intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục các trường sĩ quan quân đội hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:106

19
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn này nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục; Đề xuất các biện pháp cơ bản trong quản lý hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục các TSQ quân đội hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục các trường sĩ quan quân đội hiện nay

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN TUẤN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH  CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN  QUÂN ĐỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
  2. 2 HÀ NỘI ­ 2013
  3. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN TUẤN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH  CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN  QUÂN ĐỘI HIỆN NAY Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số: 60 14 01 14 Người hướng dẫn khoa học: TS PHAM Đ ̣ ƯC TU ́ ́
  4. 4 HÀ NỘI ­ 2013
  5. MỤC LỤC                    Trang MỞ ĐẦU 3 Chương  CƠ   SỞ   LÝ   LUẬN   ­   THỰC   TIỄN   CỦA   QUẢN   LÝ  1 HOẠT   ĐỘNG   KIỂM   ĐỊNH  CHẤT   LƯỢNG   GIÁO  DỤC   CÁC   TRƯỜNG   SĨ   QUAN   QUÂN   ĐỘI   HIỆN  NAY 18 1.1. Quan niệm về quản lý hoạt động kiểm định chất lượng  giáo dục ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay 18 1.2. Thực trạng quản lý hoạt  động kiểm  định chất lượng  giáo dục ở các trường sĩ quan quân đội 34 Chương 2 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH  CHẤT   LƯỢNG   GIÁO   DỤC   CÁC   TRƯỜNG   SĨ  QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 48 2.1. Hệ  thống biện pháp quản lý hoạt động kiểm định chất   lượng giáo dục các trường sĩ quan quân đội hiện nay  48 2.2. Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện  pháp quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục  ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay 75 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 PHỤ LỤC  86
  6. CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ Giáo dục và Đào tạo BGD&ĐT Bộ Quốc phòng BQP Chất lượng giáo dục CLGD Giáo dục đại học GDĐH Giáo dục ­ Đào tạo GD ­ ĐT Kiểm định chất lượng giáo dục KĐCLGD Đảm bảo chất lượng giáo dục ĐBCLGD Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục ­ đào  KT&ĐBCLGD ­ ĐT tạ o Trường sĩ quan        TSQ
  7. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hoạt động KĐCLGD tại các cơ  sở GDĐH trong cả  nước nói chung,  các học viện, đại học, các TSQ quân đội nói riêng được thực hiện bởi tổ  chức chuyên nghiệp thành lập hội đồng đánh giá (tiến hành đánh giá ngoài)  trên cơ sở hội đồng tự đánh giá do thủ trưởng cơ sở GDĐH thành lập (tiến  hành đánh giá trong) nhằm xác định mức độ đạt chuẩn chất lượng trường,   chương trình đào tạo của trường theo các tiêu chuẩn, tiêu chí theo quy định,  hướng dẫn của BGD – ĐT, BQP, của TSQ. Cho đến nay, hoạt động KĐCLGD nói chung và quản lý hoạt động  KĐCLGD tại các TSQ càng trở nên cấp thiết bởi những lý do sau: Kiểm định chất lượng giáo dục là một biện pháp quản lý giáo dục  nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo nhân lực chất lượng cao theo các tiêu   chí, tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, qua đó phát huy tính tự  chủ, tự  chịu  trách nhiệm của các cơ  sở  đào tạo đại học, cao đẳng về  chất lượng sản   phẩm của mình, đồng thời tạo điều kiện cho Nhà nước và xã hội giám sát  chất lượng đào tạo ở mỗi nhà trường; Trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta  đã có chủ trương xã hội hóa giáo dục đào tạo nói chung, đào tạo đại học và  cao đẳng nói riêng. Thực hiện tốt công tác kiểm định chất lượng giáo dục  ở từng trường đại học, cao đẳng sẽ góp phần bảo đảm chất lượng đào tạo  nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Chất lượng giáo dục, các hoạt động bảo đảm chất lượng giáo dục  nói chung, kiểm định chất lượng giáo dục nói riêng  ở  các trường sỹ  quan   quân đội luôn là vấn đề  được Bộ  Quốc phòng quan tâm đặc biệt, tổ  chực  thực hiện nghiêm túc vì tầm quan trọng hàng đầu của nó đối với sự nghiệp 
  8. 4 xây dựng quân đội cách mạng, chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại  bảo vệ Tổ quốc. Quản lý hoạt động KĐCLGD ở  các TSQ là yêu cầu cấp  thiết của Quân  ủy Trung  ương, Thủ  trưởng BQP về  đổi mới và nâng cao  chất lượng GD – ĐT trong các trường đáp ứng yêu cầu mới của Quân đội. Quán triệt quan điểm của Đảng, thực hiện Luật Giáo dục, Quân ủy  Trung ương, Thủ trưởng BQP đã chỉ đạo Tổng Tham mưu trưởng ra Quyết   định   số   1736/QĐ­TM   ngày   27/10/2009   về   việc   thành   lập   Phòng  KT&ĐBCLGD ­ ĐT thuộc Cục Nhà trường/Bộ  Tổng Tham mưu và Quyết  định   số   1737/QĐ­TM   ngày   27/10/2009   về   việc   thành   lập   Phòng   (Ban)  KT&ĐBCLGD ­ ĐT Khảo thí thuộc học viện, TSQ quân đội nhằm đáp ứng   yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo tại các cơ  sở  GDĐH theo đúng yêu   cầu của Luật Giáo dục và Chỉ  thị  của Thủ  tướng Chính phủ. Đây là thời  điểm quan trọng đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ quan quản lý về đảm  bảo chất lượng, trong đó có nhiệm vụ tham mưu đề xuất giúp Thủ trưởng  BQP, Thủ  trưởng nhà trường về  quản lý hoạt động KĐCLGD các TSQ  quân đội. Kể từ khi được thành lập đến nay gần 4 năm, công tác tham mưu đề  xuất của các phòng (ban) KT& ĐBCLGD ­ ĐT giúp thủ  trưởng các cấp  quản lý có hiệu quả  hoạt động KĐCLGD các TSQ đã đạt được kết quả  bước đầu, song cũng tồn tại không ít những khó khăn, bất cập làm giảm sút  chất lượng, hiệu quả  công tác quản lý hoạt động KĐCLGD các TSQ nói  riêng, các trường trong quân đội nói chung. Cụ thể là: Hoạt động KĐCLGD đã đi vào nền nếp, từng bước đáp ứng yêu cầu  của BQP, BGD – ĐT. Được sự  chỉ  đạo của BQP, BGD&ĐT, 100% các  TSQ đã có Ban KT& ĐBCLGD – ĐT; 100% đã ra quyết định thành lập hội   đồng tự đánh giá; xây dựng kế hoạch tự đánh giá; thành lập tổ thư ký; các  
  9. 5 nhóm chuyên trách; thu thập minh chứng; viết phiếu đánh giá tiêu chí và   từng bước hoàn thành báo cáo tự đánh giá. Cho đến nay, đã có 07/12 trường   (chiếm tỷ lệ 58,3%) hoàn thành báo cáo tự đánh giá. Tuy nhiện vấn đề  quản lý các hoạt động KĐCLGD còn mới mẻ,  chưa phát huy được những hiệu quả  như  mong muốn, còn bộc lộ  một số  hạn chế, bất cập là: Đội ngũ cán bộ  KĐCLGD các TSQ chưa nhận thức   đúng vai trò, vị  trí của hoạt động KĐCLGD; hệ  thống các văn bản quy  phạm pháp luật  chưa đồng bộ, thống nhất từ  BQP  đến các TSQ; chất   lượng cán bộ chuyên trách thuộc các Ban KT& ĐBCLGD – ĐT còn hạn chế  về kiến thức, kinh nghiệm công tác KĐCLGD. Báo cáo tự đánh giá của các  trường chất lượng chưa cao, mang tính hình thức. Bố trí kinh phí chưa đáp  ứng yêu cầu. Tình hình trên đã đặt ra vấn đề  cần nghiên cứu về:  Quản lý hoạt   động kiểm định chất lượng giáo dục các trường sĩ quan quân đội hiện nay   với tư cách là đề tài luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài * Mô hình hoạt động quản lý KĐCLGD của một số  nước trên thế   giới và tại Việt Nam Vấn đề KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD xuất hiện lần đầu  ở Mỹ vào năm 1905 do một tổ chức tư nhân lập ra nhằm đánh giá chất lượng  các trường phổ  thông trung học theo các tiêu chuẩn, tiêu chí đề  ra nhằm tư  vấn cho phụ  huynh học sinh cho học sinh nhập học vào trường và sau đó  được hình thành và phát triển tại một số nước Châu Âu và Úc. Kể từ đó đến   nay, trải qua hơn 100 năm, hệ thống KĐCLGD đã được phổ cập và triển khai  tại 213 nước và vùng lãnh thổ  trên thế  giới.  Ở  Việt Nam, tháng 01/2002, 
  10. 6 Phòng Kiểm định chất lượng đào tạo thuộc Vụ Đại học và Sau đại học (nay   là Vụ Giáo dục đại học) ra đời, KĐCLGD đã chính thức đi vào hoạt động, sau  đó phát triển thành Cục Khảo thí và KĐCLGD thuộc BGD&ĐT đánh dấu một  thời kỳ mới của sự hình thành và phát triển hoạt động KĐCLGD và quản lý  KĐCLGD ở Việt Nam [11­ tr.14]. Để  nắm được hoạt động KĐCLGD, quản lý hoạt động KĐCLGD  cần lược khảo hoạt động một số  nước trên thế  giới và  ở  Việt Nam như  sau: Tại Mỹ, KĐCLGD được ra đời đầu tiên  ở  Mỹ  xuất phát từ  phục vụ  lợi ích của công chúng trước sự  phát triển mạnh mẽ  của giáo dục về  quy  mô, số  lượng đào tạo. Khác với hầu hết các nước Châu Âu, Bộ  Giáo dục  Liên bang Mỹ không trực tiếp KĐCLGD mà chỉ công nhận hiện trạng chất   lượng do các tổ chức hệ thống KĐCLGD của Mỹ tiến hành kiểm định. Hệ  thống tổ chức cơ quan KĐCLGD tại Mỹ là các tổ chức tư nhân phân bố trên   phạm vi 50 bang của Mỹ và các quốc gia khác, hoạt động độc lập theo các   vùng lãnh thổ, liên hiệp các trường. Ủy   ban   Giáo   dục   Đại   học   khu   vực   Trung   Mỹ  (CIHE)   thực   hiện  KĐCLGD các trường cao đẳng, trường học khu vực Trung Mỹ  và một số  nước trên thế  giới: 6 bang của Anh, 02 cơ  sở  giáo dục của Hy Lạp, 03  ở  Thụy sỹ;... trong đó Ủy ban các cơ sở Giáo dục Đại học (CIHE) thuộc Hiệp   hội các Nhà trường và Cao đẳng New England được phân cấp KĐCL 6 bang  của Anh. Ủy ban Giáo dục Đại học (HCL) cùng với Hiệp Hội các trường  Cao đẳng và nhà trường Bắc Mỹ (NCA) KĐCLGD các trường trung cấp cấp  bằng   ở   Bắc   Mỹ.  Ủy   ban   các   Trường   Cao   đẳng   và   Đại   học   Tây   Bắc   (NWCCU) KĐCLGD các cơ sở giáo dục đại học cấp bằng cử nhân, thạc sỹ, 
  11. 7 tiến sỹ  ở khu vực Tây Bắc Mỹ. Ủy ban các Trường Cao đẳng thuộc Hiệp   hội các trường cao đẳng và Đại học Nam Mỹ KĐCLGD các cơ sở giáo dục  đại học cấp bằng thuộc Nam Mỹ. Ủy ban các Trường Cao đẳng Cộng đồng   (ACCJC)  thuộc Hiệp Hội  các trường Cao đẳng và Nhà trường Tây Mỹ  (WASC) KĐCLGD các cơ  sở  giáo dục cấp bằng  ở Tây Mỹ.  Ủy ban Kiểm   định các trường cao đẳng, đại học Mỹ (WASC­ASSCU) thuộc Hiệp Hội các  trường Cao đẳng và Nhà trường Tây Mỹ  KĐCLGD các cơ  sở  giáo dục đại  học, cao học vùng Tây Mỹ. Chức   năng,   nhiệm   vụ   của   các   Ủy   ban   là   KĐCLGD   toàn   bộ   các  trường  ở  các cấp học được cấp bằng theo phạm vi các bang và vùng lãnh  thổ. Hình thức KĐCLGD: Kiểm định trường; kiểm định chương trình đào  tạo. Các tổ  chức KĐCLGD  ở  Mỹ  được tài trợ  chủ  yếu bằng các nguồn  kinh phí hàng năm từ các trường và từ chương trình kiểm định. Kiểm định  trường và chương trình có thể thực hiện theo chu kỳ vài năm đến 10 năm.  Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do các tổ  chức quy định. Tại Ô­xtơ­rây­lia, sự phát triển mạnh mẽ hệ thống GDĐH vào cuối  những năm 1970 với sự gia tăng về số lượng sinh viên và chuyên ngành đào  tạo đã đặt ra vấn đề  cần thiết phải có những hoạt động đảm bảo chất   lượng đào tạo. Những năm 70, số  lượng sinh viên đại học tăng gấp đôi,  đến thập kỷ  80, số  sinh viên đại học một lần nữa tăng gấp đôi với nhiều  chương trình, phương thức đào tạo khác nhau. Điều đó đã đòi hỏi Chính   phủ  cần có phương tiện xem xét đánh giá chất lượng đào tạo. Tháng 11   năm 1992, Chính phủ  đã đề  xuất thành lập  Ủy ban Đảm bảo chất lượng  GDĐH   (The   Committee   for   Quality   Assurance   in   Higher   Education­ 
  12. 8 CQAHE) để kiểm soát chất lượng đào tạo. Ủy ban này chi phối Hội đồng  Bộ  trưởng về Giáo dục, Việc làm và Quan hệ  công việc (trực tiếp là Hội  đồng các Bộ trưởng Giáo dục và Việc làm của 6 bang; 02 lãnh thổ­ gọi tắt  là MCTEE). Sau đó, MCTEE thành lập Cơ quan chất lượng các trường đại  học Ô­xtơ­rây­lia (AUQA); AUQA là cơ  quan quốc gia đầu não có nhiệm  thúc đẩy đánh giá và báo cáo về  KĐCLGD đối với MCTEE. AUQA hoạt   động độc lập với chính quyền bang và ngành giáo dục đại học dưới sự chỉ  đạo của Ban Giám đốc gồm 12 người, 11 Giám đốc được đề  cử  bởi các  nhóm khác nhau và được MCTEE bổ  nhiệm, người thứ  12 là Giám đốc   điều hành được bầu bởi Ban Giám đốc. Hiện nay, AUQA đã đánh giá được  59 trường đại học và tương đương đại học của Liên bang. Kinh phí hoạt  động của AUQA gồm: 40% của Chính phủ Liên bang, 25% từ chính quyền   bang và lãnh thổ; 25% từ các cơ  sở  giáo dục đại học khi AUQA đến đánh   giá; 10% doanh thu qua tư vấn. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ  sở  bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do AUQA quy định. Ở Ấn Độ, việc tiến hành KĐCLGD được xuất phát từ sự tăng nhanh   quy mô, số lượng sinh viên đào tạo từ những năm 80 của thế kỷ XX. Hiện  nay, Ấn Độ có hơn 400 trường đại học, 17.000 trường cao đẳng với hơn 10   triệu sinh viên chính quy, 2 triệu sinh viên theo học các chương trình đào   tạo từ  xa với nhiều loại hình trường khác nhau. Điều đó đã đòi hỏi Quốc   hội thành lập Ủy ban Tài trợ  các trường đại học (UGC). Ủy ban này thành   lập Hội đồng Đánh giá và Kiểm định quốc gia (NAAC) để  đánh giá chất   lượng; Hội đồng Đánh giá và Kiểm định quốc gia chỉ  đạo các Hội đồng  ngành KĐCLGD các trường đại. Các Hội đồng ngành KĐCLGD chương  trình đào tạo, KĐCLGD các trường đại học. Hình thức KĐCLGD gồm:  
  13. 9 kiểm định trường đại học; chương trình đào tạo. UGC chịu trách nhiệm  điều hành, quyết   định, chỉ   đạo Hội  đồng ngành, các trường tiêu chuẩn  kiểm định. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ  sở  bộ  tiêu chuẩn, tiêu  chí do UGC quy định. Hàn Quốc, đã có rất nhiều nỗ lực trong công tác KĐCLGD đại học.  Hệ  thống cơ  quan KĐCLGD của Hàn Quốc gồm:  Ủy ban KĐCLGD đại   học (Committee for University Accreditaition); Hội đồng Giáo dục đại học   Hàn Quốc (Korean Council for University Education­ KCUE);  Ủy ban Điều  hành   KĐCLGD   đại   học;   Nhóm   Kiểm   định;   Ủy   ban   Trọng   tài.   Ủy   ban  KĐCLGD đại học quyết định các hướng đi cơ  bản và phân loại công việc   trong  hoạt   động  KĐCLGD  và  chịu  sự  quản  lý  và  giám  sát   của  KCUE.   KCUE chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động liên quan đến đánh giá chất  lượng GDĐH, đào tạo cán bộ  cho công tác kiểm định.  Ủy ban Điều hành  KĐCLGD đại học đưa ra các chiến lược KĐCLGD, các quyết định ban đầu  về kết quả đánh giá chất lượng một trường đại học. Nhóm Kiểm định tiến   hành đánh giá trực tiếp các trường thông qua báo cáo tự  dánh giá của các   trường. Ủy ban Trọng tài được thành lập tạm thời trong trường hợp có một  trường học yêu cầu xem xét lại kết quả  kiểm định được đánh giá.  Hình  thức KĐCLGD: Kiểm định trường; chương trình đào tạo. Các bộ tiêu chuẩn,  tiêu chí kiểm định được  Ủy ban KĐCLGD đại học  ban hành.  Các trường  tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do KCUE quy định. Trung Quốc, ngay từ  những thập kỷ 80 của Thế kỷ XX, Chính phủ  đã thực hiện nhiều biện pháp để  nâng cao chất lượng giáo dục đại học  trước sự  gia tăng mạnh mẽ  của số  lượng sinh viên. Chính phủ  thành lập  Ủy ban Kiểm định và đề ra các tiêu chuẩn kiểm định đối với các trường đại 
  14. 10 học. Một trường đại học được thành lập hay tạm ngừng hoạt động nếu  không đáp  ứng được yêu cầu về  chất lượng thông qua vài lần kiểm định  của Chính phủ và Ủy ban Kiểm định. Các cơ quan chịu trách nhiệm duy trì  chất lượng giáo dục tại Trung Quốc gồm các tổ  chức bên ngoài và bên   trong ngành giáo dục. Các tổ chức bên ngoài: Ủy ban Kiểm định phê chuẩn  thành lập các trường đại học;  Ủy ban thẩm định bằng cấp; cơ  quan kiểm  toán chất lượng các chương trình đào tạo có cấp bằng; Ủy ban Chuyên đề:  Chịu trách nhiệm hướng dẫn nội dung về  chất lượng giảng dạy; Các tổ  chức xã hội đánh giá về giáo dục; các cơ quan kiểm định dự án và phân bổ  kinh phí nghiên cứu khoa học. Các tổ chức bên trong: Ủy ban Giáo dục chịu  trách nhiệm lập kế hoạch, ra quyết định đánh giá chất lượng giảng dạy và   nghiên cứu tại các trường đại học; Cơ  quan thẩm định học hàm của giảng   viên có quyền quyết định học hàm của giảng viên dựa trên hoạt động chuyên  môn của họ; Ủy ban giám sát và đánh giá giảng dạy; Ủy ban quản lý và giám  sát các dự án nghiên cứu khoa học. Hình thức KĐCLGD: Kiểm định trường;  chương trình đào tạo; bằng cấp; chất lượng giảng dạy; học hàm nhà giáo;  nghiên cứu khoa học; thành lập và giải thể trường đại học. Các trường tiến  hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do Ủy ban Kiểm định quy   định. KĐCLGD tại Phi­líp­pin, xuất phát từ quy mô GDĐH tương đối lớn   đòi hỏi đi đôi với cơ  chế  đánh giá chất lượng. Điều đó đã hình thành cơ  quan quản lý về  KĐCL. Hiện Phi­líp­pin có 14.023 trường đại học, trong  đó chiếm 83,61% là đại học dân lập, còn lại là công lập. Phi­líp­pin là nước  có truyền thống khá lâu dài về KĐCLGD. Tháng 5 năm 1994, Chính phủ ra  quyết định thành lập  Ủy ban Giáo dục đại học hoạt động độc lập với Bộ  Giáo dục, Văn hóa và Thể thao có trách nhiệm quản lý chất lượng GDĐH, 
  15. 11 trong đó có KĐCLGD. Hiện nay, tại Phi­líp­pin có 3 cơ  quan KĐCLGD  đang hoạt động là: Cơ quan kiểm định các trường cao đẳng và đại học hiến   chương hoàng gia (AACCUP); Hiệp hội kiểm định các trường trung học,  cao đẳng và đại học (PAASCU); Hiệp hội kiểm định các trường cao dẳng  và đại học Phi­líp­pin.  Hình thức KĐCLGD: Kiểm định trường; chương  trình   đào   tạo.   Các   bộ   tiêu   chuẩn,   tiêu   chí   kiểm   định   được   các   cơ   quan   KĐCLGD ban hành. Kinh phí đảm bảo cho KĐCLGD do Chính phủ  (qua Ủy  ban Giáo dục đại học) hỗ trợ khoảng 10%, còn lại do các trường đảm bảo.   Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do Ủy ban  Giáo dục đại học quy định. Thái Lan, Bộ Giáo dục có vai trò quan trọng trong thúc đẩy hệ thống  KĐCLGD tại các trường (hệ  thống đảm bảo chất lượng bên trong). Đảm  bảo chất lượng bên ngoài được tiến hành bởi Cơ  quan Tiêu chuẩn Giáo  dục quốc gia và Đánh giá Chất lượng (ONESQA) là tổ  chức công được  thành lập vào năm 2000. ONESQA phê chuẩn thành lập Ủy ban Chấp hành  cơ quan, Ủy ban phát triển Hệ thống đánh giá giáo dục cơ bản, Ủy ban Phát   triển Hệ thống đánh giá giáo dục đại học. Hình thức KĐCLGD: Kiểm định  trường; chương trình đào tạo. Các bộ  tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm định được  nội các Chính phủ  phê chuẩn. Các trường tiến hành KĐCLGD trên cơ sở bộ  tiêu chuẩn, tiêu chí do ONESQA quy định. Việt Nam, vấn đề KĐCLGD được quan tâm từ  năm 1995 bằng việc  thành lập Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và Nghiên cứu phát triển  giáo dục (nay là Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục) thuộc Đại học Quốc  gia Hà Nội. Đây là trung tâm mang tính chất nghiên cứu và tư vấn cho Giám  đốc Đại học Quốc gia. Tháng 01/2002, Phòng Kiểm định chất lượng đào  tạo thuộc Vụ Đại học và Sau đại học (nay là Vụ Giáo dục đại học) ra đời.  
  16. 12 Tháng 3/2003 Cục Khảo thí và KĐCLGD thuộc BGD&ĐT được thành lập  với   tư   cách   là   cơ   quan   tham   mưu   đề   xuất   giúp   Bộ   trưởng   BGD&ĐT,  hướng dẫn, chỉ đạo các trường về hoạt động KĐCLGD. Sự ra đời của Cục   Khảo thí và KĐCLGD   đánh dấu một thời kỳ  mới về  sự  phát triển hoạt  động KĐCLGD ở Việt Nam. KĐCLGD đại học ở Việt Nam hình thành được xuất phát từ nhu cầu   của quy mô phát triển giáo dục đại học gắn liền với việc đảm bảo và nâng   cao chất lượng đào tạo. Theo thống kê của BGD&ĐT, năm học 2010­ 2011,  cả  nước có 189 trường đại học, học viện, trường đại học (chưa kể  28  trường đại học thành viên của các đại học) và 223 trường cao đẳng, trong   đó có 50 trường đại học và 30 trường cao đẳng ngoài công lập. Số  trường  đại học, cao đẳng đã tăng gấp 2,17 lần so với năm học 2000 ­ 2001. Quy   mô đào tạo tăng nhanh. Năm học 2010­ 2011, cả  nước có 2.162.106 sinh   viên đại học và 726.219 sinh viên cao đẳng tăng 31% so với năm học 2000­  2001 [19­ tr.1,2]. Hệ thống cơ quan KĐCLGD của Việt Nam hiện nay gồm:  Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục; các cơ  quan (bộ  phận)   chuyên trách tại các Bộ, ngành, các sở  giáo dục và đào tạo, các trường đại   học. Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục là cơ  quan tham  mưu giúp Bộ  trưởng BGD&ĐT quản lý Nhà nước về KĐCLGD có nhiệm  vụ   xây   dựng,   ban   hành   hệ   thống   các   văn   bản   quy   phạm   pháp   luật   về  KĐCLGD;   ra   quyết   định   thành   lập   các   tổ   chức   KĐCLGD   tiến   hành  KĐCLGD các trường đại học, cao đẳng trong hệ thống giáo dục quốc dân.  Các cơ quan các cơ  quan (bộ phận) chuyên trách tại các Bộ, ngành, các sở  giáo dục và đào tạo có nhiệm vụ  làm tham mưu giúp lãnh đạo các bộ,  ngành,  ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố  KĐCLGD đối với các trường 
  17. 13 thuộc quyền quản lý. Các cơ quan (bộ phận) chuyên trách tại các trường có  nhiệm vụ  làm tham mưu giúp lãnh đạo nhà trường tiến hành KĐCLGD  thuộc trường (tự đánh giá) theo các bộ tiêu chuẩn, tiêu chí BGD&ĐT đã ban   hành. Tính đến tháng 10/2010 đã có 149/150 học viện, trường đại học thành  lập đơn vị (bộ phận) chuyên trách về  đảm bảo chất lượng; có 100 trường  đại học trong cả  nước hoàn thành báo cáo tự  đánh giá, trong đó 40 trường  đại học đã được đánh giá ngoài [3­ tr.8]. Tóm lại, thông qua lược khảo mô hình hoạt động quản lý KĐCLGD  của một số nước trên thế giới và tại Việt Nam có thể đi tới một số kết luận   sau: KĐCLGD các cơ sở GDĐH do tổ chức KĐCLGD độc lập của Chính   phủ (hoặc phi Chính phủ), quốc hội, hiệp hội thành lập để  tiến hành đánh  giá ngoài đối với cơ  sở  GDĐH, chương trình đào tạo đạt hay không đạt  theo bộ tiêu chuẩn, tiêu chí đề ra. Đánh giá ngoài có 02 dạng: Đánh giá trường; Đánh giá chương trình  đào tạo. Bộ tiêu chuẩn, tiêu chí do Chính phủ (hoặc phi Chính phủ), quốc hội,  hiệp hội ban hành làm cơ  sở  pháp lý để  các cơ  sở  GDĐH triển khai thực   hiện. Tại các cơ  sở  GDĐH, xây dựng báo cáo tự  đánh giá báo cáo cấp có  thẩm quyền để được KĐCLGD. Kết quả báo cáo tự đánh giá làm cơ sở để trường xây dựng kế hoạch cải   tiến chất lượng, đề ra các biện pháp đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng đào  tạo. * Công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
  18. 14 Bên cạnh đó vấn đề  quản lý hoạt động KĐCLGD đã được đề  cập  bởi nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Có thể  kể đến như: Các tác giả  ngoài nước: Mạng lưới các trường đại học ASEAN và  châu Âu trong phạm vi bảo đảm chất lượng (QA), Tiến sĩ Ton Vroeijenstijn  tiến hành khảo sát và tiến hành hội thảo tại các trường đại học thành viên  của AUN  ở  9 quốc gia ASEAN.   Phó Giáo sư, tiến sĩ Piniti Ratananukul   Giám đốc điều hành của AUN, Tiến sĩ Namtana Gajaseni, Phó giám đốc  điều hành của AUN. Tại khu vực ASEAN để góp phần vào việc phát triển  một  hệ  thống  đảm bảo chất lượng. “AUN – QA sổ  tay thực hiện các   hướng dẫn đảm bảo chất lượng trong mạng lưới các trường đại học đông  nam á, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội”. Các tác giả trong nước: PGS. TS Nguyễn Đức Chính với công trình:  Kiểm định chất lượng trong giáo dục. Nâng cao không ngừng chất lượng  giáo dục đại học là vấn đề  cần được quan tâm và là yếu tố  cấp bách của   tất cả  chúng ta, những nhà quản lý giáo dục đại hoc, cán bộ  giảng dạy,  sinh viên, và cũng là của toàn xà hội. Đây cũng là giải pháp duy nhất giúp   giáo dục đại học Việt Nam làm tròn sứ mạng lịch sử của mình: Cung cấp  nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất  nước, vươn ngang tầm khu vực, ti ến tới trình độ  giáo dục đại học thế  giới; PGS. TS Nguyễn Phương Nga với công trình:   Giáo dục đại học,   đảm bảo, đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam;  TS Phạm Xuân Thanh với công trình: Phát triển hệ  thống bảo đảm chất   lượng giáo dục Việt Nam . Đảm bảo chất lượng giáo dục là những vấn đề  còn khá mới  ở  Việt Nam. Trong mấy năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ  lực để hình thành hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục trong cả  nước. 
  19. 15 Trong xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa, chủ đề này đang được quan tâm  và thúc đẩy phát triển. Sau 7 năm chính thức triển khai thực hiện, hệ thống   đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung và kiểm định chất lượng giáo dục   nói riêng đã phủ khắp các cấp học và được triển khai trong cả nước. Trong quân đội, việc nghiên cứu xây dựng bộ  tiêu chí đánh giá chất  lượng các nhà trường quân đội đã được quan tâm từ khá sớm. Tập thể các   tác giả: Trần Đình Tuấn, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Các... đã quan tâm  nghiên cứu và xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng các trường đại học   trong Quân đội từ  những năm 2003 ­2004. Đây là cơ  sở  để  thực hiện cho  hoạt động KĐCLGD và quản lý hoạt động KĐCLGD ở các trường sĩ quan   quân đội. Bên cạnh đó vấn đề  KĐCLGD và quản lý KĐCLGD  ở  đại học  quân sự  đã được quan tâm đưa vào trong chương trình giảng dạy cho các  lớp đào tạo giáo viên chuyên ngành giáo dục học, các lớp bồi dưỡng cán bộ  quản lý giáo dục tại Học viện Chính trị từ những năm 2004 đến nay. Đồng  thời các nhà khoa học thuộc tập thể  Khoa Sư  phạm quân sự  đã biên soạn  nhiều tài liệu, giáo trình về  quản lý giáo dục  ở  đại học quân sự, trong đó  KĐCLGD được coi là một trong những nội dung, nhiệm vụ cơ bản của quá   trình quản lý giáo dục ở đại học quân sự. Nghiên cứu về vấn đề KĐCLGD   trong quân đội, tác giả  Phạm Đức Tú với công trình: Phát triển hệ  thống   kiểm định chất lượng đáp  ứng quân đội thời kỳ  mới (đề  tài cấp Cục Nhà  trường năm 2011) đã đề  cập tới những vấn đề  chung của quản lý hoạt  động bảo đảm chất lượng, về xây dựng, phát triển bộ máy KĐCLGD trong   quân đội, tuy nhiên chưa đi sâu vào quản lý hoạt động KĐCLGD đối với   TSQ quân đội. Có thể  thấy, KĐCLGD và quản lý KĐCLGD trong quân đội còn là  vấn đề  mới, song đã thu hút được sự  quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà   khoa học cũng như của lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Đây chính là những cơ sở 
  20. 16 lý luận, thực tiễn rất quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt  động KĐCLGD  ở  các nhà trường quân đội nói chung, các trường sĩ quan  quân đội nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào đi  sâu nghiên cứu về quản lý hoạt động KĐCLGD đối với các trường sĩ quan   quân đội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về  quản lý hoạt động KĐCLGD; Đề xuất các biện pháp cơ bản trong quản lý  hoạt động KĐCLGD các TSQ quân đội hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm   rõ   một   số   vấn   đề   cơ   bản   về   lý   luận   quản   lý   hoạt   động  KĐCLGD ở trường đại học. Điều   tra,   khảo   sát   và   phân   tích   thực   trạng   quản   lý   hoạt   động  KĐCLGD ở  các TSQ quân đội hiện nay. Đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động KĐCLGD ở  các TSQ quân đội hiện nay. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Khách thể nghiên cứu của đề tài: Hoạt động KĐCLGD trong các TSQ quân đội. * Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quản lý hoạt động KĐCLGD các TSQ quân đội. * Phạm vi nghiên cứu Đề  tài tập trung nghiên cứu hoạt động KĐCLGD và quản lý hoạt  động KĐCLGD  ở  các TSQ quân đội. Các số  liệu khảo sát, điều tra được  tiến hành trong thời gian từ năm 2009 đến nay tại các TSQ quân đội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2