ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

HẠ TH TH NH HÀ

U N NI VỀ I Đ TR NG HI H ẠT H NH VI T N HU ỂN THỂ TỪ T H VĂN HỌ (GI I Đ ẠN – 2015)

LUẬN VĂN THẠ SĨ ậ , Đ ả -T ề

Hà Nội – 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

HẠ TH TH NH HÀ

U N NI VỀ I Đ TR NG HI H ẠT H NH VI T N HU ỂN THỂ TỪ T H VĂN HỌ GI I Đ ẠN – 2015)

Luậ ă t ạ ậ , - Đ ả T ề Mã số: 60210231

Chủ t ch Hộ đồng chấm luậ ă GS TS ạm Gia Lâm

N ƣờ ƣớng dẫn khoa họ TS H G

Hà Nội – 2016

ỜI Đ N

Tôi xin cam đoan rằng luận văn Quan niệm về cái Đẹp trong các phim

hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 – 2015)

là đề tài nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn thành. Các tư liệu, kết quả

nghiên cứu của luận văn chưa được công bố ở bất kỳ tài liệu nào khác. Các

nhận định, tài liệu tham khảo và trích dẫn được sử dụng trong luận văn này

đều nêu rõ xuất xứ tác giả và được ghi trong mục Tài liệu tham khảo ở cuối

luận văn.

Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời cam đoan trên.

Hà Nội, tháng 5 năm 2016

Tác giả Luận văn

ạ T T H

LỜI CẢ ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới giảng

viên hướng dẫn: TS. Hoàng C m Giang - người đã luôn tận tình giúp đỡ tôi

trong quá trình học tập, nghiên cứu đề tài và làm luận văn tốt nghiệp.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới thầy Trần Hinh người đã truyền cảm

hứng cho tôi trong suốt thời gian học tập và hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh.

Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn Nghệ thuật học và

khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã trang bị cho

tôi những kiến thức quý giá trong thời gian học tập tại trường.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân tới các nghệ sĩ hoạt hình lão thành,

những đồng nghiệp đang công tác tại Hãng phim hoạt hình Việt Nam đã nhiệt

tình chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức nghề để giúp tôi hoàn thành đề tài

nghiên cứu này.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2016

Học viên

Phạm Thị Thanh Hà

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 3

1. Lý do chọ đề tài ..................................................................................... 3

2. L ch s vấ đề .......................................................................................... 5

3 Đố tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 13

4. Mụ đí ứu .......................................................... 15

5 ƣơ p áp ứu ...................................................................... 16

6. Cấu trúc của luậ ă ........................................................................... 16

HƢƠNG 1: PHẠ TRÙ I Đ P VÀ VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ

TÁC PH VĂN HƢƠNG ĐẾN TÁC PH ĐI N ẢNH ................... 17

1.1. Những vấ đề lý luận về Mỹ học - á Đẹp .................................... 17

1.1.1. Mỹ học, cái Đẹp qua các thời kỳ ................................................... 17

1.1.2. Cái Đẹp trong nghệ thuật điện ảnh ................................................ 21

1.1.3. Cái Đẹp trong phim hoạt hình ........................................................ 22

1.2. Một số vấ đề về chuyển thể tác ph ă ọc sang hoạt hình .... 23

1.2.1. Khái niệm chuyển thể, các hình thức chuyển thể và một số vấn đề

chuyển thể từ văn học sang điện ảnh ........................................................ 23

1.2.2. Vấn đề chuyển thể trong điện ảnh hoạt hình Việt Nam ................. 27

HƢƠNG : QUAN NI M VỀ I Đ P VÀ H GIÁ TR TRONG

PHIM HOẠT HÌNH VI T NAM ................................................................ 32

2.1. Sự phục dựng quan ni m về á Đẹp qua các thành tố của phim

hoạt hình Vi t Nam .................................................................................... 32

2.1.1. Hệ thống đề tài ............................................................................... 32

2.1.2. Hình tượng nhân vật ....................................................................... 38

2.1.3. Câu chuyện, cốt truyện .................................................................. 42

1

2.1.4. Phương thức tự sự ......................................................................... 44

2.2. Quan ni m th m mỹ ơ ản trong phim hoạt hình Vi t Nam ....... 47

2.2.1. Cái Đẹp nằm trong giá trị giáo dục và luân lý ............................... 48

2.2.2. Cái Đẹp gắn liền với sự nâng cao tri thức về tự nhiên và xã hội…49

2.2.3. Cái Đẹp đi cùng phương thức tự sự chân phương, giản dị ............ 50

HƢƠNG 3: HẠ TRÙ I Đ U H NH THỨ VÀ THỂ ẠI

HI H ẠT H NH VI T N ................................................................. 53

3 1 á Đẹp thể hi n trong hình thức phim ........................................... 53

3.1.1. Cái Đẹp thể hiện qua tạo hình. ....................................................... 53

3.1.2. Cái Đẹp qua diễn xuất, động tác .................................................... 61

3.1.3. Cái Đẹp qua việc vận dụng các yếu tố kỹ thuật và công nghệ ...... 69

3 á Đẹp thể hi n trong thể loại phim ............................................... 76

3.2.1. Cái Đẹp trong phim hoạt hoạ 2D ................................................... 77

3.2.2. Cái Đẹp trong phim cắt giấy .......................................................... 82

3.2.3. Cái Đẹp trong phim 3D .................................................................. 86

3.2.4. Cái Đẹp trong các thể loại tổng hợp .............................................. 91

KẾT LUẬN ................................................................................................... 94

2

TƢ I U THAM KHẢO ............................................................................. 96

Ở ĐẦU

1. d ọ đề t

Ra đời vào tháng 11 năm 1959, trải qua hơn 55 năm phát triển và

trưởng thành, phim hoạt hình Việt Nam (HHVN) chính thức trở thành một bộ

phận quan trọng của nền điện ảnh nước ta. Suốt chặng đường lịch sử này,

HHVN luôn gắn liền với sự đổi thay của đất nước: thời kỳ từ 1960 đến 1975 -

vừa xây dựng cơ sở, đào tạo đội ngũ vừa sáng tác trong điều kiện chiến tranh

ác liệt; từ 1975 đến hết những năm 1986 là quãng thời gian hoạt động ổn định

trong cơ chế bao cấp của nhà nước; những năm từ 1986 đến 2000, HHVN vật

lộn trước những thăng trầm trong giai đoạn đổi mới cơ chế sản xuất cũng như

phong cách sáng tác; kể từ năm 2000 đến nay, HHVN dần định hình cơ chế

sản xuất mới và đạt được những thành quả đáng khích lệ.

Mặc dù vậy, toàn bộ phim HHVN sản xuất từ trước tới nay mới chỉ

dừng lại con số hơn 500 bộ phim. So với các nước có nền công nghiệp hoạt

hình với doanh thu và lợi nhuận khổng lồ như Mỹ, Nhận Bản, Hàn Quốc…

thì HHVN còn quá ít về số lượng, chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu

xem phim của khán giả. Về chất lượng, việc giành được một số giải thưởng

trong nước và quốc tế là điều đáng khích lệ với HHVN, song trên thực tế,

phim của chúng ta còn một khoảng cách khá xa so với các nền hoạt hình trong

khu vực và trên thế giới. Có thể nói, HHVN thiếu về số lượng, yếu về chất

lượng, hạn chế về tư duy nghệ thuật và công nghệ sản xuất là thực trạng đáng

phải suy nghĩ. Một thể loại vô cùng hấp dẫn của điện ảnh, luôn có một lượng

khán giả khổng lồ không giới hạn ở nhóm đối tượng trẻ em mà cả người lớn

sẵn sàng chờ đợi, đón nhận, tại sao phim HHVN vẫn dậm chân tại chỗ? Điều

này thôi thúc chúng ta cần tìm hiểu căn nguyên, cội rễ xem trong thời gian

3

qua, phim HHVN đã hướng đến một hệ giá trị thẩm mỹ như thế nào? Hệ giá

trị ấy có gì tương thích hoặc khác biệt so với phim hoạt hình thế giới. Hệ giá

trị này thể hiện quan niệm của các nhà làm phim HHVN như thế nào về cái

Đẹp, về lý tưởng thẩm mỹ, nhất là khi đối tượng khán giả đầu tiên mà phim

hoạt hình hướng đến là thiếu nhi? Và thông qua các tác phẩm hoạt hình

chuyển thể từ nguồn văn học, chúng ta cũng có thể nhìn nhận lại: xem văn

học có vị trí và tác động như thế nào trong việc định hình cái Đẹp trong quan

niệm thẩm mỹ của các nhà làm phim HHVN.

Lựa chọn khảo sát các bộ phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn

học trong giai đoạn từ năm 2000 - 2015, chúng tôi xác định tầm quan trọng

cũng như vai trò của văn học đối với sự phát triển của hoạt hình. Là mảnh đất

màu mỡ để khai thác, văn học có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt hình. Từ

khi ra đời đến nay, HHVN có nhiều bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm

văn học nổi tiếng như Mèo con (1965) chuyển thể từ truyện Cái Tết của Mèo

con của nhà văn Nguyễn Đình Thi; Dế Mèn (1979) chuyển thể từ truyện Dế

Mèn phiêu lưu ký của nhà văn Tô Hoài; Chuyện Ông Gióng (1970) hay Sơn

Tinh Thuỷ Tinh (1972) chuyển thể từ kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam.

Trong thời điểm hiện tại, các nhà làm phim HHVN vẫn tiếp tục khai thác nhiều

tác phẩm văn học để làm phim hoạt hình. Nhiều nhà làm phim cho rằng, phim

HHVN luôn coi trọng yếu tố giáo dục nên việc kế thừa và phát huy những giá

trị đã được đúc kết, thẩm định và được công chúng đón nhận qua các tác phẩm

văn học sẽ là một lợi thế khi xây dựng một bộ phim hoạt hình.

Để có một nền hoạt hình phát triển và phù hợp với các tiêu chí của nền

điện ảnh đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời hòa nhập được với điện ảnh hoạt

hình thế giới, các nhà làm phim cần tìm ra hướng phát triển thích hợp. Đặc

biệt, trong xu thế nền hoạt hình thế giới không chỉ giới hạn trong việc phục vụ

nhóm đối tượng thiếu nhi mà còn phục vụ cả người lớn, chúng ta cần nâng

4

cao chất lượng phim, mở rộng nội dung đề tài phản ánh, cải tiến công nghệ

làm phim để phim HHVN đáp ứng được nhiều hơn nữa kỳ vọng và tầm đón

đợi của khán giả. Với mong muốn như trên, đề tài nghiên cứu Quan niệm về

cái Đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn

học (Giai đoạn 2000 – 2015) hướng tới mục tiêu xác định được quan niệm

chung về cái Đẹp trong các phim HHVN, để góp thêm một tài liệu mang tính

lý luận giúp cho nhà làm phim có thêm kiến thức về nghề, nâng cao nghệ

thuật sáng tác và quan điểm mỹ học, xây dựng định hướng trong hoạt động

sáng tác phim HHVN thời gian tới.

2. ấ đề

Là một thể loại đặc biệt thuộc loại hình nghệ thuật điện ảnh, có ngôn ngữ

biểu hiện giàu sức truyền cảm, có khả năng đi vào đời sống sinh hoạt và tinh

thần của khán giả, phim hoạt hình có sức sống vững bền và cách thế tồn tại khác

lạ. Trong xã hội hiện đại, nhu cầu thưởng thức phim hoạt hình như một món ăn

hàng ngày, một thói quen dần được khẳng định, đặc biệt với sự phát triển của

khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ công nghệ thông tin, hoạt hình càng có cơ hội

thúc đẩy phát triển. Có thể nói, đây là giai đoạn có nhiều yếu tố thuận lợi để hoạt

hình phát triển hơn cả. Và thực tế, từ trước đến nay, chưa bao giờ việc sản xuất

phim hoạt hình rở rộ như hiện tại: sản xuất phim hoạt hình tại hãng phim của nhà

nước, ở các công ty tư nhân, các nhóm làm phim độc lập, thậm chí các cá nhân,

sinh viên và học sinh… đều có thể làm được phim hoạt hình.

Mặc dù thực tế sáng tác khá sôi động song ở mảng lý luận, lý thuyết về

phim hoạt hình (nền móng, là cái gốc để phát triển, định hướng sáng tác) thì lại

khá trầm lắng. Có thể nói, so với vai trò và tầm vóc của một môn nghệ thuật

quan trọng, nền lý luận của HHVN khá nghèo nàn và chưa tương xứng với yêu

cầu sáng tác. Với mong muốn hệ thống lại toàn bộ những tài liệu mang tính lý

luận cơ bản của HHVN phục vụ đề tài nghiên cứu về Quan niệm về cái Đẹp

5

trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai

đoạn 2000 - 2015) chúng tôi tiếp cận các tư liệu này theo các hướng dưới đây.

2.1. Phim hoạt hình nhìn từ góc độ tổng thể hình thức, nội dung, phong cách

Trong khi nền điện ảnh hoạt hình của các nước phát triển như Mỹ,

Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc và đặc biệt là nước Nga - Xô Viết, chiếc nôi

đào tạo ra những nhà làm phim HHVN đều có một bề dày lý luận và nhiều

công trình nghiên cứu lớn thì ở Việt Nam các công trình nghiên cứu còn rất

hạn chế. Cuốn sách của tác giả Ngô Mạnh Lân: Hoạt hình nghệ thuật thứ tám

(1997) là một trong số ít các công trình đặt HHVN như một đối tượng nghiên

cứu dưới góc độ tổng thể về cả nội dung, hình thức và phong cách. Nghiên

cứu về bản chất nghệ thuật của hoạt hình, tác giả đã chỉ ra những đặc trưng cơ

bản của hoạt hình là “cuộc trình chiếu hình tượng nghe - nhìn cực kỳ ngoạn

mục” [14, tr.9], sử dụng những hình vẽ chuyển động dưới tác động của các

phương tiện kỹ thuật tạo ra hiệu quả nghệ thuật đặc biệt. Tác giả nhấn mạnh

vào nét riêng biệt của chuyển động trong hoạt hình khác với chuyển động

được quay lại trong điện ảnh. Nếu như “hình” trong điện ảnh nói chung là

“bức ảnh thật” thì “hình” trong hoạt hình là những nét vẽ do họa sĩ sáng tạo

nên, có thể gần gũi, hoặc giống như thật nhưng cũng có thể cường điệu, biến

dạng, trừu tượng… tuỳ thuộc sức tưởng tượng và khả năng sáng tạo của họa

sĩ. Do vậy, sự “chuyển động” của hoạt hình sẽ không bị bó buộc hoặc bắt

chước hoặc chính là sự ghi chép lại các chuyển động thật tuân theo qui luật tự

nhiên của chuỗi các bức ảnh thật ghép nối với nhau mà nó có thể linh hoạt, bỏ

qua các bước chuyển động hoặc kéo dài các bước chuyển động tạo nên tính

ước lệ, giả định. Với cách biểu đạt giàu sáng tạo, giàu cảm xúc như vậy, hoạt

hình đã tạo cho mình một thứ ngôn ngữ riêng, hình thành một loại nghệ thuật

mới mẻ mà tác giả gọi là “nghệ thuật thứ tám” [14, tr 54]. Cũng trong cuốn

sách, tác giả đã trình bày các nghiên cứu xoay quanh các vấn đề cơ bản của

6

hoạt hình: về kịch bản, về công tác đạo diễn, về tạo hình, về âm nhạc… Ngoài

việc đưa ra những suy nghĩ và luận bàn phân tích một cách khá hệ thống các

yếu tố về cả hình thức và nội dung, cuốn sách còn cung cấp cho độc giả

những đánh giá tổng quan về sự phát triển của hoạt hình cả về mặt chất lẫn

lượng, sự trưởng thành về mặt thể loại, phong cách sáng tác, tư duy nghệ

thuật... Phác thảo những chân dung nghệ sĩ hoạt hình lớn trên thế giới, đưa ra

những so sánh, cung cấp cho độc giả những hiểu biết rộng hơn về HHVN và

thế giới, cuốn sách giống như cuốn cẩm nang cung cấp những lý luận nền

tảng cùng những kiến thức chuyên môn, là tài liệu có giá trị đối với bộ môn

nghệ thuật hoạt hình.

Ngoài công trình nói trên, có thể kể đến các nghiên cứu của nhóm tác

giả trong các cuốn Lịch sử Điện ảnh Việt Nam (tập 1, 2, nhiều tác giả 2003,

2005) với phần trình bày tổng quan và những nhận định chung về các bước

phát triển về mặt nội dung, hình thức, phong cách của HHVN qua các thời kỳ

lịch sử. Qua những nghiên cứu này, người đọc được cung cấp các kiến thức

về hoạt hình như một thể loại riêng, sánh vai cùng các thể loại phim truyện

nhựa, phim tài liệu trong bộ môn nghệ thuật điện ảnh. Bên cạnh những công

trình nghiên cứu có qui mô kể trên, nhiều bài báo, bài nghiên cứu, bài phê

bình, đánh giá, nhìn nhận phim hoạt hình dưới góc độ tổng thể cũng đã được

xuất bản như: tập hợp các bài viết trong cuốn sách 30 năm nghệ thuật điện

ảnh (nhiều tác giả, 1983); Điện ảnh và bản sắc dân tộc (nhiều tác giả,

1994)… Nhiều bài phê bình, nghiên cứu, lý luận đăng trên các ấn phẩm báo

chí như: Một nền nghệ thuật trưởng thành trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu

(Hà Xuân Trường, Tạp chí Điện ảnh số 1/1997); Điều chủ yếu trong phim

hoạt họa (Võ Quảng, Báo Văn nghệ số 558, 1974), Yêu hoạt họa, nghĩ về

hoạt họa (Phạm Hổ, Báo Văn nghệ số 554, 1974), Bàn chuyện hoạt họa (Tô

Hoài, Báo Văn nghệ số 363, 1973)… Trong những bài báo này, nhiều nhận

7

định mang tính khái quát cao về HHVN đã được tập hợp trong cuốn Lịch sử

Điện ảnh Việt Nam, có thể kể ra như: nhà thơ Võ Quảng đã chỉ ra những tồn

tại của HHVN – “chưa mang được đầy đủ phong cách riêng biệt của Việt

Nam” [21, tr.333] và cần tiếp thu, hấp thụ nhiều tinh hoa trong các ngành

nghệ thuật liên quan để hình thành “phong cách độc đáo có đầy đủ giá trị

Việt” [21, tr.334]; hay như nhà báo Chính Yên với đánh giá phim HHVN đã

“mạnh dạn góp phần cho điện ảnh một phong cách làm phim hoạt họa búp bê

riêng của Việt Nam” [213, tr.333]… Từ những công trình nghiên cứu có qui

mô lớn đến những bài lý luận phê bình đăng tải trên các ấn phẩm báo chí,

chúng tôi có được những nguồn tư liệu vô cùng quí giá, là nền tảng lý luận

chính trong quá trình khảo sát, nghiên cứu đề tài luận văn.

2.2. Phim hoạt hình trong dòng chảy lịch sử điện ảnh Việt Nam

Phim hoạt hình được xem là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nền

điện ảnh Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tổng hợp, đánh giá vai

trò và vị thế của phim hoạt hình trong suốt quá trình hình thành và phát triển.

Đầu tiên, phải kể đến phần trình bày về sự phát triển và trưởng thành của

HHVN từ buổi đầu sơ khai đến những năm gần đây trong hai cuốn Lịch sử

Điện ảnh Việt Nam (tập1, 2, nhiều tác giả 2003, 2005). Phản ánh một cách

trực tiếp và sâu sát quá trình phát triển và trưởng thành của HHVN, các nhà

làm phim HHVN giai đoạn đầu đã xuất bản các cuốn sách: Phim hoạt hình

những nốt thăng, nốt trầm (Ngô Mạnh Lân, 2011); Chặng đường phim hoạt

hình (Ngô Mạnh Lân, 2009); Hoạt hình Việt Nam đỉnh cao mơ ước (Trương

Qua, 2006). Như cuốn hồi ký ghi lại những tháng ngày gắn bó với hoạt hình

từ buổi đầu sơ khai cho đến thời điểm viết cuốn sách, tác giả cuốn sách

Chặng đường phim hoạt hình đã cung cấp cho độc giả những tư liệu quí giá

về sự hình thành và phát triển cả về tầm vóc và qui mô của HHVN qua từng

giai đoạn, sự thay đổi về công nghệ sản xuất, tư duy nghệ thuật, những kinh

8

nghiệm chuyên môn, khát vọng, trăn trở với nghề. Tiếng nói của người nghệ

sĩ gắn bó với nghề suốt từ khi hoạt hình ra đời đã phần nào cho chúng ta thấy

những vấn đề bản chất nhất của HHVN. Một số cuốn sách khác cũng góp một

phần vào nguồn tư liệu quí giá cho HHVN như: Phim hoạt họa Việt Nam

(Ngô Mạnh Lân, Trần Ngọc Thanh, 1997); Danh mục phim hoạt hình Việt

Nam (nhiều tác giả 1993); Kỷ yếu Hãng phim hoạt hình Việt Nam (nhiều tác

giả 1999;) Các nhà Điện ảnh Hà Nội (nhiều tác giả, 2000)… Nhiều bài viết

đăng trên tạp chí hoặc được xuất bản online cũng góp thêm tiếng nói cho

HHVN trong dòng chảy của lịch sử điện ảnh như: Phim hoạt hình Việt Nam:

Mùa xuân trẻ mãi (Ngô Mạnh Lân - Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 3-2013

Hoạt hình Việt Nam: Đợi chờ một tương lai tươi sáng (Nguyễn Hữu Phần,

http://www.tinmoi.vn.”; Phim hoạt hình Việt, khoảng trống khó lấp đầy (Nam

Phương, http://suckhoedoisong.vn/phim-hoat-hinh-viet-khoang-trong-kho-

lap-day-n102624.html); Hoạt hình Việt Nam gặt hái những thành công (Hãng

phim Hoạt hình Việt Nam, http://hoathinh.org.vn/hang-phim-hoat-hinh-viet-

nam-gat-hai-thanh-cong-mua-giai-canh-dieu-2015); Hoạt hình trong đổi mới

giáo dục (Hãng phim hoạt hình Việt Nam, http://hoathinh.org.vn/hoi-thao-

phim-hoat-hinh-trong-doi-moi-giao-duc); Chỗ đứng nào cho hoạt hình Việt,

(Khánh An, http://petrotimes.vn/cho-dung-nao-cho-phim-hoat-hinh-viet-

342641.html)..

2.3. Phim hoạt hình như một thể loại đặc biệt

Với những đặc trưng riêng biệt, phim hoạt hình có một ngôn ngữ biểu

cảm riêng, nó được xem là lĩnh vực hấp dẫn và mới mẻ luôn tạo được sự

cuốn hút với công chúng yêu điện ảnh nói chung và giới chuyên môn nói

riêng. Chính vì vậy, có rất nhiều công trình nghiên cứu, những bài viết, phê

bình xem xét phim hoạt hình như một thể loại đặc biệt. Tiêu biểu là cuốn

Hoạt hình Việt Nam (nhiều tác giả, 1997), cuốn sách tập hợp gần 50 bài viết

9

của các tác giả phân tích về HHVN theo từng thể loại: phim hoạt họa, phim

cắt giấy, phim búp bê… Cuốn sách đã chỉ ra những đặc điểm riêng biệt, thế

mạnh của từng loại phim, rút ra những kinh nghiệm về chuyên môn áp dụng

trong từng thể loại và từng bộ phim. Hoạt hình Việt Nam trở thành cuốn sách

tập hợp những bài phân tích phim có giá trị nhất, bao quát phần lớn quá trình

phát triển của HHVN. Cũng qua những bài viết này, hàng loạt những chân

dung của các nhà làm phim được giới thiệu tới công chúng thông qua các tác

phẩm hoạt hình. Cuốn sách cũng đã hệ thống và phân tích phần lớn các tác

phẩm có giá trị của các nhà làm phim, qua đó khẳng định phong cách cũng

như thế mạnh của một số nghệ sĩ hoạt hình tiêu biểu. Từ phong cách và thế

mạnh này có thể nhận rõ những nét riêng góp phần đưa hoạt hình trở thành

một thể loại đặc biệt: thể loại phim hoạt họa - gắn liền với các tên tuổi như

NSND Ngô Mạnh Lân, NSND Trương Qua, NSƯT Mai Long…; phim cắt

giấy với NSND Hà Bắc, NSND Phương Hoa…; phim búp bê với NSƯT Bảo

Quang, NSƯT Nguyễn Thị Hằng…

Trong những năm gần đây, cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông

tin, phim hoạt hình đã áp dụng những công nghệ cao trong sản xuất, cho ra đời

các thể loại phim hoạt họa vi tính, phim 3D, phim cắt giấy vi tính, phim tổng

hợp các thể loại trên… Chính sự ra đời các thể loại phim mới trên cơ sở áp

dụng kỹ thuật máy tính trong các công đoạn sản xuất, những nét đặc trưng để

chứng minh hoạt hình như một thể loại đặc biệt càng trở nên rõ nét. Hàng loạt

các bài viết phân tích về HHVN đăng trên tạp chí và xuất bản online đã khẳng

định thêm về thế mạnh, những nét riêng biệt của hoạt hình so với các thể loại

khác như: Hoạt hình trong cánh diều (Minh Trí – Tạp chí Thế giới điện ảnh,

tháng 4-2013); Hoạt hình Việt Nam vẫn thiếu chất hài hước (Phương Hoa -

Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 10-2013); Hoạt hình Việt Nam còn yếu về tư

duy nghệ thuật (Kim Anh, Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 7-2013), Hoạt hình

10

minh họa - hướng đi hay giải pháp (Trần Thanh Việt, Tạp chí Thế giới điện

ảnh, tháng 10 – 2013); Phim hoạt hình chưa có nhiều đột phá (Kim Anh, Tạp

chí Thế giới điện ảnh, tháng 4/2016); Phim hoạt hình Việt Nam: Cần thay đổi

hướng tiếp cận khán giả (Tường Phạm, http://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-

hoa/Can-thay-doi-huong-tiep-can-khan-gia-355291/); Để tìm ra nhân vật phim

hoạt hình Việt Nam!?(Vương Tâm, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-

hoa/318671/de-tim-ra-nhan-vat-phim-hoat-hinh-viet-nam); Phim hoạt hình -

giáo dục trẻ thơ bằng nghệ thuật (Cao Sơn,

http://tintuc.wada.vn/e/3851231/Phim-hoat-hinh-giao-duc-tre-tho-bang-nghe-

thuat); Sức mạnh vô địch của hoạt hình (Văn Trầm http://hoathinh.org.vn/suc-

manh-vo-dich-cua-dien-anh-va-phim-hoat-hinh)

2.4. Các tác phẩm hoạt hình

Tiếp cận HHVN từ các tác phẩm hoạt hình là cách phổ biến nhất trong

nguồn tư liệu mà chúng tôi sưu tầm được. Với gần 50 bài phân tích về các bộ

phim hoạt hình cụ thể, cuốn sách Phim hoạt hình Việt Nam đã tổng hợp được

hầu hết thành tựu và những tác phẩm đáng nhớ của HHVN qua các bài viết:

Cái duyên thầm của bộ phim Đáng đời thằng Cáo; Từ Phù đổng Thiên vương

đến phim Chuyện Ông Gióng (Trương Qua – Hoạt hình Việt Nam, 1997; Mèo

Con (Trần Anh Trung, Hoạt hình Việt Nam, 1997); Dế mèn phiêu lưu ký (Cao

Thuỵ, Hoạt hình Việt Nam, 1997); Sơn Tinh Thuỷ Tinh (Mỹ Linh, Hoạt hình

Việt Nam, 1997)… Nhiều bài viết được tập hợp trong các cuốn sách khác

như: Đi tìm bản sắc dân tộc Ê – đê trong phim hoạt họa Đam San (Trương

Qua - Điện ảnh và bản sắc văn hoá dân tộc trong phim hoạt họa Đam San,

1994); Từ những kịch bản của tôi (Tô Hoài - Điện ảnh và bản sắc văn hoá dân

tộc, 1994)…

Thời gian gần đây, nhiều bài nghiên cứu, bài phê bình đăng tải trên báo

và các trang mạng internet đã kịp thời đưa tin và giới thiệu đến khán giả

11

những tác phẩm hoạt hình cũng như hoạt động sáng tác của HHVN: Để hoạt

hình trong Cánh diều hàng năm bay cao mãi (Minh Trí – Tạp chí Thế giới

điện ảnh, tháng 3-2015); 3D - Xu hướng mới cho hoạt hình Việt Nam (Phan

Anh, http://dantri.com.vn/giai-tri/3d-xu-huong-moi-cho-hoat-hinh-viet-

1322384759.htm), Cậu bé cờ lau - Khởi đầu bản hùng ca, (Thanh Xuân,

http://anninhthudo.vn/hau-truong/khoi-dau-ban-hung-ca/560851.antd; Trần

Khánh Duyên: Niềm vui chú Bò Vàng (Nguyễn Mai Trang,

http://hoathinh.org.vn/tran-khanh-duyen-niem-vui-chu-bo-vang); Xe đạp và

những kịch bản hoạt hình xuất sắc, (Ngô Minh Nguyệt,

http://hoathinh.org.vn/xe-dap-va-nhung-kich-ban-hoat-hinh-xuat-sac); Người

con của rồng - Duyên phận giữa phim 3D và Thái tổ Lý Công Uẩn, (Công Lê,

http://www.thegioidienanh.vn/index.php?option=com_content&id=1057:ngu

oi-con-cua-rong---duyen-phan-giua-phim-3d-va-thai-to-ly-cong-

uan&Itemid=34; Phim hoạt hình 3D về Vua Lý Công Uẩn "níu" chân khán

giả đến phút cuối (Tuyết Minh, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-

hoa/373596/phim-hoat-hinh-3d-ve-vua-ly-cong-uan-niu-chan-khan-gia-den-

phut-cuoi)... Các bài viết này đã đưa khán giả đến gần hơi với HHVN và góp

thêm những đánh giá khách quan về HHVN qua góc nhìn từ các tác phẩm.

2.5. Một số nhận định sơ lược qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu,

bài viết, bài lý luận phê bình về phim hoạt hình

Có thể nói, đa số các công trình nghiên cứu, các bài viết đã đề cập tới

phim hoạt hình ở nhiều góc độ cả về hình thức, nội dung và có nhiều thành

tựu, đóng góp cho việc nghiên cứu và thực tiễn sáng tác. Tuy nhiên, có thể

nhận thấy, các nghiên cứu này vẫn còn hạn chế, chưa đi sâu khai thác phim

HHVN dưới góc độ mỹ học.

Chúng tôi nhận thấy, một đặc điểm đáng nói trong của phim HHVN, đó

12

là: phần lớn các bộ phim được sáng tác dựa trên việc chuyển thể từ tác phẩm văn

học dành cho thiếu nhi và kho tàng văn học dân gian - lại chưa được các nhà

nghiên cứu quan tâm, lý giải tương xứng với mức độ ảnh hưởng trong thực tế.

Chúng tôi hy vọng, đề tài này sẽ có những đóng góp mang tính lý luận

về khía cạnh mỹ học trong phim hoạt hình. Chính xác hơn, thông qua tất cả các

yếu tố nghệ thuật của các bộ phim, chúng tôi muốn “phục dựng” và phác họa

nên những nội dung cơ bản về quan niệm mỹ học của các nhà làm phim

HHVN đương đại: Thế nào là Đẹp? Một bộ phim hoạt hình nên kể về chuyện

gì và kể như thế nào thì được coi là hấp dẫn, là chuẩn mực? Hệ giá trị được tạo

lập nên đằng sau những thước phim đó là gì? Những đóng góp về giá trị thẩm mỹ của tác phẩm văn học gốc trong phim HHVN được thể hiện như thế nào?

3. Đố tƣợng và phạm vi nghiên cứu

1. Thông qua việc khảo sát và tìm hiểu các tư liệu, đặc biệt là nguồn tư

liệu với cách tiếp cận hoạt hình thông qua các tác phẩm, chúng tôi nhận thấy: có

nhiều nghiên cứu, bài viết phân tích, đánh giá sâu về những nét đẹp trong phim

HHVN song để hệ thống lại, sắp xếp và xem xét chúng dưới góc độ mỹ học thì

dường như ít nghiên cứu đề cập tới. Với mong muốn đưa ra một cái nhìn, một

cách đánh giá tổng quát, gắn liền với những lý luận cơ bản về thẩm mỹ, về cái

Đẹp - đối tượng nghiên cứu của luận văn không chỉ hướng vào việc phân tích

cái Đẹp của hoạt hình mà muốn đi sâu vào phân tích Cách thể hiện cái Đẹp

trong phim hoạt hình, bởi trong thực tế sáng tác, cách thể hiện cái Đẹp của các

nhà làm phim là minh chứng rõ nét nhất cho quan niệm về cái Đẹp của họ.

2. Trên cơ sở nghiên cứu một số bộ phim hoạt hình để chỉ ra cách thể

hiện về cái Đẹp của các nhà làm phim HHVN, chúng tôi giới hạn phạm vi

nghiên cứu trong các phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học trong

giai đoạn 2000-2015. Ở đây, cần phải chỉ rõ, các tác phẩm văn học chuyển thể

gồm tác phẩm văn học viết và văn học dân gian. Đối với các tác phẩm chuyển

13

thể từ văn học dân gian - các nhà làm phim dựa trên các câu chuyện cổ tích,

sự tích, truyền thuyết, huyền thoại… để xây dựng kịch bản triển khai làm

phim. Ở mảng văn học viết, các nhà biên kịch có thể chuyển thể những sáng

tác mới của các nhà văn thành kịch bản điện ảnh hoặc dùng các tác phẩm văn

học do các nhà văn sáng tác dựa trên nguồn gốc hoặc lấy cảm hứng từ các

truyện dân gian.

3. Các bộ phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học được lựa

chọn để nghiên cứu:

Các phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học dân gian:

- Sự tích cái nhà sàn (2001), đạo diễn Hà Bắc, chuyển thể từ truyện

cổ Việt Nam.

- Tiếng nhạc ve (2003), đạo diễn Lý Thu Hà, chuyển thể từ truyện ngụ

ngôn thế giới.

- Sự tích Đảo bà (2010), đạo diễn Phạm Ngọc Tuấn, chuyển thể từ

truyện cổ Việt Nam.

- Giấc mơ Loa Thành (2010), đạo diễn Phạm Ngọc Tuấn, chuyển thể từ

truyện cổ Việt Nam.

- Truyền thuyết Hoa hướng dương (2012), đạo diễn Bùi Mạnh Quang,

chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam.

- Bay về phía bầu trời, (2013), đạo diễn Nguyễn Hồng Linh, chuyển thể

từ truyện ngụ ngôn thế giới.

- Mỵ Châu, Trọng Thuỷ (2014), đạo diễn Phạm Ngọc Tuấn, chuyển thể

từ truyện cổ Việt Nam.

- Đeo lục lạc cho mèo (2014), đạo diễn Lê Bình, chuyển thể từ truyện

ngụ ngôn thế giới.

- Theo dấu chân hươu (2015), đạo diễn Hồng Sơn, chuyển thể từ truyện

cổ Việt Nam.

14

Các phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học viết:

- Chiếc nôi trên vách đá (2003), đạo diễn Phan Trung, chuyển thể từ

truyện ngắn cùng tên của nhà văn Vũ Duy Thông.

- Chiếc áo tàng hình (2003), đạo diễn Trần Dương Phấn, chuyển thể từ

truyện ngắn Cánh bướm kỳ diệu của nhà văn Viết Linh.

- Ve vàng và Dế lửa (2007), đạo diễn Phùng Văn Hà, chuyển thể từ

truyện ngắn cùng tên của nhà văn Lê Trường Đại.

- Càng to, càng nhỏ (2011), đạo diễn Trịnh Lâm Tùng, chuyển thể từ

truyện ngắn Đôi càng của cua con của Đỗ Hoà.

- Hào khí Thăng Long (2012), đạo diễn Nguyễn Nhân Lập, Trần Dương

Phấn, Phùng Văn Hà, chuyển thể từ tiểu thuyết lịch sử Thăng Long nổi giận

của nhà văn Hoàng Quốc Hải.

- Thủ Lĩnh vây lửa (2013), đạo diễn Trần Khánh Duyên, chuyển thể từ

truyện ngắn Thủ lĩnh Chì gộc của nhà văn Trần Quốc Tuấn.

- Anh chàng số 9 (2013), đạo diễn Phùng Văn Hà, chuyển thể từ truyện

ngắn cùng tên của nhà văn Trần Ninh Hồ.

- Bước qua hai thế giới (2015), đạo diễn Bảo Quang, chuyển thể từ

truyện ngắn Vương quốc tàn lụi của nhà văn Trần Đức Tiến.

4. Mụ đí ứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

- Thông qua việc phân tích cách thể hiện cái Đẹp trong phim HHVN,

luận văn hướng tới mục tiêu xác định được quan niệm chung về cái Đẹp trong

các phim HHVN giai đoạn đương đại.

- Luận văn đưa ra những kết quả nghiên cứu góp phần làm dày dặn

thêm nền tảng lý luận sáng tác sẵn có của môn nghệ thuật hoạt hình, tạo điều

kiện cho các nhà làm phim có thêm cơ hội nghiên cứu để nâng cao kiến thức

15

về nghề, về quan điểm mỹ học và nghệ thuật sáng tác.

- Tiếp cận, phân tích và dự đoán các xu hướng mới, xây dựng định

hướng trong hoạt động sáng tác phim HHVN giai đoạn tiếp theo.

4.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

4.2.1. Về lý luận: Luận văn là kết quả của đề tài nghiên cứu, hệ thống các quan

điểm về cái Đẹp thông qua việc phân tích đánh giá các phim HHVN được chuyển

thể từ tác phẩm văn học. Từ những kết quả nghiên cứu, những quan điểm chung

của các nhà làm phim được tập hợp, sắp xếp hệ thống nhằm trở thành lý luận cơ

bản, lý thuyết sáng tác cho một thể loại đặc biệt của nghệ thuật điện ảnh.

4.2.2 Về thực tiễn: Trong điều kiện thực tế các nguồn tài liệu về hoạt hình

khá là khan hiếm và tản mạn thì luận văn là nguồn tham khảo giúp cho những

người quan tâm nghiên cứu, đội ngũ sáng tác và khán giả phim hoạt hình có

thể tiếp cận với HHVN một cách toàn diện, từ góc độ khái quát, tổng thể.

5. ƣơ p áp ứu

Trên nền tảng hướng tiếp cận mỹ học, liên văn bản và trần thuật học,

luận văn cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành; phương pháp lịch

sử, phương pháp hệ thống; phương pháp tiếp cận văn hóa học để tiến hành

nghiên cứu.

Trong quá trình thực hiện, chúng tôi đã sử dụng một số thao tác để

hoàn thành các yêu cầu đề ra như: Thao tác phân tích và tổng hợp; thao tác so

sánh, đối chiếu; thao tác thống kê…

6. Cấu trúc của luậ ă

Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm

ba chương:

ƣơ 1: Phạm trù cái Đẹp và vấn đề chuyển thể từ tác phẩm văn chương

đến tác phẩm điện ảnh

ƣơ : Quan niệm về cái Đẹp và hệ giá trị trong phim hoạt hình Việt Nam

16

ƣơ 3: Phạm trù cái Đẹp qua hình thức và thể loại phim hoạt hình Việt Nam

HƢƠNG 1: PHẠM TRÙ I Đ P VÀ VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ

TÁC PH VĂN HƢƠNG ĐẾN TÁC PH ĐI N ẢNH

1.1. Những vấ đề lý luận về Mỹ học - á Đẹp

1.1.1. Mỹ học, cái Đẹp qua các thời kỳ

Mỹ học là một khoa học hợp thành khoa học triết học, có đối tượng

nghiên cứu là các dạng biểu hiện của cái thẩm mỹ. Mỹ học giúp chúng ta

nhận thức được cái Đẹp. Có thể nói, mỹ học chính là khoa học nghiên cứu sự

cảm thụ cái Đẹp.

Nghiên cứu lịch sử mỹ học qua các thời kỳ: Mỹ học Hy Lạp cổ đại, Mỹ

học thời kỳ Trung cổ phong kiến; Mỹ học thời kỳ Phục hưng; Mỹ học thời

khai sáng; Mỹ học thời kỳ cổ điển… Chúng ta nhận thấy tư tưởng mỹ học

trước Marx có ba khuynh hướng cơ bản để tiếp cận cái Đẹp là: khuynh hướng

duy vật tiếp cận cái Đẹp trước Marx; khuynh hướng duy tâm khách quan

trong việc tiếp cận cái Đẹp trong lịch sử mỹ học; khuynh hướng duy tâm chủ

quan trong việc tiếp cận cái Đẹp trong lịch sử triết học.

1.1.1.1. Khuynh hướng duy vật tiếp cận cái Đẹp trước Marx có ba thời kỳ

phát triển mà đặc điểm chủ yếu đều coi cái Đẹp tồn tại khách quan, là thuộc

tính của cuộc sống

Quan niệm về cái Đẹp của mỹ học duy vật thời cổ đại với “các nhà

mỹ học duy vật đầu tiên như Democrit và Aristote đều cho rằng, cái Đẹp có

các thuộc tính như: sự cân xứng, sự hài hoà, trật tự, số lượng, chất lượng,

sự tiến bộ, sự phát triển, cái Đẹp gắn với cái có ích, cái thiện…” [10, tr.46].

Theo quan điểm này, cái Đẹp phải được biểu hiện ở cái khác biệt được

thống nhất trong đa dạng: “sự vật đẹp phải có một kích thước và một tỷ lệ

nhất định”; “nó là các khoái cảm của con người gắn liền với độ”; “cái Đẹp

17

tuy thống nhất trong đa dạng, là trật tự, tỷ lệ và kích thước, là phạm trù

trong khoái cảm, nhưng chúng có tính chất tương đối, không có một cái

Đẹp nào tuyệt đối”; “cái Đẹp phải là cái có ích, là cái tốt”. [7, tr.74]

Quan niệm về cái Đẹp của các nhà duy vật thế kỷ XVII – XVIII, tiêu biểu

là Edmund Burke và Denis Dideros. Burke tỉ mỉ chỉ ra bảy dấu hiệu khách quan

về cái Đẹp là tính nhỏ nhắn, tính tương đối, sự mịn màng của bề mặt, sự đa dạng

trong tình trạng các bộ phận phân phối, quan hệ các bộ phận không cứng nhắc,

cơ cấu uyển chuyển, màu này cùng với màu khác trong cùng sự vật đẹp là không

quá nổi bật. Còn Dideros cho rằng cái Đẹp phải là cái thật, cái tốt và chúng có

quan hệ khăng khít với nhau. Ông khẳng định có hai cái Đẹp – cái Đẹp thực tại

và cái Đẹp ta nhìn thấy. Cái Đẹp là tồn tại khách quan trong tự nhiên. Tự nhiên

là ngọn nguồn cái Đẹp. Cái Đẹp và cái thật là một.

Quan niệm về cái Đẹp của các nhà duy vật nhân bản thế kỷ XIX tiêu

biểu là Nikolay Chernyshevsky. Theo ông “cái Đẹp là cuộc sống, một thực

thể đẹp là thực thể trong đó ta nhìn thấy được cuộc sống đúng như quan niệm

của chúng ta, một đối tượng đẹp là một đối tượng trong đó cuộc sống được

thể hiện hay là nó nhắc ta nghĩ tới cuộc sống” [7. tr. 74]

1.1.1.2. Khuynh hướng duy tâm khách quan trong việc tiếp cận cái Đẹp đối

lập với cách tiếp cận cái Đẹp của mỹ học duy vật. Mỹ học duy tâm cho rằng

cái Đẹp không phải thuộc tính của vật chất mà là thuộc tính của tinh thần.

Tiêu biểu cho khuynh hướng này là tư tưởng của Hegel. Mặc dù thừa nhận

có cái Đẹp của tự nhiên song ông cho rằng cái Đẹp tự nhiên “nghèo nàn”,

“thấp hơn rất nhiều so với cái Đẹp của nghệ thuật” và “nó cũng nằm trong

tinh thần”. Còn Plato cho rằng cái Đẹp không thể là một sự vật nào đó, “cái

Đẹp là một ý niệm”. Cái Đẹp - ý niệm là một thứ tiên nghiệm, sẵn có, chính

nó làm nên cái Đẹp của vạn vật, soi sáng cái Đẹp của tâm hồn; nó tồn tại

18

vĩnh cửu, không bị hủy diệt…

1.1.1.3. Khuynh hướng duy tâm chủ quan trong việc tiếp cận cái Đẹp coi mỹ

học là khoa học nghiên cứu các phán đoán thị hiếu. Các nhà mỹ học duy tâm

chủ quan cho rằng vấn đề chủ yếu không phải là cái Đẹp là gì mà là sự phán

đoán về cái Đẹp là gì”. Phán đoán ở đây không phải theo logic mà phán đoán

tình cảm, chủ quan, có tính thưởng ngoạn… “Hume quả quyết rằng: cái Đẹp

không phải là phẩm chất tồn tại trong bản thân sự vật, nó tồn tại chủ yếu trong

tâm linh người quan sát nó. Còn Kant thì nói một cách hình tượng rằng: cái

Đẹp không ở trên đôi má hồng của cô thiếu nữ mà ở trong con mắt của kẻ si

tình” [7, tr.73]

Trong lịch sử mỹ học, ba khuynh hướng này luôn đứng trên tư thế đối

lập, đấu tranh lẫn nhau, song cũng đồng thời đối thoại, bù đắp cho nhau, cùng

làm hoàn thiện dần những quan điểm về cái Đẹp trong hệ thống mỹ học

Marx-Lenin.

Mỹ học Marx-Lenin là thành quả phát triển của mỹ học nhân loại. Mỹ

học Marx-Lenin là một bộ phận hợp thành của triết học Mac- Lênin, dựa trên

cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nghiên cứu sự vận động của các quan

hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, trong đó cái Đẹp là trung tâm, hình

tượng là khâu cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất, hay nói cách

khác, mỹ học Marx-Lenin nghiên cứu sự vận động của cái Đẹp và các hình

thức khác nhau của cái Đẹp.

Sử dụng cách tiếp cận “duy vật biện chứng” về cái Đẹp, mỹ học Marx-

Lenin phê phán những hạn chế của ba cách tiếp cận cái Đẹp trước Marx, đồng

thời đưa ra hệ thống quan điểm mới về cái Đẹp. Mỹ học Marx-Lenin coi cái

Đẹp là một phạm trù mỹ học cơ bản, giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ

thẩm mỹ giữa con người với hiện thực, bao chứa các quan hệ chân - thiện -

19

ích, xuất phát từ thực tiễn, tồn tại dưới dạng hình tượng toàn vẹn, cân xứng

hài hoà, gây được khoái cảm thẩm mỹ tích cực đối với chủ thể xã hội.

Phân biệt cái Đẹp với cái thẩm mỹ, coi cái Đẹp là một bộ phận hợp

thành của cái thẩm mỹ chứ không phải là bản thân cái thẩm mỹ, chúng ta

nhận thấy cái Đẹp và cái thẩm mỹ đều mang tố chất chung là yếu tố tinh thần

và yếu tố tình cảm sâu sắc. Yếu tố xúc cảm là yếu tố đặc trưng của quan hệ

thẩm mỹ và là yếu tố điển hình của cái Đẹp. Mỹ học Marx-Lenin cho rằng cái

Đẹp ra đời từ lao động, gắn bó chặt chẽ với cái thật, cái tốt và cái hữu ích.

Bản chất của cái Đẹp gắn liền với lao động, chưa có con người và chưa có lao

động thì chưa có hiện tượng thẩm mỹ, chưa có cái Đẹp. Như vậy, mỹ học

Marx-Lenin nghiên cứu sự vận động lịch sử của cái Đẹp trong quá trình lao

động sáng tạo và chiến đấu của con người. Xem xét cái Đẹp gắn với hoạt

động thực tiễn, quan điểm Mỹ học Marx-Lenin còn chỉ ra rằng cái Đẹp có

mối quan hệ gắn bó không chỉ trong lao động mà còn cả trong đấu tranh xã

hội. Những hoạt động xã hội nhằm cải thiện, nâng cao, vun đắp quan hệ xã

hội cho phù hợp khát vọng ước mơ, gây được hứng thú thẩm mỹ đều chứa

đựng cái Đẹp. Do vậy, cái Đẹp còn mang bản chất xã hội. Do cái Đẹp có sự

vận động và không ngừng sáng tạo, được khám phá mà cái Đẹp luôn biểu

hiện cho tính xã hội của nó. Cái Đẹp gắn với cái thật, cái có ích, cái thiện.

Nếu xa rời những yếu tố kể trên, cái Đẹp sẽ trở nên thiếu vắng nội dung,

thiếu sự hài hoà, mất đi yếu tố toàn vẹn.

Có thể nhận thấy, cái Đẹp là nhu cầu sống của con người, của dân tộc,

của nhân loại. Cái Đẹp đi vào đời sống với mục tiêu đẩy lùi cái xấu, mang đến

cho con người cảm giác thoả mãn và hạnh phúc. Cái Đẹp là lĩnh vực đa dạng

và phức tạp. Cái Đẹp liên quan đến niềm tin, chân lý và trình độ nhận thức,

khả năng sáng tạo của mỗi con người, mỗi dẫn tộc.

Thể hiện vai trò của mình trong cuộc sống, cái Đẹp gây được khoái

20

cảm tích cực và gắn với sự hài hoà thẩm mỹ nên nó có thể điều hoà các mối

quan hệ; làm phong phú đời sống tâm hồn và tình cảm của con người, định

hướng sự phát triển hài hoà của xã hội, mở ra năng lực sáng tạo nhiều chiều,

nhiều lớp, ngăn chặn sự phản thẩm mỹ. Như vậy, cái Đẹp trong cuộc sống là

tất cả những gì mang tính hữu ích, tốt, thật. Cái Đẹp phải đảm bảo ba yêu cầu:

đúng đắn, chân thực của cuộc sống; mang tính nhân bản và nhân văn; là một

sự hoàn thiện và hoàn mỹ.

“Cái Đẹp trong nghệ thuật có vấn đề thống nhất biện chứng giữa nội

dung đẹp và và hình thức đẹp” [7, tr.58]. Không phong phú và đa dạng như

cái Đẹp trong tự nhiên song cái Đẹp trong nghệ thuật khẳng định được chiều

sâu nhân văn và triết lý. Cái Đẹp trong nghệ thuật là tổng hợp của giá trị mỹ

học với đạo đức, chính trị, khoa học… Nó tạo nên một một chỉnh thể tinh

thần trọn vẹn bao gồm Chân – Thiện - Mỹ, hòa quyện tình cảm, khát vọng, trí

tuệ, ý chí của con người.

1.1.2. Cái Đẹp trong nghệ thuật điện ảnh

Điện ảnh là loại hình sáng tạo nghệ thuật tổng hợp, kết hợp các kỹ

thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng để tạo thành những khung

hình chuyển động.

Là môn nghệ thuật lấy hình ảnh làm ngôn ngữ thể hiện nên đặc trưng rõ

nét nhất cũng là linh hồn của điện ảnh không gì khác chính là hình ảnh. Dựa

trên đặc trưng cơ bản nhất là hình ảnh, ngôn ngữ thể hiện của điện ảnh bao

hàm các yếu tố: tính sát thực, tính hình ảnh, tính không gian và thời gian, tính

tổng hợp. Một bộ phim hay phải là bộ phim thể hiện rõ nhất những đặc trưng

của điện ảnh, hay nói cách khác là bộ phim có “tính điện ảnh” cao.

Dựa trên những yêu cầu, đòi hỏi và cả sự mong chờ, kỳ vọng của các

nhà làm phim và công chúng quan tâm đến điện ảnh, chúng ta có thể nhận

thấy quan điểm về thẩm mỹ, về cái Đẹp trong điện ảnh. Như vậy, cái Đẹp

21

trong điện ảnh chính là sự thể hiện cao nhất những nét đặc trưng của điện ảnh

để tạo nên hứng thú, sự mến mộ và mong ước của khán giả.

Một bộ phim được cho là đẹp phải thật sự đẹp trong hình ảnh - tức là

trong ngôn ngữ thể hiện. Có nhiều yếu tố kết hợp để làm nên vẻ đẹp trong

hình ảnh. Đó là hình ảnh phải chân thực, phải hấp dẫn người xem bằng tính

chân thực như bản thân cuộc sống hiện thực. Hình ảnh phải có linh hồn - được

tạo nên từ sự chuyển động, từ âm thanh, từ tư duy, ý đồ toát lên từ mỗi khuôn

hình. Cái Đẹp trong điện ảnh còn thể hiện ở nhiều yếu tố khác như sự đa

chiều, linh hoạt trong không gian, thời gian sự sáng tạo không gian hư cấu, sự

đa dạng trong thời gian và sự cấu thành thời gian tâm lý… Và đặc biệt, cái

Đẹp của nghệ thuật điện ảnh còn nằm trong cách thể hiện, trong ý đồ của hình

ảnh khi sử dụng các kỹ thuật montage - ghép nối để tăng thêm sự thông minh,

đa nghĩa, giàu biểu tượng của các hình ảnh. Mặc dù là môn nghệ thuật độc lập

song điện ảnh là môn nghệ thuật có tính tổng hợp. Chính vì vậy, cái Đẹp của

nghệ thuật điện ảnh còn bao gồm sự hài hoà, kết hợp các yếu tố của các loại

hình nghệ thuật khác tạo hành một chỉnh thể vừa mới mẻ, vừa có sự tương

đồng với các loại hình nghệ thuật khác, tạo nên sức hấp dẫn, quyến rũ của loại

nghệ thuật đặc biệt này.

1.1.3. Cái Đẹp trong phim hoạt hình

Hoạt hình là một thể loại đặc thù của loại hình nghệ thuật điện ảnh.

Hoạt hình sử dụng phương tiện của điện ảnh để tạo ra các hiệu quả riêng biệt:

sử dụng hình vẽ dưới tác động của các phương tiện kỹ thuật để tạo ra sự

chuyển động. Như vậy, bản chất của hoạt hình chính là “hình vẽ và tạo hình

chuyển động” [14, tr.18]. Sự khác biệt của hoạt hình trước tiên nằm ở yếu tố

“hình” – bởi hình trong hoạt hình được tạo nên từ nét vẽ, là sự sáng tạo của

người họa sĩ chứ không phải sự sao chép hay chính là bức ảnh của những hình

ảnh thật. “Hình” trong hoạt hình vì thế mang tính giả định, đậm chất ước lệ,

22

tượng trưng, tính hình tượng. Dưới sự hỗ trợ của kỹ thuật, các chuỗi hình tĩnh

ghép lại với nhau tạo thành sự chuyển động. Bởi có mối quan hệ chặt chẽ giữa

hình và chuyển động nên cũng giống với hình, sự chuyển động của hoạt hình

không phải là sự mô phỏng sự chuyển động trong tự nhiên mà là kết quả của

sự kết hợp chuỗi hình tĩnh mang tính ước lệ, tượng trưng. Sự chuyển động

trong hoạt hình vì thế cũng mang tính giả định. Chính những sự chuyển động,

những động tác này tạo cho hình ảnh trở thành hình tượng của hoạt hình.

Có thể nói, hoạt hình là thể loại “sử dụng hệ thống phương tiện mang

tính giả định cao” [14, tr.35]. Tính giả định nằm trong phương pháp tư duy và

ngôn ngữ của hoạt hình bao gồm - giả định trong tạo hình, trong xây dựng

hình tượng về mặt thị giác, giả định trong cách sáng tạo đạo cụ, bối cảnh, xử

lý khuôn hình, ánh sáng và màu sắc, tính giả định chỉ đạo diễn xuất, trong âm

thanh, âm nhạc… Tóm lại, hoạt hình được sản sinh ra từ thế giới tưởng tượng

và sự hư cấu, sáng tạo của con người, được truyền vào những hình tượng sống

động có khả năng khơi gợi cảm hứng, truyền cảm xúc cho người xem.

Từ những đặc trưng cơ bản trên, có thể thấy được, cái Đẹp của bộ phim

hoạt hình chính là cách thể hiện tốt nhất, hoàn mỹ nhất, xuất sắc nhất những đặc

trưng cơ bản của hoạt hình để thoả mãn kỳ vọng của người xem. Cái Đẹp trong

nghệ thuật hoạt hình là sự thể hiện được tính bay bổng, sự lãng mạn cho phép

bởi sự khoa trương, ước lệ, tính khái quát, giả định của ngôn ngữ hoạt hình. Một

bộ phim hoạt hình được coi là “Đẹp” cần phải đạt được những chuẩn mực của

cái Đẹp trong hoạt hình ở các mặt: cách tư duy, cách nghĩ, cách kể câu chuyện;

trong ngôn ngữ thể hiện - tạo hình, diễn xuất, nhạc, động, thoại… tạo nên những

xúc cảm mới mẻ và thúc đẩy trí tưởng tưởng không có biên giới của con người.

1.2. Một số vấ đề về chuyển thể tác ph ă ọc sang hoạt hình

1.2.1. Khái niệm chuyển thể, các hình thức chuyển thể và một số vấn đề

chuyển thể từ văn học sang điện ảnh

23

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam do Hội đồng Quốc gia chỉ

đạo biên soạn thì “Chuyển thể là chuyển một tác phẩm nghệ thuật từ thể loại

này sang thể loại khác. Trong điện ảnh, là dùng phương tiện, ngôn ngữ điện

ảnh chuyển một tác phẩm thuộc một thể loại nghệ thuật khác (văn, thơ, kịch,

balê, opera…) thành tác phẩm điện ảnh”.

Thực chất, chuyển thể cũng là một quá trình sáng tạo nghệ thuật, sử

dụng các phương tiện của một loại hình nghệ thuật để cải biến nội dung tác

phẩm nghệ thuật gốc cho phù hợp với mục đích của người chuyển thể. Trong

trường hợp này chúng ta nghiên cứu việc chuyển thể từ tác phẩm văn học

sang tác phẩm điện ảnh. Văn học và điện ảnh là hai loại hình nghệ thuật khác

nhau về phương thức biểu hiện. Công cụ thể hiện của văn học là con chữ, là

ngôn từ thì phương tiện thể hiện của điện ảnh là hình ảnh. Như vậy việc

chuyển thể từ tác phẩm văn học sang điện ảnh chính là việc thể hiện nội dung

tác phẩm bằng một loại ngôn ngữ khác - ở đây chính là hình ảnh để thể hiện.

Và để tác phẩm mới hình thành phù hợp và đạt được hiệu quả của loại hình

nghệ thuật điện ảnh, người nghệ sĩ phải sử dụng công cụ hình ảnh này thể

hiện tác phẩm sao cho đạt được những yêu cầu mà loại hình nghệ thuật điện

ảnh hướng tới như cách kể chuyện mang tính điện ảnh, các xung đột, kịch

tính, nhân vật, màu sắc, bối cảnh… tác động trực tiếp vào thị giác người xem.

Bởi thế, mặc dù là mô phỏng một tác phẩm gốc nhưng trên thực tế chuyển thể

là cả một quá trình sáng tạo của nhà biên kịch.

Chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh thường được

thực hiện theo hai kiểu: chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát

nguyên bản.

Chuyển thể sát nguyên bản, là cách mà nhà biên kịch điện ảnh bám sát

tác phẩm văn học gốc, tôn trọng tối đa tác phẩm văn học. Để thực hiện điều

này, tác phẩm văn học cần có chứa đựng chất điện ảnh tiềm tàng bao gồm

24

nhiều yếu tố cần thiết cho kịch bản phim như cốt truyện, tình huống, nhân vật,

hành động, tư tưởng chủ đề, ngôn ngữ… giàu chất điện ảnh. Như vậy, toàn bộ

quá trình chuyển thể này là phụ thuộc hoàn toàn vào chất liệu văn học, ít sự

sáng tạo ngoài những yếu tố sẵn có trong tác phẩm văn học. Vì vậy, việc tìm

kiếm được tác phẩm văn học gốc có đủ tiêu chí để chuyển thể sát nguyên bản

là điều vô cùng quan trọng. Thuận lợi của chuyển thể sát nguyên bản rất rõ

ràng tuy nhiên, những khó khăn do sử dụng kiểu chuyển thể này cũng không

đơn giản. Khi thành công của tác phẩm văn học gốc được khẳng định, được

độc giả đón nhận, thì chuyển mã sang một ngôn ngữ khác chưa hẳn đã thành

công như trong nguyên gốc. Và chính sự so sánh giữa hai tác phẩm có cùng

nội dung chỉ khác cách thể hiện nhiều khi làm giảm đi cảm hứng của khán giả

đối với sản phẩm nghệ thuật ra đời muộn hơn.

Chuyển thể không sát nguyên bản, là hình thức chuyển thể tự do đòi hỏi

sự sáng tạo cao hơn của nhà biên kịch. Đối với kiểu chuyển thể này, nhà biên

kịch coi tác phẩm văn học như một cái cớ, thậm chí tác phẩm văn học gốc chỉ

cung cấp ý tứ, gợi cảm hứng để xây dựng một kịch bản phim mới. Chuyển thể

không sát nguyên bản mặc dù không mô phỏng lại tác phẩm gốc như kiểu

chuyển thể sát nguyên bản song cũng không hẳn là sẽ sáng tạo lại toàn bộ từ

cốt truyện, hành động, nhân vật, tình tiết, không gian… Nhà biên kịch sẽ tiếp

nhận một cách chọn lọc các yếu tố của tác phẩm gốc, đặc biệt là phải giữ

được chủ đề tư tưởng, một số nhân vật, sự kiện chính… để tác phẩm mới ra

đời vẫn mang tinh thần, dáng dấp của tác phẩm gốc, nếu không sẽ không còn

là sự chuyển thể mà là một sáng tác mới. Với kiểu chuyển thể không sát

nguyên bản này, tác phẩm mới sẽ cuốn hút công chúng bởi sự mới mẻ, sáng

tạo, gây cảm giác kích thích người xem hơn.

Cùng là chuyển thể, song chọn lựa kiểu chuyển thể sát nguyên bản và

chuyển thể không sát nguyên bản là phụ thuộc vào tác phẩm văn học gốc có

25

đủ yếu tố cần thiết với một bộ phim hay không hay gọi là có giàu chất điện

ảnh hay không. Ngoài ra, chọn kiểu chuyển thể nào còn tuỳ thuộc ở sự lựa

chọn của nhà biên kịch thưởng thức, cảm nhận tác phẩm như thế nào. Trong

sự lựa chọn này, chúng ta cũng phải xét đến vấn đề công chúng. Sự mong

chờ, kỳ vọng và thị hiếu của công chúng cũng góp một phần lớn trong quyết

định của nhà làm phim. Nói tóm lại, lựa chọn kiểu chuyển thể phù hợp để làm

ra những bộ phim hấp dẫn, vừa khơi dậy những giá trị tiềm ẩn của tác phẩm

gốc, vừa cho ra đời những sáng tạo nghệ thuật mới, hấp dẫn, lôi cuốn người

xem là điều quan trọng với mỗi nhà biên kịch trong lĩnh vực chuyển thể này.

Bởi văn học là mảnh đất màu mỡ, khơi nguồn cảm hứng sáng tạo của

điện ảnh nên lựa chọn hình thức chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác

phẩm điện ảnh là một xu hướng đã và đang được nhà điện ảnh khai thác.

Ngoài những thuận lợi có thể nhìn thấy rõ ràng, phương thức này cũng khiến

các nhà biên kịch gặp khó khăn không ít trong quá trình triển khai.

Về mặt thuận lợi: Tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm văn học

được kế thừa những yếu tố cơ bản của tác phẩm gốc như chủ đề tư tưởng, cấu

trúc, cốt truyện, kịch tính, tính cách nhân vật, thậm chí những trường đoạn ấn

tượng, những câu thoại ghi dấu ấn… trong khi các kịch bản điện ảnh sáng tác

mới cần mất thời gian, công phu, sự tính toán cho tất cả những điều cần thiết

của một bộ phim. Thuận lợi thứ hai, chính là việc kế thừa những thành công

sẵn có của tác phẩm văn học gốc. Đặc biệt, với các tác phẩm có tên tuổi, được

công chúng đón nhận, chứa đựng những giá trị được đã khẳng định, tác phẩm

điện ảnh mặc nhiên nhận được sự quan tâm và thu hút đối với khán giả. Nhiều

bộ phim đã gây được sự chú ý của công chúng nhờ việc chuyển thể các tác

phẩm nổi tiếng. Tất nhiên, ngoài sự hấp dẫn của bộ phim còn có một phần

thôi thúc khán giả bởi tò mò muốn xem bộ phim có hay, có hấp dẫn được như

tác phẩm văn học gốc hay không.

26

Mặc dù có nhiều lợi thế, song để làm tốt việc chuyển thể, các nhà làm

phim cũng gặp những khó khăn trong quá trình thực hiện. Sử dụng một loại

công cụ, một ngôn ngữ khác để thể hiện những nội dung được in dấu bởi một

loại hình nghệ thuật đã được thừa nhận khiến nhà biên kịch phải đào sâu suy

nghĩ. Dùng công cụ mới để thể hiện những đặc trưng của thể loại mới mà

không làm mất đi thần thái, phong cách của tác phẩm gốc là điều rất khó. Từ

văn học sang điện ảnh, từ ngôn từ sang hình ảnh, phải giữ được cái cốt cũ

đồng thời làm sinh động, hấp dẫn tác phẩm mới thực sự là một thách thức đòi

hỏi khả năng sáng tạo của nhà biên kịch. Ngoài ra, cũng phải tính đến phương

diện công chúng. Mỗi tác phẩm văn học đều có công chúng riêng. Việc thuyết

phục được công chúng của văn học chuyển sang thưởng thức một loại hình

nghệ thuật khác là điều vô cùng khó khăn. Trong nhiều trường hợp, khi tác

phẩm văn học đã đi sâu vào đời sống, bám rễ trong tư tưởng, tình cảm của

công chúng thì việc thuyết phục càng trở nên khó khăn hơn nhiều. Với những

trường hợp này, nhiều khi, sự thành công của tác phẩm gốc đôi khi lại trở

thành thách thức buộc các nhà biên kịch và đạo diễn phải vượt lên nếu muốn

sản phẩm mới có chỗ đứng trong lòng công chúng.

Tóm lại, chuyển thể là một xu hướng ngày càng được các nhà phim

hưởng ứng. Chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát nguyên bản

cũng là vấn đề khiến các nhà điện ảnh quan tâm suy nghĩ. Mảnh đất văn học

là nguồn mạch vô cùng phong phú, tuy nhiên, chọn được tác phẩm văn học có

đủ yếu tố, đủ chất điện ảnh hay không là điều vô cùng quan trọng. Có trong

tay tác phẩm có đủ yếu tố, giàu chất điện ảnh để chuyển thể, nhà biên kịch

cần sáng suốt lựa chọn kiểu chuyển thể phù hợp là một trong những điều đem

đến thành công của bộ phim.

1.2.2. Vấn đề chuyển thể trong điện ảnh hoạt hình Việt Nam

Phim hoạt hình là thể loại nghệ thuật dùng hình ảnh làm ngôn ngữ biểu

27

hiện. Tuy nhiên, hình ảnh của hoạt hình thực chất được tạo dựng từ sự ghép

nối các hình vẽ tay làm nên sự chuyển động. Bởi vậy, hoạt hình có những đặc

trưng riêng so với các thể loại khác của điện ảnh. Trên cơ sở những đặc trưng

riêng của ngôn ngữ thể hiện sẽ đặt ra những yêu cầu riêng trong quá trình

chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.

Trong quá trình chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm hoạt

hình, sự phân biệt giữa chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát

nguyên bản không được thể hiện rõ nét giống như thể loại phim truyện điện

ảnh. Với đặc trưng trong ngôn ngữ thể hiện của hoạt hình là tính giả định, sự

ước lệ, khoa trương, bay bổng thì không kiểu chuyển thể nào có thể bó hẹp

được sự sáng tạo và cảm hứng bất tận của người nghệ sĩ. Dù là chọn kiểu

chuyển thể sát nguyên bản và tác phẩm gốc có đầy đủ yếu tố của bộ phim

hoạt hình từ cách kể, cách tư duy, hình ảnh, nhân vật… song khi chuyển

sang ngôn ngữ hoạt hình, tức là một kiểu kể chuyện khác bằng hình ảnh dựa

trên những nét vẽ giàu tính giả định và sự sáng tạo của họa sĩ thì bản chất

của kiểu chuyển thể sát nguyên bản là mô phỏng không còn tồn tại nữa. Cho

dù trong kiểu chuyển thể này chúng ta cố gắng giữ vững cấu trúc, cốt truyện,

nhân vật, tính cách, lời thoại… nhưng thực tế điểm quan trọng nhất, linh hồn

của bộ phim hoạt hình là sự chuyển động thì mãi mãi không phải là sự mô

phỏng của tác phẩm gốc, bởi một điều đơn giản: Trong kịch bản điện ảnh

hoạt hình, sự chuyển động do nhà biên kịch viết ra cũng chỉ là một sự gợi ý,

tạo cảm hứng, còn sự chuyển động thực sự, tạo nên tính hoạt của hoạt hình

hoàn toàn nằm trong sáng tạo của người họa sĩ. Với kiểu chuyển thể không

sát nguyên bản sự sáng tạo của nhà biên kịch không bị bó hẹp, tác phẩm văn

học gốc hoàn toàn là một gợi ý để chắp cánh cho trí tưởng tượng của người

nghệ sĩ bay cao, bay xa. Trong kiểu chuyển thể này, khán giả chỉ nhận thấy

28

ý đồ, tư tưởng của tác phẩm gốc ẩn giấu trong bộ phim hoạt hình chứ không

còn nhìn thấy hình hài của tác phẩm văn học.

Khi thực hiện việc chuyển thể các tác phẩm văn học gốc sang tác phẩm

hoạt hình, chúng ta nhận thấy, các nhà biên kịch lựa chọn các tác phẩm văn

học từ hai nguồn: văn học viết và văn học dân gian. Có nhiều nét thú vị trong

quá trình chuyển thể các tác phẩm này sang điện ảnh và hoạt hình. Nếu như

trong phim truyện điện ảnh, nhiều nhà biên kịch lựa chọn kiểu chuyển thể sát

nguyên bản cho các tác phẩm văn học viết và kiểu chuyển thể không sát

nguyên bản đối với các tác phẩm dân gian thì trong hoạt hình lại ngược lại.

Nhiều nhà biên kịch hoạt hình thường chọn kiểu chuyển thể không sát nguyên

bản đối với các tác phẩm văn học viết và kiểu chuyển thể sát nguyên bản đối

với các tác phẩm văn học dân gian. Mặc dù trong hoạt hình, khái niệm “sát”

và “không sát” văn bản gốc cũng rất tương đối, tuy nhiên, với tính giả định,

tượng trưng, ước lệ… của mình, các tác phẩm văn học dân gian với sự tưởng

tượng vô cùng phong phú của quần chúng nhân dân rất phù hợp với đặc trưng

của hoạt hình. Thực tế, với nhiều sáng tác của văn học dân gian, đặc biệt là ở

mảng truyền thuyết, cổ tích… nhà biên kịch chỉ cần thể hiện sát với cốt truyện

dân gian, kịch bản đã mang đậm chất hoạt hình mà ít cần tới sự sáng tạo về

cốt truyện, xung đột, kịch tính, sự biến ảo, phép màu, những điều thần kỳ,

màu nhiệm… Trên thế giới, có rất nhiều bộ phim hoạt hình chuyển thể rất sát

với các tác phẩm văn học dân gian và đã thu được thành công, trở thành

những bộ phim hoạt hình kinh điển như phim hoạt hình Bạch Tuyết và bẩy

chú lùn (phim Mỹ); Công chúa Lọ Lem (phim Mỹ); Người đẹp và quái vật

(phim Mỹ); Nàng công chúa ngủ trong rừng (phim Mỹ)… Với HHVN, kiểu

chuyển thể này lại càng quen thuộc với hàng loạt các phim Sơn Tinh, Thuỷ

Tinh; Chuyện Ông Gióng; Âu Cơ – Lạc Long Quân; Trường ca Đam San…

Ở mảng chuyển thể từ các tác phẩm văn học viết ta nhận thấy, các nhà

29

biên kịch có thể sử dụng nguồn văn học từ các sáng tác mới với nội dung

tự sáng tạo hoặc các sáng tác có nguồn gốc từ dân gian như các tập truyện cổ

của Andersen, Grimm… Với các tác phẩm văn học có nguồn gốc dân gian

này, từ cốt truyện của dân gian, các nhà văn đã kể lại câu chuyện cổ tích,

truyền thuyết theo cách của họ, có lồng ghép tư tưởng hoặc thổi vào nó một

luồng hơi thở của thời đại. Chuyển thể các tác phẩm văn học viết có gốc từ

dân gian giúp cho kịch bản điện ảnh vừa thể hiện được các đặc trưng cơ bản

đồng thời giúp khán giả hiện đại dễ dàng tiếp cận và dung nhập với câu

chuyện hơn. Tiêu biểu cho các bộ phim hoạt hình này phải kể đến những bộ

phim như Nàng tiên cá, chuyển thể từ truyện của Andersen; Bầy chim thiên

nga, chuyển thể từ truyện của Andersen… Ở Việt Nam, các nhà biên kịch

cũng lựa chọn từ những tác phẩm văn học lấy cảm hứng từ dân gian như

Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, Chuyện hoa,

chuyện quả của Phạm Hổ…

Một đặc điểm nữa ta có thể nhận thấy trong quá trình chuyển thể đó là sự

biến đổi, chuyển hoá cái Đẹp từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh. Đây

chính là sự chuyển hoá vẻ phương thức thể hiện cái đẹp bằng ngôn ngữ văn học

sang phương thức ngôn ngữ điện ảnh, biến vẻ đẹp trong trí tưởng tượng thành

trực quan sinh động. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển thể các nhà biên kịch

phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt là có khả năng nhạy cảm để làm tốt

nhiệm vụ chuyển thể bởi thực tế không phải bất cứ sự biến đổi nào cũng mang

lại hiệu quả như mong muốn. Nhiều trường hợp, vẻ đẹp ngôn từ khiến người đọc

thẩm thấu, tâm đắc nhưng khi chuyển sang hình ảnh có thể nhạt nhoà, không tạo

nên sự rung động, cảm xúc hoặc cũng có thể không đảm bảo tính mỹ cảm trong

hình ảnh. Bởi vậy, sự chuyển hoá vẻ đẹp từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện

ảnh phụ thuộc nhiều năng lực của các nhà làm phim. Trên cơ sở sự biến đổi vẻ

30

đẹp này chúng ta càng nhận rõ hơn nữa mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và

điện ảnh, sự hỗ trợ, tương thích của hai loại hình gần gũi này.

Tiểu kết

Phim hoạt hình với các đặc tính của điện ảnh, khi chuyển thể từ tác

phẩm văn học sang tác phẩm hoạt hình ngoài những khó khăn và thuận lợi

giống với chuyển thể tác phẩm điện ảnh song nó cũng có đòi hỏi riêng biệt

hơn và cũng có cái thuận lợi hơn các thể loại điện ảnh khác. Về khó khăn, như

đã nói ở trên, chuyển thể từ ngôn từ sang hình ảnh đã khó, đặc biệt là hình ảnh

hoạt hình thì càng đòi hỏi cao hơn với nhà biên kịch. Tuy nhiên, mặt thuận lợi

cũng rõ rệt hơn, các tác phẩm văn học, đặc biệt là các tác phẩm văn học dân

gian có chất liệu, cảm xúc gần với hoạt hình, có thể là bệ phóng để các tác

phẩm hoạt hình thăng hoa. Phim hoạt hình với đối tượng chính là thiếu nhi,

đặc biệt với phim HHVN - một loại hình nghệ thuật từ trước tới nay vẫn đặt

yếu tố giáo dục lên hàng đầu thì những giá trị thẩm mỹ đã được thẩm định,

được đúc kết, được mọi người thừa nhận trong tác phẩm văn học chính là lợi

31

thế để các nhà làm phim khai thác và phát triển.

HƢƠNG : QUAN NI M VỀ I Đ P VÀ H GIÁ TR TRONG

PHIM HOẠT HÌNH VI T NAM

2.1. Sự phục dựng quan ni m về á Đẹp qua các thành tố của phim hoạt

hình Vi t Nam

Một bộ phim hoạt hình được khán giả yêu thích là bộ phim có thể thoả

mãn được sự kỳ vọng của khán giả. Để làm được điều này, các nhà làm phim

phải đến gần hơn với khán giả, hiểu rõ khán giả, hiểu rõ những mong chờ của

họ đối với bộ phim của mình. Trong khoảng thời gian từ năm 2000 tới nay,

mặc dù đã có một số thành tựu, song phim hoạt hình thực chất chưa thoả mãn

được nhu cầu xem phim của khán giả trong nước cũng như chưa vươn ra ngoài

khu vực và quốc tế. Điều đó thôi thúc chúng ta cần phải tìm hiểu căn nguyên,

cội rễ xem trong thời gian qua, phim HHVN đã hướng đến một hệ giá trị thẩm

mỹ như thế nào? Cần nhận thức được hệ giá trị trong phim HHVN có gì tương

thích hoặc khác biệt so với phim hoạt hình thế giới? Chúng ta cũng cần tìm

hiểu hệ giá trị thẩm mỹ trong các phim HHVN đã thể hiện quan niệm của các

nhà làm phim HHVN như thế nào về cái Đẹp, về lý tưởng thẩm mỹ. Ở đây,

chúng ta phải luôn xét đến đặc điểm riêng biệt của HHVN là luôn coi thiếu nhi

là đối tượng khán giả đầu tiên mà chúng ta hướng tới. Thông qua việc phân tích

các phim hoạt hình chuyển thể từ nguồn văn học, đề tài nghiên cứu phải nhận

định được mối quan hệ giữa văn học và hoạt hình, đánh giá đúng vị trí và sự

tác động của văn học đối với việc định hình “cái Đẹp” của phim hoạt hình.

Để thấy rõ những giá trị cơ bản trong quan niệm về cái Đẹp thể hiện

trong các bộ phim, chúng ta sẽ tiếp cận nó thông qua các yếu tố: đề tài, hình

tượng nhân vật, câu chuyện - cốt truyện và hình thức tự sự trong các bộ

phim hoạt hình.

2.1.1. Hệ thống đề tài

32

Trong số gần 200 bộ phim hoạt hình sản xuất trong 15 năm qua thì

các tác phẩm chuyển thể từ gốc văn học chiếm một phần lớn. Các tác phẩm

văn học gốc này khai thác mảng chất liệu rất phong phú, nhờ đó hệ thống

đề tài trong phim HHVN thời kỳ này cũng rất đa dạng.

Qua khảo sát, chúng ta nhận thấy mảng đề tài bao trùm trong phim hoạt

hình giai đoạn này thường được các nhà làm phim hướng tới là: đề tài gia

đình - xã hội, đề tài con người cá nhân (trong đó có vấn đề tình yêu, nhân

cách, nhân sinh quan); đề tài môi trường - môi sinh; đề tài lịch sử…

Về mảng đề tài gia đình – xã hội: Do yêu cầu đặc trưng của thể loại

hoạt hình, khi khai thác các đề tài về gia đình - xã hội, không phải vấn đề nào

cũng được các nhà làm phim đưa lên màn ảnh. Nhiều đề tài mang tính xã hội

được khai thác mạnh mẽ trong tác phẩm văn học, song khi chuyển thể sang

hoạt hình, lại cần phải cân nhắc thận trọng. Bởi vậy, các nhà làm phim thường

dung hoà giữa yếu tố thực và ảo, dùng các câu chuyện ngụ ngôn, đồng thoại,

lấy các câu chuyện của các con vật để nói về chuyện của con người. Với cách

làm này, dường như các vấn đề cuộc sống, những thực tế, gai góc của hiện

thực được khái quát hoá khiến khán giả tiếp nhận một cách sâu sắc và thấm

thía hơn. Cũng nhờ vậy, phim HHVN vốn thiên nhiều về tính giáo dục, các bộ

phim ít hay nhiều đều chứa đựng những bài học kinh nghiệm và triết lý sống

đã phần nào giảm đi sự khô khan, cứng nhắc. Những bộ phim được chuyển

thể từ các tác phẩm văn học, khai thác các vấn đề xã hội thể hiện qua các câu

chuyện ngụ ngôn hoặc kể chuyện con vật để nói về con người như: Ve sầu và

Bọ ngựa (2013) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới về chuyện bọ ngựa

rình bắt ve bị chim sẻ tấn công…; Đeo lục lạc cho mèo (2014) chuyển thể từ

truyện ngụ ngôn thế giới kể về chuyện bầy chuột nghĩ ra việc đeo chuông cho

mèo để báo động nhưng không con nào đủ can đảm thực hiện; Sếu và Cáo

33

(2006) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới dựa trên việc Cáo mời Sếu thức

ăn đựng trong đĩa và Sếu lại đãi Cáo với thực ăn trong chiếc bình cao cổ;

Chuyến đi xa của Tắc kè (2006) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà

văn Vũ Duy Thông kể về câu chuyện chú Tắc kè đi một ngày đàng, học một

sàng khôn; Anh chàng số 9 (2013) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của

nhà văn Trần Ninh Hồ về mối quan hệ của các con số trong một hộp đồ

chơi… Gia đình là mảng đề tài luôn được các nhà làm phim HHVN chú trọng

khai thác. Bởi vậy, số lượng phim về tình cảm gia đình, mối quan hệ trong gia

đình cũng chiếm một phần đáng kể trong các phim HHVN. Luôn coi khán giả

ở lứa tuổi thiếu nhi là đối tượng phục vụ chủ yếu, có nhiều bộ phim hoạt hình

chuyển thể từ tác phẩm văn học về tình cảm mẹ - con, cha - con, tình anh -

em, bà - cháu, ông - cháu đã chạm được đến trái tim của lớp khán giả nhỏ tuổi

như: Chiếc nôi trên vách đá (2003), chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của

nhà văn Vũ Duy Thông nói về tình yêu thương, sự hy sinh của chim yến mẹ,

dùng máu và nước dãi để xây tổ cho con, sẵn sàng lao mình vào nguy hiểm để

bảo vệ những đứa con của mình; Sự tích cái nhà sàn (2001) chuyển thể từ

truyện cổ Việt Nam nói về tình anh em ruột thịt, cùng nhau đương đầu, chống

lại nguy hiểm…; Theo dấu chân hươu, chuyển thể từ truyện cổ dân tộc Tày -

Nùng, là câu chuyện về tình cha con và cuộc hành trình chống lại đàn sói, đi

tìm người cha bị biến thành hươu của cậu bé Pảo… Nhìn chung, các bộ phim

đề tài gia đình, thể hiện quan niệm trọng những vẻ đẹp thiên về xúc cảm, tình

cảm hơn là lý trí; sự ổn định hơn là biến đổi trong quan niệm của các nhà làm

phim. Bởi vậy, có nhiều bộ phim hoạt hình sâu sắc, phù hợp với cách nghĩ

của người Việt Nam, ẩn chứa những suy tư, trăn trở của chính khán giả vể

cuộc sống của bản thân họ. Các phim hoạt hình về đề tài này nhờ vậy mang

giá trị hiện thực, gần gũi với cuộc sống tình cảm của người Việt hơn.

34

Về mảng đề tài con người cá nhân: Qua khảo sát, chúng ta nhận thấy

các phim hoạt hình thuộc mảng đề tài này thường khai thác vấn đề về tình

yêu, nhân cách, nhân sinh quan… như: Quạ hói và Bồ câu (2006), chuyển thề

từ truyện ngụ ngôn thế giới, thông qua chuyện con quạ vì muốn trà trộn vào

đàn bồ câu mà sẵn sàng từ bỏ chính mình, nhuộm bộ lông đen thành trắng,

cuối cùng phải trả giá về chính quyết định sai lầm của nó; Cồ và Chíp (2008)

chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Trần Công Nghị, kể về anh

em nhà gà chọi giỏi võ nhưng luôn coi võ là để rèn luyện sức khoẻ, bồi dưỡng

nhân cách chứ không phải để khoe khoang, bắt nạt kẻ yếu; Tài biết bay của

Ếch (2012) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới kể về chuyện một con ếch

kiêu căng, ngạo mạn, không biết lượng sức mình, muốn bay lên trời cao và đã

phải trả giá bằng chính tính mệnh của nó; Ước mơ cây đàn (2011) chuyển thể

từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Vũ Duy Thông về chuyện cây đàn ghita

nằm trong viện bảo tàng vẫn rung lên khúc quân hành để ôn lại những kỷ

niệm hào hùng trong những năm tháng chiến đấu gian khổ… Các phim hoạt

hình khai thác đề tài tình yêu lại có những đặc điểm riêng biệt. Vì luôn coi đối

tượng phục vụ chính là các em thiếu niên, nhi đồng mà các phim về đề tài

này thường thiên về tình cảm yêu thương đồng loại, yêu quê hương đất nước,

yêu thiên nhiên môi trường. Số lượng phim khai thác chuyện tình yêu nam nữ

khá hạn chế. Đề tài tình yêu nam - nữ nếu có, cũng chỉ khai thác dưới dạng ẩn

dụ, những câu chuyện cổ tích hoặc lịch sử như trong các phim Truyền thuyết

hoa hướng dương (2012) chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam, Mỵ Châu, Trọng

Thuỷ (2014), chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam… Có thể thấy, gần như toàn

bộ các bộ phim HHVN khai thác chủ đề tình yêu nam nữ đều dựa trên các tác

phẩm văn học. Các nhà làm phim tin tưởng những câu chuyện này đã được đã

được thẩm định bởi công chúng văn học. Qua đó, những giá trị thẩm mỹ cũng

được khẳng định trong tác phẩm văn học gốc. Các nhà làm phim coi đây là lợi

35

thế lớn khi khai thác mảng đề tài này.

Về mảng đề tài môi trường - môi sinh: Những năm gần đây, các vấn đề

về thành thị, nông thôn, môi trường luôn được các nhà làm phim đặc biệt chú

trọng. Điều này cho thấy sự quan tâm của khán giả đến các yếu tố môi trường,

tới ranh giới ngày một lung lay giữa nông thôn và thành thị. Nắm bắt được sự

quan tâm của khán giả với đề tài này, hàng loạt phim hoạt hình về tình trạng ô

nhiễm môi trường, công nghiệp hoá dẫn đến phá vỡ cảnh quan, đô thị hoá các

làng mạc được khai thác như: Bước qua hai thế giới (2015), chuyển thể từ

truyện ngắn Vương quốc tàn lụi của nhà văn Trần Đức Tiến nói về việc con

người phá huỷ môi trường khiến môi trường chúng ta sống trở thành thế giới

của rác; Thủ lĩnh vây lửa dựa theo truyện ngắn Thủ lĩnh Chì Gộc của nhà văn

Trần Quốc Tuấn kể về hành trình đưa bầy cá thoát khỏi ao tù, hạn hán đến với

vùng nước mới; Hiệp sĩ áo xanh (2008) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên

của nhà văn Ngô Văn Phú nói về hiệp sĩ Bọ ngựa luôn nêu cao tinh thần

chống lại những kẻ phá hoại môi trường… Các phim hoạt hình thuộc đề tài

môi trường thường phát huy hết đặc trưng của thể loại, mang đến cho người

xem những dự đoán cũng như toàn cảnh của thảm họa môi trường trong tương

lai, gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với vấn đề môi trường hiện tại. Các

phim hoạt hình về môi trường vì thế đáp ứng được tính thời sự, phản ánh

được những vấn đề nóng đang được sự quan tâm của dư luận, tăng thêm giá

trị cho phim HHVN trong nhịp sống hiện đại.

Về mảng đề tài lịch sử: Trong giai đoạn 2000 - 2015, nhiều phim hoạt

hình lịch sử được đầu tư công phu và đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của

khán giả. Phần lớn các phim HHVN tập trung khai thác quá trình hình thành

và xây dựng đất nước, công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc,

những nhân vật lịch sử, danh nhân lịch sử như: Hào khí Thăng Long (2012)

chuyển thể từ bộ tiểu thuyết Thăng Long nổi giận của nhà văn Hoàng Quốc

36

Hải, nói về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân và dân nhà

Trần; Giấc mơ Loa Thành, (2010) chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam, kể về

công cuộc xây dựng thành Cổ Loa bảo vệ đất nước của An Dương Vương; Mỵ

Châu - Trọng Thuỷ (2014) chuyển thể từ truyện dân gian Việt Nam với câu

chuyện nỏ thần và sự sụp đổ của Loa thành trước những âm mưu chính trị của

giặc ngoại xâm... Với những yêu cầu cao và khá đặc biệt của phim hoạt hình

lịch sử, các nhà làm phim cần rất nhiều sự hỗ trợ của tác phẩm văn học gốc để

thể hiện cho chính xác với tư tưởng, quan điểm lịch sử, phong tục, tập quán,

xưng hô đến những chi tiết nhỏ nhặt trong kiến trúc, trong trang phục, đạo

cụ… Nhờ chất liệu văn học vô cùng phong phú trong cuốn tiểu thuyết Thăng

Long nổi giận, mà đạo diễn, họa sĩ, biên kịch phim Hào khí Thăng Long được

gợi ý cụ thể, sinh động về hình dáng, kiến trúc của bối cảnh cung điện, tỉ mỉ

tới từng chi tiết như tạo hình con rồng thời Trần khác rồng thời Lý như thế

nào; có được nguồn tư liệu quý giá về phong tục, tập quán như uống rượu

bằng mũi khi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đi thu phục tù trưởng Giác

Mật hay cách xưng hô của vua thời Trần khác với triều đại khác ra sao… Dựa

vào câu chuyện dân gian về mối tình Mỵ Châu, Trọng Thuỷ với truyền thuyết

về sự hình thành của ngọc trai, của giếng ngọc ở đền Cổ Loa mà các nhà làm

phim Mỵ Châu, Trọng Thuỷ đã tái hiện được câu chuyện lịch sử với cách nhìn

nhận sâu sắc về chiến tranh, về thân phận con người trong chiến tranh và bài

học cảnh giác với ngoại xâm để bảo vệ đất nước… Vận dụng tới mức tối đa

các kiến thức lịch sử trong các tác phẩm văn học phục vụ việc làm phim của

mình, các nhà làm phim HHVN trở nên phụ thuộc nhiều vào gốc văn học hơn

khi khai thác mảng đề tài lịch sử này.

Qua các mảng đề tài được kể trên, chúng ta có thể nhận thấy một số

nét nổi bật trong quan niệm thẩm mỹ: đó chính là các nhà làm phim thường

chọn các vấn đề gần gũi với cuộc sống như sinh hoạt, lao động, học tập, vui

37

chơi; mối quan hệ tình cảm trong gia đình, môi trường - vấn đề nóng của

xã hội hiện đại hay đề tài lịch sử đang cần được coi trọng. Nét đặc trưng

riêng này giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau giữa quan niệm thẩm

mỹ của các phim hoạt hình phương Tây và HHVN. Trong khi hoạt hình

phương Tây luôn hướng tới những cái cao cả, vượt lên trên cuộc sống thì

phim HHVN lại chọn cái gần gũi, đi sâu khai thác những cái bình dị, chân

thực xung quanh. Việc hướng tới các đề tài gần gũi cuộc sống, khai thác

những thứ hiển hiện ngay trong đời sống cho thấy, các nhà làm phim coi đó

chính là biểu hiện của cái Đẹp trong quan niệm thẩm mỹ, là xu hướng mà

HHVN hướng tới.

2.1.2. Hình tượng nhân vật

Một yếu tố nữa trong phim HHVN thể hiện rõ nét quan niệm thẩm mỹ

chính là sự thể hiện cái Đẹp qua hình tượng nhân vật. Tìm hiểu và tổng kết lại

những dạng hình nhân vật hoạt hình mà các nhà làm phim thường lựa chọn để

thể hiện, chúng ta nhận thấy một số đặc điểm sau: kể từ năm 2000 về trước,

các mẫu nhân vật lý tưởng trong phim HHVN được yêu thích và xuất hiện

thường xuyên là các nhân vật thần tiên, bụt, phù thủy… Từ năm 2000, các

nhân vật này không được khai thác nhiều, cho thấy những quan điểm mới

trong cách xây dựng nhân vật. Trong giai đoạn này, nhân vật được coi là lý

tưởng là những con người bình thường trong cuộc sống: đó là các cậu bé, cô

bé trong đời sống hiện đại hoặc các con vật, đồ vật được nhân cách hóa như

những con người hoặc chính là những con người có trí thông minh, có tài

năng đặc biệt hoặc có ý chí phấn đấu vượt qua sai lầm, khắc phục các thiếu

sót, được giác ngộ hoặc tự mình giác ngộ để hoàn thiện bản thân, hoàn thành

mục tiêu phấn đấu và mẫu nhân vật lịch sử, người anh hùng là tấm gương để

khán giả noi theo.

38

Trên cơ sở những hình mẫu nhân vật nói trên, có thể thấy, thông qua

việc xây dựng nhân vật lý tưởng, hình mẫu nhân vật, các nhà làm phim và

khán giả đang hướng tới một cái Đẹp gần gũi, xây dựng các nhân vật có ngoại

hình, tính cách là sự mô tả, phản ánh người và vật xung quanh mình chứ

không phải cái Đẹp xa vời, tách rời cuộc sống hiện thực.

Nếu như trước đây, các nhân vật như ông bụt, bà tiên, phù thủy…

thường xuyên xuất hiện bởi khán giả yêu thích câu chuyện có các nhân vật

thần bí giải quyết các vấn đề khó khăn, để tạo ra các phép màu, để giúp đỡ

những người tốt, trừng phạt kẻ xấu hoặc chỉ đơn thuần là xuất hiện để thỏa

mãn mong ước được nhìn thấy những nhân vật thần kỳ như trong các phim:

Cây khế (1963), Cây tre trăm đốt (1982), Quả bầu tiên (1991), Chú chuột

biến hình (1995), Chiếc ô đỏ (Chiếc ô đỏ)… thì ngày nay, quan niệm ấy đang

dần dần thay đổi. Khán giả vẫn thích, vẫn mong ước được nhìn thấy những

phép màu, những điều kỳ diệu của cuộc sống nhưng họ khao khát điều đó thể

hiện ở những người bình thường ở xung quanh, muốn nhìn thấy điều kỳ diệu,

phép màu do chính ý chí và bàn tay con người tạo nên.

Với mong muốn đó, khán giả thích dạng nhân vật biết tự khám phá

năng lực của bản thân, rèn luyện hoặc đấu tranh để có thể tạo nên phép

màu, tự dệt nên ước mơ và nỗ lực biến chúng thành hiện thực. Dựa trên

mẫu nhân vật này, chúng ta nhận thấy, quan niệm về cái Đẹp trong sự lựa

chọn nhân vật hoạt hình giai đoạn này là: nhân vật được coi là đẹp, được

khán giả yêu thích phải là những con người chủ động, mạnh mẽ, có nghị

lực phấn đấu, rèn luyện, làm chủ cuộc sống, biết ước mơ và phấn đấu để

hoàn thành những ước mơ của mình. Điểm qua hàng loạt các bộ phim

HHVN trong 15 năm qua, chúng ta có thể kể ra rất nhiều các nhân vật được

khán giả yêu thích như: chú cá vây lửa trong phim Thủ Lĩnh vây lửa, dũng

cảm kiên cường, dám nghĩ dám làm, đương đầu với mọi khó khăn để đưa

39

bầy cá vượt qua hạn hán, đến vùng nước mới tự do bơi lội; chú cua con

trong phim Càng to càng nhỏ, dần dần qua những trải nghiệm cuộc sống đã

tự mình giác ngộ, tự khám phá ra thế mạnh và nhận ra những giá trị của

bản thân để làm nên những điều tốt đẹp cho cuộc sống; hoặc chú chim đại

bàng trong Bay về phía bầu trời từ một quả trứng lưu lạc, sinh trưởng

trong đàn gà nhưng bản năng và sự yêu thích bầu trời trỗi dậy, chú không

từ bỏ ước mơ, khát vọng của mình mà vẫn quyết tâm rèn luyện và đã biến

ước mơ thành sự thực, trở lại với bầu trời.

Thậm chí, trong giai đoạn này, cho dù nhiều phim hoạt hình có sự góp

mặt của các nhân vật thần tiên với những yếu tố thần kỳ, phép màu huyền bí thì

sự xuất hiện của họ cũng không đơn thuần như trong các phim giai đoạn trước

2000. Trong các phim trước đây, các nhà làm phim thường để nhân vật thần

tiên đồng hành cùng nhân vật chính. Mỗi khi nhân vật chính gặp khó khăn là

thần tiên hiện lên giúp đỡ. Trong thời kỳ hiện tại, khán giả cho rằng ngoài hiền

lành tốt bụng, nhân vật còn cần nhiều phẩm chất hơn nữa mới xứng đáng nhận

được phép màu: họ phải tự phấn đấu, nỗ lực, bỏ tâm ý và công sức, vượt qua

các trở ngại của bản thân chứ không thể thụ động trông chờ vào thế lực huyền

bí nào. Chính vì thế, nhân vật thần tiên chỉ xuất hiện khi nhân vật chính đã làm

hết sức mình, thể hiện sự xứng đáng của họ như trong phim Sự tích Hồ Ba bể;

Sự tích cái nhà sàn; Truyền thuyết Hoa hướng dương; Theo dấu chân hươu…

Trong các bộ phim này, phép màu và nhân vật thần tiên xuất hiện rất hợp lý, là

kết quả tất yếu của những nỗ lực của nhân vật chính. Có thể nói, nhân vật thần

tiên xuất hiện chính là thành quả do nhân vật chính tạo nên để giải quyết vấn đề

của chính mình. Nếu nhân vật thần tiên này không xuất hiện thì sẽ có nhân vật

thần tiên khác, thậm chí không phải là thần tiên mà là một con người có khả

năng đặc biệt xuất hiện để giải quyết sự việc - bởi thực ra sự nỗ lực của nhân

vật chính đã làm nên điều đó rồi. Với quan niệm như vậy, chúng ta gặp trong

40

hàng loạt bộ phim hoạt hình có các nhân vật bình thường tạo nên được những

phép màu của cuộc sống: cậu bé trong Chiếc áo tàng hình, sở hữu chiếc áo tàng

hình do chính mình dệt nên để giúp đỡ mọi người; là chú đại bàng trong Bay về

phía bầu trời vốn sống cuộc sống của một chú gà con, trước an nguy của người

anh em đã bất ngờ tung cánh bay lên, chiến đấu chống lại kẻ thù bảo vệ người

anh em được an toàn... Tóm lại, những nhân vật gần gũi với khán giả, gắn với

cuộc sống hiện thực nhưng lại có đủ các tố chất như ý chí, nghị lực và năng lực

để tạo nên những điều phi thường chính là nhóm nhân vật được coi là hình mẫu

lý tưởng trong quan niệm về cái Đẹp của các nhà làm phim HHVN khi xây

dựng tác phẩm của mình.

Những nhân vật lịch sử, người anh hùng là tấm gương để khán giả noi

theo cũng luôn là các nhân vật được khán giả hoạt hình hình ưa thích. Hàng

loạt những danh tướng, danh nhân, nhân vật lịch sử nổi tiếng xuất hiện trong

các bộ phim hoạt hình lịch sử được khán giả yêu thích như: Trần Quốc Tuấn -

vị quốc công tiết chế tài giỏi, mưu lược, lãnh đạo quân dân ta ba lần kháng

chiến chống quân Nguyên Mông trong phim Hào khí Thăng Long. Ở nhân vật

Trần Quốc Tuấn, khán giả cảm phục trước tài năng quân sự nhưng thực sự

ngưỡng mộ trước tinh thần hết mình vì đất nước, sẵn sàng đặt lợi ích chung

trên lợi ích cá nhân của ông qua việc dẹp thù nhà để dốc lòng đánh giặc, bỏ qua

hiềm khích cá nhân để cổ vũ lòng quân… Cái Đẹp ở nhân vật Trần Quốc Tuấn

chính là sự kết hợp của vẻ đẹp Chân - Thiện - Mỹ thể hiện trong tài năng, nhân

cách của một vị tướng đã được nhân dân tôn xưng là thánh Trần. Bộ đôi nhân

vật Mỵ Châu - Trọng Thuỷ trong phim Mỵ Châu, Trọng Thuỷ cũng được khai

thác với cách tiếp cận đa chiều, cách nhìn nhận sâu sắc với một quan niệm mới,

mang hơi thở của thời đại - đó chính là vẻ đẹp bi tráng của một mối tình đôi lứa

riêng tư trước những âm mưu, toan tính của các thế lực chính trị. Nhân vật vừa

đáng giận, vừa đáng thương, vừa là đồng phạm gây nên chiến tranh nhưng

41

cũng chính là nạn nhân của chiến tranh, là quân cờ trên bàn cờ chính trị. Vẻ

đẹp đa chiều, mang nội tâm và hơi thở thời đại cũng chính là hình mẫu phù hợp

với thị hiếu của khán giả hoạt hình đương đại.

Nhìn chung, dựa trên việc xây dựng nhân vật lý tưởng, chúng ta có thể

khẳng định, hình mẫu nhân vật được yêu thích, biểu hiện rõ nhất quan niệm

về cái Đẹp của HHVN đương đại chính là những nhân vật có tính cách, có

tâm lý, hành động và suy nghĩ gần với thế giới đương đại, là chính chúng ta

và những người xung quanh.

2.1.3. Câu chuyện, cốt truyện

Một trong những yếu tố quan trọng khiến khán giả chờ đợi đối với một

bộ phim hoạt hình chính là nội dung bộ phim thể hiện qua câu chuyện, cốt

truyện. Với gần 200 bộ phim với đủ thể loại phim ngắn 10 phút, phim dài từ

30-60 phút, phim nhiều tập - HHVN đã gửi đến khán giả rất nhiều câu chuyện

đa dạng. Với mỗi bộ phim, các nhà làm phim lại có một cách cách triển khai

câu chuyện, hướng phát triển của cốt truyện. Một số bộ phim có câu chuyện

phức tạp với nhiều kịch tính, nhiều hành động nhưng cũng có bộ phim với

cách kể thiên về hình ảnh khái quát ước lệ, không chú trọng yếu tố nội dung,

nhất là các phim triết lý, phim thể nghiệm.

Tuy nhiên, có thể nhận thấy, hướng phát triển câu chuyện, cốt truyện

kể về cuộc hành trình của nhân vật (dạng phim hành trình) luôn được các nhà

làm phim HHVN lựa chọn ở mức độ cao nhất. Trong những truyện phim

dạng này, nhân vật trải qua cuộc hành trình, vượt qua thử thách rồi tìm được

thế giới của chính mình, đạt được ước mơ, làm thay đổi số phận luôn hấp dẫn

người xem như phim Sự tích cái nhà sàn với cuộc chiến đấu của hai anh em

cùng với rùa thần chống lại những con thuỷ quái, tạo nên những phép màu

của cuộc. Một kiểu hành trình khác mà nhân vật gặp biến cố, phải thay đổi để

vượt qua khủng hoảng như phim “Thủ Lĩnh vây lửa” - chú cá Vây lửa đang

42

sống trong bình, do bị buộc phải làm cá chọi mà chú chán ghét, tìm cơ hội

trốn đi nhưng lại sa vào đúng chiếc ao đang bị hạn hán. Nhờ trí tuệ và sự

quyết đoán của mình, chú đã dẫn đàn cá vượt qua khó khăn, trở ngại đến được

vùng nước rộng lớn, thoả sức sống cuộc sống tự do. Hay trong phim Bước

qua hai thế giới, chú bé do phá hoại môi trường bị cuốn tới thế giới của rác

thải. Tại đây, chú bé và các bạn phải chiến đấu chống lại quỷ rác. Dùng hết

khả năng và đoàn kết nhau lại, các chú bé đã rọn dẹp rác thải, tiêu diệt quỷ rác

để trở về thế giới tươi đẹp của mình… Đặc biệt, nhiều bộ phim trong giai

đoạn này cũng kể về cuộc hành trình tìm lại chính mình của các nhân vật

chính. Ở những bộ phim này, nhân vật chưa trưởng thành, gây ra sai lầm, dẫn

đến biến cố, được sự giúp đỡ, giác ngộ hiểu ra những giá trị tốt đẹp của chính

mình. Những nhân vật đó là: số 9, nhân vật chính trong phim Anh chàng số 9,

kiêu ngạo tự cho mình là lớn nhất, bị bạn bè tẩy chay, sống cuộc sống cô đơn

- nhờ mọi người giúp sức, số 9 mới hiểu ra mỗi người đều có vị trí riêng, ai

cũng là người quan trọng đối với công việc của mình; chú cua con, trong

phim “Càng to, càng nhỏ”, vì chán ghét một chiếc càng nhỏ bé mà chú đã bỏ

đi, để tìm cách cho hai chiếc càng to bằng nhau. Trong khó khăn, nguy hiểm,

sự khéo léo của chiếc càng nhỏ, phối hợp với sức mạnh của chiếc càng lớn

giúp chú hiểu ra ý nghĩa và giá trị của mỗi chiếc càng… Với thế mạnh được

chuyển thể từ tác phẩm văn học gốc, những tình tiết, tình huống, câu chuyện

giàu chất văn học đã gợi ý, khơi nguồn, tạo cho các nhà làm phim đất diễn để

thăng hoa, mặc sức thể hiện bằng ngôn ngữ điện ảnh hoạt hình. Chính vì vậy,

khi so sánh hành trình của nhân vật trong các tác phẩm hoạt hình, dường như

sự ly kỳ, hấp dẫn được đẩy cao hơn, hiệu quả về mặt hình ảnh khiến cảm giác

của khán giả mạnh mẽ hơn, chân thực hơn.

Có thể thấy, đa số các câu chuyện, cốt truyện được ưu tiên lựa chọn

trong giai đoạn sáng tác này không đơn thuần chỉ là những chuyện thần

43

tiên, thiện ác mà các nhà làm phim muốn hướng tới việc xây dựng cốt

truyện, câu chuyện trong đó nhân vật cần phải va chạm, tôi luyện để

trưởng thành, vượt qua thất bại để thành công, bị nhấn chìm trong khủng

hoảng, được giác ngộ để vươn lên, hoàn thiện mình. Dựa trên định hướng

đó, màu sắc thẩm mỹ được các nhà làm phim quan tâm chính là sự “ly kỳ

hấp dẫn”, sự “chân thực” của truyện phim. Khán giả được dẫn dắt, đi từ

tình huống này tới tình huống khác, từ cao trào này đến cao trào khác theo

hành trình của nhân vật, cùng vượt qua khó khăn thử thách, cùng vui buồn

trải nghiệm với nhân vật và cùng nhận thức, giác ngộ với nhân vật qua

những bài học, những thông điệp về cuộc sống..

2.1.4. Phương thức tự sự

Phim hoạt hình với đặc trưng giàu trí tưởng tượng, cường điệu, khoa

trương, luôn chuyển động tạo nên những yêu cầu riêng biệt trong cách kể

chuyện. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa hư và thực, thế giới tưởng tượng và

hiện thực là điều vô cùng khó khăn. Điều đó buộc các nhà làm phim phải tìm

ra phương thức tự sự thích hợp để diễn tả trọn vẹn câu chuyện, đem đến cho

khán giả câu chuyện dễ hiểu nhưng lôi cuốn, hấp dẫn bằng hình ảnh trực

quan sinh động.

Khảo sát qua gần 200 phim sản xuất trong giai đoạn này, chúng ta nhận

thấy đa số các phim HHVN lựa chọn hình thức kể chuyện dưới dạng câu

chuyện ngụ ngôn, đồng thoại, kể về các loài vật để nói tới con người, kể câu

chuyện xưa để nói vấn đề hôm nay. Hình thức tự sự này được coi là phương

pháp truyền tải nội dung phổ biến nhất của HHVN, được các nhà làm phim ưu

tiên lựa chọn. Phương thức tự sự này có thể dung hoà được các yêu cầu của

phim, thể hiện các thông điệp gần gũi của cuộc sống bằng những câu

chuyện, nhân vật đậm chất hoạt hình, lấy chuyện đồ vật xung quanh để nói

đến chuyện của chính mình. Kiểu tự sự này ta gặp trong phim Tiếng nhạc ve

44

chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới - lấy chuyện Ve sầu say sưa

chơi nhạc bị Kiến chê cười, chỉ mải chơi nhạc, đến lúc đói thì đừng có kêu.

Tới khi, Ve sầu bị ốm, không chơi nhạc khiến Kiến buồn bã, uể oải không

muốn lao động, Kiến mới hiểu giá trị của tiếng nhạc, của công việc Ve sầu

đang làm. Qua chuyện của Ve và Kiến, câu chuyện của công việc, của loài

người được thể hiện một cách sinh động, đáng yêu và dễ hiểu. Một bộ phim

khác cũng cũng sử dụng hình thức tự sự này là phim Ve vàng và Dế lửa

chuyển thể từ truyện của nhà văn Lê Trường Đại với câu chuyện Ve vàng

gian lận trong cuộc thi âm nhạc bị tẩy chay còn Dế lửa chăm chỉ luyện tập

giành được sự cổ vũ của mọi người. Dưới hình thức kể chuyện đồng thoại

này, bài học về những giá trị đích thực của tài năng trong cuộc sống hiện đại

được thể hiện một cách hình tượng, đầy ẩn ý.

Việc sử dụng cách kể chuyện lấy chuyện xưa để nói vấn đề của hôm

nay cũng thường xuyên được sử dụng trong phim HHVN. Một số bộ phim

hoạt hình khai thác các câu chuyện dân gian đã gửi gắm những bài học và

kinh nghiệm cuộc sống với mong muốn hướng con người đến những điều tốt

đẹp của cuộc sống như: Sự tích Đảo Bà kể chuyện bà Goá với tấm lòng yêu

thương con người và loài vật đã được bà tiên giúp đỡ, thoát khỏi cơn đại

hồng thuỷ, tạo nên Đảo Bà trên Hồ Ba bể; Mỵ Châu - Trọng Thuỷ với bài

học cảnh giác trong công cuộc bảo vệ đất nước, không được lơi là trước các

âm mưu, thủ đoạn của các thế lực ngoại xâm… Những thông điệp, triết lý

sống toát lên từ các câu chuyện xưa luôn có tính cảnh báo, thức tỉnh mỗi

chúng ta trong giai đoạn hiện tại.

Nhìn chung, với phương thức kể chuyện nói trên, những bài học khô

cứng, những thực tế tầm thường trở nên sinh động, dễ thể hiện, dễ tiếp nhận.

Cách kể chuyện ẩn dụ này còn tạo cho người xem những ấn tượng sâu sắc,

45

thúc đẩy người xem đào sâu suy nghĩ, mở rộng thêm ý nghĩa của bộ phim, của

thông điệp mà nhà làm phim muốn truyền tải. Ngoài ra, dùng cách kể chuyện

thông qua các con vật để nói chuyện của con người, vô hình trung chúng ta

được tiếp xúc với một thế giới mới của đồ vật, thế giới của các loài động vật.

Thông qua việc diễn tả hết sức gần gũi và chân thật về đời sống, sinh hoạt, tập

quán của các con vật, các bộ phim hoạt hình còn cung cấp cho khán giả

những hiểu biết, nhận thức, kiến thức khoa học. Bởi vậy, ngoài việc truyền tải

thông điệp của bộ phim, khán giả còn bổ sung cho mình nhiều kiến thức khoa

học, biết thêm nhiều đặc điểm thú vị của các loài sinh vật như: chim yến mẹ

treo mình trên vách đá, dùng nước dãi và máu để kết tổ cho con; Ve và Dế có

tiếng kêu hay như nhạc, Kiến thường quanh năm tích trữ thức ăn trong tổ…

Bên cạnh các phương thức kể chuyện bằng ngụ ngôn, dùng chuyện xưa

để nói chuyện thời nay, nhiều phim cũng lựa chọn lối kể chuyện gần gũi cuộc

sống hiện đại để giúp khán giả tiếp cận vấn đề nhanh hơn, trực diện hơn. Các

bộ phim như Bước qua hai thế giới với những vấn đề nóng hổi như bảo vệ

môi trường; Chiếc áo tàng hình là sự rèn luyện, trưởng thành của con người,

Theo dấu chân hươu với tình cha con sâu sắc… là những phim tiêu biểu.

Vận dụng linh hoạt các thế mạnh của thể loại, kết cấu tự sự trong các

phim HHVN khá linh hoạt. Với những bộ phim hướng tới khán giả nhỏ tuổi,

các nhà làm phim thường kể theo trình tự tuyến tính, kết cấu đơn tuyến. Câu

chuyện vì thế trở nên mộc mạc, dễ hiểu, dễ tiếp nhận như các phim: Chiếc nôi

trên vách đá; Thủ lĩnh vây lửa, Sự tích cái nhà sàn… Một số phim nội dung

phức tạp, dành cho lứa tuổi lớn hơn được các nhà làm phim sử dụng kết cấu

đa tuyến, sử dụng cách kể đảo trật tự thời gian như: Truyền thuyết Hoa hướng

dương; Mỵ Châu, Trọng Thuỷ; Theo dấu chân hươu…

Để thể hiện câu chuyện một cách gần gũi, dễ hiểu nhất với khán giả

46

hoạt hình, các nhà làm phim cũng luôn phải sử dụng điểm nhìn tự sự tuỳ với

mỗi kiểu câu chuyện. Ở các câu chuyện có trình tự kể chuyện theo tuyến

tính, kết cấu đơn tuyến, người kể chuyện thường hoá thân vào các nhân vật

hoạt hình để kể câu chuyện của mình. Trong các phim này, điểm nhìn tự sự

đặt ở chính các nhân vật hoạt hình như: câu chuyện của được kể từ điểm

nhìn của chính cua con, nhân vật chính của bộ phim Càng to, càng nhỏ;

hành trình vượt khỏi ao tù hạn hán của bầy cá được Vây lửa trong phim Thủ

lĩnh vây lửa kể lại câu chuyện từ điểm nhìn của chú; cuộc sống sinh hoạt và

lao động nghệ thuật của Ve sầu được kể qua điểm nhìn của kiến nhỏ, bạn

của Ve… Ở các bộ phim này, giọng kể thường rất trong trẻo, nhẹ nhõm,

nhịp điệu nhanh, dồn dập, phù hợp với đặc điểm của người kể chuyện. Các

câu chuyện với nội dung phức tạp, kết cấu đa tuyến, sử dụng cách kể đảo trật

tự thời gian thì các nhà làm phim sử dụng điểm nhìn tự sự của người kể

chuyện, không tham gia vào câu chuyện. Những bộ phim sử dụng điểm nhìn

tự sự của người kể chuyện ngoài màn hình, thường sử dụng giọng điệu

khách quan, nhịp điệu tự sự thong thả. Ta thấy các yếu tố tự sự nói trên thể

hiện trong các phim: Mỵ Châu, Trọng Thuỷ; Hào khí Thăng Long; Truyền

thuyết hoa Hướng Dương….

Tóm lại, để thoả mãn nhu cầu của thưởng thức phim hoạt hình của khán

giả, các nhà làm phim cần phải tìm được phương thức tự sự phù hợp, linh hoạt

với đề tài khai thác, câu chuyện, cốt truyện của phim. Đối với các phim hoạt

hình chuyển thể từ các tác phẩm văn học, có gốc văn học, phương thức tự sự

của tác phẩm văn học gốc chính là những gợi ý quí giá, là một thể nghiệm mang

tính tiền đề, giúp cho các nhà làm phim đưa ra phương án lựa chọn thích hợp.

2.2. Quan ni m th m mỹ ơ ản trong phim hoạt hình Vi t Nam

Hoạt hình là thể loại điện ảnh đặc thù được sản sinh ra từ thế giới tưởng

47

tượng và sự hư cấu, sáng tạo của người nghệ sĩ. Một bộ phim hoạt hình được

đánh giá cao cần phải thể hiện trọn vẹn, xuất sắc nhất những đặc trưng cơ bản

của hoạt hình và thoả mãn kỳ vọng của người xem. Nói cách khác, nó phải

đạt được những tiêu chí cơ bản về mặt thẩm mỹ đối với từng thành tố cấu

thành nên một bộ phim hoạt hình như trong đề tài, cách xây dựng hình tượng

nhân vật, qua câu chuyện, cốt truyện, phương thức tự sự… Thông qua phân

tích những đặc điểm nổi bật trong các phim trong giai đoạn 2000 - 2015,

chúng ta có thể rút ra những quan niệm thẩm mỹ cơ bản trong phim HHVN.

2.2.1. Cái Đẹp nằm trong giá trị giáo dục và luân lý

Phim HHVN chủ yếu định hình thẩm mỹ qua các bài học cuộc sống,

các thông điệp mang tính giáo dục về đúng - sai, thiện - ác, tốt - xấu… Nhiều

bộ phim chỉ ra cho khán giả thấy rõ những sự tương phản của các giá trị đạo

đức như: việc nhận thức đúng và sai về giá trị bản thân của chú cua con trong

Càng to, Càng nhỏ; quan niệm đúng đắn và sai lầm về công việc lao động

nghệ thuật của Ve sầu trong Ve vàng và Dế lửa; sự giác ngộ về tài năng thật

sự với việc gian lận trong âm nhạc của Ve vàng và Dế lửa trong bộ phim cùng

tên; người lương thiện được cứu giúp, kẻ ác bị trừng trị trong Sự tích Đảo Bà;

cái tốt sẽ tồn tại, cái xấu sẽ bị đào thải, trượt tiêu Bước qua hai thế giới… Các

bộ phim này thể hiện một cách rõ ràng việc lấy tính đạo đức, luân lý làm

trọng tâm cơ bản của hệ giá trị tác phẩm, chứ không phải sự mới mẻ phong

phú với muôn vàn biểu hiện phức tạp đa dạng của đời sống làm trung tâm

như các phim hoạt hình của Mỹ, Nhật.

Với việc chú trọng khai thác các mảng đề tài về cuộc sống, về gia đình,

về tình yêu, về môi trường, đề tài lịch sử... các bộ phim HHVN khai thác sâu

đến đời sống xã hội, tâm tư tình cảm của con người, bảo vệ môi trường,

mong muốn cuộc sống tốt đẹp, bồi đắp những giá trị truyền thống của lịch

sử… Qua đó, quan niệm về cái Đẹp, về thẩm mỹ của các nhà làm phim thể

48

hiện rõ hơn nữa việc hướng tới giá trị giáo dục, vì những giá trị tốt đẹp của

cuộc sống. Việc xây dựng những nhân vật hoạt hình có ý chí phấn đấu, vươn

lên trong những câu chuyện, cốt truyện về cuộc hành trình, quá trình đương

đầu với khó khăn, thử thách để chiến thắng bản thân, đạt được mục tiêu cuộc

sống cũng góp thêm sự khẳng định về cái Đẹp nằm trong các giá trị giáo dục

và luân lý đạo đức.

Nói tóm lại, thông qua các thành tố đã phân tích ở trên, quan điểm thẩm

mỹ cơ bản của phim hoạt hình Việt Nam thể hiện rõ nét nhất chính là hướng

tới cái Đẹp trong tâm hồn, trong lối sống, bồi dưỡng tâm hồn, bồi đắp những

quan điểm giá trị sống hướng tới sự phát triển toàn diện cả về mặt Chân -

Thiện - Mỹ cho các thế hệ khán giả hoạt hình.

2.2.2. Cái Đẹp gắn liền với sự nâng cao tri thức về tự nhiên và xã hội.

Một trong những thế mạnh nữa của HHVN chính là sự đa dạng trong

các phương thức tự sự. Sử dụng một cách linh hoạt cách kể chuyện qua các câu

chuyện ngụ ngôn, đồng thoại, ngoài mục đích chủ yếu để truyền tải thông điệp

của nội dung, phim hoạt hình còn có thể mở rộng thế giới quan của khán giả,

cung cấp những kiến thức tự nhiên và xã hội bổ ích qua đặc điểm, đặc tính của

nhân vật và các sự kiện trong bộ phim. Nhiều phim ngụ ngôn, đồng thoại mang

đến cho khán giả những kiến thức khoa học tự nhiên về động vật, thực vật, về

những thế giới sống động xung quanh con người đầy hấp dẫn và kỳ bí như:

Chiếc nôi trên vách đá, góp thêm các kiến thức sinh học về loài chim yến trong

việc sinh sản, làm tổ, chống lại các kẻ thù rình rập từ nhiên nhiên; Càng to,

càng nhỏ, với đặc điểm sinh học thú vị của loài cua khi có hai chiếc càng

không đều nhau; Ve vàng và Dế lửa, Tiếng nhạc ve, Thủ lĩnh vây lửa cung cấp

những hiểu biết về đặc tính sinh học của các loài động vật như ve, kiến, các

loài cua cá… Các bộ phim khác lại đề cập đến các kiến thức khoa học trong

xây dựng như nguyên lý xây nhà sàn trong Sự tích cái nhà sàn; hiểu biết về địa

49

lý qua phim Sự tích Đảo Bà với việc hình thành cũng như vị trí của Hồ Ba Bể;

các kiến thức về môi trường tự nhiên, khí hậu, thời tiết qua Thủ lĩnh Vây lửa…

Nhiều phim hoạt hình cung cấp những hiểu biết xã hội vô cùng quý giá. Các

phim lịch sử cung cấp nguồn tư liệu về những nhân vật, sự kiện lịch sử, thậm

chí cả những hiểu biết về phong tục, tập quán, vùng miền, cung cấp cho khán

giả những hiểu biết về văn hoá, về bề dày truyền thống lịch sử, làm giàu thêm

nền tảng văn hoá cho các khán giả. Đó là những kiến thức lịch sử bổ ích về thời

Trần trong phim Hào khí Thăng Long; những hiểu biết về lịch sử và kiến trúc

của Loa thành, toà thành cổ nhất nước ta trong phim Giấc mơ Loa Thành…

Qua việc truyền tải các nội dung của bộ phim, các nhà làm phim cùng lúc đã

giúp khán giả bồi dưỡng kiến thức khoa học tự nhiên, nâng cao hiểu biết xã

hội. Bởi thế, quan niệm về cái Đẹp lúc này đã thêm một yêu tố nữa - chính là

nâng cao tri thức cho khán giả.

2.2.3. Cái Đẹp đi cùng phương thức tự sự chân phương, giản dị

Có thể nói, điện ảnh là bộ môn nghệ thuật phản ánh rõ nét bức tranh

đời sống hiện thực. Điện ảnh dùng phương tiện riêng của mình để tái hiện lại

chính cuộc sống. Bởi vậy, không thể phủ nhận được những ảnh hưởng mang

tính tương tác giữa điện ảnh và cuộc sống. Điện ảnh phản ánh các vấn đề của

cuộc sống, ngược lại, nhiều khi những cái độc đáo của điện ảnh thoát khỏi

màn ảnh, đi vào cuộc sống. Chúng ta nhận thấy rõ, có nhiều trào lưu trong

cuộc sống có tiền đề bắt nguồn từ điện ảnh như: một phong cách thời trang,

những địa điểm du lịch thu hút khách do bộ phim hấp dẫn khán giả, thậm chí

một câu thoại, một câu cửa miệng… Tiếp xúc thường xuyên, coi điện ảnh là

một bộ phận không thể thiếu của đời sống tinh thần, chúng ta dần hoà đồng,

thẩm thấu và hình thành những thói quen giống trong phim ảnh.

Với HHVN, các nhà làm phim luôn coi trọng cách kể chuyện nhẹ

nhàng, giản dị nhưng cũng đầy ẩn ý như dùng đồ vật để nói chuyện người hay

50

chuyện cũ để nêu lên vấn đề của hôm nay. Họ mong muốn tạo nên một thói

quen tiếp cận vấn đề một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc, không ồn ào gay gắt,

đặc biệt là đối với trẻ thơ. Phim HHVN coi phương thức tự sự chân phương,

giản dị là một biểu hiện của cái Đẹp thể hiện ở các yếu tố từ bản thân câu

chuyện, đến các nhân vật, lời dẫn chuyện, lời thoại… Nhiều bộ phim có câu

chuyện nhẹ nhàng, được kể bằng giọng điệu trong sáng với các lời thoại ngộ

nghĩnh đáng yêu như: Tiếng nhạc ve với câu chuyện nhạc sĩ ve mải mê sáng

tác bị kiến vàng chê cười. Khi ve bị ốm, không chơi nhạc được, kiến mới hiểu

ra giá trị của tiếng nhạc ve đã cổ vũ mọi người lao động như thế nào. Câu

chuyện đơn giản, nhẹ nhàng, được kể một cách hình tượng qua các nhân vật

thơ ngây, lời thoại trẻ con, sinh động khiến người xem thấy dễ hiểu, dễ chịu

và đồng cảm với vấn đề được nêu trong bộ phim hơn; Càng to, càng nhỏ với

nhân vật cua chưa trưởng thành luôn mặc cảm với cái càng bé, muốn đi tìm

phép lạ cho đôi càng lớn bằng nhau. Những suy nghĩ ngộ nghĩnh, những lời

thoại đáng yêu khi các bạn chế nhạo cua có chiếc càng “2T”, tức là bên to bên

teo khiến khán giả thấy gần gũi với các nhân vật hơn, thấu hiểu tình cảnh của

cua con hơn, như chính mình cùng chú trải qua cảm giác bị bạn bè trêu

chọc… Những sự đồng cảm và yêu thích của khán giả đã phần nào thể hiện

điểm gặp gỡ trong quan niệm thẩm mỹ của khán giả và các nhà làm phim. Bởi

vậy, có thể nói, ở một mức độ nào đó, quan điểm về cái Đẹp qua phương thức tự

sự của các nhà làm phim đã ảnh hưởng đến thị hiếu thẩm mỹ của khán giả.

Tiểu kết

Một bộ phim hoạt hình được khán giả đón nhận cần thể hiện rõ đặc trưng

của thể loại đồng thời thoả mãn được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật trên cả

hai mặt nội dung và hình thức. Đáp ứng được các yêu cầu của khán giả đồng

nghĩa với việc các nhà làm phim đã nắm bắt được nhu cầu, quan điểm thẩm mỹ

chung của khán giả hoạt hình. Giai đoạn 2000 -- 2015 có nhiều phim HHVN

51

được chuyển thể từ tác phẩm văn học. Các nhà làm phim dựa vào nguồn lực

mạnh mẽ của mảnh đất văn học mặc sức khai thác, sáng tạo. Trên cơ sở tìm tòi,

sáng tạo nghệ thuật, đưa phim hoạt hình đến gần hơn với khán giả, các nhà làm

phim cùng hướng tới một mục tiêu chung là những bộ phim hay, hấp dẫn. Sự

đồng thuận trong mục tiêu sáng tác này từng bước hun đúc, bồi đắp, hình thành

những quan điểm thẩm mỹ cơ bản của HHVN. Cũng nhờ hệ thống quan điểm

này mà HHVN từng bước xây dựng hệ thống lý luận sáng tác, là tiền đề để các

52

nhà làm phim thuận lợi hơn khi thực hiện các bộ phim trong giai đoạn tới.

HƢƠNG 3: HẠ TRÙ I Đ U H NH THỨ VÀ THỂ ẠI

PHI H ẠT H NH VI T N

3.1. Cá Đẹp thể hi n trong hình thức phim

Trong nghệ thuật điện ảnh, “hình thức phim” là một khái niệm vô cùng

quan trọng. Hình thức phim được hiểu theo cách rộng nhất chính là: “một hệ

thống tổng thể các mối quan hệ mà ta nhận thức được giữa các yếu tố của bộ

phim” [3, tr.69]. Chính vì vậy, để hiểu được bộ phim trọn vẹn nhất, chúng ta

cần nhận thức được các yếu tố mà bộ phim bao hàm .

Với một bộ phim hoạt hình, hình thức phim được thể hiện qua các yếu

tố: tạo hình nhân vật, bối cảnh, diễn xuất của nhân vật, màu sắc, âm thanh,

ánh sáng, các cảnh quay, góc máy, kỹ xảo… Nghiên cứu phạm trù cái Đẹp thể

hiện qua hình thức phim ta cần đi sâu phân tích những sắc thái thẩm mỹ trong

các yếu tố vừa nêu trên để tìm ra cách mà các nhà làm phim thể hiện quan

niệm của mình, đồng thời định hướng quan niệm thẩm mỹ của khán giả thông

qua bộ phim mà mình thể hiện.

3.1.1. Cái Đẹp thể hiện qua tạo hình.

Hoạt hình là một thể loại đặc thù của điện ảnh với phương tiện biểu

hiện là tạo hình. Công tác tạo hình trong phim bao gồm hai yếu tố chính là tạo

hình nhân vật và tạo bối cảnh - còn gọi phông để nhân vật diễn xuất.

Khâu tạo hình nhân vật được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, là nhân

tố căn bản, là linh hồn của một một bộ phim hoạt hình. Nhiều nhà làm phim

coi công tác tạo hình là vấn đề sống còn của tác phẩm bởi muốn truyền đạt

nội dung gì, tư tưởng ra sao, nếu không có các nhân vật tham gia diễn xuất,

thể hiện nội dung, truyền tải các thông điệp thì bộ phim sẽ chỉ nằm trong ý

thức của tác giả, không có cách nào đến được với người thứ hai. Tạo hình

53

trong hoạt hình vì thế là phương tiện biểu hiện đắc lực và hiệu quả, là cầu nối

giữa nhà làm phim và khán giả. Không chỉ là phương thức biểu hiện cụ thể

nhất của hình thức phim, tạo hình còn góp phần thể hiện tính cách nhân vật và

chủ đề phim. Sự truyền cảm của hội họa góp phần bồi đắp, khẳng định tính

cách nhân vật, ngầm định những quan điểm cá nhân của người họa sĩ, tạo nên

những định hướng về thẩm mỹ một cách kín đáo đối với khán giả xem phim.

Am hiểu nghệ thuật tạo hình, người đạo diễn có khả năng chuyển tải tư duy

và trí tưởng tượng của mình lên màn ảnh trong không gian và thời gian ước

lệ. Đặc biệt, nếu có thể kết hợp được tư duy hình tượng văn học và hình tượng

tạo hình thì người nghệ sĩ sẽ nắm bắt được những yếu tố cốt lõi nhất trong vấn

đề xây dựng nhân vật để mặc sức thăng hoa, tạo nên những nhân vật hoạt hình

xuất sắc, để lại ấn tượng mỹ cảm sâu đậm cho người xem. Còn bối cảnh của

phim hoạt hình chính là môi trường, là mảnh đất để nhân vật thể hiện bản

thân, thể hiện câu chuyện mà nhà làm phim xây dựng cho nhân vật của mình.

Bối cảnh hoạt hình đẹp sẽ tạo ra một thế giới đẹp để nhân vật diễn xuất. Sự

kết hợp hài hoà giữa nhân vật và bối cảnh phim tạo ra thế giới tươi đẹp của bộ

phim. Để thực hiện tốt khâu tạo hình, người họa sĩ luôn tâm niệm, cần thể

hiện nhân vật và bối cảnh với yếu tố tượng trưng, ước lệ, mang tính giả định

cao để phù hợp với yêu cầu của một bộ phim hoạt hình. Một bộ phim tốt, có

tạo hình nhân vật mang đậm chất hoạt hình, xây dựng trên một bối cảnh phù

hợp là những yếu tố tiền đề thuận lợi, tạo nên cảm hứng cho người nghệ sĩ

trong các khâu tiếp theo của quá trình làm phim. Trên cơ sở xây dựng nhân

vật và bối cảnh mang đậm những đặc trưng của một bộ phim hoạt hình, người

nghệ sĩ đã tạo nên thế giới đầy màu sắc, là thế giới hấp dẫn của trí tưởng

tượng không biên giới của chính tác giả và khán giả của mình.

Phân tích đặc điểm tạo hình nhân vật trong phim HHVN, ta nhận thấy

các nhân vật thường được xây dựng theo phong cách ước lệ, tượng trưng, tạo

54

hình mang tính giả định. Về tỉ lệ nhân vật - nổi bật là sự không cân đối trong

cấu trúc hình thể nhân vật. Đa phần, nhân vật hoạt hình đều được tạo hình

theo lối cấu tạo của “trẻ con”, cái đầu rất to so với tỉ lệ bình thường. Lối tạo

hình này phù hợp với con mắt của trẻ thơ, đưa nhân vật gần gũi hơn với thế

giới của các em, tiêu biểu là tạo hình của các phim: Ve vàng và Dế lửa; Càng

to càng nhỏ; Thủ lĩnh vây lửa…. Đặc biệt, với những yêu cầu cao trong cách

diễn xuất, trong hành động, biểu cảm của nhân vật, một cấu trúc tạo hình đầy

tính giả định sẽ càng làm tăng tính hoạt của nhân vật. Chỉ với một yếu tố

trong tạo hình như vậy, ta cũng có thể thấy được quan niệm về cái Đẹp của

các nhà làm phim hoạt hình khác hẳn với các loại hình khác. Đẹp không phải

trong sự cân đối hài hoà như trong hiện thực mà là đẹp ngộ nghĩnh, hài hước

trong thế giới tưởng tượng. Ở đây, yếu tố khoa trương, ước lệ đã tạo nên cho

nhân vật vẻ bề ngoài đầy chất hài hước, đáng yêu, đáng nhớ.

Tạo hình kiểu trẻ con, cái đầu rất to so với thân mình trong phim hoạt hình

3D Càng to càng nhỏ

Về các đặc điểm nhân vật - để đảm bảo yếu tố ước lệ, khát quát, nhân

vật hoạt hình thường được lược bỏ các chi tiết phức tạp, rườm rà, rối rắm.

Nhiều nhân vật được thể hiện đến mức tối giản để thuận lợi cho khâu diễn

55

xuất những tư thế phức tạp. Tuy vậy, các họa sĩ tạo hình lại nhấn vào một đặc

điểm nào đó đem đến sự nổi bật hoặc khác biệt của nhân vật để thể hiện

những đặc tính riêng hoặc nét tính cách thú vị, cá tính. Chúng ta gặp rất nhiều

nhân vật có đặc điểm nổi bật trong tạo hình ở các phim HHVN như: cái càng

to, nhỏ tương phản rõ nét ở chú cua con trong phim Càng to, càng nhỏ; chú

cá vây lửa với bộ đuôi lộng lẫy rực lửa trong Thủ lĩnh vây lửa… Một số nhân

vật được tạo hình đơn giản, thậm chí cách điệu khác xa với hình dáng trong

thực tế. Tuy nhiên, chỉ dựa vào một nét nổi bật được khắc họa là ta có thể biết

ngay được nhân vật đó là ai: một con mèo với hình thù được cách điệu khác

xa với hình dáng của nó nhưng với đôi râu, hoặc chiếc đuôi ngoe nguẩy là ta

nhận ra chính nó, chứ không thể nhầm lẫn với một con khác như nhân vật

mèo trắng trong phim Đeo lục lạc cho mèo; hoặc con thỏ với đôi tai vểnh lên,

bộ răng độc đáo, một của cà-rốt kèm theo sẽ khiến ta nhận ra ngay con gì, bất

chấp nét vẽ có khoa trương đến mức độ nào… Điều này cho thấy, nhân vật

hoạt hình đẹp không phải ở chỗ giống hay không giống mà là phải toát lên

được thần thái, tính cách, đặc điểm đáng nhớ của nhân vật.

Nhân vật mèo được cách điệu trong phim 2D Đeo lục lạc cho mèo

56

Nhìn chung, trong giai đoạn này, các nhà làm phim HHVN cố gắng

chinh phục khán giả bằng cách đưa ra những nét tạo hình nhí nhảnh, đáng yêu

như: nhạc sĩ ve trong Tiếng nhạc ve với đôi mắt lồi, bộ cánh mỏng như tơ và

cây đàn, dáng điệu chơi đàn rất nghệ sĩ; chú cá vây lửa trong Thủ lĩnh vây lửa

với bộ đuôi rực rỡ, làm nên một nhân vật thủ lĩnh nổi bật cả bộ phim hay các

nhân vật chuột và mèo trong Đeo lục lạc cho mèo với các nét tính cách nổi bật

thể hiện qua từng nét làm nên một chuột cống gian manh, chuột chù hèn nhát,

gã mèo đen gian ác…

Tạo hình chuột chù và chuột nhắt phim Đeo lục lạc cho mèo

Về màu sắc - các họa sĩ đặc biệt chú trọng đến các mảng màu, độ hoà

sắc phù hợp trong tạo hình nhân vật được qui định bởi yếu tố thị giác và đặc

trưng thể loại. Các họa sĩ phải sử dụng màu sắc thích hợp để thể hiện được cá

tính, đặc điểm của nhân vật đồng thời để khán giả dễ theo dõi nhân vật, không

bị nhức, mỏi hay loá mắt. Bên cạnh đó, việc sử dụng các khối, mảng màu phù

hợp tạo điều kiện cho họa sĩ diễn xuất động tác thể hiện tốt các cảnh hoạt

động phức tạp cũng như áp dụng được nhiều kỹ xảo khi diễn xuất. Cũng nằm

trong những cách sử dụng màu sắc, các nhà làm phim hoạt hình đặc biệt coi

57

trọng sự tương tác giữa các màu sắc của nhân vật và phông. Khi các nhân vật

nhiều màu sắc nếu phông có màu nhẹ nhàng, trung tính sẽ làm nổi bật nhân

vật chính lên.

Nhân vật nhiều màu sắc trong phim Anh chàng số 9.

Một vấn đề nữa rất quan trọng trong khâu tạo hình nhân vật và bối cảnh

là sự tuân thủ các đặc trưng qui định cho mỗi thể loại phim hoạt hình như:

phim hoạt họa 2D, phim 3D, phim búp bê - cắt giấy… Với mỗi thể loại, người

nghệ sĩ tạo hình lại phải thể hiện nhân vật phù hợp với yêu cầu của phim để

đáp ứng được các điều kiện về diễn xuất, đặc biệt là điều kiện về kỹ thuật của

phim. Qua các đặc điểm của từng thể loại, ta có thể nhận thấy những nét nổi

bật của mỗi loại phim: dựa trên khả năng diễn xuất mềm mại, linh hoạt, nhân

vật của phim hoạt họa 2D được tạo hình tinh tế, mềm mại với các cử động

uyển chuyển, dễ dàng biến ảo, thay đổi hình dạng, nhiều biểu cảm tinh tế;

phim 3D những ưu thế về mặt thị giác, cảm giác sống động, nhân vật được

chú trọng về hình khối, chuyển động linh hoạt, biểu cảm đa dạng; phim cắt

giấy hạn chế về chuyển động, chú trọng vào yếu tố khái quát, ước lệ thì nhân

vật cũng được khái quát hoá, mang yếu tố ước lệ cao.

Từ những đặc điểm nêu trên, ta nhận thấy một số nét nổi bật trong

58

phong cách tạo hình nhân vật của HHVN cũng như quan niệm về cái

Đẹp tạo hình của các nhà làm phim: tạo hình trong phim HHVN có phong

cách vừa phải, theo lối cách điệu, tượng trưng vừa đủ độ; các nhân vật xây

dựng trên cơ sở dùng các đường nét làm phương tiện biểu hiện cơ bản, nhân

vật gần gũi với hiện thực nhưng được nhấn mạnh bằng các đặc điểm đáng

nhớ khác với phong cách cường điệu, khoa trương cao trong một số phim

hoạt hình của phương Tây như Popeye – thuỷ thủ lực sĩ, Oggy và những chú

gián tinh nghịch…

Phân tích khâu tạo hình bối cảnh, ta nhận thấy một số đặc điểm nổi bật.

Về màu sắc - yêu cầu hài hoà giữa màu sắc của phông và nhân nhân vật luôn

được quan tâm chú trọng. Một bối cảnh tốt không phải là bối cảnh có màu sắc

đẹp đẽ, được tạo hình cầu kỳ mà phải là bối cảnh phù hợp với nhân vật. Nếu

họa sĩ vẽ phông không tiết chế về màu sắc, khi đặt nhân vật vào bối cảnh màu

sắc rực rỡ, nhân vật sẽ rất dễ bị chìm, khiến cho hoạt động của nhân vật lẫn ý

tưởng của tác giả không được truyền tải một cách trọn vẹn. Các phim sử dụng

tiết chế màu sắc phông để làm nổi bật nhân vật như: Thủ lĩnh vây lửa , Chiếc

nôi trên vách đá, Anh chàng số 9… Ngược lại, một số phim sử dụng quá

nhiều màu sắc thể hiện bối cảnh làm nhân vật bị chìm đi, như phim Càng to,

59

càng nhỏ; Ve vàng và Dế lửa…

Bối cảnh hạn chế dùng nhiều màu sắc và chi tiết tỉ mỉ làm nổi bật nhân vật

phim Thủ lĩnh vây lửa

Không chỉ về màu sắc, kể cả trong nét vẽ tạo hình cũng cần có sự phù

hợp nhất định. Nếu như, một bối cảnh phim quá trau chuốt, tỉ mỉ, quá rối rắm,

người xem sẽ thấy rối mắt, nhân vật cũng sẽ bị chìm trong môi trường diễn

của chính nó. Một số phim HHVN mắc phải lỗi phông quá chi tiết khiến nhân

vật bị lẫn vào phông, người xem cảm thấy nhức mắt như: Càng to, càng nhỏ,

Ve vàng và Dế lửa…

Một cảnh trong phim Càng to, càng nhỏ với bối cảnh quá chi tiết, rườm rà, nhiều màu sắc khiến nhân vật bị chìm và gây cảm giác nhức mắt.

Đi sâu vào phân tích cả hai yếu tố tạo hình và bối cảnh ta còn nhận thấy

một đặc điểm làm nên chất riêng, rất VN: đó chính là tính dân tộc thể hiện

trong tạo hình nhân vật và bối cảnh của phim. Tính dân tộc không chỉ là

những biểu hiện ở bề mặt của nhân vật với hình dáng, phục trang, đạo cụ…, ở

bối cảnh với màu sắc địa phương trong phong cảnh, trong kiến trúc… Điều

quan trọng hơn, chúng ta nhận thấy qua khâu tạo hình chính cái là hồn cốt, cái

chất bên trong, ẩn sâu trong mỗi đường nét hội họa. Bởi thế, thông qua nhân

60

vật, chúng ta có thể thấy toát lên cách thức nhìn nhận, phản ánh hiện thực,

quan niệm về thẩm mỹ của người nghệ sĩ HHVN. Một số nhân vật hoạt hình,

đặc biệt là thể loại phim hoạt hình lịch sử, đã tạo ấn tượng tốt trong lòng khán

giả bởi tính dân tộc kết hợp nhuần nhuyễn với yếu tố hiện đại, làm nên dấu ấn

riêng của tác giả như các phim: Giấc mơ Loa Thành; Mỵ Châu - Trọng Thuỷ;

Sự tích Đảo bà; Hào khí Thăng Long… Trên cơ sở những phân tích trên, ta

có thể khẳng định, giai đoạn sau năm 2000 tới nay, phim HHVN luôn hướng

tới vẻ đẹp tươi sáng, đằm thắm, giản dị thể hiện rõ nét trong khâu tạo hình và

bối cảnh. Vẻ đẹp hài hoà, tinh tế gắn liền tính dân tộc luôn được các nhà làm

phim đặc biệt chú trọng, trở thành mục tiêu, trở thành quan điểm sáng tác cơ

bản của HHVN.

3.1.2. Cái Đẹp qua diễn xuất, động tác

Điện ảnh không chỉ là nghệ thuật tạo hình - nghệ thuật không gian.

Điện ảnh tạo nên sự khác biệt so với các loại hình nghệ thuật khác ở nghệ

thuật thời gian và sự chuyển động. Điện ảnh hoạt hình ngoài phần tạo hình

còn có phần chuyển động, chính là hai phần cốt yếu “hình” và “hoạt”. Nếu chỉ

có “hình”, nó sẽ giống một số loại hình nghệ thuật khác. Khi có thêm phần

“hoạt”, nó mới trở thành hình tượng của điện ảnh hoạt hình, trở thành bộ

phim hoạt hình đúng nghĩa.

Một bộ phim hoạt hình hấp dẫn hay không phụ thuộc phần lớn vào

khâu diễn xuất. Chính những động tác diễn xuất của nhân vật đã tạo nên một

phần lớn tính “hoạt” trong bộ phim hoạt hình. Tất nhiên, tính “hoạt” này có

trong nhiều yếu tố khác như ý tưởng, nội dung, trong tạo hình… nhưng yếu tố

biểu hiện rõ rệt nhất, làm nên sự sinh động, lôi cuốn người xem, tạo nên sức

hấp dẫn nhất của bộ phim hoạt hình chính là động tác của nhân vật. “Hoạt” ở

đây không chỉ hiểu đơn thuần là sự chuyển động, di chuyển của nhân vật.

Điều quan trọng nằm trong sức hấp dẫn của sự chuyển động của nhân vật là

61

chính những động tác, hành vi, cử chỉ đó tạo nên tâm hồn, tính cách, sự sống

của nhân vật. Nói cách khác, những hành động đó cần mang tính kịch cao để

tạo ra tính cách, sức thuyết phục của nhân vật. Những sự chuyển động trên

màn ảnh cần phải được chọn lọc tinh tế, không phải là sự mô phỏng theo lối

“nệ thực” những hoạt động thực tế mà phải tìm được cái cốt lõi, đặc trưng

nhất của sự vận hành các hoạt động ấy như một hệ thống.

Người họa sĩ diễn xuất cần thổi hồn vào nhân vật thông qua các dáng

điệu, cử chỉ, trạng thái tình cảm bộc lộ thái độ của nhân vật trước các sự kiện,

tránh những hoạt động mang tính minh họa, thiếu thần thái, cử động vô hồn.

Một cảnh diễn xuất ấn tượng trong phim 3D Càng to, càng nhỏ.

Có thể nói, một nhân vật hoạt hình đẹp, ngoài nét đẹp trong khâu tạo

hình vốn được làm nên từ sự hài hoà trong màu sắc, trong sự khoa trương, yếu

tố ước lệ khiến nhân vật có tính hài hước - mà cái Đẹp còn nằm trong những

động tác diễn xuất, nhằm tăng thêm tính cách và sức mạnh của tạo hình nhân

vật. Tạo hình của nhân vật có đẹp thế nào nhưng nếu chuyển động khô khan,

thiếu sinh khí, cái Đẹp sẽ không phát huy tác dụng - nhân vật trở nên khô

cứng, như xác không hồn. Cái Đẹp của nhân vật cũng giống như con người

62

thực, toát nên từ cử chỉ, thần thái. Những nét dí dỏm trong dáng điệu, trong

cách đi đứng, dáng ngồi, chạy nhảy của nhân vật phải là sự chọn lọc tinh tế từ

các hành động trong thực tế. Những hành vi, biểu cảm, những trạng thái tình

cảm diễn đạt tinh vi của nhân vật cần được người nghệ sĩ thể hiện nhuần nhị,

đòi hỏi sự quan sát tỉ mỉ và tích luỹ có bề dày, đặc biệt cần tới tài năng thiên

phú của người họa sĩ. Tài năng thiên phú giúp người nghệ sĩ thổi hồn vào

những chuyển động, tăng cường cho chuyển động ấy những nét khoa trương,

phóng đại khiến nhân vật tăng thêm phần sinh khí. Đặc biệt, ở một số nhân

vật thành công, người nghệ sĩ diễn xuất còn tạo ra những thói quen, những

đặc điểm trong cách diễn xuất, hình thành những nét riêng, nổi bật so sánh với

các nhân vật khác, khiến cá tính của nó càng được khắc họa rõ nét. Tóm lại,

tất cả những hành vi, cử chỉ, dù là nhỏ nhất, tổng hợp lại làm nên một nhân

vật có da thịt, có sức sống, có hơi thở và có vị trí của mình trên màn ảnh,

trong tâm tưởng của người xem.

Với đặc trưng của mỗi thể loại hoạt hình, sự chuyển động trong diễn

xuất, trong động tác của nhân vật cũng có dấu ấn riêng, đòi hỏi người nghệ sĩ

phải nắm được kỹ thuật cũng như yêu cầu của thể loại để diễn xuất. Trước

tiên, cần phải nắm được được đặc điểm thể loại, qua đó xác định yêu cầu về

mặt động tác đối với các nhân vật.

Phim hoạt họa 2D, do có điều kiện có thể hiện chuyển động một cách

mềm mại, tinh tế, diễn xuất của nhân vật đòi hỏi sự uyển chuyển, tinh tế. Ở

thể loại này, nhân vật với thế mạnh trong tạo hình tuỳ thời cơ có thể kéo dài

hay bóp méo, làm dẹt cơ thể tới mức tối đa, ngoài sức tưởng tượng, phi thực

tế thì hành động của nhân vật cũng phải có độ khoa trương phù hợp. Diễn

xuất của nhân vật phải cực kỳ tinh tế, mềm mại tương ứng với tạo hình và

biểu cảm của nhân vật. Nhiều trường hợp, nhân vật thân thể mỏng dẹt như tờ

giấy thì dáng điệu của nó, từng động tác diễn xuất, ẻo lả tưởng như gió thổi

63

bay, hoặc dáng điệu bỗng to tròn phùng ra như quả bóng thì các bước di

chuyển cũng như đang lăn tròn. Nhìn chung, diễn xuất của phim 2D là cực kì

linh hoạt và đa dạng. Trong giai đoạn 2000-2015, khi công nghệ làm phim

trên hệ thống máy tính ngày càng phát triển, các họa sĩ đã áp dụng kỹ thật

máy tính, làm giảm nhiều công sức lao động, đặc biệt kết hợp với các hiệu

ứng kỹ thuật tăng thêm nhiều kỹ xảo khiến cho các chuyển động của phim 2D

thêm tinh xảo, kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của khán giả.

Một cảnh diễn xuất biểu cảm trong phim 2D Bay về phía bầu trời

Ta có thể gặp những phim HHVN có lối diễn xuất mềm mại, thuần

thục, khiến bộ phim có sức hấp dẫn cao như Mỵ Châu, Trọng Thuỷ với các

màn Trọng Thuỷ múa kiếm, Mỵ Châu đánh đàn. Sự uyển chuyển trong cảnh

Mỵ Châu gảy đàn, kết hợp với những bước di chuyển mạnh mẽ, rắn rỏi khi

Trọng Thuỷ múa kiếm đã tạo nên những hình ảnh ấn tượng, khiến nhân vật có

sinh khí, truyền tải trọn vẹn ý tưởng của nội dung câu chuyện. Hay cảnh chú

chim đại bàng trong Bay về phía bầu trời với những bước tập bay của mình,

từ lúc giang cánh lảo đảo bay lên rồi ngã xuống đến lúc vươn rộng hai cánh,

đè lên không khí, vút bay lên lên không trung, sải rộng đôi cánh khoẻ mạnh,

64

nghiêng người lượn vòng thể hiện sức mạnh tiềm ẩn và sự khoái hoạt vô bờ

bến của nhân vật khi được sánh cùng mây gió. Những bước chuyển động

mềm mại, rắn rỏi ẩn chứa sức mạnh tiềm tàng trong từng nét vẽ đã khiến nhân

vật bùng nổ, bứt phá, bay cao hơn nữa, đáp ứng kì vọng của người xem.

Phim búp bê, cắt giấy là thể loại đặc biệt và có nhiều hạn chế nhất về

mặt chuyển động diễn xuất. Trong khi phim búp bê truyền thống dựa vào việc

tạo hình các nhân vật như các con búp bê thật với các khớp tay chân để thể

hiện động tác, hoạt động thì phim cắt giấy dùng các khớp nối để liên kết các

bộ phận trên hình nhân vật làm bằng giấy để cử động. Do vậy, thể loại này,

nhân vật bị hạn chế về mặt cử động, chỉ giới hạn hoạt động trong những khớp

gắn của nó. Để thực hiện các động tác này, các họa sĩ diễn xuất phải sử dụng

biện pháp thủ công, bẻ các khớp động để tạo thành động tác của nhân vật.

Trong giai đoạn này, phim búp bê ở VN hầu như không được sản xuất, thay

thế nó là phim 3D với công nghệ sản xuất khác song có nhiều nét tương đồng

về chất tạo hình, cảm giác không gian và có hiệu quả ở nhiều mặt hơn. Còn

phim cắt giấy, từ những năm 2005 trở đi, các nhà làm phim bắt đầu chuyển

hướng sang sản xuất phim cắt giấy vi tính với sự trợ giúp của máy tính và các

phần mềm thông minh, giúp tạo chuyển động mềm mại và linh hoạt hơn cho

65

nhân vật cắt giấy, mở rộng hơn tầm hoạt động và môi trường của chúng.

Một cảnh chọi cá diễn xuất linh hoạt nhờ sự trợ giúp của máy tính,

trong phim Thủ lĩnh vây lửa

Mặc dù áp dụng kỹ thuật máy tính vào công đoạn diễn xuất, song so về

đặc thù thể loại, phim cắt giấy vi tính vẫn mang đặc trưng riêng do diễn xuất,

động tác bị hạn chế nên đòi hòi nhân vật chuyển động mang tính khái quát,

ước lệ cao. Chính bởi vậy, người nghệ sĩ cần tinh lọc, chọn lựa những động

tác hoạt động mang tính ước lệ, ẩn dụ. Người xem, thông qua những hoạt

động mang tính khát quát để kích thích sự suy nghĩ, mở rộng nhận thức đối

với ý tưởng của nhà làm phim. Với thể loại cắt giấy, có lẽ cái Đẹp trong diễn

xuất, trong động tác chính là sự gọn gàng, hàm súc đầy hình tượng ẩn dụ

trong mỗi chuyển động của nhân vật. Nếu khán giả đã thưởng thức bộ phim

Chiếc nôi trên vách đá thì hình ảnh chim yến mẹ treo mình trên vách đá cheo

leo, đầy hiểm trở với động tác nhả từng sợi dãi trộn máu, nhào nặn thành

chiếc tổ cho con sẽ là một hình ảnh đầy ấn tượng, tạo thành biểu tượng cho

tình thương yêu trong lòng khán giả. Diễn xuất của nhân vật rất hạn chế do tư

thế treo mình, do nỗi vất vả và nỗi đau từ trong lòng toát ra khiến nhân vật

66

không thể mềm mại trong động tác. Đặc thù của thể loại cắt giấy rất phù hợp

để diễn xuất các cảnh này và khiến cho cảnh diễn đạt đến mức độ trọn vẹn về

cả nội dung và hình thức. Hoặc cảnh nghệ sĩ Ve sầu trong Tiếng nhạc ve, thân

hình đơn bạc, run rẩy với cây đàn vĩ cầm trên vai, những đường nét chuyển

động dứt khoát khi kéo thanh vĩ, ngân lên những tràng âm thanh át đi tiếng

mưa gió trong đêm bão bùng… sẽ được ghi nhớ, khắc sâu trong lòng khán

giả. Cũng như vậy, những trận chiến long trời giữa các đối thủ cá chọi trong

Thủ lĩnh Vây lửa cũng được thể hiện mạnh mẽ, sức mạnh bùng phá đối với lối

diễn xuất mạnh mẽ, hàm súc và trí tuệ dưới bàn tay thần kỳ của các họa sĩ.

Phim 3D ra đời muộn nhất trong các thể loại hoạt hình. Thể loại phim

3D phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Để có

thể làm phim 3D, người nghệ sĩ hoạt hình ngoài việc biết vẽ còn cần phải giỏi

về máy tính, sử dụng thành thạo các phần mềm để hỗ trợ sản xuất. Vì ra đời

sau, lại có công nghệ tiên tiến để thực hiện, phim hoạt hình 3D có đầy đủ các

thế mạnh của các loại phim phát triển giai đoạn trước. Phim được dựng trong

không gian 3 chiều nên nhân vật chuyển động có cảm giác chân thực cả về

chiều dài, chiều rộng và đặc biệt là chiều sâu, điều mà các loại hình trước đây

còn bị hạn chế. Phim 3D có thể tạo hình nhân vật như thật, có cảm giác nhân

vật hiển hiện như trước mắt, giống như phim búp bê. Tuy nhiên, nhân vật này

không bị hạn chế trong động tác mà hoàn toàn có thể cử động linh hoạt, uyển

chuyển, mềm mại như phim 2D, thậm chí sống động hơn nhân vật phim 2D

vốn chỉ hoạt động trong không gian phẳng hai chiều..

Mặc dù xuất hiện muộn hơn song những bộ phim 3D của hoạt hình Việt

Nam luôn được các khán giả đón nhận nhiệt tình. Càng to, càng nhỏ là bộ phim

hoạt hình 3D có nhiều nét mới lạ, tạo nên được sự thích thú với khán giả. Với

hiệu ứng của kỹ thuật 3D, nhân vật cua con hiện ra như thật trước mắt khán giả,

67

đôi mắt lồi to, đường vân trên mai nổi rõ, đặc biệt là sự tương phản giữa chiếc

càng to mạnh mẽ, lực lưỡng với chiếc càng nhỏ yếu ớt, nhỏ bé đã góp phần nhấn

mạnh vào ý tưởng của câu chuyện. Đặc biệt, với nét chuyển động khoẻ khoắn có

phần cồng kềnh của càng to kết hợp với tình huống cần sự khéo léo, nhẹ nhàng

của càng nhỏ trong một bối cảnh, không gian ba chiều khiến cho khán giả đã mắt

khi theo dõi bộ phim. Anh chàng số 9 cũng là một bộ phim 3D gây được hứng

thú cho người xem. Nét nổi bật trong tạo hình nhân vật chính là việc biến các

con số vô tri vô giác thành nhân vật như người thật, hoạt động, tương tác trong

môi trường không gian sống động. Sự chuyển động của các nhân vật trong bộ

phim gây được sự hứng thú với khán giả, phá bỏ đi những quan niệm về sự khô

cứng của các con số, khiến bộ phim về các con số, thế giới của các con số mang

nhịp đập, hơi thở của cuộc sống.

Nhân vật các con số diễn xuất biểu cảm trong phim Anh chàng số 9

Biến sự vật, đồ vật vô tri vô giác thành những nhân vật sống động, tiếp

thêm sinh khí cho các hình vẽ nhân vật, con vật, thổi vào các nhân vật hồn cốt

bằng chính sự chuyển động có ý thức, có chủ ý, vẻ đẹp trong phim hoạt hình

không chỉ nằm ở hình thức là cái hình hài biểu hiện bên ngoài mà ẩn chứa trong

68

bản thân nhân vật, toát ra từ mỗi nét chuyển động, mỗi hành vi cử chỉ, trạng thái

cảm xúc tâm lý của nhân vật. Vươn tới cái thực tại, gần gũi với cuộc sống sinh

hoạt, gắn bó, mang hơi ấm cuộc sống chính là nét đẹp mà các nhà làm phim

HHVN hướng tới, chú trọng trong mỗi sản phẩm nghệ thuật của mình.

3.1.3. Cái Đẹp qua việc vận dụng các yếu tố kỹ thuật và công nghệ

Điện ảnh là loại hình phát triển dựa trên thành tựu của khoa học kỹ

thuật. Không giống các loại hình nghệ thuật khác, điện ảnh mang nặng dấu ấn

của yếu tố kỹ thuật và công nghệ. Đối với các tác phẩm điện ảnh, yếu tố kỹ

thuật và công nghệ là tiền đề không thể thiếu để hình thành và đảm bảo bộ

phim có thể tồn tại và đến được với khán giả. Bên cạnh đó, kỹ thuật và công

nghệ còn là một trong những phương tiện hiệu quả nhất góp phần truyền tải

nội dung của bộ phim. Một bộ phim nhờ có kỹ thuật và công nghệ mới có thể

có hình hài nhưng bộ phim hay hơn, hấp dẫn hơn cần phải có sự hỗ trợ của

âm thanh, ánh sáng, góc máy, kỹ xảo…. Nhờ sự hỗ trợ này của công nghệ mà

điện ảnh mang tính ưu việt hơn so với nhiều loại hình nghệ thuật khác. Cũng

nhờ kỹ thuật và công nghệ, điện ảnh có thể tổng hợp được nhiều đặc trưng

của các loại hình nghệ thuật còn lại, làm nên một loại ngôn ngữ đặc biệt -

ngôn ngữ điện ảnh. Với hoạt hình, kế thừa ưu việt của điện ảnh, các bộ phim

hoạt hình sử dụng hiệu quả các yếu tố kỹ thuật và công nghệ tạo nên một thể

loại độc đáo. Sự kết hợp của các yếu tố kỹ thuật đã kết nối những hình vẽ tĩnh

của người họa sĩ thành những thước phim sống động, tạo nên thế giới riêng,

thế giới của hoạt hình.

Âm thanh, âm nhạc là một trong những yếu tố quan trọng trong phim

hoạt hình. Ngoài vai trò là một thành tố cấu thành nên nội dung của bộ phim,

tạo nên hình tượng trên màn ảnh, âm thanh, âm nhạc còn là một vũ khí sắc

bén đem lại cho bộ phim hoạt hình thêm sức sống, thêm duyên dáng, thêm

quyến rũ. Khác với các thể loại phim điện ảnh sử dụng máy quay thật, vì

69

phim hoạt hình được tạo ra từ thế giới của các hình vẽ nên phần âm thanh,

tiếng động là vô cùng quan trọng, nó truyền cho các hình ảnh sức sống, thổi

hồn vào nhân vật. Trong phim hoạt hình, âm thanh, tiếng động nhấn mạnh và

làm nổi bật sự chuyển động đầy bí ẩn của hình ảnh đồng thời tiếp thêm màu

sắc cho không gian, thời gian, biểu hiện và trạng thái tình cảm của nhân vật.

Nếu không có âm thanh, tiếng động, thế giới của các hình vẽ sẽ là thế giới

câm lặng, nhân vật như những cái bóng lặng lẽ, vật vờ di chuyển.

Phim HHVN với mục tiêu chính là phục vụ thiếu nhi, nhạc phim chủ

yếu là tươi vui, ngộ nghĩnh, trong trẻo. Những tiết tấu nhẹ nhàng, sôi động kết

hợp ăn khớp với chuyển động nhịp nhàng của nhân vật mang đến cho khán

giả những hình ảnh lôi cuốn. Ve vàng và Dế lửa và Tiếng nhạc ve là những bộ

phim mà phần âm thanh, âm nhạc gây ấn tượng cho khán giả. Giai điệu rộn

ràng mà sôi động của Ve vàng rất hợp với sự năng động trong cách bay nhảy

và tính cách sôi động của chú. Nét nhạc êm đềm, du dương lại hợp với Dế

lửa, trầm tĩnh lặng lẽ kéo đàn khi đêm buông xuống. Kết hợp của sự sôi động

rộn rã với nét trầm tĩnh, êm đềm khiến cho bộ phim trở nên dễ chịu, khiến

người xem tận hưởng bữa tiệc âm thanh với nhiều cung bậc cảm xúc. Tương

tự, những bản nhạc của Ve sầu trong Tiếng nhạc ve lại âm vang, réo rắt, có

sức khơi gợi, cổ vũ tinh thần, sức mạnh của những người xung quanh. Phần

nhạc nền của phim và những bản nhạc do chính tay Ve sầu kéo hỗ trợ nhau,

mở rộng không gian, mang theo cảm giác khoáng đạt cho khán giả khi thưởng

thức. Các bộ phim Bay về phía bầu trời, Càng to, càng nhỏ, Thủ lĩnh vây

lửa… cũng đều là những bộ phim có những nét âm nhạc tươi sáng, trong trẻo,

phù hợp thẩm mỹ, thị hiếu của khán giả Việt.

Ngôn ngữ điện ảnh có sức hút riêng nhờ nhiều yếu tố cấu thành. Theo dõi

một tác phẩm điện ảnh, khán giả có thể nhận ra sức hút của điện ảnh trong yếu tố

70

ánh sáng, góc máy, cảnh quay, kỹ xảo… Không giống như nhiếp ảnh, hội hoạ,

kiến trúc, điêu khắc, văn học, sân khấu…. điện ảnh là tổng hoà của các loại hình

nghệ thuật. Tuy nhiên, để thể hiện được sự tổng hợp này cần sự hỗ trợ của yếu tố

kỹ thuật và công nghệ. Nhờ nó, ta có thể nhận thấy các nét đặc trưng của các loại

hình nghệ thuật khác: nghệ thuật của ánh sáng, của hình ảnh trong nhiếp ảnh, bố

cục của không gian của hình khối trong điêu khắc, màu sắc của hội hoạ, hình

tượng của văn học, tính biểu diễn của sân khấu… Tất cả những sự kết hợp hài

hòa, linh hoạt và đa dạng ấy tạo nên một tiếng nói riêng, hấp dẫn khán giả điện

ảnh, cũng chính là nét đẹp chỉ có trong ngôn ngữ điện ảnh.

Là một thể loại đặc thù của điện ảnh, phim hoạt hình có một thứ ngôn ngữ

riêng - ngôn ngữ hoạt hình. Cũng giống như ngôn ngữ điện ảnh, hoạt hình là sự

kết hợp một cách chọn lọc các đặc điểm của nhiều loại hình nghệ thuật dưới sự

hỗ trợ của kỹ thuật và công nghệ tạo thành ngôn ngữ của các hình vẽ. Các hình

vẽ, dưới sự tác động của kỹ thuật và công nghệ đã tạo thành thế giới các hình

ảnh chuyển động. Qua các yếu tố màu sắc, ánh sáng, các góc máy và kỹ xảo, ý

tưởng của nhà làm phim được thể hiện rõ nét. Dựa trên sự phát triển của các

thành tựu khoa học, HHVN những năm qua có nhiều tiến bộ về mặt kỹ thuật và

công nghệ. Khán giả đều cảm nhận được, từ những năm 2000 trở lại, phim hoạt

hình màu sắc trong trẻo, tươi sáng, hình ảnh mềm mại, uyển chuyển, sống động,

khai thác nhiều đại cảnh hoành tráng, kỹ xảo cao, đặc biệt trong các tình huống,

các sự kiện mang màu sắc thần kỳ, biến ảo vốn là thế mạnh của hoạt hình.

Về màu sắc, ánh sáng - các bộ phim như Càng to càng nhỏ, Ve vàng

và Dế lửa, Thủ lĩnh vây lửa, Mỵ Châu, Trọng Thuỷ, Sự tích Đảo bà… đều

là các phim tiêu biểu trong cách sử dụng tốt màu sắc và ánh sáng. Các

phim này sử dụng các gam màu tươi tắn, tự nhiên, phù hợp với tâm lý của

khán giả thiếu nhi. Những màu sắc tươi vui khiến cho câu chuyện của lứa

71

tuổi nhỏ trở nên nhẹ nhàng đáng yêu đã trở thành xu hướng khai thác, dần

dần trở thành những quan niệm chính về cái Đẹp trong cách sử dụng màu

sắc, ánh sáng của các phim HHVN. Ở một số bộ phim khác, khai thác vấn

đề có tính chất gai góc, các nhà làm phim thiên về việc sử dụng màu sắc và

ánh sáng trầm hơn như trong phim Theo dấu chân Hươu, Bước qua hai thế

giới…với đề tài về môi trường.

Một trong những điểm đặc biệt của phim hoạt hình chính là việc sử

dụng các góc máy, cảnh quay, kỹ xảo... Không giống trong các thể loại khác

của điện ảnh, góc máy, cảnh quay được thể hiện trực tiếp theo ý đồ của người

đạo diễn. Phim hoạt hình với các chuyển động tạo nên từ các hình vẽ, bởi vậy

ý đồ của đạo diễn không thể hiện trực tiếp ngay dưới ống kính máy quay mà

còn qua một bước nữa - chính là bàn tay của người họa sĩ. Để ý đồ của đạo

diễn được thể hiện chính xác, có thêm một khâu quan trọng trong qui trình

sản xuất - gọi là khâu dàn cảnh (lay - out). Trên cơ sở hình ảnh được dàn cảnh

này mà người họa sĩ nắm được phương hướng chuyển động của hình ảnh và ý

đồ của đạo diễn để thể hiện trên hình vẽ của mình. Có thể nói, góc máy quay

trong hoạt hình không chỉ là góc ống kính hay con mắt của đạo diễn mà là trí

tưởng tượng của tác giả. Điều đó, cho thấy độ phức tạp, khó khăn, đòi hỏi trí

tưởng tượng, tài năng của người họa sĩ cũng như sự hỗ trợ quan trọng của kỹ

thuật và công nghệ. Nhưng chính bởi những khó khăn này mà hiệu quả hình

ảnh rất đặc biệt. Nhiều cảnh quay, hình ảnh hoành tráng chỉ có thể tồn tại

trong trí tưởng tượng của con người được hiển hiện thành hình ảnh trực quan

sinh động. Nhiều đại cảnh mà sức người, sức của cũng khó lòng có thể tái

hiện được dựng nên khiến người xem choáng ngợp. Đặc biệt, nhiều phép lạ,

phép màu, điều thần kỳ, kỳ diệu…là sản phẩm của trí tưởng tượng cũng được

hiện thực hoá, thoả mãn nhu cầu của người xem nhờ vào các thủ pháp hoạt

72

hình, các kỹ xảo đặc biệt như: cảnh đại hồng thuỷ nhấn chìm tất cả trong biển

nước phim Sự tích Đảo Bà; cảnh Loa thành cứ xây xong lại đổ sụp xuống

trong phim Giấc mơ Loa thành; cảnh năm mươi vạn quân Nguyên Mông xâm

chiếm nước ta, mấy vạn chiếc thuyền chiến, những trận địa cọc gỗ trên sông

Bạch Đằng trong phim Hào khí Thăng Long

Một cảnh hoành tráng, vận dụng kỹ xảo nhân hình làm tăng số lượng quân

trong phim 2D Hào khí Thăng Long

Có thể nói, nhờ những hiệu quả đặc biệt này, nhiều cảnh tượng chỉ

dùng hoạt hình mới có thể diễn tả trọn vẹn được. Và cũng bởi điều đó, nhiều

bộ phim thuộc các thể loại điện ảnh khác, gặp các cảnh khó thể hiện, các nhà

làm phim buộc phải dùng kỹ thuật và công nghệ của hoạt hình. Sử dụng kỹ

xảo 3D để thể hiện các cảnh tượng hoành tráng hoặc kỹ xảo đặc biệt trong các

phim truyện là điều ta thường thấy. Các nhà làm phim HHVN đã tận dụng tối

đa các thế mạnh trong góc máy, cảnh quay, kỹ xảo để thể hiện những bộ phim

hoạt hình hoành tráng như Mỵ Châu, Trọng Thuỷ; Giấc mơ Loa Thành, Hào

khí Thăng Long… Với những bộ phim lịch sử này, nhờ sử dụng yếu tố kỹ

thuật và công nghệ chúng ta có thể tái hiện lại được bối cảnh lịch sử của mấy

nghìn năm trước. Trong thực tế, làm phim lịch sử là việc vô cùng khó khăn,

đặc biệt, khi khôi phục bối cảnh của quá khứ, thời gian càng cách xa, những

73

hiện vật, tư liệu càng ít. Việc sử dụng các thủ pháp của hoạt hình là phương

pháp hiệu quả để tái hiện lại lịch sử một cách sống động, chân thực mà có thể

tiết kiệm một cách tối đa các chi phí cho việc dựng các bối cảnh như: những

cung điện nguy nga, lộng lẫy thời nhà Trần, cảnh chiến tranh tàn phá dữ dội

bởi đoàn quân xâm lược hung bạo của đại quân Nguyên Mông hay những

cảnh đại chiến với vạn vạn con thuyền và trận địa cọc gỗ trên sông Bạch

Đằng; sức mạnh và uy lực của nỏ thần với mỗi phát tên bắn ra hàng ngàn mũi

tên trong Mỵ Châu Trọng Thuỷ hay như cảnh xây đắp và bảo vệ toà thành

Cổ Loa hùng vĩ trong Giấc mơ Loa Thành…

Toàn cảnh Loa Thành trong phim Giấc mơ Loa Thành

Đặc biệt, ngày nay khi trình độ kỹ thuật và công nghệ áp dụng vào điện

ảnh ngày càng cao, yếu tố kỹ xảo đã góp một phần lớn vào việc tạo cho các bộ

phim hoạt hình sức cuốn hút, hấp dẫn khán giả. Khán giả chắc chắn sẽ ấn

tượng với những phép màu, điều kỳ diệu diễn ra trên màn ảnh qua các bộ phim

hoạt hình như: cậu bé có thể tàng hình làm nhiều việc bất ngờ trong Chiếc áo

tàng hình; con quỷ rác khổng lồ trong Bước qua hai thế giới; bà tiên với phép

thuật khiến Hồ Ba Bể hiện lên giữa mênh mông biển nước trong Sự tích Hồ Ba

Bể; hay cuộc chiến đầy biến ảo chống lại Gà tinh trong quá trình xây thành Cổ

74

Loa phim Giấc mơ Loa Thành; sự biến hoá của rùa thần trở thành ngôi nhà sàn

trong Sự tích cái nhà sàn; sự hoá thân từ một con người trở thành bông hoa

hướng dương luôn hướng về mặt trời của cô gái trong Truyền thuyết hoa hướng

dương; biến người thành hươu, hươu lại trở về là người trong Theo dấu chân

hươu hay những cảnh nỏ thần bắn ra hàng ngàn mũi tên vàng vốn chỉ tồn tại

trong trí tưởng tượng ở phim Mỵ Châu Trọng Thuỷ…

Đi sâu vào phân tích các yếu tố kỹ thuật và công nghệ trong các phim

giai đoạn 2000 - 2015 ta nhận thấy, các nhà làm phim đã chú trọng nhiều đến

những yếu tố này bên cạnh mặt nội dung của tác phẩm. Điều đó thể hiện mục

tiêu của các nhà làm phim là không ngừng khai thác mạnh mẽ vào đặc trưng

của thể loại nhờ các yếu tố kỹ thuật và công nghệ, đồng thời mong muốn sản

phẩm của mình tiến gần hơn với các sản phẩm hoạt hình thế giới. Xu hướng

hội nhập, học hỏi phương pháp sáng tác, thủ pháp nghệ thuật của các nhà làm

phim đã khiến cho phim hoạt hình bên cạnh các yếu tố truyền thống, thuần

Việt còn có màu sắc hiện đại, mang hơi thở của cuộc sống đương đại. Có thể

nhìn rõ những nét nổi bật vừa phân tích trong các cảnh quay, trong cách sử

dụng kỹ xảo để xử lý những cảnh phức tạp, gai góc, nhạy cảm một cách trọn

vẹn nội dung nhưng phải phù hợp thẩm mỹ của người Việt, đảm bảo mỹ cảm

của hình ảnh cũng như tâm lý của khán giả, của từng đối tượng khán giả. Một

số phim đã rất xuất sắc trong việc dàn cảnh, sử dụng góc máy quay cũng như

kỹ xảo như phim Mỵ Châu,Trọng Thuỷ với cảnh Vua An Dương Vương chém

Mỵ Châu trên bờ biển. Bên cạnh việc dàn cảnh với các yếu tố bờ biển, bãi cát,

sự xuất hiện của thần Kim Quy, các nhà làm phim đã tính toán đến cách đặt

góc máy sao cho tư thế An Dương Vương vung gươm lên thực chất là cảnh

Mỵ Châu lao đầu vào lưỡi gươm. Điều đó thoả mãn được yêu cầu về mặt nội

dung câu chuyện dân gian song cũng đáp ứng được việc hạn chế cảnh chém

giết đẫm máu hay cảnh cha con, huynh đệ tương tàn. Cũng như vậy, trong

75

phim Hào khí Thăng Long nhờ kỹ xảo mà các cảnh quân Nguyên Mông chém

giết, tàn sát dân ta không cần thiết phải tái hiện rùng rợn trên màn ảnh. Thay

vào đó là những hình ảnh mờ chồng, lướt nhanh, những hình ngược sáng trên

nền lửa cháy dữ dội hay trên khuôn mặt ngạo nghễ cất tiếng cười hung ác của

tên tướng giặc. Tính khốc liệt của chiến tranh được truyền tải, bằng một cách

trừu tượng, khái quát khiến người xem vẫn cảm nhận được sức mạnh của hình

ảnh nhưng không cảm thấy rùng rợn, kinh dị, kích thích cảm giác mạnh vốn

không phù hợp với nhóm đối tượng thiếu nhi của phim hoạt hình…Với những

thủ pháp nghệ thuật chúng ta vừa phân tích, có thể thấy rõ ý đồ tư tưởng của

các nhà làm phim trong cách sử dụng các yếu tố kỹ thuật: đó là sử dụng hiệu

quả đặc biệt của kỹ thuật để hướng tới việc truyền tải nội dung một cách tinh

tế nhất, mỹ cảm nhất, những hình ảnh ấn tượng nhất trên màn ảnh. Đây chính

là sự kết hợp theo xu hướng tạo ra sự hài hoà về mặt nội dung và hình thức,

nghệ thuật và kỹ thuật trong quan niệm của các nhà làm phim HHVN. Và các

nhà làm phim mong muốn, các thế hệ nghệ sĩ hoạt hình nối tiếp quan điểm hài

hoà, tinh tế trong nội dung và hình thức, trong kỹ thuật và nghệ thuật. Họ hy

vọng có thể cùng nhau xây dựng những giá trị thẩm mỹ được người xem thừa

nhận, thẩm thấu, góp phần tác động đến cách suy nghĩ cũng như thói quen

sinh hoạt, nếp sống của khán giả hoạt hình.

3.2. Cá Đẹp thể hi n trong thể loại phim

Hoạt hình được coi là một trong những thể loại của loại hình nghệ thuật

Điện ảnh. Mặc dù chỉ là một thể loại nhưng phim hoạt hình được sản xuất từ

nhiều nguồn chất liệu. Dựa trên chất liệu và công nghệ sản xuất, chúng ta phân

chia các nhóm phim hoạt hình khác nhau. Theo đó, có nhiều phim hoạt hình với

các chất liệu: hoạt họa vẽ tay, vi tính thực hiện trên hệ thống công nghệ 2D,

phim búp bê thủ công, phim cắt giấy thủ công, phim cắt giấy thực hiện trên hệ

thống máy vi tính, phim vi tính thực hiện trên hệ thống công nghệ 3D và thể loại

76

có sự kết hợp giữa các thể loại khác… Về nguyên tắc, khi phân chia theo chất

liệu, tên gọi của phim cũng thường được gắn kèm như: phim hoạt hình chất liệu

vẽ tay, phim hoạt hình chất liệu vi tính thực hiện trên hệ thống công nghệ 2D,

phim hoạt hình chất liệu vi tính thực hiện trên hệ thống công nghệ 3D… Tuy

nhiên, trong quá trình làm phim, để thuận tiện cho việc trao đổi công việc, các

nhà làm phim HHVN thường gọi tắt là “thể loại phim 2D”, “thể loại phim cắt

giấy” hay “thể loại phim 3D”… Việc thay thế cụm từ chỉ chất liệu bằng từ “thể

loại” khá tuỳ tiện, không phản ánh đúng bản chất và chỉ mang tính quy ước giữa

các thành phần làm phim song lại trở nên khá thông dụng, thậm chí ảnh hưởng

đến một số tài liệu, các bài báo, bài viết và cả khán giả hoạt hình. Và trong thực

tế, cách gọi này dường như đã trở thành cách gọi chung đối với các bộ phim

HHVN. Trong phần phân tích về các chất liệu phim, người viết xin phép được sử

dụng cụm từ “thể loại” cho sát với thực tế sáng tác của HHVN.

Những năm gần đây, HHVN đã dừng sản xuất phim búp bê để tập trung

vào các phim 3D, một thể loại mới có nhiều đặc điểm tương đồng và có hiệu

quả về mặt hình ảnh lớn hơn, được khán giả yêu thích và phù hợp với kỹ thuật

và công nghệ hiện đại. Bởi vậy, trong khoảng thời gian từ 2000 - 2015 chúng ta

chủ yếu có các phim thuộc 3 thể loại chính là: phim hoạt họa 2D - gồm phim

hoàn toàn vẽ tay ở giai đoạn đầu và phim hoạt họa sản xuất trên hệ thống máy

vi tính sau này; phim cắt giấy và phim cắt giấy vi tính; phim 3D. Trên cơ sở

phân tích ý đồ của các nhà làm phim trong từng thể loại chúng ta càng thêm

khẳng định rõ hơn nữa quan niệm về cái Đẹp của HHVN trrong giai đoạn này.

3.2.1. Cái Đẹp trong phim hoạt hoạ 2D

Là thể loại ra đời sớm nhất và cũng mang những đặc trưng cơ bản nhất

của hoạt hình, phim hoạt họa 2D luôn chiếm phần lớn trong tổng số phim

hoạt hình và được khán giả nhiệt tình đón nhận. Có thể thấy, kể từ khi phim

hoạt hình ra đời với các phim tiêu biểu như: Bạch Tuyết và bảy chú lùn

77

(1937); Nai con Bam bi (1942); Công chúa Lọ Lem (1950) hay về sau này với

các phim, Nàng tiên cá (1989); Người đẹp và Quái vật (1991); Vua sư tử

(1994); Hoa Mộc Lan (1998)… và cả trong giai đoạn hiện tại với sự lên ngôi

của phim 3D ăn khách thì các phim hoạt họa 2D kể trên vẫn được coi là phim

kinh điển với sức hút không hề giảm đối với các thế hệ khán giả nối tiếp. Các

khán giả nhỏ tuổi dù yêu thích những phim 3D mới, hấp dẫn như Công chúa

tóc xù (2012), Nữ hoàng băng giá (2013); Những mảnh ghép cảm xúc

(2015)… tới mức nào đi nữa vẫn không thể không bị chinh phục bởi những

phim 2D kể trên. Những giá trị của các phim 2D này đã trở thành tiêu chí

chung của phim hoạt hình và đã trở thành quan niệm cơ bản về cái Đẹp để các

nhà làm phim hướng tới.

Phim hoạt họa 2D với ưu thế của sự chuyển động mềm mại, uyển

chuyển, hình ảnh biến ảo linh hoạt, có thể co duỗi tuỳ theo trí tưởng tượng

của người họa sĩ, là thể loại có thế mạnh trong diễn xuất, chuyển động,

trong biểu cảm. Nét đẹp của phim 2D gắn liền với sự duyên dáng, linh hoạt

trong ấn tượng của người xem. Một trong những nét riêng biệt của phim 2D

là việc sử dụng nhiều sức lao động của người họa sĩ. Phim 2D hạn chế sự hỗ

trợ của máy móc, công nghệ. Hầu hết các khâu sản xuất của phim 2D là do

người họa sĩ hoàn thành một cách thủ công như: tạo hình nhân vật, vẽ động

diễn xuất, vẽ phông… Chỉ có một số khâu như tô màu, tổng hợp hình ảnh…

là sử dụng đến máy tính. Bởi vậy, sản phẩm phim 2D mang tính truyền

thống cao và in đậm dấu ấn, sự sáng tạo và lao động nghệ thuật của người

nghệ sĩ. Đặc biệt, với các phim hoạt họa vẽ tay truyền thống, qui trình làm

phim càng công phu. Thậm chí khâu tô màu cũng không sử dụng máy tính

mà trực tiếp tô màu bằng tay trên giấy kính, các hình vẽ được chụp lại đặt

trên phông vẽ tay. Hoàng tử Ai Cập (1995) là một trong những bộ phim

78

kinh điển của hoạt hình Mỹ. Bộ phim ra đời sau 3 năm làm việc miệt mài

của khoảng 350 họa sĩ. Bộ phim chinh phục khán giả bởi sự hoành tráng,

công phu trước hết về mặt hình ảnh. Chính việc sử dụng hầu hết các khâu

sáng tác bằng phương pháp thủ công nên tính biểu cảm, sự rung động trong

việc biểu hiện tâm lý, cảm xúc của nhân vật là rất riêng biệt, xuất thần và

khó có khả năng lặp lại y hệt. Bộ phim được trau chuốt bằng chính rung

động của người nghệ sĩ, vì thế - toát lên vẻ đẹp tinh tế, hoàn mỹ khác hẳn

với kỹ thuật của máy móc.

Các phim hoạt họa 2D của HHVN giai đoạn trước 2000 hoàn toàn sử

dụng công nghệ vẽ tay. Từ sau năm 2000, đã xuất hiện các phim hoạt họa vi

tính với một số công đoạn xử lý trên máy tính như scan hình ảnh, tô màu,

tổng hợp hình ảnh, vẽ phông… Từ những năm 2005 thì hầu như toàn bộ phim

đều kết hợp vẽ tay và xử lý trên máy tính như: Mỵ Châu, Trọng Thủy, Hào khí

Thăng Long, Giấc mơ Loa thành; Sự tích Đảo Bà; Truyền thuyết Hoa hướng

dương, Bước qua hai thế giới; Chiếc áo tàng hình… Với các phim 2D kể trên,

khán giả có ấn tượng với những hình ảnh đẹp, mềm mại, nhân vật có biểu

cảm, trạng thái tâm lý tinh tế trong một cốt truyện mang tính kịch cao. Hầu

hết những phim đã nêu là phim dài từ 30 đến 60 phút, có cốt truyện hấp dẫn,

nhiều sự kiện, xung đột, nhiều tình tiết kịch tính, biểu hiện tâm lý phức tạp,

79

đặc biệt có nhiều yếu tố thần kỳ, phép màu biến ảo.

Phim hoạt họa 2D Bay về phía bầu trời

Với các bộ phim khai thác câu chuyện về tình yêu như Mỵ Châu, Trọng

Thuỷ; Truyền thuyết Hoa Hương Dương…, thể loại 2D có khả năng khắc họa

nhân vật, khai thác các trạng thái tâm lý tình cảm. Một cái liếc mắt, một ánh

nhìn chan chứa yêu thương của nàng Mỵ Châu đối với Trọng Thuỷ được các

họa sĩ thể hiện một cách tinh tế đã khắc họa được mối tình ngang trái giữa hai

nhân vật; hay sự dằn vặt, đấu tranh tâm lý của Trọng Thuỷ khi phải thực hiện

gian kế lấy móng rùa thần, thể hiện bằng nét mặt đau khổ, cái cau mày đầy

chất ước lệ cho thấy nội tâm giằng xé, khiến nhân vật thật hơn, có chất thuyết

phục hơn, thoả mãn tâm lý của khán giả. Diễn tả, thể hiện tình cảm, tâm lý

nhân vật một cách tinh tế được coi là một trong những quan điểm nổi bật về

80

cái Đẹp thể hiện trong thể loại phim 2D.

Một cảnh diễn tả tình yêu nam nữ trong phim 2D

Truyền thuyết hoa hướng dương

Những bộ phim xuất hiện nhiều sự biến ảo, thần kỳ cũng rất phù hợp

với thể loại 2D. Với khả năng biến ảo đa dạng về mặt hình ảnh, thể loại

phim 2D tạo điều kiện cho các họa sĩ thể hiện tối đa sự thay đổi về mặt

hình dạng của nhân vật, có thể thu nhỏ, phóng to, mỏng dính hoặc tròn xoe

tuỳ theo trí tưởng tượng của người họa sĩ. Các phim khai thác các tình

huống mang tính thần kỳ như đem đến cho người xem những phép biến ảo

kỳ diệu qua hình ảnh như: chú bé có thể nháy mắt biến thành con bướm

bay lượn trong Chiếc áo tàng hình; đám rác thải có thể tụ lại thành con quỷ

rác hoặc rời ra từng mảng khiến con quỷ rác bị tiêu huỷ hình dạng trong

phim Bước qua hai thế giới; từ một gò đất nhỏ dần dần nổi lên trên biển

nước, to dần lên biến thành hòn đảo trong Sự tích Đảo bà… Những sự biến

81

ảo về mặt hình ảnh như vậy rất phù hợp với thể loại phim 2D, khiến người

xem thích thú và thoả mãn. Do vậy, các nhà làm phim coi trọng sự linh

hoạt, biến ảo đó, coi đó trở thành quan niệm chủ đạo về cái Đẹp của thể

loại 2D để triển khai nhiều bộ phim có đề tài phù hợp.

Phim HHVN với hạn chế về mặt kỹ thuật và công nghệ so với các nền

hoạt hình tiên tiến trên thế giới nên qui trình sản xuất sử dụng khá nhiều sức

người, hạn chế việc hỗ trợ của máy móc. Vô hình chung, các bộ phim sử

dụng nhiều công đoạn sản xuất thủ công, chú trọng đến tài năng và sức lực

của người họa sĩ. Mặc dù máy tính đã trở thành phương tiện không thể thiếu

trong qui trình sản xuất song các khâu sản xuất chính của 2D đều do bàn tay

sáng tạo của người họa sĩ như: tạo hình, vẽ động tác diễn xuất, vẽ

phông…Sản phẩm hoàn thành mang dấu ấn sáng tạo cá nhân, có cá tính,

mang đậm chất truyền thống. Với các phim lịch sử dài như Hào khí Thăng

Long, Giấc mơ Loa Thành… nhờ những giá trị nói trên, người xem cảm

nhận được vẻ đẹp sang trọng, truyền thống, rất hoàn mỹ, rất kinh điển trong

đặc điểm thể loại khiến chúng trở thành nét riêng trong quan niệm về cái Đẹp

mà chỉ phim 2D mới có.

Tóm lại, qua việc phân tích một số phim 2D trong giai đoạn 2000

đến 2015 của HHVN, chúng ta có thể nhận thất rõ quan niệm về cái Đẹp

thể hiện qua thể loại phim 2D chính là: vẻ đẹp của sự mềm mại, uyển

chuyển; sự biến ảo linh hoạt trong không gian phẳng; khả năng diễn tả nội

tâm sâu sắc, tinh tế và sự sang trọng, nét đẹp kinh điển truyền thống đặc

trưng gốc của phim hoạt hình.

3.2.2. Cái Đẹp trong phim cắt giấy

Phim cắt giấy là thể loại có quy trình sản xuất gọn nhẹ nhất trong các

82

thể loại phim hoạt hình. Nét nổi bật trong qui trình sản xuất phim cắt giấy

chính là việc tạo ra chuyển động của nhân vật dựa trên các khớp chuyển động.

Cũng giống như thể loại 2D, trước khi có sự tham gia của máy tính vào qui

trình sản xuất, những năm đầu 2000, HHVN chủ yếu sản xuất phim cắt giấy

thủ công. Với những bộ phim này, khâu diễn xuất động tác - khâu sản xuất

chính của phim đều do người họa sĩ tự tay đảm nhiệm. Các họa sĩ tạo ra

chuyển động của phim bằng cách bẻ các khớp chuyển động tay chân, tạo các

dáng điệu, các trạng thái tình cảm bằng cách đặt các khuôn mặt biểu cảm, gắp

từng bộ phận mắt, mũi, miệng của nhân vật để tạo ra trạng thái cảm xúc, tâm

lý trên các lớp phông nền và chụp lại từng hình, ghép lại thành chuỗi chuyển

động. Các bộ phim Chiếc nôi trên vách đá, Sự tích cái nhà sàn; Tiếng nhạc ve

là các phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học, được sản xuất bằng

quy trình sản xuất truyền thống này.

Phim cắt giấy sử dụng phương pháp diễn xuất thủ công trong phim

Tiếng nhạc ve

Các phim cắt giấy với hạn chế về mặt chuyển động do nhân vật bị giới

hạn bởi các khớp xương nên yêu cầu đầu tiên của thể loại này là sự hàm súc, cô

83

đọng. Với mỗi sự biến đổi về mặt hình ảnh, về nhân vật cắt giấy đều đòi hỏi phải

có sự tính toán trước để khâu tạo hình và làm nhân vật có thời gian chuẩn bị tỉ

mỉ tới từng nét mặt biểu cảm, dáng dấp hình hài… Vì thế, các phim cắt giấy đều

có dung lượng ngắn, thông thường là 10 phút. Đề tài thể hiện trong phim thường

có nội dung hàm súc, rất phù hợp với các phim có chất triết lý, đồng thoại, ngụ

ngôn, kích thích và gợi mở tự do tưởng tượng của người xem. Phim cắt giấy

Tiếng nhạc ve là bộ phim đồng thoại, dựa trên câu chuyện ngụ ngôn thế giới.

Chuyện phim giản dị, xoay quanh đời sống của Ve và Kiến, mang đến cho khán

giả thông điệp ngắn gọn song lại lại chứa đựng những triết lý sâu sắc, gợi mở sự

suy tưởng của khán giả. Phim Chiếc nôi trên vách đá là câu chuyện về tình mẹ

con, nội dung đơn giản xoay quanh việc chim mẹ làm tổ và bảo vệ con. Vì hạn

chế về mặt chuyển động của nội dung câu chuyện nên các nhà làm phim đã rất

đúng đắn khi lựa chọn thể loại cắt giấy. Những chuyển động của chim yến mẹ

trong quá trình treo mình trên vách đá để làm tổ thật sự khó nhọc, mệt mỏi. Sự

chuyển động trong động tác của chim yến mẹ không có sự biến hoá, co duỗi như

phim 2D nhưng lại có sức biểu cảm, tạo nên tính hình tượng sâu sắc trong lòng

khán giả. Cũng có liên quan mật thiết đến đặc trưng thể loại, do bị hạn chế về sự

chuyển động, hầu hết các động tác diễn xuất của nhân vật trong phim cắt giấy

đều mang tính tính tượng trưng, ước lệ. Công việc, sự việc trong hiện thực nếu

chỉ diễn ra như động tác của nhân vật trên màn ảnh thì không thể biểu đạt được

hết thực tế. Tuy nhiên, bởi là nhân vật vật của phim cắt giấy, với cách diễn xuất

ước lệ, tượng trưng, gần như đang diễn trên sân khấu kịch thì người xem vẫn

cảm nhận trọn vẹn nội dung của hành động, sực việc. Thậm chí, cả sự biến ảo

trong phim cắt giấy cũng mang tính ước lệ, ẩn dụ. Phim Sự tích cái nhà sàn với

cuộc chiến đấu của hai em bé dân tộc Mường trước những con thuỷ quái mang

đầy tính tượng trưng, khái quát nhưng vẫn khiến người xem tưởng tượng được

84

sự ác liệt trong cuộc đối đầu sống còn; sự biến hoá từ con rùa với chiếc mai là

mái nhà, bốn chiếc chân là bốn cái cột nhà sàn cũng chứa đựng tính ẩn dụ, khái

quát cao, rất đặc trưng của phim cắt giấy.

Cảnh sử dụng kỹ xảo biến hoá mang tính ước lệ, tượng trưng trong phim

Cắt giấy Sự tích cái nhà sàn

Nhìn chung, có thể nhận thấy những đặc điểm nổi bật, làm nên cái Đẹp

trong phim cắt giấy chính là sự cô đọng, hàm súc trong nội dung và diễn xuất,

tính ước lệ, tượng trưng của sân khấu, tính khái quát và chất triết lý thẫm đẫm

trong hình ảnh, trong nội dung của bộ phim.

Vào những năm cuối 2000 đến nay, phim cắt giấy có nhiều đổi mới trong

công nghệ. Mặc dù, vẫn dựa vào việc tạo ra sự chuyển động qua các chốt chuyển

động song công đoạn diễn xuất đã được thực hiện trên máy tính, Nhờ sự hỗ trợ

của công nghệ, của các phần mềm máy tính mà việc diễn xuất của phim cắt giấy

vi tính trở nên linh hoạt hơn, nhân vật mềm mại, uyển chuyển hơn trong động

tác, trong hành động. Phim cắt giấy dù đã có nhiều cải tiến song sự biến ảo

trong phim vẫn bị hạn chế, phụ thuộc vào việc tạo hình nhân vật được tính toán

trước để chuẩn bị trên máy tính chứ không tuỳ thuộc cảm hứng của họa sĩ khi thể

hiện như phim 2D. Phim cắt giấy vi tính Thủ lĩnh vây lửa là một trong những

85

phim tiêu biểu mà nhân vật có sự chuyển động mềm mại, uyển chuyển gần theo

kịp sự chuyển động của phim hoạt họa 2D. Các nhà làm phim đã sử dụng sự hỗ

trợ của công nghệ để khiến cho các động tác của chú cá Vây lửa với chiếc đuôi

rực rỡ bơi lội tung tăng, uốn mình trong nước tương tự như hình ảnh của phim

2D. Phông của phim cũng sử dụng các công nghệ máy tính khiến cho cảnh nước

non đẹp, sống động. Công đoạn tổng hợp hình ảnh sử dụng nhiều kỹ xảo khiến

bộ phim cắt giấy có xu hướng xoá nhoà ranh giới với phim 2D. Tuy nhiên, sự

biến ảo trong hình ảnh và nội dung câu chuyện vẫn bị hạn chế nên câu chuyện và

hình ảnh của phim vẫn mang tính khái quát, ước lệ, chứa đựng tính ẩn dụ cao.

Phim cắt giấy vi tính Thủ lĩnh vây lửa sử dụng máy tính hỗ trợ diễn xuất

Qua những phân tích cụ thể ở trên, ta nhận thấy, cái Đẹp được thể hiện

trong phim cắt giấy, được các nhà làm phim đề cao, coi như quan niệm thẩm

mỹ của thể loại này chính là sự cô đọng, hàm súc trong nội dung và diễn xuất;

tính ước lệ, tượng trưng đặc trưng của sân khấu trong hình tượng nhân vật,

trong từng hành động, sự kiện câu chuyện; tính khái quát và chất triết lý thẫm

đẫm trong hình ảnh, trong nội dung của bộ phim.

3.2.3. Cái Đẹp trong phim 3D

Những năm gần đây, cùng với sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật và

86

công nghệ, phim hoạt hình 3D xuất hiện và nhanh chóng chiếm lĩnh thị

trường. Với ưu điểm, nhân vật chuyển động linh hoạt, sống động như thật

trong môi trường không gian 3 chiều, phim 3D đã chinh phục khán giả một

cách nhanh chóng. Không chỉ thoả mãn nhu cầu xem của khán giả, phim 3D

còn đáp ứng nhu cầu tự do sáng tạo nghệ thuật, tạo ra môi trường rộng lớn

cho người nghệ sĩ hoạt hình mặc sức thể hiện. Chính vì vậy, sản xuất phim

3D luôn là lựa chọn số một trong xu hướng sáng tác của các nhà làm phim.

Những năm gần đây, hầu hết các phim hoạt hình đạt giải thưởng cao trong các

kỳ Liên hoan phim quốc tế, giải thưởng Oscar của Điện ảnh Mỹ cũng như các

phim hoạt hình có doanh thu cao nhất trên thế giới đều thuộc thể loại phim

3D. Đó là minh chứng rõ nhất cho sự lựa chọn, niềm yêu thích, thị hiếu của

khán giả cũng như giá trị nghệ thuật mà thể loại phim 3D mang lại. Hàng năm

các nhà làm phim liên tục cho ra đời nhiều bộ phim hoạt hình 3D được đầu tư

hoành tráng cả về nội dung câu chuyện lẫn kỹ xảo điện ảnh để chinh phục

khán giả. Các bộ phim 3D này đã thu được tiếng vang lớn cả về tài chính lẫn

nghệ thuật như các phim: Nữ hoàng băng giá; Công chúa tóc xù; Kungfu

Panda, Mađagaxca; Đi tìm Nemo… Thành công nối tiếp thành công, các nhà

làm phim tiếp tục phát triển các phần 2, phần 3 vủa bộ phim như Kungfu

Panda; Mađagaxca … Thậm chí, nhiều bộ phim nổi tiếng, phim kinh điển

thuộc thể loại 2D cũng được các nhà làm phim làm lại với thể loại 3D như

phim Vua sư tử, các seri phim hoạt hình về chuột Mickey; Vịt Donal… Nhìn

chung, trong giai đoạn hiện tại, phim 3D đã trở thành xu hướng tất yếu, thu

hút thị hiếu khán giả cũng như sự đầu tư của các nhà làm phim.

Kế thừa và phát huy sự phát triển trong công nghệ làm phim, HHVN

giai đoạn 2000 - 2015 đã dành nhiều sự đầu tư cho thể loại phim 3D. Phim 3D

của Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều, chất lượng phim khá tốt và có nhiều

tín hiệu tốt khi tiếp cận khán giả. Các phim Anh chàng số 9, Ve vàng và Dế

87

lửa, Càng to, càng nhỏ, Theo dấu chân hươu… là các phim 3D có gốc

chuyển thể từ các tác phẩm văn học được khán giả yêu thích.

Phim hoạt hình 3D “Ve vàng và Dế lửa”

Với đặc điểm nhân vật được tạo hình trên máy tính một cách công phu

qua các công đoạn: phác thảo chì; làm model - tạo hình nhân vật trên công

nghệ 3D; làm biểu cảm nhân vật; tạo màu; tạo chất liệu; làm xương; tạo điều

khiển diễn xuất… nhân vật 3D được tạo hình nổi trong không gian 3 chiều

nên khán giả có cảm giác như đang nhìn thấy người thật, các con vật, đồ vật

thật hoạt động trong môi trường giống như bên ngoài màn ảnh. Nét đẹp

trong hình khối, tạo cảm giác sống động trong không gian, bối cảnh thật

chính là đặc điểm nổi bật, phân biệt phim 3D với các thể loại khác. Hình ảnh

chú Ve vàng, toàn thân óng ả, căng tràn sức sống mang vẻ đẹp mạnh mẽ, kết

hợp với những bước chân nhún nhảy từ vòm lá này sang vòm lá khác, tung

bay, lộn nhào trong không gian rộng mở, dưới bầu trời cao vời vợi trong

phim Ve vàng và Dế lửa mang đến cho khán giả cảm giác phóng khoáng,

thoải mái, xoá nhoà ranh giới giữa màn ảnh và thực tế. Cuộc chiến đấu của

chàng trai với bầy sói để cứu hươu bố trong Theo dấu chân hươu có cảm

giác chân thực như bày ra trước mắt với độ khốc liệt, một mất một còn từ

88

mỗi cú đánh khiến người xem nghẹt thở vì hồi hộp như đang chứng kiến

cuộc đấu sinh tử… Cảm giác sống động của nhân vật và không gian 3 chiều

là đặc điểm nổi bật nhất, đã trở thành quan điểm về cái Đẹp trong thể loại

phim hoạt hình 3D và mục tiêu hướng tới của các nhà làm phim khi muốn

biến thế giới của chuyện phim về gần hơn với cuộc sống sinh hoạt, môi

trường sống của khán giả.

Một đặc trưng nữa ẩn chứa vẻ đẹp trong quan niệm thẩm mỹ của các

nhà làm phim thể hiện trong thể loại phim 3D chính là sự nhịp nhàng, uyển

chuyển, khả năng biến đổi linh hoạt trong tạo hình, sự bùng nổ trong động tác,

trong sự chuyển động của thể loại phim này. Các màn múa hát, biểu diễn ca

nhạc kết hợp giữa ca sĩ, nhạc sĩ Ve vàng với dàn nhạc, đội vũ công làm nên

một sân khấu hoành tráng, sôi động với sự kết hợp hài hoà chuyển động của

rất đông nhân vật trên cùng một khuôn hình làm tăng thêm tính chân thực của

không gian 3 chiều trong bộ phim Ve vàng và Dế lửa. Hay sự kết hợp hài hoà

giữa một chiếc càng to lớn, mạnh khoẻ nhưng thô mộc, vụng về với chiếc

càng bé nhỏ, yếu ớt nhưng khéo léo, nhanh nhẹn cũng tăng thêm cảm giác

sinh động cho bộ phim Càng to, càng nhỏ. Thế giới của các con số với tập

hợp các số khác nhau, dáng vẻ khác nhau, tạo hình khác nhau nhưng có thể

chạy nhảy, uốn mình bật xa, dán mình xuống nền, gập đôi, xoắn người…

khiến cho cảm nghĩ của người xem về thế giới các con số trong Anh chàng số

9 đầy màu sắc, vui nhộn và sinh động hấp dẫn khác hẳn với ấn tượng tẻ nhạt

89

về các con số trong lòng khán giả...

Phim hoạt hình 3D Càng to, càng nhỏ

Nhờ sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ mà thể loại 3D mới có thể

phát triển và nở rộ. Điều này còn thể hiện ở khâu kỹ xảo của phim. Chính nhờ

kỹ xảo phim 3D mà nhiều thể loại phim điện ảnh đã áp dụng nhằm giảm bớt

chi phí đồng thời tăng hiệu quả của phim, đáp ứng ý đồ của đạo diễn khi thể

hiện. Kỹ xảo phim 3D là sự hiện thực hoá trí tưởng tượng của con người.

Thậm chí, nó không dừng lại sự hiện thực hoá mà còn là sự gợi ý, mở rộng sự

tưởng tượng của chúng ta. Từ những đại cảnh hoành tráng cho đến thế giới bé

nhỏ của các sinh vật; từ thời tiền sử của thế giới cổ đại đến thế giới viễn

tưởng trong tương lai, từ những thảm cảnh môi trường động đất, lũ lụt, sóng

thần, núi lửa đến các phép biến ảo kỳ diệu của phép thuật, của phép màu, của

thế giới thần tiên - nhờ kỹ xảo - tất cả đều hiện lên sống động trên màn hình.

Có thể nói, nhờ kỹ xảo 3D, các nhà làm phim đã biến những cái không thể

thành có thể. Chúng ta gặp trong phim Theo dấu chân hươu cảnh tượng người

cha của chú bé, sau khi giết hại thú rừng đã bị thần rừng biến thành con hươu.

Sự biến hình từ con người thành hươu rồi từ hươu thành người, hình ảnh thần

rừng với gương mặt được tạo nên từ thân cây cổ thụ biến ảo không ngừng nhờ

90

có kỹ xảo 3D mà trở nên sống động như thật trước mắt khán giả. Những cảnh

nước lũ, cảnh vật lộn trong dòng nước xiết, cảnh bị mắc kẹt do đá lở vô cùng

nguy hiểm trong Càng to, càng nhỏ khiến chuyến phiêu lưu của cua con càng

trở nên hấp dẫn, thu hút khán giả. Tóm lại, phim 3D ngoài những yếu tố nổi

bật phân tích ở trên thì kỹ xảo hình ảnh cũng là một đặc điểm đặc trưng thể

hiện vẻ đẹp của thể loại phim trong quan niệm chung của các nhà làm phim

hoạt hình. Bên cạnh vẻ đẹp được tạo nên từ cảm giác chân thực về nhân vật

và không gian hoạt động, về sự linh hoạt, đa dạng trong chuyển sộng, trong

động tác diễn xuất, vẻ đẹp mang lại từ hiệu quả to lớn của kỹ xảo cũng là một

giá trị thẩm mỹ cơ bản của thể loại phim 3D.

3.2.4. Cái Đẹp trong các thể loại tổng hợp

Hoạt hình là môn nghệ thuật có nhiều thể loại mang nét độc đáo riêng.

Ngày nay, với mong muốn ngày càng có nhiều sản phẩm nghệ thuật hoàn hảo,

các nhà làm phim đã tìm cách tận dụng thế mạnh của các thể loại khác nhau,

hội tụ trong một tác phẩm để có thể thực hiện trọn vẹn nhất ý đồ sáng tác của

mình. Điều này đã khiến cho các bộ phim kết hợp nhiều thể loại có màu sắc

riêng, có nhiều ưu điểm nhờ sự hỗ trợ của các thể loại. Một số phim, các tác

giả sử dụng nhân vật vẽ để khẳng định nét diễn xuất tinh tế, uyển chuyển của

nhân vật song lại dùng bối cảnh, phông của phim 3D để diễn tả cảm giác

không gian bao la như bộ phim hoạt hình của Mỹ Thuỷ thủ Sinbad: Huyền

thoại 7 đại dương (2003). Thậm chí, trong một số phim hoạt hình, các nhà

làm phim quay cảnh người thật, kết hợp với các cảnh hoạt hình hoặc có thể

quay toàn bộ phim thật rồi xử lý qua công nghệ máy tính, biến thành phim

hoạt hình… Chính những sự kết hợp, tìm tòi sáng tạo này đã dần dần xoá

nhoà ranh giới giữa các thể loại, sáng tạo nên các bộ phim hội tụ được nhiều

thế mạnh và quan trọng nhất là khiến nó trở nên giống cuộc sống thực hơn bất

91

kỳ thể loại hoạt hình độc lập nào.

Phim HHVN đã xuất hiện một số tác phẩm ghi dấu sự kết hợp giữa các

thể loại hoặc sử dụng một số cảnh quay bằng kỹ thuật của các thể loại khác.

Phim Đeo lục lạc cho mèo chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới được các

nhà làm phim sử dụng kết hợp giữa các cảnh phim 2D và phim cắt giấy. Nhờ

sự kết hợp của 2 thể loại này mà bộ phim có được sự chuyển động mềm mại,

uyển chuyển nhưng cũng ẩn chứa tính triết lý cao trong các hình ảnh ẩn dụ,

ước lệ. Một số phim cũng kết hợp những cảnh 3D hay phông 3D trong diễn

xuất như phim Mỵ Châu, Trọng Thủy.

Kết hợp cảnh 3D nỏ thần trong phim 2D Mỵ Châu, Trọng Thuỷ

Mỵ Châu, Trọng Thủy là phim hoạt họa 2D, song có những đoạn cần kỹ

xảo, cần tới hiệu ứng của không gian 3 chiều như: cảnh nỏ thần phát huy công

lực bắn ra hàng ngàn mũi tên, các nhà làm phim đã kết hợp cảnh diễn xuất 3D

để tăng thêm hiệu quả hình ảnh; cảnh thể hiện sự hoành tráng, hùng vĩ của

thành Cổ Loa, tác giả cũng lấy phông nền 3D để nhân vật diễn xuất cho tăng

thêm cảm giác đồ sộ, vĩ đại của toà thành. Trong phim Hào khí Thăng Long

với cảnh Rồng bay lên trên nền trời rực lửa tác giả cũng dùng kỹ xảo, hiệu

ứng hình ảnh, màu sắc, ánh sáng của phim 3D để biểu đạt khí thế hừng hực,

92

sức mạnh vô hình ẩn chứa trong dáng điệu của rồng vàng Thăng Long.

Kết hợp cảnh 3D trong phim 2D Hào khí Thăng Long

Nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ, đặc biệt là óc sáng tạo,

không ngừng tìm tòi, mày mò nghiên cứu các thủ pháp nghệ thuật, các nhà

làm phim đang có những bước tiến xa hơn nữa trong công nghệ làm phim,

trong mong muốn tạo ra những sản phẩm hoàn hảo, trong sự đổi mới, sáng

tạo, vận dụng không ngừng của lao động nghệ thuật. Thành quả đem đến

chính là những sản phẩm phim hoạt hình hấp dẫn, lôi cuốn khán giả. Sự lôi

cuốn, mới mẻ, đầy sáng tạo chính là nét đẹp điển hình trong quan niệm về cái

Đẹp có sự kết hợp, giao thoa của các thể loại riêng của phim hoạt hình. Bằng

việc phân tích và làm rõ cái Đẹp trong quan niệm của thể loại phim 2D, cắt

giấy, 3D, hy vọng các nhà làm phim nắm chắc đặc trưng, thế mạnh của thể

loại, để tìm cách tạo ra những sản phẩm có sự kết hợp hài hòa, linh hoạt, đem

93

đến cho khán giả những bộ phim hoàn hảo, hấp dẫn hơn nữa.

KẾT LUẬN

Hoạt hình là một thể loại đặc biệt của điện ảnh. Sức hấp dẫn của các bộ

phim hoạt hình nằm trong chính thế giới mà nghệ thuật hoạt hình tạo ra. Khán

giả hoạt hình bị lôi cuốn không chỉ bởi những hình ảnh giàu màu sắc và sinh

động được trình chiếu trên màn hình mà họ còn bị cuốn hút bởi chính óc hư

cấu, sức mạnh của trí tưởng tượng và mạch nguồn cảm xúc của chính bản

thân khi hoà nhập vào thế giới hoạt hình. Chính bởi sức hấp dẫn của nghệ

thuật hoạt hình, bởi lượng khán giả khổng lồ của thể loại phim này mà các

nhà làm phim luôn có động lực và khát khao sáng tạo hơn nữa để thể hiện

được ý đồ nghệ thuật của mình, đồng thời cống hiến cho khán giả nhiều bộ

phim hoạt hình giá trị. Với các nhà làm phim HHVN, mặc dù luôn nỗ lực lao

động nghệ thuật, không ngừng ấp ủ, trăn trở mong cho ra đời những tác phẩm

hoạt hình đáp ứng kỳ vọng của công chúng song chúng ta vẫn phải thừa nhận

một điều là nền điện ảnh HHVN vẫn còn nhiều hạn chế. Thực trạng HHVN

hiện nay là còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, hạn chế về tư duy nghệ

thuật và công nghệ sản xuất. Để khắc phục tình trạng này, cần kết hợp nhiều

nguồn lực, trong đó cần sự hỗ trợ mạnh mẽ về chính sách, về tài chính của các

cơ quan quản lý, sự nỗ lực của vươn lên của những người làm nghề, sự cổ vũ,

ủng hộ vô cùng to lớn của công chúng. Với mong muốn góp một phần nhỏ bé

vào việc nâng cao chất lượng phim HHVN thời gian tới, đề tài nghiên cứu

Quan niệm về cái Đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ

tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 – 2015) có mục đích bổ sung vào các tài

liệu mang tính lý luận của nghệ thuật hoạt hình, tạo điều kiện cho các nhà làm

phim có thêm tài liệu để tham khảo kiến thức về nghề, nghiên cứu và xây

dựng định hướng trong hoạt động sáng tác phim HHVN giai đoạn tiếp theo.

Với mục tiêu đã nêu, luận văn là kết quả báo cáo của đề tài nghiên cứu

94

mang tính khoa học, hệ thống các quan điểm về cái Đẹp của phim

HHVN, thông qua việc phân tích đánh giá các phim HHVN được chuyển thể

từ các tác phẩm văn học trong giai đoạn 2000 – 2015. Khoanh vùng phim

khảo sát nằm trong các tác phẩm được chuyển thể từ gốc văn học bởi chúng

tôi tin rằng, văn học chính là nguồn mạch dồi dào để các nhà làm phim hoạt

hình thoả sức khai thác. Với các đặc trưng riêng biệt của thể loại hoạt hình,

việc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang phim hoạt hình, môn nghệ thuật

vẫn luôn coi trọng yếu tố giáo dục thì những giá trị đã được đúc kết, thẩm

định và được công chúng đón nhận qua các tác phẩm văn học chính là lợi thế

lớn.

Trên cơ sở phân tích quan niệm về cái Đẹp của các nhà làm phim

dựa trên các thành tố, qua hình thức phim và thể loại phim, chúng tôi đưa

ra những kết quả nghiên cứu mang tính tổng kết về quan niệm cái Đẹp và

hệ giá trị trong phim HHVN. Đây chính là hệ thống quan niệm thẩm mỹ cơ

bản trong phim HHVN thể hiện đặc điểm cơ bản, bộc lộ rõ nét nhất khuynh

hướng sáng tác của các nhà làm phim HHVN trong những năm qua. Những

đặc điểm cơ bản này cũng phần nào cho thấy xu hướng thẩm mỹ, thị hiếu

của khán giả hoạt hình, qua đó đưa tới những gợi ý cho các nhà làm phim

trong thời gian tới.

Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu của chúng tôi

còn nhiều hạn chế, không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Chúng tôi hy vọng, có

thêm điều kiện, cơ hội để nghiên cứu sâu hơn, mở rộng hơn nữa hiệu quả tích

cực của đề tài trong ứng dụng thực tiễn của hoạt động sáng tác, trong công tác

đào tạo đội ngũ sáng tác phim hoạt hình cũng như cổ vũ, khích lệ khán giả

95

đến gần hơn nữa với HHVN trong tương lai.

TÀI I U TH KHẢ

1. Khánh An (2015), “Chỗ đứng nào cho hoạt hình Việt”, 4.11.2015,

http://petrotimes.vn/cho-dung-nao-cho-phim-hoat-hinh-viet-342641.html, cập

nhật: 08.6.2016.

2. Phan Anh (2011), “3D - Xu hướng mới cho hoạt hình Việt Nam”, 24.11.2011,

(http://dantri.com.vn/giai-tri/3d-xu-huong-moi-cho-hoat-hinh-viet-

1322384759.htm, cập nhật: 08.6.2016.

3. Kim Anh (2016), Phim hoạt hình chưa có nhiều đột phá, Thế giới điện ảnh,

(số 4), tr.10 -12

4. Kim Anh (2013), “Hoạt hình Việt Nam còn yếu về tư duy nghệ thuật”,

22.3.2013, http://www.thegioidienanh.vn/index.php?option=com_

content&view= article&id=7047:phim-hot-hinh-vit-nam-con-yu-v-t-duy-ngh-

thut&catid=35: dien-anh&Itemid=34, cập nhật: 08.6.2016

5. Bruno Toussaint (2007), Ngôn ngữ điện ảnh và truyền hình , Nxb Dixit và

Hội Điện ảnh VN đồng xuất bản, Hà Nội

6. David Bordwell, Kristin Thompson (2013), Nghệ thuật Điện ảnh, Nxb Thế

Giới, Hà Nội.

7. Lê Văn Dương (2014), Lê Đình Lục, Lê Hồng Vân, Mĩ học đại cương, Nxb

Giáo dục VN, Hà Nội.

8. Nguyễn Văn Đại (2013), Mỹ học Mac-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

9. Đỗ Thị Ngọc Điệp (2010), Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác

phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự), Luận văn Thạc sĩ.

10. Đỗ Văn Khang (2010), Giáo trình mỹ học Mác- Lê Nin, Nxb Giáo dục

96

VN, Hà Nội

11. Hãng phim Hoạt hình Việt Nam (2015), “Hoạt hình trong đổi mới giáo dục”,

7.8.2015, http://hoathinh.org.vn/hoi-thao-phim-hoat-hinh-trong-doi-moi-giao-

duc, cập nhật: 08.6.2016.

12. Hãng phim Hoạt hình Việt Nam (2016), “Hoạt hình Việt Nam gặt hái những

thành công”, 21.4.2016, http://hoathinh.org.vn/hang-phim-hoat-hinh-viet-nam-

gat-hai-thanh-cong-mua-giai-canh-dieu-2015, cập nhật: 08.6.2016.

13. Phương Hoa (2013), Hoạt hình Việt Nam vẫn thiếu chất hài hước, Thế

giới điện ảnh, (số 10), tr . 14-16

14. Ngô Mạnh Lân (1999), Hoạt hình Nghệ thuật thứ Tám: Vài nét về sự phát

triển của nghệ thuật hoạt hình thế giới và hoạt hình Việt Nam, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

15. Ngô Mạnh Lân (2009), Chặng đường phim hoạt hình, Nxb Mỹ thuật, Hà

Nội.

16. Ngô Mạnh Lân (2011), Phim hoạt hình những nốt thăng, nốt trầm, Nxb

Văn hóa Thông tin, Hà Nội,

17. Ngô Mạnh Lân, Trần Ngọc Thanh (1977), Phim hoạt họa Việt Nam, Nxb

Văn Hoá, Hà Nội.

18. Công Lê (2010), “Người con của rồng - Duyên phận giữa phim 3D và Thái

tổ Lý Công Uẩn”, 15.9.2010,

http://www.thegioidienanh.vn/index.php?option=com_content&id=1057:nguoi-

con-cua-rong---duyen-phan-giua-phim-3d-va-thai-to-ly-cong-uan&Itemid=34,

cập nhật: 08.6.2016.

19. Tuyết Minh (2010), “Phim hoạt hình 3D về Vua Lý Công Uẩn "níu" chân

khán giả đến phút cuối”, 13.9.2010, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-

hoa/373596/phim-hoat-hinh-3d-ve-vua-ly-cong-uan-niu-chan-khan-gia-den-

97

phut-cuoi, cập nhật: 08.6.2016.

20. Nhiều tác giả (2007), Hành trình nghiên cứu điện ảnh Việt Nam, Nxb Văn

hoá -Thông tin, Hà Nội.

21. Nhiều tác giả (2003), Lịch sử điện ảnh Việt Nam, quyển 1, Cục Điện ảnh

xuất bản, Hà Nội.

22. Nhiều tác giả (2005), Lịch sử điện ảnh Việt Nam, quyển2, Cục Điện ản h

xuất bản, Hà Nội.

23. Ngô Minh Nguyệt (2014), “Xe đạp và những kịch bản hoạt hình xuất sắc”,

21.3.2014, http://hoathinh.org.vn/xe-dap-va-nhung-kich-ban-hoat-hinh-xuat-sac ,

cập nhật: 08.6.2016.

24. Tường Phạm (2015), “Phim hoạt hình Việt Nam: Cần thay đổi hướng tiếp

cận khán giả”, 24.6.2015 http://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/Can-thay-

doi-huong-tiep-can-khan-gia-355291/, cập nhật: 08.6.2016.

25. Bùi Phú (1984), Đặc trưng ngôn ngữ điện ảnh, NXB Văn hoá, Hà Nội.

26. Nam Phương (2015), “ Phim hoạt hình Việt, khoảng trống khó lấp đầy”,

14.8.2015, http://suckhoedoisong.vn/phim-hoat-hinh-viet-khoang-trong-kho-lap-

day-n102624.html, cập nhật: 08.6.2016.

27. Trương Qua (2006), Hoạt hình Việt Nam đỉnh cao mơ ước, Viện Phim

Việt Nam xuất bản, Hà Nội

28. Cao Sơn (2014), “Phim hoạt hình - giáo dục trẻ thơ bằng nghệ thuật”,

20.1.2014,

http://daibieunhandan.vn/ONA_BDT/NewsPrint.aspx?newsId=304733, cập

nhật: 08.6.2016

29. Vương Tâm (2010), “Để tìm ra nhân vật phim hoạt hình Việt Nam!?”,

1.4.2010, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-hoa/318671/de-tim-ra-nhan-vat-

phim-hoat-hinh-viet-nam, cập nhật: 08.6.2016

30. Vũ Ngọc Thanh (2009), Điện ảnh Việt Nam thời hội nhập, Nxb Văn học,

98

Hà Nội.

31. Nguyễn Mai Trang (2014), “Trần Khánh Duyên: Niềm vui chú Bò Vàng”,

3.11.2014, http://hoathinh.org.vn/tran-khanh-duyen-niem-vui-chu-bo-vang, cập

nhật: 08.6.2016

32. Văn Trầm (2015), “Sức mạnh vô địch của hoạt hình”, 3.11.2015,

http://hoathinh.org.vn/suc-manh-vo-dich-cua-dien-anh-va-phim-hoat-hinh, cập

nhật: 08.6.2016

33. Minh Trí (2013), Hoạt hình trong cánh diều, Thế giới điện ảnh, (số 4), tr.

17-207.

34. Đoàn Minh Tuấn (2008), Những vấn đề lí luận kịch bản phim, Nxb Văn

hoá Thông tin, Hà Nội.

35. Trần Thanh Việt (2014), Phim Hoạt hình Việt Nam -– Những đổi mới

99

trong sáng tác giai đoạn 2000 – 2012), Luận văn Thạc sĩ.