Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.
lượt xem 9
download
Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu nhằm hệ thống hóa những vấn đề cơ bản quản trị rủi ro kinh doanh thẻ TDQT. Phân tích, đánh giá quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank CN Cầu Giấy. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giảm thiểu rủi ro dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank CN Cầu Giấy.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đứng trước sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế nước nhà, ngân hàng với tư cách là một doanh nghiệp đặc biệt, một tổ chức tài chính cũng chuyển mình theo guồng quay mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước. Bởi vậy ngân hàng đã không ngừng đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ bằng việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ chất lượng và tiện dụng. Thẻ tín dụng quốc tế là một trong những dịch vụ như vậy. Thẻ tín dụng quốc tế là một hình thức thay thế cho việc thanh toán trực tiếp. Chủ thẻ không cần phải trả tiền mặt ngay khi mua hàng. Thay vào đó, ngân hàng sẽ ứng trước tiền cho người bán và Chủ thẻ sẽ thanh toán lại sau cho ngân hàng khoản giao dịch. Ngày nay thẻ tín dụng đã được sử dụng phổ biến trong cuộc sống hàng ngày của đông đảo người dân toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc triển khai hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế là một phần tất yếu trong sự phát triển chung về thẻ của ngành ngân hàng. Tuy nhiên đi cùng với sự phát triển nhanh chóng về số lượng và lợi nhuận cao mà dịch vụ này mang lại thì các ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và rủi ro khôn lường. Nhận thức được điều đó, Agribank CN Cầu Giấy đã có những giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro và khắc phục khó khăn. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề bất cập tồn tại dẫn đến kết quả đạt được không như kỳ vọng. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Quản trị rủi ro không còn là đề tài mới mẻ, tuy nhiên hoạt động này vẫn là vấn đề cấp thiết. Do việc kinh doanh của các ngân hàng tại Việt Nam chủ yếu là hoạt động truyền thống cho vay tín dụng, hoạt động kinh doanh thẻ TDQT chưa thực sự được quan tâm đúng với tiềm năng.
- 2 Mặt khác, các nghiên cứu trước đây tập trung nhiều ở việc phát triển hoạt động kinh doanh thẻ TDQT, và các nghiên cứu đó hầu hết được thực hiện ở thời kỳ đầu khi thẻ TDQT triển khai tại thị trường Việt Nam. Trong bài luận này, em xin đề cập đến các rủi ro cơ bản thường gặp trong hoạt động kinh doanh thẻ TDQT tại Việt Nam và từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro hoạt động thẻ TDQT tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy. 3. Mục đích của đề tài: Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản quản trị rủi ro kinh doanh thẻ TDQT. Phân tích, đánh giá quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank CN Cầu Giấy. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giảm thiểu rủi ro dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank CN Cầu Giấy. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Rủi ro tồn tại trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc đưa ra các biện pháp hạn chế và ngăn ngừa rủi ro đó là rất cần thiết. Bài luận này lựa chọn hoạt động kinh doanh thẻ TDQT tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn – Chi nhánh Cầu Giấy làm đối tượng nghiên cứu. Và phạm vi mà khóa luận đề cập chỉ giới hạn trong hoạt động kinh doanh thẻ TDQT của Chi nhánh Cầu Giấy giai đoạn từ 2010 đến 2016. 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở một số phương pháp như phương pháp thống kê, so sánh, kết hợp với phương pháp phân tích làm rõ các vấn đề đặt ra. 6. Kết cấu luận văn:
- 3 Tên đề tài: Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy. Bố cục luận văn: Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ TDQT. Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy. Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế Agribank Chi nhánh Cầu Giấy. Do thời gian nghiên cứu không dài và kiến thức còn chưa sâu nên khóa luận sẽ khó tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Vì vậy em rất mong được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của thầy cô. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn cô Đào Thị Thu Giang đã dành nhiều thời gian giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. NGƯỜI THỰC HIỆN
- 4 Nguyễn Thị Thu 7.
- 5 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TDQT 1.1 Khái niệm rủi ro và quản trị rủi ro 1.1.1 Rủi ro 1.1.1.1 Khái niệm rủi ro Trong các nghiên cứu, có 2 trường phái nổi bật về rủi ro: Trường phái truyền thống (trường phái tiêu cực) và trường phái trung hoà. Trường phái truyền thống Rủi ro được coi là sự không may mắn, sự tổn thất, mất mát, nguy hiểm… Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến. Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không may. Rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn, thiệt hại… Rủi ro là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có tác động xấu. Như vậy, theo cách nghĩ truyền thống thì Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không may có thể xảy ra. Trường phái trung hoà Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến việc xuất hiện những biến cố không mong đợi Rủi ro là giá trị và kết quả mà hiện thời chưa biết đến…
- 6 Như vậy, Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang tới những tổn thất, mất mát, nguy hiểm… nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội. 1.1.1.2 Phân loại rủi ro Rủi ro được phân loại theo 2 phương pháp sau: a) Rủi ro thuần túy Rủi ro thuần túy tồn tại khi có một nguy cơ tổn thất nhưng không có cơ hội kiếm lời được. Ví dụ: người chủ một chiếc xe có rủi ro tổn thất tiềm ẩn liên quan đến một vụ đụng xe. Nếu có đụng xe người đó sẽ bị thiệt hại về tài chính. Nếu không, người đó sẽ không có lợi gì cả, vì thế tình trạng tài chính của người đó vẫn không thay đổi. Rủi ro thuần tuý có thể được phân thành 5 nhóm như sau: Rủi ro cá nhân: đó là các tổn thất về thu nhập hay tài sản của một cá nhân. Nhìn chung, rủi ro thu nhập được đánh giá dựa trên 4 mối nguy hiểm sau: Chết sớm Tuổi già Mất sức lao động Thất nghiệp Rủi ro về tài sản: Bất cứ một cá nhân nào là chủ sở hữu tài sản, đều phải chịu rủi ro về tài sải. Rủi ro về tài sản là những tổn thất về tài sản do bị hư hỏng hay mất mát. Rủi ro về tài sản được chia thành 2 nhóm: tổn thất trực tiếp và tổn thất gián tiếp.
- 7 Tổn thất gián tiếp: tổn thất trực tiếp có thể được hiểu một cách đơn giản như sau: nếu một ngôi nhà bị tiêu huỷ do hoả hoạn, tài sản của người sở hữu bị thiệt hại là giá trị tài sản toàn ngôi nhà. Thiệt hại này được gọi là thiệt hại trực tiếp hay tổn thất trực tiếp. Tổn thất gián tiếp hay tổn thất do hậu quả: khi ngôi nhà bị cháy (tổn thất trực tiếp), hậu quả kéo theo là chủ ngôi nhà phải chi thêm một khoản tiền để có thể sống tạm một thời gian ở đâu đó trong lúc ngôi nhà được xây dựng (hay phụ hồi) lại. Phần tổn thất này được gọi là tổn thất gián tiếp hay tổn thất “hậu quả”. : Một phân xưởng sản xuất bị hoả hoạn. Tổn thất trực tiếp của công ty V í dụ là toàn bộ giá trị phân xưởng bị thiêu huỷ. Tổn thất gián tiếp của công ty là thiệt hại về thu nhập do phân xưởng đó sản xuất ra nếu còn sử dụng nó. Rủi ro tổn thất về tài sản có thể là một hỗn hợp giữa 3 loại rủi ro: Rủi ro tổn thất về tài sản Tổn thất về thu nhập khi tài sản không được sử dụng. Chi phí tăng thêm trong trường hợp có thiệt hại về tài sản. Rủi ro pháp lý: Mối nguy hiểm cơ bản trong rủi ro pháp lý là sự bất cẩn (không cố ý) của người khác, hay sự nguy hiểm đến tài sản của họ do không cẩn thận hay không chủ tâm gây nên. Như vậy, rủi ro pháp lý còn có thể là kết quả từ việc bất cẩn không cố ý gây nên. Dưới hệ thống pháp luật của nước ta, điều luật chỉ ra rằng nếu một người nào đó có hành vi định làm hại người khác, hay định gậy thiệt hại tài sản của người khác vì sự bất cẩn hay vì một lý do nào khác, sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý với sự thiệt hại gây ra đó.
- 8 Rủi ro pháp lý là tổng hợp giữa khả năng thiệt hại về tài sản hiện tại và tổn thất về thu nhập trong tương lai do hậu quả thiệt hại về tài sản gây nên, hay trách nhiệm pháp lý phát sinh trong trường hợp cố ý hay không cố ý gây hại hay xâm phạm quyền lợi của người khác. : Do sự bất cẩn của người thợ hàn, hàn cửa sắt ở tầng 2 của một toà V í dụ nhà thương mại đã gây hoả hoạn làm cháy cả toà nhà, gây tổn thất rất lớn về người và tài sản (hàng chục tỷ đồng của các hộ kinh doanh trong toà nhà đó). Trung tâm mua bán đã phải ngừng hoạt động cả năm trời để sửa chữa. Ông chủ của cơ sở hàn có người thợ hàn làm việc bất cẩn, gây hoả hoạn đã bị truy tố trước pháp luật vì sự bất cẩn của nhân viên của mình. Rủi ro phát sinh do sự phá sản của người khác: Khi một người nào đó đồng ý làm việc cho một tổ chức, người đó phải có trách nhiệm với bất kỳ tình huống nào mà tổ chức sẽ gặp phải. Khi một cá nhân hay tổ chức bị phá sản , đó là hậu quả của tổn thất về tài chính, ta nói rủi ro là hiện hữu. Trong trường hợp này tổ chức có thể đưa vấn đề phá sản vào hợp đồng để xây dựng phương án thanh toán nợ vay khi có sự cố xảy ra. b) Rủi ro suy đoán Rủi ro suy đoán tồn tại khi có một cơ hội kiếm lời được cũng như một nguy cơ tổn thất. Ví dụ: Đầu tư vào một dự án vốn có thể có lợi nhuận hay có thể thất bại. Rủi ro suy đoán có thể được phân loại theo nhóm nguyên nhân sau đây: Rủi ro do thiếu kinh nghiệm và kỹ năng quản lý kinh doanh : rủi ro do thiếu kiến thức về quản lý kinh doanh ở tầm vi mô và vĩ mô của các nhà quản lý dẫn đến những thiệt hại to lớn về mặt kinh tế.
- 9 Rủi ro do kém khả năng cạnh tranh: đó là rủi ro của các công ty do không thích nghi được với khả năng cạnh tranh trên thị trường, không chiếm lĩnh được thị trường và không giữ được khách hàng của mình. Hậu quả là những thiệt hại về tài chính của công ty. Thiệt hại này đôi khi có thể làm công ty phá sản. Rủi ro do sự thay đổi thị hiếu của khách hàng: do sự hạn chế các kiến thức về marketing, các công ty đã không kịp thời đáp ứng được nhu cầu về thị hiếu của khách hàng. Hậu quả là hàng sản xuất ra không hợp thị hiếu của khách hàng, không bán được, làm tổn thất tài chính của công ty. Rủi ro do lạm phát: do lạm phát tăng làm cho giá cả hàng hoá, nguyên vật liệu tăng, đồng tiền mất giá. Kết quả, chi phí đầu vào lớn hơn mức dự kiến, làm cho thu nhập bị giảm (thiệt hại về tài chính). Rủi ro do điều kiện không ổn định của thuế: thuế là một trong những công cụ để điều hoà thu nhập trong nền kinh tế. Nó đóng một vai trò rất quan trọng trong vấn đề tính toán hiệu quả kinh doanh của một công ty. Kinh doanh trong một môi trường bất ổn về thuế là một rủi ro rất lớn. Nếu không được tính toán kỹ, công ty sẽ dễ bị thua lỗ và có thể dẫn đến phá sản. Rủi ro do thiếu thông tin kinh tế: sự thiếu thông tin trên thị trường sẽ dẫn tới những quyết định sai lầm trong kinh doanh, gây hậu quả tổn thất không lường được. Rủi ro do tình hình chính trị bất ổn: tình hình chính trị bất ổn cũng là một mối lo ngại đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Rủi ro thường xuất hiện khi các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu có mối quan hệ với các nước có tình hình chính trị không ổn định. Khi các chính sách thay đổi có thể sẽ dẫn tới thiệt hại về tài chính cho các nhà xuất nhập khẩu.
- 10 Có thể nói thêm rằng khả năng tồn tại mối nguy hiểm có thể mang lại một sự có lợi hoặc không có lợi với một mức bất ổn nhất định. Mức bất ổn được tính toán cho hầu hết các rủi ro, nhưng cần lưu ý: Nó chỉ được sử dụng để tính mức bất ổn trong trường hợp biến cố là ngẫu nhiên như: trò chơi đỏ đen hoặc nhặt bóng trắng hoặc đỏ trong một rổ bóng. Người ta thường sử dụng các phương pháp thống kê và các kỹ thuật hiện đại để giải thích và chứng minh xu hướng phát triển của hiện tượng trong tương lai qua các con số thống kê có được. Một phương pháp khác cũng thường được sử dụng để xử lý hậu quả rủi ro là chi trước một khoản tiền cho các biện pháp phòng chống nhằm ngăn ngừa và giảm thiều rủi ro khi nó xuất hiện. Khi sử dụng phương pháp này, cần thiết phải tính được mức tổn thất có thể trích quỹ cho hoạt động phòng ngừa rủi ro. Người ta sử dụng lý thuyết xác suất và quy luật phân phối xác suất để tính số tiền bình quân cần chi cho mỗi rủi ro. 1.1.2 Quản trị rủi ro 1.1.2.1 Khái niệm quản trị rủi ro Quản trị rủi ro theo nghĩa rộng hàm nghĩa rằng doanh nghiệp cần phát huy, sử dụng năng lực của chính mình để đề phòng và chuẩn bị cho sự biến động của thị trường hơn là chờ đợi sự biến động rồi mới tìm cách đối phó lại. Mục tiêu của quản trị rủi ro không phải ngăn cấm, mà là biết chấp nhận rủi ro, phải ý thức được rủi ro với kiến thức đầy đủ và hiểu biết rõ ràng để có thể đo lường và giúp giảm nhẹ. Quản trị rủi ro có nghĩa là tất cả các chi tiết rủi ro phải vận hành trong phạm vi được chấp thuận, giới hạn và quản lý. “Quản trị rủi ro là xác định mức độ rủi ro mà một doanh nghiệp mong muốn, nhận diện được mức độ rủi ro hiện nay của doanh nghiệp đang gánh chịu và sử
- 11 dụng các công cụ phái sinh hoặc các công cụ tài chính khác để điều chỉnh mức độ rủi ro thực sự theo mức rủi ro mong muốn” (PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, Quản trị rủi ro tài chính, 2007, tr.545). Quản trị rủi ro là sự vận hành chương trình mà có thể hoàn thiện hoạt động, quản lý được các nguồn lực quan trọng, bảo đảm sự tuân thủ các quy định, đạt được mục tiêu hoàn hảo, duy trì sự cân bằng tài chính và cuối cùng ngăn chặn sự mất mát, thiệt hại cho doanh nghiệp Chức năng chủ yếu của quản trị rủi ro là nhận diện, đo lường và quan trọng hơn cả là giám sát rủi ro. Quản trị rủi ro là chuỗi hành động chủ động trong hiện tại để bảo vệ trong tương lai. 1.1.2.2 Mục tiêu của quản trị rủi ro Kiểm soát rủi ro Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của quản trị rủi ro là phải kiểm soát được rủi ro. Đối với một quyết định đầu tư hay giao dịch kinh doanh cụ thể, có nhiều rủi ro tiềm tàng cùng đe dọa xảy ra. Các rủi ro này có thể xảy ra, nhưng cũng có thể không xảy ra, tác động của chúng có thể dao động từ rất lớn đến rất nhỏ. Chúng có thể chỉ là đe dọa, nhưng cũng có thể làm cho doanh nghiệp bị tổn thất nặng nề. Do vậy vấn đề ở đây là làm thế nào kiểm soát được rủi ro, giới hạn tác động của nó trong phạm vi cho phép. Biến rủi ro thành lợi thế, cơ hội thành công Rủi ro không hoàn toàn chỉ có nghĩa là thua lỗ hoặc thất bại, mà rủi ro cũng có thể tạo ra cơ hội để kiếm được lợi nhuận. Do vậy một mục tiêu quan trọng khác của quản trị rủi ro là cần phải giúp doanh nghiệp nhận thức đúng thực trạng rủi ro và khả năng chuyển đổi rủi ro thành lợi thế. Trên cơ sở nhận thức này, doanh
- 12 nghiệp sẵn sàng sử dụng các nguồn lực để biến các rủi ro thành lợi thế, cơ hội thành công. Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp phải nỗ lực nâng cao năng lực, chủ động xây dựng được dự án đầu tư phù hợp với năng lực của mình và chủ động phòng ngừa rủi ro ngay từ khi bắt đầu triển khai kế hoạch kinh doanh. Doanh nghiệp cần xây dựng nhiều kịch bản, từ tốt nhất đến xấu nhất, để luôn giữ được khả năng chủ động ứng phó trong mọi trường hợp. 1.1.2.3 Động cơ của quản trị rủi ro Lý do chính để doanh nghiệp tiến hành quản trị rủi ro là những quan ngại có liên quan đến độ bất ổn của các nhân tố trên thị trường như: lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng hóa, sự điều chỉnh thay đổi của chính sách pháp luật, những khó khăn không lường trước được trong kinh doanh. Những bài học thất bại của các doanh nghiệp khác khi không quan tâm đến quản trị rủi ro cũng góp phần khuyến khích doanh nghiệp cần phải chủ trọng hơn đến vấn đề này. Nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập đầy đủ vào thị trường thế giới, các quan hệ giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Cơ hội kiếm lợi nhuận có nhiều hơn, nhưng rủi ro cũng nhiều hơn. Những điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải chú trọng nhiều hơn nữa đến quản trị rủi ro. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế, các sản phẩm phái sinh cũng bắt đầu được giới thiệu và xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Chính sự ra đời của những sản phẩm này cũng tạo nên một tác động tâm lý to lớn về yêu cầu phòng ngừa rủi ro trong toàn thể cộng đồng doanh nghiệp. 1.1.2.4 Lợi ích của quản trị rủi ro Đối với các doanh nghiệp lớn hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, có nhiều chủ sở hữu là các cổ đông, công ty quản trị rủi ro có hiệu quả với chi phí
- 13 thấp hơn so với trường hợp nếu chính bản thân cổ đông thực hiện quản trị rủi ro thông qua điều chỉnh danh mục đầu tư cá nhân. "Các công ty quản trị rủi ro để giảm thuế, giảm chi phí phá sản, bởi vì các nhà quản trị quan tâm đến tài sản của riêng họ, để tránh đầu tư lệch lạc, để thực hiện vị thế đầu cơ khi có dịp, để kiếm được lợi nhuận kinh doanh chênh lệch hoặc để giảm rủi ro tín dụng và từ đó làm giảm chi phí đi vay" (PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, Quản trị rủi ro tài chính, 2007, tr.547). 1.1.2.5 Các phương thức quản trị rủi ro Quản trị rủi ro chủ động: Là phương thức quản trị rủi ro thông qua các chương trình, chính sách của doanh nghiệp nhằm phòng ngừa những rủi ro ngay từ khi chúng còn tiềm ẩn. Các chính sách quản trị rủi ro thực hiện vừa giúp doanh nghiệp chủ động né tránh rủi ro, giới hạn tác động rủi ro trong phạm vi có thể chấp nhận được, từ đó giúp doanh nghiệp tránh được các rắc rối và khó khăn, đồng thời có thể biến các rủi ro thành cơ hội và làm tăng giá trị doanh nghiệp. Quản trị rủi ro thụ động: Là các biện pháp đối phó, khắc phục những hậu quả sau khi rủi ro đã xảy ra. Tất nhiên khi rủi ro đã xảy ra, tổn thất đã rõ ràng, các giải pháp khắc phục sẽ khó có được kết quả như mong muốn. 1.1.2.6 Các phương pháp quản trị rủi ro Né tránh rủi ro Né tránh rủi ro là loại bỏ khả năng bị thiệt hại, là việc không chấp nhận dự án có độ rủi ro quá lớn. Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp khả năng bị thiệt hại cao và mức độ thiệt hại lớn. Né tránh rủi ro có thể được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu của chu kỳ dự án. Nếu rủi ro dự án cao thì loại bỏ ngay từ đầu. Chấp nhận rủi ro
- 14 Chấp nhận rủi ro là trường hợp chủ đầu tư hoặc cán bộ dự án hoàn toàn biết trước về rủi ro và những hậu quả của nó nhưng sẵn sàng chấp nhận những rủi ro, thiệt hại nếu nó xuất hiện. Chấp nhận rủi ro áp dụng trong trường hợp mức độ thiệt hại thấp và khả năng bị thiệt hại không lớn. Ngoài ra, cũng có những rủi ro mà đơn vị phải chấp nhận. Tự bảo hiểm Tự bảo hiểm là phương pháp quản lý rủi ro mà đơn vị chấp nhận rủi ro và tự nguyện kết hợp thành một nhóm gồm nhiều đơn vị có rủi ro tương tự khác, đủ để dự đoán chính xác mức độ thiệt hại và do đó, chuẩn bị trước nguồn quỹ để bù đắp nếu nó xảy ra. Giải pháp tự bảo hiểm có đặc điểm: Là hình thức chấp nhận rủi ro. Thường là sự kết hợp giữa các đơn vị đầu tư trong cùng công ty bố mẹ hoặc một ngành. Có chuyển rủi ro và tái phân phối chi phí thiệt hại. Có hoạt động dự đoán mức thiệt hại (giống hoạt động bảo hiểm). Hệ thống tự bảo hiểm cũng phải đáp ứng mọi chỉ tiêu của hệ thống bảo hiểm. Tự bảo hiểm có lợi thế là nâng cao khả năng ngăn ngừa thiệt hại, thủ tục chi trả bảo hiểm nhanh gọn, đồng thời, nâng cao khả năng sinh lợi vì tạo điều kiện quay vòng vốn. Tuy nhiên, biện pháp tự bảo hiểm cũng có nhược điểm là đơn vị phải chi phí để vận hành chương trình tự bảo hiểm; đơn vị phải mua và cung cấp nội bộ những dịch vụ có giá trị như những thiết bị ngăn ngừa thiệt hại ; khi khả năng bị thiệt hại xuất hiện đơn vị phải thuê người điều hành theo dõi chương trình tự bảo hiểm. Phương pháp tự bảo hiểm cũng chứa đựng yếu tố rủi ro vì ở đây thực
- 15 tế đơn vị chấp nhận rủi ro với hy vọng thiệt hại có thể không xảy ra trong một số năm. Ngăn ngừa thiệt hại Ngăn ngừa thiệt hại là hoạt động nhằm làm giảm tính thường xuyên của thiệt hại khi nó xuất hiện. Để ngăn ngừa thiệt hại cần xác định nguồn gốc thiệt hại. Có hai nhóm nhân tố chính đó là nhóm nhân tố môi trường đầu tư và nhân tố về nội tại dự án. Một số biện pháp ngăn ngừa như phát triển hệ thống an toàn, đào tạo lại lao động, thuê người bảo vệ. Giảm bớt thiệt hại Chương trình giảm bớt thiệt hại là việc chủ đầu tư, bộ quản lý dự án sử dụng các biện pháp đo lường, phân tích, đánh giá lại rủi ro một cách liên tục và xây dựng các kế hoạch để đối phó, làm giảm mức thiệt hại khi nó xảy ra. Khi không thể chuyển dịch thiệt hại thì việc áp dụng biện pháp này không phù hợp. Chuyển dịch rủi ro Chuyển dịch rủi ro là biện pháp, trong đó một bên liên kết với nhiều bên khác để cùng chịu rủi ro. Biện pháp chuyển dịch rủi ro giống phương pháp bảo hiểm ở chỗ: độ bất định về thiệt hại được chuyển từ cá nhân sang nhóm nhưng khác ở chỗ bảo hiểm không chỉ đơn thuần bao gồm chuyển dịch rủi ro mà còn giảm được rủi ro thông qua dự đoán thiệt hại bằng luật số lớn trước khi nó xuất hiện. Bảo hiểm “Theo quan điểm của nhà quản lý bảo hiểm thì bảo hiểm là sự chuyển dịch rủi ro theo hợp đồng. Từ bên quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ đơn thuần là
- 16 việc chuyển dịch rủi ro mà còn làm giảm rủi ro vì nhóm người có rủi ro tương tự nhau tự nguyện tham gia bảo hiểm đã cho phép dự đoán mức độ thiệt hại trước khi nó xuất hiện. Bảo hiểm là công cụ quản lý rủi ro phù hợp khi khả năng thiệt hại thấp nhưng mức thiệt hại có thể rất nghiêm trọng”. (GS.TS.NGUT Bùi Xuân Phong, Nội dung quản trị rủi ro, http://quantri.vn/dict/details/120noidungcuaquan triruiro, ngày 21/04/2017) 1.1.2.7 Chương trình quản trị rủi ro Rủi ro có thể xuất hiện theo những hình thức khác nhau, tùy theo từng giai đoạn và đặc điểm ngành nghề, quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Việc thiết lập một chương trình quản trị rủi ro phù hợp là một cách để bảo vệ doanh nghiệp khỏi mắc phải những vấn đề không may có thể xảy đến bất cứ lúc nào. “Nội dung cơ bản của một chương trình quản trị rủi ro phải bao gồm việc kết hợp chuyển đổi linh hoạt các quyết định kinh doanh với dự báo giá cả và sử dụng các công cụ tài chính hiện đại, được thực hiện bởi một bộ phận chuyên trách quản trị rủi ro ở doanh nghiệp” (PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, Quản trị rủi ro, https://www.tailieu.vn ngày 10/10/2017). Một chương trình quản trị rủi ro hoàn chỉnh phải đạt được các mục tiêu cụ thể chủ yếu sau: Xây dựng các nguyên tắc, quy định nhằm giúp doanh nghiệp thực hiện kế hoạch kinh doanh có tính nhất quán và có thể kiểm soát; Hỗ trợ cho nhà quản trị doanh nghiệp trong việc ra quyết định đúng đắn, lập kế hoạch và sắp xếp thứ tự ưu tiên công việc trên cơ sở hiểu biết thấu đáo về hoạt động kinh doanh, môi trường kinh doanh, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp;
- 17 Góp phần phân bổ và sử dụng hiệu quả những nguồn lực trong doanh nghiệp; bảo vệ và làm gia tăng giá trị cũng như hình ảnh doanh nghiệp; phát triển và hỗ trợ nguồn nhân lực của doanh nghiệp; Tối ưu hóa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Các bước của chương trình quản trị rủi ro: Xác định sứ mạng: Sắp xếp thứ tự những chỉ tiêu và những mục tiêu quản trị rủi ro cùng với sứ mạng của tổ chức là nhiệm vụ cơ bản của quản trị rủi ro. Việc thiết lập những mục tiêu và chỉ tiêu về quản trị rủi ro có tầm quan trọng hàng đầu, bởi vì chúng là nền rảng cho tất cả những hoạt động quản trị rủi ro. Những chỉ tiêu và những mục tiêu này là những tiêu chuẩn đo lường sự thành công hay thất bại của chương trình, và cũng quyết định triết lý nền tảng cho những hoạt động của quản trị rủi ro. Đánh giá rủi ro: Đánh giá rủi ro bao gồm ba hoạt động có liên quan với nhau. Trước hết, phải nhận ra những rủi ro ảnh hưởng đến tổ chức. Việc nhận ra những rủi ro thường đi với việc nhận ra mối hiểm họa và những nguy cơ. Những mối hiểm họa (hay còn gọi là "những nhân tố rủi ro" trong trường hợp những rủi ro suy đoán) là những hoạt động hay những điều kiện tạo nên hay làm gia tăng khả năng hoặc tổn thất hoặc lợi ích. Một bộ phận của một bộ máy được bảo trì sai là một ví dụ về một mối hiểm họa. Một nguy cơ mất mát hay một cơ hội có lợi sẽ là đồ vật, con người, hay tình huống bị ảnh hưởng bởi tổn thất hay lợi ích. Biết được sự tồn tại của những mối hiểm họa, nhân tố rủi ro, và nguy cơ tổn thất hay những cơ hội có may mắn thì chưa đủ. Nhà quản trị rủi ro phải hiểu được bản chất của chúng, chúng xuất hiện như thế nào, và chúng tác động qua lại với nhau ra sao để dẫn đến một tổn thất hay may mắn. Những cảm nhận về rủi ro,
- 18 cũng như bất trắc, cũng được phân tích vì chúng có một tầm quan trọng to lớn. Ví dụ, tổ chức có thể hiểu rõ những hiểm họa khi tiếp xúc với nguyên liệu nguy hiểm. Nếu nhận thức rủi ro của những người công nhân là quá khác biệt, thì việc đánh giá rủi ro có thể trở nên khó khăn đối với tổ chức. Việc phân tích có liên quan đến hoạt động đánh giá cuối cùng, đó là đo lường rủi ro. Việc đo lường rủi ro đánh giá khả năng và giá trị tổn thất hay may mắn theo tần số và mức tổn thất. Quá trình đo lường có thể mang hình thức đánh giá chất lượng, tổn thất này rất có thể xảy ra – theo một hình thức đánh giá số lượng. Kiểm soát rủi ro Là những hoạt động tập trung vào việc né tránh, ngăn chặn giảm bớt hay nếu không thì cũng là kiểm soát rủi ro và tính bất định. Những hoạt động kiểm soát rủi ro có thể mang những hình thức đơn giản, chẳng hạn chắc chắn rằng nhà bếp có những bình chữa cháy vẫn còn hoạt động tốt. Hay cũng có thể phức tạp như việc phát triển một chương trình đề phòng thảm họa bất ngờ cho trường hợp khẩn cấp ở một nhà máy năng lượng hạt nhân. Tài trợ rủi ro Những hoạt động tài trợ rủi ro cung cấp những phương tiện đền bù tổn thất xảy ra, gây quỹ cho những chương trình khác để giảm bớt rủi ro, hay để gia tăng những kết quả tích cực. Thường một vài tổn thất vẫn xảy ra mặc dù có những nỗ lực kiểm soát chúng. Việc tài trợ cho những tổn thất này có thể bao gồm những biện pháp chẳng hạn như: mua bảo hiểm, thiết lập một chi nhánh bảo hiểm bắt buộc, hay sử dụng những thư tín dụng. Việc lập quỹ cho một chương trình an toàn trên đường cao tốc thông qua cước phí dành cho những mục đích đặc biệt sẽ là một minh họa ít rõ ràng nhưng lại có giá trị pháp lý của tài trợ rủi ro Quản lý chương trình
- 19 Yếu tố này thiết lập nên những thủ tục mà những hoạt động hàng ngày của chức năng quản trị rủi ro phải tuân theo. Ví dụ: những thủ tục mua bảo hiểm hay việc ấn định cấu trúc của quá trình đánh giá và xem lại chương trình đều nằm trong quản lý chương trình. Một ví dụ khác là những thủ tục dùng cho việc thông tin những nỗ lực và kết quả của chương trình đến với những khán giả mục tiêu hay dự kiến. Những kiến thức phức tạp về bảo hiểm hay kỹ thuật tài trợ rủi ro chỉ có tác dụng hạn chế đới với một nhà quản trị rủi ro có những kỹ năng quản trị và truyền đạt yếu kém. Cũng vậy, việc quản lý chương trình được xác định phạm vi của tổ chức và nguồn lực của nó. Công tác này đòi hỏi một kiến thức vững chắc về cách tổ chức đó hoạt động, những chỉ tiêu và mục tiêu của tổ chức, lịch sử và con người của tổ chức. 1.2 Quản trị rủi ro hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế 1.2.1 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế 1.2.1.1 Khái niệm thẻ tín dụng quốc tế Thẻ TDQT là một dịch vụ thanh toán với những hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp. Thẻ TDQT là một dạng tín dụng tuần hoàn dành cho việc thanh toán mà khách hàng có thể sử dụng cho mọi giao dịch một cách linh hoạt. Việc hoàn trả của khách hàng có thể được thực hiện môt lần hoặc nhiều lần theo một thời hạn nhất định và theo hạn mức quy định bởi ngân hàng phát hành thẻ. 1.2.1.2 Chủ thể tham gia Hiện nay lĩnh vực thẻ TDQT có sự tham gia chặt chẽ của 5 thành phần cơ bản là: Chủ thẻ, Ngân hàng phát hành thẻ, Ngân hàng thanh toán thẻ, Đơn vị chấp nhận thẻ, Tổ chức thẻ quốc tế.
- 20 a) Chủ thẻ Hiểu một cách đơn giản thì chủ thẻ là người sở hữu hợp pháp chiếc thẻ. Chủ thẻ là người được NHPHT chấp nhận phát hành thẻ trên cơ sở năng lực tài chính, khả năng chi trả của người đó hoặc dựa vào sự bảo lãnh của một tổ chức. Đó cũng có thể là một người được uỷ quyền sử dụng thẻ. Chủ thẻ được phép dùng chiếc thẻ để chi tiêu, thanh toán hoặc rút tiền mặt. Mỗi khi thanh toán cho các ĐVCNT để mua hàng hoá dịch vụ hoặc trả nợ, chủ thẻ phải xuất trình thẻ để ĐVCNT kiểm tra theo quy trình và lập biên lai thanh toán. Đối với thẻ TDQT sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo quy định của từng NHPHT, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê. Sao kê là bản thông báo chi tiết toàn bộ các giao dịch chi tiêu sử dụng thẻ trong kỳ, dư nợ đầu kỳ, dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn thanh toán, số tiền thanh toán tối thiểu bắt buộc, các khoản lãi và phí phát sinh và các thông báo liên quan tới việc sử dụng thẻ. Căn cứ vào thông tin trên sao kê, chủ thẻ sẽ thực hiện thanh toán khoản tín dụng thẻ đã sử dụng cho NHPHT. b) Ngân hàng phát hành thẻ NHPHT là đơn vị phát hành thẻ cho chủ thẻ. NHPHT chịu trách nhiệm nhận hồ sơ xin cấp thẻ, xử lý và ra quyết định phát hành thẻ, mở và quản lý tài khoản thẻ, đồng thời thực hiện việc theo dõi chi tiêu, thanh toán cuối cùng với chủ thẻ. Điều kiện bắt buộc không thể thiếu đó là: NHPHT phải là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế. NHPHT thẻ phải ký kết với chủ thẻ các điều khoản, điều kiện sử dụng và thanh toán thẻ trên cơ sở pháp luật và những điều khoản chung của các tổ chức thẻ quốc tế. NHPHT có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ ba, là một ngân hàng hoặc tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc thanh toán và phát hành thẻ TDQT. c) Ngân hàng thanh toán
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel
266 p | 756 | 311
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị chi phí tại Công ty cổ phần Đức Nhân
26 p | 314 | 105
-
Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản lý chất lượng cà phê nhân xô tại công ty trách nhiệm hữu hạn cà phê Hà Lan Việt Nam
128 p | 353 | 105
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị hàng tồn kho tại Công ty cổ phần Cao su Đà Nẵng
26 p | 240 | 60
-
Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Quản trị hệ thống mạng phân phối sản phẩm viễn thông Panasonic tại thị trường miền trung của công ty đầu tư và phát triển thương mại
24 p | 143 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị nhân lực tại Cục Quản trị Văn phòng Quốc hội
81 p | 164 | 23
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng cá nhân trong hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Đà Nẵng
26 p | 122 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị tài chính và phân tích các chỉ số tài chính tại công ty trách nhiệm hữu hạn La Vie
87 p | 114 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị nhân lực tại Công ty Cổ phần Bóng đèn Điện Quang
90 p | 88 | 19
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đà Nẵng
26 p | 158 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam
104 p | 31 | 11
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần ngoại thương Việt Nam chi nhánh Quy Nhơn
26 p | 90 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng tại Ngân hàng TMCP Phương Tây - Chi nhánh Đà Nẵng
26 p | 76 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị văn hóa doanh nghiệp tại Công ty cổ phần Xuất Nhập Khẩu và Kinh Doanh Việt Mỹ
107 p | 41 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á (SeABank) – Chi nhánh Đà Nẵng
26 p | 100 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng tại NH TMCP An Bình, Chi nhánh Đà Nẵng
26 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị lực lượng bán đối với khách hàng tổ chức tại Trung tâm kinh doanh VNPT - Quảng Nam
128 p | 19 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng sử dụng dịch vụ viễn thông tại chi nhánh Viettel Gia Lai
107 p | 13 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn