nói riêng được nhiều nhà tội phạm học quan

tâm nghiên cứu. Do vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố về chủ

đề này thuộc hai chuyên ngành: Luật hình sự và tội phạm học.

Trước hết, về chuyên ngành Luật hình sự có các công trình tiêu biểu như: Luận

văn thạc sĩ "Tội phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng" của tác giả Võ Văn Hòa,

công bố năm 2014; luận văn thạc sĩ "Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện

giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình" của

tác giả Nguyễn Thị Bích Hồng, công bố năm 2016; luận án tiến sĩ "Các tội xâm phạm

an toàn giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của

Tòa án quân sự ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Văn Nam, công bố năm 2019, v.v...

Các công trình này đã đề cập đến những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và

thực tiễn áp dụng ở một số địa bàn cụ thể.

Về chuyên ngành tội phạm học: Có các công trình như: Luận án tiến sĩ: "Hoạt

động phòng ngừa tội xâm phạm an toàn giao thông vận tải đường bộ của lực lượng

Cảnh sát nhân dân" của tác giả Vũ Văn Thiết, công bố năm 2017; Luận án tiến sĩ:

"Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTATGT đường bộ trên địa bàn các tỉnh Tây

Nam Bộ", công bố năm 2020; Luận văn thạc sĩ: "Tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa"

của tác giả Đặng Tuấn Vũ, công bố năm 2014; Luận văn thạc sĩ: "Tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng: tình

hình, nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa" của tác giả Hồ Ngọc Hải, công bố năm

2020; Luận án tiến sĩ: "Đấu tranh phòng, chống tình hình tội vi phạm quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn TP Hải Phòng" của tác giả

Nguyễn Thế Anh, v.v... Những công trình này đã đề cập đến những vấn đề lý luận,

thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm TTATGT nói chung, hoặc tội vi

phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, trên cơ sở đó đưa ra

các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực này, trên phạm vi địa

2

bàn rộng, hẹp khác nhau.

Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống,

toàn diện về phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tam gia giao thông đường

bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng. Vì thế, đề tài này không trùng với các công trình nghiên

cứu đã được công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm vi quy

định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng để từ đó thiết lập các

giải pháp tăng cường phòng ngừa trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Để đạt được mục đích trên, cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

+ Nghiên cứu, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên các phương diện: khái niệm,

đặc điểm, ý nghĩa, nội dung, biện pháp, nguyên tắc và chủ thể phòng ngừa.

+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, rút ra những kết quả

đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục.

+ Dự báo những yếu tố tác động đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề ra

mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm này trong

thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: bao gồm những vấn đề lý luận và thực tiễn phòng

ngừa tình hình tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

+ Về nội dung: nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ dưới góc độ tội phạm học.

+ Về không gian, thời gian: nghiên cứu thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm

này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong 5 năm, từ năm 2016 đến năm 2020.

3

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo

đảm TTATGT, về đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, bảo vệ

quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức cũng như lợi ích chung của xã hội.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành tội phạm học

để làm rõ những nội dung nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,

quan sát, v.v..

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, chuyên sâu về phòng

ngừa tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cả về lý luận và thực tiễn.

Do vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây:

6.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần làm phong phú thêm lý luận chuyên ngành tội phạm học về phòng

ngừa tình hình một tội phạm cụ thể, ở một địa bàn cụ thể.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu luận văn có thể tham khảo để triển khai hoạt động phòng ngừa

không chỉ ở địa bàn TP Đà Nẵng mà còn ở các địa bàn khác trong phạm vi cả nước.

Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập,

nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo ngành luật của cả nước ta.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung

của luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ.

Chương 2: Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng phòng ngừa tình hình tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ.

4

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI

VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm

Phòng ngừa tình hình tội phạm là một trong những đối tượng, nội dung nghiên

cứu quan trọng của tội phạm học, đồng thời cũng là mục đích cuối cùng của tội phạm

học. Tội phạm học nghiên cứu tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình

hình tội phạm, nhân thân người phạm tội, phát hiện quy luật phát sinh tồn tại và vận

động của tình hình tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp tác động vào quy luật đó

nhằm mục đích cuối cùng là không để cho tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, cho đến nay,

khi đề cập đến khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm vẫn còn nhiều quan điểm

khác như: "Phòng ngừa tội phạm được hiểu là tổng hợp các biện pháp do cơ quan, tổ

chức và mọi công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền nhằm tác động

vào các yếu tố làm phát sinh tội phạm cũng như loại trừ các yếu tố này vì mục đích

ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội phạm ra khỏi đời sống xã hội" [23, tr.59], hoặc:

"Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính nhà

nước, xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô

hiệu hóa (làm yếu, hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình

hình tội phạm" [32, tr.154]; "Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ

chức và công dân, thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm

nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác động của tội phạm để kiểm soát,

hạn chế tác động và loại trừ những nhóm nguyên nhân này..." [11, tr.31].

Mặc dù cách diễn đạt có khác nhau, nhưng các quan điểm về phòng ngừa tình

hình tội phạm nêu trên đều thống nhất ở chỗ phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp

dụng tổng thể các biện pháp khác nhau nhằm khắc phục, hạn chế, triệt tiêu những yếu

tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm, ngăn ngừa không để

cho tội phạm xảy ra. Đây là những quan điểm về phòng ngừa tình hình tội phạm theo

nghĩa hẹp, tức là theo đúng nghĩa của từ "phòng ngừa". Tuy nhiên hiện nay, trong lý

luận cũng như thực tiễn, phòng ngừa tình hình tội phạm còn được hiểu theo nghĩa

5

rộng, theo đó: "Phòng ngừa tội phạm bao hàm một mặt, không để cho tội phạm xảy ra,

thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội; mặt khác, bằng mọi cách để ngăn chặn tội

phạm, kịp thời phát kiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội, đưa

họ trở thành công dân có ích cho xã hội" [19, tr.97]. Với quan niệm như vậy, hoạt

động phòng ngừa tội phạm được triển khai theo hai phướng cơ bản: Một là, tập trung

vao việc không để cho tội phạm xảy ra, tức là hướng vào việc hạn chế, tiến tới loại trừ,

thủ tiêu những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm; hai là, bằng

mọi cách để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh tội phạm, giáo dục cải

tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. Như vậy, hiểu theo nghĩa

rộng, phòng ngừa tình hình tội phạm bao hàm cả hoạt động phòng và cả hoạt động

chống (hay đấu tranh chống) tội phạm. Đấu tranh chống tội phạm là hoạt động phát

hiện và xử lý tội phạm đã xảy ra. Trái lại, phòng ngừa tội phạm (theo đúng nghĩa) là

hoạt động nhằm không để cho tội phạm xảy ra. Với bản chất như vậy, hoạt động đấu

tranh chống tội phạm và hoạt động phòng ngừa tội phạm là hai hoạt động có nội dung

riêng không đồng nhất với nhau. Song, hai hoạt động này không độc lập hoàn toàn với

nhau mà có mối quan hệ biện chứng với nhau. Có thể coi phòng ngừa tội phạm và đấu

tranh chống tội phạm là hai mặt không thể tách rời của một tổng thể thống nhất, chống

tội phạm vừa là một bộ phận không thể thiếu của phòng ngừa tội phạm, nhưng đồng

thời cũng là mặt khác của phòng ngừa tội phạm, có ý nghĩa không nhỏ đối với phòng

ngừa tội phạm. Tuy nhiên, không nên coi đấu tranh chống tội phạm là phương hướng

cơ bản, vì hoạt động này không thể giải quyết tận gốc vấn đề tội phạm trong xã hội, là

biện pháp mang tính chất thụ động. Ngược lại, phòng ngừa tội phạm theo đúng nghĩa

của nó là hoạt động nhằm hạn chế, tiến tới xóa bỏ những yếu tố có thể trở thành

nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, không để cho tội phạm xảy ra. Hoạt

động này có ưu điểm là xã hội không phải gánh chịu những hậu quả của tội phạm, cơ

quan bảo vệ pháp luật không phải bỏ ra những chi phí cần thiết cho việc giải quyết vấn

đề tội phạm, người dân không phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Vì vậy, phòng

ngừa tội phạm luôn được coi là phương hướng chính, cơ bản trong cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm. Để đạt được mục tiêu ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi, loại trừ tội

phạm ra khỏi đời sống xã hội cần kết hợp chặt chẽ giữa chủ động, tích cực phòng ngừa

với kiên quyết đấu tranh chống tội phạm. Đây là phương châm chỉ đạo trong chính

6

sách phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta.

Để có thể đưa ra một khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm chính xác về mặt

khoa học và phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cần

thống nhất nhận thức những vấn đề sau đây:

+ Một là, phòng ngừa tình hình tội phạm là trách nhiệm của tất cả các cơ quan

nhà nước, các tổ chức và mọi người dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều

hành của Nhà nước;

+ Hai là, phòng ngừa tình tội phạm xét về bản chất là hoạt động hạn chế, từng

bước loại trừ những yếu tố đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội

phạm, do vậy cần được tiến hành, thường xuyên liên tục, lâu dài mới có thể giải quyết

tận gốc vấn đề tội phạm.

+ Ba là, phòng ngừa tình hình tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với đấu tranh

phòng chống tội phạm, mà chủ yếu là phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng,nghiêm

minh tội phạm đã xảy ra, giáo dục cải tạo người phạm tội hoàn lương, không tái phạm.

+ Bốn là, phòng ngừa tình hình tội phạm cần phải được triển khai bằng nhiều

biện pháp khác nhau, với nhiều cấp độ khác nhau.

Tóm lại, trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm khoa học về

phòng ngừa tình hình tội phạm nêu trên, kết hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống

tội phạm ở nước ta hiện nay, chúng tôi cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm cần

phải hiểu là: "Hoạt động do tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và toàn thể nhân

dân tiến hành thông qua việc áp dụng tổng thể các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế,

xóa bỏ những yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, không

để tội phạm xảy ra trong đời sống xã hội".

Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là

phòng ngừa tình hình một loại tội phạm cụ thể, do vậy khái niệm phòng ngừa tình hình

tội vi phạm quy định về tham giao giao thông đường bộ cũng được xây dựng trên cơ

sở khái niệm chung về phòng ngừa tình hình tội phạm.

Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:

"Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là

hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi cá nhân thông qua

việc áp dụng tổng thể các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế, xóa bỏ những yếu tố hình

7

thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ không để tội phạm này xảy ra trong đời sống xã hội".

Từ khái niệm trên, đồng thời qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình

hình tội phạm cho thấy, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ có một số đặc điểm sau đây:

+ Thứ nhất, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành, các tổ chức,

các địa phương và mọi người dân, trong đó các cơ quan, lực lượng chuyên trách giữ

vai trò nòng cốt.

Ở nước ta, phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là trách nhiệm chung của toàn xã hội,

chứ không phải là trách nhiệm riêng của một cơ quan, tổ chức nào. Chỉ khi nào có sự

tham gia của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ

chức xã hội, tổ chức kinh tế và mọi người dân thì hoạt động này mới có thể đạt được

hiệu quả thiết thực. Vì vậy, để cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm (trong đó có tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ) giành được kết quả thiết thực cần

phải xây dựng và thực hiện cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng

tham gia phòng, chống tội phạm, phát huy vai trò nòng cốt của cơ quan, lực lượng

chuyên trách, nhất là lực lượng CSGT, cũng như những người tham gia giao thông.

Mặt khác, để bảo đảm thắng lợi, cuộc đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,

sự quản lý điều hành thống nhất của chính quyền các cấp từ trung ương đến địa

phương, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống tội phạm. Đây là

vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo thắng lợi cuộc đấu tranh này.

+ Thứ hai, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ chủ yếu tập trung vào việc hạn chế, xóa bỏ những yếu tố là nguyên nhân,

điều kiện làm phát sinh tội phạm này.

Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ nói riêng (hiểu trong phạm vi nguyên nghĩa của nó) là

những hoạt động hạn chế, loại trừ, làm thay đổi nguyên nhân, điều kiện của tội phạm

hoặc khống chế tác dụng của nó nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra. Do vậy, để phòng

ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có hiệu quả, thì

8

mọi biện pháp phòng ngừa cần tập trung vào việc hạn chế, xóa bỏ những thành tố là

nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm này.

Tội phạm nói chung, tội vi phạm những quy định về tham gia giao thông đường

bộ nói riêng phát sinh, tồn tại, vận động trong đời sống xã hội luôn là kết quả của sự

tác động qua lại giữa những yếu tố tiêu cực trong môi trường sống và những yếu tố

tâm sinh lý- xã hội tiêu cực thuộc bản thân con người sống trong môi trường ấy. Do

vậy, hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ, trước hết phải hướng vào việc hạn chế, loại bỏ những yếu tố tiêu cực thuộc

môi trường sống trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo

dục, tổ chức quản lý xã hội, chính sách, pháp luật.

Mặt khác, tội vi phạm theo quy định về tham gia giao thông đường bộ là do con

người gây ra, vì thế hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm này còn phải hướng vào

việc khắc phục những phẩm chất cá nhân tiêu cực và những yếu tố không thuận lợi

trong đời sống của họ, nhất là những người tham gia giao thông đường bộ, người có

nguy cơ phạm tội cao.

Tuy nhiên, nếu tội phạm này đã xảy ra trên thực tế thì cần tập trung phát hiện kịp

thời, xử lý nghiêm minh người phạm tội, giáo dục cải tạo họ trở thành người có ý thức

tuân thủ các quy định về tham gia giao thông đường bộ, không tái phạm. Điều cần lưu

ý là, trong hai hướng phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ nêu trên thì hoạt động hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội

phạm này là phương hướng chính, phương hướng cơ bản.

+ Thứ ba, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ phải được tiến hành bằng nhiều biện pháp thiết thực khác nhau, trong đó có

cả những biện pháp phòng ngừa xã hội và cả những biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ

(chuyên biệt) của các cơ quan, lực lượng chức năng.

Tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ nói riêng xảy ra trong đời sống xã hội hết sức đa dạng với những

nguyên nhân, điều kiện cụ thể khác nhau. Điều đó đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình

hình tội phạm này cần phải sử dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau mới có thể ngăn

chặn, loại trừ được tội phạm này trong đời sống xã hội.

Đây có thể là những biện pháp do Đảng, Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội

9

và mọi người dân tiến hành nhằm nâng cao mọi mặt đời sống xã hội, hạn chế, loại trừ

những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng xấu đến lối sống cộng đồng, đến trật tự an toàn công

cộng (trong đó có trật tự, an toàn giao thông đường bộ) cũng như ảnh hưởng đến quá

trình hình thành nhân cách của từng cá nhân khi tham gia giao thông đường bộ.

Bên cạnh những biện pháp phòng ngừa xã hội chung, các cơ quan và lực lượng

chức năng (nhất là lực lượng CSGT. Thanh tra giao thông...) còn triển khai thực hiện

các biện pháp phòng ngừa có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ (phòng ngừa chuyên

biệt) nhằm trực tiếp hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội vi phạm quy định

về tham giao giao thông đường bộ, ngăn chặn tội phạm này xảy ra.

1.1.2. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

- Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo đảm

trật tự công cộng an toàn, bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản của Nhà

nước, của các tổ chức và tài sản riêng của công dân.

Với bản chất là hoạt động nhằm hạn chế, xóa bỏ những yếu tố tiêu cực cực hình

thành nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm, không để cho tội phạm xảy ra,

phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có hiệu

quả thì xã hội không phải gánh chịu những thiệt hại về người, về của do tội phạm này

gây ra, người dân (nhất là những người tham gia giao thông đường bộ) không phải

chịu sự trừng phạt của pháp luật. Với nghĩa đó, phòng ngừa tình hình tội phạm này có

giá trị nhân đạo và tiến bộ xã hội to lớn.

- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có

hiệu quả còn đem lại những lợi ích kinh tế nhất định. Điều này thể hiện ở chỗ hoạt động

phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội phạm này không chỉ có tác dụng hạn chế được

những thiệt hại to lớn về kinh tế do tội phạm trực tiếp gây ra, mà còn có tác dụng giảm

bớt những chi phí mà Nhà nước, xã hội phải bỏ ra để khắc phục những hậu quả của tội

phạm (hậu quả gián tiếp của tội phạm). Mặt khác, tổ chức phòng ngừa tốt tình hình tội

phạm này thì tỷ lệ tội phạm xảy ra trên thực tế sẽ giảm. Điều đó sẽ kéo theo khả năng

giảm ngân sách nhà nước dành cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm.

- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

còn góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự nhất là

10

quản lý nhà nước về bảo đảm TTATGT thông.

Ở khía cạnh quản lý xã hội, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ là một "kênh", một mặt quản lý xã hội, đó là quản lý nhà nước

về an ninh trật tự, mà trực tiếp là quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an

toàn giao thông đường bộ. Thông qua hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ, các cơ quan chức năng của nhà nước có khả

năng kiểm soát được tình hình tội phạm này, từ đó đề ra các quyết định quản lý đúng

đắn, phù hợp với thực tế. Mặt khác, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, nhất

là biện pháp tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội không chỉ có tác dụng phòng

ngừa tội phạm này mà còn có tác dụng duy trì trật tự xã hội, trong đó có trật tự giao

thông đường bộ. Với nghĩa đó, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ có ý nghĩa không nhỏ về mặt quản lý xã hội nói chung, quản lý nhà

nước trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ nói riêng.

1.2. Mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1.2.1. Mục đích, nhiệm vụ

* Mục đích phòng ngừa

Mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ chính là kết quả cuối cùng mà hoạt động này đặt ra và cần đạt đến.

Cũng như phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tình hình tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ luôn hướng tới mục đích kiềm chế sự

gia tăng, làm giảm dần và tiến tới loại bỏ, thủ tiêu tội phạm này trong đời sống xã hội.

Như vậy, mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ có các mức độ khác nhau: Trước hết là kiềm chế sự gia tăng, làm

giảm dần tình hình tội phạm này; tiếp theo là tiến tới loại bỏ, thủ tiêu tình hình tội

phạm này trong đời sống xã hội.

Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể của đất

nước cũng như từng địa phương mà mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ được đặt ra với những mức độ khác nhau.

Căn cứ vào tình hình hiện nay ở nước ta, cũng như ở từng địa phương, phòng

ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cần hướng tới

11

mục đích: kiềm chế, làm giảm mức độ xảy ra của tội phạm này, tạo môi trường xã hội

lành mạnh, an toàn, trật tự phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, bảo

vệ cuộc sống hạnh phúc, bình yên cho nhân dân.

Để đạt được mục đích này, đòi hỏi phải đưa ra được hệ thống các biện pháp

phòng ngừa phù hợp với thực trạng, diễn biến của tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương;

đồng thời phải tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa một cách đồng

bộ và có hiệu quả trên thực tế.

Muốn vậy, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ phải được xây dựng trên cơ sở: khảo sát, đánh giá đầy đủ, toàn

diện tình hình tội phạm đã xảy ra, dự báo được tình hình tội phạm này trong thời gian

tới; xác định đúng nguyên nhân, điều kiện của tội phạm. Mặt khác, các biện pháp

phòng ngừa tình hình tội phạm này còn phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế

của đất nước cũng như ở từng địa bàn cụ thể nhằm đảm bảo tính khả thi, tính hiệu quả

của các biện pháp phòng ngừa.

* Nhiệm vụ phòng ngừa

Nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ là những cộng việc cụ thể phải thực hiện để đạt được mục đích đặt ra. Đây là

những công việc mà tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi người dân đều

phải tham gia thực hiện tùy thuộc vào chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mình.

Để có thể đạt được mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ nêu trên, cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:

+ Thứ nhất, tiến hành nghiên cứu nhằm phác họa được bức tranh toàn cảnh về tình

hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong phạm vi cả nước cũng

như ở từng khu vực, từng địa bàn cụ thể; xác định chính xác nguyên nhân, điều kiện làm

phát sinh tội phạm này. Đây là nhiệm vụ đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo

cho việc xây dựng phương án, đề xuất nội dung, biện pháp phòng ngừa phù hợp.

Nhiệm vụ này đòi hỏi sự tham gia của các nhà tội phạm học và các lực lượng

chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm.

+ Thứ hai, dự báo diễn biến của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ, những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến tội phạm này trong thời gian tới.

Đây cũng là nhiệm vụ không kém phần quan trọng đối với việc chủ động xác

12

định phương hướng, xây dựng chương trình, kế hoạch, đề ra biện pháp cũng như

chuẩn bị lực lượng, phương tiện để phòng ngừa tình hình tội phạm có hiệu quả.

Nội dung dự báo cần tập trung vào các vấn đề như: Trạng thái và xu hướng vận

động của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; những yếu

tố sẽ tác động, ảnh hưởng đến tình hình tội phạm này, nhất là những yếu tố có khả

năng sẽ trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm; khả năng phòng

ngừa các cơ quan chức năng, v.v...

Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhất là trong điều kiện ở nước ta hiện nay

công tác dự báo tình hình tội phạm ít được quan tâm đúng mức.

+ Thứ ba, xây dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch, xác định phương hướng,

nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, phòng ngừa tình

hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ nói riêng là hoạt động có định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể; mặt khác

đây là hoạt động do nhiều lực lượng tiến hành. Vì vậy, để hoạt động phòng ngừa có

hiệu quả cần thiết phải xây dựng chương trình, đề án, kế hoạch, xác định nội dung,

biện pháp phòng ngừa phù hợp đối với từng hệ, loại đối ượng, từng tuyến địa bàn cụ

thể, cũng như phù hợp với khả năng của từng loại chủ thể phòng ngừa trong những

điều kiện địa lý, kinh tế- xã hội cụ thể. Trong mỗi chương trình, đề án, kế hoạch phòng

ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cần xác định rõ

mục đích, yêu cầu, nội dung, biện pháp phòng ngừa phù hợp, có tính khả thi; xác định

rõ trách nhiệm tham gia và mối quan hệ phối kết hợp giữa các lực lượng tham gia

phòng, chống tội phạm.

Đây là nhiệm vụ của Nhà nước và các chủ thể có chức năng, nhiệm vụ phòng

ngừa tình hình tội phạm mà luật định.

+ Thứ tư, tổ chức thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch, nội dung, biện pháp

phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên thực

tế. Nếu chỉ dừng lại ở việc soạn thảo chương trình, kề án, kế hoạch, xác định nội dung,

biện pháp phòng ngừa thì chưa đủ cơ sở để đạt được mục đích phòng ngừa tội phạm

này. Vì thế, điều quan trọng là phải tổ chức thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch,

biện pháp phòng ngừa một cách khoa học và hiệu quả nhất.

13

Công việc đầu tiên khi thực hiện nhiệm vụ này là tiến hành phổ biến, quán triệt

chương trình, đề án, kế hoạch, nhằm tạo sự đồng thuận về mục đích, yêu cầu, nội

dung, biện pháp tiến hành đối với các chủ thể có trách nhiệm phòng ngừa tình hình tội

phạm này. Tiếp theo, là triển khai thực hiện từng nội dung, biện pháp phòng ngừa cụ

thể ở địa bàn, lĩnh vực nhất định.

Trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch, biện pháp

phòng ngừa cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, điều hành hoạt động phòng ngừa

theo chương trình, đề án, kế hoạch đã vạch ra.

Sau khi kết thúc từng phần hoặc toàn bộ chương trình, đề án, kế hoạch phòng

ngừa cần tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá công việc đã thực hiện, rút ra những kết

quả đã đạt được, cũng như những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Trên cơ sở đó đề ra

phương hướng, biện pháp phát huy những kết quả đạt được cũng như khắc phục những

vấn đề còn tồn tại, hạn chế.

1.2.2. Nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ

1.2.2.1. Nội dung phòng ngừa

Cho đến nay xoay quanh vấn đề nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm (trong

đó có tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ) vẫn còn những

quan điểm và cách tiếp cận khác nhau:

Có quan điểm cho rằng, nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm là tất cả những

mặt hoạt động cần tiến hành để phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả. Với quan điểm và

cách tiếp cận như vậy, những người theo quan điểm này đã chỉ ra hai mặt (phương diện)

hoạt động cơ bản cần tiến hành để phòng ngừa tội phạm, đó là: 1) Tiến hành các hoạt

động nhằm hạn chế, loại bỏ những yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát

sinh tội phạm như cải thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xóa bỏ

những yếu tố tiêu cực... để tình hình tội phạm không có cơ sở phát sinh, tồn tại; 2) Phát

hiện, xử lý tội phạm mà trọng tâm là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo giáo dục

người phạm tội. Như vậy, theo quan điểm này, thì nội dung phòng ngừa tình hình tội

phạm bao hàm cả hoạt động phòng và cả hoạt động chống (đấu tranh chống) tội phạm.

Theo quan điểm khác, thì phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm hai bộ phận:

một bộ phận gồm các hoạt động tác động vào "nhân" được gọi là hoạt động loại trừ tội

phạm; bộ phận khác tác động vào "quả", được gọi là hoạt động ngăn chặn tội phạm.

14

Chúng tôi đồng tình quan điểm này, bởi mục đích của phòng ngừa tình hình tội

phạm là ngăn chặn, loại trừ tội phạm trong xã hội. Để đạt được mục đích này, phòng

ngừa tình hình tội phạm phải được triển khai theo hai hướng: một là, hoạt động loại trừ

tội phạm và hai là, hoạt động ngăn chặn tội phạm. Đây là hai nội dụng cơ bản của hoạt

động phòng ngừa tình hình tội phạm.

* Hoạt động loại trừ tội phạm chính là những hoạt động do các cơ quan nhà

nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và mọi người dân tiến hành nhằm hạn chế, triệt tiêu

các yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.

Tội phạm phát sinh luôn là kết quả của sự tác động qua lại giữa những yếu tố tiêu

cực thuộc môi trường sống bên ngoài và những yếu tố tâm- sinh lý xã hội, phẩm chất cá

nhân tiêu cực thuộc bản thân người phạm tội. Do vậy, hoạt động loại trừ tội phạm cần

tác động tới cả môi trường xã hội và cả con người sống trong môi trường đó. Trong hai

hướng tác động đó, thì hoạt động tác động vào môi trường xã hội là hướng cơ bản, bởi

môi trường xã hội vừa ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách cá nhân vừa là một thành

tố tương tác với con người tạo thành nguyên nhân của tình hình tội phạm.

Tóm lại, hoạt động loại trừ tội phạm thực chất là hoạt động loại trừ những yếu tố

tiêu cực trong môi trường xã hội và những yếu tố tâm- sinh lý tiêu cực của cá nhân

sống trong môi trường đó mà trong sự tương tác lẫn nhau làm phát sinh tội phạm.

* Hoạt động ngăn chặn tội phạm là tổng thể những hoạt động nhằm ngăn ngừa

các tội phạm tiềm tàng trong xã hội, không để chúng xảy ra, không để cho chúng thực

hiện được đến cùng và không để xảy ra tái phạm

Với bản chất như vậy, hoạt động ngăn chặn tội phạm có đối tượng tác động

không phải là các yếu tố tiêu cực đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm

mà là tội phạm tiềm tàng (hay tình hình tội phạm tiềm tàng).

Tội phạm tiềm tàng có ba trạng thái khác nhau, đó là: trạng thái tội phạm chưa

xảy ra, trạng thái tội phạm đang xảy ra nhưng chưa kết thúc, tức là vẫn tiếp tục tiếp

diễn và trạng thái tội phạm đã bị xử lý nhưng vẫn có khả năng tiếp tục xảy ra (tái

phạm). Thích ứng với ba trạng thái này, có ba dạng hoạt động (biện pháp) ngăn chặn

tội phạm, đó là:

- Thứ nhất, những hoạt động ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Đây là những

hoạt động kiểm soát và quản lý xã hội đối với những điều kiện tồn tại của hành vi

phạm tội tiềm tàng, người phạm tội tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm

15

nhằm làm tê liệt việc phạm tội, hay nói cách khác là không để tội phạm xảy ra.

Những điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội thường là những môi trường, hoàn

cảnh, tình huống thuận lợi cho việc phạm tội, tức là những môi trường, hoàn cảnh, tình

huống cụ thể mà ở đó hành vi phạm tội tiềm tàng có khả năng xảy ra, người phạm tôi

tiềm tàng có khả năng thực hiện tội phạm, nạn nhân tiềm tàng của tội phạm có khả

năng trở thành nạn nhân hiện thực của tội phạm. Đây cũng chính là cơ sở thực tế để

dựa vào đó mà thiết lập các biện pháp ngăn chặn tội phạm thích ứng.

Đối với trạng thái tội phạm chưa xảy ra, nhưng có khả năng hiện thực sẽ xảy ra

thì việc ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra đòi hỏi phải tiến hành ba nhóm biện

pháp, đó là:

1) Nhóm biện pháp làm tê liệt quá trình hiện thực hóa hành vi phạm tội tiềm

tàng. Đây là những biện pháp tác động vào môi trường hoàn cảnh, tình huống có khả

năng xảy ra tội phạm đã được nhận diện nhằm làm tê liệt quá trình hiện thực hóa hành

vi phạm tội tiềm tàng.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ ở nước ta cho thấy, những lĩnh vực, địa bàn, hoàn cảnh, tình huống có nguy

cơ xảy ra tội phạm này thường là, khu đông dân cư, trường học, những điểm đen và

giao thông, v.v...

2) Nhóm biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát người phạm tội tiềm tàng (người

có nguy cơ phạm tội cao) được nhận diện trên cơ sở phân tích tình hình tội phạm của

một số đối tượng trong các năm trước đó.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ ở nước ta cho thấy, số đối tượng có nguy cơ phạm tội này thường là những

người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nghiện ma túy, rượu và các chất

kích thích khác... Đối với số đối tượng này không thể áp dụng các biện pháp quản lý,

kiểm tra, kiểm soát (như kiểm tra nồng độ cồn có trong hơi thở của lái xe) để họ không

có điều kiện gây ra tai nạn giao thông, dẫn tới phạm tội.

3) Nhóm biện pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm. Đây là nhóm

biện pháp hướng tới việc triệt tiêu những nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm đối

với một số đối tượng.

Thực tế đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ ở nước ta trong những năm qua cho thấy, nạn nhân tiềm tàng của tội phạm này thường

16

là những người không có ý thức bảo vệ an toàn cho chính mình, không có ý thức chấp

hành quy định của pháp luật về tham gia giao thông đường bộ, hoặc là trẻ em...

- Thứ hai, những hoạt động ngăn chặn không để tội phạm tiếp tục diễn ra. Đây là

những hoạt động mang tính cấp bách thể hiện sự phản ứng của Nhà nước và xã hội đối

với hành vi phạm tội đang diễn ra hoặc có khả năng lặp đi, lặp lại nhiều lần nhằm chặn

đứng hành vi phạm tội đang được thực hiện, không để cho hành vi phạm tội tiếp tục

gây thiệt hại cho xã hội hoặc nhằm chặn đứng quá trình lặp lại của hành vi phạm tội,

không để cho hành vi phạm tội được thực hiện nhiều lần. Với tính chất như vậy, những

hoạt động (biện pháp) này chủ yếu do lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống

tội phạm của ngành Công an thực hiện, đặc biệt là lực lượng CSGT.

- Thứ ba, những hoạt động ngăn chặn không để xảy ra tái phạm. Đây là những hoạt

động (biện pháp) được triển khai thực hiện đối với trạng thái tội phạm đã xảy ra, đã được

xử lý hình sự nhưng sau đó vẫn có khả năng tiếp tục xảy ra nhằm ngăn chặn hành vi tái

phạm. Những biện pháp này chủ yếu do Cơ quan thi hành án hình sự tiến hành thông qua

việc giáo dục, cải tạo người phạm tội hoàn lương, trở thành người có ích cho xã hội.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, nếu tội phạm xảy

ra mà được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật và bảo đảm thi

hành án có hiệu quả sẽ: gây được lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp

luật, qua đó nâng cao được tính tích cực của mọi người dân trong đấu tranh phòng,

chống tội phạm; làm mất hy vọng trốn tránh pháp luật của người phạm tội, vô hiệu hóa

điều kiện tiếp tục phạm tội; người phạm tội nhận thức được tội lỗi của mình và quyết

tâm cải tạo hoàn lương, không tái phạm.

1.2.2.2. Hệ thống các biện pháp phòng ngừa

Để phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ nói riêng đạt được hiệu quả và mục đích đề ra cần phải

có hệ thống các biện pháp phòng ngừa đa dạng, đa cấp độ, có cơ sở lý luận và thực

tiễn và bảo đảm tính khả thi.

Hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ là tổng thể các biện pháp khác nhau, trong đó mỗi biện pháp có

tính chất, phạm vi, mức độ tác động khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn

nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất nhằm hạn chế, loại trừ những yếu tố hình

17

thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm này, ngăn chặn không

để tội phạm xảy ra.

- Căn cứ vào tính chất, chủ thể và mục đích áp dụng, các biện pháp phòng ngừa

tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có thể được phân

thành hai tiểu hệ thống; đó là: hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội và hệ thống

các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt (hay còn gọi là các biện pháp phòng ngừa

chuyên môn, nghiệp vụ).

+ Hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội bao gồm những biện pháp kinh tế,

chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo dục; tổ chức- quản lý xã hội, chính sách pháp luật... do

tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và mọi người dân tiến hành

dưới nhiều hình thức khác nhau trong quá trình xây dựng và phát triển mọi mặt đời sống

xã hội nhằm tạo ra một mội trường xã hội tích cực làm tiền đề cho việc hạn chế, loại trừ

những yếu tố có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm này.

Với bản chất như vậy, các biện pháp phòng ngừa xã hội có một số đặc trưng cơ

bản sau đây:

 Về tính chất: Các biện pháp phòng ngừa xã hội đều là những biện pháp mang

tính xã hội, thể hiện sự phản ứng phòng vệ của xã hội mà mục đích của sự phản ứng

đó là phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Việc áp dụng các biện pháp kinh tế, chính trị-

tư tưởng, văn hóa- giáo dục, tổ chức- quản lý xã hội và chính sách- pháp luật đều

hướng tới việc cải thiện mọi mặt đời sống xã hội, tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh

thần cho người dân, giáo dục lối sống tuân thủ các chuẩn mực xã hội, nhất là các quy

định của pháp luật về tham gia giao thông đường bộ... nhằm tạo ra môi trường xã hội

tích cực, thuận lợi cho việc hình thành nhân cách con người, hạn chế tối đa những yêu

tố tiêu cực có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.

 Về chủ thể: Chủ thể phòng ngừa xã hội tình hình tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ hết sức đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ

chức, đoàn thể quần chúng và mọi người dân dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự

điều hành, quản lý của chính quyền các cấp với vai trò làm chủ của nhân dân.

 Về mục đích, các biện pháp phòng ngừa xã hội không nhằm mục đích trực tiếp

hạn chế, loại bỏ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm mà hướng tới việc cải

thiện toàn diện các điều kiện kinh tế, chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo dục, tổ chức-

18

quản lý xã hội (nhất là quản lý nhà nước về an ninh trật tự), pháp luật làm tiền đề căn

bản cho việc loại trừ các yếu tố tiêu cực có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm

phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

 Về phạm vi tác động: Các biện pháp phòng ngừa xã hội có phạm vi tác động

rộng đến nhiều yếu tố, nhiều đối tượng trong xã hội và có khả năng giải quyết tận gốc

vấn đề tội phạm trong xã hội.

+ Hệ thống các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt bao gồm chủ yếu các biện

pháp có tính chất chuyên môn- nghiệp vụ do các cơ quan bảo vệ pháp luật có chức

năng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm tiến hành nhằm trực tiếp phát hiện,

ngăn chặn, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện của tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ, ngăn chặn không để tội phạm này xảy ra.

Như vậy, các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt có một số đặc trưng khác với

phòng ngừa xã hội, đó là:

Về tính chất: Các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt không mang tính xã hội

chung mà mang tính chuyên môn, nghiệp vụ riêng của từng cơ quan có chức năng trực

tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Về chủ thể: Chủ thể phòng ngừa chuyên biệt chỉ bao gồm những cơ quan, lực

lượng có chức năng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ như: Lực lượng CSGT của ngành Công an, Thanh tra giao thông,

Viện Kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành hình sự, v.v...

 Về mục đích: Các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt đều hướng tới việc hạn

chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ, ngăn chặn không cho tội phạm này xảy ra, thực hiện đến cùng và

tái phạm.

 Về phạm vi tác động: Các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt có phạm vi tác

động hẹp, đối với từng lĩnh vực, hệ loại đối tượng cụ thể tùy thuộc vào chức năng của

chủ thể tiến hành.

Mối quan hệ giữa phòng ngừa xã hội và phòng ngừa chuyên biệt có sự khác

nhau nhất định về tính chất biện pháp, chủ thể tiến hành, phạm vi, mục đích áp dụng

nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động hỗ trợ cho nhau để đạt được mục đích

chung là hạn chế, loại trừ tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ra

19

khỏi đời sống xã hội.

- Căn cứ vào phạm vi tác động, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ có thể chia thành hai nhóm: Các biện pháp

phòng ngừa chung và các biện pháp phòng ngừa cá biệt.

+ Các biện pháp phòng ngừa chung có phạm vi đối tượng tác động là những yếu

tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ có tính phổ biến nhằm ngăn ngừa tội phạm này trên diện rộng.

+ Các biện pháp phòng ngừa cá biệt là những biện pháp tác động trực tiếp đến

những đối tượng cụ thể nhằm hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh

hành vi phạm tội của đối tượng trong những tình huống xác định.

Mục đích của phòng ngừa cá biệt là ngăn chặn trước, ngăn chặn trực tiếp tội

phạm xảy ra và phòng ngừa sự tái phạm của một loại đối tượng cụ thể.

Là một trong những biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ, phòng ngừa cá biệt có ý nghĩa hết sức quan trọng trong

cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Những biện pháp này có khả năng tác động

trực tiếp đến những cá nhân có nguy cơ phạm tội cao, sống làm việc trong một môi

trường với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Do vậy, việc xác định đúng đối tượng

cần phải phòng ngừa cá biệt và các biện pháp cụ thể cần phải áp dụng không chỉ đảm

bảo cho hoạt động phòng ngừa có trọng tâm, trọng điểm, mà còn hạn chế được tình

trạng phân tán, dài trải, gây lãng phí, kém hiệu quả. Muốn vậy, trong từng lĩnh vực,

từng địa bàn cụ thể thì lực lượng có chức năng phòng ngừa cần phải xác định được

những đối tượng cần áp dụng biện pháp phòng ngừa cá biệt.

- Căn cứ vào nội dung, tính chất tác động, các biện pháp phòng ngừa có thể chia

thành: Biện pháp kinh tế- xã hội; biện pháp chính trị, tư tưởng; biện pháp văn hóa,

giáo dục; biện pháp tổ chức, quản lý và biện pháp pháp luật.

+ Biện pháp kinh tế- xã hội là biện pháp tác động về mặt kinh tế- xã hội thông

qua việc phát huy tính tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng

thời khắc phục, hạn chế sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, giải quyết thỏa

đáng những vấn đề xã hội bức xúc như công ăn, việc làm, đói nghèo, tệ nạn xã hội,

mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, v.v...

Thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, tình hình tội phạm,

20

trong đó có tình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phát sinh, tồn

tại, vận động trong đời sống xã hội có nguyên nhân, điều kiện từ lĩnh vực kinh tế- xã

hội. Vì vậy, để chủ động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ thì một trong những biện pháp có hiệu quẳ là tập trung phát triển kinh

tế, tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước cũng như ở từng địa phương. Qua đó tạo

tiền đề cho việc giải quyết những vấn đề xã hội như: Tạo công ăn việc làm cho người

lao động, chống thất nghiệp; xóa đói giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất cho người

dân.... Cùng với việc phát triển kinh tế, cần tập trung khắc phục những biểu hiện mặt

trái của nền kinh tế thị trường, những tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy...

Những biện pháp mang tính kinh tế- xã hội nêu trên nếu được tiến hành thường

xuyên, toàn diện chắc chẵn sẽ tạo tiền đề vững chắc về kinh tế- xã hội, góp phần kiềm

chế, nhằm khắc phục và dần loại trừ nguyên nhân, điều kiện trong lĩnh vực kinh tế- xã

hội của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

+ Biện pháp chính trị, tư tưởng là biện pháp hướng vào giữ vững ổn định về

chính trị tư tưởng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà

nước và xã hội; nâng cao ý thức giác ngộ chính trị trong nhân dân, củng cố lòng tin

của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ XHCN; kích thích lòng yêu nước,

tự tôn dân tộc, trách nhiệm công dân; phát huy tư tưởng nhân ái; bao dung của con

người Việt Nam, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước, đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an

toàn, trật tự xã hội, nhất là TTATGT đường bộ.

+ Biện pháp văn hóa, giáo dục là biện pháp hướng tới việc cải thiện, nâng cao đời

sống văn hóa, tinh thần cho người dân; mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục, đào

tạo, nâng cao trình độ dân trí, hình thành nhân cách, lối sống, thói quen, sở thích lành

mạnh, phù hợp với các chuẩn mực xã hội... Qua đó tạo ra một môi trường xã hội có văn

hóa, nhất là văn hóa tham gia giao thông, góp phần tích cực vào việc hạn chế sự hình

thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực, những thói quen, tật xấu đóng vai trò là nguyên

nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Văn hóa giao thông cũng như giáo dục về pháp luật về giao thông đường bộ là

trách nhiệm của các cấp các ngành và của toàn xã hội tuy nhiên ở TP Đà Nẵng hay ở

nhiều địa phương khác cũng vậy, văn hóa giao thông cũng như việc chấp hành các quy

21

định của pháp luật giao thông lại thường được coi là trách nhiệm của cơ quan công an,

chính vì vậy nên công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục về pháp luật giao thông

đường bộ trên địa bàn còn nhiều khó khăn hạn chế, không được chú trọng quan tâm.

Có những đối tượng sinh ra và sinh sống trong những gia đình có điều kiện

không thuận lợi trong sự phát triển nhân cách, đã hình thành trong mình những tâm lý

sai lệch, có thể dẫn đến tội vi phạm quy định về TGGTĐB.

Gia đình là nền tảng của xã hội vai trò của gia đình có ý nghĩa rất to lớn đến việc

hình thành nhân cách cũng như thói quen và sở thích của mỗi cá nhân, cha mẹ ông bà

là tấm gương để cho con cháu noi theo đối với những gia đình thường xuyên chăm lo

cho con cái thì hình thành những nhân cách tốt cho con cái, tuy nhiên bên cạnh đó

những gia đình không thường xuyên quan tâm con cái hay những gia đình khuyết

thiếu, thiếu sự quan tâm dậy dỗ của cha mẹ hình thành nên những thói quen tùy tiện

thích gì làm đấy thậm chí làm những điều trái với đạo đức và lương tâm vi phạm pháp

luật.Đối với tội vi phạm quy định về TGGTĐB cũng vậy gia đình thiếu quan tâm hay

gia đình khuyết thiếu cha hoặc mẹ tạo cho các em những thói quen xấu, thường xuyên

tụ tập tụm năm tụm ba khi nổi hứng lên có thể là tổ chức đua xe gọi là cho vui hoặc

điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà chạy qua tốc độ rú ga, lạng lách, đánh

võng trên đường.

Môi trường nhà trường đây cũng là môi trường quan trọng trong việc hình thành

đạo đức nhân cách của một con người, người xưa có câu “tiên học lễ, hậu học văn”

trước tiên là học đạo đức lối sống sau đó mới học văn. Môi trường nhà trường mà có

kỷ luật nghiêm thường xuyên tu dưỡng rèn luyện các em về đạo đức, lối sống và kỹ

năng sống giúp các học sinh có thể nhận thức và định hướng các hành vi của mình.

Còn ngược lại môi trường nhà trường mà kỷ luật lỏng lẻo, thiếu quan tâm đến cán bộ

và học viên, cán bộ giáo viên còn vi phạm quy định nhà trường, vi phạm đạo đức lối

sống hay vi phạm pháp luật dẫn đến hình thành trong ý thức của học viên là thiếu sự

tôn trọng, sự coi thường và việc giáo dục đạo đức, lối sống trong môi trường nhà

trường chỉ còn là hình thưc không đạt được hiệu quả đề ra.

Đối với lĩnh vực trật tự an toàn giao thông môi trường là nơi tuyên truyền có ý

nghĩa nhất ngay từ bậc học mầm non đến tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ

thông hay bậc đại học đều có những tiết học tìm hiểu về luật giao thông ngay khi còn

22

ngồi trên ghế nhà trường các em đã được trang bị một cách đầy đủ các kiến thức về

pháp luật giao thông đường bộ cũng như các kỹ năng khi tham gia giao thông chính vì

vậy nhà trường nào mà thường xuyên quan tâm đến trật tự an toàn giao thông thì nhà

trường đó tỉ lệ học sinh khi tham gia giao thông là vi phạm rất ít.

Nơi công tác đây cũng là nơi mà việc chấp hành các quy định trở thành phong

trào có sức lan tỏa rộng. Ở những cơ quan đơn vị kỷ luật nghiêm coi việc vi phạm luật

giao thông đường bộ là vi phạm nội quy và quy định thi đua của cá nhân và đơn vị thì

nơi đó việc chấp hành rất tốt, còn những nơi mà lơ là coi nhẹ xem nhẹ kỷ luật của

người đứng đầu không nghiêm thi ở nơi đó việc chấp hành các quy định nội quy nói

chung của cơ quan đơn vị kém.

+ Biện pháp tổ chức, quản lý là biện pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả

quản lý mọi mặt đời sống xã hội, khắc phục những sơ hở, yếu kém trong quản lý, nhất

là quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm

chất chính trị vững vàng, có lối sống trong sáng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ

giỏi đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

+ Biện pháp luật là biện pháp hướng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về

phòng chống tội phạm và tổ chức thực hiện áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng,

chống tội phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

1.3. Chủ thể và nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ

1.3.1. Chủ thể phòng ngừa

Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ nói riêng là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi cơ

quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế, các đoàn thể quần chúng

và mọi người dân, trong đó các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan Công an, Viện

Kiểm sát, Tòa án...) giữ vai trò nòng cốt, xung kích.

Như vậy, chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm (trong đó có tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ) hết sức đa dạng, đó là:

* Đảng Cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Điều 4 Hiến pháp năm 2013

23

khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam- Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng

thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung

thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ

nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tàng tư tưởng, là lực lượng lãnh

đạo Nhà nước và xã hội".

Với trọng trách như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi phòng ngừa tình

hình tội phạm, trong đó có phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ là vấn đề quan trọng của các cấp ủy, tổ chức Đảng.

Đảng lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm bằng đường lối, chính

sách, bằng biện pháp kiểm tra, giám sát và công tác tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung,

tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là một trong

những đảm bảo để hoạt động phòng ngừa tội phạm được triển khai đúng hướng và có

hiệu quả. Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động phòng ngừa tội

phạm, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị để chỉ đạo, định hướng hoạt động

phòng ngừa tội phạm, điển hình là Chỉ thị số 48CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ

Chính trị về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội

phạm trong tình hình mới".

Ngoài ra, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm còn

được phát huy thông qua sự gương mẫu của Đảng viên trong phòng phòng ngừa tình

hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ nói riêng.

* Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu của nhân dân

có vai trò đặc biệt quan trọng đối với công tác phòng chống tội phạm, trong đó có tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Vai trò của cơ quan này trong

phòng ngừa tình hình tội phạm được thể hiện trên nhiều phương diện như:

Ban hành nghị quyết, đạo luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống tội

phạm; tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm

trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương; giám sát chặt chẽ việc tuân thủ

pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.

24

Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương cũng có

vai trò không nhỏ trong phòng, chống tội phạm ở địa phương. Trong phạm vi thẩm

quyền của mình, Hội đồng nhân dân các cấp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật

có liên quan đến đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quyết định các chủ trương chính

sách, các biện pháp phát triển kinh tế- xã hội, văn hóa- giáo dục... tạo tiền đề cho việc

phòng chống tội phạm ở địa phương; kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức và nhân

dân ở địa phương thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm.

* Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc Hội. Do vậy,

Chính phủ có vai trò vô cùng quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong

đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Vai trò phòng ngừa tình

hình tội phạm của Chính phủ được thể hiện thông qua nhiều hoạt động của Chính phủ

liên quan đến phòng, chống tội phạm như: Thống nhất quản lý, điều hành hoạt động

phòng ngừa tội phạm trong phạm vi cả nước; ban hành các văn bản pháp quy, tổ chức

thi hành pháp luật có liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh

trật tự; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình quốc gia, các đề án, kế hoạch

phòng ngừa tội phạm; đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động phòng ngừa tội phạm...

Ngoài ra, Chính phủ còn xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế-

xã hội, văn hóa- giáo dục, an ninh- quốc phòng, đối ngoại... qua đó tạo tiền đề cho hoạt

động phòng, chống tội phạm đạt được kết quả.

Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương, có

nhiệm vụ triển khai các chương trình, đề án, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm

của Chính phủ, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp về phòng, chống tội

phạm ở địa phương; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch phòng,

chống tội phạm tại địa phương, phát động phong trào toàn dân tích cực tham gia

phòng, chống tội phạm, cảm hóa, giáo dục người phạm tội ở địa phương. Ngoài ra, Ủy

ban nhân dân các cấp còn có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và tổ chức thực

hiện các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, văn hóa, giáo dục, bảo đảm an ninh trật tự

tại đại phương, tạo tiền đề cho hoạt động phòng, chống tội phạm.

* Các cơ quan bảo vệ pháp luật

Đây là chủ thể chuyên trách, nòng cốt trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội

25

phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về tham giao giao thông đường bộ. Các cơ

quan bảo vệ pháp luật gồm: Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án, trong đó:

- Lực lượng Công an nhân dân có vai trò tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong

việc hoạch định các chương trình, đề án đấu tranh phòng, chống tội phạm; thực hiện

quản lý nhà nước về an ninh trật tự, trong đó có quản lý nhà nước về bảo đảm

TTATGT thông đường bộ; trực tiếp triển khai các hoạt động phòng, chống tội phạm

bằng các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ; chủ động mở các đợt cao điểm tấn công

trấn áp tội phạm; trực tiếp quản lý, giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có

ích cho xã hội. Ngoài ra, lực lượng Công an nhân dân còn có trách nhiệm hướng dẫn,

giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân phòng ngừa và đấu tranh

chống tội phạm, giám sát giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.

- Viện Kiểm sát nhân dân

Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của VKSND, Khoản 3 Điều 20 BLTTHS năm

2015 khẳng định: "Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật

nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý

kịp thời, nghiêm minh, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt

tội phạm và người phạm tội không làm oan người vô tội".

Từ quy định này cho thấy, Viện Kiểm sát là chủ thể có vai trò quan trọng trong

đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vai trò này của Viện Kiểm sát được thể hiện ở hai

phương diện:

Một là, Viện Kiểm sát thực hiện tổng thể các biện pháp phòng ngừa tội phạm

thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư

pháp. Ở phương diện này, Viện Kiểm sát sử dụng các biện pháp đặc thù thuộc thẩm

quyền của mình do pháp luật quy định để phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các

loại tội phạm (trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ),

đảm bảo không để bất cứ hành vi phạm tội nào xảy ra mà không bị phát hiện, xử lý.

Ngoài ra, Viện Kiểm sát còn đóng vai trò đầu mối phối hợp hoạt động giữa các chủ thể

nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm được chính xác, đúng quy định

của pháp luật. Có thể thấy rằng, các biện pháp thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND có tác dụng trực tiếp ngăn chặn tội phạm, hạn chế

26

hậu quả thiệt hại do tội phạm gây ra, góp phần tích cực vào việc kiềm chế, đẩy lùi từng

bước và tiến tới loại trừ tội phạm trong xã hội.

Hai là, VKSND trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm với tính chất

là một cơ quan nhà nước. Ở phương diện này, VKSND áp dụng các biện pháp chuyên

môn của một chủ thể phòng ngừa trong phạm vi trách nhiệm của mình nhằm hướng tới

mục tiêu chung của hoạt động phòng ngừa tội phạm như: Tuyên truyền, phổ biến giáo

dục pháp luật, thống kê tội phạm; nghiên cứu tổng kết thực tiễn và kiến nghị áp dụng

các biện pháp phòng ngừa tội phạm; tham gia xây dựng hoàn thiện pháp luật làm cơ sở

cho hoạt động phòng ngừa tội phạm; hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà

nước, các tổ chức cá nhân phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giám sát giáo dục

người phạm tội tại cộng đồng.

- Tòa án nhân dân

Với tính chất là một trong những cơ quan bảo vệ pháp luật, TAND thực hiện chức

năng, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự. Cụ

thể là: "Bằng hoạt động của mình, TAND góp phần giáo dục công dân... có ý thức đấu

tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác" (khoản 1 Điều 2 Luật Tổ

chức TAND năm 2014); đồng thời, "cùng với cơ quan, tổ chức nghiên cứu, đề xuất các

chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tội phạm, bảo đoảm an ninh quốc

gia, trật tự an toàn xã hội" (khoản 2 Điều 17 Luật Tổ chức TAND năm 2014).

Bên cạnh đó, thông qua hoạt động xét xử, TAND phát hiện nguyên nhân, điều

kiện của tình hình tội phạm, từ đó yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục. Đồng

thời phối hợp với các chủ thể khác trong xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng,

chống tội phạm.

* Các tổ chức, đoàn thể quần chúng và cá nhân

Đây là lực lượng kết sức đông đảo, giữ vai trò hết sức quan trọng trong phòng

ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ. Điều 46 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Công dân có nghĩa vụ tuân

theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội

và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng". Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013,

khoản 2, 3 Điều 4 BLHS năm 2015 quy định: "Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục

người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ và tuân theo

27

pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống XHCN; kịp thời có biện pháp loại trừ

nguyên nhân điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan tổ chức mình. Mọi công dân có

nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm". Đồng thời, khoản 2 Điều 5

BLTTHS năm 2015 cũng quy định: "Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện,

tố giác, tin báo về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm..." tiếp đó

khoản 3 Điều 5 BLTTHS năm 2015 quy định: "Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tham gia

đấu tranh phòng, chống tội phạm".

Từ những quy định trên đây cho thấy, các tổ chức trong xã hội tham gia phòng,

chống tội phạm thông qua hoạt động tuyên truyền, giáp dục cán bột hành viên thuộc tổ

chức mình tuân thủ các quy định của pháp luật, các nguyên tắc của cuộc sống cộng

động; kiểm tra, giám sát cán bộ, thành viên của tổ chức mình tham gia thực hiện các

biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, tham gia vào việc xây dựng các chương trình,

kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.

Các cá nhân tham gia phòng, chống tội phạm thông qua việc tuân thủ các quy định

của pháp luật; phát hiện, tố cáo các hành vi phạm tội, kiến nghị với chính quyền hoặc cơ

quan chuyên trách khắc phục những sơ hở, thiếu sots là nguyên nhân, điều kiện của tình

hình tội phạm. Bên cạnh đó, cá nhân còn giúp đỡ những đối tượng có tiền án, tiền sự,

mãn hạn tù tái hòa nhập cộng đồng; tích cực hưởng ứng phong trào toàn dân tham gia

bảo vệ an ninh trật tự, tham gia bảo vệ an ninh trật tự, tham gia phòng, chống tội phạm

tại địa bàn dân cư, tham gia xây dựng khu phố, thôn, xóm an toàn...

1.3.2. Các nguyên tắc phòng ngừa

Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm quy định về điều khiển phương

tiện giao thông đường bộ là:

Một là, mọi hoạt động phòng ngừa tội phạm của nguyên tắc pháp chế các cơ

quan nhà nước, tổ chức, các công dân phải hợp hiến và hợp pháp.

Hai là, nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa cơ quan tổ chức công dân đều có thể

tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm và nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho các

phát huy chủ thể tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm được mọi nguồn lực trong

xã hội vào việc phòng ngừa tội phạm.

Ba là, nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa pháp phòng ngừa tội phạm không

28

được hạ thấp danh dự nhân phẩm con người mà phải nhằm khôi phục con người và tạo

điều kiện để con người phát triển.

Bốn là, nguyên tắc khoa học và tiến bộ trong phòng ngừa các biện pháp phòng

ngừa phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, các thành tựu khoa học nhất định, phải

ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ trong việc xây dựng các biện pháp

phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm luôn phải đảm bảo cho mọi

người có cơ hội phát triển bình đẳng, không được phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới

tính, thái độ chính trị.

Năm là, nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể trong công tác phòng

ngừa tội phạm, mỗi chủ thể khi tham gia phòng ngừa tội phạm trong phạm vi và nhiệm

vụ phòng ngừa ở từng địa phương, từng ngành mà mình quản lý đồng thời có sự phối

hợp chặt chẽ với các chủ thể khác để có thể thực hiện một cách tốt nhất hoạt động

phòng ngừa tội phạm.

Sáu là, nguyên tắc cụ thể hóa trong phòng ngừa tội phạm: biện pháp phòng ngừa

tội phạm luôn được nhận thức rõ ràng, chứa đựng các giải pháp khả thi và phù hợp với

điều kiện đặc thù về phòng chống tội phạm ở mỗi địa phương mỗi ngành mỗi lĩnh vực.

Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ là hoạt động phức tạp, tác động không chỉ đến xã hội

mà cả con người, do vậy cần phải tuân thủ một số nguyên tác nhất định.

Đây là những tư tưởng cơ bản chỉ đạo toàn bộ các hoạt động phòng ngừa tội

phạm để đạt được mục đích đề ra.

Cả lý luận và thực tiễn phòng ngừa tội phạm ở nước ta cho thấy, việc phòng ngừa

tội phạm dù ở cấp độ nào, phạm vi nào đi chăng nữa đều phải tuân thủ các nguyên tắc

cơ bản sau:

* Nguyên tắc pháp chế XHCN

Phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ do pháp luật điều chỉnh ở những mức độ khác nhau, do

đó cần phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN.

Nguyên tắc này đòi hỏi, việc triển khai các biện pháp phòng ngừa tình hình tội

phạm phải dựa trên và phù hợp với các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Bởi vậy,

không vì bất cứ lý do gì (kể cả lý do an ninh, quốc phòng) việc phòng ngừa tình hình

tội phạm thoát ly khỏi các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Chỉ trên cơ sở thực

29

hiện đúng quy định của pháp luật, thì hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm mới

hợp pháp,mới có thể bảo vệ được quyền con người, quyền công dân, bảo vệ được lợi

ích của Nhà nước và xã hội, đồng thời mới hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật

trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Để nguyên tắc pháp chế được thực hiện trên thực tế, một mặt phải có một hệ

thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, phù hợp, thực sự là công cụ pháp lý hữu hiệu

trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; mặt khác, các chủ thể phòng ngừa tội phạm

phải có ý thức tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh khi thực hiện chức năng,

nhiệm vụ phòng, chống tội phạm.

Tuân thủ nguyên tắc này là một trong những đảm bảo quan trọng để hoạt động

phòng ngừa tội phạm được đúng luật, có tính hợp pháp.

* Nguyên tắc dân chủ XHCN

Phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ là hoạt động có tính xã hội rộng rãi, do đó phải tuân thủ

nguyên tắc dân chủ XHCN. Nguyên tắc này đòi hỏi: Phải đảm bảo sự tham gia tích

cực và có hiệu quả của mọi tầng lớp nhân dân vào công tác phòng ngừa tình hình tội

phạm; phải coi hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm là công việc chung của toàn

dân, là trách nhiệm của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi người dân;

phải đảm bảo cho mọi chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm đều có khả năng phát

huy sáng kiến, khả năng của mình trong phòng ngừa tình hình tội phạm.

Để nguyên tắc dân chủ được thực hiện trên thực tế, trước hết cần phải thực hiện tốt

cơ chế: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" công tác phòng ngừa tình hình tội

phạm. Đồng thời phải tổ chức tốt phong trào toàn dân tích cực tham gia phòng, chống

tội phạmm, cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư. Chính quyền các

cấp cần tạo điều kiện, giúp đỡ người dân tích cực tham gia phòng, chống tội phạm thông

qua các tổ chức, đoàn thể như: Đội tự quản, đội dân phòng, khu phố tự quản, thiết lập

rộng rãi các hộp tin báo về tội phạm, số điện thoại nóng về tội phạm, v.v...

Tuân thủ nguyên tắc này sẽ khai thác được tất cả các tiềm năng, sáng kiến, sức

mạnh của nhân dân đấu tranh phòng, chống tội phạm.

* Nguyên tắc nhân đạo XHCN

Nhân đạo là giá trị xã hội tiến bộ và được đề cao trong xã hội hiện đại. Trong xã

hội XHCN, mọi hoạt động của Nhà nước, xã hội đều phải hướng tới con người. Phòng

30

ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ nói riêng cũng không nằm ngoài mục đích đó, bởi vì đối tượng tác

động của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trước hết là con người kể cả trường

hợp họ là người phạm tội.

Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động, biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm (kể

cả biện pháp phòng ngừa chuyên biệt) cũng không được xâm phạm quyền con người,

quyền công dân, đặc biệt không được hạ thấp danh dự, nhân phẩm của con người. Ngược

lại, phải hướng tới việc giáo dục, cảm hóa, sửa chữa nhân cách lệch lạc của người phạm

tội, giúp họ trở về với cuộc sống lương thiện. Mặt khác, phải bằng mọi biện pháp không

để cho bất cứ ai, bất cứ thành viên nào của xã hội đi vào con đường phạm tội, vào vòng

lao lý; để Nhà nước, xã hội và người dân không phải gánh ghịu những hậu quả tác hại do

tội phạm gây ra, để không một ai phải chịu sự trừng phạt của pháp luật.

Tuân thủ nguyên tắc này sẽ có tác dụng hạn chế được những tổn thương cho bản

thân người phạm tội nói riêng, cho xã hội nói chung.

* Nguyên tác khoa học

Xuất phát từ tính chất phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro khó khắc phục của hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm vì thế hoạt động này cần phải tuân thủ nguyên tắc khoa

học. Nguyên tắc này đòi hỏi việc xây dựng chương trình, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa

tội phạm phải có cơ sở khoa học (có cơ sở lý luận và thực tiễn) để đảm bảo tính khả thi và

hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội phạm. Để đáp ứng được yêu cầu này, việc xây

dựng chương trình, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa tội phạm không thể là việc làm bộc

phát, thiếu luận cứ khoa học, mà phải dựa vào: kết quả nghiên cứu, đánh giá đúng tình

hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm; kết quả dự báo về tình hình

tội phạm và những yếu tố tác động đến tình hình tội phạm trong tương lai. Có như vậy,

chương trình, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa tội phạm mới phù hợp với thực tế khách

quan, mới có tính khả thi và đem lại hiệu quả thiết thực. Mặt khác, phải đặc biệt chú ý sử

dụng các thành tựu khoa học- kỹ thuật, công nghệ trong phòng ngừa tội phạm.

Tuân thủ nguyên tắc này sẽ đảm bảo khả năng thành công, tiết kiệm nguồn lực và

hạn chế được rủi ro, tổn thất trong phòng ngừa tội phạm.

31

* Nguyên tắc đảm bảo sự phân công, phân cấp rõ, cụ thể, sự phối hợp chặt chẽ

của các lực lượng phòng ngừa tội phạm

Phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ là trách nhiệm của toàn xã hội, có sự tham gia của nhiều

chủ thể khác nhau, trong đó mỗi chủ thể có trách nhiệm, khả năng, điều kiện phòng

ngừa tội phạm khác nhau, do đó cần có sự phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng về chức

năng, nhiệm vụ, đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các lực

lượng tham gia phòng ngừa tình hình tội phạm.

Để đáp ứng yêu cầu này, trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý,

điều hành tập trung thống nhất của Nhà nước mà trực tiếp là cơ quan đầu mối, cơ quan

chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt là không để xảy ra tình trạng

đùn đẩy trách nhiệm, tình trạng "quyền anh, quyền tôi" trong phòng ngừa tội phạm. Mặt

khác, phải có một cơ chế phối hợp chặt chẽ, trong đó xác định cụ thể nội dung, hình

thức phối hợp và trách nhiệm của các bên tham gia phòng ngừa tình hình tội phạm.

Tuân thủ nguyên tắc này chắc chắn sẽ phát huy nhiều lợi thế của các chủ thể và

nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm.

Kết luận Chương 1

Với cách tiếp cận có hệ thống, trong Chương 1 của luận văn, tác giả tập trung

phân tích, luận giải tương đối toàn diện những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên các bình diện: Khái niệm,

đặc điểm, ý nghĩa, mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp, chủ thể và nguyên tắc

phòng ngừa. Những vấn đề lý luận này được soạn thảo dựa trên những vấn đề lý luận

chung về phòng ngừa tình hình tội phạm, do vậy có cơ sở khoa học.

Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là

một dạng, một cấp độ phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung. Vì thế, ngoài những

nội dung, đặc điểm chung, thì còn có nội dung và đặc điểm riêng về mục đích, nhiệm

vụ, biện pháp phòng ngừa.

Nhận thức đầy đủ những vấn đề lý luận này là tiền đề quan trọng để khảo sát,

đánh giá thực tiễn phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ ở địa bàn Thành phố Đà Nẵng. Vấn đề này được đề cập ở Chương 2.

32

CHƯƠNG 2

TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG PHÒNG

NGỪA TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐÀ NẴNG

2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng

2.2.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng giao

thông đường bộ của Thành phố Đà Nẵng

* Về địa lý tự nhiên

TP Đà Nẵng là một trong những TP trực thuộc trung ương, nằm trong vùng

duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam có diện tích tự nhiên 1.284,88 km2, phía Bắc

giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông. Địa hình TP Đà Nẵng khá đa dạng,

vừa có đồng bằng, vừa có đồi núi, biển đảo nhất là quần đảo Hoàng Sa với diện tích

khoảng 30.500 ha. Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt

độ trung bình hàng năm khoảng 25,9oC, độ ẩm không khí trung bình là 83,4%, lượng

mưa trung bình hàng năm là 2.504 mm/năm. TP Đà Nẵng cũng là một trong những TP

miền Trung chịu ảnh hưởng khá nặng nề của các hiện tượng thiên tai dịch bệnh, nhất

là năm 2020 vừa qua, điều đó cũng gây khó khăn cho việc tham gia giao thông của

người dân, cũng như bảo đảm TTATGT đường bộ của cơ quan chức năng.

* Về kinh tế - xã hội

TP Đà Nẵng là TP tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực, là trung tâm chính trị - kinh

tế - xã hội, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội, và quốc phòng, an ninh, đóng vai

trò là hạt nhân quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung – Tây Nguyên.

Đồng thời, cũng là một trong 5 TP trực thuộc Trung ương, là đô thị loại I ở Việt Nam.

TP Đà Nẵng có 6 quận gồm: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn,

Liên Chiểu, Cẩm Lệ và 2 huyện: Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa

Theo kết quả điều tra dân số năm 2019, tổng dân số của TP Đà Nẵng là

1.134.310 người, trong đó dân số đô thị là 988.561 người (chiếm khoảng 87,2%), dân

số nông thôn là 145.749 người (chiếm khoảng 12,8%); mật độ dân số trung bình 828

người/1 km2.

33

* Về cơ bản hạ tầng giao thông

TP Đà Nẵng nằm gần trung độ của trục giao thông Bắc – Nam về đường bộ,

đường sắt, đường thủy và đường hàng không; là cửa ngõ ra biển của hành lang kinh tế

Đông – Tây, với điểm kết thúc là Cảng Tiên Sa.

Hệ thống giao thông đường bộ của TP Đà Nẵng khá đa dạng, gồm nhiều tuyến

đường khác nhau. Tính đến thời điểm hiện nay, trên địa bàn TP Đà Nẵng có tổng cộng

2.342 tuyến đường với tổng chiều dài là 1.396,36 km, 72 cầu có chiều dài hơn 25m với

tổng chiều dài 14.798m và hai bến xe liên tỉnh. Các tuyến đường bộ trên địa bàn TP

Đà Nẵng tương đối đa dạng, trong đó có: đường cao tốc Đà Nẵng Quảng Nam (đoạn

qua TP Đà Nẵng là 7,97 km); đường quốc lộ (gồm Quốc lộ 1A, 1B, quốc lộ 14B) có

chiều dài 119,98 km. Đường đô thị trên địa bàn TP Đà Nẵng là 1.039,17 km; đường

tỉnh 75km; đường huyện: 64,65 km; đường xã: 46,09 km. Ngoài ra, trên địa bàn TP Đà

Nẵng có 2.446,72 km đường kẹt, hẻm và đường nông thôn khác.

Hệ thống vận tải công cộng của TP Đà Nẵng hiện nay có 14 tuyến xe buýt, 7

công ty tắc – xi và 928.450 xe mô tô (xe máy) tham gia giao thông trên các tuyến

đường bộ của TP.

Với những đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế - xã hội cũng như hệ thống giao

thông như vậy, nên lưu lượng phương tiện tham gia giao thông trên các tuyến đường

bộ của TP rất lớn, do đó tình hình TTATGT (nhất là giao thông đường bộ) diễn biến

phức tạp, gây ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.

2.1.2. Tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng

Tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ hiện

nay trên địa bàn TP Đà Nẵng chính là kết quả và là hệ quả của việc triển khai các biện

pháp phòng ngừa ở địa bàn này vừa qua, đồng thời, cũng là đối tượng phòng ngừa

trong thời gian tới. Do vậy, tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ là một trong những yếu tố tác động liên quan trực tiếp đến việc

triển khai các biện pháp phòng ngừa.

Qua nghiên cứu, đánh giá thực tiễn phòng ngừa ở địa bàn TP Đà Nẵng trong 5

năm qua thấy rằng, tình hình vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói

chung, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng đã được kiểm

34

soát, có xu hướng giảm nhưng không bền vững, đặc biệt là vẫn còn diễn biến phức tạp

khó lường, gây ra nhiều hậu quả về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân.

Theo số liệu thống kê của Phòng CSGT Công an TP Đà Nẵng, từ năm 2016 đến

năm 2020, trên địa bàn TP đã phát hiện 333.297 trường hợp, trong đó lập biên bản xử lý

322.656 trường hợp, chiếm 96,8%. Các hình thức xử lý gồm: phạt tiền: 53.448 trường

hợp (chiếm 10,98%); tạm giữ phương tiện: 16.948 trường hợp (chiếm 5,25%); tước

quyền sử dụng giấy phép lái xe: 38.418 trường hợp (chiếm 11,90%), (xem Bảng 2.1 Phụ

lục). Trong số những trường hợp vi phạm này có 504 trường hợp gây tai nạn giao thông

(trong số đó có cả đường bộ, đường sắt và đường thủy) để lại hậu quả hết sức nghiêm

trọng về tính mạng, sức khỏe và tài sản, cụ thể: làm chết 326 người, bị thương 341

người, thiệt hại về tài sản khoảng 2.808 triệu đồng (xem Bảng 2.2 Phụ lục).

Trong số 431/504 vụ tai nạn giao thông đường bộ thì có 89 vụ khởi tố hình sự

(chiếm 20,64%), 157 không khởi tố hình sự (chiếm 36,42%), số vụ đang thụ lí giải

quyết 185 vụ (chiếm 42,92%). Số vụ không khởi tố hình sự được chuyển xử phạt hành

chính 81/157 trường hợp, trong đó: phạt tiền 55/81 trường hợp (chiếm 67,90%) tước

quyền sử dụng giấy phép lái xe: 26/81 trường hợp tước quyền sử dụng giấy phép lái

xe: 26/81 trường hợp (chiếm 32,09%) (Xem Bảng 2.3 Phụ lục).

Qua những số liệu thống kê nêu trên cho thấy, các vụ tai nạn giao thông đường

bộ có xu hướng giảm, nếu năm 2016 ở địa bàn TP Đà Nẵng xảy ra 137 vụ thì các năm

sau đều giảm so với năm định gốc (năm 2016), cụ thể là: năm 2017: 112 vụ, năm

2018: 96 vụ, năm 2019: 83 vụ, năm 2020: 76 vụ. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe mà

tai nạn giao thông gây ra cũng có xu hướng giảm: nếu năm 2016 (năm định gốc) có 89

trường hợp gây chết người và 99 trường hợp gây thương tích cho nạn nhân thì các năm

tiếp theo như sau: năm 2017 có 70 trường hợp gây chết người và 76 trường hợp gây

hậu quả thương tích; năm 2018 có 60 trường hợp gây hậu quả chết người và 65 trường

hợp gây hậu quả thương tích; năm 2019 có 54 trường hợp gây hậu quả chết người và

43 trường hợp gây hậu quả thương tích; năm 2020 có 53 trường hợp gây hậu quả chết

người và 58 trường hợp gây hậu quả thương tích. Riêng hậu quả về tài sản thì càng

ngày càng lớn (Xem Bảng 2.2 Phụ lục)

Tình hình vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ bị phát hiện, xử lý

thì diễn biến phức tạp hơn. Nếu lấy tổng số 59.062 vụ của năm 2016 để so sánh với

35

tổng số vụ của các năm sau thì thấy rằng, năm 2017, 2018, 2019 đều có số vụ vi phạm

cao hơn năm 2016, cụ thể năm 2017 có 61.842 vụ, năm 2018 có 68.077 vụ, năm 2019

có 84.867 vụ. Riêng năm 2020 thì số vụ vi phạm quy định về tham gia giao thông

giảm so với năm 2019, 2018, 2017 và chỉ tăng hơn năm 2016: 387 vụ (xem Bảng 2.2

Phụ lục).

Số vụ và số đối tượng gây tai nạn giao thông đường bộ bị khởi tố vụ án và bị can

trong vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cũng có xu

hướng giảm. Nếu năm 2016 có 24 vụ với 24 bị can; năm 2018 có 15 vụ và 16 bị can;

năm 2019 có 15 vụ và 15 bị can; năm 2020 có 11 vụ và 11 bị can bị khởi tố hình sự

(xem Bảng 2.3 Phụ lục).

Như vậy, tình hình vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, trong đó

có tình hình tội phạm trên địa bàn TP Đà Nẵng trong 5 năm qua, diễn biến theo chiều

hướng giảm. Điều đó chứng tỏ, việc triển khai các biện pháp phòng ngừa đã thu được

những kết quả nhất định. Về cơ bản, đã kiểm sát, kiềm chế được tình trạng vi phạm và

tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ. Tuy nhiên, kết quả này chưa thật sự bền vững,

số vụ vi phạm vẫn còn cao, thiệt hại về người và tài sản còn lớn. Điều đó đòi hỏi cần

tăng cường hơn nữa công tác phòng ngừa vi phạm và tội phạm này trong những năm tới.

2.1.3. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình vi phạm và tội phạm vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng

Tình hình vi phạm cũng như tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ phát sinh trên địa bàn TP Đà Nẵng trong những năm qua là do những

nguyên nhân, điều kiện nhất định. Do vậy, có nắm vững được nguyên nhân và điều

kiện của tình hình vi phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ ở địa bàn này thì mới có thể đề ra được những giải pháp sát thực, phù hợp,

có tính khả thi. Xét về mặt lý luận, phòng ngừa tình hình tội phạm (theo đúng nghĩa) là

ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra, tức là phải triển khai tổng thể các giải pháp làm

triệt tiêu những yếu tố mà trong sự tác động với nhau làm phát sinh tình hình tội phạm

hay nói một cách khác là triệt tiêu những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của tình

hình tội phạm. Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, tình hình tội phạm nói chung, tình

hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng phát sinh trong

đời sống xã hội luôn là kết quả của sự tác động qua lại (sự tương tác) của hai nhóm

36

yếu tố: các yếu tố tiêu cực trong đời sống xã hội và các yếu tố tâm sinh lý tiêu cực

thuộc cá nhân con người sống trong môi trường xã hội đó, nhất là những người có

nguy cơ phạm tội cao (người phạm tội tiềm tàng). Những yếu tố thuộc đời sống xã hội

đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện của tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ nhìn chung hết sức đa dạng, nhưng chủ yếu là: các

yếu tố kinh tế, xã hội; văn hóa – giáo dục; tổ chức, quản lý xã hội; chính sách pháp

luật. Các yếu tố tâm sinh lý tiêu cực thuộc bản thân con người có thể là: yếu tố sinh

học (như tuổi, giới tính, bệnh lý, (chẳng hạn bệnh ngáo đá); yếu tố tâm lý: ý thức, thói

quen, sở thích và những yếu tố xã hội như: nghề nghiệp, trình độ văn hóa, hoàn cảnh

kinh tế, hoàn cảnh gia đình… Mặt khác, tội vi phạm của quy định về tham gia giao

thông đường bộ xảy ra trong đời sống xã hội còn do một số tình huống do nạn nhân

của tội phạm này gây nên.

Với nhận thức như vậy và qua khảo sát ở địa bàn TP Đà Nãng, chúng tôi thấy,

tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở địa bàn này là do

các nguyên nhân, điều kiện sau:

2.1.3.1. Các nguyên nhân và điều kiện thuộc môi trường sống (môi trường địa lý

tự nhiên, kinh tế, xã hội bên ngoài)

Môi trường sống có nhiều yếu tố tiêu cực đóng vai trò là nguyên nhân và điều

kiện của tình hình vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

nói chung. Những yếu tố này có thể có trong môi trường địa lý tự nhiên và môi trường

xã hội.

* Trước hết, về môi trường địa lý tự nhiên

Như đã phân tích ở tiểu mục 2.1.1, Đà Nẵng là một TP trực thuộc Trung ương,

nằm trong vùng duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam là một trong những TP chịu

ảnh hưởng nặng nề của các hiện tượng thiên tai, dịch bệnh. Chỉ tính riêng trong năm

2020 vừa qua, ở địa bàn TP Đà Nẵng đã chịu sự tác động của hai đợt bùng phát dịch

bệnh Covid-19 và 13 cơn bão, lụt. Điều đó gây khó khăn không nhỏ cho việc đảm bảo

TTATGT, nhất là sự đi lại của người dân ở các tuyến đường bị ngập úng, bị phong tỏa.

Mặt khác, TP Đà Nẵng với đặc điểm địa lý tự nhiên của mình trở thành một TP du

lịch, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước, là địa điểm được lựa chọn tổ chức

nhiều sự kiện quan trọng, trong đó có sự kiện mang tầm quốc tế như: Lễ hội pháo hoa

37

quốc tế Đà Nẵng, Tuần lễ cấp cao APEC 2017, Lễ hội giao lưu văn hóa Việt Nam – Nhật

Bản… Đây là một trong những yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư

nước ngoài, song cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức trong công tác bảo đảm

TTATGT.

* Thứ hai, về môi trường xã hội

Môi trường xã hội có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhận

thức, lối sống, quan điểm, ý thức của cá nhân. Ở môi trường xã hội, không chỉ có yếu

tố thuận lợi mà còn có những yếu tố không thuận lợi tác động đến việc hình thành

những phẩm chất cá nhân tiêu cực của con người: Những yếu tố này cũng hết sức đa

dạng, nhưng chủ yếu là các yếu tố sau:

- Một là, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường. Trong lĩnh vực kinh tế,

những yếu tố có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện của tình hình vi phạm cũng như

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ chủ yếu là sự tác động tiêu cực

của mặt trái nền kinh tế thị trường mà điển hình là sự tác động của quy luật giá trị và

lợi nhuận, quy luật cạnh tranh. Thực tế cho thấy, kinh tế thị trường đóng vai trò tích

cực đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Song kinh tế thị trường cũng đẩy con

người vào “vòng xoáy” của lợi nhuận. Vì lợi nhuận, chủ phương tiện giao thông

đường bộ có thể bất chấp cả những quy định về đảm bảo TTATGT đường bộ, khai

thác tối đa tần suất hoạt động của phương tiện và thời gian làm việc của lái xe, tạo

nguy cơ gây mất an toàn khi tham gia giao thông. Thêm vào đó, vì công ăn việc làm và

thu nhập, không ít lái xe phóng nhanh, vượt ẩu, chạy quá tốc độ, chở quá trọng tải,

tranh giành khách. Những vi phạm về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ này chính

là hệ quả của quy luật lợi nhuận, quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

Những quy luật này không chỉ tác động trực tiếp đến tình hình vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ mà còn góp phần làm sâu sắc thêm những mặt trái, tiêu

cực vốn có của kinh tế thị trường, nhất là sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo,

sự chênh lệch giữa TP và nông thôn.

Thực tế ở Đà Nẵng cho thấy, hầu hết các chương trình, dự án đầu tư chủ yếu tập

trung vào khu vực TP - nơi có cơ sở hạ tầng thuận lợi, sức tiêu thụ nhanh… Ngược lại,

ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, miền núi thật sự không phải là “môi trường

hấp dẫn” của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đây là nguyên nhân sâu xa của tình

38

trạng “ly nông, ly hương”, là lý do thu hút ngày càng nhiều người dân nông thôn ở Đà

Nẵng cũng như ở các địa phương khác đến TP Đà Nẵng làm ăn, sinh sống.

Hiện tượng di dân tự do, bột phát này đã gây nên tình trạng mất cân đối về dân cư,

tình trạng quá tải của cơ sở hạ tầng giao thông cũng như công tác bảo đảm TTATGT.

Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh được thừa nhận là một

quyền của cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế, vì thế tại TP Đà Nẵng có

nhiều doanh nghiệp kinh doanh vận tải đường bộ được thành lập, nhiều bến, bãi xe trái

phép được lập ra khắp nơi. Theo số liệu thống kê của Phòng CSGTCông an TP Đà

Nẵng, đến nay có 1.017 công ty kinh doanh vận tải đường bộ, trong đó có 07 công ty

tắc xi đang hoạt động. Do vậy, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp vận tải không sao

tránh khỏi và ngày càng trở nên gay gắt. Vì lợi ích kinh tế, nhiều chủ doanh nghiệp

kinh doanh vận tải ít quan tâm đến các yêu cầu về bảo đảm an toàn của phương tiện và

người điều khiển phương tiện….. Đây cũng là một trong những nguy cơ tiềm ẩn gây ra

những vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.

Thêm vào đó, trong điều kiện kinh tế thị trường, đời sống vật chất, tinh thần của

người dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu mua sắm phương tiện, trong đó có

phương tiện giao thông cá nhân tăng lên rất nhiều. Theo số liệu của Sở giao thông vận

tải TP Đà Nẵng, đến cuối năm 2020 có gần 90.000 ô tô và gần 1,1 triệu mô tô (xe

máy); lượng ô tô ở Đà Nẵng tăng gấp đôi so với 5 năm trước. Trong khi, cơ sở hạ tầng

giao thông đường bộ chưa tương xứng, chưa theo kịp. Điều đó đã tạo nên những bất ổn

về TTATGT đường bộ.

- Hai là, sự tác động của những hạn chế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm TTATGT đường bộ ở địa bàn

TP Đà Nẵng trong những năm qua cho thấy, một trong những yếu tố đóng vai trò là

nguyên nhân, điều kiện của tình hình vi phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ là những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục

+ Trước hết, trong lĩnh vực văn hóa: Bên cạnh những người, khi tham gia giao

thông luôn có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về bảo đảm TTATGT

đường bộ thì vẫn còn một bộ phận người dân có lối hành xử thiếu văn hóa khi điều

khiển các phương tiện giao thông đường bộ, nhất là giới trẻ. Các biểu hiện thiếu văn

hóa khi tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng thường gặp là: điều

39

khiển phương tiện giao thông khi đã uống rượu, bia và các chất kích thích (ma túy đá);

không chấp hành tín hiệu giao thông và hiệu lệnh của người thi hành công vụ; thái độ

thiếu tôn trọng pháp luật, tôn trọng tính mạng, sức khỏe, tài sản của bản thân mình

cũng như của người khác như: không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, bỏ

mặc, không cứu giúp người bị tai nạn giao thông. Đặc biệt hơn, là tình trạng một số

thanh niên, do thích “cảm giác mạnh”, thích “thể hiện bản lĩnh” đã điều khiển xe mô

tô phân khối lớn phóng nhanh, lạng lách, rú còi inh ỏi đua xe trái phép trên đường phố,

gây rối trật tự công cộng.

Thêm vào đó, trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của lối sống, văn hóa

phương Tây mà hiện tượng “đi bão” nhân dịp những sự kiện quan trọng của địa

phương cũng như cả nước…. xảy ra tương đối phổ biến, gây khó khăn cho việc đảm

bảo TTATGT nói riêng, trật tự an toàn công cộng nói chung.

+ Trong lĩnh vực giáo dục: yếu tố tiêu cực đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện

của tình hình vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ chủ yếu

là những hạn chế, thiếu sót trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về

giao thông đường bộ cũng như giáo dục văn hóa, kỹ năng tham gia giao thông tại các cơ

sở giáo dục, đào tạo, khu dân cư, nơi công cộng. Từ thực tiễn của TP Đà Nẵng cho thấy,

hàng năm chỉ vào đầu năm học thì Phòng CSGT Công an TP Đà Nẵng mới cử báo cáo

viên về các cơ sở giáo dục để tuyên truyền phổ biến pháp luật về giao thông nói chung,

pháp luật về giao thông đường bộ nói riêng. Hoạt động này mỗi năm thường chỉ được

triển khai một lần vào đầu năm học, bởi trong chương trình giáo dục đào tạo của các

trường vẫn chưa có một môn học chính thống về vấn đề này. Trong khi đó, số lượng học

sinh, sinh viên tham gia giao thông đường bộ ở TP Đà Nẵng rất lớn.

Công tác giáo dục, phổ biến pháp luật nói chung, pháp luật về an toàn giao thông

nói riêng trong nhà trường còn nặng về lý thuyết, chưa phù hợp với tâm lý lứa tuổi và

nhu cầu của người học, đặc biệt là chưa chú ý đến giáo dục kỹ năng tham gia giao

thông. Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục về bảo đảm

TTATGT chưa thường xuyên, chặt chẽ. Việc giáo dục về bảo đảm TTATGT đường bộ

ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn ít được quan tâm….

Có thể thấy, những hạn chế, thiếu sót nêu trên ít nhiều làm cho ý thức tham gia

giao thông của người dân không những không cao, mà còn có thể hình thành ở họ thói

40

quen tùy tiện khi tham gia giao thông đường bộ

- Ba là, sự tác động của những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước về bảo

đảm TTATGT đường bộ

Từ thực tiễn TP Đà Nẵng trong mấy năm qua cho thấy, công tác quản lý nhà

nước về bảo đảm TTATGT đường bộ, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn

một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Những hạn chế, yếu kém này có ở mọi khâu

trong quá trình quản lý. Cụ thể là:

+ Trong đào tạo, cấp giấy phép lái xe, quản lý, kiển định phương tiện

Qua khảo sát công tác đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe ở TP Đà Nẵng cho

thấy, công tác đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe được giao cho nhiều cơ quan, tổ

chức, nhưng chủ yếu là các cơ quan, tổ chức của ngành giao thông vận tải thực hiện.

Sự chồng chéo giữa các cơ quan (Công an, Quân đội, Giao thông vận tải) trong việc

thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về TTATGT làm nảy sinh nhiều bất

cập, tiêu cực nhất là trong đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe. Chất lượng đào tạo,

sát hạch cấp giấy phép lái xe hiện nay nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Một

số cơ sở đào tạo lái xe chưa đảm bảo đầy đủ các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ đào

tạo như: phòng học, thiết bị giảng dạy, đội ngũ giáo viên, xe tập, sân tập lái… Việc sát

hạch cấp giấy phép lái xe vẫn còn một số sơ hở cả về nội dung và hình thức sát hạch,

đặc biệt là chưa bao quát hết các tình huồng cần thiết khi tham gia giao thông. Tình

trạng cấp giấy phép lái xe cho đối tượng không đủ tiêu chuẩn theo quy định vẫn còn

xảy ra, thậm chí có nơi có lúc vẫn còn hiện tượng mua bán giấy phép lái xe.

Công tác đăng kí, đăng kiểm phương tiện giao thông chưa thật sự chặt chẽ, vẫn

còn tình trạng một số phương tiện chưa làm thủ tục đăng kí đăng kiểm nhưng vẫn

tham gia giao thông, việc chuyển nhượng phương tiện nhưng không làm thủ tục sang

tên, đổi chủ vẫn còn phổ biến. Chất lượng kiểm định phương tiện chưa thật sự đảm

bảo. Ở một vài trung tâm đăng kiểm vẫn còn tình trạng Đăng kiểm viên không kiểm

tra đầy đủ các hạng mục phải kiểm tra, nhất là các hạng mục đánh giá bằng nhận định

chủ quan, thậm chí có trường hợp việc kiểm tra phương tiện hết sức qua loa, đại khái,

chỉ cần một cuộc điện thoại là Đăng kiểm viên cho xe qua ngay. Do vậy, trên thực tế,

hiện tượng xe hết thời hạn sử dụng, xe kém chất lượng nhưng vẫn ngang nhiên hoạt

động vẫn còn khá phổ biến… Tất cả những hạn chế, thiếu sót trên gây không ít khó

41

khăn, vướng mắc cho công tác quản lý phương tiện cũng như phục vụ yêu cầu nghiệp

vụ trong các trường hợp xử lý vi phạm TTATGT đường bộ trên địa bàn TP.

+ Trong quản lý hoạt động kinh doanh vận tải đường bộ

Qua khảo sát cho thấy, công tác quản lý kinh doanh vận tải đường bộ tại địa bàn

TP Đà Nẵng đôi lúc còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ. Nạn xe dù, bến cóc chưa được xử lý

triệt để. Trong khi đó, ý thức, trách nhiệm của một số chủ doanh nghiệp kinh doanh vận

tải đường bộ chưa cao, việc quản lý phương tiện và lái xe chưa thật sự chặt chẽ, thường

giao khoán phương tiện cho lái xe tự điều hành. Việc bảo dưỡng phương tiện ít được

quan tâm, lịch trình hoạt động của phương tiện không được cập nhật thường xuyên, đầy

đủ. Nhiều lái xe vi phạm về thời gian lái xe liên tục, không được kiểm tra sức khỏe định

kỳ, hồ sơ lái xe không đầy đủ dẫn tới thiếu thông tin về lái xe. Tình trạng lái xe chở quá

trọng tải, quá số lượng hành khách theo quy định vẫn còn khá phổ biến… Đặc biệt là

việc cấp giấy phép kinh doanh vận tải hàng hóa bằng container chưa được thực hiện

theo đúng quy định hiện hành; việc xử lý trách nhiệm của chủ doanh nghiệp vận tải chưa

chặt chẽ, nghiêm minh… Những hạn chế, thiếu sót này phần nào cũng ảnh hưởng tiêu

cực đến bảo đảm TTATGT đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng.

+ Trong tổ chức, điều hành giao thông đường bộ

Theo đánh giá của Phòng CSGT Công an TP Đà Nẵng thấy rằng, việc tổ chức

giao thông ở một số đoạn, tuyến đường tại TP còn bất cập, chưa thật sự phù hợp, còn

thiếu điểm dừng và các bãi đỗ xe. Việc quy hoạch và bố trí các cơ quan hành chính,

các khách sạn, trường học, bệnh viện, khu dân cư chưa phù hợp với tổ chức giao

thông, còn tập trung nhiều ở khu vực trung tâm TP dẫn tới mật độ người phương tiện

tham gia giao thông ở những khu vực này rất lớn, gây quá tải ùn tắc cục bộ, nhất là

vào giờ cao điểm. Hệ thống giám sát, theo dõi hành trình giao thông chưa được thiết

lập đầy đủ. Tổ chức giao thông ở các tuyến đường nông thôn còn bất cập, tình trạng

đường hỗn hợp, không có dải phân cách làn ô tô và xe hai bánh còn nhiều, tiềm ẩn

nguy cơ gây tai nạn.

+ Trong hoạt động thanh tra, tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về

TTATGTđường bộ

Theo báo cáo tổng kết công tác bảo đảm TTATGT của Phòng CSGT Công an TP

Đà Nẵng cho thấy, hoạt động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm TTATGT trên một

42

số tuyến chưa thường xuyên, chưa thực sự quyết liệt, hiệu quả thấp. Do ở nhiều thời

điểm lực lượng CSGT phải thực hiện cùng một lúc nhiều nhiệm vụ, lực lượng, phương

tiện thiếu, do vậy chưa quán xuyến, bố trí được khép kín thời gian, địa bàn tuần tra,

kiểm soát mà chủ yếu ở các địa bàn trọng điểm, theo các đợt cao điểm. Vẫn còn một

số trường hợp, cán bộ chiến sĩ CSGT chưa chấp hành đúng quy trình công tác, xử lý vi

phạm chưa thật sự đúng quy định của pháp luật để báo chí, dư luận và người dân phản

ánh. Việc xử lý những trường hợp sửa chữa làm thay đổi hình dáng, kích thước, đặc

tính của xe mô tô cho các đối tượng gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép chưa

được xử lý nghiêm khắc, mới chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, vận động, cam đoan,

cam kết… nên chưa đủ sức răn đe người vi phạm [20]

+ Bốn là, những hạn chế, bất cập của pháp luật.

Hệ thống pháp luật về bảo đảm TTATGT đường bộ cho tới nay đã được ban

hành khá đầy đủ. Tuy nhiên, vẫn chưa thật sự đồng bộ, còn không ít những bất cập,

hạn chế gây khó khăn vướng mắc cho công tác bảo đảm TTATGT đường bộ nói

chung, xử lý vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng.

Luật Giao thông đường bộ được ban hành năm 2008 để điều chỉnh các quan hệ

xã hội phát minh trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Song qua hơn chục năm áp dụng

cho thấy, nhiều quy định của đạo luật này tỏ ra bất cập, không đáp ứng được yêu cầu

bảo đảm TTATGT đường bộ trong tình hình mới. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa

có một đạo luật mới được ban hành để thay thế Luật Giao thông đường bộ năm 2008.

Một trong những hạn chế, bất cập của đạo luật này là phạm vi điều chỉnh khá rộng,

bao gồm cả những vấn đề về xây dựng hạ tầng giao thông vận tải và doanh nghiệp

giao thông vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải và vấn đề quản lý nhà nước về bảo đảm

TTATGT đường bộ. Do vậy, dẫn đến sự chồng chéo với các luật khác, gây khó khăn

cho cơ quan chức năng trong việc lựa chọn các quy định phù hợp để áp dụng trong

thực tiễn. Mặt khác, do được quy định trong cùng một đạo luật, nên việc phân định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chức năng chưa rõ ràng, rành mạch

và dẫn tới chồng chéo hoặc bỏ trống một số chức năng, nhiệm vụ không có cơ quan

nào chịu trách nhiệm chính. Do hạn chế, bất cập nêu trên mà đôi lúc, đôi nơi trên địa

bàn TP Đà Nẵng, công tác bảo đảm TTATGT đường bộ bị chia cắt, xé nhỏ và giao cho

nhiều cơ quan thực hiện. Điều đó đã dẫn tới tình trạng chồng chéo, lấn sân nhau cũng

43

như sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thực hiện nhiệm vụ đảm bảo

TTATGT đường bộ. Bên cạnh dó, để việc áp dụng các quy định của pháp luật trong

lĩnh vực giao thông đường bộ, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành gần 200 văn

bản giải thích, hướng dẫn thi hành. Nhưng do có nhiều cơ quan ban hành, nên một số

nội dung hướng dẫn, giải thích không được thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau, gây

không ít khó khăn cho thực tiễn áp dụng.

Cùng với Luật Giao thông đường bộ năm 20058, còn có một số luật khác có liên

quan đến vấn đề bảo đảm TTATGT đường bộ như: Luật Xử lý vi phạm hành chính,

BLHS, BLTTHS. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng đối với việc đấu tranh phòng,

chống vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ. Tuy nhiên,

trong những văn bản quy phạm pháp luật này vẫn còn những quy định chưa đáp ứng

được yêu cầu bảo đảm TTATGT đường bộ trong tình hình mới. Do vậy, đã ảnh hưởng

không nhỏ đến phòng ngừa vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực này.

2.1.3.2. Các nguyên nhân, điều kiện thuộc chủ thể vi phạm

Thực tế cho thấy, môi trường sống của con người có nhiều yếu tố tác động làm

hình thành ở họ những phẩm chất cá nhân tiêu cực. Bởi lẽ, con người là một thực thể

xã hội, luôn chịu sự tác động của hoàn cảnh, môi trường xã hội. Song nếu chỉ coi

những yếu tố thuộc môi trường xã hội là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội

phạm thì không thể lý giải một thực tế là tại sao hàng triệu con người Việt Nam đều

cùng chịu sự tác động của môi trường sống bên ngoài, nhưng chỉ có một số ít người

phạm tội. Như vậy, tội phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ phát sinh trong đời sống xã hội hiện nay không chỉ do sự tác động của các

yếu tố thuộc môi trường xã hội bên ngoài mà còn do sự tác động của những yếu tố

thuộc cá nhân người phạm tội. Bởi vì, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ là do từng cá nhân thực hiện, do đó không thể không mang đặc tính riêng

của mỗi cá nhân. Những đặc tính đó có thể là đặc tính sinh học (như tuổi, giới tính,

bệnh lý), đặc tính tâm lý – xã hội (như tư tưởng, ý thức, sở thích, thói quen, ước

muốn…)

Kết quả phân tích những yếu tố tiêu cực thuộc về chủ thể thực hiện hành vi cho

thấy, những vi phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

phát sinh trên địa bàn TP Đà Nẵng trong những năm qua là do những yếu tố sau đây:

44

+ Một là, do tư tưởng thực dụng, chạy theo đồng tiền, lợi nhuận

Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, một bộ phận dân cư xuất hiện tư

tưởng thực dụng, làm giàu bằng mọi giá, nên chỉ làm những gì có lợi cho bản thân, gia

đình mình, bất chấp lợi ích của người khác, cũng như lợi ích chung của xã hội. Trong

lĩnh vực giao thông đường bộ, không ít những người điều khiển phương tiện giao

thông, nhất là phương tiện vận tải tư nhân vì lợi nhuận sẵn sàng chở quá tải; điều khiển

cho chạy quá tốc độ, phóng nhanh, vượt ẩu; tranh giành hành khách, dừng đỗ đón, trả

khách, bốc hàng, trả hàng không đúng nơi quy định… Vì thế đã gây ra nhiều vụ tai

nạn giao thông nghiêm trọng. Chẳng hạn, theo báo cáo của Phòng CSGT Công an TP

Đà Nẵng, chỉ tính riêng năm 2020 đã có: 9.247 trường hợp chạy quá tốc độ; 8.452

trường hợp không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu; 69 trường hợp chở quá trọng

tải bị phát hiện xử lý. Cũng trong năm này, đã xảy ra 83 vụ tai nạn giao thông làm chết

54 người, bị thương 43 người, làm hư hỏng 24 ô tô, 66 mô tô, gây thiệt hại về tài sản

ước tính khoảng 889 triệu đồng [20].

+ Hai là, do ý thức vô tổ chức, vô kỷ luật, coi thường các quy tắc bảo đảm

TTATGT đường bộ của chủ thể vi phạm

Phân tích các trường hợp vi phạm cũng như những vụ án đã bị khởi tố về tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng cho thấy,

nhiều vụ vi phạm cũng như tội phạm xảy ra trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường

bộ là do ý thức vô tổ chức, vô kỷ luật, coi thường các quy tắc bảo đảm TTATGT

đường bộ của chủ thể vi phạm. Suy cho cùng, những ý thức, thái độ tiêu cực này luôn

do lợi ích kinh tế, các khoản lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh, dịch vụ, vận tải

thúc đẩy, làm cho một bộ phận những người tham gia giao thông đường bộ cố tình

không chấp hành các quy định của pháp luật về bảo đảm TTATGT đường bộ, coi

thường sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của bản thân cũng như của người

khác, coi thường hiệu lệnh của CSGT khi thi hành nhiệm vụ.

+ Ba là, do thái độ quá tự tin hoặc cẩu thả trong khi tham gia giao thông đường

bộ.

Đây là một yếu tố đặc trưng thuộc về chủ thể của tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ. Bởi theo quy định của BLHS thì tội phạm này được thực

hiện với lỗi vô ý (có thể là vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả).

45

Thực tế cho thấy, nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra là do người

điều khiển, tham gia giao thông quá tin vào khả năng của bản thân cũng như yếu tố

khách quan bên ngoài nên cho rằng tai nạn giao thông xảy ra, hoặc do cẩu thả nên

không nhận thức được khả năng gây ra tai nạn khi phóng nhanh, vượt ẩu… Vì thế đã

có hành vi vi phạm quy tắc bảo đảm TTATGT đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng về

tính mạng, sức khỏe, tài sản cho người khác, thậm chí cho chính bản thân mình. Như

vậy những vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra ít nhiều cũng do thái độ chủ quan

của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

+ Bốn là, do sở thích, thói quen không phù hợp với chuẩn mực, quy tắc bảo đảm

an toàn ở nơi công cộng.

Qua khảo sát ở địa bàn TP Đà Nẵng cho thấy, có một số vụ vi phạm TTATGT

xảy ra, trong đó có vụ khởi tố hình sự là do thói quen, sở thích không phù hợp với

những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, phù hợp với những quy tắc sinh hoạt ở nơi công

cộng. Một trong những sở thích, thói quen đó là sở thích, thói quen dùng bia, rượu

hoặc các chất kích thích khác, kể cả khi tham gia giao thông. Do vậy, có rất nhiều vụ

tai nạn giao thông xảy ra là do sử dụng rượu, bia, ma túy nên không làm chủ được bản

thân khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Theo báo cáo của Phòng CSGT

Công an TP Đà Nẵng, trong 5 năm (từ năm 2016 - 2020) trên địa bàn TP đã xử lý

5.192 trường hợp vi phạm do có nồng độ cồn trong cơ thể. [20]

Đặc biệt là giới trẻ hiện nay không chỉ ở TP Đà Nẵng mà còn ở một số TP khác

xuất hiện một sở thích khác người, đó là “thích cảm giác mạnh”, thích làm oai, xem

mình là người tài giỏi nên dẫn tới có hành vi đua xe trái phép, đánh võng, lạng lách,

chạy với tốc độ cao, chạy xe một bánh sau… Có trường hợp tăng tốc bỏ chạy khi gặp

lực lượng CSGT. Chẳng hạn, trong năm 2020 trên địa bàn TP đã phát hiện, giải tán, xử

lý 25 vụ việc thanh, thiếu niên tụ tập đua xe trái phép, cổ vũ đua xe trái phép.

+ Năm là, do trạng thái thần kinh căng thẳng vì chạy xe liên tục nhiều ngày, thời

gian lái xe dài dẫn tới mệt mỏi, ngủ gật, không xử lý linh hoạt, kịp thời tình huống xảy

ra nên đã gây ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.

Mặt khác, một số người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ lại có tâm

lý nôn nóng, bực bội, thiếu bình tĩnh nên đã phóng nhanh, vượt ẩu, chen lẫn nhằm

thoát khỏi tình trạng ùn tắc nên đã gây tai nạn

46

Tóm lại, trên đây là những yếu tố đóng vai trò là nguyên nhân, điềukiện của tình

hình vi phạm nói chung, của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ nói riêng. Những yếu tố này đang hiện hữu tại địa bàn TP Đà Nẵng. Do vậy,

những yếu tố này vừa phản ánh kết quả của công tác phòng ngừa ở địa bàn này trong

những năm vừa qua, vừa là yếu tố định hướng cho công tác phòng ngừa trong những

năm tới. Có thấy được những yếu tố này thì mới có thể thiết lập được các giải pháp

phòng ngừa phù hợp, khả thi.

2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng

2.2.1. Thực trạng triển khai các biện pháp phòng ngừa xã hội

* Các biện pháp kinh tế - xã hội

Nhận thức được một trong những nguyên nhân cơ bản làm phát tình hình tội

phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói

riêng là những mặt trái của nền kinh tế thị trường, nhất là những hệ lụy tiêu cực của

nó. Do vậy, trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền TP Đà Nẵng đã tập trung

nhiều giải pháp phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần cho người dân. Có thể thấy 5 năm qua, trong bối cảnh, có nhiều khó khăn,

thách thức, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP Đà Nẵng đã nỗ lực phấn đấu

đạt được nhiều kết quả quan trọng. Kinh tế duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá; môi

trường đầu tư được cải thiện. Ba đột phá nền kinh tế - xã hội đạt kết quả khá rõ nét,

trong đó ngành dịch vụ (nhất là du lịch) trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Hạ tầng

kinh tế xã hội được quan tâm đầu tư (trong đó có hạ tầng giao thông đường bộ), góp

phần thay đổi diện mạo TP theo hướng văn minh, hiện đại. Cụ thể: Giai đoạn 2016 –

2019, tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn TP ước tăng 7,5%/năm, gấp 1,5 lần

năm 2015; tổng sản phẩm xã hội bình quân đầu người ước đạt 95,7 triệu đồng (tương

đương 4.095 USD). Tuy nhiên, bước sang năm 2020, trước tác động của đại dịch

covid-19, tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn ước giảm 9,3% so với năm 2019, dẫn tới

tăng trưởng giai đoạn 2016 – 2020 chỉ đạt 4%/năm. Cơ cấu kinh tế TP chuyển dịch

đúng định hướng với tỉ trọng dịch vụ 65%, công nghiệp – xây dựng 22,3%.

Bên cạnh những thành tựu trên, thì vẫn còn một số nhiệm vụ phát triển kinh tế xã

hội còn chậm và chưa theo kịp tình hình, đặc biệt vẫn còn 4/11 chỉ tiêu về kinh tế xã

47

hội chưa đạt. Quy mô kinh tế còn nhỏ nên chưa khẳng định được vai trò đầu tàu, động

lực, tạo sự lan tỏa trong khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Việc khai thác những lợi

thế phát triển kinh tế của TP hiệu quả chưa cao.

Như vậy thực trạng về kinh tế xã hội ở TP Đà Nẵng vừa có mặt tích cực, vừa có

những hạn chế nhất định, trong đó những mặt tích cực, những kết quả đạt được trong

phát triển kinh tế xã hội đã góp phần giảm thiểu những yếu tố tiêu cực trong đời sống

kinh tế xã hội là nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng. Ngược lại, những hạn

chế trong phát triển kinh tế xã hội lại là những yếu tố tiềm ẩn làm cho tình hình tội

phạm, trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

tiếp tục diễn biến phức tạp.

* Các biện pháp văn hóa giáo dục

Song song với việc triển khai biện pháp kinh tế xã hội, Đảng bộ, chính quyền và

nhân dân TP Đà Nẵng rất chú trọng việc đổi mới, cải cách giáo dục, đào tạo, nâng cao

trình độ dân trí, cải thiện đời sống tinh thần cho người dân. Nhờ đó, các lĩnh vực văn

hóa xã hội, xây dựng và phát triển con người Đà Nẵng đạt nhiều tiến bộ, tạo sự chuyển

biến rõ nét trong nhận thức của người dân. Đặc biệt là TP Đà Nẵng đã và đang thúc

đẩy sự phát triển về văn hóa, văn minh đô thị theo hướng xây dựng TP “an toàn, thân

thiện, đáng sống” với các chương trình “TP 5 không, 3 có…” Những chương trình

trên không chỉ làm thay đổi diện mạo, nâng cao tầm vóc, giá trị của TP Đà Nẵng mà

còn tác động rất lớn đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, cách ứng xử của từng con người

Đà Nẵng. Có thể thấy qua việc triển khai các chương trình, thực hiện các nhiệm vụ

phát triển văn hóa giáo dục đào tạo…

Trình độ dân trí, văn hóa của người dân Đà Nẵng được nâng lên rõ rệt, nhất là

văn hóa ứng xử khi tham gia giao thông đường bộ. Nhờ vậy, tình hình vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ có xu hướng giảm, tai nạn giao thông giảm cả

ba tiêu chí.

Mặc dù vậy, văn hóa, xã hội phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của

TP. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông còn tiềm ẩn

những yếu tố phức tạp, khó lường.

48

* Biện pháp chính sách, pháp luật

Chính sách, pháp luật là cơ sở chính trị pháp lý cho công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Nhận thức được vai trò to lớn đó, Đảng bộ, chính quyền TP Đà Nẵng trong những năm

qua đã bám sát và thực hiện nghiêm túc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước về đấu tranh, phòng, chống tội phạm được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ

thị của Đảng như: Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong

tình hình mới"; Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa XI) về

“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ,

đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”; Chiến lược quốc gia

phòng chống tội phạm đến giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030…

Quán triệt những chủ trương, đường lối của Đảng về đấu tranh phòng, chống tội

phạm trong tình hình mới, Đảng bộ và chính quyền TP Đà Nẵng đã ban hành nhiều chỉ

thị, xây dựng nhiều kế hoạch, chương trình công tác về bảo đảm TTATGT nói chung

về phòng chống vi phạm và tội phạm vi phạm các quy định về tham gia giao thông

đường bộ nói riêng. Điển hình là, trong năm 2020, các cơ quan chức năng (nhất là lực

lượng CSGT) đã thực hiện có hiệu quả các kế hoạch trọng tâm như: Kế hoạch số 99-

KH/TU ngày 07/01/2019 của Thành ủy Đà Nẵng về thực hiện Kết luận số 45-KL/TW

của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc

phục ùn tắc giao thông”; Kế hoạch số 72/KH-CATP-TM-CSGT ngày 10/4/2020 về

bảo đảm TTATGT năm 2020; Kế hoạch số 88/KH/CATD-CSGT ngày 13/5/2020 của

Giám đốc Công an TP về “Tổng kiểm soát phương tiện giao thông cơ giới đường bộ";

Kế hoạch số 80/KH-CATP-CSGT-TM ngày 24/4/2020 về “phòng chống đua xe trái

phép”; Kế hoạch số 168/KH-CATP-CSGT-TM ngày 25/8/2020 về tăng cường tuần

tra, kiểm soát và xử lý hành vi vi phạm của người điều khiển xe trên đường bộ mà

trong cơ thể có chất ma túy, vi phạm nồng độ cồn… Mặc dù trong tình hình dịch bệnh

Covdi-19 diễn biến phức tạp, nhưng các cơ quan chức năng của TP vẫn tổ chức triển

khai quyết liệt các giải pháp đảm bảo an toàn chống dịch theo đúng khuyến cáo của Bộ

Y tế. Nhờ đó, đã tạo hiệu ứng tích cực và ủng hộ cao trong quần chúng nhân dân TP

49

đối với công tác bảo đảm TTATGT và công tác phòng đại dịch Covid-19.

Cùng với đó, Đảng bộ, chính quyền, các sở, ban, ngành và nhân dân TP Đà

Nẵng, nhất là lực lượng CSGT Công an TP còn chủ động tham mưu xây dựng hoàn

thiện pháp luật trực tiếp tham gia góp ý vào dự thảo một số văn bản quy phạm pháp

luật có liên quan đến bảo đảm TTATGT, điển hình là: Dự thảo Luật Bảo đảm

TTATGT đường bộ; Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia; Nghị định bổ sung Nghị

định số 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ, đường sắt; Nghị định số 100/2019/NĐ-CP; Thông tư quy định về quy

trình đăng kí xe; Thông tư quy định về đào tạo, sát hạch cấp, quản lý giấy phép lái xe;

Thông tư quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát giao

thông đường bộ của CSGT; Thông tư quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ

phối hợp trong công tác điều tra, giải quyết tai nạn giao thông của lực lượng CSGT…

- Để nâng cao hiệu lực hiệu quả của pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT,

tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, chính quyền và các sở, ban, ngành của TP hết

sức chú trọng tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo đảm

TTATGT, nhất là trong áp dụng pháp luật xử lý vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ, qua đó góp phần quan trọng trong phòng, chống tội phạm.

Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là pháp

luật về phòng, chống tội phạm, pháp luật về bảo đảm TTATGT được chính quyền, các

sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc của TP tổ chức thực hiện với nhiều nội dung, hình

thức khác nhau mang lại hiệu quả tích cực trong phòng ngừa tình hình vi phạm và tội

phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Đặc biệt là lực lượng CSGT Công an TP đã

xây dựng nhiều kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT, chủ

động sử dụng mạng xã hội Facebook, Zalo và phối hợp với các cơ quan thông tin đại

chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân thực hiện

nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về TTATGT, nhất là trong các đợt cao điểm

phục vụ lễ hội, các sự kiện lớn. Ngoài việc tuyên truyền lưu động, tuyên truyền trên

loa phát thanh tại các nút giao thông, lực lượng CSGT còn đẩy mạnh tuyên truyền

Luật giao thông đường bộ và các văn bản pháp luật có liên quan thông qua đài FM

giao thông, truyền hình an ninh TP, an ninh ti vi, các cơ quan báo, đài của TP. Ngoài

ra, lực lượng CSGT công an TP còn phớp hợp với Sở giao thông vận, Sở giáo dục đào

50

tạo tổ chức tuyên truyền pháo luật, đạo đức người lái xe đến các đối tượng là học viên,

các trung tâm đào tạo lái xe, học sinh, sinh viên các trường, in sao tài liệu, băng ghi

âm, ghi hình, bản ảnh để tuyên truyền ở những nơi công cộng, khu vực đông dân cư,

trường học… Điển hình là năm 2015, Phòng CSGT Công an TP đã tổ chức 850 lượt

tuyên truyền lưu động; phối hợp với Đài phát thanh truyền hình Đà Nẵng thực hiện 94

số phát sóng chương trình FM giao thông 96.3 “An toàn hạnh phúc cho mọi nhà”; phối

hợp với các ban, ngành, đoàn thể tổ chức 50 buổi báo cáo chuyên đề an toàn giao thông,

phối hợp với Sở giao thông vận tải tuyên truyền 43 buổi về văn hóa giao thông, đạo đức

người lái xe… với 36.750 lượt người dự nghe; xây dựng 09 phóng sự về công tác bảo

đảm TTATGT của lực lượng CSGT; lắp đặt 66 pa nô tại 33 trường học tại TP [20].

Có thể thấy, với những nội dung và hình thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục

nêu trên đã làm thay đổi căn bản nhận thức, tình cảm, hành vi ứng xử của người dân

nói chung, người tham gia giao thông nói riêng. Từ đó, hạn chế, loại trừ từng bước

thói quen không chấp hành các quy tắc TTATGT đường bộ của một bộ phận dân cư,

có tác dụng hạn chế tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra.

2.2.2. Thực trạng triển khai các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt (phòng

ngừa chuyên môn, nghiệp vụ)

Như ở Chương 1 đã trình bày, những biện pháp phòng ngừa chuyên biệt là những

biện pháp có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ do cơ quan có chức năng phòng, chống

tội phạm thực hiện nhằm phát hiện, loại bỏ những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện

làm phát sinh vi phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ, ngăn chặn không để vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực này xảy ra.

Để đạt được mục đích loại bỏ những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát

sinh vi phạm và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, trong 5 năm

qua, các cơ quan chức năng mà nòng cốt là lực lượng CSGT công an TP Đà Nẵng đã

triển khai đồng bộ các biện pháp có tính chất chuyên môn nghiệp vụ sau:

* Các biện pháp tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông đường bộ

Tổ chức điều khiển giao thông đường bộ là một trong những biện pháp công tác cơ

bản của lực lượng CSGT và lực lượng giao thông vận tải của TP. Có thể thấy, trong thời

gian qua các lực lượng này nhất là CSGT đã thường xuyên kiểm tra, ghi nhận nắm bắt

tình hình TTATGT đường bộ trên địa bàn để chủ động tổ chức giao thông, xây dựng

51

phương án phòng ngừa, giải quyết ùn tắc giao thông phù hợp với tình hình thực tế của

TP, đảm bảo hợp lý, an toàn, thông suốt cho người và phương tiện giao thông. Đặc biệt

là, đã huy động tối đa lực lượng, phối hợp với các lực lượng khác thường xuyên làm

nhiệm vụ điều hòa, hướng dẫn giao thông, tổ chức phân luồng, phân tuyến, giải tỏa ùn

tắc ở các nút giao thông (như nút Cầu Rồng, Cầu Trần Thị Lý..) không để xảy ra tình

trạng ùn tắc giao thông kéo dài, ảnh hưởng đến sinh hoạt, đi lại của nhân dân.

Ngoài ra, phòng CSGT đã chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng như Ban

an toàn giao thông TP, Sở xây dựng, Sở giao thông vận tải, Công an các địa phương…

tổ chức nhiều đợt khảo sát các điểm đen, điểm tiềm ẩn về tai nạn giao thông qua đó đề

xuất Ủy ban nhân dân TP chỉ đạo khắc phục nhằm phòng ngừa tai nạn giao thông xảy

ra, bảo đảm an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông …

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác tổ chức, điều khiển giao

thông đường bộ ở một số nơi còn bất cập, nhất là tại khu vực trường học, khu công

nghiệp, khu đông dân cư, chợ; một số tuyến giao thông ở nông thôn còn thiếu hệ thống

thông tin, tín báo hiệu đường bộ, tình trạng đường hỗn hợp còn nhiều, tiềm ẩn nguy cơ

xảy ra tai nạn giao thông…

* Các biện pháp quản lý phương tiện giao thông đường bộ, đào tạo, cấp giấy

phép lái xe

Chất lượng phương tiện giao thông đường bộ là một trong những yếu tố ảnh

hưởng trực tiếp đến sự an toàn của phương tiện và người điều khiển phương tiện đó

khi tham gia giao thông. Do vậy, hiệu quả công tác quản lý chất lượng phương tiện

giao thông đường bộ có tác dụng đáng kể đối với phòng ngừa vi phạm cũng như tội

phạm trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ.

Với tính chất là cơ quan quản lý phương tiện giao thông đường bộ, Phòng CSGT

Công an TP hàng năm đã tổ chức tốt công tác tiếp nhận, giải quyết đăng kí phương

tiện giao thông đường bộ theo đúng quy định. Chẳng hạn, trong năm 2020, Phòng

CSGT công an TP làm thủ tục đăng kí 7.996 xe ô tô và 6.877 xe mô tô. Tổng số ô tô

đang quản lý là 95.360 xe, còn tổng số xe máy hiện đang quản lý là 9.485 xe. Tiến

hành tra cứu và cung cấp thông tin liên quan đến 1.660 phương tiện (7000 ô tô, 960

mô tô) theo 320 yêu cầu của các đơn vị nghiệp vụ, các tổ tuần tra, kiểm soát giao

thông phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và xử lý các hành vi vi phạm

52

pháp luật khác. Kiểm định, cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật cho nhiều phương

tiện; cấp, đổi, gia hạn giấy phép lái xe cho nhiều trường hợp. Đặc biệt là đã ra quyết

định xử phạt 225 trường hợp vi phạm lỗi không làm thủ tục đăng kí sang tên, cải tạo

xe ô tô theo quy định. Hệ thống dữ liệu về phương tiện, chủ phương tiện được cập nhật

thường xuyên, phục vụ có hiệu quả việc truy nguyên, truy tìm dấu vết phương tiện gây

án trong các vụ xâm phạm TTATGT đường bộ.

Công tác đào tạo và sát hạch cấp giấy phép lái xe được đổi mới và có sự giám sát

chặt chẽ của cơ quan chức năng. Sở giao thông vận tải TP đã chủ động hơn trong quản

lý, giám sát chất lượng đào tạo lái xe, nhất là chất lượng giáo viên dạy lái. Do vậy, chất

lượng người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ngày càng được nâng cao

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý phương tiện cũng

như người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chưa thật sự đảm bảo, vẫn còn

những hạn chết, bất cập nhất định, ảnh hưởng đến chất lượng phương tiện cũng như

người điều khiển phương tiện. Tình trạng phương tiện giao thông đường bộ hết hạn sử

dụng hoặc quá hạn kiểm định vẫn tham gia giao thông… là một minh chứng của hạn

chế, thiếu sót trong công tác này.

* Các biện pháp thanh tra, tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về TTATGT

đường bộ

Đây là một trong những biện pháp mà các lực lượng chức năng (Thanh tra giao

thông và CSGT) của TP tăng cường thực hiện với nhiều hình thức khác nhau, có trọng

tâm, trọng điểm, bám sát các kế hoạch đã được phê duyệt và sự chỉ đạo của Công an

TP và Sở giao thông vận tải. Điển hình năm 2020 trên địa bàn TP Đà Nẵng, đã tiến

hành 205 lượt thanh tra chuyên ngành; 350 lượt tuần tra, kiểm soát lưu động, phát

hiện, lập biên bản 84.867 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 71.884 trường

hợp, chuyển kho bạc nhà nước 54 tỷ đồng [20]

Đặc biệt, Phòng CSGT thường xuyên tập trung chỉ đạo các đội, trạm nâng cao

công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm TTATGT đường bộ, trong đó vừa thực hiện

các đợt tuần tra, kiểm soát cao điển theo chỉ đạo của Bộ Công an, Cục CSGT vừa xử

lý theo chuyên đề; nồng độ cồn, tốc độ, người đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, xe

hết hạn sử dụng, quá hạn kiểm định, xe container…

Qua công tác xử lý theo chuyên đề năm 2020 đã phát hiện xử lý vi phạm nồng độ

53

cồn 586 trường hợp; không đội mũ bảo hiểm 15.638 trường hợp; chạy quá tốc độ:

13.139 trường hợp… [20]

Qua việc triển khai quyết liệt các biện pháp tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm đã

từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về giao thông đường bộ, góp phần tích

cực hạn chế tai nạn giao thông, đảm bảo hoạt động giao thông đường bộ diễn ra một

cách trật tự, an toàn và thông suốt, kéo giảm được tình trạng vi phạm cũng như tình

trạng phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Bên cạnh kết quả nêu trên, hoạt động tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm về

TTATGT đường bộ vẫn còn một số hạn chế, tồn tại nhất định, ảnh hưởng đến hiệu quả

phòng ngừa vi phạm cũng như tội phạm về TTATGT đường bộ như: chưa đồng bộ,

khép kín địa bàn, vẫn còn tuyến, địa bàn chưa được tuần tra, kiểm soát thường xuyên;

có nơi, có lúc còn có biểu hiện né tránh, bỏ qua lỗi vi phạm, xử lý chưa thật sự hợp lý,

công bằng nên không được sự đồng tình, ủng hộ của người dân, của dư luận xã hội.

* Biện pháp điều tra, xử lý tai nạn giao thông đường bộ

Một trong những biện pháp quan trọng, góp phần phòng ngừa tai nạn giao thông

nói chung, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là làm tốt

công tác điều tra, xử lý các vụ tai nạn đã xảy ra. Bởi, qua việc điều tra, xử lý tai nạn

giao thông đường bộ không những làm rõ được mức độ lỗi và trách nhiệm của những

người gây ra vụ tai nạn, làm cơ sở cho việc xử lý theo quy định của pháp luật, mà còn

làm rõ được nguyên nhân, điều kiện dẫn tới tai nạn, tội phạm vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ, phục vụ cho công tác phòng ngừa. Nhận thức được vấn

đề này, các cơ quan chức năng của TP Đà Nẵng đã có cố gắng, nỗ lực triển khai nhiều

biện pháp điều tra cụ thể nhằm nhanh chóng phát hiện, điều tra làm rõ các vụ tai nạn

xảy ra, trên cơ sở đó áp dụng đúng đắn các biện pháp xử lý phù hợp. Theo số liệu

thống kê của Phòng CSGT, Công an TP Đà Nẵng, trong 5 năm qua (Từ năm 2016 đến

năm 2020), trên địa bàn TP đã xảy ra 504 vụ tai nạn làm chết 326 người, bị thương:

341 người, gây thiệt hại về tài sản khoảng 2.808 triệu đồng. Trong tổng số 504 vụ gây

ra tai nạn có 89 vụ bị khởi tố hình sự với 93 bị can. Việc điều tra xử lý này đã góp

phần đáng kể vào việc kiềm chế sự gia tăng của tình trạng tai nạn giao thông nói

chung, của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông nói riêng. Song, bên

cạnh những kết quả nêu trên, công tác điều tra, xử lý các vụ tai nạn giao thông vẫn còn

54

những hạn chế, tồn tại nhất định như: Thời gian điều tra một số vụ còn kéo dài, việc

xử lý đôi khi chưa dứt điểm, dẫn tới việc khiếu kiện; số vụ tai nạn giao thông có dấu

hiệu tội phạm được khởi tố điều tra, xử lý hình sự chiếm tỉ lệ thấp (khoảng 17,6%),

chủ yếu là xử lý hành chính và bồi thường dân sự, vì thế đã làm giảm tính răn đe của

biện pháp xử lý đối với người gây tai nạn.

2.2.3. Khái quát thực trạng tổ chức thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình

hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng

Nhằm nâng cao nhận thức của người trên địa bàn TP Đà Nẵng về chấp hành Luật

Giao thông đường bộ và công tác phòng, chống tội phạm, cần có sự phối hợp tổ chức

thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB. Thực

hiện ý kiến chỉ đạo của UBND TP Đà Nẵng về công tác bảo đảm An toàn giao thông

trên địa bàn, Ban chỉ đạo đã có văn bản đề nghị các cơ quan chức năng TP Đà Nẵng

tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm vi phạm giao thông

đường bộ trên địa bàn.

Phòng Cảnh sát giao thông Công an TP Đà Nẵng đã chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao

thông, Cảnh sát trật tự và Công an các địa phương, đơn vị nâng cao trách nhiệm, siết chặt

kỷ cương trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; tiếp tục huy động lực lượng

thường xuyên tuần tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao

thông, kể cả ngoài giờ hành chính và trong các ngày nghỉ, ngày lễ, cụ thể như:

Kiểm soát xe tải ben, xe container trên các tuyến đường: Quốc lộ 1A, Quốc lộ

14B. Xử lý nghiêm lái xe, chủ xe chở quá tải trọng, chạy quá tốc độ quy định, lấn làn,

vượt ẩu, để đất cát rơi vãi gây ô nhiễm môi trường. Kiểm tra người lái xe về Giấy phép

lái xe phù hợp với xe đang điều khiển, Giấy Đăng ký xe, Giấy chứng nhận an toàn kỹ

thuật và bảo vệ môi trường còn hiệu lực; kiên quyết đình chỉ hoạt động đối với phương

tiện không có các loại giấy phép trên hoặc đã bị các cơ quan chức năng tạm giữ theo

quy định pháp luật.

Chỉ đạo lực lượng cảnh sát giao thông các Trạm, Đội thuộc phòng thường xuyên

tổ chức tuần tra kiểm soát xử lý vi phạm theo chuyên đề và tập trung xử lý các hành vi

là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn giao thông :như chạy quá tốc độ đối với tất cả

các loại phương tiện lưu thông trên các tuyến đường đã lắp đặt biển báo “Đoạn đường

55

thường xuyên giám sát tốc độ”; kiểm tra xử phạt vi phạm làn đường trên các tuyến

đường có kẻ vạch phân làn riêng cho xe cơ giới; người đi mô tô, xe gắn máy (kể cả xe

máy điện) không đội mũ bảo hiểm. Hằng tuần có kế hoạch tổ chức các đợt kiểm tra vi

phạm quy định về nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện trên các tuyến đường

thường xảy ra tai nạn giao thông ban đêm.

Tăng cường lực lượng chỉ huy, điều hòa hướng dẫn giao thông tại các nút giao

thông phức tạp trong thời gian cao điểm buổi sáng và buổi chiều, không để xảy ra tình

trạng phương tiện lưu thông bị ùn ứ kéo dài, xử lý nghiêm tình trạng vượt đèn đỏ,

dừng xe lấn lên vạch dừng hoặc dừng xe qua làn bên trái tại các nút giao thông có tín

hiệu đèn.

Thanh tra sở Giao thông vận tải tiếp tục siết chặt quản lý hoạt động vận tải, tăng

cường kiểm soát tải trọng xe, tập trung quản lý bảo đảm kết cấu hạ tầng giao thông an

toàn, thông suốt; khắc phục kịp thời các vị trí, nút giao thông thường xảy ra tai nạn

giao thông, ùn tắc giao thông.

Kiểm tra, xử lý dứt điểm không để tái diễn tình trạng “xe dù”, “bến cóc”, xe

khách trá hình chạy “chui”, tại một số khu vực như: bến thuyền, bến cá, bệnh viện, các

trường đại học trên địa bàn TP Đà Nẵng.

Phối hợp với các đơn vị chức năng khảo sát những bất cập về tổ chức giao thông,

các điểm đen…để kịp thời đề xuất cấp có thẩm quyền sủa chữa, khắc phục.

Kết luận Chương 2

Để có cơ sở thực tế cho việc đề ra các biện pháp phòng ngừa phù hợp với địa bàn

TP Đà Nẵng, Chương 2 của luận văn chủ yếu phân tích, làm rõ những tình hình, đặc

điểm có liên quan đến phòng ngừa tình hình vi phạm cũng như tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ, trong đó tập trung vào tình hình, đặc điểm về địa lí

tự nhiên, tình hình vi phạm và tội phạm về TTATGT đường bộ và nguyên nhân, điều

kiện của tình hình đó.

Ngoài ra, chương 2 của Luận văn còn khảo sát, đánh giá thực trạng phòng ngừa

tình hình vi phạm và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ trên hai bình diện:

phòng ngừa xã hội và phòng ngừa chuyên biệt; rút ra những kết quả đạt được, cũng

như những vấn đề còn tồn tại, hạn chế cần có giải pháp khắc phục.

56

CHƯƠNG 3

DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1. Dự báo những yếu tố liên quan đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng

3.1.1. Cơ sở dự báo

* Cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội

Trong 5 năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là đại dịch

covid-19, nhưng Đảng bộ, chính quyền, quân và dân TP Đà Nẵng đã nỗ lực phấn đấu,

đạt được nhiều kết quả quan trọng, kinh tế duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá; môi

trường đầu tư được cải thiện. Ba đột phá về kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư, góp

phần thay đổi diện mạo đô thị theo hướng văn minh, hiện đại. Lĩnh vực văn hóa xã

hội, xây dựng và phát triển con người Đà Nẵng đạt được nhiều tiến bộ. Quốc phòng,

an ninh được giữ vững, hoạt động đối ngoại được mở rộng, góp phần khẳng định vị thế

của TP [8].

Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng;

còn 5/12 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch. Kết cấu hạ tầng đô thị có mặt chưa đồng bộ. Lĩnh

vực văn hóa xã hội phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của TP. Tình hình

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông còn tiềm ẩn nhiều yếu tố

phức tạp. Những hạn chế này, có nguyên nhân khách quan: do sự tác động của kinh tế

thế giới, thiên tai, dịch bệnh, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan như: việc

triển khai các nhiệm vụ, nhất là cụ thể hóa thực hiện 3 khâu đột phá về kinh tế - xã hội

chưa quyết liệt; khả năng phân tích, dự báo tình hình còn hạn chế; công tác lãnh đạo,

điều hành còn lúng túng khi phát sinh khó khăn, thách thức…

Từ thực tế trên, trong 5 năm tới (2020-2025), TP Đà Nẵng đề ra mục tiêu: “Tiếp

tục đổi mới và phát triển, đưa TP Đà Nẵng trở thành thành đô thị khởi nghiệp, sáng

tạo, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước, là hạt nhân của chuỗi đô thị và tăng

trưởng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung – Tây Nguyên; quốc phòng an ninh và chủ

quyền biển đảo được bảo đảm vững chắc, phấn đấu xây dựng TP giàu đẹp, an bình,

văn minh, hiện đại” [8]. Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, TP Đà Nẵng đã đưa ra một số

57

chỉ tiêu cụ thể về phát triển kinh tế xã hội: Tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2020

– 2025 tăng 9-10%/năm. Tổng thu nhập bình quân đầu người đạt 5.000-5.500 USD.

Tổng vốn đầu tư phát triển xã hội tăng 9-10%/năm. Thu ngân sách tăng bình quân 7-

10%/năm. Tỷ lệ tăng dân số bình quân 2,4%/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 75%.

Không còn hộ nghèo theo chuẩn đa chiều của TP; 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới

nâng cao.

* Cơ sở chính trị pháp lý

Trong thời gian qua, cũng như trong những năm tới, Đảng và Nhà nước nói

chung, Đảng bộ và chính quyền TP Đà Nẵng nói riêng hết sức quan tâm đến việc hoàn

thiện cơ sở chính trị pháp lý cho phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có tình hình

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Điều này được thể hiện rõ nét

trong các văn kiện của đảng, văn bản pháp luật của nhà nước, trong đó ghi nhận đường

lối, chủ trương, biện pháp phòng, chống tội phạm nói chung, tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ nói riêng. Trước hết phải kể đến: Chỉ thị số 48-CT/TW

ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới", trong đó đề ra mục đích, yêu cầu và

một số nhiệm vụ chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

phòng, chống tội phạm; Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư về

“Tăng cường lãnh đạo của đảng đối với công tác bảo đảm TTATGTđường bộ, đường

sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông", trong đó đề ra mục tiêu, yêu

cầu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm bảo đảm TTATGT và khắc phục tình trạng ùn

tắc giao thông, Kết luận số 45-KL/TW ngày 01/02/2019 về “Tiếp tục đẩy mạnh thực

hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 4/9/2012 của Ban Bí thư khóa XI về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt,

đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông", trong đó đánh giá những kết quả

đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân, đưa ra một số nội dung,

yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội cần

quán triệt và thực hiện.

Về phía Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở

pháp lý cho công tác phòng, chống tội phạm, điển hình là: Luật Giao thông đường bộ

năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật xử lý vi phạm hành chính năm

58

2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đặc biệt là năm 2015, Quốc hội đã ban hành

một số đạo luật quan trọng quy định hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình

sự, trong đó có vụ án về tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ

như: BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); BLTTHS năm 2015, Luật tổ chức

Cơ quan điều tra hình sự năm 2015…

Hiện nay, Chính phủ đã trình Dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) để Ủy

ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến. Trong đó có ý kiến cho rằng, cần tách Luật giao

thông đường bộ thành hai luật: Luật giao thông đường bộ (sửa đổi) và Luật Bảo đảm

TTATGTđường bộ. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến không đồng ý phương án này.

Việc thông qua Luật giao thông đường bộ (sửa đổi) trong năm tới sẽ tạo đột phá trong

phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, tổ chức giao thông, quản lý

an toàn kỹ thuật phương tiện giao thông, vận tải đường bộ, quản lý nhà nước về giao

thông đường bộ…

Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành nhiều chiến lược quốc gia liên quan đến

phòng, chống tội phạm và bảo đảm TTATGT đường bộ, điển hình là: Chiến lược quốc

gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030, trong

đó đưa ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống

tội phạm cũng như các chương trình, đề án thực hiện chiến lược, Chiến lược quốc gia

đảm bảo TTATGT đường bộ giai đoạn 2021- 2030 và tầm nhìn đến 2045, trong đó

đưa ra quan điểm, mục tiêu, định hướng chiến lược, giải pháp đột phá cũng như nguồn

kinh phí để thực hiện chiến lược, v.v...

Đây là những văn bản pháp lý quan tọng làm cơ sở cho đấu tranh phòng, chống

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ hiện nay cũng như những năm

tiếp theo.

3.1.2. Nội dung dự báo

Để có cơ sở cho việc thiết lập các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ phù hợp, có tính khả thi, nội dung dự báo cần

tập trung vào những vấn đề sau:

* Thứ nhất, về tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

từ nay đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn TP Đà Nẵng.

Qua việc phân tích những yếu tố là cơ sở để dự báo nêu trên, có thể đưa ra một số

59

dự báo về tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông từ nay đến năm 2025,

tầm nhìn đến năm 2030 như sau:

- Tình hình tội phạm này tiếp tục diễn biến phức tạp, vận động theo xu hướng

tăng, giảm không theo quy luật, tùy thuộc vào việc triển khai các đợt cao điểm, tháng

cao điểm bảo đảm TTATGT đường bộ, cũng như một số yếu tố khách quan tác động:

như bão lụt, dịch bệnh, tổ chức các sự kiện, lễ tết…trên địa bàn TP. Tuy nhiên, do

lượng phương tiện giao thông ngày càng nhiều, nhu cầu đi lại, vận tải hàng hóa tăng

mạnh, hạ tầng giao thông đường bộ chưa theo kịp, nhận thức và ý thức tham gia giao

thông của người dân còn hạn chế …sẽ tiếp tục là nguyên nhân làm cho tình hình tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông có nhiều biến động: có thời điểm tăng, có thời

điểm giảm nhưng nhìn chung sẽ có xu hướng giảm, mặc dù không bền vững.

- Thiệt hại do tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây ra vẫn

đặc biệt nghiêm trọng về tính mạng sức khỏe và tài sản của người dân.

- Đối tượng thực hiện hành vi phạm tội vẫn chủ yếu là người điều khiển phương

tiện giao thông đường bộ và có sự thay đổi nhất định về thành phần trong những năm

tới. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là nam giới, có độ tuổi từ 18 đến 45, làm nghề lái xe hoặc

lao động tự do. Trong thành phần chủ thể của tội phạm này không loại trừ nữ giới, học

sinh, sinh viên và cả người nước ngoài.

- Phương tiện mà người phạm tội điều khiển khi tham gia giao thông đường bộ

chủ yếu là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, trong đó ô tô (chiếm khoảng

25%); mô tô, xe gắn máy (chiếm 70%), các loại phương tiện khác và người đi bộ

(chiếm khoảng 5%).

- Thời gian xảy ra tội phạm thường ở khung giờ từ 18 giờ đến 22 giờ là phổ biến

nhất, bởi vào thời gian này, lưu lượng người và phương tiện tham gia giao thông

đường bộ rất lớn, trong khi người điều khiển phương tiện giao thông thường ở trong

trạng thái tâm lý mệt mỏi sau một ngày làm việc và trong bối cảnh trời tối…

Mặt khác, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ sẽ xảy ra phổ

biến vào những ngày nghỉ, ngày lễ tết.

- Địa điểm xảy ra tội phạm chủ yếu trên các tuyến quốc lộ 1A, 14B và một số

tuyến đường nội đô có tình hình TTATGT đường bộ phức tạp như khu đông dân cư, khu

công nghiệp, trung tâm thương mại, chợ, trường học, các điểm đen về giao thông…

60

* Thứ hai, về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng trong thời gian tới.

Các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ đã phân tích ở mục 2.1 luận văn sẽ tiếp tục tác động làm cho

tội phạm này diễn biến phức tạp, khó lường. Trong những nguyên nhân, điều kiện làm

phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, thì những nguyên

nhân, điều kiện thuộc môi trường xã hội bên ngoài như: nguyên nhân, điều kiện về

kinh tế - xã hội; về văn hóa – giáo dục; về tổ chức, quản lý nhà nước về bảo đảm

TTATGT; về chính sách pháp luật vẫn tiếp tục đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, tội

phạm là do con người gây ra, do vậy yếu tố tâm sinh lý xã hội tiêu cực thuộc bản thân

con người, nhất là những người tham gia giao thông đường bộ cũng là những tác nhân

trực tiếp gây ra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Dự báo được những yếu tố đóng vai trò là nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ một cách chính xác sẽ có cơ sở

để thiết lập hệ thống biện pháp phòng ngừa phù hợp, có tính khả thi và tính hiệu quả.

3.2. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình

hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành

phố Đà Nẵng

3.2.1. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu

Phòng ngừa tình hình vi phạm TTATGT đường bộ nói chung, tình hình tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là nhiệm vụ hết sức khó

khăn, phức tạp, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược, lâu dài. Do vậy để

đảm bảo hiệu quả của công tác này cần quán triệt các quan điểm có tính chỉ đạo sau:

- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là

một trong những nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, thường xuyên, liên tục và lâu dài rộng

khắp, nhất là ở các tuyến địa bàn trọng điểm nhằm bảo đảm TTATGT đường bộ, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

phải gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trật tự,

chủ quyền biển đảo của TP; phục vụ đắc lực cho mục tiêu xây dựng TP Đà Nẵng giàu

đẹp, an bình, văn minh, hiện đại, TP “5 không”, “3 có”, “4 an”, “TP đáng sống”.

61

- Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của các

cấp chính quyền TP, trong đó các cơ quan chức năng (Thanh tra giao thông, CSGT)

giữ vai trò nòng cốt; phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cấp, các

ngành, cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương (quận, huyện, xã phường) nhằm huy động

sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và nhân dân tích cực tham gia có hiệu quả

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; đề cao vai trò, trách nhiệm và tính chủ

động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức đoàn thể quần chúng nhân

dân trong phòng ngừa tội phạm.

- Tập trung mọi lực lượng, sử dụng tổng hợp các biện pháp, chủ động phòng ngừa,

tích cực đấu tranh ngăn chặn, trong đó lấy phòng ngừa là chính; kết hợp giữa phòng

ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ; kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, làm

rõ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh hành vi vi phạm cũng như hành vi phạm tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, coi trọng công tác phòng ngừa xã hội

từ cộng đồng, gia đình, trường học và ngay từ cơ sở, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật về TTATGT đường bộ nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật khi tham gia

giao thông, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ;

tăng cường công tác thanh tra, tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi

phạm, hành vi phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

* Mục tiêu

Trên cơ sở mục tiêu của Chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn

2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030 và Chiến lược quốc gia đảm bảo TTATGT

đường bộ… giai đoạn 2021 – 2030, cũng như các văn bản chỉ đạo của Đảng bộ, Chính

quyền TP Đà Nẵng có thể xác định mục tiêu phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ từ nay đến năm 2025, định hướng đến năm

2030 như sau:

- Mục tiêu tổng quát: Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức, trách

nhiệm của các sở, ban ngành, các tầng lớp nhân dân của TP tôn trọng, chấp hành

nghiêm chỉnh pháp luật giao thông đường bộ; hàng năm giảm từ 5-10% số người chết

và bị thương do tai nạn giao thông đường bộ một cách bền vững, tiến tới xây dựng một

xã hội an ninh, an toàn, trật tự, văn minh và thân thiện; người tham gia giao thông có

62

kiến thức, kỹ năng, ý thức chấp hành pháp luật về TTATGT đường bộ, hình thành văn

hóa giao thông an toàn.

- Mục tiêu cụ thể:

+ Xóa bỏ kịp thời các điểm đen, điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông trên hệ thống

đường bộ; giảm ùn tắc giao thông trên các tuyến đường trọng điểm, các đầu mối giao

thông chính; loại bỏ 100% xe cơ giới hết niên hạn sử dụng; xe tự chế ba, bốn bánh

không được tham gia giao thông. Từng bước đẩy lùi tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ và vi phạm TTATGT, trước mắt kéo giảm 03 tiêu chí về tai nạn

giao thông; Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm

TTATGT cũng như công tác điều tra, truy tố, xét xử tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra

oan sai nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội, góp phần xây dựng một xã hội an toàn,

ổn định; phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của TP.

3.2.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ

3.2.2.1. Các giải pháp phòng ngừa xã hội

* Thứ nhất, các giải pháp kinh tế xã hội

Đây là một trong những giải pháp hết sức quan trọng, mang tính tổng thể, tác

động đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có tình hình tội phạm nói chung,

tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng. Do vậy,

trong thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân TP Đà Nẵng cần tập

trung triển khai các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời khắc phục, hạn chế mặt trái là nguyên nhân,

điều kiện của tình hình tội phạm như: Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, bất

bình đẳng xã hội, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các tầng lớp xã hội, hệ lụy tiêu cực

của liên kết, hợp tác, hội nhập kinh tế…

Trong tình hình hiện nay, để phát huy tác dụng của biện pháp kinh tế xã hội trong

phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, cần tập

trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề sau:

+ Thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục ảnh hưởng của đại dịch Covid-19,

sớm lấy lại đà tăng trưởng kinh tế - xã hội của TP. Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng

63

trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao

và công nghệ thông tin, gắn với xây dựng đô thị khởi nghiệp sáng tạo, TP thông minh,

tạo nền tảng thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực mới, nhất là kinh tế số, xã hội số

và chính quyền số.

+ Triển khai đồng bộ các giải pháp sớm khôi phục nhịp độ tăng trưởng kinh tế -

xã hội TP sau đại dịch Covid-19, trước hết tập trung các giải pháp phục hồi và phát

triển các ngành dịch vụ phục vụ thị trường trong nước, xuất nhập khẩu, tạo việc làm,

đảm bảo an ninh xã hội, giảm thấp nhất nước tăng trưởng âm những tháng cuối năm

2020; đẩy nhanh triển khai các công trình, dự án trọng điểm nhằm thúc đẩy giải ngân

đầu tư công.

+ Đổi mới mô hình, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng xuất lao động và sức

cạnh tranh của nền kinh tế. Thúc đẩy tăng trưởng và duy trì chuyển dịch cơ cấu kinh tế

đảm bảo phát triển bền vững. Thực hiện đồng bộ có hiệu quả 3 trụ cột, 5 lĩnh vực mũi

nhọn về phát triển kinh tế

+ Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm theo quy

định chung TP đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mở rộng không gian và phát

triển các khu đô thị mới về hướng Tây, Tây Bắc theo hướng đô thị sinh thái, đô thị

xanh. Phát triển khu trung tâm TP theo mô hình đô thị bán hiện đại. Thí điểm tái thiết

đô thị ở một số khu vực quận Hải Châu, Thanh Khê. Đẩy nhanh triển khai các dự án,

công trình trọng điểm, nhất là: xây dựng bến cảng Liên Chiểu (giai đoạn 1); mở rộng

nhà ga hành khách T1 Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng; di chuyển di dời ga đường

sắt Đà Nẵng; nâng cấp mở rộng quốc lộ 14B, 14G, 14D, đường vành đai phía Tây,

nâng cấp cải tạo đường ĐT 601, đường số 2 kết nối từ đường vành đai phía Nam đến

Hòa Thọ Tây, Hòa Nhơn…

* Thứ hai, các biện pháp văn hóa, giáo dục

Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa giáo dục là nền tảng tinh thần; vừa

là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội của TP, Đảng bộ và Chính

quyền TP Đà Nẵng tiếp tục chú trọng đầu tư phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển

kinh tế, chú trọng xây dựng và phát triển toàn diện con người Đà Nẵng làm nền tảng

phát triển bền vững, xây dựng “Thành phố đáng sống”. Tiếp tục nâng cao chất lượng

giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng môi trường văn

64

hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao lành mạnh, đẩy mạnh đầu tư phát triển văn hóa, văn

học nghệ thuật. Xây dựng TP là điểm đến tin cậy, an toàn, thân thiện [8].

Đây là những định hướng chung nhằm xây dựng đời sống văn hóa, hoàn thiện

nhân cách con người Đà Nẵng, qua đó xóa bỏ những yếu tố đóng vai trò là nguyên

nhân, điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Trên cơ sở định hướng chung nêu trên, đối với từng lĩnh vực văn hóa cũng như

giáo dục đào tạo cần có những giải pháp riêng. Cụ thể:

- Về văn hóa: tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó tập trung xây dựng con người, lối sống văn hóa; nâng

cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa; xây dựng đời sống văn hóa và

môi trường văn hóa; nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình, làng, khu tập

thể, khu phố văn hóa, tập trung thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hóa”; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc; phát triển văn học

nghệ thuật; tăng cường, chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế, khu vực nền văn hóa;

hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa…

Đặc biệt cần quan tâm, kiên trì xây dựng văn hóa giao thông an toàn, thân thiện

với môi trường cho mọi tầng lớp nhân dân.

- Về giáo dục: Cùng với việc chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa, để phòng

ngừa và đấu tranh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cần triển

khai đồng bộ các giải pháp sau đây:

+ TP cần có chính sách đầu tư lâu dài, thỏa đáng cho giáo dục, đào tạo;

+ Tiếp tục đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo theo

hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới,

đồng thời thích ứng với nhu cầu nguồn nhân lực của TP đối với các lĩnh vực kinh tế xã

hội, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao

Nội dung giáo dục phải toàn diện về mọi mặt, từ giáo dục tri thức đến giáo dục

đạo đức, lối sống, nhân cách con người,chú trọng giáo dục kiến thức bảo đảm

TTATGT; thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn; giáo

dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội;

+ Phát triển, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý

giáo dục, đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu

65

cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Đổi mới chương

trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, giảng viên, chú trọng rèn luyện, giữ gìn và nâng

cao phẩm chất đạo đức nhà giáo

Tiếp tục đổi mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục, tăng cường áp dụng

công nghệ thông tin vào giáo dục, nhất là trong bối cảnh đại dịch covid-19 và cuộc

cách mạng 4.0.

+ Đổi mới về cơ bản tư duy và phương thức quản lý giáo dục theo hướng nâng

cao hiệu lực quản lý nhà nước, phân cấp mạnh mẽ nhằm phát huy tính chủ động và tự

chịu trách nhiệm của TP, của các cơ sở giáo dục, giải quyết một cách có hiệu quả các

vấn đề bức xúc, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, đào tạo

+ Tiếp tục phát triển mạng lưới trường, lớp cơ sở giáo dục của TP theo hướng đa

dạng hóa, chuẩn hóa, liên thông, liên kết gừ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp,

đến giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các

trường chuẩn quốc gia, đặc biệt là xây dựng trường chuyên Lê Quý Đôn trở thành

trường trung học phổ thông chất lượng cao trọng điểm quốc gia; hoàn thành xây dựng

làng đại học Đà Nẵng theo quy hoạch.

+ Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục

+ Đối với giao dục về TTATGT cần phải xây dựng thành một môn học chính

thống và được tổ chức giảng dạy xuyên suốt qua các bậc học từ mẫu giáo đến đại học.

Chương trình nội dung, hình thức giáo dục phải phù hợp với từng loại đối tượng, từng

bậc học. Đơn cử, ở lứa tuổi mầm non, chỉ cần phổ biến giáo dục những vấn đề chung

nhất là TTATGT đường bộ như: về phương tiện giao thông, tín hiệu giao thông, các kĩ

năng đi bộ, qua đường… đồng thời phải gắn với các hoạt động vui chơi, giải trí của trẻ

nhỏ. Ngược lại, ở bậc đại học nội dung giảng dạy nên đi sâu vào quy định của pháp

luật về bảo đảm TTATGT, tình hình tai nạn giao thông nhất là các tình huống thường

xảy ra tai nạn và cách phòng tránh; trách nhiệm của bản thân trong công tác bảo đảm

TTATGT đường bộ…

* Thứ ba, các biện pháp pháp luật

Trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ nói riêng, các biện pháp pháp luật có vai trò hết sức

quan trọng, bởi một trong nhưng chức năng, nhiệm vụ của pháp luật là đấu tranh

66

phòng chống tội phạm. Do vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong

phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì Nhà

nước, cũng như các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương cũng như địa phương (trong

đó có TP Đà Nẵng) cần thực hiện tốt các vấn đề sau:

Một là, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa đổi bổ sung Điều 260 BLHS năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ.

Nghiên cứu quy định tại Điều 260 BLHS hiện hành chúng tôi thấy, có một số sửa

đổi, bổ sung mới so với Điều 202 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), đó là:

thay đổi tên điều luật từ “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ” thành “tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Việc sửa

đổi này dẫn tới có sự thay đổi về chủ thể của tội phạm này: từ “người điều khiển giao

thông đường bộ” sang “người tham gia giao thông đường bộ”. Người tham gia giao

thông đường bộ gồm: người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ;

người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ. Người điều khiển

phương tiện gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia

giao thông đường bộ (khoản 22, 23 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008).

Thực tiễn áp dụng Điều 260 BLHS năm 2015 để xử lý hình sự thì sẽ không đảm bảo

nguyên tắc công bằng, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự. Vì vậy, theo tác giả,

cần tách Điều 260 BLHS năm 2015 thành 2 điều luật riêng quy định hai tội với chế tài

có mức độ nghiêm khắc khác nhau, đó là: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương

tiện giao thông đường bộ và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Cùng với việc sửa đổi này, các cơ quan có thẩm quyền cần sửa sớm ban hành văn

bản chi tiết hoặc hướng dẫn một số quy định của BLHS hiện hành có liên quan đến tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, trước hết là hướng dẫn áp dụng

quy định tại khoản 5 Điều 260 về trường hợp “vi phạm quy định về an toàn giao thông

đường bộ mà có khả năng thực tiễn dẫn đến hiệu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức

khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời”.

Hai là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật giao thông đường bộ năm 2008

Luật giao thông đường bộ đã được Quốc hội thông qua năm 2008 và có hiệu lực

thi hành từ ngày 01/01/2019. Đến nay, sau 11 năm áp dụng thấy rằng nhiều quy định

67

của luật này đã bộc lộ bất cập, hạn chế làm cho công tác bảo đảm TTATGT đường bộ

gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Đặc biệt là Luật giao thông đường bộ năm 2008

điều chỉnh hai vấn đề lớn là: quản lý nhà nước về giao thông đường bộ và quản lý nhà

nước về bảo đảm TTATGT đường bộ, do hai cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm: Cơ

quan thuộc ngành giao thông vận tải và cơ quan thuộc ngành Công an. Với phạm vi

điều chỉnh khá rộng như vậy, rất rễ dẫn tới tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm

vụ của hai cơ quan trên; đồng thời cũng có thể điều chỉnh được đầy đủ những vấn đề

thuộc từng lĩnh vực vốn có sự khác nhau nhất định. Do vậy, chúng tôi nhất trí với quan

điểm, trong lần sửa đổi này, cần ban hành vai luật riêng, điều chỉnh hai lĩnh vực khác

nhau, đó là: Luật giao thông đường bộ điều chỉnh những vấn đề kết cấu hạ tầng giao

thông đường bộ, phương tiện và người tham gia giao thông đường bộ, vận tải đường

bộ và quản lý nhà nước về giao thông đường bộ; Luật bảo đảm TTATGT đường bộ

điều chỉnh những vấn đề hệ thống báo hiệu đường bộ về hệ thống báo hiệu đường bộ,

quy tắc giao thông đường bộ, tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn

tắc giao thông đường bộ, giải quyết tai nạn giao thông đường bộ, quản lý nhà nước về

TTATGT đường bộ.

Tuy nhiên, hiện nay cũng có ý kiến không nên tách luật giao thông đường bộ

thành hai luật với những lý do: 1) khi tách thành hai luật sẽ phát sinh nhiều vấn đề

như: thiếu sự đồng bộ, nhất quán khi xây dựng các văn bản dưới luật; 2) Phá dỡ kết

cấu của luật giao thông đường bộ gồm 4 chế định: kết cấu hạ tầng; phương tiện giao

thông đường bộ, người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và người tham gia

giao thông đường bộ; quy tắc giao thông đường bộ. Vấn đề này cần tiếp tục nghiên

cứu để lựa chọn phương án hoàn thiện pháp luật về giao thông đường bộ cũng như về

bảo đảm TTATGT đường bộ phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở nước ta.

Ba là, trong quá trình áp dụng pháp luật xử lý hành chính, xử lý hình sự là những

hành vi vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ phải đảm bảo công khai,

minh bạch, công bằng, đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt, các hoạt động điều tra,

truy tố, xét xử phải được tiến hành kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh mọi hành

vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm đồng thời không làm oan người

vô tội.

Bốn là, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

68

về giao thông đường bộ. Luật phòng chống tác hại của rượu bia, tổ chức vận động cán

bộ, đảng viên, công chức nêu gương cùng toàn dân thực hiện chủ trương “đã uống

rượu bia, không lái xe”. Nội dung tuyên truyền, phổ biến giáo dục phải đa dạng, phong

phú. Không chỉ quy định của pháp luật mà cả kĩ năng tham gia giao thông đường bộ, ý

thức tuân thủ pháp luật khi tham gia giao thông… Đồng thời, phải đa dạng hóa hình

thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật như: thông qua chương trình phát

thanh truyền hình của TP, trên loa phát thanh tại các nút giao thông. Đài FM giao

thông, truyền hình an ninh TP, an ninh ti vi; sử dụng đội ngũ tuyên truyền viên, báo

cáo viên; thông qua cuộc thi tìm hiểu pháp luật về giao thông, tủ sách pháp luật, thư

viện pháp luật, pano, áp phích ở những nơi công cộng … Đặc biệt, cần tăng cường

việc sử dụng mạng internet và các trang mạng xã hội (zalo, facebook) để tuyên truyền,

giáo dục, phổ biến pháp luật một cách sâu rộng trong mọi tầng lớp dân cư: Duy trì

phối hợp với các sở giao thông vận tải, sở giáo dục đào tạo tổ chức tuyên truyền giáo

dục pháp luật, đạo đức người lái xe đến các đối tượng học viên các trung tâm đào tạo

học sinh, sinh viên các trường.

3.2.2.2. Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ (chuyên biệt)

Trong chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2016-2025, định

hướng đến năm 2030 có nhấn mạnh: “tập trung mọi lực lượng, sử dụng tổng hợp các

biện pháp, chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh ngăn chặn, trong đó lấy phòng

ngừa là chính; kết hợp giữa phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ…” [27]. Do

vậy, ngoài việc tăng cường các biện pháp phòng ngừa xã hội như đã phân tích ở trên,

cần chú trọng triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ (hay còn gọi là phòng

ngừa chuyên biệt). Đây là những biện pháp mang tính chuyên môn, nghiệp vụ của các

cơ quan chức năng (CSGT, Thanh tra giao thông) nhằm ngăn chặn không để tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ xảy ra, thực hiện đến cùng và tiếp tục

tái phạm. Những biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ mà các cơ quan chức năng của TP

Đà Nẵng cần tập trung triển khai thực hiện trong thời gian tới chủ yếu là:

* Thứ nhất, xiết chặt và nâng cao chất lượng quản lý phương tiện giao thông

đường bộ và người điều khiển phương tiện

Thực tế cho thấy, nếu chỉ triển khai các giải pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật về TTATGT và hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ …để

69

phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì chưa

đủ, bởi nhiều vụ tai nạn giao thông đường bộ nghiêm trọng xảy ra là do phương tiện

giao thông không đảm bảo chất lượng cũng như tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định.

Trong khi đó, trên địa bàn TP, tình trạng phương tiện hết niên hạn sử dụng xe tự chế

không đảm bảo an toàn kĩ thuật…vẫn tham gia giao thông. Do vậy, cần tiếp tục tăng

cường quản lý chất lượng phương tiện giao thông đường bộ, theo đó:

+ Hàng năm phải tiến hành tổng kiểm tra về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi

trường đối với tất cả phương tiện cơ giới giao thông đường bộ. Việc tổng kiểm tra

được tiến hành liên tục trong một khoảng thời gian nhất định, sáu đó có thể kiểm tra

định kỳ hoặc đột xuất

+ Kiên quyết đình chỉ tất cả các phương tiện giao thông không đảm bảo các tiêu

chuẩn an toàn kỹ thuật theo quy định hiện hành, buộc chủ phương tiện phải thay thế,

sửa chữa, bổ sung các thiết bị an toàn kỹ thuật thì mới cấp giấy phép an toàn kỹ thuật.

Thời hạn cấp giấy phép lưu hành an toàn đối với từng phương tiện phải dựa trên cơ sở,

đặc điểm, tính năng, tác dụng của phương tiện và chất lượng hiện tại của phương tiện.

+ Chú trọng đầu tư trang thiết bị kĩ thuật hiện đại cho các trung tâm kiểm định

phương tiện nhằm bảo đảm các hạng mục kiểm tra đều được tiến hành bằng thiết bị kỹ

thuật, loại bỏ các khâu, các công đoạn kiểm tra bàng cảm quan, kinh nghiệm của cán

bộ kiểm tra. Thêm vào đó, các cơ quan có chức năng thẩm định cần đẩy mạnh công tác

cải cách hành chính nhằm tránh gây phiền hà cho chủ phương tiện; có cơ chế giám sát

hoạt động tác nghiệp của đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ kiểm định nhằm phát hiện các

sai phạm, biểu hiện tiêu cực để chấn chỉnh, xử lý.

+ Đồng bộ cơ sở giữ liệu quản lý phương tiện giao thông giữa lực lượng CSGT

và Sở giao thông vận tải TP để phát huy hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng chuyên

trách trong công tác xử lý vi phạm về TTATGT đường bộ, đồng thời đơn giản hóa thủ

tục hành chính cho công tác xử lý vi phạm hành chính.

+ Thường xuyên kiểm tra, giám sát xử lý nghiêm các cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa

xe ô tô, mô tô có hành vi làm thay đổi hình dáng kích thước, đặc tính của xe, tiếp tay

cho hoạt động gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép.

+ Đối với cơ sở đào tạo lái xe cần thực hiện nghiêm túc các quy định về đào tạo

lái xe, nhất là các phương tiện, thiết bị đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; chú

70

trọng đào tạo về kỹ năng tham gia giao thông; về bảo dưỡng phương tiện, kỹ năng vận

hành phương tiện, sơ cấp cứu tai nạn giao thông, đạo đức lái xe, văn hóa giao thông;

nghiệp vụ vận tải…

Tăng cường quản lý giám sát các hoạt động đào tạo lái xe, kịp thời chấn chỉnh và

xử lý vi phạm về đào tạo cấp bằng lái xe. Chuẩn hóa trình độ năng lực chuyên môn

nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên ứng dụng phần mềm theo dõi công tác đào tạo, sát

hạch cấp giấy phép lái xe; đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án nâng cao chất lượng đào

tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; xử lý nghiêm, đúng quy định, kiên quyết đình chỉ

đào tạo, rút giấy phép đào tạo lái xe đối với các cơ sở đào tạo không có đầy đủ phương

tiện phục vụ đào tạo, những cơ sở có chất lượng đào tạo kém.

Thu hồi tạm thời hoặc thu hồi vĩnh viễn giấy phép lái xe do các cơ sở đào tạo lái

xe không đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định hoặc bị phát hiện có tiêu cực, cắt giảm

chương trình đào tạo. Thu hồi không thời hạn giấy phép lái xe của những người lái xe

nghiện ma túy.

Kiên quyết xử lý nghiêm khắc các hành vi tiêu cực trong lĩnh vực sát hạch, cấp,

đổi giấy phép lái xe.

* Thứ hai, tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh vận

tải đường bộ

Với sự gia tăng của các phương tiện giao thông vận tải cũng như các doanh nghiệp

kinh doanh dịch vụ vận tải trên địa bàn TP đòi hỏi phải tăng cường quản lý đối với loại

hình kinh doanh, dịch vụ đặc biệt này. Mặt khác, trong số những yếu tố đóng vai trò là

nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ là những hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý kinh doanh dịch vụ vận tải.

Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót này, cần tập trung làm tốt một số việc sau đây:

+ Đổi mới nội dung, phương thức quản lý dịch vụ kinh doanh vận tải nhằm nâng

cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Chú trọng thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh vận

tải của các doanh nghiệp, hộ cá thể trên địa bàn TP, nhất là vào dịp nhu cầu vận tải

tăng cao. Xử lý nghiêm những trường hợp kinh doanh vận tải không có giấy phép,

phương tiện vận tải không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kĩ thuật, chở quá trọng tải, hành

khách… Hoàn thiện hệ thống trạm cân tự động theo đề án quy hoạch.

+ Quản lý chặt chẽ các điều kiện kinh doanh vận tải hành khách, nhất là các điều

71

kiện bảo đảm an toàn cho hành khách, điều kiện về phòng dịch Covid-19; điều kiện về

đội ngũ lái xe (nhất là thời gian làm việc, tình trạng sức khỏe, tiêu chuẩn, điều kiện lái

xe khách…)

+ Quy định liên tới chịu trách nhiệm của chủ phương tiện và chủ hàng khi để xảy

ra vi phạm về trọng tải hàng hóa, hành khách…

+ Thứ ba, tăng cường hoạt động tuần tra, kiểm sát, chủ động phát hiện, ngăn

chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh theo pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật giao

thông đường bộ

Hoạt động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm TTATGT đường bộ giữ vị trí hết

sức quan trọng đối với công tác phòng ngừa tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ. Mặc dù vậy, trong thời gian qua, như đã phân tích ở trên, hoạt động

tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định. Do vậy,

để khắc phục những hạn chế, tồn tại này nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, thời gian tới cần làm tốt những việc

sau đây:

+ Hàng năm, hàng tháng cần xây dựng các kế hoạch tuần tra, kiểm soát và xử lý

vi phạm ở các điểm, tuyến, địa bàn trọng điểm, trú trọng các tuyến, địa bàn thường

xuyên xảy ra tai nạn giao thông.

+ Mở các đợt cao điểm tuần tra, kiểm soát, xử lý theo chuyên đề, nhất là chuyên

đề nồng độ cồn trong máu và khí thở của lái xe; chuyên đề phương tiện tham gia giao

thông đã hết hạn sử dụng, xe tự chế; chuyên đề đua xe trái phép…

+ Phát hiện kịp thời xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quy định về bảo

đảm TTATGT đường bộ như: chạy quá tốc độ, đánh võng lạng lách, chở quá tải, quá

số hành khách theo quy định; người điều khiển không có giấy phép lái xe, có nồng độ

cồn trong khí thở quá mức quy định, vi phạm về phòng dịch Covid-19. Thường xuyên

kiểm tra, xử lý tình trạng lấn chiếm hành lang, lòng đường để họp chợ, buôn bán, kinh

doanh, nhất là không để tình trạng tái lấn chiếm xảy ra.

Đẩy mạnh việc phát hiện và xử lý vi phạm TTATGT đường bộ bằng các phương

tiện kỹ thuật công nghệ cao, tiếp tục nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm TTATGT đường

bộ qua hệ thống camera giám sát giao thông

Việc xử lý vi phạm cần quán triệt phương trâm: “lấy giáo dục là chính”, nghiêm

72

cấm hành vi tiêu cực, thái độ cửa quyền trong việc kiểm tra, xử lý vi phạm, tạo dư luận

không tốt, ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng chức năng và hiệu quả công tác.

+ Thiết lập mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng CSGT với Thanh tra

giao thông cũng như những lực lượng khác trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm

soát và xử lý vi phạm về TTATGT đường bộ nhằm phát huy lợi thế của từng lực lượng,

tiết kiệm nguồn nhân lực, tận dụng trang thiết bị trong quá trình thực thi nhiệm vụ

+ Tăng cường hơn nữa đầu tư trang thiết bị hiện đại tiên tiến phục vụ cho hoạt

động kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, xử lý vi phạm.

* Thứ tư, nâng cao chất lượng điều tra, xử lý tai nạn giao thông đường bộ trên

địa bàn TP

Kết quả điều tra xử lý các vụ tai nạn giao thông có tác dụng làm rõ không chỉ

nguyên nhân, điều kiện của vụ tai nạn mà còn nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Do vậy, để tăng cường phòng

ngừa tình hình các tội xâm phạm TTATGT đường bộ nói chung, tình hình tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng thì cần nâng cao hơn nữa chất

lượng điều tra, xử lý tai nạn giao thông xảy ra trên địa bàn TP, trong đó cần lưu ý một

số vấn đề sau:

+ Cần khắc phục vấn đề hành chính hóa, dân sự hóa trong việc xử lý các vụ tai

nạn giao thông đường bộ có dấu hiệu tội phạm, dẫn tới bỏ lọt tội phạm. Vấn đề này đã

và đang xảy ra ở nhiều địa phương, trong đó có TP Đà Nẵng, ảnh hưởng đến tính

nghiêm minh của pháp luật, không phản ánh đúng tính chất nghiêm trọng của hành vi

vi phạm TTATGT đường bộ.

+ Tổ chức tốt việc khám nghiệm hiện trường, thu thập dấu vết trong điều tra các

vụ tai nạn giao thông đường bộ. Khi tiếp nhận tin báo phải khẩn trương xác minh phân

loại, đánh giá để có hướng giải quyết, bố trí lực lượng tiếp cận hiện trường nhanh nhất,

thực hiện các biện pháp khẩn cấp bảo vệ hiện trường vụ tai nạn. Chuẩn bị đầy đủ các

phương tiện, thiết bị cần thiết phục vụ khám nghiệm. Khi khám nghiệm, cần chú ý thu

thập các dấu vết, vật chứng cứ có liên quan, bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ

đã thu thập được. Cùng với việc khám nghiệm hiện trường, phải khẩn trương lấy lời

khai ban đầu của nhân chứng, người liên quan đến vụ tai nạn để nắm được sơ bộ diễn

biến vụ tai nạn.

73

+ Khẩn trương khám phương tiện và xem xét dấu vết trên thân thể nạn nhân của

vụ tai nạn để thu thập, ghi nhận các dấu vết va chạm trên phương tiện, trên nạn nhân,

từ đó đưa ra nhận định về diễn biến vụ tai nạn

+ Nhanh chóng lấy lời khai của người gây tai nạn, nạn nhân, nhân chứng và

những người có liên quan để có cơ sở đưa ra kết luận về vụ tai nạn.

+ Hoàn thiện hồ sơ đề nghị xử lý. Trường hợp đủ căn cứ để xử lý hình sự thì phải

nhanh chóng tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án đảm bảo đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

+ Đối với lực lượng CSGT, cần tiếp tục nâng cao chất lượng công tác nghiệp vụ

cơ bản đáp ứng yêu cầu bảo đảm TTATGT đường bộ và phòng ngừa tình hình tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân có vị trí quan trọng

trong bảo đảm TTATGT cũng như phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn TP.

Thông qua công tác nắm tình hình, xác định tuyến, địa bàn trọng điểm; những sự việc,

hiện tượng, đối tượng có liên quan, trên cơ sở đó đề ra các chủ trương, kế hoạch, biện

pháp, phòng ngừa hiệu quả. Do vậy lực lượng CSGT Công an TP, căn cứ vào chức

năng, nhiệm vụ cần tập trung làm tốt công tác điều tra cơ bản tuyến, địa bàn trọng

điểm, phức tạp về TTATGT, tình hình tội phạm, đối tượng, thủ đoạn phạm tội…để

chủ động có biện pháp giải quyết.

Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Công an, Công an TP Đà Nẵng, cũng như tình hình

thực tiễn tại địa bàn TP, để nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác nghiệp vụ cơ bản,

cần tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau:

+ Xây dựng kế hoạch thực hiện công tác điều tra cơ bản trên các tuyến, địa bàn

giao thông của TP, xác định tuyến trọng điểm, địa bàn phức tạp về TTATGT đường bộ

để có biện pháp bảo đảm TTATGT đường bộ trên địa bàn, chủ động đấu tranh ngăn

chặn những hành vi vi phạm TTATGTđường bộ

+ Mở rộng lĩnh vực điều tra cơ bản phục vụ công tác bảo đảm TTATGT đường

bộ và phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

như: lĩnh vực quản lý phương tiện, đào tạo lái xe, đăng kiểm phương tiện, kinh doanh

vận tải đường bộ… Đây là những lĩnh vực cần nhiều yếu tố gây bất ổn cho TTATGT

đường bộ.

74

Về đối tượng cần tập trung điều tra cơ bản đối với các hệ loại đối tượng như:

học sinh, sinh viên, thanh, thiếu niên, đội ngũ lái xe chuyên nghiệp, người dân sống

dọc theo các tuyến giao thông

+ Xây dựng bổ sung các cơ sở bí mật, chú ý xây dựng những cá nhân là người

am hiểu pháp luật có uy tín trong nhân dân, có ý thức tuân thủ các quy tắc giao thông

đường bộ…

+ Các thông tin, tài liệu thu thập được từ công tác nghiệp vụ cơ bản cần được

chuyển hóa và sử dụng theo đúng quy định, chú ý không để lộ nguồn trinh sát bí mật.

3.2.2.3. Các biện pháp khác

Ngoài những biện pháp phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ nêu trên,

để đảm bảo hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ, cần triển khai một số biện pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức và vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,

chính quyền TP về công tác phòng ngừa tình hình vi phạm cũng như tội phạm xâm

phạm TTATGT đường bộ

Một trong những nội dung quan trọng đối với công tác phòng ngừa tình hình vi

phạm và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ (trong đó có tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ) là tăng cường nhận thức về mục đích, ý nghia, nguyên

tắc nội dung, biện pháp phòng ngừa tội phạm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các

sở, ban, ngành và toàn thể nhân dân TP Đà Nẵng.

Trước hết, các cấp ủy Đảng, chính quyền… TP cần nhận thức được tính chất

mức độ nguy hiểm, nhất là hậu quả tác hại do vi phạm TTATGT đường bộ gây ra cho

xã hội; sự cần thiết phải phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng này để TP Đà Nẵng trở

thành một điểm đến bình yên, an toàn, thân thiện, TP “đáng sống”.

Muốn vậy, cần phải phác họa được "bức tranh toàn cảnh" về tình hình vi phạm

và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ trên địa bàn TP; xác định được nguyên

nhân, điều kiện của tình hình đó. Đánh giá được những kết quả đạt được, cũng như

những hạn chế, tồn tại của công tác phòng ngừa đã được triển khai trên địa bàn TP.

Đặc biệt là phải dự báo được những yếu tố tác động đến công tác phòng ngừa vi phạm

TTATGT đường bộ trong tương lai (từ nay đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030). Để từ

đó xây dựng chương trình, kế hoạch, chủ động chuẩn bị lực lượng, phương tiện, dự

75

kiến các biện pháp cần triển khai trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tình

hình vi phạm và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ phục vụ cho sự phát triển

kinh tế - xã hội của TP.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về sự cần thiết mục đích, ý nghĩa …của công

tác phòng ngừa tình hình vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT

đường bộ, Đảng bộ và chính quyền TP phải chủ động xây dựng chương trình, kế

hoạch, đề án, ban hành các chỉ thị, nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo đảm

TTATGT, phòng ngừa vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực này.

Trước mắt, cần tiếp tục quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức hiện có hiệu

quả các kế hoạch, chương trình công tác, văn bản chỉ đạo của Bộ Công an, Cục CSGT,

Chủ tịch UBND TP, Ban An toàn giao thông TP và Giám đốc Công an TP, trọng tâm

là Kế hoạch số 99-KH/TW ngày 07/01/2019 của Thành ủy Đà Nẵng về thực hiện Kết

luận số 45-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện

có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt,

đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông; Kế hoạch số 80/KH-CATP-CSGT-

TM ngày 24/4/2020 về phòng chống đua xe trái phép trên địa bàn TP.

Các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương (nhất là Công an TP, Sở giao

thông vận tải, Sở xây dựng, Ban An toàn giao thông TP…) phải làm tốt vai trò, trách

nhiệm trong lĩnh vực quản lý được giao. Thêm vào đó cần phát huy vai trò của Mặt

trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng và toàn thể nhân dân trong cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm

Đặc biệt là cần đẩy mạnh và phát huy hơn nữa “Phong trào toàn dân bảo vệ an

ninh Tổ quốc và phòng chống tội phạm”; các cuộc vận động “văn hóa giao thông với

bình yên sông nước” “năm an toàn giao thông” nhất là cuộc vận động “đã uống rượu,

bia, không lái xe”…

Thêm vào đó cần tăng cường công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, bồi dưỡng

đào tạo nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ TTATGT

đường bộ, kết hợp với việc kiểm tra, đôn đốc, chấn chỉnh cán bộ, chiến sĩ trong hoạt

động thanh tra tuần tra, kiểm soát, xử lí vi phạm nhằm nang cao hơn nữa vai trò, trách

nhiệm, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động trong toàn lực lượng.

76

Cán bộ, chiến sĩ, công chức khi đi thi hành nhiệm vụ, công vụ phải chấp hành nghiêm

chỉnh quy trình, chế độ công tác, tích cực học tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ, có ý

thức giữ gìn và xây dựng hình ảnh người CSGT, người thanh tra giao thông ngày càng

đẹp hơn trong lòng nhân dân.

Hai là, tăng cường đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, tiến

hành tổ chức giao thông khoa học và hợp lý

Phát triển nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ là một trong những

nhiệm vụ quan trọng, góp phần bảo đảm TTATGT tạo điều kiện cho người và phương

tiện tham gia giao thông được thuận lợi và an toàn. Do vậy, cũng có tác dụng không

nhỏ đối với công tác phòng ngừa vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực bảo đảm

TTATGT đường bộ. Do vậy, TP cần tăng cường đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng giao

thông đường bộ theo hướng:

+ Tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể dài hạn về phát triển hệ thống giao

thông đường bộ của TP đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Trong quy hoạch cần

lấy chiến lược phát triển lâu dài, toàn diện, bền vững của TP làm trung tâm; phát triển

hệ thống giao thông đường bộ phải gắn với quy hoạch tổng thể của TP như: quy hoạch

khu dân cư, khu công nghiệp, khu du lịch, vui chơi, giải trí…một cách hợp lí. Ưu tiên

phát triển các phương tiện giao thông công cộng như: xe buýt, hạn chế phương tiện cá

nhân, nhất là xe mô tô, có như vậy mới có thể làm giảm lưu lượng phương tiện tham

gia giao thông, để tránh hiện tượng ùn tắc và tai nạn giao thông. Hệ thống mạng lưới

giao thông công cộng cần phải được tăng cường cả về mật độ, tuyến phục vụ và số

phương tiện hoạt động trong ngày

+ Tiến hành nâng cấp, cải tạo xây dựng hệ thống các tuyến đường giao thông

chính của TP, đảm bảo các thông số an toàn kĩ thuật về vỉa hè, mặt đường phù hợp với

các loại phương tiện tham gia giao thông, tránh hiện tượng đào bới lòng đường, vỉa hè

nhiều lần.

Đi đôi với việc cải tạo, cần thiết lập hệ thống quản lý, giám sát việc cải tạo,

nâng cấp đường. Đặc biệt là phải kiên quyết giải phóng lòng đường, vỉa hè, loại trừ

các vật cả, vật che khuất tầm nhìn trên các tuyến đường, nhất là ở ngã ba, ngã tư. Rà

soát, phân loại các điểm giao cắt giữa đường bộ với đường sắt để thiết lập đường

ngang có phòng vệ phù hợp với quy định của pháp luật. Tiếp tục bổ sung đầy đủ các

77

công trình phụ trợ phòng ngừa và hạn chế thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra tại các

khu vực đèo, dốc.

+ Lắp đặt đầy đủ và thường xuyên kiểm tra hệ thống báo hiệu, tín hiệu, chỉ dẫn,

đèn chiếu sáng ban đêm trên các tuyến đường của TP bảo đảm đủ độ ánh sáng.

+ Áp dụng công nghệ tiên tiến trong tổ chức, phân làn, phân tuyến giao thông

nhất là tại các nút giao thông, các điểm giao cắt. Xây dựng các trung tâm điều khiển

giao thông với hệ thống điều khiển thông minh ITS, trước mắt ưu tiên lắp đặt tại các

tuyến quốc lộ đi qua khu đông dân cư, khu vực nội thành, nội thị…

Kết luận chương 3

Trên cơ sở dự báo những yếu tố tác động đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ như: tình hình kinh tế xã hội, chính trị pháp

lý, tình hình vi phạm và tội phạm xâm phạm TTATGT đường bộ; đồng thời căn cứ

vào những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn phòng ngừa tại TP Đà Nẵng trong nhưng

năm qua, Luận văn đã đưa ra và phân tích những quan điểm chỉ đạo, xác định mục tiêu

phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong thời

gian tới

Để đạt được mục tiêu phòng ngừa đặt ra, luận văn đã đề xuất hai hệ thống giải

pháp gồm: các giải pháp phòng ngừa xã hội, trong đó tập trung vào các giải pháp như:

1) Giải pháp kinh tế xã hộ, văn hóa giáo dục, chính sách pháp luật; 2) giải pháp nghiệp

vụ mà chủ yếu là các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo

đảm TTATGT đường bộ; cuối cùng là các giải pháp khác như: nâng cao nhận thức, vai

trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền TP, tổ chức lực lượng, phương

tiện phòng ngừa; hoàn thiện nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ… Những

giải pháp này được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn của TP Đà Nẵng, do vậy

không chỉ đảm bảo tính phù hợp mà còn có tính khả thi cao.

78

KẾT LUẬN

Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có ý

nghĩa rất lớn đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, hạn chế tai nạn giao thông

gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân.

Để có nhận thức thống nhất về vấn đề phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ, cần phân tích luận giải những vấn đề lý luận về

phòng ngừa tình hình tội phạm này trên các bình diện: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa,

nội dung, biện pháp, nguyên tắc, chủ thể phòng ngừa. Có làm rõ được những vấn đề

này thì mới có cơ sở lý luận để đánh giá thực tiễn phòng ngừa, nhất là thiết lập những

biện pháp phòng ngừa có cơ sở khoa học.

Ngoài những vấn đề lý luận, cần thiết phải đánh giá toàn diện thực tiễn phòng

ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở một địa bàn cụ

thể, đặc biệt là phải rút ra được những kết quả, cũng như những tồn tại, hạn chế của

các giải pháp phòng ngừa đã áp dụng. Bởi đây là cơ sở thực hiện để xây dựng các giải

pháp phòng ngừa phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng địa bàn nhất định, trong đó

có TP Đà Nẵng trong thời gian tới.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nhận diện, đồng thời dựa trên kết quả dự báo

những yếu tố tác động đến hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông ở địa bàn TP Đà Nẵng thấy rằng, trong thời gian tới cần tăng

cường áp dụng không chỉ các biện pháp phòng ngừa xã hội (biện pháp kinh tế- xã hội;

văn hóa- giáo dục, pháp luật....) mà còn các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ. Có như

vậy, mới có thể ngăn chặn, từng bước loại trừ được tội phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ ra khỏi đời sống xã hội, làm cho TP Đà Nẵng thực sự là điểm đến

tin cậy, an bình, thân thiện, văn minh và hiện đại, "thành phố đáng sống".

Có được những kết quả nghiên cứu bản luận văn này là do sự nỗ lực của bản

thân trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy, cô

giáo được phân công, sự giúp đỡ của Học viện Khoa học xã hội, cũng như các cơ

quan, tổ chức hữu quan...

Tuy nhiên, do điều kiện, khả năng nghiên cứu của học viên còn hạn chế, chắc

chắn bản luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Học viên rất mong

được sự góp ý của các thầy, cô giáo, các nhà lý luận và thực tiễn để học viên chỉnh

sửa, hoàn thiện luận văn có giá trị khoa học cao hơn./.

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thế Anh (2013), Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều

kiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng, Luận văn thạc

sĩ, Học viện KHXH;

2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2012) ngày 4/9/2012 về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác đảm bảo TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy

và nội địa;

3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2019), Kết luận số 45-KL/TW ngày 01/2/2019 về

tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo TTATGT

đường bộ, đường sắt, đường thủy và nội địa;

4. Bộ Công an- Bộ Quốc phòng- Bộ Tư pháp- TANDTC- VKSNDTC (2013),

Thông tư liên tịch số 09 ngày 28/8/2013 Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

Chương XIX của BLHS về các tội xâm phạm TTATGT;

5. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong

tình hình mới, Hà Nội;

6. Nguyễn Văn Cừ (2007), Một số vấn đề về phòng ngừa cá biệt trong hoạt động

phòng ngừa tội pham, Tạp chí khoa học và giáo dục TTXH, số 2. tr26-29.

7. Lê Thị Dung (2016), Đấu tranh phòng, chống tình hình tội vi phạm quy định về

điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng,

Luận văn tiến sĩ, Học viện KHXH;

8. Đảng bộ TP Đà Nẵng (2020), Văn kiện Đại hội đại biểu TP Đà Nẵng, nhiệm kỳ

XXII, Đà Nẵng;

9. Hồ Ngọc Hảo (2020), Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng: tình hình, nguyên nhân và biện pháp

phòng ngừa, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;

10. Nguyễn Văn Hạnh (1996), Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận

tải và đấu tranh phòng, chống vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận

tải trong quân đội, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật, Hà Nội;

11. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học, Tạp chí

Luật học, tr25-32;

12. Nguyễn Ngọc Hòa (2014), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao

thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà

Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;

13. Nguyễn Thị Bích Hồng (2016), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện

giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam- từ thực tiễn tỉnh Ninh

Bình, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;

14. Lê Thị Hồng (213), Tình hình tội phạm ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, Luận văn

thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;

15. Nguyễn Mạnh Kháng (2002), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học Việt

Nam- Một số lý luận và thực tiễn;

16. Nguyễn Văn Lan (2017), Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong

phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm theo quy định tại Điều 4 BLHS năm 2015

sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Kiểm sát số 20 tr45-49;

17. Nguyễn Văn Nam (2019), Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của Tòa án quân sự ở Việt Nam,

Luân án tiến sĩ, Học viện KHXH;

18. Hồ Văn Ngũ (2005), Phòng ngừa tội phạm ở cộng đồng dân cư, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật số 6, tr54-60;

19. Đỗ Ngọc Quang (Chủ biên) (1995), Giáo trình tội phạm học, Nxb, Đại học Quốc

gia Hà Nội;

20. Phòng Cảnh sát giao thông - Công an TP Đà Nẵng, Báo cáo tổng kết công tác

bảo đảm TTATGT và TTXH năm 2020;

21. Đào Xuân Thành (2019), Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội

trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH;

22. Hồ Văn Thiết (2007), Hoạt động phòng ngừa tội xâm phạm an toàn giao thông

vận tải đường bộ của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án tiến sĩ, Học viện

Cảnh sát nhân dân, Hà Nội;

23. Phạm Văn Tỉnh (2009), Tội phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội phạm, Tạp

chí Nhà nước và pháp luật số 4, tr57-66;

24. Phạm Văn Tỉnh (2009), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật số 4, tr57-64;

25. Nguyễn Văn Trung (2019), Phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng tại TP

Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;

26. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 phê

chuẩn Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020, Hà Nội;

27. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 phê

chuẩn Chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và hướng

đến 2030, Hà Nội;

28. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1586/QĐ-TTg ngày 24/10/2012 phê

duyệt Chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ đến năm

2020 và tầm hình đến năm 2030, Hà Nội;

29. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 86/QĐ-TTg ngày 24/10/2012 phê

duyệt Chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ giai

đoạn 2021-2030 và tầm hình đến năm 2045, Hà Nội;

30. Thành ủy TP Đà Nẵng (2019), Kế hoạch số 99-KH/TU ngày 7/1/2019 của Thành

ủy TP Đà Nẵng về thực hiện Kết luận số 45-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương

Đảng về Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban

Bí THư Trung ương Đảng (khoa XI) về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc

phục ùn tắc giao thông, Đà Nẵng;

31. Nguyễn Anh Văn (2020), Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTATGT

đường bộ trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ, Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH;

32. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội;

33. Đặng Tuấn Vũ (2014), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao

thông đường bộ Việt Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,

Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;

34. Cao Xuân Việt (2015), Phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển phương

tiện giao thông đường thủy ở các tỉnh Nam Bộ, thực trạng và giải pháp, Luận án

tiến sĩ, Học viện KHXH;

35. Trịnh Tiến Việt (2008), Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phamju

học, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế- pháp luật số 24, tr185-197;

36. Nguyễn Anh Vũ (2020), Phòng ngừa tình hình tội phạm tại các phương trên địa

bàn quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;

PHỤ LỤC

Bảng 2.1. Tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn TP Đà Nẵng

giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

Hậu quả Diễn biến tăng, giảm so với năm trước Tổng số

Năm vụ tai Chết Thương Số người bị Tài sản Số vụ Số người chết Tài sản nạn người tích thương

2016 137 99 262 triệu 89

giảm 25 vụ giảm 19 người giảm 23 người giảm 34 triệu 70 2017 112 76 228 triệu  18,2%  21,3%  23,2%  12,9%

giảm 16 vụ giảm 10 người giảm 11 người tăng 40 triệu 60 2018 96 65 268 triệu  14,3%  14,3%  14,4%  17,5%

giảm 10 vụ giảm 21 người tăng 621 triệu giảm 3 người  54 2019 93 43 889 triệu  10,7%  32,8%  97,3% 5,2%

tăng 540 triệu giảm 7 vụ  giảm 1 người  tăng 15 người  53 2020 76 58 1.429 triệu  60,7% 8,42% 34,8% 1,8%

Tổng 504 326 341 2.808 triệu

Nguồn: Phòng Cảnh sát giao thông Công an TP Đà Nẵng

Bảng 2.2. Tình hình phát hiện, xử lý các vụ vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

trên địa bàn TP Đà Nẵng, giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

Diễn biến của số vụ và số tiền phạt Các hình thức xử lý Số vụ vi Số vụ lập so với năm trước Năm phạm biên bản Tạm giữ Tước quyền sử phát hiện xử lý Phạt tiền Số vụ Số tiền phương tiện dụng GPLX

5.365 vụ tăng 4,9 tỷ đồng 2016 59.062 59.062 50.099tr/h 3.336PT 8.236tr/h  10%  17,4%

tăng 2.780tr/h tăng 6,7 tỷ đồng 2017 61.842 55.201 52.567tr/h 3.065PT 6.867tr/h  4,7%  20,3%

tăng 6.235tr/h tăng 8 tỷ đồng 2018 68.077 64.077 58.329tr/h 3.409PT 8.793tr/h  10,1%  12,6%

tăng 17.000tr/h tăng 7,7 tỷ đồng 2019 84.867 84.867 71.884tr/h 3.568PT 8.971tr/h  25,8%  16,5%

giảm 25.418tr/h giảm 4,5 tỷ đồng 2020 59.449 59.449 53.448tr/h 3.570PT 5.549tr/h  29,9%  8,3%

Tổng 333.297 322.656 286.317tr/h 16.948PT 38.418tr/h

Nguồn: Phòng Cảnh sát giao thông Công an TP Đà Nẵng

Bảng 2.3. Tình hình khởi tố điều tra, giải quyết các trường hợp gây tai nạn giao thông

trên địa bàn TP Đà Nẵng, giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

Số vụ, bại can khởi tố hình sự Số vụ xử phạt hành chính Số vụ đang Số vụ không khởi thụ lý Năm Tước quyền sử tố hình sự Bị can Phạt tiền Vụ giải quyết dụng GPLX

2016 24 25 09 04 65 27

2017 24 41 15 08 31 24

2018 15 40 07 05 34 16

2019 15 28 10 06 23 15

2020 11 23 14 03 32 11

Tổng 89 157 55 26 185 93

Nguồn: Phòng Cảnh sát giao thông Công an TP Đà Nẵng