intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:110

73
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu nhằm hệ thống hóa những vấn đề cơ bản quản trị rủi ro kinh doanh thẻ TDQT. Phân tích, đánh giá quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank CN Cầu Giấy. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giảm thiểu rủi ro dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank CN Cầu Giấy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.

  1. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đứng trước sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế nước nhà, ngân hàng   với tư cách là một doanh nghiệp đặc biệt, một tổ chức tài chính cũng chuyển mình  theo guồng quay mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước. Bởi vậy ngân hàng đã không  ngừng đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ bằng việc cung cấp các sản phẩm dịch   vụ chất lượng và tiện dụng. Thẻ tín dụng quốc tế  là một trong những dịch vụ như  vậy. Thẻ tín dụng quốc tế là một hình thức thay thế cho việc thanh toán trực tiếp.  Chủ thẻ không cần phải trả tiền mặt ngay khi mua hàng. Thay vào đó,  ngân hàng sẽ  ứng trước tiền cho người bán và Chủ thẻ sẽ thanh toán lại sau cho ngân hàng khoản  giao dịch. Ngày nay thẻ  tín dụng đã được sử  dụng phổ  biến trong cuộc sống hàng   ngày của đông đảo người dân toàn thế  giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc   triển khai hoạt động phát hành và thanh toán thẻ  tín dụng quốc tế là một phần tất   yếu trong sự phát triển chung về thẻ của ngành ngân hàng.  Tuy nhiên đi cùng với sự  phát triển nhanh chóng về  số  lượng và lợi nhuận   cao mà dịch vụ này mang lại thì các ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn  và rủi ro khôn lường. Nhận thức   được điều đó, Agribank CN Cầu Giấy  đã có   những giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro và khắc phục khó khăn. Tuy nhiên vẫn còn   những vấn đề bất cập tồn tại dẫn đến kết quả đạt được không như kỳ vọng. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Quản trị  rủi ro không còn là đề  tài mới mẻ, tuy nhiên hoạt động này vẫn là  vấn đề  cấp thiết. Do việc kinh doanh của các ngân hàng tại Việt Nam chủ yếu là   hoạt động truyền thống cho vay tín dụng, hoạt động kinh doanh thẻ  TDQT chưa   thực sự được quan tâm đúng với tiềm năng.
  2. 2 Mặt khác, các nghiên cứu trước đây tập trung nhiều  ở  việc phát triển hoạt  động kinh doanh thẻ TDQT, và các nghiên cứu đó hầu hết được thực hiện ở thời kỳ  đầu khi thẻ TDQT triển khai tại thị trường Việt Nam. Trong bài luận này, em xin đề  cập đến các rủi ro cơ  bản thường gặp trong   hoạt động kinh doanh thẻ TDQT tại Việt Nam và từ đó đưa ra các biện pháp phòng  ngừa rủi ro hoạt động thẻ TDQT tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy. 3. Mục đích của đề tài: ­ Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản quản trị rủi ro kinh doanh thẻ TDQT. ­ Phân tích, đánh giá quản trị  rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ  tín dụng  quốc tế tại Agribank CN Cầu Giấy. ­ Đề  xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giảm thiểu rủi ro dịch vụ thẻ  tín dụng quốc tế tại Agribank CN Cầu Giấy. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Rủi ro tồn tại trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc đưa ra   các biện pháp hạn chế  và ngăn ngừa rủi ro đó là rất cần thiết. Bài luận này lựa  chọn hoạt động kinh doanh thẻ  TDQT tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển   nông thôn – Chi nhánh Cầu Giấy làm đối tượng nghiên cứu. Và phạm vi mà khóa  luận đề cập chỉ giới hạn trong hoạt động kinh doanh thẻ TDQT của Chi nhánh Cầu   Giấy giai đoạn từ 2010 đến 2016. 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận được nghiên cứu trên cơ  sở  một số  phương pháp như  phương  pháp thống kê, so sánh, kết hợp với phương pháp phân tích làm rõ các vấn đề đặt ra. 6. Kết cấu luận văn:
  3. 3 ­ Tên đề tài: Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế  tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy. ­ Bố  cục luận văn: Ngoài phần Mở  đầu và Kết luận, luận văn gồm có 3  chương: Chương 1: Những vấn đề  cơ  bản về  rủi ro và quản trị  rủi ro trong hoạt động   kinh doanh thẻ TDQT. Chương 2: Thực trạng quản trị  rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ  tín  dụng quốc tế tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy. Chương 3: Giải pháp hạn chế  rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ  tín   dụng quốc tế Agribank Chi nhánh Cầu Giấy. Do thời gian nghiên cứu không dài và kiến thức còn chưa sâu nên khóa luận  sẽ khó tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Vì vậy em rất mong được sự thông cảm  và đóng góp ý kiến của thầy cô. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn cô Đào Thị Thu Giang đã dành nhiều  thời gian giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. NGƯỜI THỰC HIỆN
  4. 4     Nguyễn Thị Thu 7.
  5. 5 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TDQT 1.1 Khái niệm rủi ro và quản trị rủi ro 1.1.1 Rủi ro 1.1.1.1   Khái niệm rủi ro Trong các nghiên cứu, có 2 trường phái nổi bật về rủi ro: Trường phái truyền  thống (trường phái tiêu cực) và trường phái trung hoà. Trường phái truyền thống Rủi ro được coi là sự không may mắn, sự tổn thất, mất mát, nguy hiểm… ­ Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến. ­ Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không may. ­ Rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn, thiệt hại… ­ Rủi ro là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất,  kinh doanh của doanh nghiệp có tác động xấu. Như vậy, theo cách nghĩ truyền thống thì Rủi ro là những thiệt hại, mất mát,  nguy hiểm hoặc các yếu tố  liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không  may có thể xảy ra. Trường phái trung hoà ­ Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được ­ Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến việc xuất hiện những biến   cố không mong đợi ­ Rủi ro là giá trị và kết quả mà hiện thời chưa biết đến…
  6. 6 Như vậy, Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro vừa mang tính  tích cực vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể  mang tới những tổn thất, mất mát,   nguy hiểm… nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội. 1.1.1.2   Phân loại rủi ro Rủi ro được phân loại theo 2 phương pháp sau: a) Rủi ro thuần túy Rủi ro thuần túy tồn tại khi có một nguy cơ tổn thất nhưng không có cơ hội   kiếm lời được. Ví dụ: người chủ một chiếc xe có rủi ro tổn thất tiềm ẩn liên quan đến một  vụ  đụng xe. Nếu có đụng xe người đó sẽ  bị  thiệt hại về  tài chính. Nếu không,  người đó sẽ không có lợi gì cả, vì thế tình trạng tài chính của người đó vẫn không  thay đổi. Rủi ro thuần tuý có thể được phân thành 5 nhóm như sau: Rủi ro cá nhân: đó là các tổn thất về thu nhập hay tài sản của một cá nhân.  Nhìn chung, rủi ro thu nhập được đánh giá dựa trên 4 mối nguy hiểm sau: ­ Chết sớm ­ Tuổi già ­ Mất sức lao động ­ Thất nghiệp Rủi ro về tài sản: Bất cứ  một cá nhân nào là chủ sở  hữu tài sản, đều phải   chịu rủi ro về tài sải. Rủi ro về tài sản là những tổn thất về tài sản do bị  hư hỏng   hay mất mát. Rủi ro về  tài sản được chia thành 2 nhóm: tổn thất trực tiếp và tổn  thất gián tiếp.
  7. 7 ­ Tổn thất gián tiếp: tổn thất trực tiếp có thể  được hiểu một cách đơn  giản như sau: nếu một ngôi nhà bị tiêu huỷ do hoả hoạn, tài sản của người sở hữu   bị  thiệt hại là giá trị  tài sản toàn ngôi nhà. Thiệt hại này được gọi là thiệt hại trực   tiếp hay tổn thất trực tiếp. ­ Tổn thất gián tiếp hay tổn thất do hậu quả: khi ngôi nhà bị  cháy (tổn  thất trực tiếp), hậu quả kéo theo là chủ  ngôi nhà phải chi thêm một khoản tiền để  có thể sống tạm một thời gian  ở đâu đó trong lúc ngôi nhà được xây dựng (hay phụ  hồi) lại. Phần tổn thất này được gọi là tổn thất gián tiếp hay tổn thất “hậu quả”.    : Một phân xưởng sản xuất bị hoả hoạn. Tổn thất trực tiếp của công ty    V í dụ là toàn bộ giá trị phân xưởng bị thiêu huỷ. Tổn thất gián tiếp của công ty là thiệt hại  về thu nhập do phân xưởng đó sản xuất ra nếu còn sử dụng nó. Rủi ro tổn thất về tài sản có thể là một hỗn hợp giữa 3 loại rủi ro: ­ Rủi ro tổn thất về tài sản ­ Tổn thất về thu nhập khi tài sản không được sử dụng. ­ Chi phí tăng thêm trong trường hợp có thiệt hại về tài sản. Rủi ro pháp lý:  Mối nguy hiểm cơ  bản trong rủi ro pháp lý là sự  bất cẩn  (không cố  ý) của người khác, hay sự nguy hiểm đến tài sản của họ  do không cẩn   thận hay không chủ tâm gây nên. Như vậy, rủi ro pháp lý còn có thể  là kết quả từ  việc bất cẩn không cố ý gây nên. Dưới hệ thống pháp luật của nước ta, điều luật chỉ ra rằng nếu một người   nào đó có hành vi định làm hại người khác, hay định gậy thiệt hại tài sản của người  khác vì sự bất cẩn hay vì một lý do nào khác, sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý với   sự thiệt hại gây ra đó.
  8. 8 Rủi ro pháp lý là tổng hợp giữa khả năng thiệt hại về tài sản hiện tại và tổn  thất về thu nhập trong tương lai do hậu quả thiệt hại về tài sản gây nên, hay trách   nhiệm pháp lý phát sinh trong trường hợp cố  ý hay không cố  ý gây hại hay xâm  phạm quyền lợi của người khác.    : Do sự bất cẩn của người thợ hàn, hàn cửa sắt  ở tầng 2 của  một toà   V í dụ nhà thương mại đã gây hoả hoạn làm cháy cả toà nhà, gây tổn thất rất lớn về người   và tài sản (hàng chục tỷ  đồng của các hộ  kinh doanh trong toà nhà đó). Trung tâm   mua bán đã phải ngừng hoạt động cả năm trời để sửa chữa. Ông chủ của cơ sở hàn  có người thợ hàn làm việc bất cẩn, gây hoả hoạn đã bị truy tố trước pháp luật vì sự  bất cẩn của nhân viên của mình. Rủi ro phát sinh do sự  phá sản của người khác:  Khi một người nào đó  đồng ý làm việc cho một tổ  chức, người đó phải có trách nhiệm với bất kỳ  tình  huống nào mà tổ  chức sẽ gặp phải. Khi một cá nhân hay tổ  chức bị phá sản , đó là  hậu quả của tổn thất về tài chính, ta nói rủi ro là hiện hữu. Trong trường hợp này  tổ  chức có thể  đưa vấn đề  phá sản vào hợp đồng để  xây dựng phương án thanh   toán nợ vay khi có sự cố xảy ra. b) Rủi ro suy đoán Rủi ro suy đoán tồn tại khi có một cơ hội kiếm lời được cũng như một nguy  cơ tổn thất.  Ví dụ: Đầu tư vào một dự án vốn có thể có lợi nhuận hay có thể thất bại. Rủi ro suy đoán có thể được phân loại theo nhóm nguyên nhân sau đây: Rủi ro do thiếu kinh nghiệm và kỹ  năng quản lý kinh doanh :  rủi ro do  thiếu kiến thức về  quản lý kinh doanh  ở  tầm vi mô và vĩ mô của các nhà quản lý  dẫn đến những thiệt hại to lớn về mặt kinh tế.
  9. 9 Rủi ro do kém khả  năng cạnh tranh: đó là rủi ro của các công ty do không   thích nghi được với khả năng cạnh tranh trên thị trường, không chiếm lĩnh được thị  trường và không giữ được khách hàng của mình. Hậu quả  là những thiệt hại về tài  chính của công ty. Thiệt hại này đôi khi có thể làm công ty phá sản. Rủi ro do sự  thay đổi thị  hiếu của khách hàng:  do sự  hạn chế  các kiến  thức về marketing, các công ty đã không kịp thời đáp ứng được nhu cầu về thị hiếu  của khách hàng. Hậu quả là hàng sản xuất ra không hợp thị  hiếu của khách hàng,   không bán được, làm tổn thất tài chính của công ty. Rủi ro do lạm phát: do lạm phát tăng làm cho giá cả  hàng hoá, nguyên vật  liệu tăng, đồng tiền mất giá. Kết quả, chi phí đầu vào lớn hơn mức dự  kiến, làm  cho thu nhập bị giảm (thiệt hại về tài chính). Rủi ro do điều kiện không  ổn định của thuế:  thuế  là một trong những  công cụ để điều hoà thu nhập trong nền kinh tế. Nó đóng một vai trò rất quan trọng   trong vấn đề tính toán hiệu quả kinh doanh của một công ty. Kinh doanh trong một   môi trường bất ổn về thuế là một rủi ro rất lớn. Nếu không được tính toán kỹ, công   ty sẽ dễ bị thua lỗ và có thể dẫn đến phá sản. Rủi ro do thiếu thông tin kinh tế: sự thiếu thông tin trên thị  trường sẽ dẫn  tới những quyết định sai lầm trong kinh doanh, gây hậu quả  tổn thất không lường  được. Rủi ro do tình hình chính trị  bất ổn: tình hình chính trị bất  ổn cũng là một  mối lo ngại đối với các nhà đầu tư  trong và ngoài nước. Rủi ro thường xuất hiện   khi các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu có mối quan hệ  với các nước có tình hình  chính trị  không ổn định. Khi các chính sách thay đổi có thể  sẽ dẫn tới thiệt hại về  tài chính cho các nhà xuất nhập khẩu.
  10. 10 Có thể nói thêm rằng khả  năng tồn tại mối nguy hiểm có thể  mang lại một  sự có lợi hoặc không có lợi với một mức bất  ổn nhất định. Mức bất ổn được tính  toán cho hầu hết các rủi ro, nhưng cần lưu ý: ­ Nó chỉ được sử dụng để tính mức bất ổn trong trường hợp biến cố là  ngẫu nhiên như: trò chơi đỏ đen hoặc nhặt bóng trắng hoặc đỏ trong một rổ bóng. ­ Người ta thường sử dụng các phương pháp thống kê và các kỹ  thuật  hiện đại để  giải thích và chứng minh xu hướng phát triển của hiện tượng trong   tương lai qua các con số thống kê có được. Một phương pháp khác cũng thường được sử dụng để xử  lý hậu quả  rủi ro  là chi trước một khoản tiền cho các biện pháp phòng chống nhằm ngăn ngừa và  giảm thiều rủi ro khi nó xuất hiện. Khi sử  dụng phương pháp này, cần thiết phải   tính được mức tổn thất có thể trích quỹ cho hoạt động phòng ngừa rủi ro. Người ta  sử dụng lý thuyết xác suất và quy luật phân phối xác suất để tính số tiền bình quân  cần chi cho mỗi rủi ro. 1.1.2 Quản trị rủi ro 1.1.2.1   Khái niệm quản trị rủi ro Quản trị  rủi ro theo nghĩa rộng hàm nghĩa rằng doanh nghiệp cần phát huy,   sử dụng năng lực của chính mình để đề phòng và chuẩn bị cho sự biến động của thị  trường hơn là chờ  đợi sự  biến động rồi mới tìm cách đối phó lại. Mục tiêu của  quản trị rủi ro không phải ngăn cấm, mà là biết chấp nhận rủi ro, phải ý thức được  rủi ro với kiến thức đầy đủ  và hiểu biết rõ ràng để  có thể  đo lường và giúp giảm  nhẹ. Quản trị rủi ro có nghĩa là tất cả các chi tiết rủi ro phải vận hành trong phạm  vi được chấp thuận, giới hạn và quản lý. “Quản trị rủi ro là xác định mức độ rủi ro mà một doanh nghiệp mong muốn,   nhận diện được mức độ  rủi ro hiện nay của doanh nghiệp đang gánh chịu và sử 
  11. 11 dụng các công cụ phái sinh hoặc các công cụ  tài chính khác để  điều chỉnh mức độ  rủi ro thực sự  theo mức rủi ro mong muốn” (PGS.TS Nguyễn Thị  Ngọc Trang,   Quản trị rủi ro tài chính, 2007, tr.545). Quản trị rủi ro là sự vận hành chương trình mà có thể hoàn thiện hoạt động,  quản lý được các nguồn lực quan trọng, bảo đảm sự  tuân thủ  các quy định, đạt  được mục tiêu hoàn hảo, duy trì sự  cân bằng tài chính và cuối cùng ngăn chặn sự  mất mát, thiệt hại cho doanh nghiệp Chức năng chủ yếu của quản trị rủi ro là nhận diện, đo lường và quan trọng   hơn cả là giám sát rủi ro. Quản trị rủi ro là chuỗi hành động chủ động trong hiện tại   để bảo vệ trong tương lai. 1.1.2.2   Mục tiêu của quản trị rủi ro Kiểm soát rủi ro Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của quản trị  rủi ro là phải kiểm soát  được rủi ro. Đối với một quyết định đầu tư  hay giao dịch kinh doanh cụ  thể, có  nhiều rủi ro tiềm tàng cùng đe dọa xảy ra. Các rủi ro này có thể xảy ra, nhưng cũng   có thể  không xảy ra, tác động của chúng có thể  dao động từ  rất lớn đến rất nhỏ.   Chúng có thể  chỉ  là đe dọa, nhưng cũng có thể  làm cho doanh nghiệp bị  tổn thất  nặng nề. Do vậy vấn đề   ở  đây là làm thế  nào kiểm soát được rủi ro, giới hạn tác   động của nó trong phạm vi cho phép. Biến rủi ro thành lợi thế, cơ hội thành công Rủi ro không hoàn toàn chỉ có nghĩa là thua lỗ hoặc thất bại, mà rủi ro cũng   có thể tạo ra cơ hội để kiếm được lợi nhuận. Do vậy một mục tiêu quan trọng khác  của quản trị rủi ro là cần phải giúp doanh nghiệp nhận thức đúng thực trạng rủi ro   và khả  năng chuyển đổi rủi ro thành lợi thế. Trên cơ  sở  nhận thức này, doanh 
  12. 12 nghiệp sẵn sàng sử  dụng các nguồn lực để  biến các rủi ro thành lợi thế, cơ  hội   thành công. Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp phải nỗ lực nâng cao năng lực, chủ  động xây dựng được dự  án đầu tư  phù hợp với năng lực của mình và chủ  động   phòng ngừa rủi ro ngay từ  khi bắt  đầu triển khai kế  hoạch kinh doanh. Doanh   nghiệp cần xây dựng nhiều kịch bản, từ tốt nhất đến xấu nhất, để  luôn giữ  được  khả năng chủ động ứng phó trong mọi trường hợp. 1.1.2.3   Động cơ của quản trị rủi ro Lý do chính để doanh nghiệp tiến hành quản trị rủi ro là những quan ngại có  liên quan đến độ bất ổn của các nhân tố trên thị trường như: lãi suất, tỷ giá, giá cả  hàng hóa, sự  điều chỉnh thay đổi của chính sách pháp luật, những khó khăn không  lường trước được trong kinh doanh. Những bài học thất bại của các doanh nghiệp   khác khi không quan tâm đến quản trị  rủi ro cũng góp phần khuyến khích doanh   nghiệp cần phải chủ  trọng hơn đến vấn đề  này. Nền kinh tế  nước ta đang từng   bước hội nhập đầy đủ  vào thị  trường thế  giới, các quan hệ  giao dịch kinh doanh  của doanh nghiệp ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Cơ  hội kiếm lợi nhuận có  nhiều hơn, nhưng rủi ro cũng nhiều hơn. Những điều này đòi hỏi doanh nghiệp   phải chú trọng nhiều hơn nữa đến quản trị rủi ro. Cùng với quá trình hội nhập kinh   tế, các sản phẩm phái sinh cũng bắt đầu được giới thiệu và xuất hiện trên thị  trường Việt Nam. Chính sự ra đời của những sản phẩm này cũng tạo nên một tác   động tâm lý to lớn về  yêu cầu phòng ngừa rủi ro trong toàn thể  cộng đồng doanh   nghiệp. 1.1.2.4   Lợi ích của quản trị rủi ro Đối với các doanh nghiệp lớn hoạt động theo mô hình công ty cổ  phần, có  nhiều chủ  sở  hữu là các cổ  đông, công ty quản trị  rủi ro có hiệu quả  với chi phí  
  13. 13 thấp hơn so với trường hợp nếu chính bản thân cổ  đông thực hiện quản trị  rủi ro   thông qua điều chỉnh danh mục đầu tư cá nhân.   "Các công ty quản trị  rủi ro để  giảm thuế, giảm chi phí phá sản, bởi vì các  nhà quản trị  quan tâm đến tài sản của riêng họ, để  tránh đầu tư  lệch lạc, để  thực   hiện vị thế đầu cơ khi có dịp, để kiếm được lợi nhuận kinh doanh chênh lệch hoặc  để  giảm rủi ro tín dụng và từ  đó làm giảm chi phí đi vay" (PGS.TS Nguyễn Thị  Ngọc Trang, Quản trị rủi ro tài chính, 2007, tr.547). 1.1.2.5   Các phương thức quản trị rủi ro Quản trị  rủi ro chủ  động:   Là phương thức quản trị  rủi ro thông qua các  chương trình, chính sách của doanh nghiệp nhằm phòng ngừa những rủi ro ngay từ  khi chúng còn tiềm  ẩn. Các chính sách quản trị  rủi ro thực hiện vừa giúp doanh  nghiệp chủ động né tránh rủi ro, giới hạn tác động rủi ro trong phạm vi có thể chấp   nhận được, từ đó giúp doanh nghiệp tránh được các rắc rối và khó khăn, đồng thời   có thể biến các rủi ro thành cơ hội và làm tăng giá trị doanh nghiệp. Quản trị rủi ro thụ động:  Là các biện pháp đối phó, khắc phục những hậu   quả sau khi rủi ro đã xảy ra. Tất nhiên khi rủi ro đã xảy ra, tổn thất đã rõ ràng, các  giải pháp khắc phục sẽ khó có được kết quả như mong muốn. 1.1.2.6   Các phương pháp quản trị rủi ro Né tránh rủi ro Né tránh rủi ro là loại bỏ khả năng bị  thiệt hại, là việc không chấp nhận dự  án có độ rủi ro quá lớn. Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp khả năng bị  thiệt hại cao và mức độ thiệt hại lớn. Né tránh rủi ro có thể được thực hiện ngay từ  giai đoạn đầu của chu kỳ dự án. Nếu rủi ro dự án cao thì loại bỏ ngay từ đầu. Chấp nhận rủi ro
  14. 14 Chấp nhận rủi ro là trường hợp chủ đầu tư hoặc cán bộ dự án hoàn toàn biết  trước về rủi ro và những hậu quả của nó nhưng sẵn sàng chấp nhận những rủi ro,   thiệt hại nếu nó xuất hiện. Chấp nhận rủi ro áp dụng trong trường hợp mức độ  thiệt hại thấp và khả năng bị thiệt hại không lớn. Ngoài ra, cũng có những rủi ro mà   đơn vị phải chấp nhận. Tự bảo hiểm Tự bảo hiểm là phương pháp quản lý rủi ro mà đơn vị  chấp nhận rủi ro và   tự  nguyện kết hợp thành một nhóm gồm nhiều đơn vị  có rủi ro tương tự  khác, đủ  để  dự đoán chính xác mức độ  thiệt hại và do đó, chuẩn bị  trước nguồn quỹ để  bù  đắp nếu nó xảy ra. Giải pháp tự bảo hiểm có đặc điểm: ­ Là hình thức chấp nhận rủi ro. ­ Thường là sự  kết hợp giữa các đơn vị  đầu tư  trong cùng công ty bố  mẹ hoặc một ngành. ­ Có chuyển rủi ro và tái phân phối chi phí thiệt hại. ­ Có hoạt động dự đoán mức thiệt hại (giống hoạt động bảo hiểm). Hệ  thống tự  bảo hiểm cũng phải đáp  ứng mọi chỉ  tiêu của hệ  thống bảo   hiểm. Tự bảo hiểm có lợi thế là nâng cao khả năng ngăn ngừa thiệt hại, thủ tục chi   trả  bảo hiểm nhanh gọn, đồng thời, nâng cao khả  năng sinh lợi vì tạo điều kiện  quay vòng vốn. Tuy nhiên, biện pháp tự  bảo hiểm cũng có nhược điểm là đơn vị  phải chi phí để  vận hành chương trình tự bảo hiểm; đơn vị  phải mua và cung cấp  nội bộ  những dịch vụ  có giá trị  như  những thiết bị  ngăn ngừa thiệt hại ; khi khả  năng bị thiệt hại xuất hiện đơn vị phải thuê người điều hành theo dõi chương trình   tự bảo hiểm. Phương pháp tự bảo hiểm cũng chứa đựng yếu tố rủi ro vì ở đây thực  
  15. 15 tế đơn vị chấp nhận rủi ro với hy vọng thiệt hại có thể  không xảy ra trong một số  năm. Ngăn ngừa thiệt hại Ngăn ngừa thiệt hại là hoạt động nhằm làm giảm tính thường xuyên của  thiệt hại khi nó xuất hiện. Để  ngăn ngừa thiệt hại cần xác định nguồn gốc thiệt   hại. Có hai nhóm nhân tố chính đó là nhóm nhân tố môi trường đầu tư và nhân tố về  nội tại dự án.  Một số biện pháp ngăn ngừa như phát triển hệ thống an toàn, đào tạo lại lao   động, thuê người bảo vệ. Giảm bớt thiệt hại Chương trình giảm bớt thiệt hại là việc chủ  đầu tư, bộ  quản lý dự  án sử  dụng các biện pháp đo lường, phân tích, đánh giá lại rủi ro một cách liên tục và xây  dựng các kế hoạch để đối phó, làm giảm mức thiệt hại khi nó xảy ra.  Khi không thể  chuyển dịch thiệt hại thì việc áp dụng biện pháp này không  phù hợp. Chuyển dịch rủi ro Chuyển dịch rủi ro là biện pháp, trong đó một bên liên kết với nhiều bên  khác để  cùng chịu rủi ro. Biện pháp chuyển dịch rủi ro giống phương pháp bảo   hiểm  ở  chỗ: độ  bất định về  thiệt hại được chuyển từ  cá nhân sang nhóm nhưng  khác ở chỗ bảo hiểm không chỉ đơn thuần bao gồm chuyển dịch rủi ro mà còn giảm   được rủi ro thông qua dự đoán thiệt hại bằng luật số lớn trước khi nó xuất hiện. Bảo hiểm “Theo quan điểm của nhà quản lý bảo hiểm thì bảo hiểm là sự chuyển dịch  rủi ro theo hợp đồng. Từ  bên quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ  đơn thuần là 
  16. 16 việc chuyển dịch rủi ro mà còn làm giảm rủi ro vì nhóm người có rủi ro tương tự  nhau tự nguyện tham gia bảo hiểm đã cho phép dự đoán mức độ thiệt hại trước khi   nó xuất hiện. Bảo hiểm là công cụ  quản lý rủi ro phù hợp khi khả  năng thiệt hại  thấp   nhưng   mức   thiệt   hại   có   thể   rất   nghiêm   trọng”.   (GS.TS.NGUT   Bùi   Xuân  Phong, Nội dung quản trị rủi ro, http://quantri.vn/dict/details/120­noi­dung­cua­quan­ tri­rui­ro, ngày 21/04/2017) 1.1.2.7   Chương trình quản trị rủi ro Rủi ro có thể  xuất hiện theo những hình thức khác nhau, tùy theo từng giai   đoạn và đặc điểm ngành nghề, quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Việc thiết lập   một chương trình quản trị rủi ro phù hợp là một cách để bảo vệ doanh nghiệp khỏi  mắc phải những vấn đề không may có thể xảy đến bất cứ lúc nào.  “Nội dung cơ  bản của một chương trình quản trị  rủi ro phải bao gồm việc   kết hợp chuyển đổi linh hoạt các quyết định kinh doanh với dự  báo giá cả  và sử  dụng các công cụ tài chính hiện đại, được thực hiện bởi một bộ phận chuyên trách   quản trị rủi ro  ở doanh nghiệp” (PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang,  Quản trị rủi ro,  https://www.tailieu.vn ngày 10/10/2017).   Một chương trình quản trị rủi ro hoàn chỉnh phải đạt được các mục tiêu cụ  thể chủ yếu sau: ­ Xây dựng các nguyên tắc, quy định nhằm giúp doanh nghiệp thực hiện   kế hoạch kinh doanh có tính nhất quán và có thể kiểm soát; ­ Hỗ  trợ  cho nhà quản trị  doanh nghiệp trong việc ra quyết định đúng  đắn, lập kế  hoạch và sắp xếp thứ  tự   ưu tiên công việc trên cơ  sở  hiểu biết thấu  đáo về  hoạt động kinh doanh, môi trường kinh doanh, cơ  hội và thách thức của   doanh nghiệp;
  17. 17 ­ Góp phần phân bổ và sử dụng hiệu quả những nguồn lực trong doanh  nghiệp; bảo vệ và làm gia tăng giá trị cũng như hình ảnh doanh nghiệp; phát triển và  hỗ trợ nguồn nhân lực của doanh nghiệp; ­ Tối ưu hóa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Các bước của chương trình quản trị rủi ro: Xác định sứ mạng: Sắp xếp thứ tự những chỉ tiêu và những mục tiêu quản trị rủi ro cùng với sứ  mạng của tổ  chức là nhiệm vụ  cơ  bản của quản trị  rủi ro. Việc thiết lập những   mục tiêu và chỉ tiêu về quản trị rủi ro có tầm quan trọng hàng đầu, bởi vì chúng là   nền rảng cho tất cả những hoạt động quản trị rủi ro. Những chỉ tiêu và những mục   tiêu này là những tiêu chuẩn đo lường sự thành công hay thất bại của chương trình,   và cũng quyết định triết lý nền tảng cho những hoạt động của quản trị rủi ro. Đánh giá rủi ro: Đánh giá rủi ro bao gồm ba hoạt động có liên quan với nhau. Trước hết, phải   nhận ra những rủi ro ảnh hưởng đến tổ chức. Việc nhận ra những rủi ro thường đi   với việc nhận ra mối hiểm họa và những nguy cơ. Những mối hiểm họa (hay còn   gọi là "những nhân tố  rủi ro" trong trường hợp những rủi ro suy đoán) là những  hoạt động hay những điều kiện tạo nên hay làm gia tăng khả  năng hoặc tổn thất   hoặc lợi ích. Một bộ  phận của một bộ  máy được bảo trì sai là một ví dụ  về  một   mối hiểm họa. Một nguy cơ mất mát hay một cơ hội có lợi sẽ là đồ vật, con người,   hay tình huống bị ảnh hưởng bởi tổn thất hay lợi ích. Biết được sự  tồn tại của những mối hiểm họa, nhân tố  rủi ro, và nguy cơ  tổn thất hay những cơ hội có may mắn thì chưa đủ. Nhà quản trị  rủi ro phải hiểu  được bản chất của chúng, chúng xuất hiện như thế nào, và chúng tác động qua lại  với nhau ra sao để dẫn đến một tổn thất hay may mắn. Những cảm nhận về rủi ro,  
  18. 18 cũng như bất trắc, cũng được phân tích vì chúng có một tầm quan trọng to lớn. Ví   dụ, tổ chức có thể hiểu rõ những hiểm họa khi tiếp xúc với nguyên liệu nguy hiểm.   Nếu nhận thức rủi ro của những người công nhân là quá khác biệt, thì việc đánh giá  rủi ro có thể trở nên khó khăn đối với tổ chức. Việc phân tích có liên quan đến hoạt động đánh giá cuối cùng, đó là đo lường   rủi ro. Việc đo lường rủi ro đánh giá khả năng và giá trị tổn thất hay may mắn theo   tần số  và mức tổn thất. Quá trình đo lường có thể  mang hình thức đánh giá chất   lượng, tổn thất này rất có thể xảy ra – theo một hình thức đánh giá số lượng. Kiểm soát rủi ro Là những hoạt động tập trung vào việc né tránh, ngăn chặn giảm bớt hay nếu   không thì cũng là kiểm soát rủi ro và tính bất định. Những hoạt động kiểm soát rủi   ro có thể  mang những hình thức đơn giản, chẳng hạn chắc chắn rằng nhà bếp có  những bình chữa cháy vẫn còn hoạt động tốt. Hay cũng có thể  phức tạp như  việc   phát triển một chương trình đề phòng thảm họa bất ngờ cho trường hợp khẩn cấp   ở một nhà máy năng lượng hạt nhân. Tài trợ rủi ro Những hoạt động tài trợ rủi ro cung cấp những phương tiện đền bù tổn thất  xảy ra, gây quỹ  cho những chương trình khác để  giảm bớt rủi ro, hay để  gia tăng   những kết quả tích cực. Thường một vài tổn thất vẫn xảy ra mặc dù có những nỗ  lực kiểm soát chúng. Việc tài trợ  cho những tổn thất này có thể  bao gồm những   biện pháp chẳng hạn như: mua bảo hiểm, thiết lập một chi nhánh bảo hiểm bắt  buộc, hay sử dụng những thư tín dụng. Việc  lập quỹ cho một chương trình an toàn  trên đường cao tốc thông qua cước phí dành cho những mục đích đặc biệt sẽ là một  minh họa ít rõ ràng nhưng lại có giá trị pháp lý của tài trợ rủi ro Quản lý chương trình
  19. 19 Yếu tố này thiết lập nên những thủ tục mà những hoạt động hàng ngày của   chức năng quản trị  rủi ro phải tuân theo. Ví dụ: những thủ  tục mua bảo hiểm hay  việc ấn định cấu trúc của quá trình đánh giá và xem lại chương trình đều nằm trong   quản lý chương trình. Một ví dụ  khác là những thủ  tục dùng cho việc thông tin  những nỗ lực và kết quả của chương trình đến với những khán giả mục tiêu hay dự  kiến. Những kiến thức phức tạp về bảo hiểm hay kỹ thuật tài trợ  rủi ro chỉ có tác   dụng hạn chế đới với một nhà quản trị rủi ro có những kỹ năng quản trị và truyền  đạt yếu kém. Cũng vậy, việc quản lý chương trình được xác định phạm vi của tổ  chức và nguồn lực của nó. Công tác này đòi hỏi một kiến thức vững chắc về cách  tổ chức đó hoạt động, những chỉ tiêu và mục tiêu của tổ chức, lịch sử và con người  của tổ chức. 1.2 Quản trị rủi ro hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế 1.2.1 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế 1.2.1.1   Khái niệm thẻ tín dụng quốc tế Thẻ  TDQT là một dịch vụ thanh toán với những hạn mức chi tiêu nhất định   mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng căn cứ  vào khả  năng tài chính, số  tiền ký  quỹ hoặc tài sản thế chấp. Thẻ  TDQT  là một dạng tín dụng tuần hoàn  dành cho việc thanh toán mà  khách hàng có thể sử dụng cho mọi giao dịch một cách linh hoạt. Việc hoàn trả của   khách hàng có thể được thực hiện môt lần hoặc nhiều lần theo một thời hạn nhất   định và theo hạn mức quy định bởi ngân hàng phát hành thẻ. 1.2.1.2   Chủ thể tham gia  Hiện nay lĩnh vực thẻ TDQT có sự  tham gia chặt chẽ  của 5 thành phần cơ  bản là: Chủ thẻ, Ngân hàng phát hành thẻ, Ngân hàng thanh toán thẻ, Đơn vị chấp  nhận thẻ, Tổ chức thẻ quốc tế.
  20. 20 a) Chủ thẻ Hiểu một cách đơn giản thì chủ  thẻ  là người sở  hữu hợp pháp chiếc thẻ.   Chủ  thẻ  là người được  NHPHT  chấp nhận phát hành thẻ  trên cơ  sở  năng lực tài  chính, khả  năng chi trả  của người đó hoặc dựa vào sự  bảo lãnh của một tổ  chức.   Đó cũng có thể là một người được uỷ quyền sử dụng thẻ. Chủ thẻ được phép dùng chiếc thẻ để chi tiêu, thanh toán hoặc rút tiền mặt.  Mỗi khi thanh toán cho các ĐVCNT để mua hàng hoá dịch vụ hoặc trả nợ, chủ thẻ  phải xuất trình thẻ  để  ĐVCNT kiểm tra theo quy trình và lập biên lai thanh toán.  Đối với thẻ  TDQT sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo quy định của từng   NHPHT, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê. Sao kê là bản thông báo chi tiết toàn bộ các   giao dịch chi tiêu sử dụng thẻ trong kỳ, dư nợ đầu kỳ, dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn  thanh toán, số  tiền thanh toán tối thiểu bắt buộc, các khoản lãi và phí phát sinh và   các thông báo liên quan tới việc sử dụng thẻ. Căn cứ vào thông tin trên sao kê, chủ  thẻ sẽ thực hiện thanh toán khoản tín dụng thẻ đã sử dụng cho NHPHT. b) Ngân hàng phát hành thẻ NHPHT là đơn vị phát hành thẻ cho chủ thẻ. NHPHT chịu trách nhiệm nhận  hồ  sơ  xin cấp thẻ, xử  lý và ra quyết định phát hành thẻ, mở  và quản lý tài khoản   thẻ, đồng thời thực hiện việc theo dõi chi tiêu, thanh toán cuối cùng với chủ thẻ. Điều kiện bắt buộc không thể  thiếu đó là: NHPHT phải là thành viên chính  thức của tổ chức thẻ quốc tế.  NHPHT thẻ phải ký kết với chủ thẻ các điều khoản,  điều kiện sử  dụng và thanh toán thẻ  trên cơ  sở  pháp luật và những điều khoản  chung của các tổ  chức thẻ quốc tế.  NHPHT có quyền ký kết hợp đồng đại lý với  bên thứ ba, là một ngân hàng hoặc tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc thanh  toán và phát hành thẻ TDQT. c) Ngân hàng thanh toán
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0