ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN DANH PHÚ
Tiểu thuyết lịch sử Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác (từ góc độ thể loại) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2005
Phần mở đầu
Lời nói đầu - cấu trúc luận văn
I. Lời nói đầu
1. Lý do chọn đề tài, mục đích của đề tài.
Đất nước chuyển biến mạnh mẽ trên con đường đổi mới, nhất là từ
1986. Đảng chủ trương mở cửa, hội nhập với cộng đồng Quốc tế, nhanh
chóng đưa đất nước ra khỏi nguy cơ tụt hậu, đưa nền kinh tế phát triển theo
cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Trong đổi mới toàn diện của đất nước, những đứa
con xa đã trở về, trở về bằng cả con người và bằng cả những giá trị tinh
thần. Những năm cuối XX đầu XXI, đội ngũ kiều bào đã có những gương
mặt thành đạt và yêu nước, có những đóng góp đáng quý trong sự nghiệp
xây dựng đất nước. Trong không khí đó, đời sống văn học khởi sắc với sự
góp mặt của tiểu thuyết lịch sử trong và ngoài nước. Tiêu biểu là những tên
tuổi: Nam Dao với "Gió lửa"; Vũ Ngọc Đĩnh với "Bắn rụng mặt trời", "
Mười hai sứ quân", " Hào kiệt Lam Sơn"; Trần Đại Sĩ với "Nam quốc Sơn
Hà", "Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông", "Anh hùng Tiêu Sơn",
"Thuận thiên di sử", "Anh hùng Bắc Cương", "Anh linh thần võ tộc Việt" ...
(theo phụ san trang cuối tập II "Sông Côn mùa lũ". Nhiều tác phẩm đạt đến
độ trường thiên, viết về lịch sử bằng thể loại tiểu thuyết lịch sử, trong đó
phải kể đến "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác với bốn tập NXB
An Tiêm California 1991 được gửi qua Trung tâm văn hoá Quốc tế, được
xuất bản trong nước 2001 (4 tập) và tái bản 2003 (2 tập). Khi được sự bố trí
của khoa văn học làm luận văn tốt nghiệp với GS - VS Phan Cự Đệ với sự
gợi ý của GS-VS, tôi đề đạt nguyện vọng viết về "Sông Côn mùa lũ" (từ góc
1
độ thể loại) và được sự đồng ý.
Mục đích của luận văn với đề tài trên, bản thân chúng tôi không có
tham vọng bàn đến những vấn đề quá rộng lớn, mà chỉ dừng ở mức độ nhất
định, phạm vi nhất định trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp thạc sĩ:
- Xác định những nét đặc trưng của tiểu thuyết
- Xác định những nét đặc trưng của tiểu thuyết lịch sử
- Những nét tương đồng và dị biệt của tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch
sử
- Để tìm hiểu về tiểu thuyết lịch sử"Sông Côn mùa lũ" từ góc nhìn
thể loại: nội dung, kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật.
- Xác định tác giả viết theo cảm hứng nghệ thuật nào?
- Xác định tác giả viết theo cách nào: lịch sử là "cứu cánh" hay lịch
sử là "phương tiện" .
- Mối quan hệ giữa chất liệu tiểu thuyết và chất liệu lịch sử trong tác
phẩm.
Nói chung là từ xuất phát điểm giới thuyết về thể loại, phạm vi bài
viết chủ yếu tìm hiểu "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác.
2. Lịch sử vấn đề
Tiểu thuyết lịch sử có mặt trên văn đàn Việt Nam từ cuối XVIII đầu
XIX với "Hoàng Lê nhất thống chí". Tiểu thuyết lịch sử bốn mươi nhăm
năm đầu thế kỷ XX ở nước ta phát triển tương đối mạnh mẽ: Nguyễn Tử
Siêu có " Tiếng sấm đêm đông" (1928), "Đinh Tiên Hoàng" (1929), "Vua
Bố cái" (1929), "Lê Đại Hành" (1929), "Trần Nguyên chiến kỷ" (1935),
"Việt Thanh chiến sử" (1935), "Hai Bà đánh giặc" (1936); Đinh Gia Thuyết
có "Ngọn cờ vàng" (1934); Trần Trung Viên có "Cầu vồng Yên Thế", Tân
Dân Tử có "Giọt máu chung tình" (1926), Phạm Mạnh Kiên có " Việt Nam
Lý Thường Kiệt"; Trần Thanh Mại có "Ngô Vương Quyền"; Đào Trinh Nhất
có "Phan Đình Phùng" (1936); Chu Thiên có "Lê Thái Tổ" (1941); Ngô Tất
2
Tố có "Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ" (1935), "Vua Tây chúa
Nguyễn" (1937), "Lịch sử Đề Thám" (1935); Nguyễn Huy Tưởng có "An
Tư" (1944 - 1945)...
Những năm cuối thế kỷ XX, tiểu thuyết lịch sử xuất hiện những tác
phẩm ở trong nước, nổi bật là "Hồ Quý Ly" của Nguyễn Xuân Khánh, ở
ngoài nước với những tên tuổi: Nam Dao, Trần Sĩ Đại, Nguyễn Mộng Giác
với hàng chục trường thiên tiểu thuyết (tên tác phẩm đã nêu ở phần I - tác
phẩm đã và sẽ xuất bản trước và sau 2003). ở lĩnh vực phê bình, bàn về tiểu
thuyết lịch sử không phải là điều mới, vì ngay từ 1957 đã diễn ra cuộc tranh
luận về "Tiêu Sơn tráng sĩ". "Cuộc tranh luận năm 1957 xung quanh "Tiêu
Sơn tráng sĩ" tập trung vào vấn đề: các Đảng viên Tiêu Sơn là những người
yêu nước hay là những kẻ đi ngược lại xu thế của lịch sử". Nhiều cây bút đã
tham gia vào cuộc tranh luận như: Phan Cự Đệ, Trương Chính, Minh
Tranh, Trần Thanh Mại. (Thế nào là quan điểm lịch sử trong văn học - Văn
nghệ số 3, tháng 8/1957). Từ "năm 1966, trong cuốn Nguyễn Huy Tưởng
(viết chung với Hà Minh Đức), chúng tôi đã viết về sự khác biệt trong công
việc của nhà tiểu thuyết lịch sử và nhà sử học" (Phan Cự Đệ). Gần đây có
luận án tiến sĩ của tác giả Bùi Văn Lợi "Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX đến 1945" (1999). Nhìn từ góc độ số lượng và thời gian
sáng tác, có thể thấy tiểu thuyết lịch sử xuất hiện đến nay đã trải hai thế kỷ.
Số lượng tác phẩm cũng không phải là ít, song dường như có hai khoảng
thiếu hụt: ở XIX và nửa cuối XX trong nền văn học cách mạng. Chỉ rộ lên ở
những năm cuối của XX. Về phê bình cũng có sự ngắt quãng cùng với sự
thiếu hụt của loại hình tiểu thuyết lịch sử.
3. Nhiệm vụ của luận văn:
Tổng hợp sơ lược giới thuyết về thể loại tiểu thuyết và tiểu thuyết
lịch sử, chỉ ra những khác nhau giữa nhà viết sử, nhà viết tiểu thuyết và nhà
3
viết tiểu thuyết lịch sử. Tập trung phân tích nội dung tác phẩm "Sông Côn
mùa lũ", xem thể loại tiểu thuyết lịch sử như là sự quy chiếu để thấy được
những vấn đề của tác phẩm: Nguyễn Mộng Giác viết "Sông Côn mùa lũ" từ
cảm hứng nghệ thuật nào? Mối quan hệ giữa chất liệu lịch sử và chất liệu
tiểu thuyết trong tác phẩm. Lịch sử là "cứu cánh" hay là "phương tiện" của
nhà văn.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tổng hợp phân tích
- Phương pháp so sánh văn học
- Phương pháp loại hình (loại hình tiểu thuyết lịch sử)
II. Cấu trúc luận văn
Phần mở đầu
I. Lời nói đầu: - Lý do chọn đề tài, mục đích của đề tài
- Lịch sử vấn đề
- Nhiệm vụ của luận văn
- Phương pháp nghiên cứu
II. Bố cục luận văn
Chương I:
Tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử: giới thuyết về thể loại, những
tương đồng và dị biệt.
1 - Tiểu thuyết, giới thuyết về thể loại:
- Đặc trưng của thể loại tiểu thuyết.
- Giới thuyết về hành trình của tiểu thuyết trong văn học.
- Vị trí, vai trò của tiểu thuyết với văn học và cuộc sống.
2 - Tiểu thuyết lịch sử, giới thuyết về thể loại.
- Đôi điều về thể loại tiểu thuyết lịch sử .
4
- Vấn đề phản ánh qua tiểu thuyết lịch sử.
3 - Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử, những tương đồng và dị biệt
- Nét tương đồng
- Dị biệt
Chương II
Nội dung "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác - nhìn từ
góc độ tiểu thuyết lịch sử
1 - Chất liệu lịch sử - nhân vật lịch sử trong" Sông Côn mùa lũ"
1.1. Chất liệu lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ".
1.2. Nhân vật lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ"
- Nguyễn Huệ
- Nguyễn Nhạc
- Nguyễn Lữ
2 - Chất liệu tiểu thuyết-nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ"
2.1 - Chất liệu tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ"
2.2 - Nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ".
- Trí thức thời loạn trong "Sông Côn mùa lũ".
- Nhân vật trung gian trong "Sông Côn mùa lũ".
- Hình tượng người phụ nữ trong "Sông Côn mùa lũ".
- Nhân vật thường dân trong "Sông Côn mùa lũ".
Chương III
Kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật của "Sông Côn mùa lũ"
1. Kết cấu.
- Tuyến lịch sử.
- Tuyến hư cấu.
5
- Kết cấu đan xen các chủ đề
2. Phương thức kết cấu
- Phân nhánh, lan toả, trật tự tuyến tính, đan xen, đối ảnh, xâu
chuỗi
3. Ngôn ngữ nghệ thuật
- Ngôn ngữ tác phẩm
- Ngôn ngữ nhân vật
- Ngôn ngữ tạo hình và đa thanh
Đôi lời kết luận
- Tiểu thuyết lịch sử với văn học, với văn hoá đọc nói chung
- Tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết hiện nay phát triển theo hướng
nào.
- Tiểu thuyết lịch sử "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác và
vấn đề - tính thời sự của văn học
Phần nội dung
Luận văn gồm ba chương (không kể phần mở đầu và đôi lời kết
luận)
Chương I
Tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử: giới thuyết về thể loại, những tương đồng
và dị biệt.
Chương II
Nội dung "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác
nhìn từ góc độ tiểu thuyết lịch sử
Chương III
6
Kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật của "Sông Côn mùa lũ".
Chương I
Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử:
Giới thuyết về thể loại, những tương đồng và dị biệt
I. Tiểu thuyết, giới thiệu về thể loại:
Thể loại tiểu thuyết trong sự phát triển lịch đại của văn học sinh sau
đẻ muộn. Sự ra đời và phát triển của một số thể loại của văn học rất sớm.
Có những thể loại ra đời tiền văn tự như: Sử thi cổ đại, các thể loại văn học
thuộc văn hoá dân gian - FOLKLORE. Nó tồn tại gắn liền với các hình thái
sinh hoạt dân gian và cả trong lễ hội. Sự chuyển dịch từ văn học dân gian
thành văn học thành văn là sự phát triển nhảy vọt của văn học. Nó chuyển
hẳn từ văn hoá nghe qua giọng kể, văn hoá nhìn qua biểu diễn thành văn
hoá đọc. Sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết trong văn học nâng tầm văn
hoá đọc lên một bước mới, một tầm cao mới. Có lẽ cũng vì thế mà tiểu
thuyết không phải là món ăn tinh thần cho tất thảy quảng đại quần chúng;
cho dù tác giả muốn hướng tới quần chúng đến mức cao nhất trong phản
ánh cuộc sống bằng thể loại đặc biệt này.
Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi không có tham vọng trình bày
những vấn đề về thể loại và thi pháp tiểu thuyết một cách đầy đủ mà ở đây
chỉ trình bày ở góc độ giới thuyết ( có giới hạn) như là những nét khái quát
về tiểu thuyết trong sự phát triển của văn học với tư cách là một thể loại đặc
biệt, như là một nhịp nối để bàn về tiểu thuyết lịch sử.
Hê ghen gọi tiểu thuyết là "Sử thi thị dân" điều này có nghĩa là tiểu
thuyết hiện đại phương Tây ra đời gắn liền với sự ra đời và phát triển của
yếu tố tư bản, với sự hình thành của giai cấp tư sản. Nhận định này của Hê
7
ghen còn giúp ta thấy cái mốc đã làm nảy sinh một thể loại văn học mới
mẻ là tiểu thuyết. Biê lin x ki cho rằng: " Sử thi của thời đại chúng ta là
tiểu
thuyết. Trong tiểu thuyết có tất cả những dấu hiệu thể loại quan trọng của
sử thi, chỉ có sự khác nhau là trong tiểu thuyết khống chế những yếu tố khác
và sắc màu khác"(Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại). Nói như
vậy có nghĩa là tiểu thuyết ra đời không tách rời sự vận động nội tại của văn
học. Bị chi phối bởi yếu tố khách quan là cuộc sống, song tiểu thuyết, một
sản phẩm tinh thần của con người có sự vận động nội tại để hoàn thiện. Khi
Biêlinxki nói rằng: " Trong tiểu thuyết có những sắc màu khác" thì chính là
sự phản ánh, miêu tả " cuộc sống hàng ngày". Cuộc sống đang diễn ra hôm
nay chứ không phải là cái quá khứ sử thi tuyệt đối. Vì thế, tiểu thuyết có thể
tái hiện cuộc sống bằng những nguồn đề tài khác nhau. Đề tài trong quá khứ
là lịch sử. Đề tài trong cuộc sống hiện tại là "tình trạng hiện tại của nó". Vì
thế, tiểu thuyết phải miêu tả cuộc sống như là nó vốn có. Tiểu thuyết hướng
tới cuộc sống, miêu tả cuộc sống của cộng đồng xã hội. Nhân vật của tiểu
thuyết vì thế mà sinh động như trong cuộc đời. "Bằng nghệ thuật điển hình
hoá, nhà tiểu thuyết nâng cái cá biệt, cái cụ thể lên chiều cao của sự khái
quát. Cái đích của tiểu thuyết mà cũng là phương tiện để thực thi hoàn
thành tiểu thuyết là hư cấu, song là hư cấu, từ chính cuộc sống hiện tại mà
tác phẩm phán ánh. Điều này khác hẳn với một số tiểu thuyết từ trước nửa
thế kỷ XVIII. Đó là sự hư cấu trên cơ sở những truyền thuyết thần thoại cổ
như kiểu Tristan Iseult của Josef Bedie'. Hoặc là tiểu thuyết kỵ sĩ thời phục
hưng sử dụng những hình tượng và những thủ pháp nghệ thuật của sử thi kỵ
sĩ trung thế kỷ để kể lại những cuộc du hành thám hiểm những khám phá
lớn lao về sức mạnh vạn năng của con người trong thế kỷ XVI. Như vậy là
mãi đến cuối thế kỷ XVIII và đặc biệt thế kỷ XIX người ta mới quan niệm
Roman như ta hiểu ngày nay, nghĩa là một tác phẩm "miêu tả cuộc sống với
8
tất cả tính chất văn xuôi của nó, một chuyện hư cấu về những việc có tính
chất xác thực của cuộc sống nhân loại" (Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại -
Phan Cự Đệ ). Sử thi hướng về cái quá khứ tuyệt đối với một " khoảng cách
sử thi " đầy tôn kính, còn tiểu thuyết là cuộc sống bình thường hàng ngày,
là một thể loại mang tính dân chủ (dân chủ với nhân vật, dân chủ với bạn
đọc ). Tiểu thuyết phát huy cao độ vai trò của hư cấu, thậm chí có những hư
cấu cao độ ( Don Qui chotte, Xuân Tóc Đỏ ), đến mức không thể tìm được
một nguyên mẫu đúng như thế trong cuộc đời. Tiểu thuyết hướng về cuộc
sống đương đại, về cái hiện thực đang vận động, đang phát triển, nên dù có
nói chuyện trung thế kỷ hay kể chuyện khoa học viễn tưởng thì chủ yếu
cũng phải giải quyết những vấn đề bức xúc của đương đại.
ở cái nôi văn hoá phương Đông, điển hình là Trung Quốc, tiểu thuyết
đã xuất hiện trong đời sống văn học từ rất sớm. Theo "Trung Quốc tiểu
thuyết sử lược" của Lỗ Tấn ,"Hán thư nghệ văn chí" cho rằng phái các nhà
tiểu thuyết là vốn xuất phát từ chức tỳ quan, chép những lời ngoài đường
ngoài ngõ. Những chuyện ngụ ngôn, những chuyện quái lạ, những giai
thoại, những chuyện hoang đường có tính chất lịch sử... là những chuyện
hết sức vụn vặt ngoài đường ngoài ngõ. Tiểu thuyết theo quan niệm trên là
những lời nói nhỏ - "tiểu thuyết" - vụn vặt được ghi chép. Như thế, theo
quan niệm này, " tiểu thuyết" chưa được coi là sự sáng tạo mang tính chất
văn học bác học, chưa thể xuất hiện tiểu thuyết gia sáng tác mà chỉ có tiểu
thuyết gia chí mà thôi. Cũng chính vì thuần tuý là ghi chép mà tiểu thuyết,
dưới cái nhìn của Nho gia cửa Khổng, sân Trình không phải là chính thư,
trái với đạo Nho. Tiểu thuyết ở đây còn có thể hiểu là tạp thuyết. Điều này
hoàn toàn khác với khái niệm tiểu thuyết mà Lỗ Tấn dùng sau này. Với
quan niệm "Văn dĩ tải đạo" của đạo Nho, văn học Trung Quốc một thời gắn
với lịch sử, dường như không tách rời lịch sử. Văn học là cái chí hướng tới
của người quân tử để lập ngôn nếu không lập nổi đức, lập nổi công, thì lưu
9
danh sử sách bằng " trước thư lập ngôn ". Vì lẽ đó mà một thời kỳ phát triển
đến tột đỉnh của thơ ca từ thời Đường, Tống, tiểu thuyết vẫn hầu như tránh
mặt trên văn đàn Trung Quốc. Mãi đến thời Minh -Thanh (Thế kỷ XIV đến
thế kỷ XVI), tiểu thuyết mới xuất hiện mà điển hình là: Tam Quốc Diễn
Nghĩa, Thuỷ Hử, Tây Du Ký và Hồng Lâu Mộng. Với bốn pho đại tiểu
thuyết này, văn học Trung quốc đã xuất hiện những tiểu thuyết gia lớn : La
Quán Trung, Thi Nại Am, Ngô Thừa Ân, Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc.
ở Việt Nam, tiểu thuyết hiện đại như ta quan niệm hiện nay thực sự
hiện hữu trên văn đàn từ những năm 20 của thế kỷ XX, với những tên tuổi:
Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình, Hoàng Ngọc Phách. Truyện ngắn đã xuất hiện,
trong văn học Việt nam khá sớm. Nó bắt nguồn từ các loại: thần tích, chí
quái, truyền kỳ. Quá trình phát triển của văn xuôi, cũng là quá trình tách rời
giữa lịch sử và văn học. Tính lịch sử, tính chất chí bớt đi và tính sáng tạo,
hư cấu nghệ thuật tăng lên. Cũng là quá trình đi lên từ chuyện lạ hoang
đường đến những chuyện bình thường hàng ngày trong cuộc sống. Có thể
nói, truyện ngắn Việt Nam được khai sinh từ nguồn gốc dân gian và lịch sử.
Vì lẽ đó, văn học thành văn của Việt Nam gắn liền với những chuyện kể
dân gian, các loại thần tích (Việt điện u linh), chí quái (Lĩnh Nam chích
quái), truyền kỳ (Truyền kỳ tân phả, Truyền kỳ mạn lục), truyện thơ nôm từ
truyện cổ tích (Thạch Sanh), truyện thơ nôm khuyết danh Phạm Công Cúc
Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa... Nguồn mạch và dòng chảy của văn học thành
văn của Việt Nam mãi đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX xuất hiện
những thiên ký sự, tuỳ bút, tiểu thuyết lịch sử (Thượng kinh ký sự, Vũ trung
tuỳ bút, Hoàng Lê nhất thống chí). Những năm 20 của thế kỷ XX, hiện
tượng Hồ Biểu Chánh với hơn 60 tiểu thuyết phản ánh cuộc sống Nam bộ,
đồng thời thể hiện quan niệm đạo đức tốt đẹp của ông đối với cuộc sống
đương thời. Hiện tượng Biểu Chánh - Hồ Văn Trung có thể xem là con
người tiên phong trong lĩnh vực tiểu thuyết văn xuôi, mang tính luận đề.
10
Hiện tượng Hoàng Ngọc Phách với "Tố Tâm" có thể xem là người đặt nền
móng cho tiểu thuyết mới với bút pháp lãng mạn. Hiện tượng Phạm Duy
Tốn với "Sống chết mặc bay"... có thể xem là người đặt nền móng cho
truyện ngắn mới với bút pháp hiện thực phê phán.
Tiểu thuyết có vị trí đặc biệt trong văn học như trên đã trình bày một
cách tóm tắt. Bên cạnh đó, tiểu thuyết có ưu thế tuyệt đối trong phản ánh
toàn vẹn cuộc sống với bình diện lớn, tổng thể. Tiểu thuyết hiện vẫn còn là
một thể loại chưa có hồi kết . Mối quan hệ, cách nhìn nhận, việc phản ánh
cuộc sống, tái tạo cuộc sống, các nhà văn đã làm nên những dòng chảy,
những chủ thuyết trong quá trình sáng tạo. ở phương Tây, tiểu thuyết cổ
điển phát triển mạnh ở thế kỷ XIX, đồng thời cũng làm bùng nổ những
dòng chảy, chủ thuyết về tiểu thuyết ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX:
chủ nghĩa tự nhiên của E'mile Zola, chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Satre,
Camus, Hiện tượng Milan Kundera đã đưa vào văn học đương đại tiểu
thuyết giả tưởng khi mà ông chủ trương " suy nghĩ về một câu chuyện".
Hiện tượng văn học Harry Potter được xem là một loại hình mới của văn
học hậu hiện đại phương Tây.
Giữa thế kỷ XX, phe xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển, đối
trọng với chủ nghĩa tư bản ở các nước phương Tây. Trong cộng đồng xã hội
chủ nghĩa, văn học được sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa, làm nảy sinh một hiện tượng văn học phát triển rực rỡ với những tên
tuổi như: Maxime Gorki; Alexis Tolstoi; Cholokhov; Fade'ev; Ehrenbourg;
Aimatov thuộc Liên bang Xô viết (cũ).
Từ những năm 30 của thế kỷ XX trên văn đàn Việt Nam, tiểu thuyết
phát triển mạnh trong tư trào văn học lãng mạn của tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn. Tư trào này dường như cáo chung vào những năm 40. Từ sau Cách
mạng tháng Tám, văn học nói chung tiểu thuyết nói riêng phát triển mạnh
11
mẽ. Thể loại tiểu thuyết mang cảm hứng sử thi, mang hơi thở của hai cuộc
kháng chiến, chống Pháp và chống Mỹ kéo dài ngót 30 năm và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gần mười năm (1955-1964). Chúng ta có một
di sản tiểu thuyết dù chưa tương xứng với tầm vóc lịch sử, song nó làm tròn
sứ mệnh của văn học là phản ánh một cách chân thật và hùng hồn cuộc sống
mới, con người mới theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão cùng với công
nghệ thông tin, đặc biệt là loại hình nghệ thuật thứ bảy đang tác động mạnh
đến mối quan hệ giữa tiểu thuyết với bạn đọc. Nếu tiểu thuyết khủng hoảng
thì có lẽ phải hiểu nó là sự chững lại như một lát cắt. Tiểu thuyết là một sản
phẩm mà thông qua nghệ thuật ngôn từ có giá trị phi vật thể rất lớn trong
đời sống tinh thần con người. Tiểu thuyết có chỗ đứng quan trọng trong văn
học và do chính cuộc sống (thế sự) tạo nên nó song nó vẫn tồn tại theo một
quy luật riêng. Một quy luật khách quan là mọi hiện tượng trong cuộc sống,
khi đã phát triển đến đỉnh điểm rực rỡ thì có sự chuyển hoá. Tiểu thuyết
không nằm ngoài quy luật nghiệt ngã đó. Nếu tiểu thuyết khủng hoảng thì
đây chính là một trong những nguyên nhân khách quan. Khoa học kỹ thuật
tiến bộ đẩy nhanh vòng xoáy của công việc lao động. Giờ làm giảm, cường
độ lao động tăng, con người tìm đến những hình thức giải trí bằng nhiều
hình thức khác. Từ đói phương tiện giải trí, văn hoá đọc là chính đã chuyển
sang văn hoá nghe nhìn phong phú và nhiều hình thức giải trí khác nữa. Vì
thế, bạn đọc tiểu thuyết cũng một phần bị thưa vãn. Mặt khác, ngay cả khi
nghèo phương tiện thông tin, phương tiện giải trí, tiểu thuyết vốn không
phải là điểm hẹn cho tất cả mọi người. Trong thời đại bùng nổ thông tin
hiện nay, nhiều hình thức giải trí có liên quan trực tiếp đến đời sống hàng
ngày. Tiểu thuyết thuộc phạm trù tinh thần, đảm trách trọng yếu chức năng
của văn học: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giao tiếp, dự báo, giải trí, lại
thiếu những gì thiết thực như nhu yếu của con người. Trong thế giới kim
12
tiền, một thế giới thù nghịch với nhiều ngành nghệ thuật chân chính, trong
đó có văn học, các tiểu thuyết gia buộc phải xem các tác phẩm của mình
như một hàng hoá trên thị trường. Sản phẩm tiểu thuyết có giá trị phi vật
thể, những giá trị nhân bản được sáng tạo bởi tài năng và thiên chức sáng
tác lại được định giá bằng tiền. Đồng tiền định giá giá trị tinh thần thì nhân
cách của nhà văn bị xúc phạm. Đây chính là sự mất tự do lớn nhất. Nếu
tiểu thuyết khủng hoảng thì đây là một tác nhân không nhỏ. Những năm gần
đây (thập kỷ IX của thế kỷ trước và những năm đầu của thế kỷ này), một
câu hỏi lớn đặt ra: "tiểu thuyết Việt Nam phát triển theo hướng nào", là một
trăn trở của giới cầm bút, của các tiểu thuyết gia và là sự chờ đợi về phía
độc giả. Nhìn ở góc độ khách quan, văn nghệ nói chung đã được "cởi trói",
đất nước đổi mới với chủ trương hội nhập là một vận hội mới cho tiểu
thuyết. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại, phải góp phần tạo nên một nền
văn học xứng đáng với tầm vóc Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác,
đội ngũ độc giả với mặt bằng dân trí như hiện nay cũng là một vận hội
không nhỏ đối với văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Câu hỏi trên
là sự mong đợi của độc giả, một đội ngũ được xem là đồng tác giả đối với
tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Từ đổi mới đến nay (1986 - 2005), những
tác phẩm văn học ở các thể loại khác như truyện ngắn phát triển mạnh, đặc
biệt là kịch bản phim truyện. Tiểu thuyết thì tuy có phát triển về số lượng
nhưng chưa nhiều những tác phẩm hay. Thành công tiêu biểu phải kể đến
"Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng), " "Thời xa vắng" (Lê Lựu),
"Bến không chồng" (Dương Hướng), "Mảnh đất lắm người nhiều ma"
(Nguyễn Khắc Trường), "Chim én bay" (Nguyễn Trí Huân) "Ăn mày dĩ
vãng" (Chu Lai), "Hồ Quý Ly" Nguyễn Xuân Khánh ... Tiểu thuyết Việt
Nam chuyển mình theo hướng nào là một thông điệp chung với tiểu thuyết
gia của đội ngũ độc giả.
13
2. Tiểu thuyết lịch sử, giới thuyết về thể loại:
Tiểu thuyết lịch sử không phải là mới vì nó đã hiện hữu ở Việt Nam
từ cuôí thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" (Ngô
Gia Văn Phái). Đồng thời cũng xuất hiện tiếp trên văn đàn không phải là hy
hữu với "Trùng Quang tâm sử" (Phan Bội Châu) (1925 - Trùng Quang tâm
sử đăng trên Binh sự tạp chí (The military magazine) từ tháng 1/1921 đến
Hữu dịch) NXB Văn hoá 1957, "Tiếng sấm đêm đông"(Nguyễn Tử Siêu), Tiêu
Sơn tráng sỹ (Khái Hưng)... vấn đề ở đây là quan niệm về tiểu thuyết lịch sử. Nói
như Goncourt, "Lịch sử là cuốn tiểu thuyết đã viết xong, tiểu thuyết là lịch sử có
thể diễn ra như thế" (Pierre Louis-Rey- Tiểu thuyết Hachette-Paris 1992, trang 11
(tiểu mục tiểu thuyết và lịch sử).Với lời khẳng định này ta thấy rằng: tiểu thuyết
và lịch sử có mối quan hệ đặc biệt. Lịch sử với sự ghi chép bằng văn bản là cuốn
tiểu thuyết đã hoàn tất. Tiểu thuyết là "cuốn sử" có thể diễn ra như thế, có thể
diễn ra theo giả thiết suy luận , là lịch sử chưa có hồi kết. Dù vậy, khi các tiểu
thuyết gia chọn đề tài lịch sử để viết tiểu thuyết lịch sử, thì những gì đã trở thành
"giấy trắng mực đen", tiểu thuyết gia không thể làm thay tạo hoá được nữa. Mọi
sáng tạo đều có quyền hư cấu, song với nhà tiểu thuyết lịch sử thì phần sáng tạo
chỉ là một đối trọng với lịch sử. Nó là một phần quan trọng thể hiện qua tác phẩm.
Tiểu thuyết lịch sử phải được coi là một loại thể trong phạm trù thể loại tiểu
thuyết nói chung. Do nhà văn chọn đề tài để đối thoại với cuộc sống mà có tiểu
thuyết tâm lý xã hội, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết lịch sử... Từ thái độ, cách thể
hiện đối thoại với cuộc sống của nhà văn theo một quan điểm nào đó mà tạo ra
các trường phái tiểu thuyết theo các chủ thuyết như: hiện thực, lãng mạn, hiện
sinh... tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa (thế kỷ XX) và hậu hiện đại. Những năm
cuối XX và đầu XXI có nhiều tiểu thuyết sáng tác theo các chủ thuyết trên tạo
thành sự phong phú đa dạng của tiểu thuyết phương Tây. Với khuôn khổ và mục
đích bài viết này chúng tôi không nói gì thêm về những chủ thuyết trên mà chỉ
14
tháng 4/1925 - xuất bản lần thứ nhất mang tên "Hậu Trần dật sử (Trần Lê
nêu ra với tư cách như là sự điểm danh của các chủ thuyết đó trong văn đàn. Tiểu
thuyết là kết quả của thiên chức sáng tác cùng với vốn sống, vốn hiểu biết và kinh
lịch trong cuộc sống của tác giả. Tác giả viết tiểu thuyết lịch sử phải am tường
lịch sử, sự kiện, tôn trọng những gì lịch sử đã hoàn tất. Lịch sử được phản ánh
trong tiểu thuyết lịch sử phải là sự thể hiện: am tường sự kiện, nhân vật, không
gian, thời gian, địa điểm lịch sử. Dựa vào lịch sử còn những "điểm trắng", nhà
tiểu thuyết lịch sử sáng tạo,
tái hiện những nhân vật không góp mặt trong tác phẩm của sử gia. Những
nhân vật này là gương mặt của cuộc sống thường nhật, chính loại nhân vật
này làm nên chất tiểu thuyết của tác phẩm. Bên cạnh đó, " những điểm
trắng " về nhân vật lịch sử, được các tiểu thuyết gia lịch sử thêm vào làm
cho nhân vật lịch sử thêm chất tiểu thuyết song không nhào nặn lại nhân
vật, không vi phạm vào tính chân thực của lịch sử, của cuốn lịch sử đã được
hoàn tất. Cái khó của nhà tiểu thuyết lịch sử là phải đảm bảo tính khách
quan, đòi hỏi tham khảo đến tường tận cứ liệu lịch sử, phải am tường về
những yếu tố địa lý, thổ nhưỡng, phong tục, tập quán... Muốn vậy phải điều
tra hồi cố các sự kiện, nhất là để phát hiện ra những điều mà vốn nó nằm
ngoài sự ghi chép của lịch sử. Hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử là tất yếu,
song hư cấu không thể vượt qua hai tiếng lịch sử. Nếu vượt qua, nó sẽ trở
thành tiểu thuyết dã sử, lấy lịch sử làm phương tiện, coi lịch sử là điều đang
diễn ra mà quyền nhào nặn của nhà văn như chính là tạo hoá. Như vậy, nhà
văn đã tiểu thuyết hoá lịch sử chứ không phải là viết một tiểu thuyết lịch sử.
Tóm lại: Tiểu thuyết lịch sử nằm trong phạm trù tiểu thuyết nói
chung nhưng viết về đề tài lịch sử. Vì những lẽ đó, tiểu thuyết lịch sử luôn
tồn tại hai hệ thống nhân vật: nhân vật lịch sử và nhân vật thuộc "điểm
trắng" của lịch sử - nhân vật sáng tạo của tiểu thuyết gia. Mặt khác, khi lấp
những điểm trắng" nghĩa là tạo ra những chi tiết bổ sung cho lịch sử, sáng
15
tạo những nhân vật phi lịch sử - những cuộc đời thường, nhà tiểu thuyết
phải tránh hiện đại hoá con người nhất là khi gắn nối giữa hai hệ thống nhân
vật: lịch sử và phi lịch sử. Để tạo ra một kết cấu tác phẩm lô gíc, nhà văn
cũng rất dễ hiện đại hoá mối quan hệ giữa người với người. Khi đã hiện đại
hoá mối quan hệ này thì cho dù tác phẩm có kết cấu lô gíc đến chừng nào,
người đọc cũng không dễ dàng cảm thông trong tiếp nhận. Mặt khác, khi
gắn nối hai hệ thống nhân vật trên nhà văn có thể làm cho nhân vật lịch sử
không còn là lịch sử nữa (hoặc thêm vào những nét cao thượng vốn đã đầy
ắp của nhân vật lịch sử hoặc là sẽ tầm thường hoá nhân vật lịch sử). Nếu
nhà văn rơi vào tầm thường hoá nhân vật lịch sử, hiện đại hoá mối quan hệ
giữa người với người trong tác phẩm sẽ tạo ra một dã sử được ghi chép
bằng tác phẩm văn học.
3. Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử - những tương đồng và dị biệt
Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử đều có chức năng tái hiện cuộc
sống. Tiểu thuyết tái hiện những gì đang diễn ra như chính cuộc sống đồng
đại với bạn đọc. Tiểu thuyết lịch sử tái hiện những gì đã diễn ra trong quá
khứ, những gì mà thượng đế không làm gì được nữa. Tiểu thuyết lịch sử có
sự gặp gỡ giữa tác giả với bạn đọc là sự giao tiếp về lịch sử, về quá khứ,
song nó không hoàn toàn là những gì thuộc công việc của sử gia, cũng
không hoàn toàn là tiểu thuyết. Công việc của nhà tiểu thuyết lịch sử là làm
sống lại phần cuộc sống đã bị "che khuất" để tạo nên bình diện tổng thể của
cuộc sống. Phần khuất lấp ấy - phần không là nét lớn, nét chính của sử gia -
khi tái hiện, tiểu thuyết gia lịch sử hoàn toàn có quyền hư cấu như chính các
tiểu thuyết gia. Thậm chí cả những yếu tố thuộc lịch sử mà còn các "điểm
trắng" thì khi lấp các "điểm trắng", nhà tiểu thuyết lịch sử có quyền hư cấu,
làm cho những gì thuộc lịch sử vẫn là lịch sử, song sinh động hơn, hấp dẫn
hơn. Nhà tiểu thuyết tái tạo cuộc sống bằng hư cấu để tạo ra những gương
16
mặt tiêu biểu của đời thường đang diễn ra; nhà tiểu thuyết lịch sử hư cấu để
tạo ra những gương mặt tiêu biểu của đời thường đã diễn ra trong quá khứ.
Khi hư cấu, nhà tiểu thuyết ít bị chi phối bởi tính niên đại. Khi hư cấu, nhà
tiểu thuyết lịch sử phải đặt bình diện phản ánh trong niên đại. Nhà tiểu
thuyết khi viết về cuộc sống đang diễn ra, đồng hành với nhà chép sử đồng
đại. Họ đều là " thư kí " của cuộc sống. Nhà tiểu thuyết lịch sử với sử gia là
tiếng nói đồng vọng của hôm nay với hôm qua, nối quá khứ với hiện tại,
giao thoa giữa hiện tại với quá khứ. Có sự khác biệt trong công việc của nhà
tiểu thuyết lịch sử và nhà viết sử, "việc nghiên cứ lịch sử là vô cùng cần
thiết đối với nghệ sỹ, nhưng sự nghiên cứu ấy không thể thay thế sự sáng
tạo. Có khi nhà nghệ sỹ chỉ cần vài khoảnh khắc trong đời sống của nhân
vật lịch sử, có khi nghệ sỹ đưa vào tác phẩm những điều phi lịch sử, không
quan trọng, thậm chí trong một chừng mực nào đó có quyền vi phạm sự
đúng đắn về sự kiện lịch sử, bởi vì tác giả chỉ cần " sự đúng đắn lý tưởng"
mà thôi" (Phan cự Đệ - Tiểu thuyết lịch sử - tạp chí Nhà văn số 1 2003,
trang 56).
Nhà tiểu thuyết, như ta quan niệm hiện nay, lấy những sự kiện đang
diễn ra hàng ngày, đối thoại với cuộc sống để sáng tạo cuộc sống trong tác
phẩm. Nó là những " chuyện ngoài đường ngoài ngõ ", những điều mà sử
gia phong kiến không ghi chép. Những con người ngày xưa được dùng
chung bằng một từ " bách tính" mà ngày nay được dùng là nhân dân, đồng
bào, các sử gia không ghi chép gương mặt cá thể trong phạm trù này. Nhà
viết sử không thể tạo ra tính cách toàn diện của nhân vật lịch sử trong lịch
sử. Nhà tiểu thuyết thì trái lại, sáng tạo cuộc sống thứ hai trong tác phẩm,
tạo ra những cá tính, những số phận, cả những buồn vui trong đời sống con
người. Tiểu thuyết lịch sử có thể ví như nhịp cầu nối giữa lịch sử và tiểu
thuyết. Nó chọn đề tài là lịch sử để sáng tác, vì thế vừa phải là tiểu thuyết
mang diện mạo tiểu thuyết, vừa phải là lịch sử như lịch sử đã diễn ra hoặc "
17
có thể diến ra như thế ". Tiểu thuyết là thế sự đang diễn ra, tiểu thuyết lịch
sử là thế sự đã khép lại nhưng nhà văn cũng có thể giả định, tiên đoán xu
thế phát triển của nó. Theo dòng chảy thời gian, cái hôm nay sẽ thành cái
hôm qua, cái ngày mai rồi sẽ là cái ngày nay, nghiã là thế sự rồi cũng đi vào
quá khứ, đi vào lịch sử. Những gì mà tiểu thuyết thế sự tạo ra là gương mặt
của những cuộc đời thường trong cuộc sống thường nhật hôm nay. Tiểu
thuyết lịch sử làm sống lại những gì mà thời gian đã đẩy vào dĩ vãng. Tiểu
thuyết lịch sử bị chi phối bởi khách quan là lịch sử. Dù sáng tạo chủ quan
đến mức cao nhất, tiểu thuyết gia lịch sử cũng không thể thế sự hoá lịch sử
mà chỉ có thể thêm vào trong tác phẩm những gì mà sử gia không làm như
thế. Tác giả chỉ có thể đưa vào tác phẩm những chi tiết chủ quan không làm
lệch lạc cái công việc của tạo hoá, không can thiệp công việc của tạo hoá
bằng chủ quan cá nhân. Nếu không, tiểu thuyết gia lịch sử đã lạm dụng, đã
thiên lệch tính tiểu thuyết để dã sử hoá lịch sử. Tiểu thuyết có sức hoành
tráng hoá một nền văn học, có sức thu nạp lớn nhất là cuộc sống đang diễn
ra, đang hiện hữu, tiểu thuyết gia có mặt chính trong thế sự đó. Thế sự đang
hiện hữu được các nhà tiểu thuyết hiện thực cổ điển thể hiện thành công ở
cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX ở Châu Âu với những tên tuổi lớn như
DicKens ( Anh), Balzac (Pháp ), Lev Tolstoi ( Nga )...ở Việt Nam là những
tên tuổi thời tiền chiến (thế kỹ XX): Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,
Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Thế sự trong tiểu thuyết lịch
sử là thế sự tái hiện bằng kết quả nghiên cứu lao động trí tuệ về nhiều
phương diện: văn hoá, lịch sử, địa lý...
Tiểu thuyết lịch sử đòi hỏi vấn đề phản ánh phải dừng trước vạch
cấm chỉ của lịch sử để tác phẩm đảm bảo tính chân thực lịch sử. Vượt qua
vạch cấm chỉ, tiểu thuyết lịch sử đã tiểu thuyết hoá lịch sử. Cái " có thể diễn
ra như thế" không thể là phương tiện để tiểu thuyết gia tạo dụng ý " bình cũ
rượu mới", chuyển hẳn nó sang tiểu thuyết luận đề, dã sử hoá lịch sử nhằm
18
thực hiện thiên kiến của tác giả, hoặc một biểu tượng hai mặt về cuộc sống
hiện tại. Như vậy tiểu thuyết lịch sử chỉ còn là một phương tiện (Gió lửa
của Nam Dao). Tiểu thuyết lịch sử muốn hay không, để nó đảm trách nhiệm
vụ lịch sử (Hystory) thì không gian, thời gian, địa điểm..., thể hiện trong tác
phẩm phải mang dấu ấn của thời điểm lịch sử mà tác phẩm phản ánh. Mặt
khác, tuyến nhân vật sáng tạo của tác giả - loại nhân vật không là đối tượng
của sử gia, khi được tái tạo phải là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử, không
thể hiện đại hoá con người trong quá khứ. Những nhân vật sáng tạo phải
mang dấu ấn lịch sử: Phong tục, tập quán, lời ăn tiếng nói, trang phục, nhất
là quan hệ giữa người với người. Nếu không, tác phẩm sẽ trở thành hai
mảng riêng biệt: lịch sử và thế sự không ăn nhập, không lô gíc. Như vậy,
tác giả đã mượn danh lịch sử để viết tiểu thuyết với dụng ý nào đó chứ
không phải là viết tiểu thuyết lịch sử.
Bàn về tiểu thuyết lịch sử, trong một chuyện luận cùng tên, giáo sư
Phan Cự Đệ đã đề cập đến những vấn đề có tính phổ quát về thi pháp tiểu
thuyết lịch sử khi dẫn những chính kiến của các lý luận gia tên tuổi các
nước: Anh, Pháp, Nga và của chính những cây bút tiểu thuyết lịch sử. Một
nhà phê bình vừa khen vừa chê Dumas như sau "Alexandre Dumas đã hiếp
dâm lịch sử mà đẻ ra những đứa con hoang sinh động hơn những đứa con
chính thức "(Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn). Nhưng nhà văn lãng mạn
Alexandre Dumas, người có biệt tài viết tiểu thuyết lịch sử (Ba người lính
Ngự lâm, Hai mươi năm sau, Hoàng hậu Margot, Ba tước Monte Cristo...)
đã đáp lại: " Lịch sử đối với tôi là gì ? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo cái
bức hoạ của tôi thôi" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn)
"Không tôn trọng sự chính xác lịch sử hoặc chỉ dùng quá khứ lịch sử
để ám chỉ những vấn đề hiện tại, đó là khuynh hướng đường như không
thể thay đổi của một số nhà lãng mạn. Trong "Những suy nghĩ về chân lý
19
nghệ thuật" ( 1827 ), vốn là Lời tựa của cuốn tiểu thuyết lịch sử Cing Mars
(1826 ) Alfred de Vigny nhấn mạnh rằng" chúng ta đang ở vào một thời đại
mà con người muốn biết và muốn tìm kiếm cái nguồn của mọi con sông"
Vuợt qua cái chân thật của sự kiện ", tiểu thuyết có thể vươn tới " chân lý
của nghệ thuật ", có nghĩa là đi qua bên ngoài huyền thoại để đưa ra " một ý
niệm về lịch sử ". Lu kacs cho rằng trong tiểu thuyết Cing Mars, Alfred de
Vigny đã trình bày một quan niệm về lịch sử ngược hẳn với chủ nghĩa lịch
sử của Walter Scott. Những tác phẩm của nhà văn Anh này được Lukacs
coi như hình thái cổ điển của tiểu thuyết lịch sử" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã
dẫn).
" ở một đoạn khác, Lu kacs lại viết: mối quan hệ sinh động với hiện
tại thể hiện ngay chính trong sự vận động được mô tả của lịch sử và tự nó
nói lên. Nhà tiểu thuyết không nên biến tác phẩm của mình thành luận văn
lịch sử mang tính giáo huấn và những quy chiếu lộ liễu về thời hiện tại, theo
Piere Louis - Rey, những tác phẩm như thế chỉ là những thứ xỉ giữa thế giới
tiểu thuyết" ( Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn).
Trong trào lưu lãng mạn Việt Nam thời tiền chiến của thế kỷ XX,
"khi viết "Tiêu Sơn tráng sĩ", Khái Hưng đã dựa vào "Hoàng Lê nhất thống
chí" của Ngô Gia văn phái và dựa vào cuộc đời của Phạm Thái, tác giả "Sơ
kính tân trang" , Khái Hưng đã căn cứ hoàn toàn vào "Hoàng Lê nhất
thống chí" để viết về những ngày cuối cùng của cuộc đời những " bề tôi
trung nghĩa" với nhà Lê như thượng thư bộ binh Nguyễn Đình Giản, trấn
thủ kinh bắc Trần Quang Châu, trạch trung hầu Phạm Đại, thiêm thư khu
mật viện Lê Ban; những người cha của các đảng viên Tiêu Sơn như Nhị
Nương, Quang Ngọc, Phạm Thái, Lê Báo. Cuộc đời và tính cách của thế hệ
trẻ trong đảng Tiêu Sơn là những nhân vật lãng mạn mang dáng dấp khách
chinh phu của Thế Lữ. Do hư cấu, sáng tạo, Khái Hưng chỉ căn cứ một
20
phần vào các sự kiện và cái không khí xã hội trong "Hoàng Lê nhất thống
chí ", " Sơ kính tân trang". Như thế có nghĩa là "lịch sử chỉ là cái đinh để
tôi treo các bức hoạ của tôi thôi " ( Dumas )."Tiêu Sơn tráng sĩ" là một cuốn
tiểu thuyết lịch sử nhưng rõ ràng đã ấp ủ nhiều điều tâm sự của con người
hiện đại. Vì Phạm Thái vừa mang giấc mộng anh hùng lại vừa có phong
thái của nghệ sĩ, vừa là khách chinh phu vừa là khách tình si. Lấy hai tác
phẩm: một tiểu thuyết lịch sử (Hoàng Lê nhất thống chí), một truyện thơ
(Sơ kính tân trang) làm tư liệu, Khái Hưng đã viết "Tiêu Sơn tráng sĩ" mang
đầy ý tưởng, tâm sự của tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam trước Cách mạng
tháng 8 năm 1945.
" Các nhà tiểu thuyết lịch sử không coi việc miêu tả quá khứ như một
mục đích tự tại. Họ kể một câu chuyện về qúa khứ nhưng các động từ vẫn
được chia ở thì hiện tại". Tiểu thuyết lịch sử còn nhiều tác dụng khác nữa
"nó có thể soi sáng những thời kỳ quá khứ của con người đã trải qua với
mục đích rõ ràng là gạn lọc những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hiện
tại. Nó giúp ta làm những bảng so sánh đối chiếu thời đại nọ với thời đại
kia... Tác giả tiểu thuyết lịch sử sử dụng quá khứ như một khí cụ để vẽ lên
những điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện tại và do đó làm sáng tỏ hiện
tại" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn).
Từ thực tế sáng tác, nhà viết tiểu thuyết lịch sử - Nam Dao nhấn
mạnh đến "vị thế hiện tại của chủ thể", điều này góp phần giúp ta hiểu thêm
về những yếu tố có tính mã hoá và giải mã tác phẩm tiểu thuyết lịch sử.
"Với một nhà văn, lịch sử không là những xác chết và những sự cố liên
miên, ù lì. Trong tiểu thuyết lịch sử, quá khứ lịch sử nhìn bởi nhà văn, nhà
văn như chủ thể . Đó là thứ tái chiếm hữu và tái tạo từ vị thế hiện tại của
chủ thể... Tiếp cận quá khứ từ vị thế hiện tại dĩ nhiên đèo bồng vào lịch sử
được tái tạo qua tiểu thuyết, những vấn nạn hiện tại. ở điểm này, đèo bồng
21
đó đến khi thì từ ý thức, khi vô thức nhưng ít hay nhiều đều nhằm truy
nguyên nguồn căn của các vấn nạn, vì lẽ hiện tại nào cũng là tổng hợp
những thành tựu và những thất bại trong quá khứ" (Phan Cự Đệ - Tài liệu
đã dẫn) . Nhà viết tiểu thuyết lịch sử có thể "đảo ngược và xoay quanh
những sự cố cũng như tính chất những con người trong quá khứ. Tưởng
tượng, Nguyễn Huệ không chết sớm, Minh Mệnh không tàn sát giáo dân,
Tự Đức nghe và làm theo điều trần của Nguyễn Trường Tộ... thì hôm nay
thế nào?". Với cách nhìn như vậy, hiện tại mang cái khả năng "khác được".
Lẫn vào quá khứ để chiếm hữu và tái tạo lịch sử, tiểu thuyết lịch sử hoá ra
là một tập hợp những dự phỏng về một tương lai có thể có được. Chính sự
khả hữu này làm đổ mồ hôi trong công việc viết văn và tiểu thuyết lịch sử.
Nói cho cùng, phải là máu cũng như nước mắt của người viết" (Phan Cự Đệ
- tài liệu đã dẫn). Nói như Nam Dao nghĩa là lịch sử được coi như một
phương tiện, nhà văn dắt quá khứ đặt vào hiện tại, đối thoại với lịch sử, đối
thoại với hiện tại nhằm "Phục sinh một hiện tại, cần tháo gỡ hầu thoát khỏi
những bế tắc tiêu vong" của hiện tại. Thế nghĩa là, tiểu thuyết lịch sử mang
mầu sắc luận đề, đặt ra những câu hỏi mà các chính trị gia hiện tại phải
nhăn trán. Có lẽ chính vì thế mà Nam Dao không gọi Gió lửa là tiểu thuyết
lịch sử mà gọi là tiểu thuyết dã sử. Là một cây bút tiểu thuyết lịch sử,
Nguyễn Mộng Giác lại nhấn mạnh "Tôi nghĩ, một cuốn tiểu thuyết lịch sử
đúng nghĩa luôn luôn phải là một cuốn tiểu thuyết thế sự. Bản chất của tiểu
thuyết là thế sự. Tiểu thuyết lịch sử mà thiếu thế sự thì hoặc là một thứ sử
thi giả dùng làm tài liệu tuyên truyền hoặc chỉ là một mớ tài liệu sử vô giá
trị. Một cuốn tiểu thuyết lịch sử chỉ minh hoạ lịch sử, từ đầu chí cuối chỉ
toàn các vua quan đi ra đi vào âm mưu hãm hại nhau, tranh giành quyền lực
còn đời sống của người dân thế nào, biến cố lịch sử đó ảnh hưởng đến
người dân đen ra sao tác giả không quan tâm.; tôi cho cuốn sách đó không
22
phải là tiểu thuyết theo đúng nghĩa. Thế sự là da thịt của tiểu thuyết lịch sử
cũng như lịch sử là xương cốt của tiểu thuyết lịch sử" ( trả lời phỏng vấn
giữa tác giả với Mai Quốc Liên - lời cuối sách).
Từ những điều đã trình bày ở trên dù chưa định được thật đầy đủ thật
đầy đủ những vấn đề mã hoá và giải mã tiểu thuyết lịch sử nhìn từ góc độ
thi pháp, nhưng ít nhất, ta cũng định được những kiểu, dạng của tiểu thuyết
lịch sử ở hai phương diện: nhận thức và thực tiễn sáng tác. Nói như chuyên
luận của Phan Cự Đệ: "Có thể tạm chia các nhà tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam thế kỷ XX thành hai nhóm. Một số nhà văn lấy việc tái hiện chính xác
sự kiện lịch sử, không khí lịch sử là chính như: Vũ ngọc Đĩnh, Thái Vũ,
Chu Thiên, ở đây lịch sử được coi là cứu cánh. Một số khác chỉ coi lịch sử
là chất liệu, thậm chí là phương tiện để viết tiểu thuyết. Họ tập trung vào
việc xây dựng nhân vật tiểu thuyết hoặc thông qua lịch sử đặt ra những vấn
đề cho hôm nay, cho mai sau. Trong nhóm thứ hai có thể kể: Hà Ân,
Nguyễn Xuân Khánh, Nam Dao, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Huy
Tưởng..."(Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn).
Tóm lại từ xuất phát điểm đến cái đích của một tiểu thuyết lịch sử
(như trên đã trình bày), ta có thể xác định được mối quan hệ giữa tiểu
thuyết với lịch sử như chính tên gọi của nó: lấy lịch sử làm cứu cách hoặc
lấy lịch sử làm phương tiện. Muốn bàn đến tiểu thuyết lịch sử cũng phải bắt
23
đầu từ chính mối quan hệ này.
Chương II
Nội dung "Sông côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác - Nhìn từ góc độ tiểu thuyết lịch sử
1. Chất liệu lịch sử - nhân vật lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ"
1.1 Chất liệu lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ"
Như đã trình bày ở trên, tiểu thuyết lịch sử thuộc phạm trù tiểu thuyết
nói chung, nhà tiểu thuyết lịch sử lấy lịch sử làm đề tài để sáng tác. Để trình
làng đứa con tinh thần, nhà tiểu thuyết hội tụ những yếu tố: vốn sống, vốn
kinh nghiệm, góc nhìn với thế sự, tâm tư, ý nguyện, thiên chức sáng tác...
Nhà tiểu thuyết lịch sử dù coi "lịch sử là phương tiện", "lịch sử là cái đinh"
thì vẫn phải am tường lịch sử, am tường những vấn đề thuộc văn hoá của
lịch sử đã được chọn làm đề tài. "Sông Côn mùa lũ", nhìn từ góc độ tiểu
thuyết lịch sử, trước hết, ta phải nhấn mạnh lại những vấn đề mang tính
chung nhất như là hệ quy chiếu để bàn về nó. Do tiểu thuyết lịch sử gắn với
lịch sử nên mọi tiểu thuyết lịch sử đều không có hồi kết mà chỉ có điểm
dừng của tác giả. Nó được hoàn tất theo sự lựa chọn của tác giả. "Sông Côn
mùa lũ" theo lời tác giả Nguyễn Mộng Giác - được viết ngoài chủ ý ban
đầu với thời gian sáng tạo (thời gian lựa chọn của tác giả) ngắn, hẹp và bình
diện thế sự (phần hư cấu) cũng có giới hạn trong giới trí thức thời loạn. "ý
định ban đầu như thế là "viết về tâm trạng trí thức thời loạn" nói chung
trong đó có một phần tâm trạng mình trong những năm nhiều biến chuyển
sau tháng 4/1975. Chọn thời gian Tây Sơn vì đấy là thời kỳ cũng có nhiều
biến động dữ dội, thời kỳ giới nho sĩ trí thức cả đàng Trong lẫn đàng Ngoài
đều bị đặt trước những thử thách sinh tử"(lời cuối sách). ý định của tác giả
thay đổi vì " lịch sử thời Tây Sơn quá đa dạng, phong phú và tầm nhìn của
tôi cũng mở rộng ra", "tâm trạng trí thức thời loạn" trở thành chật hẹp" (lời
24
cuối sách). Sự thay đổi ý định của tác giả cũng chính là sự thay đổi, trăn trở
giữa hai vấn đề lớn của cuốn tiểu thuyết lịch sử: lịch sử là "phương tiện"
hay lịch sử là "cứu cánh". Từ ý định ban đầu, Nguyễn Mộng Giác đã sử
dụng "lịch sử như một phương tiện" để bộc lộ "một phần tâm trạng của
mình trong những năm nhiều biến chuyển sau tháng tư năm 1975"(lời cuối
sách). Chọn thời kỳ Tây Sơn tức là chọn lịch sử, chọn thời gian để đặt "một
phần tâm trạng của mình", Nguyễn Mộng Giác đã thể hiện thế sự trên cái
nền của quá khứ lịch sử. Vấn đề sự kiện lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử, dù
viết trong tâm thế quan niệm lịch sử như thế nào, tác giả cũng không thể
phủ nhận sự thực của lịch sử. "Khái Hưng không thể qua "Tiêu Sơn tráng
sĩ" tầm thường hoá nhân vật vĩ đại trong lịch sử là Quang Trung. Dù chính
thống hoá cũng không thể không thể hiện Lê Chiêu Thống là " cái ông bụt
mục, cái ông tượng nát", "vận nhà Lê đến lúc cùng rồi". Dù yêu mến và thả
sức bút ca ngợi những đảng viên trong đảng Tiêu Sơn thì Khái Hưng cũng
không thể khoác lên đầu họ hào quang của chiến thắng" (Phan Cự Đệ - Tài
liệu đã dẫn). Viết " Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác không thể vượt
khỏi sự kiềm toả này. Vấn đề sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử trong tiểu
thuyết lịch sử, tác giả phản ánh thế nào mang tính quyết định đến bản mệnh
của chính tác phẩm. Hư cấu sự kiện, nhân vật lịch sử thực chất là tác giả đã
dã sử hoá lịch sử bằng quan niệm đương đại. Như vậy, tiểu thuyết lịch sử
không tránh khỏi thiên về tiểu thuyết luận đề. Hai tiếng lịch sử chỉ là cái cớ
để tác giả gửi gắm một thiên kiến chính trị, một quan niệm, một nhận thức
tư tưởng về chính trị, về cuộc sống mà tác giả đang hiện hữu. Thực trạng và
kết quả của sự hư cấu này, nhà văn sẽ tạo ra một cuộc sống đương đại bằng
những diện mạo nhân vật của quá khứ. Đành rằng, tiểu thuyết nói chung
không phải là thứ giải trí cho tất thảy mọi người vì nó là đỉnh cao của văn
hoá đọc, song kiểu hư cấu như vậy liệu độc giả có dễ dàng đồng hành với
tác giả để trở thành đồng tác giả hay không lại là một vấn đề khác. Nói như
25
Nam Dao "đảo ngược và xoay quanh" lịch sử để tưởng tượng: " Nguyễn
Huệ không chết sớm", "Minh Mệnh không tàn sát giáo dân", "Tự Đức nghe
và làm theo điều trần của Nguyễn Trường Tộ" . Nếu chỉ thế thôi phỏng có
ích gì khi mà tạo hoá đã đặt dấu chấm hết cho những con người và sự kiện
này vì " Lịch sử là cuốn tiểu thuyết đã viết xong" (Gon -court). Trong tiểu
thuyết lịch sử, dã sử là yếu tố nằm ngoài lịch sử (chính sử), song đây là lựa
chọn của tác giả chứ không phải là sáng tạo. Yếu tố dã sử có sức lấp điểm
trắng của lịch sử nhưng không được phương hại đến lịch sử mà tác phẩm đề
cập đến.
Nguyễn Mộng Giác mở rộng bình diện lịch sử, chọn thời Tây Sơn để
có sự " đồng điệu" về nhiều biến động tức là tác giả đã mở rộng thêm cả
bình diện hư cấu vì " thế sự là da thịt của tiểu thuyết lịch sử" (Nguyễn
Mộng Giác).
Viết tiểu thuyết lịch sử Việt Nam, tất cả các tiểu thuyết gia "lấy lịch
sử làm cứu cánh", gặp phải những khó khăn không nhỏ. Chức vụ sử quan ở
nước ta không có những bậc chết cho nghiệp bút để vua là vua, sử là sử. Vì
thế, sử gia "chấp kinh" mà phải "tòng quyền". Ngòi bút lựa theo quyền lực.
Mặt khác, triều đại sau thường xoá sạch dấu ấn của triều đại trước. Những
sử quan của triều đại sau tu sửa, chỉnh trang trên cơ sở những cứ liệu từ
những nguồn khác nhau vì thế rất có thể lẫn cả những "hạt sạn" là dã sử, là
truyền khẩu trong dân gian. Mặt khác, khi làm công việc lấp những điểm
trắng về nhân vật lịch sử, hư cấu thế sự, dù khách quan đến mấy, nhà văn
cũng không tránh khỏi cái chủ quan từ vị thế là một con người cụ thể, một
nhãn quan giai cấp cụ thể, thậm chí còn bị chi phối bởi đời sống chính trị,
kinh tế, tư tưởng thời đại mà nhà văn đang sống. Vì thế tác phẩm nhất định
phải mang dụng ý chủ quan. "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác
không nằm ngoài quy luật của những điều đã trình bày ở trên. Thông qua
26
tiểu thuyết lịch sử, nhà văn có thể xuất phát từ nhiều ý định chủ quan: Có
thể là lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lấy việc trò chuyện với lịch sử để làm
cầu nối giữa quá khứ với hiện tại. Cũng có thể đứng trước thế sự hiện tại,
nhà tiểu thuyết lịch sử muốn thông qua tác phẩm để "dự báo" một vấn đề
nào đó, có thể đồng tình hoặc không đồng tình với hiện tại.
Những ý kiến chung đúc trên có thể xem là những tiền đề tìm hiểu
tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ" nhìn từ góc độ thể loại. Có thể bài viết chưa
tập hợp đầy đủ những tiêu chí, góc độ, song coi như là xuất phát điểm có
tính định hướng chung để bàn về một bộ sách được phát hành ở hải ngoại
có chỗ đứng trong đời sống văn hoá đọc trong nước. Từ 1991, "Sông Côn
mùa lũ" được xuất bản ở California, ở trong nước 2001 và 2003 được in lần
thứ hai. Trong chuyên luận "Tiểu thuyết lịch sử" (Phan Cự Đệ- tài liệu đã
dẫn) viết: " Nguyễn Mộng Giác dường như viết "Sông Côn mùa lũ" với ba
nguồn cảm hứng lớn: cảm hứng phê phán, cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa và
cảm hứng sử thi". Đây là ý kiến có tính tổng quan, cùng với những ý kiến
chung đúc trên, ta có thêm những yếu tố hội tụ như là hệ quy chiếu để tìm
hiểu và bàn về "Sông Côn mùa lũ". Nhìn một cách khái quát, ta thấy"Sông
Côn mùa lũ" được xây dựng trên cơ sở chất liệu lịch sử và chất liệu thế sự
trong lớp nội dung.
1.2 Nhân vật lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ"
Từ những điều trên, ta thấy trong khi xây dựng nhân vật lịch sử trong
"Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác đã tôn trọng những điều mà sử gia
đã hoàn thiện. Nhân vật lịch sử của phong trào Tây Sơn được tác giả nhào
nặn, lấp những "điểm trắng" là ba nhân vật: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ,
Nguyễn Huệ. Khi lấp những điểm trắng" về nhân vật lịch sử, Nguyễn Mộng
Giác đã tuân thủ mục đích thế sự hoá nhân vật lịch sử. Sự "tình cờ" gặp gia
đình ông giáo Hiến ở An Thái, Nguyễn Nhạc đã gửi hai chú em: Lữ, Huệ
27
theo đòi học tập. Tuổi trẻ của Huệ dù ở nhà học ngắn ngủi, song nhân vật
lịch sử đã có những ngày tháng êm đềm. Tác giả một mặt chú trọng con
người quân sự, chính trị của nhân vật lịch sử, đồng thời chú trọng đến tư
cách một con người đời thường "lâu nay người ta xem Nguyễn Huệ là một
võ tướng tài ba, một anh hùng dân tộc chống ngoại xâm, nói chung tôn
trọng thiên tài quân sự của ông. ít ai quan tâm đến khía cạnh khác như
Nguyễn Huệ trong tư cách một nhà chính trị, trong tư cách một con người
đời thường trong gia đình, trong giao tiếp với kẻ thân, người sơ, kẻ hiền,
người dữ. Tôi muốn tái hiện Nguyễn Huệ như một con người trọn vẹn, vừa
là con người lịch sử vừa là con người thế sự hoà quyện vào nhau" (lời tác
giả cuối sách). Trong tác phẩm, tác giả đã thế sự hoá để có một Nguyễn
Huệ như một con người trọn vẹn. Một Nguyễn Huệ lịch sử và phi lịch sử.
Điều này có nghĩa là , tác giả thế sự hoá, cá tính hoá nhân vật lịch sử song
không vượt quá để lấn sân lịch sử. Nhân vật trung tâm của phong trào Tây
Sơn được ghi lại trong sử sách là Nguyễn Huệ, tác giả cũng dồn tâm lực
nhiều nhất để " thế sự hoá" nhân vật này. Xây dựng, "hư cấu" Nguyễn Huệ
trong tư thế người em út, người học trò, Nguyễn Mộng Giác "khắc hoạ"
nhân vật vừa là để "cắt nghĩa" cho một thực tế: sinh ra ở miền sơn cước,
Nguyễn Huệ tiếp xúc với tri thức từ nguồn nào mà trở thành thiên tài. Chính
trong vai trò người học trò, trọ học ngay trong nhà thầy - ông đồ trốn chạy
khỏi hoạ liên luỵ mới chân ướt, chân ráo đến An Thái, tác giả đã hoàn thiện
"một quãng" tiểu sử nhân vật lịch sử. Đây là một nét lớn trong cảm hứng
nhân đạo của tác giả - một mắt xích tạo nên tổng thể giá trị nhân đạo của tác
phẩm bằng những nhân vật hoàn toàn hư tưởng (sẽ đề cập ở phần sau). "Có
thể xem cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa là cảm hứng chính trong tiểu thuyết
"Sông Côn mùa lũ" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn). Chính từ công việc khắc
hoạ "nhân vật lịch sử" Nguyễn Huệ, tác giả đã tạo nên một Nguyễn Huệ
"thế sự" mà vẫn "lịch sử". Đây là điều ít thấy ở những tác phẩm trước đó.
28
Nguyễn Mộng Giác không dắt lịch sử đặt vào hiện tại mà nhảy vào vòng
lửa của lịch sử để thế sự hoá, làm cho nó sống động trước mắt người đọc.
Sáng tạo một lớp học, Nguyễn Mộng Giác đã chi tiết hoá gương mặt của
bảy học trò: hai anh em: Lữ, Huệ; Chinh, Lãng - hai con ông giáo; Thìn
con ông tri áp; Tiến con ông Chánh tổng và Khải con ông biện An Thái.
Sau buổi lễ khai tâm, lớp học có bảy học trò thì đã có tới năm bậc tuổi: 17,
16, 15, 14, 12 được coi là sàn sàn như nhau. Ông giáo nhanh chóng được
tiến hành dạy học. Sự phân loại mặt bằng kiến thức bước đầu tiến hành,
công việc này thể hiện tác giả am tường một lớp ghép của thầy đồ trong quá
khứ. Nhân vật Huệ với tư cách là em út của gia đình được tác giả "thể hiện"
ngay từ những buổi đầu. Huệ hiểu cái đưa mắt ngầm của Lữ, đi làm phận sự
của em út, học trò (đun nước , pha trà). Hai anh em ăn uống sinh hoạt tại
nhà thầy: riêng rẽ, không chung đụng. Huệ làm tròn bổn phận của người
em. "Hằng ngày, việc nấu nước pha trà và cơm nước, Huệ phải lo. Điều đó
tự nhiên, vì Huệ là em" (trang 100). Từ công việc thường ngày phải làm
trọn phận sự của em út, học trò, tác giả đặt Huệ vào một " tình huống" tế
nhị của tuổi vị thành niên khi gặp với An, (con gái thầy). Tạo ra tình huống
này, Nguyễn Mộng Giác đã thế sự hoá nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ bằng
một chi tiết rất đời thường. Con người thiên tài Nguyễn Huệ mà sử sách dù
bị bẻ cong bởi quyền lực cũng phải thừa nhận là có tài "thần xuất, quỷ nhập,
hăng tợn và giỏi cầm quân", "bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con", "giết
Vũ Văn Nhậm như giết con lợn". Người từng làm cho trang lịch sử dân tộc
sau bao năm Nam - Bắc phân tranh thu về một mối, người quét giặc Thanh
ra khỏi bờ cõi với lời hiệu
triệu, hồi kèn xung trận vang vọng mãi ngàn thu.
" Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
29
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
(Lịch sử lớp 7- NXBGD-H.2003)
Đánh cho sử tri, Nam quốc anh hùng chi hữu chủ"
Tầm vóc vĩ nhân lịch sử, Nguyễn Huệ hiển hiện cái ngập ngừng rất
đời, rất thường trước người khác giới, "Huệ sang bếp nhà thầy nấu nhờ ấm
nước sôi từ sáng sớm. Cậu sợ làm phiền gia đình thầy. Cậu cũng sợ gặp con
gái thầy ở nhà bếp" (trang 100). Một tâm trạng của tuổi vị thành niên trước
một người khác giới ở Huệ, tác giả thể hiện một cách tế nhị, ngọt ngào.
Tâm trạng này không phụ thuộc vào thời gian, không phụ thuộc vào hai
tiếng xưa và nay. Bởi nó là chất người trong mỗi con người - cái rạo rực mơ
hồ của tuổi dậy thì. Chàng thiếu niên em út, học trò Nguyễn Huệ được tác
giả khắc hoạ bằng một tâm trạng "hư cấu", tạo ra một thời niên thiếu của
nhân vật lịch sử. Những trăn trở trong nội tâm nhân vật Huệ xem là một
thành công của Nguyễn Mộng Giác. Giọng văn là lời kể, cũng là lời độc
thoại nội tâm của nhân vật thể hiện khả năng tiểu thuyết của tác giả "Cho
đến một ngày Huệ gặp An. Điều ghi dấu đậm, sâu vào cảm quan của cậu,
khiến cậu gần như sững sờ, là cái dáng điệu uyển chuyển, nhịp nhàng, linh
động của An. Từ cách đưa ngón tay út lên vén nhẹ một mảng tóc loà xoà,
cho đến cách đưa lưỡi liếm nhẹ lên môi trên, cách rót một tách nước trà,
cách gật đầu nhận một lời chỉ bảo, tất cả, tất cả đều vừa độ cần thiết. Cử chỉ
biểu lộ sự thân mật dịu dàng, đồng thời cũng giữ riêng cho An một sự bí
mật tôn nghiêm. Huệ chưa bao giờ gặp sự hoà điệu như vậy giữa hai đòi hỏi
gần như mâu thuẫn là sự cởi mở thân tình và sự gói ghém kiêu hãnh nơi
một người con gái. Cậu cũng ngạc nhiên khi thấy cô gái có dáng điệu trang
nhã và thân mật ấy còn giữ nguyên nét trẻ thơ trên khuôn mặt. Nước da ửng
sáng trên đôi má bầu bĩnh. Cái môi trên mọng. Chỉ trừ đôi mắt buồn trước
tuổi. Huệ nghĩ có lẽ nhờ đôi mắt ấy mà khuôn mặt và cử chỉ của An hoà
hợp nhau, tiết ra một sức hấp dẫn đến lạ lùng. Cậu đau khổ công nhận giữa
30
cái đẹp xa lạ ấy và mình có hố cách biệt trang nghiêm; cậu không thể nói gì
thêm, không thể phác một cử chỉ nhỏ, vì bất cứ hành động nào của cậu cũng
trở thành vụng về, thừa thãi trước vẻ đẹp toàn bích ấy. Và lần đầu tiên trong
đời, cậu thấy lúng túng, thất vọng cho sự vụng dại của mình" (trang 101).
Tạo tình huống nghệ thuật, tình huống tiểu thuyết, tác giả chẳng những đã
sáng tạo mà cũng là sự nhấn mạnh một tuyên ngôn về cái đẹp trong lẽ
thường ở đời - Huệ và An, hai nhân vật: anh hùng và mỹ nhân. Sự rung
động trong tâm hồn Huệ là sự rung lên của thói đa tình. Sự vụng dại đến
"thất vọng" của Huệ như là một tất yếu không tránh khỏi vì "mỹ nhân tự cổ
như danh tướng". Huệ như bị hớp hồn trước vẻ đẹp thôn dã hoá của An.
Bản tình ca - tình yêu một phía, một sự "phải lòng" từ nơi Huệ và cũng
chính từ cái tình huống đặc biệt này. Tác giả đã xây dựng được mối quan hệ
đặc biệt giữa Huệ và An đến tận cùng của thiên truyện. Nguyễn Mộng Giác
đã khai thác mối quan hệ giữa anh hùng và người đẹp, tạo dựng, phát triển
nhằm thế sự hoá, tiểu thuyết hoá lịch sử mà vẫn rất lịch sử. Tình huống và
tâm trạng của Huệ qua đoạn văn được xem là đầy chất thơ, chất điệu tâm
hồn. Tác giả dụng ý xây dựng và dùng nhân vật An là sức hấp dẫn của thiên
truyện ... "là mối tình (tưởng tượng) giữa Nguyễn Huệ và cô con gái ông
giáo Hiến. Mối tình đó làm cho câu chuyện được thống nhất, lại qua đó tạo
thêm những quan hệ khác làm sườn cho bộ truyện. An là cứu cánh của thiên
truyện" (lời tác giả- cuối sách). Việc thế sự hoá nhân vật lịch sử Nguyễn
Huệ, tác giả đặt trong một trật tự tuyến tính về thời gian và đặt trong mối
quan hệ đời sống tình cảm và đạo nghĩa: tình yêu và tình thầy trò. Mặc dù
thế, thiên truyện không một chút vướng vào luận đề, giáo huấn. Có thể xem
nhân vật Nguyễn Huệ được tác giả thế sự hoá theo hai nhánh chính: tình
yêu, tình thầy trò đặt trong trật tự tuyến tính. Gia đình ông giáo Hiến là
điểm hội tụ của việc thế sự hoá. Hai nhánh tình yêu và tình thầy trò như
hiện tượng song tuyến. Tình thầy trò, đạo nghĩa thầy trò tạm kết thúc ở
31
chương 48 của thiên truyện. Trong tư cách là học trò, Nguyễn Huệ xuất sắc
trong nhận thức và tự tin. Trước câu hỏi của thầy "các anh đã nhớ và hiểu
hết chưa ?", Huệ trả lời rõ ràng dứt khoát "Dạ đã hiểu hết!". Học trò Huệ
được ông giáo Hiến "phát hiện" những dấu hiệu của một tài năng lớn, niềm
hy vọng lớn lao như là sự cứu cánh cho hoàn cảnh của ông. Ông hận
Trương Phúc Loan "Uy thế của quốc phó lớn quá, tiền tài và thế lực át cả
chúa". Mà đám con ông "Kiên đơn giản quá, ngoan ngoãn theo đường
thẳng, không thể đi cùng cha vào những chuyện phức tạp quanh co. Chinh
hời hợt quá, bao nhiêu tâm trí dồn cả lên bắp thịt. An và Lãng mẫn cảm quá,
ông chỉ thấy chúng thích thơ. Mãi đến nay, ông mới gặp được Huệ"(trang
104). Huệ được thầy coi như là người san sẻ, người gửi gắm những tâm sự,
những thiếu hụt như một tri kỷ "và vì mừng rỡ, ông giáo quên cả giới hạn
của tuổi tác và kinh nghiệm sống của Huệ. Ông bắt Huệ đọc "Sử ký"(trang
104). Nguyễn Mộng Giác đã học trò hoá một Nguyễn Huệ thiếu niên qua
bài giảng của thầy, dường như xuất phát từ một đạo lý của dân tộc "không
thầy đố mày làm nên", đạo lý "tôn sư trọng đạo" của dân tộc. Bài giảng "tựa
truyện du hiệp" trong sử ký, bài giảng mang ý nghĩa về chính đạo, lẽ hưng
phế, bậc chân nhân, lẽ tôi trung, tiết tháo nhà Nho..., đối lập với những oan
trái, những thực tại mà chính ông giáo Hiến đang hứng chịu. "Hoá ra bao
nhiêu tứ thư, ngũ kinh ông thuộc làu làu thời trai trẻ, lấy đó làm nền cho chí
hướng và hành động chẳng qua chỉ là thứ bài trí hoa hoè nơi dinh thự bọn
quyền thế. Tua chỉ điều cột nơi chuôi kiếm vấy máu của kẻ cướp lớn. Hạt
trân châu đính trên mũ của kẻ ngồi kiệu. Cái quạt hoa che giấu những cái
liếc mắt đĩ thoã... còn gì nữa... trời hỡi ! cái gì đẩy ta đến tận bờ vực của
phạm thượng thế này ! Không giật mình dừng lại kịp, ta sẽ lạc về đâu ? chỉ
vì giận tên Trương Tần Cối, uất cho cái chết thê thảm của bạn và cuộc đời
long đong bấy lâu nay mà ta nghi ngờ đến cả chân lý vĩnh cửu, quật đổ
nhân nghĩa hay sao? " (trang 105). Ông giáo Hiến tìm và coi Huệ như một
32
sự đồng điệu. Trước những trái ngang cuộc đời như mặt trái của sách vở,
ông giáo không bứt ra khỏi được cái vòng luẩn quẩn giữa cao thượng sách
vở với thấp hèn, đê mạt của thực tại. Song cũng chính ông tự "giật mình
dừng lại kịp". Chính cái giật mình để hành động theo lời sách vở đã tạo nên
một ông giáo Hiến bảo thủ, cố hữu với thuyết lý Nho gia trước vòng xoáy
của lịch sử. Nhân vật Huệ đã tiếp thu chính cái điểm mà người thầy không
dám vượt khỏi. Huệ xem xét lại cái chân lý sách vở với thực tiễn cuộc sống
đầy biến động của thời đại. Tác giả đã sáng tạo một Nguyễn Huệ vụt lớn
dậy trong nhận thức từ bài giảng "tựa truyện du hiệp", xem xét lại trật tự xã
hội, tầm nhìn chiến lược về thời cuộc khác hẳn với thầy, ông giáo Hiến -
con người của sách vở là nạn nhân của lý thuyết sách vở. Cuộc đời là mặt
trái của sách vở. Mặt trái ấy, đã làm xuất hiện trong ông giáo khối mâu
thuẫn không giải thoát được. Trái lại, khi tiếp xúc với sách vở, Huệ cứ trăn
trở mãi cái triết luận trong tựa truyện"Du hiệp" "ăn trộm lưỡi câu thì chết
chém... Ăn trộm nước người thì phong hầu. Cửa nhà hầu nhân nghĩa thiếu
gì đâu". Nhận thức của Huệ về thế cuộc thật đơn giản mà cũng thật lớn lao:
làm nên nghiệp lớn như là "kẻ trộm lớn" - "trộm nước người". Thiếu là
thiếu nghiệp lớn để ban phát nhân nghĩa mà trở thành "kẻ trộm lớn" chứ
không thèm ăn trộm lưỡi câu. "Thèm ăn cá mà chỉ dám ăn trộm lưỡi câu thì
tội nghiệp". Thế sự hoá nhân vật Huệ, Nguyễn Mộng Giác đã đặt nhân vật
trong tư thế học trò, trang bị cho nhân vật cách nhìn xa để đi xa hơn trong
tư thế của một nhân vật lịch sử lừng danh. Nguyễn Mộng Giác đã lấp
những "điểm trắng" của lịch sử về nhân vật lịch sử một cách hợp lý. Điều
đáng ghi nhận là sự hợp lý của "điểm trắng" lại rất hợp với cội nguồn của
đạo lý dân tộc - sự hiếu học, tôn sư trọng đạo. Vị thế được thế sự hoá -
Nguyễn Huệ học trò cũng nhanh chóng dừng lại vừa để đảm bảo tính cần và
đủ trong việc thế sự hoá nhân vật vừa là bám chắc chủ điểm - Sông Côn
đang mùa lũ. Việc học hành khép lại vì "lũ" đã tràn bờ, sông dâng nước.
33
Mọi việc đều gián đoạn vì "lũ" sông Côn.
*
* *
Nhân vật Huệ còn được tác giả thế sự hoá bằng mối quan hệ với nhân
vật hoàn toàn "hư cấu" là An. Mối quan hệ này xét về nội dung của bộ
truyện có tác dụng trữ tình hoá chất lịch sử của thiên tiểu thuyết lịch sử, nên
nó đòi hỏi sự cẩn trọng của nhà tiểu thuyết. Mối quan hệ trên đặt nhân vật
lịch sử, Nguyễn Huệ trong một tư thế mong manh và chông chênh như đi
trong cái ranh giới giữa thế sự và lịch sử. Nguyễn Huệ trong đời sống với tư
cách là một con người và một Nguyễn Huệ tầm vóc vĩ nhân lịch sử. Nhân
vật An hư cấu hoàn toàn thuộc về tiểu thuyết, nhân vật An có tính cách, có
số phận riêng. Xây dựng mối quan hệ Huệ - An đến độ "cá nước duyên ưa"
sẽ đẩy nhân vật Huệ trở thành sản phẩm được lãng mạn hoá bằng cảm quan
của người viết. Nhân vật An có số phận riêng còn có nghĩa là có đời sống
thật như một con người thật ngoài cuộc đời. Không tỉnh táo tác giả sẽ sa
vào cuộc tình tay ba: Huệ - An - Lợi mang màu sắc hiện đại hoá. Hoặc là,
tác giả tô đậm mối tình tay ba Huệ - An - Lợi trăn đi, trở lại trong tác phẩm.
Giữa Huệ và An, tác giả đã có điểm dừng trong mối quan hệ đặc biệt này.
Đây chính là độ "tỉnh táo" của tác giả. Huệ - An có mối quan hệ lãng đãng
một tình yêu không quá đậm, không quá nhạt. Nó vừa phải vì tác giả tỉnh
táo nên có điểm dừng để mối quan hệ Huệ - An đẹp mãi trong cái ban sơ
của tình yêu như gió mùa thổi mãi, như cái cây khát nắng. Một tình yêu đi
suốt mù lũ sông Côn, đi suốt thiên tiểu thuyết vẫn câm lặng vì chính tác giả
chưa "cho phép" hai nhân vật này một lần thao thức đến "bổi hổi bồi hồi".
Hoặc là, lời yêu mà trai gái vẫn trao gửi cho nhau. Hoặc là những "việc
làm" mà chỉ tình yêu mới có. Hoặc là những cử chỉ bộc lộ tình yêu đậm đà
thắm thiết. Những cử chỉ âu yếm dành cho tình yêu chỉ thoảng qua, giây lát.
Bởi thế, mối quan hệ Huệ - An đã góp phần thế sự hoá nhân vật Huệ thành
34
công trong thiên tiểu thuyết. Nguyễn Mộng Giác đi giữa khoảng cách hẹp:
lịch sử và tiểu thuyết đã tạo ra nhân vật Huệ đi trong sự mong manh và
chông chênh của tình yêu "tiểu thuyết" và tư thế vĩ nhân của lịch sử.
Sau cái buổi gặp An ở nhà bếp, mối quan hệ Huệ - An thêm gần hai
cái tết tác giả mới dàn dựng một "cuộc" trò chuyện. Nhưng xem ra, Huệ -
An không gần gũi hơn mà trái lại như là điểm nhấn của sự ngăn cách - sự
ngăn cách "tỉnh táo" của tác giả, sự ngăn cách của lịch sử. Lần này cuộc trò
chuyện được thể hiện qua hồi ức của An như là sự đối chiếu giữa Lợi,
người con trai mà An có cảm tình với Huệ là người mà An ngưỡng mộ.
"Một lần Huệ bắt gặp An đang ngồi may áo, và hoàn cảnh lúc đó không cho
phép một trong hai người giả lơ tránh mặt nhau, vì làm như vậy là đi quá
giới hạn cần thiết". Cuộc trò chuyện xoay quanh việc may áo - kiểu áo: nửa
kinh, nửa núi và được kết thúc chẳng đi xa hơn được tý gì về tình cảm. Có
chăng chỉ là một ấn tượng không vui vẻ.
"- Tôi chịu thua không hiểu nổi An, không hiểu nổi đàn bà. Thôi bỏ
qua mọi chuyện đi. Cái áo này may xong chưa ? Phải nhận An may đẹp
thật" (lời của Huệ)
"- An buông gọn hai tiếng cộc lốc:
- Cám ơn !" (trang 128)
Thông minh, sắc sảo trong tiếp thu kiến thức sách vở bao nhiêu, Huệ
vụng về bấy nhiêu trong tiếp xúc với người con gái mà bản thân không ít
cảm tình. Cuộc trò chuyện kết thúc bằng hai tiếng cộc lốc " Cám ơn"! " như
một dấu chấm câu trong chuỗi quan hệ giữa Huệ và An mà nội dung câu là
con số không. Thậm chí, còn tồi tệ hơn, cuộc trò chuyện mở đầu đầy thiện
cảm: "Còn An thì sao" và kết thúc "không ngờ tôi lặt vặt nhỏ nhen chứ gì
?"(trang 128). Giọng xưng hô giận hờn của An làm cho mối quan hệ lần thứ
hai này có điểm dừng "tỉnh táo" của tác giả. Vì An là "Tài sản" của tác giả,
Huệ là "Tài sản" của lịch sử . Phần I của thiên truyện với tựa đề "Về An
35
Thái", "thế sự" mà tác giả nhào nặn là cái "về" của gia đình ông giáo Hiến,
phiêu bạt trốn chạy khỏi liên luỵ. Cái "về" của nhân vật Huệ với vị thế của
người học trò, của một chàng trai trong quan hệ với người con gái mà Huệ
có cảm tình. Đây là hai nhánh chính đồng hành trong việc thế sự hoá nhân
vật Huệ . Vị thế học trò của Huệ được đặt dấu chấm hết bởi "lũ" sông Côn.
Lớp học, với bẩy học trò thành lớp học một thày với một trò duy nhất là
Huệ . Dòng sông đời, lũ đã dâng nạn đói hoành hành. Ông giáo thường đi
canh lúa đêm, học trò Huệ thức canh lúa cùng thầy. Gia đình Huệ ở Kiên
Thành bị đốt. Kiên- con cả ông giáo Hiến bị bắt lính. Huệ lên Tây Sơn
thượng. Chính trong đêm Huệ rời An Thái, tác giả đã thêm một lần để Huệ
đối mặt với An. Huệ chủ động gặp An. "Huệ trở ra qua lối cửa sau nhà bếp,
gặp An đang đứng ở đấy. Anh dừng lại. Bóng tối che giùm không cho hai
người trông thấy vẻ bối rối của nhau. An run run nói:
- Anh nhớ quấn khăn cổ . Không lại cảm.
Huệ cảm động, cả đời chưa được một người con gái nào ân cần dặn
dò như vậy nên cảm thấy hãnh diện, ngây ngất. Anh muốn nói với An một
câu gì thật âu yếm, thật đơn sơ mà chân thành như câu An vừa thốt ra.
Nhưng trong cơn lúng túng, tìm mãi không ra lời. Huệ cố dằn xúc động nói:
- Cảm ơn An
Huệ ngước lên nhìn An, thấy tất cả vẻ đẹp quyến rũ của một nụ cười
e ấp. Không tự chủ được mình, Huệ tiến tới định nắm lấy bàn tay An. An
rụt tay về, giọng hơi hốt hoảng:
Đừng , anh Huệ ! (cuối trang 173 dầu 174)
Nếu như An không rụt tay về thì quan hệ Huệ - An sẽ thế nào? Cái
rụt tay của An cũng chính là cái "lạnh lùng"của tác giả, là cái duyên cớ hấp
dẫn của tác phẩm. Người đọc sẽ bị hút theo mối quan hệ Huệ - An tiếp diễn
thế nào ở phần tiếp theo vì Huệ là nhân vật lịch sử?
Phần I của thiên truyện "Về An Thái" song kết thúc lại là đi khỏi An
36
Thái. "Mười ngày sau, Huệ vâng lời anh trở lại An Thái đưa gia đình thầy
trốn lên Tây Sơn thượng. Triều đình đã phát động một cuộc khủng bố, đàn
áp quy mô, tái lập trật tự, thu vét số thiếu thuế, kiểm soát đám dân xiêu bạt,
sống ngoài vòng pháp luật. Ông giáo sắp trở thành nạn nhân của cuộc
khủng bố thị uy ấy". (trang 174). Phần I là phần của "tiểu thuyết", của "thế
sự" có thể xem là sự thành công ngay từ cái đáng lẽ "vạn sự khởi đầu nan".
Phần này đã tạo ra được những cung bậc ngọt ngào làm nên chất tình ca toát
ra từ tình thày trò, từ tình cảm ban sơ của tình yêu giữa An - Lợi, hai nhân
vật của tiểu thuyết (sẽ đề cập sau) và Huệ - An: một nhân vật lịch sử, một
nhân vật tiểu thuyết. Tác giả đã gắn nối thành công hai mảng lịch sử và tiểu
thuyết trong tiểu thuyết lịch sử. Hai yếu tố này hoà quyện nhuần nhuyễn thể
hiện sự thành công, đồng thời cũng là sự cứng cáp của tác giả trong công
việc cầm bút.
ở phần I "về An Thái", nhân vật Huệ được thế sự hoá trong vị thế -
học trò, em út; trong vị thế một tình yêu chớm nở. Vị thế học trò đã chấm
dứt ở An Thái. Huệ đã thành niên, lớp học đã đóng cửa, vĩnh viễn khép lại
trong năm mất mùa, nạn đói hoành hành - Sông Côn dâng "nước lũ". Đến
phần II "Tây Sơn thượng", nhân vật Huệ được thế sự hoá ở những vị thế
khác: Huệ trong không khí chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa, trong quan hệ:
đàm đạo đại sự với thầy, trong quan hệ tình cảm với An. ở phần II này, tính
hư cấu của thiên truyện như là sự chảy tràn cảm hứng của tác giả từ phần I.
Trong những vị thế mới của Huệ, tác giả đã bắt đầu nhen lên không khí sử
thi của thiên truyện: khúc dạo đầu của bản anh hùng ca chiến trận đã cất lên
cùng với những giai điệu âm hưởng tình ca trong quan hệ Huệ - An tiếp tục
nảy nở trong sự "lạnh lùng" của lịch sử. Phần này, tác giả dường như chưa
bị chất lịch sử ước thúc cho nên dù là phần ngắn nhất của thiên truyện - chỉ
gồm 5 chương (từ chương 13 đến chương 17 - từ trang 177 - trang 262),
song góp phần quan trọng chuyển dịch nội dung truyện vào vòng xoáy
37
chính của "lũ" sông Côn. Trong vị thế một thành viên đầu não của cuộc
khởi nghĩa, Nguyễn Huệ đã được thế sự hoá trong một cuộc bàn thảo về dấy
nghiệp lớn. Tầm nhìn chiến lược, sắc sảo của Huệ được tác giả thể hiện qua
lời bàn về việc xây thành. Nguyễn Nhạc muốn xây thành để "tượng trưng
cho quyền uy vạn năng" thì Nguyễn Huệ cho rằng cái thành ấy chỉ "được
xây trên khói núi". Huệ nói bằng lời lẽ sắc bén và tầm nhìn chiến lược, đầy
thuyết phục " xây xong một thành nhỏ hơn thành Qui Nhơn một chút thì
phải mất bao nhiêu năm? Vả lại có cần phải xây thành không đã ? Để tạo
quyền uy ư?... thành quách lâu đài cao rộng như thành Phú Xuân có tạo
được chút uy nghi nào không, ngoài những lời xầm xì về trò dâm dật của
thằng bé con 12 tuổi ( Duệ Tôn ) và chứng tham lam của tên quốc phó. Để
phòng ngự ư? Quanh đây là núi, có thành nào cao cho bằng? Đèo An Khê
hiểm yếu có cửa thành nào vững cho bằng? Không xây thành vì Trời đã xây
sẵn cho ta cả toà thành hùng vĩ bảo vệ ôm ấp Tây Sơn thượng rồi " (trang
189). Nhận thức của Huệ đã đi xa, vượt khỏi tầm nhìn của dân núi, của một
cậu học trò ngày nào. Tác giả thế sự hoá Nguyễn Huệ ở phần II này như
một con người hoàn chỉnh từ nhận thức có tầm chiến lược đến những việc
làm có tầm chỉ huy, lãnh tụ. Nhân vật Huệ, qua tâm trí của ông giáo Hiến:
"ông là kẻ trốn nạn, anh em Huệ là người bao che. Hơn nữa, chính tại Tây
Sơn thượng,ông thấy Huệ giúp anh đảm nhiệm các công việc quản trị, điều
khiển, quyết định nhiều vấn đề trực tiếp thay đổi đời sống của nhiều người,
trong đó có gia đình ông"( trang 190). Dường như, tác giả chưa thấy thoả
đáng khi với dụng ý "xây dựng" Nguyễn Huệ ở tầm nhìn chiến lược, ở tầm
quản lý vĩ mô. Nguyễn Huệ còn được thể hiện ở góc độ của con người có
tầm tư tưởng lớn. Tác giả dàn dựng cuộc trao đổi giữa Nguyễn Huệ và ông
giáo Hiến, lúc này đã trở thành vị "quân sư " chưa chính thức của anh em
Nhạc, Lữ, Huệ. Bàn về lẽ hưng phế, ông giáo Hiến có cái nhìn cố cựu về
chúa Nguyễn - tám đời chúa như tám cái cột vững chắc, ví chế độ chúa
38
Nguyễn như ngôi nhà chỉ dột, chỉ hỏng rui mè; cái nền Nho vững chắc. Trái
lại, Nguyễn Huệ lại cho rằng "Người dân dốt nát không đọc được kinh
truyện, lại là kinh truyện khó hiểu từ bên Tàu đem sang, nên suốt đời nem
nép lo sợ. Đến một lúc nào đó, tình thế đẩy họ vào đường cùng, họ không
sợ hãi nữa mà hoá liều thì tám cây cột kia sẽ thế nào ? Người còn có một
mái nhà để về thì còn băn khoăn suy tính nên dọi mái hay thay kèo. Nhưng
đối với hạng cố cùng xiêu giạt nay đầu đường, mai xó chợ, bữa no, bữa đói,
chết còn sướng hơn sống thì những điều từ nãy đến giờ con với thầy nói với
nhau phỏng có ích gì ! Hỏi họ, họ sẽ đồng thanh đòi phá hết, làm lại hết"
(trang 224). Kết thúc buổi đàm đạo, Huệ chuyển lời Nhạc tới ông giáo, nhờ
ông giáo viết hịch "chỉ cần ngăn ngắn thôi", song sự sắc sảo của Huệ thêm
một lần được thể hiện " con nghĩ... con nghĩ ta nên viết bằng chữ Nôm. Đa
số dân chúng không đọc được chữ Hán, họ không hiểu " (trang 205). Nhân
vật có tầm vóc lịch sử - Nguyễn Huệ một lần nữa được đặt trong quan hệ
với An. Mối quan hệ được tác giả dàn dựng ở Tây Sơn thượng đi xa hơn
một bước nữa, nhưng chỉ dừng ở mức độ mơ hồ. Cuối cuộc đàm thế sự với
thầy, Huệ gặp An. Suốt chiều dài cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa Huệ và An dài
cả hai trang sách, tác giả để kết thúc bằng điểm dừng mơ hồ về tình yêu. An
gọi Huệ là anh, xưng em ngọt ngào nhưng nấc thang tình cảm dường như
vẩn vơ. "Em nói thật. Em không có tài ăn nói rành rọt, có đủ đầu đuôi như
anh. Nhiều hôm cha em bực, gắt lên "ăn nói chẳng ra đâu vào đâu cả!". Nói
chuyện với em chỉ rước cái bực mình vào thân mà thôi "(trang 227). Những
lời nói vẩn vơ chẳng có chủ ý của lời tình yêu nhưng Huệ đến với An và
cuộc trò chuyện làm cho không khí căng thẳng trong những ngày tị nạn của
những người " đồng cảnh " lại đang chuẩn bị mưu sự việc lớn chùng xuống.
Cuộc trò chuyện ví như nét hoa văn trên bức hoạ toàn cảnh cuộc sống tỵ
nạn vùng Tây Sơn thượng. Sau những lần tập kích như là sự tập dượt của sự
nghiệp dấy binh, một lần nữa, Huệ được thế sự hoá trong ý tưởng sắp được
39
về quê. Cái không khí, Huệ và Lãng (em An) cười đùa ồn ào về những câu
pha trò của nghĩa quân thật ấm áp, gần gũi. Huệ - Lãng hai người trẻ tuổi
vừa đi qua trận chiến, vui, tếu khó mà hình dung nổi đây là hai nghĩa binh
vừa trở về từ cái cảnh giành giật sự sống trong giao tranh ác liệt. Huệ -
Lãng là hai con người bình thuờng, trong mối quan hệ với những người về
tuổi tác có thể coi là cùng trang lứa. Một Nguyễn Huệ thật hiền, thật nhộn.
Đây cũng chính là một nét thành công trong thế sự hoá nhân vật Huệ. Tâm
trạng nhân vật Huệ rộn rã ý tưởng về quê. Những kỉ niệm về An Thái, tác
giả không đi quá xa hư cấu nhân vật lịch sử mà trái lại làm sống động nhân
vật lịch sử. Những tình cảm một thời của con người anh hùng kiệt xuất -
thời vị thành niên - thời để nhớ đã trở thành hoài niệm, tác giả đã sinh động
hoá nhân vật lịch sử - Nguyễn Huệ rất đời thường. Khái niệm quê hương,
khái niệm nguồn cội, tác giả thể hiện qua giọng nói của Huệ trước An "
Nhưng đâu mới là quê hương ta? Như gia đình tôi chẳng hạn. Nếu căn cứ
vào nguồn gốc tổ tiên, thì quê hương chúng tôi tận Hưng Nguyên ngoài
Nghệ. Gần hơn, nếu kể đến đời ông nội thì quê hương là đây... Đến đời cha
tôi, dời nhà xuống Kiên Thành thì quê hương là Kiên Thành. Cho nên quê
hương là chỗ để về, nơi có một mái nhà, có những người thân yêu, có
những kỉ niệm đẹp nhất của một đời. Nơi một hòn sỏi, một gốc cây cũng đủ
khiến người ta bồi hồi xúc động" (trang272). Từ khái niệm quê hương, Huệ
- An cùng có kỉ niệm về một thời đã qua, về cái cây gạo " thơm tho " mùa
hoa rụng, về cái miếu giữa đồng trống, những mùa gặt, chuyện vui buồn có
sức gia tăng sống động hoá nhân vật lịch sử. Quê hương, hai tiếng ngân nga
trong lòng An" An cảm động quá, bao nhiêu kỷ niệm dồn dập hiện về, cô
rơm rớm nước mắt, nhớ lại những vui buồn đã qua " (trang 272); trỗi dậy
trong lòng Huệ khiến :
" Giọng Huệ mừng rỡ :
40
Thế thì An Thái là quê hương của An đó! " (trang 272).
Tác giả đã thế sự hoá nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ trong mối quan
hệ với nhân vật hư cấu là An có cái đồng cảnh tị nạn, Có cái đồng giao về
một thời để nhớ. Tác giả đã trữ tình hoá tâm hồn nhân vật lịch sử làm vang
ngân chất tình ca của thiên tiểu thuyết lịch sử - làm nên sự đầy đủ của chất
sử thi: anh hùng ca chiến trận và tình ca: tình cảm quê hương, một tình yêu
ban sơ chập chờn giữa Huệ - An. Chính chất tình ca hư tưởng đã góp phần
dịu đi cái chất lịch sử mà loại hình tiểu thuyết lịch sử bị ràng buộc. Chất
tình ca làm sống động nhân vật lịch sử, tăng sức truyền cảm cho chất sử thi
của pho truyện. Nó loại bỏ cái tình thế sách lịch sử để tạo nên chất điệu văn,
chất điệu tâm hồn tác giả. Có lẽ đây không chỉ là sự thành công riêng của
"Sông Côn mùa lũ" mà còn là yếu tố làm nên thành công của loại thể tiểu
thuyết lịch sử .
Suốt chiều dài hai phần của thiên truyện : " Về An Thái " và " Tây
Sơn thượng " , tác giả đã thế sự hoá nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ. Công
việc này, tác giả giúp chúng ta thấy được một Nguyễn Huệ rất đời thường:
một Nguyễn Huệ em út, một Nguyễn Huệ học trò, một Nguyễn Huệ trong
tình cảm của chàng trai vị thành niên đến một Nguyễn Huệ bước đầu dấn
thân vào lịch sử. Nốt nhạc dạo đầu của bản anh hùng ca chiến trận cũng bắt
đầu vang lên. Huệ đảm trách một mũi hạ sơn và lập được chiến công. Đến
phần III của thiên truyện "Hồi Hương ", nhân vật Huệ tiếp tục được thế sự
hoá trong mối quan hệ với thầy dạy cũ và An, (con gái thầy). Đồng thời,
nhân vật Huệ thế sự, tác giả đã "tâm trạng hoá" một cách sinh động. Tác giả
thể hiện những sự kiện lịch sử gắn với nhân vật lịch sử gắn với việc trung
thành với các sử gia, song thông qua các sự kiến ấy, Nguyễn Huệ được khắc
hoạ một " thế giới " nội tâm - một thế giới mà sử gia không hề ghi trong
lịch sử dù chi tiết hoá đến mấy. ở phần III, Ngyễn Huệ vừa là con người thế
sự trong mối quan hệ đời thường thầy trò, quan hệ với An, đồng thời trong
41
mối quan hệ với sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử. Có thể nói, ở phần III,
Nguyễn Huệ đã được đa chiều hoá mối quan hệ. Nguyễn Huệ vừa là con
người của tiểu thuyết vừa là con người của lịch sử. Tác giả thế sự hoá nhân
vật mà không làm mất đi tính lịch sử của nhân vật và tính lịch sử của thiên
truyện. Điều này thể hiện, tác giả trung thành với hai tiếng " lịch sử ", thể
hiện một tấm lòng ngưỡng mộ với nhân vật lịch sử và một thái độ: lịch sử là
lịch sử chứ không phải là "... một cái đinh để tôi treo các bức hoạ của tôi
thôi" (Alexandre Dumas ). Như vậy, tác giả đã làm tăng giá trị hiện thực
của thiên truyện. Hồi hương, hai tiếng mang những ý nghĩa khác nhau cho
mỗi tâm trạng khi phải ly hương. Với Nguyễn Huệ, nhân vật lịch sử, tác giả
thế sự hoá bằng hai tiếng ấy và được thi vị hoá từ tình cảm giữa Huệ - An.
Huệ không chỉ dừng ở Kiên Thành, nơi đã hiện hữu gia đình Huệ tới hai
đời. Huệ tiến quân xuống tận An Thái, bất chấp lệnh của Nhạc - lệnh của
người chỉ huy cao nhất. Huệ đã thể hiện hành động của một anh hùng làm
vừa lòng người đẹp là An. Huệ không hứa hẹn nhưng có lẽ vì lời nói hôm
nào với An trong một tâm trạng :
" Giọng Huệ mừng rỡ:
Thế thì An Thái là quê hương của An đó "( trang 272 ). Nguyễn
Mộng Giác thế sự hoá nhân vật lịch sử đến một chi tiết " nhỏ nhặt", tế nhị
làm hiện hữu một Nguyễn Huệ đời thường, sống động. ít nhất, tác giả đã tạo
thêm sự hấp dẫn của tác phẩm. Cùng với sự hồi hương, Huệ có một trạng
thái tình cảm đặc biệt được thể hiện qua độc thoại nội tâm: "Kiên Thành
quê hương hay An Thái. Thế thì cái gì đã thúc đẩy ta trước? Chái nhà học ?
Ngôi nhà quay mặt về hướng tây, mái thấp loà xoà trên hai khuôn cửa sổ có
tấm phên chống nửa vời, dưới nắng chiều trông thật giống với một khuôn
mặt ngái ngủ? Cây gạo "thơm tho" ở bến sông? Cái miếu cô độc ở giữa
đồng trống? ánh đuốc canh lúa lập loè? cái bếp thấp, nơi một người con gái
mắt sáng, cổ cao và trắng, mặc chiếc áo có vết rách ở cùi chỏ? Bao nhiêu
42
công phu cho một cuộc chuyển quân nguy hiểm chỉ vì bao nhiêu hình ảnh
mờ nhạt tầm thường ấy sao ? Thực sự ta đã nghĩ gì ? ta muốn gì ?" (trang
296).
Tâm trạng của nhân vật Huệ, tác giả còn thể hiện liền mạch bằng
hình ảnh giàu chất thơ. "Huệ đứng bên cửa số nhìn những giọt lá me vàng
rơi đều, rơi đều, lòng bập bềnh bồi hồi. Buổi sáng qua mau trong cảm giác
bảng lảng đó của tâm hồn Huệ" (trang 296). Nguyễn Mộng Giác dàn dựng
nội tâm của nhân vật Huệ đến độ "thực sự ta đã nghĩ gì ? Ta muốn gì ?",
đến độ "Lòng bập bềnh bồi hồi", đến độ "cảm giác bảng lảng" tạo nên một
nội tâm chứa đầy chất thơ, giọng văn giàu chất trữ tình. Một nhân vật Huệ
giàu chất tiểu thuyết. Phải chăng vì "tỉnh táo" trước hai tiếng lịch sử, tác giả
đã để mối quan hệ tình cảm Huệ - An, dù đã hai lòng cùng ưa mà không nói
nên lời. Để nó dừng mãi ở mối tình câm từ hai phía. Để nó đẹp mãi là mối
tình đầu không lời. Nhân vật Huệ dường như ép xác trước tình yêu và muốn
người mình yêu phải có thêm những vẻ đẹp thơ mộng, vượt lên những gì
thuộc đời thường trước lũ dòng đời đã dâng. Huệ tặng An tập thơ Đỗ Phủ
có lẽ cũng khởi phát từ ý tưởng này. Tác giả đã thế sự hoá bằng đối thoại
Huệ - An ở Quy Nhơn, sau những tháng ngày chiến trận. Dòng tâm sự giữa
hai nhân vật là sự đan xen có dụng ý làm nên sự đồng hành của chất lịch sử
và chất tiểu thuyết, của chất anh hùng ca và chất tình ca trong chất sử thi
đầy đủ. Tình cảm giữa Huệ và An không đi xa hơn được. Hai người ghép
riêng cho mình chữ yêu thầm kín, càng muốn thổ lộ, thì trớ trêu lại càng
như đẩy đi xa hơn cái khoảng cách giữa hai người. Tác giả xây dựng một
Huệ rung động trước một vẻ đẹp thế sự nhưng không dám bứt khỏi lịch sử
để Huệ - An trở thành đôi lứa. Huệ khi thì như chú xã quê mùa trước tình
yêu, khi thì tỉnh tảo lẩn tránh những câu nói ý nhị của An. Nhân vật Huệ
thật tội nghiệp trong tư cách là một người tình. Bởi sự "tỉnh táo" của tác giả
trước hai tiếng lịch sử, trước tôn chỉ mục đích viết tiểu thuyết lịch sử -"Thế
43
sự là da thịt của tiểu thuyết lịch sử cũng như lịch sử là xương cốt của tiểu
thuyết lịch sử" (lời tác giả cuối sách). Nhân vật Huệ tội nghiệp trong tình
yêu vì tác giả không dám "hiếp dâm lịch sử" không coi lịch sử "là cái đinh"
như Alexandre Dumas. Trong cái lần gặp nhau như là lần cuối giữa Huệ và
An, tác giả đã buộc phải đẩy hai nhân vật xa nhau bằng sự tỉnh táo lịch sử:
- "à quên, em cảm ơn anh. Quyển sách đẹp lắm. Anh biết không, Thọ
Hương hỏi em nếu đói thì đổi được mấy bát gạo.
Huệ hỏi hơi xẵng:
- Rồi cô trả lời sao ?
An cười đáp:
- Em bảo chẳng được bát nào cả .
- An nói đúng. Quý giá gì đâu. Gửi An làm kỷ niệm cho vui thôi.
- Không phải thế. Em quý nó lắm chứ. Em đọc mà cứ sợ bụi bám
vào, giở hé rồi cất đi. Anh sao thế ?" (trang 450-451). Cuộc trò chuyện xem
như là lần cuối này giữa Huệ và An, tác giả dường như đã đặt tâm trạng
Huệ vào cái ghen của một thói thường, dù mờ và nhạt "trong khi lòng đau
nhói vì nhớ chuyện người ta kháo nhau rằng, lâu nay Lợi lấy của kho mang
tới cho An không thiếu thứ gì, từ đồ sứ Tàu đến hạt tiêu, cây tăm. Huệ đã
nghe chị dâu nói mãi, nói mãi về chuyện đó. Có đúng thế không ? Tại sao
nàng nhận của hắn ? của hắn ? có phải của hắn đâu ? Hắn lấy của làng làm
ơn cho xã, nàng không biết sao ?". (trang 450).
An là điểm trở về của Huệ, sau mỗi lần trận mạc. An là hậu phương
là khung trời xanh làm cho cuộc đời trận mạc của Huệ chùng xuống. Song
như trên đã đề cập, tác giả không dám vượt rào lịch sử. Huệ không thể đi xa
hơn trong quan hệ tình cảm với An để có một tình yêu. Tình cảm Huệ - An
đẹp như một tình yêu lý tưởng, một tình yêu cao thượng. Huệ không làm
theo lẽ thường khi tình yêu được đặt dấu chấm hết khi người yêu đi lấy
chồng là trả thù hoặc xót xa đau khổ tột cùng. Nhất là tình yêu ấy như nụ
44
hoa đang từ từ hé nở. Có chăng Huệ chỉ dằn vặt mình: tại sao An lại lấy Lợi
? Mà trong con mắt của Huệ, Lợi tầm thường, không xứng với An. Trở về
đột ngột, Huệ hay tin An sắp cưới, lễ cưới như là sự nhân thể, là một phần
của buổi lễ nhận ấn kiếm. Không thể nào khác được nữa, Huệ để cho nỗi
đau lặn vào trong. Huệ nói lảng sang chuyện khác khi nghe chính xác ngày
lên xe hoa của An". Gớm, đường bụi quá đi mất. Cháu bảo tụi nó đi múc
cho chú thau nước rửa mặt. Lấy thêm cho chú cái khăn nữa nhé !" (trang
517). Nỗi đau nén lại bằng lý trí, Huệ như hoá đá qua tin An đi lấy chồng.
"Huệ ngồi y chỗ cũ, mặt gục vào hai đầu gối như một pho tượng lính thú
nhớ nhà" (trang 517). Nhân vật Huệ trong tư cách là một con người của
cuộc đời thường là sự thành công của tác giả, là sự hấp dẫn của bộ truyện.
Cho chết yểu một tình yêu, tác giả như đã dằn lòng mình cùng nhân vật
Huệ. Trước khi đi trận mạc vào tận Gia định, Huệ chủ động đến thăm thầy,
thăm An. Ông giáo Hiến bị vòng xoáy của lũ sông Côn loại dần. Để rồi lịch
sử, dòng lũ sông Côn xếp ông vào sọt rác của lịch sử (sẽ nói ở phần sau).
Huệ vẫn ân cần, ngoan ngoãn như một cậu học trò: ân cần hỏi thăm thầy, lễ
phép bưng nước mời thầy, ân hận khi chén nước làm ướt phản từ tay thầy,
bố trí người xem bệnh bốc thuốc. Huệ trong đời thường là con người tôn sư
trọng đạo và ân nghĩa. Gặp lại An trong tình cảnh con An đang ghẻ lở đầy
mình, Huệ cảm thông, an ủi, động viên và giữ đúng chừng mực coi An như
"người bạn gái". Huệ với tư cách con người của cuộc đời thường với thầy,
với tình yêu được tác giả "hoàn toàn hư cấu". Huệ rất đời thường mà không
thường chút nào. Huệ không những là vĩ nhân của lịch sử mà còn là hiện
thân của đạo nghĩa thầy trò cao đẹp, một tình yêu cao thượng. Dường như,
tác giả muốn thông qua một Huệ đời thường để gửi một thông điệp gần như
đi suốt thời gian, không gian là: con người làm nên nghiệp lớn trước hết là
con người bình thường, có khác chăng chính là ở chỗ họ là những chuẩn
mực trong mối quan hệ: đạo nghĩa và tình yêu. Điều này làm cho tác phẩm
45
có sức sống động hoá nhân vật lịch sử mà vẫn rất lịch sử. Đau đớn cùng
nhân vật khi chính tự tay bút phải đặt dấu chấm hết cho tình yêu Huệ - An,
tác giả được cái lớn khác là đi giữa hai luồng: Lịch sử và thế sự trong tiểu
thuyết lịch sử mà không bị chao đảo. Một mối tình dường như tay ba Huệ -
An - Lợi được đặt dấu chấm hết trong tiệc cưới (chương 35 phần III),
chuyển hẳn sang một "tình bạn", một tình cảm giữa những người có một
thời để nhớ. Cũng vì những lẽ trên mà ngày ông giáo Hiến ra đi, ông ra đi
trong sự thất sủng, già nua và bệnh tật. Huệ đến, khi thầy vừa trút hơi thở
tàn cuối cùng "với đồ trận mạc còn lấm bụi, có lẽ vừa ở xa về" (trang 730).
Trước linh sàng thầy, Huệ không còn là một phụ chính "bách chiến, bách
thắng", Huệ là một học trò ân nghĩa, cao hơn như là một người con có hiếu.
Tình thầy trò thông qua tâm trạng Huệ, gây xúc động không nhỏ cho người
đọc. "Huệ tiến thẳng đến phía thầy nằm. Ông xúc động đến nghẹn ngào
trước thân thể ốm o biến dạng, đến nỗi khó mà nhận ra ông thầy thân yêu,
quắc thước ngày xưa. Đứng lặng một lúc lâu, đột nhiên ông quỳ xuống bên
gường thầy, hai tay nắm lấy hai bàn tay lạnh cóng của ông giáo. Tuy đôi
mắt người chết đã khép, nhưng ông có cảm giác phía sau cánh cửa huyền bí
vĩnh viễn đóng ập với sự sống ấy, thầy ông vẫn nhìn ông với đôi mắt nửa
trìu mến, nửa trách móc. Không tự chủ được ông gục mặt xuống giường
người chết, nghẹn lời chỉ thốt được mỗi một tiếng:
Thầy ! (trang 730-731)
Những cử chỉ của Huệ là những dấu chấm than (!), dấu chấm lửng
(...), với một người thầy từ buổi lễ khai tâm năm xưa, một vị quân sư, một
vị "thái sư" không chính thức vừa mới hôm qua của chính Huệ, nay ra đi
trong thất sủng, già nua, ốm đau. Ra đi trong sự né tránh của bạn bè thân
hữu của cả bản thân và quyến thuộc. Lịch sử hay chính là vòng xoáy của
mùa lũ sông Côn đã xô đẩy ông giáo Hiến, hay chính là sự hiện diện của cái
mớ lý thuyết trung quân cố hữu đã bị đẩy dạt sang lề, ra ngoài con đường
46
lịch sử đang vươn lên phía trước. Nỗi lòng Huệ đau đớn đến khó diễn tả,
hay chính là nỗi đau khi phải lìa xa một cái gì dù đã không còn hợp thời
nhưng đã gắn bó đến sâu nặng. Phải chăng, đây cũng chính là mảnh lòng
của Nguyễn Mộng Giác trong những năm tháng nhiều biến động sau tháng
4/1975.
Phần III Hồi hương - trở về quê, "... quê hương là chỗ để về, nơi có
một mái nhà, có những người thân yêu, có những kỷ niệm đẹp nhất của một
đời. Nơi một hòn sỏi, một gốc cây cũng đủ khiến ta bồi hồi xúc động" (lời
nhân vật Huệ trang 272). Hồi hương mà hoá ra là ly hương vì Huệ, An đang
ở Bằng Châu chứ đâu phải là Kiên Thành hay An Thái. Dòng "Sông Côn
mùa lũ" được chuyển thành dòng sông đời - lũ đã tràn bờ, dòng xoáy của nó
là dòng xoáy của lịch sử, của sự chuyển mình của một kỷ nguyên mới, cuốn
theo dòng chảy tất cả những cuộc đời, những số phận. Có những cuộc đời,
những số phận thuộc công việc của sử gia. Có những cuộc đời, những số
phận thuộc công việc của tiểu thuyết gia. Phần III, hồi hương cũng là phần
khép lại những trang sách mà chất "hư cấu", chất tiểu thuyết tràn trề nhất.
Tác giá khép lại chất tình ca tình yêu Huệ - An trong trường khúc sử thi của
cả cuốn truyện. Nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ là trung tâm, là đỉnh cao của
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đồng thời cũng là nhân vật tác giả dày công nhào
nặn trong việc thế sự hoá nhân vật lịch sử này. Một Nguyễn Huệ đời thường
ân nghĩa, đạo lý, thuỷ chung mà vẫn rất lịch sử. Nguyễn Mộng Giác đã trữ
tình hoá nhân vật Hụê thành công mà cũng là thành công cho cả thiên
truyện. Việc "lấp điểm trắng" nhân vật Nhạc và Lữ, Nguyễn Mộng Giác đã
thành công không nhỏ song không vượt quá khuôn khổ làm sống động, chi
tiết hoá nhân vật mà sử sách đã hoàn tất một cách thiếu hụt. Nhạc, Lữ mờ
trong sử sách hơn Huệ đồng thời cũng mờ ngay cả trong thiên truyện bên
cạnh nhân vật Huệ. Trong phạm vi bài viết, nhân vật Nhạc, Lữ mờ trong thế
47
sự hoá, tiểu thuyết hoá, chúng tôi không đề cập nhiều vì những lẽ trên.
Nguyễn Nhạc là người khởi nghiệp của phong trào khởi nghĩa Tây
Sơn. Có thể khẳng định, không có Nguyễn Nhạc thì không có phong trào
Tây Sơn. Song tên tuổi của Nguyễn Nhạc bị lu mờ trong lịch sử trước người
em quá xuất sắc là Nguyễn Huệ, đồng thời cũng là những hạn chế của chính
con người này. Viết "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác có chủ ý "Về
các nhân vật lịch sử, tôi tôn trọng những gì lịch sử đã ghi về họ, không cố ý
" tái dựng họ..." (thay lời cuối sách). Sự tôn trọng lịch sử khi viết về nhân
vật Nguyễn Nhạc là một việc khó. Vì sử sách và cả trên thực tế Nguyễn
Nhạc lu mờ và hình như bị coi là một người có tội với lịch sử với dân tộc.
Suốt từ Bắc đến Nam không một tên phố, tên đường mang tên con người
lịch sử này. Mặt khác, khi giành được vương quyền, dòng họ Nguyễn Gia
Miêu đã trả thù nhà Nguyễn Tây Sơn khốc liệt nhất trong lịch sử, mà
Nguyễn Nhạc là tâm điểm của sự trả thù đó. Với độ tỉnh táo, khi "lấp những
điểm trắng" cho nhân vật lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đã tái hiện nhân vật
Nguyễn Nhạc ở chừng mực có thể và cần thiết, làm chủ ngòi bút để không
rơi vào tuỳ hứng, không làm lệch lạc nhân vật lịch sử và mục đích viết.
Như trên đã trình bày, phạm vi của bài viết, đồng thời cũng là sự "lu
mờ" trong tác phẩm của nhân vật Nguyễn Nhạc về phương diện hư cấu và
lịch sử trước nhân vật Nguyễn Huệ. Vì thế nhân vật Nguyễn Nhạc, chúng
tôi bàn đến như là chừng mực có thể và cần thiết. ở góc độ thế sự, Nguyễn
Mộng Giác đã hư cấu một số tình tiết về nhân vật Nguyễn Nhạc. Có lẽ với
mục đích "Tôi "xét lại" nhiều hơn khi viết về Nguyễn Nhạc. Người ta vẫn
thường xem Nguyễn Nhạc như một người gian hùng nhiều hơn anh hùng"
(lời cuối sách). Trong tác phẩm, Nguyễn Nhạc được khắc hoạ, hư cấu
dường như chỉ chú trọng đến "như một người gian hùng. Nguyễn Nhạc với
dáng vẻ bề được mô tả ngoài dường như là cái thần thái của thuật nhân
tướng học "Lợi dẫn đến nhà ông Giáo một người đàn ông chạc khoảng trên
48
ba mươi tuổi, thân hình ốm, da mặt hơi tái. Ông giáo chú ý ngay đến đôi
mắt của người lạ. Dưới cặp lông mày thưa, đôi mắt xếch quá mức bình
thường khiến ánh nhìn đầy vẻ nghi kỵ, giễu cợt và khinh bạc" (trang 87).
Ngay từ lần đầu gặp gỡ, ông giáo Hiến đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác
về Nguyễn Nhạc. Qua Lợi, ông hình dung Nhạc với diện mạo "do cái nghề
xông pha nguy hiểm từ đầu nguồn đến cuối sông, do trách vụ phức tạp khó
nhọc của một chức sắc thu thuế, khổ người phải đẫy đà, nước da rám nắng,
cử chỉ nghiêm túc, đĩnh đạc" (trang 88). Thì Nguyễn Nhạc lại là "một thanh
niên mặt trắng" (trang 88). Rồi đến cách ăn nói gãy gọn, rành rẽ "phải có
một cá tính mạnh mẽ chủ động mới có thể tự mình mạnh bạo nói về mình
và đặt người khác trước một sự đã rồi" (trang 88). Phải chăng đây là chủ ý
của tác giả xây dựng một Nguyễn Nhạc có cái vẻ bề ngoài - một Nguyễn
Nhạc mà người ta vẫn xem là con người gian hùng. Có lẽ vì thế mà sau một
thời gian ngắn, ông giáo Hiến đã chứng kiến việc làm của Nhạc đúng như
lời "người ta" hay chính là dụng ý của tác giả. Để tránh bất đồng Kinh -
Thượng, một người vô kỷ luật, tranh nguồn lợi buôn muối với người
Thượng bị chém trọng thương, gia cảnh còn mẹ già yếu, Nguyễn Nhạc đã
dựng tin và dựng luôn cả thuật phao tin; biến con người đáng thương kia
thành một con người hoàn toàn khác qua giọng nói của một bé trai khoảng
lên mười tuổi: "- Cướp. Bắt được nó rồi. Tên này hung dữ dễ sợ. Đã bị trói
ké bằng dây mây cỡ này, nó vung một cái đứt hết" (trang 191). Việc làm
này của Nguyễn Nhạc quả là có thua kém nhân vật Tào Tháo trong "Tam
quốc diễn nghĩa" - giết cả nhà Lã Bá Sa với phương châm "thà ta phụ người
chứ không để người phụ ta" - phương châm xử thế của gian hùng. Con
người vô kỷ luật đáng thương, thoắt trở thành vật hy sinh cho mưu đồ chính
trị - củng cố mối quan hệ giữa Kinh với Thượng. Khi đã nắm trong tay
vương quyền, Nguyễn Nhạc dường như phát huy cao độ cái chất gian hùng.
Ông giáo Hiến cố cựu, khơi nguồn lũ sông Côn cùng với Nhạc bằng lòng
49
nhân, Nguyễn Nhạc loại ra khỏi cuộc chơi chính trường đơn giản, không
bận tâm. Nguyễn Nhạc cho người đến tận nhà ông giáo, bóng gió, bắn tin
như việc làm của luật giang hồ, luật rừng. Kế đó, Nguyễn Nhạc loại ông
giáo bằng một hộp "nhân sâm quý của Tàu" vì "áy náy" trước "sức khoẻ của
thầy" không được tốt. Ông giáo Hiến bị loại khỏi chính trường, Nguyễn
Nhạc che đậy bằng một việc làm dễ mờ mắt thiên hạ - tác thành cho việc
thành hôn của An - Lợi. Nguyễn Nhạc sử dụng lễ cưới của An - Lợi được tổ
chức rất long trọng để đón tiếp, chiêu đãi tiệc với phái bộ của chúa Trịnh,
đây mới là đỉnh cao của thuật gian hùng. Nguyễn Mộng Giác đã dàn dựng
thành công chất "gian hùng" của Nguyễn Nhạc trong tác phẩm - vừa được
lòng phái bộ, lại vừa củng cố địa vị. Nếu cần phải bào chữa về quy thuận
chúa Trịnh của Nhạc - tiệc tùng gì, chỉ là dự đám cưới của một kẻ thuộc hạ
bình thường. Trước tình thế nguy ngập, con người gian hùng Nguyễn Nhạc
quyền biến chọn đúng phương án tối ưu cho hành động: hoà với Trịnh chiến
với Nguyễn, nhận làm tiên phong đánh Nguyễn cho Trịnh. Trịnh ngẫu
nhiên được lợi "toạ sơn quan hổ đấu", nên dễ chấp thuận, bất luận hơn thiệt
thế nào. Nguyễn Nhạc rút về Nam đột ngột trong đêm, cắt cái đuôi Nguyễn
Hữu Chỉnh là chất "gian hùng" được sử sách ghi lại.
Nhân vật lịch sử Nguyễn Nhạc lu mờ trong lịch sử, bởi có người em
quá xuất sắc là Nguyễn Huệ, đồng thời cũng là cái hạn chế trong tầm nhìn
chiến lược, trong sự điều hành, cai trị ở tầm vĩ mô của Nhạc. Điều này được
thể hiện rất rõ. Khi đã đuổi chúa Nguyễn dạt về phương Nam, Nguyễn
Nhạc xưng vương với sự thoả mãn: cai quản vùng đất từ Phú Xuân đến
Quy Nhơn. Khi đã cơ bản tiêu diệt tập đoàn chúa Nguyễn, Nguyễn Huệ Bắc
tiến thắng lợi, chúa Trịnh đã được dẹp. Nguyễn Nhạc chủ trương trả lại lãnh
địa đất Bắc cho họ Lê, để xưng đế từ đèo Cù Mông trở vào. Nguyễn Mộng
Giác để nhân vật Nguyễn Nhạc hơn một lần thốt ra câu nói gần như thành
ngữ "cái nhìn không qua ngạch cửa", thì chính Nguyễn Nhạc có cái tầm
50
nhìn ấy. Gian hùng làm sao tránh khỏi tàn bạo, bất nhân và vụn vặt. Nguyễn
Nhạc không xem Bắc tiến toàn thắng của Huệ là chiến công phi thường, có
sức vang dội trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Ông đã đem
tầm nhìn thấp, cầu an, thực dụng, vụ lợi bất chấp cả cái tâm; đem cái đầu óc
vụn vặt, vị kỷ, hẹp hòi, đố kỵ, để thưởng công bằng sự công khai giận lây
cả các tướng lĩnh đã theo Huệ, mà thực chất là theo dòng xoáy của lịch sử,
khúc quanh của lịch sử. Chính từ lòng vị kỷ hẹp hòi mà nguyên nhân sâu xa
là nguồn gốc ít học của một vị thế - biện Nhạc Vân Đồn, tụ tập và sử dụng
"bọn đầu trộm, đuôi cướp vô lại mà không để cho chúng cuốn theo để trở
thành cướp lớn" (lời cuối sách). Sự hiện hữu lu mờ của Nguyễn Nhạc trong
sử sách, Nguyễn Mộng Giác đã tôn trọng, nhưng tác giả đã khai thác lời
"người ta" mà "lấp điểm trắng" về nhân vật, để khắc hoạ nhân vật Nguyễn
Nhạc lu mờ cả trong "Sông Côn mùa lũ " - chí ít thì cũng là xuất hiện không
nhiều trong tác phẩm nhưng đã khắc hoạ thành công tính cách của nhân vật
bằng hai từ "gian hùng".
Sẽ là không đủ nếu không đề cập đến nhân vật Lữ, nhân vật tạo thành
bộ ba: Nhạc, Lữ, Huệ trong họ Nguyễn Tây Sơn, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn,
dòng lũ sông Côn. Nhân vật Lữ trong tác phẩm, được Nguyễn Mộng Giác
thể hiện như sự điểm danh lịch sử, để hoàn thiện chất lịch sử cho bộ truyện.
Ngay từ buổi đầu tầm sư học đạo, khi Huệ say sưa với "lời tựa truyện du
hiệp", Lữ lại thích thú, mơ tưởng, gây dựng một "trang - trại - y - như - của
- chú - Thung" (trang 109). Câu văn ngắt nhịp khác lạ, lại được đặt trong
ngoặc kép như trích dẫn lời của Lữ. ở tuổi mười bảy, Lữ ước mơ quá đơn
giản nhưng đầy đủ ý nghĩa về một cuộc sống cầu an. Mỗi một con chữ được
ngắt ra như một sự dằn mạnh dấu ấn trong tâm khảm của nhân vật. Sự dằn
mạnh tới bảy lần, phải chăng là sự nhấn mạnh của tác giả về nhân vật Lữ
với vai trò lịch sử mờ nhạt. Lữ tham dự khơi nguồn lũ sông Côn, được
phong vương, nhưng sớm nhận ra sự khốc liệt của chiến tranh. Lữ thờ ơ với
51
công việc vận chuyển quân lương, thờ ơ trong cương vị vương. Lữ tìm đến
Kiên để tìm lối thoát cho sự chán chường cảnh đâm chém, chết chóc tranh
giành quyền lực. Lữ tìm đến Kiên, tìm đến triết lý: "vạn vật hoà đồng", tìm
đến sự cứu rỗi linh hồn, coi Kiên như người đồng đạo và là người thầy
hướng đạo. Mà Kiên là hiện thân của "những điều không có đâu". Lữ như
người hoàn toàn mất hướng - đây là sự suy diễn của tác giả, Kiên là phương
tiện phát ngôn. Cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Kiên và Lữ, trước giờ Lữ bị
vĩnh quyết của tạo hoá, Kiên kể với An (em gái) "dĩ nhiên ông ấy không
dậy nổi, nhưng vẫn mấp máy môi giục anh nói ngay điều quan trọng cao cả
ấy là gì". Anh đáp "ngài đã sống đúng bản tính Trời cho, và đã hết sức cố
gắng. Những điều khác đều là thừa thãi cả thôi" (lời Kiên nói với An trang
1406). Kiên được mệnh danh Đức Thầy, như người cha đạo Kytô rửa tội
cho con chiên ngoan đạo là Lữ. Lữ qua đời trong vòng tay của Kiên - ông
đạo An Thái - Đức Thầy. Nguyễn Mộng Giác đã điểm danh, nhân vật Lữ có
mặt và có mặt chỉ như thế.
Viết "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác đã tham khảo lịch sử
một cách nghiêm túc và khá đầy đủ kỹ luỡng "tài liệu sử thời Tây Sơn, tôi
đọc được cũng khá nhiều nhưng giúp ích cho tôi nhiều nhất (về phương
diện tiểu thuyết) là Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái, Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn và các bài viết, thư từ của các giáo sĩ thiên
chúa giáo ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài thời đó" (lời tác giả- cuối sách). Vì
lẽ trên mà việc đề cập lại vấn đề lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ" xem là sự
lục vấn không cần thiết. Đã là tiểu thuyết thì phần trọng hơn cả vẫn là tiểu
thuyết. Sự trung thành với lịch sử tới mức nào không phải là thước đo tối
cần thiết cho mọi tác phẩm tiểu thuyết lịch sử."Sông Côn mùa lũ" có sự
hiện diện của lịch sử bằng chất tiểu thuyết song không tiểu thuyết hoá lịch
sử và cũng không lạm dụng lịch sử để gọi là tiểu thuyết. Nhân vật lịch sử,
sự kiện lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đã hoàn thiện một cách nghiêm túc cái
52
vạch cấm chỉ của lịch sử để tiểu thuyết dừng ở chỗ cần thiết nhất. Cùng là
nhân vật lịch sử: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ song Nguyễn
Mộng Giác đã dừng ở mức "tâm trạng hoá" Nhạc và Lữ, đã tiểu thuyết hoá,
trữ tình hoá nhân vật Huệ. Đây chính là nét thành công của thiên truyện
trong tái hiện nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử. Việc tiểu thuyết hoá,
trữ tình hoá nhân vật Huệ cũng tập trung dừng lại ở phần: về An Thái, Tây
Sơn thượng và Hồi hương, trong mối quan hệ với những nhân vật "hư cấu".
ở phần: Phương Nam, vượt đèo Hải Vân, Phú Xuân; nhân vật Huệ được đặt
trong những sự kiện lịch sử được xem là chân xác. Nhân vật Huệ chỉ còn là
chi tiết hoá, sống động trong "tâm trạng hoá" nhân vật lịch sử. Việc thế sự
hoá, công việc tạo nên tính cách nhân vật đắc lực đã bị "ước thúc" bởi lịch
sử. Có thể nói ở ba phần này là khoảng không gian, thời gian, tác giả chỉ
dành riêng cho lãnh địa của sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử vì thế dường
như chỉ được hư cấu bằng những "điểm trắng", thứ yếu cần và đủ. Có thể
nói ở ba phần này lịch sử được xem là "cứu cánh" của thiên truyện. Đương
nhiên không vì thế mà tính hấp dẫn, "xem được" của tác phẩm bị giảm đi.
2. Chất liệu tiểu thuyết - nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ"
2.1. Chất liệu tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ"
Viết "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác trả lời phỏng vấn "ý định ban
đầu, như thế, là "viết về tâm trạng mình trong những năm nhiều biến
chuyến sau tháng 4/1975. Chọn thời gian là thời Tây Sơn vì đấy là thời kỳ
cũng có nhiều biến động dữ dội, thời kỳ giới nho sĩ, trí thức cả đàng Trong
lẫn đàng Ngoài đều bị đặt trước những thử thách sinh tử. Khi định rõ được
chủ định của tác phẩm, tôi bắt đầu tìm đọc tất cả các tài liệu lịch sử liên
quan đến thời Tây Sơn. Càng đọc tôi càng thấy lịch sử thời Tây Sơn quá đa
dạng, phong phú và tầm nhìn của tôi cũng mở rộng ra. Chủ đích ban đầu là
"tâm trạng trí thức thời loạn" trở thành chật hẹp. Tôi muốn tái hiện toàn
cảnh giai đoạn lịch sử ấy, từ chốn triều đình đến thân phận những người dân
53
ở cùng đáy, từ lúc phong trào Tây Sơn khởi dấy cho đến lúc Nguyễn Huệ
mất". (lời cuối sách). Như thế là "Sông Côn mùa lũ" được khai sinh với một
diện mạo có quy mô rộng lớn, trong đó bình diện tiểu thuyết - chất sáng tạo,
hư cấu của tác phẩm được tác giả đặc biệt chú trọng. Có lẽ cũng vì thế mà
bàn tới "Sông Côn mùa lũ" có nghĩa là ta phải chú trọng bàn tới cái bình
diện hư cấu mang tính tiểu thuyết. Tuyến hư cấu của tác phẩm theo quan
niệm của tác giả "Tôi muốn tái hiện toàn cảnh giai đoạn lịch sử ấy, từ chốn
triều đình đến thân phận những người dân ở cùng đáy..."(lời tác giả-cuối
sách). Những nhân vật không góp mặt trong sách của sử gia sẽ được tác giả
"sáng tạo" hoàn toàn. Những nhân vật của sử gia sẽ được tác giả lấp những
điểm trắng, tiểu thuyết hoá ở mức độ "về các nhân vật lịch sử, tôi tôn trọng
những gì lịch sử đã ghi về họ" (lời tác giả). Chủ ý của tác giả ban đầu "tâm
trạng của trí thức thời loạn" qua trả lời phỏng vấn là một tâm điểm của tiểu
thuyết "Sông Côn mùa lũ". Tuyến nhân vật trí thức được tác giả thể hiện với
hai cấp độ: nhân vật trí thức trong bình diện lịch sử và trí thức trong bình
diện tiểu thuyết - hư cấu sáng tạo. Cấp độ bình diện tiểu thuyết - hư cấu,
thế sự, Nguyễn Mộng Giác đã hư cấu ông giáo Hiến. Cũng chính từ nhân
vật hư cấu này, tác giả đã cho xuất hiện những gương mặt ở những vị trí
khác nhau của lịch sử: những đứa con ông giáo Hiến, những quan hệ của
ông giáo Hiến với những nhân vật khác. Ông giáo Hiến là nhân vật của lao
động nghệ thuật, vì thế "tâm trạng của trí thức thời loạn" sẽ và phải được
tác giả gửi gắm, thông qua nhân vật này để thực hiện cái chủ ý ban đầu như
là nhất thành, bất biến. Trong tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác đã thể hiện trí
thức thời loạn như là sự phân nhánh: nhánh thế sự tiểu thuyết và nhánh lịch
sử như nó vốn có. Bàn về "Trí thức thời loạn" trong "Sông Côn mùa lũ" tức
là bàn về hai nhánh này. Tác giả trình bày hai nhánh trong tác phẩm như là
sự biệt lập. Nhánh hư cấu - tiểu thuyết dừng lại ở chương 48 phần III của
thiên truyện - cái chết của ông giáo Hiến. Nhánh lịch sử vươn xa hơn và
54
dừng lại ở chương 94. ở góc độ tiểu thuyết, ông giáo Hiến hoàn toàn là kết
quả lao động nghệ thuật. Những nỗi niềm của ông giáo Hiến cũng là sự gửi
gắm "nghệ thuật" và cả nỗi niềm, tâm sự của tác giả về thời gian quá khứ,
làm cầu nối qua nhân vật với hiện tại. Từ tâm điểm "trí thức thời loạn" với
nhân vật ông giáo Hiến, Nguyễn Mộng Giác đã làm nảy sinh những tâm
điểm khác, tạo nên những khía cạnh khác của chủ đề tác phẩm. Nhân vật
trung gian, hình tượng người phụ nữ, đám dân chúng là những chất tiểu
thuyết thể hiện sinh động "thế sự" của một thời quá vãng. Chất liệu tiểu
thuyết trong "Sông Côn mùa lũ" được Nguyễn Mộng Giác thể hiện như một
đối trọng với chất liệu lịch sử trong mối quan hệ đặc biệt "thế sự là da thịt
của tiểu thuyết lịch sử cũng như lịch sử là xương cốt của tiểu thuyết lịch sử"
(lời tác giả-cuối sách). Việc bàn "tâm trạng trí thức thời loạn" trong tác
phẩm đương nhiên là phải đề cập tới hai nhánh nhân vật trí thức như trên đã
trình bày. Chất "thế sự" đầy đủ của "Sông Côn mùa lũ", bên cạnh nhân vật
trí thức là những nhân vật trung gian, người phụ nữ, đám dân chúng ta
không thể không bàn tới.
2.2. Nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ".
Trước hết là "trí thức thời loạn"hoàn toàn hư cấu, sáng tạo, chất tiểu
thuyết triệt để trong tác phẩm - ông giáo Hiến. Ông giáo Hiến là nhân vật
của nghệ thuật tiểu thuyết. Tác giả xây dựng ông giáo Hiến là nạn nhân của
một trật tự xã hội đã mục ruỗng. Sự lộng hành, tàn bạo của Trương Phúc
Loan dẫn đến cái chết của của Trương Văn Hạnh, vì sợ liên luỵ mà ông
giáo Hiến đưa cả bầu đoàn thê tử trốn chạy khỏi Phú Xuân. Nguyễn Mộng
Giác đã căn cứ vào sự kiện lịch sử để đặt nhân vật ông giáo Hiến trong hoàn
cảnh xuất hiện hợp lý: lô gíc sự kiện lịch sử và thế sự. Từ Phú Xuân, ông
giáo xuôi về phương Nam - An Thái, về với người anh cùng cha khác mẹ
của bà giáo. Cả đời, họ chưa đến nhà nhau nên cái đích An Thái cũng như
55
là một điểm đến vô định, phù hợp với cảnh xiêu giạt, chạy trốn. Không
gian sáng tạo của tác giả đặt trong trời mưa tầm tã, các dòng sông trên
đường xuôi Nam đang bồi hồi dâng nước. Nước mưa trời hay chính mưa
của thời cuộc đang dâng nước làm phổng phao dòng sông đời báo hiệu
những dòng lũ sẽ tràn bờ. Xuyên qua màn mưa, vượt đèo, ngủ tạm vật vờ,
xuôi dòng cửa Hội, những chặng đường gia đình ông giáo Hiến đi qua, cảnh
tượng của cuộc sống diễn ra cũng chẳng một chút bình yên. Nào là cảnh
cấm đường theo lệnh quan quốc phó. Nào là cảnh thuế khoá đánh đò ngang,
đò dọc quá nặng. Đến nỗi, người chèo đò cũng hết đường sinh nhai. Cảnh
chụp giật của lũ đầu bếp nhà quan tả ngoại "chúng chụp ngay liễn mắm. cả
chợ lại cười, nghĩ các ngài hầu cận quan tả đùa dai. Mãi đến lúc chúng đi
rồi... mà ai ngờ đâu được là quan tả ngoại chỉ ăn được có món mắm vãnh hở
trời" (trang 17). Nào là cảnh ngăn sông "Chắc chắn cửa Mù U đóng" (trang
22). Trở đi rồi lại lộn trở về, đường thuỷ cấm ngặt, ông giáo cùng gia đình
vượt đèo Hải Vân vào Nam - Quy Nhơn. Song cái cảnh đường rừng cũng
nhộn nhạo không kém con đường thuỷ đầu sông cuối bãi "ngay ở dưới chân
đèo, có một xóm dân chài độ vài chục nóc nhà... đột nhiên cả xóm lao xao
náo loạn. Người này ơi ới đi gọi người kia. mẹ hớt hải khóc mếu đi tìm con.
Đàn ông vác những cái bọc cột sẵn chạy ra phía bờ biển ! Không đầy một
khắc cả xóm đã trở thành một bãi hoang vu như có một cơn lốc dữ dội thổi
qua vậy. Cửa sổ, liếp ở các ngôi nhà lá đều chống lên, bên trong đồ đạc
không còn gì." (trang 28). Cảnh nhốn nháo ấy vì có "đám bụi mù trên
đường quan" là do "công sai đã về đấy". "Quan dịch đi đông, bắt phu không
đủ, người ta phải vào lùng bắt từng nhà. Nếu không có người thì trong nhà
có thứ gì, quan đều tịch thu hết" (trang 28). Giữa thanh thiên bạch nhật, dân
sợ quan hơn sợ phường lục lâm, thảo khấu. Nơi bìa rừng Ngãi Lĩnh, thâm
sơn, cùng cốc, dân cũng không yên ổn. Ông giáo Hiến còn có An Thái xa
xôi để trốn chạy. Những người dân nơi chân núi, bìa rừng đành phải sống
56
"ngày đêm chỉ lo chui rúc giấu mình như lũ chuột"(trang 28). Nơi bìa rừng,
chân núi đã thế, đỉnh đèo cũng chẳng yên ổn hơn. Thấy bóng người, những
người dân vô tội phải trốn chạy vì sợ quan dịch đến bắt phu, bắt lính, cướp
bóc. Qua giọng nói vẫn còn chưa hết hẳn sợ hãi. "- Phải lo xa các ông ạ!
Mới buổi sáng đây, các "ngài" cần thêm người khiêng võng. Có đứa xấu
miệng mách lẻo cho các ngài biết thằng Mười còn sống chung với hai vợ
chồng già chúng tôi. Thế là,... các ông thấy đấy cái quầy mất đi một
chân"(trang 32). Cảnh tượng trên đường xuôi Nam của ông giáo Hiến và cả
ông nữa là kết quả của lao động nghệ thuật, là sáng tạo của tác giả. Đối
thoại với lịch sử, tác giả dàn dựng cảnh khốn cùng của một ông đồ bị cái vạ
liên luỵ, của những người dân vô tội bị "thần cùng", "thần khó" đẩy đến
cuối con đường đói khổ lại thêm quan dịch hoành hành, khiến cho dân sợ
quan hơn sợ cướp rừng, cướp biển. Người dân không được sống yên thân.
Mở đầu tác phẩm, điểm xuất phát của cả thiên truyện, tác giả bắt đầu bằng
cái nhìn nhân đạo, cảm thông trước những thân phận thấp cổ bé miệng.
Ông giáo và dân đen là đồng nạn nhân của một chế độ hà khắc, chế độ quan
lại lộng hành, coi mạng dân không bằng cỏ rác. Dù là đối thoại với quá khứ
và là sự hư cấu song ngay từ mở đầu tác phẩm, nhà văn đã thể hiện thái độ
phê phán dù không có một lời bình nào. Phải chăng xây dựng cảnh khốn
cùng của đám dân đen cũng không được sống yên để gặm nhấm nỗi nghèo,
Nguyễn Mộng Giác chuẩn bị cho những trận mưa đời xối xả bằng nước
mắt, bằng sự khốn cùng để có một dòng sông đời dâng lũ, dòng sông Côn
chuyển nghĩa. Lũ đời phải dâng lên để cuốn đi những gì mà lẽ đời đơn giản
cũng không thể chấp nhận được.
Cuối nẻo đường trốn chạy về phương Nam của gia đình ông giáo
Hiến là An Thái, địa danh đầy cầu mong: sự yên ổn, thái bình. Đặt chân tới
An Thái, gia đình ông giáo Hiến lâm ngay vào cảnh túng quẫn: tiền sắp hết,
bà giáo ốm nặng, đông miệng ăn, không thước đất cắm dùi, vô nghề nghiệp.
57
Lại thêm nạn cướp cạn ban ngày: ông xã trưởng muốn mua rẻ "hoặc biếu
không càng tốt một cái quạt tàu"(trang 63), một xã trưởng khác " Hắn bằng
lòng không nghi ngờ gì nữa, nếu ông giáo bằng lòng bán cái áo đoạn cho
hắn"(trang 64) Rồi đến chánh tổng thừa hành quan tri huyện đến lấy đi cái
chăn nhiễu lục vì "... Bà huyện không ăn, không ngủ nổi, nếu không thấy
được cái chăn nhiễu lục nó sang, nó đẹp đến mức nào" (trang 64). Còn sót
lại một chút tanh tao, ruồi đã đổ đến. Mất của lại bị xỉ nhục bởi sự phách lối
của xã trưởng, chánh tổng, ông giáo Hiến còn phải chuốc thêm "... dân An
Thái hối hận đã đến cất giùm nhà cho ông giáo" (trang 63). Ông giáo - trí
thức là nạn nhân tội nghiệp của lũ cướp ngày, giữa cái buổi được coi là
"thái bình", chưa có loạn ly, song những cơn lốc đời luôn nổi lên khiến
những thân phận xiêu vẹo trong vị thế xã hội luôn phải oằn mình hứng
chịu. Cái nhìn nhân đạo của tác giả thật đáng ghi nhận. Vừa đi qua những
cơn lốc đời, gia đình ông giáo tạm ổn, thì lại lâm vào cảnh thương tâm - sự
ra đi của bà giáo - cảnh tử biệt. Sự ra đi của bà giáo khép lại một kiếp
người, người đàn bà không tên được bù lại bằng nghề nghiệp của chồng - bà
giáo. Cô hàng cơm hến năm xưa làm vợ, làm mẹ, làm kiếp người lam lũ,
tần tảo, đi ra từ cõi hư vô, làm tròn bổn phận của một kiếp phù sinh rồi trở
về cõi hư vô. Bữa cơm chia buồn với tang quyến diễn ra trong cái ồn ào: lời
kể, lời bàn tán về vụ cướp giàn truyền thống với hai cái chết thương tâm:
một bị dập lá lách, một bị vỡ đầu. "Bữa cơm trưa có nhiều tiếng cười hể hả
và đám đàn bà sống giữa vùng đất chuộng võ từ tấm bé, không hiểu nổi sự
quyến rũ của bạo lực, nhìn đám mâm chén ngả nghiêng với đôi mắt chịu
đựng và khoan thứ" (trang 80). Rồi việc an táng bà giáo "cử hành" "ngay
buổi chiều hôm ấy", vội vã như chôn cất thi hài của dịch bệnh, của người
quá cố vì tai nạn rủi ro. Đám tang của bà giáo dường như được Nguyễn
Mộng Giác thực hiện một điểm nhấn về vị thế của trí thức trong cái thời
buổi nhiễu nhương - "mùa lũ". Cái đau của kẻ bụng đầy chữ mà chẳng làm
58
được gì cho người bạn đời của mình mát mặt cả đến tận lúc: nhắm mắt
xuôi tay. Ông giáo không chỉ được sáng tạo trong cái thế: trốn chạy khỏi
liên luỵ mà còn được đặt trong cái nghèo, cái tủi. Trong đầu người có học,
trong nhân cách, những điều này không dễ gì nguôi ngoai được. Tồi tệ hơn,
nó sẽ không gặm nhấm mà trái lại luôn dằn vặt, cồn cào, dữ dội, giằng xé.
Trước những cơn lốc đời, mưa đời, màn đêm đời, kẻ ít học bị đè nén, bóc
lột, bần cùng hoá chỉ có một nỗi đau mưu sinh, miếng cơm manh áo; kẻ có
học "trí thức" còn có thêm một nỗi đau: nhân cách và lương tâm bị xúc
phạm, bị xỉ nhục. Đây phải chăng là cái đồng giao, đồng cảm của tác giả
với lớp người mang danh trí thức mà thực chất là nạn nhân khốn nạn nhất
của thế cuộc (đương nhiên là thế cuộc trong quá khứ lịch sử). Sau cái chết
của bà giáo, con ông giáo lớn có: Kiên đã 21 tuổi; bé có "Đứa thứ nhì mới
15 . Đứa thứ ba con gái. Đứa thứ tư mới 11 tuổi, nó đứng kia kìa. Cháu nhỏ
nhất còn bé, mới lên ba" (trang 63), thì ông vẫn lâm vào "cảnh gà trống
nuôi con", vì lớn không nghề nghiệp, bé cần nuôi dưỡng. Xem ra, gia cảnh
quá éo le, ông giáo đã bị thần cùng gõ cửa và truy đuổi rồi. Vừa mới hứng
chịu cảnh tử biệt, ông giáo lại hứng thêm cái hoạ sinh ly. Vì gia cảnh quá
neo đơn, lại chưa ổn cư, ông giáo trì hoãn việc "đầu binh" của Kiên, gửi con
lên Tây Sơn thượng. Thế là, bốn tiếng đáng sợ nhất của đời người đã đổ
sập xuống đầu ông giáo - tử biệt, sinh ly. Bị chà xát bởi miếng cơm manh
áo thường nhật, bị đau đớn đến tột cùng về tinh thần: nhân cách, nhân
phẩm, lương tâm bị xúc phạm, bị xỉ nhục bởi cường quyền, bởi "số mệnh"
bị dòng đời xô đẩy, song với thiên chức làm thầy, ông giáo Hiến vui vẻ
nhận dạy cho đám học trò chỉ vẻn vẹn bảy đứa, trong đó đã có hai đứa là
con ông. Tâm ông trong buổi lễ khai tâm vẫn toả sáng một nhân cách của
một trí thức nho học chân chính "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng
di, uy vũ bất năng khuất" (Mạnh Tử), của một bậc sĩ quân tử theo đòi cửa
Khổng, sân Trình. Phải chăng đây là một lần nữa, Nguyễn Mộng Giác
59
muốn nhấn thêm: người trí thức trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù cuộc sống
bị dồn nén, truy đuổi đến tình thế đường cùng, ngõ cụt vẫn luôn lấp lánh
một cái tâm sáng mà người xưa gọi là "tiết tháo". Trong lễ khai tâm trang
nghiêm ,"lòng ông tự nhiên hồi hộp. Ông nhớ đến cái cảm giác khinh khoái
rộn rã những lần ông đứng như thế này trong đời. Lòng tin ở Đấng vạn thế
sư biểu mạnh mẽ đến nỗi ông nghĩ, vào giờ phút khai tâm thiêng liêng ấy,
cửa minh đức sẽ mở, đời có thêm vài bậc quân tử và bớt đi vài tên tiểu
nhân" (trang 98). Từ cõi sâu thẳm của tâm thức, ông giáo Hiến luôn hướng
tới một cái gì tốt đẹp, một tiêu chí có tính chuẩn mực về nhân cách, nhân
phẩm, lương tâm. Ông có một niềm tin vào những thuyết giáo của đạo Nho.
Đây cũng chính là điểm tựa của lòng trung. Trước dòng thời cuộc, chính
những gì thuộc về ông, của ông trong hiện tại đã khiến ông bước đầu có
những trăn trở. Dù chưa hẳn là lòng trung đã lung lay song nó không đơn
thuần, một chiều nữa "ông đọc nhỏ lời khấn quen thuộc, nhưng đến giữa
chừng, lại cảm thấy một cách chua chát cái bất lực của chữ nghĩa. Những
cậu học trò ông khai tâm hôm nay sẽ đi theo con đường ông đã đi, sẽ học
những sách vở ông đã học. Mà ông đã đi đến đâu ? Mê sách thánh hiền như
bạn Ngô - Thế - Lân của ông mà cuối cùng làm được gì ngoài việc dâng
một bản thái bình sách không ai thèm đọc. Mắt ông lạc thần, ông lạy thêm
bốn lạy, lui ra" (trang 98). Giữa sách vở kiến thức, những tiêu chí đạo đức
là mặt phải là lẽ sống mà giới trí thức, có học luôn trân trọng và vươn tới,
với thực tế cuộc sống lại ít khi đồng hành, thông thường nó là mặt trái. Ông
giáo Hiến đang sống với tâm thức: mặt phải và mặt trái như thế. Đây là
những tín hiệu đầu tiên như là sự dàn dựng một ông giáo Hiến đầy mâu
thuẫn giữa cái nền chung giáo lý sách vở, lòng trung với những gì thuộc
dòng xoáy của mùa lũ sông Côn. Phải chăng, đây chính là nhân vật mà tác
giả muốn gửi gắm nhiều nhất về "tâm trạng trí thức thời loạn". Suốt dọc
chiều dài xuất hiện: từ mở đầu thiên truyện đến sự chấm dứt ở chương 48,
60
nhân vật ông giáo Hiến được xây dựng trong mối mâu thuẫn mà tác giả đã
dàn dựng. Ông giáo Hiến hư cấu của tác giả là đại diện trung tâm nhất của
giới trí thức trong tác phẩm, nhân vật của mâu thuẫn, nhân vật của bi kịch,
là sự thành công của tác giả trong chất tiểu thuyết của "Sông Côn mùa lũ".
Mặt trái là thế sự là cuộc đời thực, mặt phải là kiến thức sách vở với những
ước vọng tiến thân của ông giáo. Giữa "Cái giấc mộng được dự vào sử quán
chỉ là bước chùng của một người hiếu động mà không gặp thời, cho đến khi
gặp được ý đức hầu, ông cố tìm cách thực hiện một số suy nghĩ của mình về
cách trị nước. ý đức hầu, bạn ông có nghe theo lời ông giáo, nhưng mọi kế
sách đều bị quan quốc phó Trương Phúc Loan bác bỏ cả"(trang 104). Một
học vị "ông giáo", kết hôn với cô hàng cơm hến, ông giáo Hiến "có những
suy nghĩ về cách trị nước" là những biểu hiện của con người có hoài bão, có
lý tưởng. Hoài bão, lý tưởng ấy sớm gặp cái gia cảnh chẳng khấm khá gì, cô
hàng cơm hến cũng đau yếu luôn, lại mắn đẻ, đẻ nhiều. Cơm áo đời thường
của cặp vợ chồng ông giáo - cô hàng cơm hến với hoài bão và lý tưởng cao
xa - "trị nước" vốn đã mâu thuẫn rồi. Phải chăng thông qua sự bất cập này.
Nguyễn Mộng Giác muốn nói đến một thực tại dễ gặp: ước mơ viển vông
xa vời thường thấy ở tầng lớp "trí thức". Ông giáo Hiến, với một bi kịch cá
nhân được dàn dựng lô gíc khiến nhân vật này có cá tính, có số phận. Việc
dạy bẩy đứa trẻ, ông tâm niệm: khai tâm, mở đức, làm sáng đạo Nho mong
có bậc quân tử "trí quân trạch dân" hoặc ít ra cũng bớt cho đời "mấy tên tiểu
nhân", song ở nơi thâm sơn cùng cốc, họ chuộng một thế võ hiểm để phòng
thân hơn là chữ thánh hiền. Mặt khác, ông muốn người học trò sáng dạ nhất
là Nguyễn Huệ hướng theo chính đạo thì lại hướng người học trò này đọc
và học bài "Tựa truyện du hiệp trong sử ký". Mâu thuẫn chưa giằng xé
trong con người ông giáo nhưng không có phương cách nào dẹp được. Cái
xu thế mặt trái - hiện tại, cuộc sống ở gia đình ông đã có lúc có sức lung lay
cái chân đế " chân đế của đời ông gần như sắp rạn nứt, sụp đổ không phải
61
trong nhà học, mà sụp đổ trong những buổi chiều làm ruộng như hôm nay"
(trang 110). Những cú sốc đến với ông giáo như là một quy luật phổ biến
"hoạ vô đơn chí". Lớp học như là chỗ, là công việc tạm gọi là yên thân thì
hay tin Kiên, con trai cả bị hành hung ở Tây Sơn thượng. Lớp học tạm đóng
cửa, ông đi thăm và nuôi con, đưa Kiên trở lại An Thái. Lớp học được mở
lại chỉ còn lại một thầy, một trò- Nguyễn Huệ . Ông phải hạ mình trước
cường quyền: đem hối lộ viên tri áp cái nghiên mực bằng đá quý. Mà rồi,
ông cũng chẳng được yên thân. Kiên bị bắt vì tội trốn lính. Gia đình ông về
An Thái để rồi đi khỏi An Thái lên Tây Sơn thượng. Nơi dung thân thâm
sơn, cùng cốc, ông giáo cũng không được yên. Lên với Tây Sơn thượng,
ông không còn là người bình thường được nữa. Vì nơi ấy tập trung những
con người xiêu bạt, đường cùng và nhất là đi theo anh em biện Nhạc ở
trường trầu, khi nhà Nhạc ở Kiên Thành bị đốt, bị bao vây. Thế là từ chỗ
trốn chạy khỏi liên luỵ ở Phú Xuân, ông giáo tiếp tục trốn chạy lại thêm vào
cái tội a tòng kẻ có mưu đồ chống lại chế độ chúa Nguyễn. Vòng xoáy của
cơn lũ đời thực sự bắt đầu. Cây muốn lặng, gió chẳng đừng, ông giáo không
thể dừng lại ở một vị thế thường dân được nữa. Lên đến Tây Sơn thượng,
thằng út con ông chết yểu vì bệnh hen xuyễn không chống chọi được sơn
lam, chướng khí. Ông giáo thêm một nỗi đau tử biệt - lá xanh rụng trước lá
vàng. Trong hoàn cảnh ấy, ông giáo không thể là người ngoại sự của anh
em họ Nguyễn được nữa. Nếu ở An Thái, ông giáo chịu sự bảo học của Hai
Nhiều, của những người dân đen cam chịu thì ở Tây Sơn thượng, ông chịu
sự bảo bọc của những người dân đen nổi loạn, khởi nghĩa. Ông trở thành
một thành viên có học của đám dân đen này như là một tất yếu, như là một
khách quan bất khả kháng. Trong suốt chiều dài, tham dự vào mưu việc lớn
của: Nhạc - Lữ - Huệ, ông giáo Hiến đã bị thực tế cuộc sống khép chặt mọi
hy vọng muốn yên thân, cùng với những nỗi đau vì mất mát quá lớn, lại cả
bị xỉ nhục nữa. Nhưng cái " chân đế "trí quân trạch dân"chưa bị xoá trong
62
tâm thức ông. Chỉ cần thay một chữ trong bốn chữ: " trí " thay bằng "phế"
thì mọi vấn đề thuộc mâu thuẫn đã được rũ sạch, song dù đã ở hàng ngũ của
những người "phế quân", ông Giáo vẫn giữ cái chân đế mục nát kia. Ông
chủ trương khởi nghĩa phải lấy việc phò Hoàng tôn. Ông vẫn muốn vực lại
cái chính thể đã làm cho mọi chốn thâm sơn, cùng cốc cũng không có sự
yên ổn trong nghèo đói của lũ dân đen và cho cả chính ông và gia đình chỉ
là do quốc phó Trương Phúc Loan gây nên. Ông chủ trương diệt trừ quốc
phó là nêu cao ý trời. Sống giữa trung tâm cuộc khởi nghĩa - Tây Sơn
thượng, ông giáo vẫn mơ hồ về những biến cố lớn sắp xảy ra nay mai, mà
nơi đây là xuất phát điểm. "Những đêm nằm nghe tiếng bọn trai tráng reo
hò, luyện tập ở khu đất trống cách nhà không xa bao nhiêu, ông giáo thường
hoang mang với vô số câu hỏi. Quanh ông đang có những chuẩn bị rộn rã,
đòi hỏi từng người phải dốc hết sức mình. Dường như cả vạn vật cũng thao
thức, đêm đêm thoát khỏi cái vỏ vô tư, rì rầm khai hội. Nhịp sống nhanh
hơn, nô nức vươn cao quá tầm cho phép của tự nhiên. Ông giáo không thể
đứng ngoài nô nức chung, hơn nữa chính ông góp phần không nhỏ để đẩy
nhanh nhịp sống ấy. Nhiều hôm ông làm việc quên cả thời gian. Lúc ông
nghỉ ngơi, nằm một mình lắng nghe gió thổi bên kia mái lá, những câu hỏi
lại quấy nhiễu ông. Rộn rã chuẩn bị mọi mặt để làm gì đây ? Phải bước đi
đâu nữa?"(trang 216). Ông giáo là người trong cuộc hoàn toàn, chính ông
"cũng góp phần không nhỏ đẩy nhanh nhịp sống ấy", nhịp sống nổi loạn,
khởi nghĩa. Những con người bị dồn vào chân tường của cuộc sống, cái
sống không còn ý nghĩa nữa vì họ có thật là sống đâu: những trái ngang,
đói khát, xiêu giạt, ly gia, ly hương... từ nhiều ngả bất hạnh của cuộc đời mà
xuất phát là ách cường quyền, họ đang tính cuộc đổi đời. Những con người
tụ tập nơi đây,họ không nghĩ xa xôi, không nghĩ nhiều, với họ chỉ đơn giản:
sống hay là chết, sống phải đổi thay bằng hành động. Họ như thứ nhiên liệu
khô, nỏ dễ bắt lửa, dễ bùng lên khi có dịp bén lửa, ngọn lửa ấy bùng lên như
63
thế nào? ai châm lửa ? Đốt cháy duy nhất là cái chính thể đã, đang và sẽ còn
không cho họ con đường sống yên thân trong cái nghèo truyền kiếp. Họ đã
tìm được câu trở lời - họ Nguyễn Tây Sơn là người châm lửa. Ông giáo
đồng cảnh với họ, cùng hội, cùng thuyền với họ, nhưng học dài hơn, "trí
thức" hơn thì vẫn còn mơ hồ, quẩn quanh. Ông không "khô lên" được như
họ, ông khó bén thứ lửa vùng lên như họ. Khao khát cuộc sống bình yên,
khao khát thoát khỏi đói khát và cả tủi nhục và cả sự truy đuổi của cường
quyền, nhưng ông Giáo lại cầu mong sự bình yên ở chính kẻ đã tạo ra, đã
ban cho ông quá nhiều thứ "ân huệ" của sự khốn cùng. Ông muốn phò cái
đỉnh chóp của trật tự vốn từ lâu đã được xây bằng: máu, xương của đồng
loại để mà vinh quang để yên vị "thiên tử", để "thế thiên hành đạo" song
thực tế là đạo chích, đạo cướp ngày. Xây dựng nhân vật ông giáo Hiến với
một tâm trạng "mơ hồ", phải chăng Nguyễn Mộng Giác muốn nhắn nhủ với
bạn đọc: tầng lớp " trí thức" có cái sợ cố hữu là sợ thay đổi, sợ hành động,
sợ đổ máu. Sự đổi thay ví như ngọn lửa thì sự đổi thay bắt đầu bằng một
đốm lửa nhỏ mà muốn thắng lợi phải trả bằng máu. Trí thức cũng ví như
một thứ nhiên liệu nhưng là thứ nhiên liệu ẩm ướt khó bén lửa. Nếu vậy thì
trí thức như là thứ nhiên liệu hạng bét. Trong con người ông giáo Hiến có
khối mâu thuẫn cứ lớn dần và để rồi quẩn quanh, đương nhiên, ông không
giải thoát được, dẫn tới bi cảnh là sự đào thải tất yếu. "Sông Côn mùa lũ"
hay chính là dòng sông đời dâng lũ, nước lũ đời tràn bờ. Mỗi một số phận,
nạn nhân của chính thể chúa Nguyễn là trận mưa đời mà cơn mưa là sự bất
công là những gì cùng nhất quá dễ dãi ban phát từ nơi chúa. Nhiều trận mưa
góp lại thành mùa lũ sông đời, ông giáo chỉ là sự cuốn theo của lũ nguồn
mưa lớn, mưa dài thành mùa lũ. Hiểu biết "trí thức" nhưng ông Giáo do dự,
nhát sợ "... làm gì đây ?", "đi đâu nữa ?" .Thật quẩn quanh ! Chỉ là một bản
lĩnh của một ông giáo Hiến hay là bản lĩnh chung của giai tầng "trí thức"?!
"Làm gì đây ?" , "đi đâu nữa ?"là hiện thân của một sự lừng chừng, nửa vời.
64
cái thứ "bản lĩnh" nham nhở ở ông giáo Hiến nặng căn như một bản chất
"nan di". Ông như người cố tình chậm hiểu . "Làm gì đây" làm cái việc
động trời là nổi loạn là khởi nghĩa, cứu người và thay đời cho chính mình.
Làm cái việc "ăn trộm nước người" để được phong hầu chứ không "ăn trộm
lưỡi câu" để chịu chết chém. Hãy tạo dựng để ban ân cho thiên hạ chứ
không xin sự ban ơn của kẻ khác, "cửa nhà hầu nhân nghĩa thiếu gì đâu ?".
"Đi đâu nữa ?" - đi đến tận cùng, lên đến tột đỉnh của sự thành công, đổi
thay hoàn toàn chính thể mà vị thế của ông chỉ được phép tiến, không còn
đường thoái nữa. Quẩn quanh trong hai câu hỏi nan sự ấy, ông giáo Hiến đã
trở thành nửa vời, cố cựu. Thậm chí, ông có cái nhìn phiến diện về thế cuộc,
áp đặt cả những thiên kiến cá nhân. Khi nghe Nguyễn Nhạc tuyên bố xuống
núi, gióng trống mở cờ, khơi "lũ nguồn" tràn xuống, ông giáo Hiến trong
tâm trạng "Mối hận canh cánh bao năm đột nhiên vùng dậy, khiến mắt ông
giáo hoa. Máu nóng rần rật trong người ông. Dứt khoát không. Ông nhớ đến
cái chết của quan nội hữu Trương Văn Hạnh, bạn ông, nghĩ đến những âm
mưu nhơ nhuốc ở kinh thành. Thật đúng là một cuộc soán vị bỉ ổi." (trang
218). Được tham dự cuộc họp đặc biệt - cuộc họp quyết định khởi nghĩa,
ông giáo trỗi dậy một chủ ý: vừa được trả thù cho người tri kỷ vừa giúp
chúa để sáng đạo chữ thánh hiền. Một hành động rất sách vở, rất Nho học,
phò minh chúa, chết cho tri kỷ - thật đáng mặt sĩ quân tử. "Tâm đắc một ý
niệm", ông giáo hấp tấp nói:
" Lòng dân đều giận tên quốc phó Trương Phúc Loan. Giương cờ diệt
trừ tên loạn thần đó ai mà không mừng rỡ chào đón. Xưa nay những bậc
anh hùng đứng lên, diệt loạn thần, phò minh chúa, sử sách còn ghi cho đến
đời sau"(trang 218). Một chủ ý hành động rất sách vở, khuôn mẫu. Thể hiện
tâm trạng và chủ ý này của ông giáo Hiến, Nguyễn Mộng Giác đã thành
công trong việc thể hiện " tâm trạng trí thức thời loạn "một cách sắc nét và
bản chất. Ông Giáo - tri thức cũng khốn cùng như bất kỳ kẻ khốn cùng nào;
65
cũng khát vọng giản đơn như bất kỳ kẻ ít học nào về sự yên thân; yêu nước
bằng sự chấp nhận thể chế của chính thể, chỉ tin vào chúa, sợ hành động,
ông không dám đập tan cái khuôn mẫu cố cựu, sặc mùi sách vở. Không chỉ
dừng ở diễn tả một tâm trạng, nét bản chất của giai tầng "trí thức", dường
như vượt khỏi không gian, Nguyễn Mộng Giác phê phán tác hại của những
biểu hiện cố cựu, cố chấp thông qua cuộc trao đổi với người học trò yêu -
Nguyễn Huệ. Ông giáo muốn có mái nhà chung vững chắc không để gió thu
tốc mái theo ý thơ của Đỗ Phủ đời Đường chỉ lo " gió thu tốc mái nhà ".
Ngôi nhà lý tưởng ấy là hiện thân của lòng nhân sách vở. Thực tế ngôi nhà
chung ấy đã quá dột nát, hư hỏng lại đang trong tay kẻ khác. Nhà dột, chỉ lũ
dân đen mới ướt lạnh, mới hết chỗ dung thân, còn những kẻ chủ nhân thì có
sao đâu. Sửa sang lại ư? Chắp vá ư? đều là những quyết sách khó thực hiện
được. Chưa kể, ngôi nhà chung dột nát ví như đục nước thì béo cò, quan
tham, lại nhũng cũng nhờ vào những con cò thế cuộc mà yên vị, hưởng lạc.
Thế mà, ông giáo ví tám vị chúa như tám cái cột của ngôi nhà vững chắc -
bát trụ được đặt trên cái nền " đạo Nho giúp cho trung hiếu được phổ biến
đến hang cùng ngõ hẹp, thềm chúa càng thêm vững chắc " ( trang 224 ). Từ
tâm thức có tính bản chất của một giai tầng là " trí thức ", ông giáo Hiến
không thể vượt khỏi " cái ngạch cửa " của thế cuộc. Chính vì thế, ông thảo
hịch khởi nghĩa chỉ vì " giận quốc phó ra lòng bội thượng... ". Cái tầm nhìn
ấy bị dẹp sang một bên. Vì văn vẻ cầu kỳ, lạ hoắc với những người dân đen
hạng cùng, họ đói ăn và đói cả chữ truyền kiếp. Họ chẳng biết quốc phó là
ai, ở đâu và bội thượng với ai. Trước giọng đọc thao thao, bài hịch được
đáp lại " vài đứa trẻ bắt đầu khóc. Mẹ chúng sợ hãi dỗ dành, tiếng lao xao
nổi lên đây đó, rồi dần dà trở thành tiếng ồn ào" (trang 235 ). Trước những
thắng lợi dồn dập như thế của dòng lũ - lũ quét thượng nguồn - Tây Sơn
thượng, ông giáo Hiến như cố tình không thấy được cái thế của dòng lũ mà
chính ông được " mời " tham gia khơi dòng, ông vẫn giữ cái vai trò của
66
người bị cuốn theo. Lũ đã quét sạch hạng tham quan, lại nhũng rác rưởi cả
một vùng rộng lớn. Đáng lẽ phải mừng, phải phấn khích, khơi dòng lũ trào
dâng mãnh liệt hơn, ông giáo lại sợ cái tân tạo sau cơn lũ. Ông buồn rầu,
đau khổ khi người ta đem chúa ra đùa một cách tục tĩu " cái thằng không có
cu" - Hoàng Tôn Dương - Chị Dương. Nghĩ, tâm niệm và làm như ông giáo
thì chẳng khác gì một việc làm kỳ quặc. Ông không hiểu được rằng: lũ tham
quan lại nhũng kia với kẻ được mệnh danh là chúa là hình và bóng, chỉ xoá
bỏ cái bóng thôi thì phỏng có ích gì khi hình vẫn còn. Mâu thuẫn trong con
người ông giáo như thứ bệnh nan y mà căn bệnh đã phát triển thành mãn
tính. Vì lẽ đó, ông cho rằng khát vọng vùng dậy khởi nghĩa của những
người chân lấm, tay bùn ít học chỉ vì cái niêu cơm, họ chưa có dịp được
nhìn xa quá cái niêu cơm ". Ông cho rằng họ thích thú vì "một niêu cơm
đầy", họ phẫn nộ vì "kẻ đập vỡ niêu cơm của họ". Ông không thể nhìn xa
hơn được mặc dù thực tế đã dẫn ông đi rất xa rồi. Vì lẽ đó, ông không hiểu
rằng "với những kẻ vô gia cư, bị đẩy đi lang bạt nơi đầu đường, xó chợ như
đa số anh em nghĩa quân, thì đốt hay không đốt không còn bận tâm. Họ sẽ
tìm một chỗ đất trống, xây hẳn một cái nhà mới". ( trang 374 ).
Tác giả xây dựng nhân vật ông giáo qua tâm trạng, bằng tâm trạng rất
bản chất của tầng lớp tri thức: hiểu biết, cố cựu, sợ hành động, lòng nhân
theo quan niệm " tiền nhân " đối lập với thực tại, để có sự hiện diện của
mâu thuẫn ngày càng tăng. Xem ra, ông giáo sớm muộn sẽ bị dạt sang bên
lề của dòng lũ, đào thải tất nhiên của lịch sử. Nguyễn Mộng Giác đã thế sự
hoá thành công nhân vật này và còn tiếp tục xây dựng để đặt dấu chấm hết
cho vai trò của ông giáo đối với sự đổi thay toàn diện của trật tự mới đối
với trật tự cũ, của chính thể mới với chính thể cũ. Đồng thời, tác giả dường
như cũng muốn làm sáng lên cái tất yếu của quy luật: Bánh xe lịch sử đã
vận hành, nếu không cuốn theo mà lừng chừng thì không tránh khỏi sự đào
thải, cản đường tất sẽ bị nghiền nát. Đối thoại với lịch sử để bộc lộ, nhìn
67
nhận về "trí thức" như thế, nếu không đồng thuận thì độc giả cũng ít tìm ra
cái cớ để chê bai. Dấu hiệu ông giáo Hiến là hiện thân của cố cựu, của trí
thức bị xô dạt sang lề của lũ sông Côn lịch sử, bị đào thải khỏi đội ngũ của
những người khơi nguồn, nắn dòng lũ, tác giả thể hiện qua một đoạn văn
giàu chất thơ, giàu chất "ý tại ngôn ngoại". Đó là cảnh trời đêm, một màn
đêm yên tĩnh trong chiến tranh không có nghĩa là bình yên mà nó như trời
ngưng gió để rồi gió sẽ thổi những trận cuồng phong. Trong màn đêm ấy,
hai thầy trò đi bên nhau (ông giáo - Huệ). Ông giáo thi vị hoá những đêm
canh lúa vì nạn đói " ông nhớ lại những đêm hai thầy trò ngồi canh lúa, bên
con cúi rơm leo lét giữa khuya, chung quanh là đồng mênh mông và gió se
lạnh. Ông tiếc bao nhiêu, những đêm tâm sự ấy. Hai thầy trò cùng ngồi
trong bóng tối, run cầm cập trước gió lạnh , ngửi mùi khói rơm pha lẫn mùi
bùn, mùi rạ mới... lúc đó lòng ông giáo ấm áp, vì chẳng những ông còn cảm
thấy an toàn về vị trí nhà Nho của mình mà còn tìm được một tâm hồn bè
bạn thân ái" (trang 376). Một thực tế trong quá khứ, canh lúa đêm vì nạn
đói tràn lan mà khi hồi tưởng, ông thấy luyến nhớ, thấy ấm áp giản đơn
trong tình thầy trò. Xem ra, nhân vật ông giáo còn là con người thiếu thực
tế bên cạnh bao nhiêu cái căn bệnh khác của trí thức (đã nêu ở trên). Đi
trong đêm yên tĩnh của chiến tranh, học trò Huệ soi đường cho thầy bằng
ngọn đuốc, hình ảnh thật thơ "Họ đang đi tới. Điều oái oăm là trong cuộc
đăng trình này, chân ông giáo đã mỏi. Người cầm đuốc soi giùm đường cho
ông tối nay chính là đứa học trò thân yêu". (trang 376). Ông giáo đã già hay
chính những gì đằng sau hình hài xương thịt ông đã già, già từ lâu rồi. Ngọn
đuốc kia đâu chỉ là ánh sáng theo nghĩa đuốc thông thường. Nó là ánh sáng
của ngọn đuốc phi vật thể, ánh sáng của con đường phía trước là sự đổi
thay, tân tạo. Những chỗ lầy trên đường cái hay chính là cái chỗ lầy trong
nhận thức mà ông giáo đã già về con người tinh thần không dễ gì vượt qua
được - sách vở và rất nhiều thứ bệnh thâm căn cố đế của trí thức. Ông giáo
68
Hiến là tác giả của "phò Hoàng Tôn Dương", đồng thời là nạn nhân của
chính "con đẻ tinh thần" ấy". Ông giáo không được mời lên hỏi han gì nữa"
(trang 476). "Ông giáo tìm đến Đường Thi, sách Phật - tiếng thở dài, xả hơi.
Điều đó nhắc nhở ông thấy rằng, tận chiều sâu của cuộc đời ông, đã có một
khúc quanh quan trọng trùng hợp với khúc quanh của lịch sử đất nước. Với
đôi chút nuối tiếc ngỡ ngàng, ông bắt đầu một cảm thức mới" (trang 476).
Thân thể già nua là quy luật nghiệt ngã của thời gian, già nua bởi mớ kiến
thức sách vở vốn đã quá xưa cũ lại không ngộ ra thì không hoàn toàn là
khách quan. Ông giáo bị loại khỏi vòng xoáy của thế cuộc là sự hợp lại của
cả hai cái già nua trên - thể xác và con người tinh thần. Nhân vật ông giáo
Hiến là phương tiện trọng yếu trong phát ngôn của tác giả về " trí thức thời
loạn " và gửi gắm tâm trạng của mình một phần trong tác phẩm. Cái dằn vặt
của ông giáo Hiến, cái mâu thuẫn trong nội tâm là sự bất cập giữa nhận thức
sách vở với thực tế, giữa hành động và vị thế của ông trong mùa lũ sông
Côn. Dù không đi đến tận cùng với mùa lũ đời để cùng với những người
khơi mùa lũ từ mưa đời, ông giáo Hiến là con người thất bại dễ cảm thông.
Ông chỉ có một sai lầm duy nhất là yêu kiếp người khốn cùng, thương cho
chính mình nhưng không đủ cam đảm để yêu theo đúng nghĩa. Ông không
dám thương đúng nghĩa, là đoạt lại cuộc sống từ chính những kẻ mà sách
vở đã thiên tử hoá, trật tự hoá. Cái thất bại ở ông giáo Hiến là thất bại của
sách vở với hiện tại, thế cuộc; giữa lòng "trung" và lòng "nhân" không hợp
thời. Là một thức giả, ông giáo Hiến ngộ ra và chấp thuận thực tại không
đến nỗi vật vã. Vì ở ông, những tham vọng cho mình không lớn, không
chụp giật như nhân vật Chỉnh (Nguyễn Hữu Chỉnh) "Tư Mã Thiên phát
biểu trong lúc tuyệt vọng phẫn chí, nghĩa là vẫn tin ở điều tối thiện nhưng
đau đớn vì chưa đạt tới được. Ngược lại, ông cống Chỉnh xem tất cả chỉ là
phương tiện để tư lợi và phủ lên sự thấp hèn ích kỷ ấy lớp khói thuyết lý"
(trang 533 - lời trò chuyện giữa ông giáo và Huệ). Sự thất bại, bị loại khỏi
69
vòng xoáy của thế cuộc, ông giáo Hiến chấp nhận thất bại trong danh dự -
tin vào "điều tối thiện" không phải ông thổ lộ mà lại chính là học trò ông -
Nguyễn Huệ nói ra và khẳng định. Cái an ủi đối với ông giáo, khiến ông
thanh thản đó là sự hiểu ông của người học trò, người bạn nhỏ mà vai trò
lịch sử là đại diện của một thế hệ. Ba hạng người đáng lên án muôn thuở đó
là bọn đầu trộm đuôi cướp vong mạng; bọn cơ hội; bọn cố chấp hẹp hòi.
Trong cái vật vã, đỡ đẻ của một trật tự mới; ông giáo không thuộc ba hạng
người này. Chính Nguyễn Huệ đã khẳng định vừa "minh oan" vừa ghi nhận
vai trò của ông giáo mà thực ra là vai trò của trí thức chân chính nhưng cố
cựu đem cái thiện, cái nhân bất biến để ứng phó với một thực tế vạn biến
sôi động. Ông giáo không thành công nhưng đã thành nhân như một bậc
chính nhân quân tử. Lời Nguyễn Huệ ghi nhận "trước sau gì bọn cơ hội tứ
phương cũng đánh hơi thấy mùi mật ngọt mà bu đến đây như một đàn ruồi.
Chúng còn đông hơn, nguy hiểm hơn bọn đầu trộm đuôi cướp, bọn du thủ,
du thực lâu nay nhan nhản xung quanh ta. Nguy hiểm hơn vì chúng thông
minh hơn bọn đầu trộm đuôi cướp, được việc hơn bọn vong mạng dốt nát,
ngoan ngoãn giỏi nịnh hơn bọn cố chấp hẹp hòi. Khó phân biệt được người
thiện chí và kẻ xu thời cầu cạnh." ( trang 533). Lời Nguyễn Huệ cũng chính
là lời tác giả - đây chính là lời khẳng định, trân trọng quy luật đào thải của
lịch sử đối với giai tầng trí thức đã lỗi thời. Ông Giáo được dùng thì không
thay đổi lòng trung, lòng nhân, không dùng thì chấp nhận "thanh thản" cái
vị thế ngoài lề thế cuộc. "Rồi mọi sự không đến nỗi bi quan như anh nghĩ
đâu. Trên đời lẽ thiện vẫn sáng và phải thắng, những gì buồn khổ, bất như ý
rồi cũng qua đi. Thời gian cuốn hết những thống khổ. Ông trời thật hay: vừa
cho người ta trí nhớ nhưng cũng cho người ta sự quên lãng. Ngày mai thức
dậy, tối hôm nay đã thành một kỷ niệm. Mà kỷ niệm nào cũng phải mờ như
một cái gương cũ" (trang 533). Ông giáo vẫn sáng một chữ "tâm" để thích
ứng với hoàn cảnh mới, dù rằng vẫn có cái gợn của hôm qua, của quá khứ
70
"phần ông giáo thì nửa tháng bận rộn giúp ông quên được những đau đớn
riêng. Ông có cái hăm hở của người vội vã gây dựng một cuộc đời mới sau
một thời gian bỏ phí thì giờ vào những chuyện không đâu" (trang 556).
Những năm tháng cuối đời khi tuổi tác đã ở chặng cuối, ông giáo vẫn bộc lộ
một lòng trung không đổi với nhà chúa; mặc dù vì nó mà ông không đồng
hành tới đích của dòng lũ đời - thất sủng, già nua, ốm đau và cả bị cô lập
nữa. Ông vẫn trông chờ Huệ nương tay với nhà chúa - cái chính thể mà ông
đã hứng chịu không ít những tai ương "tôi còn một điều khó nói nữa, anh
đừng vội chê tôi lẩm cẩm mà tội nghiệp. Tôi biết chuyến này, vào tận chỗ
ẩn náu của dòng họ Nguyễn - Gia - Miêu thế nào máu cũng đổ đầy sông,
đầy rạch của đất Gia Định. Đối với thân thuộc của chúa, đối với chính nhà
chúa, anh nên... "(trang 614). Lũ sông Côn dâng trào, người khơi nguồn lũ
đã đạt tới đích dòng nước ấy - dòng nước đời được sinh sản từ áp bức, bóc
lột, bất công, đói khát, máu và nước mắt, kiếp người bị dồn đến cái tận
cùng: sống không bằng chết đã phá tan cái "nhà cũ" của ông giáo Hiến - nhà
chúa. Người học trò cưng của ông - Nguyễn Huệ không thể làm khác được
bởi gió đã thổi mạnh thành đại cuồng phong - là dòng xoáy "lũ" và bão lốc
của cuộc đời và lịch sử. Cả hai chúa: Duệ Tôn và Tân Chính vương đều bị
bắt và hành quyết tại chùa Kim Chương cách nhau một tháng cùng năm.
Nơi mà lòng trung của ông giáo gửi gắm đã đặt dấu chấm hết, một cuộc tân
tạo bắt đầu, một chính thể mới ra đời. Ngôi nhà mới "trên nền đất trống" -
nói như học trò cưng của ông xuất hiện là một tất yếu của lịch sử. Lòng
trung của ông giáo đã hết nẻo đi về lại thêm vào cái chết của Chinh - con
ông đến với ông đồng thời; khiến ông, cả con người thân xác và con người
của giá trị tinh thần sụp đổ. Ông hô hoán mỉa mai "-Tụi bay khéo chọn chỗ
giết người ! ở chùa Kim Chương! Giết người ngay ở cửa phật ! Rồi tụi bay
vứt xác chúa dưới chân tượng bồ tát phải không ?"! (trang 659). Nghe Lãng
kể về cái chết của Chinh gần như cùng lúc với cái chết của hai chúa "... ông
71
giáo cúi mặt suy nghĩ thật lâu, bàng hoàng, hoang mang giữa yêu ghét,
khâm phục và căm giận." (trang 659). Tình trạng con người đầy đủ của ông
giáo được tác giả "khắc hoạ" tiếp theo trong một trạng thái hoảng loạn,
quẫn trí. Trang viết về hiện trạng này, tác giả thể hiện như một sự tóm lược:
"Những hôm tiếp theo, ông giáo trải qua những tâm trạng phức tạp, kỳ dị"
(trang 659). Rồi thì " chợp mắt được một lúc, tiếng đập ma quái loãng đi thì
lại đến lượt tiếng con vện sủa" (trang 660). Rồi thì "ban đầu ông nghĩ con
chó sủa doạ những đứa trẻ rắn mắt chui vào vườn hái ổi trộm" (trang 660).
Rồi thì "hay ông khách đã trở lại? Mà tại sao trở lại vào lúc đêm hôm và
đứng ngoài đường chứ không gọi cổng ? Ông ta là ai ? Ông ta muốn gì ?"
(trang 660). Rồi thì "Sáng hôm sau, ông giáo trách các con ngủ say quá, đến
nỗi chó sủa thâu đêm mà không ai hay biết gì cả" (trang 660). Rồi thì "Ông
nghi ngờ trí óc mình, hoang mang không hiểu mình đang mê hay tỉnh"
(trang 660). Rồi thì "ông lại nghe tiếng chó sủa y như đêm trước, và đâm sợ
hãi" (trang 660). Rồi thì "càng nghĩ ông giáo càng sợ ! Từ đó về sau, suốt
ngày ông đóng kín cửa nằm trong phòng nghe ngóng từng bước chân, từng
tiếng động nhỏ" (trang 660). Những âm thanh được lĩnh hội từ một trạng
thái hoảng loạn, quẫn trí đến không có thực vì " con vện rượng đực bỏ nhà
đi suốt mấy hôm mà ông giáo vẫn than phiền về tiếng chó sủa !" (trang
661). Tâm trí của ông giáo đang mấp mé giữa đời sống của một con người
và đời sống thực vật " mỗi lần xô cánh cửa hông lên gặp cha, An đều thấy
ông giáo tỏ vẻ lo lắng, hoặc sợ hãi. Phải một lúc lâu, ông mới nhận ra con
gái..." (trang 661). Tuổi tác, ốm đau, bệnh tật, tâm và não tổn thương, ông
giáo sống mê mê, tỉnh tỉnh. Đã đến lúc lẽ sinh tử đặt dấu chấm hết cho một
kiếp người hữu hạn "cuối năm Mậu tuất (1778), ông giáo lịm dần như ngọn
đèn hết dầu. Giữa tháng chạp, ông mất." (trang 729). Ông giáo Hiến, Giáo
Hiến nhân vật của chất tiểu thuyết trong tiểu thuyết lịch sử, con người thuộc
giai tầng trí thức vào cõi vĩnh hằng, sau khi đã không còn lý do gì nữa để
72
tồn tại, khi "mùa lũ" sông Côn vẫn còn dâng nước. Sự ra đi của ông cũng
như sự xuất hiện của ông, Nguyễn Mộng Giác chắc hẳn phải lao động nghệ
thuật vất vả vào bậc nhất đối với nhân vật này. Vì "ý định ban đầu, như thế,
là "viết về tâm trạng trí thức thời loạn" nói chung trong đó có một phần tâm
trạng mình trong những năm nhiều biến chuyển sau tháng tư 1975". (trang
1459 - tác giả trả lời phỏng vấn). Sau khi đọc "tất cả các tài liệu lịch sử liên
quan đến thời Tây Sơn", tác giả thấy "Chủ đích ban đầu "là tâm trạng trí
thức thời loạn" trở thành chật hẹp". Tức là mở rộng, lan toả chứ không phải
là bỏ rơi ý định ban đầu. Mặt khác theo lời giới thiệu của Mai Quốc Liên
"Gần đây Nguyễn Mộng Giác và chị Diệu Chi, vợ anh có về thăm quê nhà;
tôi mới gặp lại anh - một người có chất "thầy giáo" hơn tôi nhiều" (trang 8).
Chính chất "thầy giáo" cũng là một yếu tố quan trọng trong hư cấu ông giáo
Hiến trong tác phẩm. Mặt khác nữa, với sự gửi gắm tâm trạng của tác giả,
ông giáo Hiến không chỉ đơn thuần là một nhân vật mà còn đại diện cho
một giai tầng của lịch sử là ông giáo, là trí thức. Cái gì thuộc về ông, của
ông trong tác phẩm không chỉ đơn giản là cụ thể, là cá thể. Nó vượt khỏi
khuôn khổ đó để tạo thành sự đại diện, nó lời phát ngôn về thế sự trong việc
hoàn thiện chất tiểu thuyết, nhân vật tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Mộng
Giác. Nó cũng là việc làm tất yếu của bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khi
thực hiện tái tạo cuộc sống bằng lao động nghệ thuật như là một tiểu hoá
công. Hành trình của ông giáo Hiến trong tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ", ta
có thể chung đúc lại như thế này - sống chết vì bốn chữ: ân, nghĩa, tình, luỵ.
Phải chăng Nguyễn Mộng Giác đã khai thác bốn tiếng này để hoàn thiện
một nhân vật hư cấu. Ông giáo Hiến cũng chỉ như đám dân đen trong quá
trình "vận hành" của quyền lực. Từ dấy nghiệp đến xưng vương của một thế
chế, quyền lực sử dụng ông Giáo như một phương tiện, cần thì dùng không
cần loại bỏ không thương tiếc. Suốt chiều dài chặng đường của buổi ban
đầu dấy nghiệp, ông giáo vì luỵ mà theo: Nhạc, Lữ, Huệ lên Tây Sơn
73
thượng. Cái luỵ nhờ vả, cái luỵ liên luỵ khiến ông giáo bị cuốn theo như
một lẽ tất nhiên. Ngay từ buổi đầu, ông giáo tham chính trong cuộc khởi
nghĩa như một vị "quân sư" không chính thức: cần thì "được đến" hỏi,
không cần không"được đến". ở vị thế quyền lực, Nguyễn Nhạc đã sử dụng
ông giáo một cách tuỳ tiện vô lối ngay từ buổi đầu. Khốn khổ thay bậc trí
giả, vốn rộng lượng vị tha cứ đem: Cái ân, cái nghĩa, cái tình mà đối nhân
xử thế, càng nặng căn, bền cội hơn, khi xét thấy mình đối với người từng
phải luỵ (nhờ vả). Ông giáo bị loại khỏi "cuộc chơi" quyền lực đơn giản
như lẽ đời vốn có - mưu sự hiến kế không thành - bị nghi ngờ là kẻ phản bội
- đêm hôm khuya khoắt bị cho người đến "hỏi thăm" như luật giang hồ. Rồi
"mấy lúc gần đây thấy sức khoẻ thầy sa sút, tôi áy náy lắm. Có lẽ thầy nên
tĩnh dưỡng một thời gian, gác hết mọi lo nghĩ."(trang 475). Rũ bỏ một cách
không thương tiếc, Nguyễn Nhạc lại "bọc nhung" bằng lời nói vì sức khoẻ
thầy "sa sút" vì"áy náy". Thật là giả dối, thật là đạo đức giả - kẻ đại diện
cao nhất của "quyền lực" vẫn thường vậy sao? Bao nhiêu công lao, bao
nhiêu ân nghĩa tình luỵ (liên luỵ), ông Giáo chỉ nhận được " thầy lấy tạm
hộp nhân sâm này về dùng. Loại sâm quý của Tàu đấy"( trang 475 ). Như là
một sự trả công bỉ ổi. Trời ! Một hộp sâm quý của Tàu có giá trị lớn như
vậy sao ! Gớm thay quyền lực trong tay Nguyễn Nhạc ! Một hộp sâm cắt
đứt, một hộp sâm trả công cho người đã khai tâm: Lữ, Huệ; trả công cho
người cùng nhen nhóm một nghiệp lớn. Thì ra, với quyền lực Nguyễn Nhạc
hạ một bài tính đem lại lợi nhuận lớn nhất! Tối ưu nhất ! Hơn cả những nhà
kinh tế học! Quyền lực với Nguyễn Nhạc đã tạo ra cái vô lối trong sử dụng
con người cả tâm và lực đối với trí giả. Là nạn nhân, ông giáo Hiến đem cái
sức tàn của tuổi tác, vốn đã yếu vì một thời đèn sách trai trẻ "ông có cái
hăm hở của người vội vã gây dựng một cuộc đời mới, sau một thời gian bỏ
phí thì giờ vào những chuyện không đâu." (đã dẫn). Thật bản lĩnh! Xem
những ngày tháng từng nương cửa vương quyền, có cả công lao ít nhiều,
74
ông Giáo trở về với một hộp sâm như là "những chuyện không đâu" đã qua.
Ông giáo Hiến - nhân vật trí thức đáng bậc chính nhân. Ông vào trang sách
dưới mưa nguồn tầm tã, ông ra khỏi trang sách với "thân thể ốm o biến
dạng" thật bình tâm, thật đời thường. Không một di sản vật thể để lại,
không một lời trăng trối, ông Giáo đã để lại một đạo làm thầy và nhân cách
của bậc trí giả: không tư lợi, luôn tin vào sự "tối thiện"; không uốn lưỡi bẻ
cong chân lý sách vở, tri thức như những kẻ xu thời, nịnh thế vẫn làm. Ông
đối với thế cuộc bằng đạo làm người có học và chính học trò đã đối lại với
ông bằng thứ đạo đó. Nguyễn Huệ đến phúng viếng thầy với trang phục còn
đầy bụi đường trận mạc, cử đội tống chung nhà binh đến lo an táng,
khiến..." kẻ tò mò hai bên đường, căn cứ vào quân cách của lễ tang, đoán
non, đoán già đây là tang lễ của một vị tướng nào đó"(trang 732). Phải
chăng, khi xây dựng ông giáo Hiến trong tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác đã
gửi "tâm trạng mình" qua nhân vật này và gửi gắm như thế! Theo tác giả
"các nhân vật lịch sử khác thuộc tầng lớp nho sĩ trí thức đương thời, như
Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Trần Văn Kỷ, Nguyễn Hữu
Chỉnh... tôi đều theo sát các sử liệu để tái hiện họ"(lời cuối sách).Vì lẽ này
mà tuyến nho sĩ thuộc nhân vật lịch sử, chúng tôi không bàn thêm.
*
* *
Để tạo dựng một bình diện thế cuộc, tạo da thịt cho loại hình tiểu
thuyết lịch sử, Nguyễn Mộng Giác còn xây dựng thế sự bằng sự góp mặt
của nhân vật trung gian. Điển hình trong tác phẩm là nhân vật Lợi, con rể
ông giáo Hiến. Nhân vật trung gian được xem là sự thêm yếu tố sinh động,
đầy đủ diện mạo thế sự, chất tiểu thuyết trong tiểu thuyết lịch sử. Hạng
người trung gian là một phần của muôn mặt đời thường, của một thế chế
dần định hình của "Sông Côn mùa lũ". Kiểu người như Lợi đồng hành với
thế chế đó từ ban sơ đến mục ruỗng như một thứ sản phẩm tất yếu. "Lợi tiêu
75
biểu cho mẫu người cơ hội luôn luôn tìm cách lợi dụng các cơ hội lịch sử để
tìm lợi riêng, vừa hữu hiệu đối với mọi thứ chính quyền lại vừa là mầm
mống của sự sụp đổ, ruỗng nát của các chính quyền"( lời của tác giả- lời
cuối sách). Nhân vật Lợi thuộc hạng trung gian cơ hội "tiêu biểu cho mẫu
người cơ hội". Vì thế, nhân vật Lợi được xây dựng trong tác phẩm có tính
cách, sống động, có số phận. Lợi không thuộc hai nét đậm nhất của lịch sử
(thống trị và bị trị,) cũng không thuộc những nét đậm trong tác phẩm theo
chủ ý viết của tác giả: nhân vật lịch sử, tâm trạng trí thức thời loạn, loại
người thấp cổ bé họng, người phụ nữ. Song với sự hiện diện, nhân vật Lợi,
hạng người như Lợi trong tác phẩm đã góp phần không nhỏ tạo nên cuộc
sống thứ hai của lịch sử trong tác phẩm như là nó vốn có. Lợi có cái lợi
khẩu như là trời cho, cùng với sự nhanh nhẹn, cùng với tư cách như đệ tử
ruột của biện Nhạc trong việc buôn nguồn càng là tiền đề cho Lợi - Lê Tấn
Lợi dễ dàng có nhiều điều kiện tiếp xúc với mối lợi trong quá trình vận
hành của sự nghiệp nhà Tây Sơn để kiếm lợi thực sự. Dường như, tác giả
đặt tên cho nhân vật này từ ý định khai thác cái lợi vật chất đối với một
hạng người. Có lẽ cũng vì thế, nhân vật Lợi đã tận dụng những cơ hội: khi
thì như một vận may, khi thì xoay xở để "đón gió". Những mối lợi của Lợi
(sẽ đề cập sau), có lẽ cũng chẳng là gì cả so với những mất mát quá lớn của
một đời người. Theo Tây Sơn dấy nghiệp, Lợi đã để hoạ cho cho cả gia
đình: mẹ, anh chị phải chết một cách oan khốc. Trước khi bị giết "người mẹ
già yếu bị đem ra tra tấn","đến lượt hành hạ cô vợ" của anh; "chỉ cần một
cái phất tay: toàn gia đình bị đâm chết, nhà cửa bị vơ vét hết, sạch sành
sanh trước khi phóng hoả"(trang 212). Ngay từ buổi đầu tham gia dấy
nghiệp lớn với Tây Sơn, Lợi có mối thù quá lớn "tôi không có chỗ nào để
về nữa"(trang 213). Phải chăng, từ gia cảnh này của Lợi mà dù thấy nguyên
dạng của con người cơ hội, người đọc đỡ khinh ghét nhân vật, trái lại ít
nhiều có sự cảm thông khoan hoà. Những mối lợi mà Lợi kiếm chác được,
76
trước hết từ công việc đem lại như là một khách quan, thêm vào đó là sự
hoạt bát, trải nghiệp buôn "từ lâu, việc quản lý chi thu tính toán sổ sách,
xuất nhập kho - nghĩa là trăm nghìn thứ công việc đòi hỏi sự cẩn trọng và
kém hào hứng nhất - được ông Biện giao khoán cho Lữ và Lợi. Dĩ nhiên
Lợi chỉ đóng vai trò phụ tá... Dần dà Lữ chỉ còn cái chức hàm. Mọi việc
quản lý đều ở trong tay Lợi. Từ sợi chỉ cho đến con voi. Nắm giữ quyền
hành quyết định mọi sự, nhưng lại khéo léo giấu mình trong cái vẻ ngoan
ngoãn của thuộc cấp, dành cho cấp cao niềm hãnh diện được quyết định tối
hậu, bằng lòng ở hậu trường cho kẻ khác ra sân khấu, có lẽ bí quyết thành
công của Lợi là ở trong nghệ thuật xảo điệu đó"(trang 214). Xem ra, nhân
vật Lợi là nhân vật cơ hội nhưng là một con người thực tài trong công việc,
đồng thời có nghệ thuật sống, nghệ thuật cơ hội. Nghệ thuật của Lợi không
mang tính phổ biến đối với những kẻ cơ hội thông thường - nhân vật Lợi đã
được điển hình hoá bằng "nghệ thuật cơ hội". Nhân vật Lợi cơ hội và trong
con người ấy hội tụ đủ cái tàn nhẫn, bất lương của hạng tiểu nhân đắc chí.
Sự đã rồi, Lợi không tha thứ cho kẻ buộc phải lựa theo quyền lực mà vô
tình mắc tội. Vợ chồng chú Bẩy Thìn, vì cho quân phủ mượn dây gầu để
trói mẹ Lợi mà trở thành khổ chủ của Lợi. "Từ đó, mỗi lần về Xuân Huề,
Lợi thường ghé thăm nhà chú Bẩy. Số "anh em quen biết ân nghĩa" của Lợi
được dịp chè chén no say"(trang 307). Lợi đã phải trả giá cho lối trả thù tiểu
nhân, luật rừng bằng một bản án "vì dám xúc phạm đến vị chỉ huy khả kính
của mình, vì lơ là trong công tác. Lợi bị truất hết mọi quyền hành, không
được phụ trách quân lương nữa" (trang 313). Cái án được thử thách qua một
tháng "nếu Lợi phục thiện, sửa đổi tính nết", nên với khả năng như sinh ra
để sống chung với cơ hội, Lợi mau chóng được trở lại cương vị cũ. Đối với
Huyền Khê, người đã trực tiếp khiến cho Lợi bị huyền chức, Lợi sớm ngọt
ngào thân tình như mau quên, như không có gì xảy ra "Bác thấy không, bác
đi chắc cháu không có thì giờ để ăn nữa. Đầu tắt mặt tối, quần áo lấm lem
77
hết. Có dịp về đây liên lạc công việc, bác nhắn tin trước cho cháu đi đón,
bác nhé !"(trang 422). Một buổi xuất kho của Lợi trôi chảy, toan tính; vừa
nói chuyện với Huyền Khê - kẻ thù của mình, vừa làm việc, thể hiện Lợi
năng lực, năng động. Lợi được cả tình với Huyền Khê là sự giấu mình,
được cả vật chất "gạo loại nhì hết rồi à ? Không, loại nhất giành riêng đó.
Lấy gạo đỏ phát cho họ. Nhớ đừng đong già, hụt kho không lấy gì mà
bù..."(trang 421). Gạo kém, cân non, Lợi xà xẻo khẩu phần và chất lượng để
kiếm lợi. Xuất tám mươi bao muối thiếu hẳn hai mươi bao, bớt hẳn một
phần tư số lượng cần giao
"- Sao lại thiếu hai chục bao muối ?
Lợi cười đáp :
- Bác cứ chở bấy nhiêu, về ông ấy hiểu liền" (Lời thoại giữa Lợi và
người lính già lĩnh muối trang 422). Lợi móc nối, với tay đến tận cơ sở để
kiếm lợi một cách kín kẽ. Trong công việc, Lợi toan tính trục lợi. Trong đời
sống riêng tư, Lợi biết chiều lòng người đẹp An: Hai mươi quan vay cho
Chinh, tặng an cái chén đồ sứ giang Tây chỉ có thể mua được ở các thuyền
buôn Hội An thôi. Vay hộ và chu cấp cho Chinh (anh An), Lợi làm vừa
lòng người đẹp một cách khéo léo. Công danh và đời tư, Lợi được toại
nguyện: kiếm chác xuôn xẻ, cưới An theo sắp xếp của Nhạc. Song đi đêm
lắm tất gặp ma, Lợi bị tống ngục vì cạnh tranh mối lợi buôn gạo và bị tố
giác, nhưng sự maymắn mỉm cười với Lợi. Một phần do An nhờ vả Huệ
vừa "Lợi được giải thoát một phần nhờ cơn sốt đoàn kết ấy", cơn sốt mà
vua Thái Đức Nguyễn Nhạc muốn trấn an tình hình ở Quy Nhơn, sau một
loạt những biến động lớn. Lợi giảo hoạt trong công việc để kiếm lợi như
vận may, rồi gặp hoạ. Song vừa thoát nạn, Lợi như kẻ say tiền, săn tiền và
biết xoay sở để săn tiền. Qua việc trò chuyện với Chỉnh, phái bộ của chúa
Trịnh, tầm mắt của Lợi được mở rộng. Những mối lợi lớn hơn còn đang ở
phía trước. Phải lựa chiều gió thì mối lợi lớn mới có được: dàn hoà với Bùi
78
Văn Nhật, kết thân với Nguyễn Huệ mà cầu nối là An "Cái gì mà thấp phẩm
giá! Giữa gia đình ta với gia đình anh Huệ, giữa em với vợ anh Huệ, có phải
hoàn toàn xa lạ đâu mà giữ gìn khách sáo"( trang 806). Làm quen, thân với
Chỉnh, tin và theo lời khuyên của Chỉnh, Lợi đã tiếp cận được cơ hội mới
trong một tương lai gần "Lợi gật đầu, đôi mắt ngước nhìn Chỉnh biết
ơn"(trang 824). Con người cơ hội của Lợi được "khai tâm" bởi bậc thầy
"túc trí đa mưu" - Nguyễn Hữu Chỉnh. Từ kiếm lợi cụ thể, vặt vãnh, Lợi đã
được trang bị tầm nhìn, len lỏi trong chính trường kiếm lợi lớn hơn và leo
cao hơn. Lợi sử dụng tối đa mọi mối quan hệ, đặc biệt với Huệ - con người
đang dần trở thành tâm điểm của sự nghiệp nhà Nguyễn Tây Sơn. Bước
đầu, Lợi đã gặp may hay đúng hơn là hành động "đón gió" của Lợi đã gặp
đúng luồng gió. Lợi được giao nhiệm vụ ra Phú Xuân chia rẽ nội bộ địch,
dọn đường cho chiến dịch "vượt đèo Hải Vân". Đón đúng hướng gió, Lợi
được theo dòng thần tốc của đoàn quân Tây Sơn Bắc tiến vào kinh thành
Thăng Long. Lợi xả hơi trác táng cô đầu, nhà trò ở chốn kinh kỳ ngàn năm
văn hiến. Lợi đắc chí, thưởng thức thành quả, tự thưởng cho mình với tâm
trạng của kẻ gặp thời, "Lợi hứng chí rót đầy một chén rượu đến mời nàng...
càng uống da thịt nàng hồng và cái nhìn càng long lanh một vẻ thách đố
khinh bạc. Lợi van vỉ hỏi tên..."(trang 1029). Trở về Phú Xuân sau cuộc rút
lui về Nam đột ngột của Tây Sơn, Lợi ở một cương vị mới. Để tránh sự
trừng phạt của Nhạc với gia đình tướng lĩnh đã theo Huệ vượt lệnh Bắc tiến,
gia đình Lợi đoàn tụ ở Phú Xuân trong cảnh sang trọng. Đây là kết quả của
lý thuyết cơ hội bậc thầy mà Chỉnh đã hướng đạo cho Lợi, kết hợp với sở
trường, kinh nghiệm. "Lợi ở trong ngôi nhà ngói trước đây là tư dinh của
quan tả ngoại Trương Phúc Loan. Thời họ Trịnh chiến Phú Xuân, ngôi nhà
này dành cho viên phó đốc thị ở. Do đó, sự sang trọng đã vượt quá dự
tưởng của An"(trang 1114). Đi xa hơn, Lợi nhờ Lãng "nhắc nhở Chính Bình
Vương hợp thức hoá chức vụ của Lợi ở Bộ Hộ"(trang 1157). Từ một Lợi cơ
79
hội xà xẻo, bớt xén, gian lận trong cấp quân lương... Lợi đã chen chân và có
chỗ đứng trong chính trường. Một vị thế mới và những hiểm hoạ mới. Nếu
như trước đây chỉ là sự "xúc phạm tới vị chỉ huy khả kính của mình" và "lơ
là trong công tác", là tội biển thủ khi lo cấp lương cho việc xây thành; giờ
đây, Lợi bị khép vào tội mưu phản vì chính trường cũng như chiến trường(
Lợi bị tống giam vì tranh mối với Bùi đắc Tuyên và bị Tuyên vu khống
mưu phản). Nhờ An vận động, gặp Huệ xin, Lợi thoát nạn. Một lần nữa, lối
sống cơ hội của Lợi phải trả giá: lần trước chỉ một tháng, lần sau thoát nạn
một phần gặp may nhờ vận động và cả chủ trương đoàn kết, lần này cơ may
lại mỉm cười với Lợi. Có lẽ bởi chính sự rung động một thời An Thái còn
dư ba mà Huệ đã tha Lợi theo thỉnh cầu của An. Hạng người cơ hội ví như
đàn cá ăn nổi nhạy bén với thời cuộc, song một khi thời cuộc gợn sóng ví
như chà đã rung, cá nhảy loạn. Được thả song Lợi mất hết tất cả. Từ việc
"mưu phản" là sự vu khống, Lợi đã thành con người làm phản với ý định
trốn vào Gia Định theo Nguyễn ánh. Việc không thành bởi lời khuyên của
An mà cũng chính là ý định của tác giả sắp sửa hạ một dấu chấm sang dòng
cho nhân vật này, rút nhân vật khỏi cuộc chơi thế sự trong tác phẩm. Lợi
tham gia đốt kho thóc giữa lúc nước sôi lửa bỏng nhất - Huệ chuẩn bị lên
ngôi đế, chuẩn bị Bắc phạt quân Thanh. Lợi mắc trọng tội, không gì còn
cứu vãn được. Lợi bị hành quyết - khép lại cuộc đời, thân phận của một
nhân vật cơ hội điển hình. Số phận của những kẻ cơ hội không nằm ngoài
quy luật vốn ngặt ngòi và công bằng của lẽ đời " sinh nghệ, tử nghệ ", đi
đêm có ngày gặp ma. Từng bước đi, từng bước thăng trầm của nhân vật
Lợi, Nguyễn Mộng Giác thể hiện hợp lý, đặt vào sự kiện lịch sử để cá tính
hoá, điển hình hoá nhân vật. Vì thế Lợi không chỉ là một nhân vật, một con
người mà là một hạng người- hạng người cơ hội mà Lợi là những gì tụ hội
từ họ. Lợi bị hành quyết hay chính hạng người cơ hội bị hành quyết. Lợi bị
trừng phạt bởi tội danh làm phản hay chính cơ hội trong tay những kẻ cơ
80
hội làm phản với thể chế. Bọn cơ hội chen chân vào chính trường một cách
đắc chí, đắc ý là mầm hoạ, là sự mục ruỗng của thể chế đó,. Việc loại Lợi,
thể hiện sức mạnh đang đi lên của phong trào Tây Sơn dưới điều hành của
Nguyễn Huệ. Tác giả xây dựng nhân vật trung gian thành công, góp phần
thành công không nhỏ cho tác phẩm. Nhất là nhân vật trung gian không tẻ
nhạt, nhân vật trung gian cá tính như Lợi làm cho tác phẩm thêm sức cuốn
hút. Nhân vật Lợi ở vị thế trung gian theo nghĩa đầy đủ nhất: sự tham gia
vào sự kiện lịch sử, sự có mặt trong gia đình ông giáo Hiến với tư cách là
con rể. Đồng thời như trên đã nói, nhân vật Lợi được đặt tên theo đúng với
tinh thần của hạng cơ hội, có tác dụng làm mờ đi những nhân vật trung gian
khác trong thiên truyện. Kiên, Lãng (hai con ông giáo Hiến) có thể xem là
nhân vật trung gian bị cuốn theo dòng lũ sông Côn. Song hai con người này,
không lựa theo chiều lũ để kiếm lợi. Kiên như sinh ra để chịu những ngang
trái ở đời. Vì hoàn cảnh gia đình neo bấn, chưa hồi sức sau cuộc trốn chạy
từ Phú Xuân vào, bà giáo Hiến qua đời, công việc phục hoá gò Miễu còn
dang dở; ông giáo muốn hoãn lại việc của Kiên - đi lính. Kiên buộc phải lên
nương nhờ Tân Sơn thượng. Bản tính chu đáo, chân thật và mẫn cán trong
công việc, Kiên bị hành hung, may nhờ Chinh và Mẫm giải cứu. Trở về An
Thái, Kiên bị bắt lính, song bị giam trong nhà lao như một con tin sáng giá
vì Kiên là con ông giáo Hiến - người được anh em nhà Tây Sơn đặc biệt là
Nguyễn Huệ nể trọng. Giải phóng Quy Nhơn, Kiên được giải thoát, viên cai
cơ bị giết. Vì sự biệt đãi của gia đình viên cai cơ với Kiên trong những
ngày bị giam cầm, Kiên cưu mang mẹ con người đàn bà goá bụa. Kiên được
làm việc ở bộ phận quân lương, cơ hội biển thủ, làm giàu trong tầm tay
nhưng Kiên phụ giúp bán hàng cho người vợ không chính thức. Thời gian
rỗi rãi, Kiên tìm đến thuyết lý "vạn vật đồng nhất thể", việc làm của Kiên
thể hiện thái độ sống: xa lánh hiện thực, sống giữa đời mà đang trốn đời.
Kiên tìm cách riêng để cứu rỗi linh hồn trong dòng lũ đời sông Côn đang
81
mùa dâng ào ạt. Cha thất sủng, Kiên bị loại khỏi cỗ máy vận hành trong tay
Nguyễn Nhạc. Kiên chấp nhận thực tại và trở thành " đạo sĩ " có uy tín với
dân chúng Quy Nhơn. Sự yên phận của Kiên trong hai tiếng " ông đạo " ít
nhiều cũng có tác dụng làm dịu đi những bất hạnh của những bà mẹ, những
người vợ lính theo Nguyễn Huệ Bắc tiến bị Nguyễn Nhạc kết tội là " quân
phản bội " và trở thành liên lụy. Kiên đã an ủi họ " bằng những lời an ủi nhỏ
nhẹ đều đều như lời ru, hoặc những ví dụ đơn giản và cụ thể, Kiên giúp cho
họ thấy: họ không phải là kẻ độc nhất chịu đựng hết nỗi khổ cực rủi ro trên
đời, sự tạm bợ của tất cả nỗi vui buồn sướng khổ nếu so với thứ hạnh phúc
vĩnh hằng đích thực.... " (trang 1169). Sống tự cứu rỗi mình và cứu rỗi
những người dân bất hạnh, Kiên cũng chẳng được yên thân mãi. Liệu,
người nhà viên cai cơ từ Gia Định ra, đến ở chung với việc làm reo rắc
những lời " Sấm " nhằm do thám, dọn đường cho Nguyễn ánh. Sợ bị lôi
cuốn vào cái việc tạo phản tầy đình, Kiên trốn lên An Thái lập am nhưng
rồi cũng bị bắt. Nguyễn Lữ đã xin để Kiên được tha tội chết và trở thành
ông đạo ở đất An Thái heo hút, lánh đời. Trước em gái - An, Kiên thú thật
về việc " lừa đảo của mình " (lời tác giả- lời cuối sách). Nhân vật kiên -
trung gian mờ nhạt trong "Sông côn mùa lũ ", nhân vật bị cuốn theo song
không lựa theo dòng chảy kiếm lợi, sớm nhận ra oan khốc của cuộc chiến,
chấp nhận tất cả để yên thân. Nhân vật xuất hiện trong tác phẩm với mức độ
khiêm tốn (chương 10, 12, 24, 26, 53, 74, 79, và 98). Mờ nhạt, nhân vật
Kiên đi suốt dọc chiều dài 101 chương của tác phẩm như sự lướt qua. Đi
qua mùa lũ sông Côn, gia đình ông giáo Hiến tan tác chỉ còn lại Kiên độc
thân và An goá bụa.
Để xây dựng nhân vật Lợi - điển hình hoá trong nghệ thuật cơ hội
thuộc tầng lớp trung gian, bên cạnh xây dựng Lợi đầy đủ cá tính, Nguyễn
Mộng Giác còn làm nền cho nhân vật này bằng đối ảnh không chỉ với Kiên
mà còn cả Lãng ( hai con ông giáo Hiến ). Nhân vật Lãng dự cuộc chơi
82
chính trường với anh em họ Nguyễn Tây Sơn có pha chút nghệ sĩ. Lãng
theo Nguyễn Huệ với tư cách ghi nhật ký - chức danh "sử quan" không
chính thức thiên về miêu tả. Lãng thầm yêu Thọ Hương với tình yêu một
phía, câm lặng. Lãng yêu cô Cúc con gái Trần Văn Kỷ - thầy đồ được Huệ
tin dùng, thì được biết Cúc mắc bệnh nan y. Lãng làm phụ trách giáo
phường diễn vè chàng Lía bị khước từ. Thất sủng, Lãng sống buông thả với
người đàn bà goá hồi xuân đầy tai tiếng. Lãng tìm đến chùa Hà Trung học
kinh Phật, mê phong lan. Chiếu khuyến nông vừa thắp lên niềm an ủi với kẻ
bị đào thải không thương tiếc đã vụt tắt vì Lãng không còn đường về nữa.
Quê ư?" Vĩ Dạ Thượng " hay " An Thái "? Chiếu khuyến nông đã khép lại
đường sống yên thân của Lãng. Lãng tìm đến cửa thiền và mất hút trong
rừng già với một thông điệp để lại đi " tìm loại mặc lan hoa đen, bảo đó là
huyền thoại chưa chắc đã có thật. Anh giấu không muốn ai biết mình đi tìm
Lan Hồ Điệp " ( trang 1436 ). Nhân vật Lãng trung gian là nạn nhân của
cuộc chơi chính trường. Lãng từng vào Nam ra Bắc, từng được hưởng niềm
vui chiến thắng của cục diện dấy nghiệp. Rồi trở thành nạn nhân của " chiếu
khuyến nông " phát ra từ thể chế mà chính Lãng đã có công không nhỏ.
Lãng lữ hành trong thiên truyện như một lãng tử nhất là sự mất hút ở phần
kết từ (chương 100). Thế sự hoá lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đã tạo nên một
gương mặt của đời sống thường nhật. Đây là nét thành công lớn của tác
phẩm. Nhân vật trung gian mà phân loại, mà điển hình hoá, mà có đối ảnh,
điểm này Nguyễn Mộng Giác đã không viết như người khác đã viết.
*
* *
Hai nhân vật Kiên, Lãng là đại diện cho hạng "thấp cổ bé miệng"có
cơ hội trở thành nhân vật trung gian song với cái gốc "tính bản thiện",
không lựa chiều xoay sở nên kết cục chẳng khá hơn những nạn nhân khốn
cùng của cơn lũ - hạng dân đen rên xiết dưới thể chế nhà Nguyễn vì thuế, vì
83
lính, vì phu. Cuộc khởi nghĩa nổi lên những mong có cuộc đổi đời song
thực chất họ bị lợi dụng như một công cụ tranh giành quyền bính. Hình ảnh
"dân đen" trong tác phẩm được nhắc đến như là sự chuyển tiếp, tiếp nối đã
tạo nên tiếng nói lên án, tiếng nói nhân đạo của tác phẩm. Đám "dân đen" là
cái nền để tác giả thể hiện một cách nổi bật một hình ảnh "dân đen" mang
tính chất nhân đạo cao nhất - người phụ nữ. Nhìn một cách đại quát, hình
tượng người phụ nữ trong tác phẩm, dường như tác giả xây dựng với dụng
ý: ba thế hệ kế tiếp nhau - Bà giáo Hiến - An - Thái. Bà giáo Hiến như là sự
hiện hữu của một thời đã thành quá khứ, hiện tại cuộc sống của cô An goá
bụa, một tương lai của Thái là kết thúc mở của cuốn truyện như là một tất
yếu - điểm dừng của tác giả trong chọn thời điểm lịch sử. Cái đã qua là hình
ảnh bà giáo Hiến. Xuất thân cô hàng cơm hến, sánh duyên với thầy đồ tiếng
có miếng không, bà giáo Hiến vào trang sách bình dị không tên, đúng hơn
là tên chồng với nghề nghiệp của chồng. Với thiên chức làm mẹ, bà sinh
cho ông giáo tới bốn nam: Kiên, Chinh, Lãng, út và một gái: An. Với vị thế
của người vợ, bà đã ghé vai cùng chồng nuôi con tần tảo bằng gánh hàng
cơm. Bà là cứu tinh của ông giáo trước hoạ liên luỵ vì tình thâm với ý đức
hầu Trương Văn Hạnh. Bà là người vạch đường đi, chỉ điểm đến cho cuộc
trốn khỏi Phú Xuân của ông giáo và toàn thể gia đình. Ông giáo Hiến có nơi
ẩn nấp an toàn nhất là trái tim yêu thương của người vợ hiền, đảm đang.
Trên con đường xuôi Nam, điểm dừng chân có địa danh An Thái, nơi chưa
một lần, bà giáo ghé thăm, chưa một lần bà gặp mặt người anh cùng cha.
Nhưng ở nơi ấy có một niềm tin ở tình người, ở tình huyết thống. Niềm tin
ấy không bao giờ nhầm lẫn và sai lạc. Gia đình ông giáo Hiến được gia đình
Hai Nhiều đón tiếp không "tay bắt mặt mừng" có lý do nhất định "Phải
thông cảm cho vợ chồng Hai Nhiều, nếu họ không tiếp đón gia đình ông
giáo một cách nồng hậu, niềm nở hơn! Từ lâu, họ đã chủ trương nên thu
người lại, thu càng nhỏ càng tốt, lẩn mất trong cái vô danh để được yên ổn
84
mà sống" (trang 52). Dừng chân ở An Thái, được vợ chồng Hai Nhiều và bà
con giúp đỡ , gia đình ông giáo đã "cao chạy xa bay" khỏi tai hoạ. Như
hoàn thành sứ mệnh, bệnh bà giáo càng trầm trọng, bà qua đời trong cảnh
chân ướt, chân ráo của chồng con ở nơi đất lạ. Một kiếp người vất vả, một
cái chết vật vã trong bệnh tật "bà gầy xọp nhanh chóng, nằm dán lên cái
chõng tre lót chiếu, không động đậy... Lưng bà giáo nổi sần rồi lở loét phía
thắt lưng." (trang 76). Một kiếp phù sinh ngắn ngủi, bà giáo đổ bệnh trên
đường trốn chạy và qua đời ở đích của chặng đường. Đời người thật vô
nghĩa. Cái nợ đời lẽ thường vẫn còn đang chồng chất: nợ chồng con, nợ
người thân chưa trả, bà giáo đã lìa xa cõi phàm trần, để lại một gánh nợ đời
không nhỏ. Ông giáo oằn lưng mà xoay xở, mà chống đỡ. Phải chăng từ
một cái nhìn cảm thông, nhân đạo, tác giả chọn ngày ra đi của bà giáo trước
lễ vu lan một ngày - 14 tháng 7. Xây dựng nhân vật bà giáo, tác giả đã xây
dựng một kiếp người - người phụ nữ. Bà giáo không còn là một con người
cụ thể mà là đại diện cho một thế hệ với tư cách là mẹ. Bà là nạn nhân tội
nghiệp của những biến loạn thời cuộc. Bà giáo hiện hữu ít ỏi trong "thế sự"
của cả thiên truyện nhưng có lẽ chính bà làm cho người đọc ghi nhận một
nhánh thứ hai của lũ sông Côn. Nhánh một với dụng ý dòng lũ Sông Côn,
dòng lũ vùng lên khởi nghĩa, lớn dậy từ những kiếp ngườibị áp bức, xiêu
bạt... đã cuốn phăng đi cái thể chế Nam - Bắc phân tranh ngót nửa thế kỷ.
Nhánh hai là dòng lũ đời, cuộc đời của những kiếp phù sinh gang tấc luôn
bị quyền lực cồn cào dâng lũ dập vùi những sinh linh tội nghiệp trót được
sinh ra làm người. Đành rằng kiếp người là hư vô "hữu không như thuỷ
nguyệt", song sự hiện hữu của một kiếp người như bà giáo Hiến - người
phụ nữ, người mẹ không khỏi làm cho người đọc xúc động và ghi nhận sự
thành công của tác giả. Đó là cái nhìn nhân đạo, cảm quan nhân đạo. Sự
tỉnh táo của bà được dàn dựng trước giờ vĩnh quyết của tạo hoá, tác giả
dành hẳn cả trang 75 đã đẩy tiếng nói nhân đạo lên một cấp độ cao hơn. Bà
85
giáo nhìn khắp lượt những gương mặt thân thuộc; cố tìm và nhận ra gương
mặt của vợ chồng người anh lần đầu và cũng là lần cuối như là sự tri ân, tin
tưởng, nhờ cậy. Con người bà giáo - bà mẹ, ân nghĩa dồi dào cả lúc chỉ còn
chút xíu hơi thở tàn. Không nói nhiều, song tác giả đã phác hoạ thành công
những nét cơ bản: rõ, đậm về chân dung người mẹ Việt Nam trong một thời
khắc của lịch sử đã đi vào dĩ vãng: tần tảo, đảm đang, hy sinh vì chồng con
và trọn vẹn cái ân nghĩa ở đời. Nhất là dù cuộc sống bị dồn nén, đầy ải, đầy
nước mắt thì cuộc sống vẫn rất đáng yêu, đáng trân trọng. Sự tỉnh táo của bà
giáo hay chính là thái độ ham sống, tình yêu với cuộc sống hay đúng hơn và
sự hy sinh cho chồng con của người phụ nữ, người mẹ Việt Nam. Tình yêu
cuộc sống luôn là điểm khởi phát làm nên sức sống mãnh liệt, diệu kỳ qua
mọi không gian, mọi thời gian. Phải chăng Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng
nhân vật bà giáo Hiến với một dụng ý như vậy.
*
* *
"Tôi rất khâm phục các bà mẹ, bà vợ Việt Nam trong thời loạn. Họ là
cứu tinh thực sự của dân tộc ta" (lời tác giả). Thực ra, lời "tâm sự" của tác
giả trong "thay lời cuối sách" không mới, không lạ; nó chỉ như là lời nhấn
mạnh thêm, khẳng định thêm. Nhưng vì "rất khâm phục", xem "là cứu tinh
thực sự", tác giả đã khơi một nguồn mạch hư cấu để thế sự hoá tiểu thuyết
lịch sử bằng hình tượng người phụ nữ. Chính nguồn mạch này, tác phẩm đã
xây dựng thành công hình tượng người phụ nữ như một truyền kỳ: Bà giáo
Hiến - An - Thái. Ba nhân vật phụ nữ bình dân, thế sự có sự tiếp nối liền
mạch. An vĩnh biệt tuổi thơ đúng hôm bà giáo mất. Thái vĩnh biệt tuổi thơ
vào cái thời điểm mẹ An goá bụa, bươn chải... Dòng lũ đời sông Côn đã
giết chết cái chất người của cô An một thời xuân sắc, một thời yêu và được
yêu để sau mùa lũ chỉ còn lại một cô An thích nghi với lối sống xô bồ, hỗn
tạp ở bến Ván mà cũng chỉ đơn giản: lo miếng cơm manh áo đời thường. Ba
86
nhân vật: Bà giáo Hiến - An - Thái được cấu trúc chặt chẽ, lô gíc nhằm thể
hiện như một quá trình về một hình tượng trọn vẹn, xuyên suốt. Bà giáo
Hiến - mở đầu; An tiếp diễn và Thái ví như một lời kết cho hình tượng phụ
nữ truyền kỳ trong một quá trình. Nhân vật bà giáo Hiến mở đầu một quá
trình đã được đặt dấu chấm hết ở chương 4 (đã trình bày ở trên). Thái là
điểm cuối của quá trình tạo nên một kết thúc mở về hình tượng người phụ
nữ. Cuộc sống tiếp diễn, người phụ nữ không chỉ góp mặt trong cuộc sống
thường nhật mà còn góp mặt trong lịch sử. Nhân vật Thái lại lữ hành và sẽ
lữ hành như thế nào trong thời điểm tiếp theo của cuộc sống, của lịch sử ?
Tạo nên lời tận mà ý bất tận của thiên truyện; tạo nên dư ba của thiên
truyện.
*
* *
Nhân vật An, phần tiếp diễn - trung tâm của một truyền kỳ về hình
tượng người phụ nữ được thể hiện như một quá trình. Không chỉ là trung
tâm của "truyền kỳ" mà còn có một vị trí đặc biệt - xuyên suốt chiều dài bộ
truyện. Nhân vật An trong hệ thống "một dây chuyền khác ở tầm thấp hơn
là mối tình (tưởng tượng) giữa Nguyễn Huệ và cô con gái ông giáo Hiến.
Mối tình đó làm cho câu chuyện được thống nhất, lại qua đó tạo thêm
những mối quan hệ khác làm nền cho bộ truyện" (lời tác giả - thay lời cuối
sách). Là nhân vật hư cấu, An được xây dựng với một đời sống nội tâm,
một tính cách hội tụ những gì thuộc phẩm chất người, phẩn chất phụ nữ
"An là sự tổng hợp kỳ diệu của tất cả mọi thái độ, đại biểu cho vai trò người
phụ nữ trong thời loạn: lãng mạn mà thực tiễn, sức chịu đựng bền bỉ, tháo
vát, sáng suốt trước hoạn nạn. (lời tác giả - thay lời cuối sách). Nhân vật An
có lẽ được xây dựng từ nhiều góc độ cảm quan về người phụ nữ: anh hùng
và giai nhân, người phụ nữ bình dân trước dòng xoáy của lịch sử, người phụ
nữ hồng nhan bạc phận, người chinh phụ, người phụ nữ hy sinh cao nhất
87
cho chồng con... Hẳn vì thế mà "An là tổng hợp kỳ diệu...". Nhân vật An là
trục đỡ cho bộ truyện, đồng thời là bản tình ca trong chất sử thi của "Sông
Côn mùa lũ" là cung bậc cao nhất của tiếng nói nhân đạo, giá trị nhân đạo
"có thể xem cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa là cảm hứng chính trong tiểu
thuyết "Sông Côn mùa lũ"" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn). Bàn về nhân vật
An là bàn về tâm điểm của giá trị nhân đạo, bàn về nhân vật của chất tiểu
thuyết trong bộ truyện, bàn về nhân vật như một trục đỡ tác phẩm, một nhân
vật của lao động nghệ thuật. Sự hiện hữu của An trong "Sông Côn mùa lũ"
như một khách lữ hành, như một chứng nhân lịch sử về quá trình dấy
nghiệp của
nhà Nguyễn Tây Sơn. Có thể ghi nhận sự thành công của Nguyễn Mộng
Giác qua "Sông Côn mùa lũ" ở cả hai phương diện: tiểu thuyết và lịch sử
trong tiểu thuyết lịch sử. ở phương diện tiểu thuyết, nhân vật An được xây
dựng thành công và đậm nét nhất. Theo trật tự thời gian của dòng chảy lịch
sử, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn làm trọn vai trò lịch sử: cáo chung Nam - Bắc
phân tranh ngót nửa thế kỷ, quét sạch quân Thanh ra ngoài bờ cõi, đồng
thời cũng là sự lữ hành của nhân vật An trong bộ truyện. Nguyễn Mộng
Giác đã xây dựng nhân vật An như một đối trọng của cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn. Từ Nguyễn Nhạc, ông biện Kiên Thành lên ngôi vua niên hiệu Thái
Đức, tác giả khắc hoạ An từ tuổi vị thành niên đến An - người vợ, An người
mẹ goá bụa nạ dòng. Nguyễn Huệ - tâm điểm của sự nghiệp Tây Sơn, tâm
điểm của lịch sử, đồng thời cũng là tâm điểm của nhân vật lịch sử trong
"Sông Côn mùa lũ" được hư cấu, thế sự hoá gắn với nhân vật An suốt chiều
dài bộ truyện. Với cảm quan "tỉnh táo", Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng
nhân vật An đi suốt mù lũ sông Côn, đi đến tận cùng của bản anh hùng ca,
bản tình ca của chất sử thi, chất tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ". Nhân
vật An "hội tụ", tâm điểm, chứng nhân lịch sử được thể hiện theo trật tự
tuyến tính - thời gian của một đời người. Có thể thấy bên cạnh sự dàn dựng
88
phong trào Tây Sơn từ khởi phát nghiệp lớn đến xưng Vương, xưng Đế của
anh em họ Nguyễn (Nhạc, Lữ, Huệ); nhân vật An được thể hiện trong tác
phẩm như là bằng niên biểu, song tuyến với lịch sử. Đây là nét đặc biệt của
tác phẩm mà cũng là sự thành công của tác giả. Tôn trọng dòng chảy của
lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đặt nhân vật, hư cấu An - trong cuộc chạy tiếp
sức: bà giáo Hiến - An - Thái song song với lịch sử. Nhân vật An không
nhập vào lịch sử. Vì những xuất phát điểm và những ghi nhận ở trên, có lẽ
những lời bàn về nhân vật An phải đặt trong sự song hành của nhân vật với
lịch sử. Nhân vật An - thân phận người phụ nữ được thể hiện bằng: An -
một thiếu niên, An - một thiếu nữ , An- một chinh phụ, An - một mệnh phụ
phu nhân, An - một quả phụ nạ dòng. Tác giả thể hiện và hoàn thiện tính
cách nhân vật qua các mốc thời gian trên. Mỗi một quãng thời gian của một
đời người - nhân vật An, tác giả lại như bồi thêm những nét đậm, riêng biệt
để có một An trọn vẹn một tính cách. Đi suốt mùa lũ sông Côn, từ một An
ngây thơ: yêu và được yêu, đến An - một quả phụ goá bụa. Điều đáng ghi
nhân ở đây là tác giả hoàn thiện tính cách An trong hoàn cảnh sống - hoàn
cảnh lịch sử. Phong trào Tây Sơn đi từ không đến có, đi từ "áo vải cờ đào"
đến dựng nghiệp Vương; tính cách nhân vật An như được "vận hành" trong
vận động này của lịch sử.
*
* *
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã đặt nhân vật An trong dòng chảy của
cảm xúc nghệ thuật mà cũng là dòng chảy của "Sông Côn mùa lũ" chuyển
nghĩa. An cùng cha mẹ, anh em trốn chạy khỏi Phú Xuân, xuôi về phương
Nam - một cuộc trốn chạy hư cấu. Tuổi niên thiếu, An bất hạnh trong cảnh
ly hương. Cuộc trốn chạy dưới màn đêm, trời mưa, đường thuỷ, đường bộ;
qua cảm quan nghệ thuật: màn đêm, trời mưa đều được chuyển nghĩa. Màn
đêm vũ trụ hay chính đêm đời. Trời mưa hay chính là mưa đời, mưa của bất
89
hạnh. An là nạn nhân bé bỏng của đêm đời, mưa đời. Cuộc trốn chạy kết
thúc ở An Thái, một địa danh mang ý nghĩa yên ổn, thái bình. Nếu như tên
đất đồng nhất với thực tại thì An Thái là miền đất hứa của An và gia đình
ông giáo Hiến. Song dù đã ở vị trí địa lý: thâm sơn, cùng cốc; An Thái mà
chẳng yên, chẳng thái bình. Màn đêm đời đã sập xuống, Đời đã mưa tầm tã
đâu bỏ sót một khung trời nào. Chân ướt, chân ráo đến An Thái, bà giáo
Hiến ốm nặng, thiếp đi triền miên, nhà đông miệng ăn, vốn liếng cạn, không
nghề nghiệp, không đất cắm dùi; nguy cơ không chết vì cường quyền của
hoạ liên luỵ thì chết đói đã hiển hiện. Vợ chồng Hai Nhiều, nơi nương tựa
của gia đình ông giáo Hiến cũng chẳng khá giả gì. Trước tình thế nan nguy,
An đã đem tuổi thiếu niên nhập vào dòng lũ đời kiếm sống bằng nghề hàng
xáo. Tuổi vị thành niên trong trắng cả thân xác và tâm hồn - tuổi hoa của
An sớm bị nhuốm màu thương trường: tranh mua, tranh bán, tính toán thiệt,
hơn và cả sự gian lận: đong già, đong non nơi góc chợ. An hay chính là một
thế hệ bị bức tử tuổi hoa bởi đêm đời, mưa đời. Đây là tiếng nói nhân đạo
đậm nét của tác phẩm. Trong khốn khó, hoạn nạn của gia cảnh, An thực sự
là cứu tinh. Cũng trong khốn khó, hoạn nạn, An như nụ hoa đời từ từ hé nở.
Bông hoa đời - An nở trong sự nghiệt ngã của dòng đời như thứ hoa dại với
sắc màu của tạo hoá mà hương thơm thuần khiết trời cho lan toả "Nước da
ửng sáng trên đôi má bầu bĩnh. Cái môi trên mọng. Chỉ trừ đôi mắt buồn
trước tuổi" (trang 101). Mỗi cử chỉ tự nhiên của An là sự làm duyên của cái
gì nguyên thuỷ, trời cho "cái dáng điệu uyển chuyển nhịp nhàng linh động
của An. Từ cách đưa ngón tay út lên vén nhẹ một mảng tóc loà xoà, cho đến
cách đưa lưỡi liếm nhẹ lên môi trên, cách rót một tách nước trà, cách gật
đầu nhận một lời chỉ bảo, tất cả, tất cả đều vừa độ cần thiết. Cử chỉ biểu lộ
sự thân mật dịu dàng, đồng thời cũng giữ riêng cho An một sự bí mật tôn
nghiêm" (trang 101). Xót thay bông hoa đời đẹp dường ấy mà lại nở trong
đêm, đêm của cường quyền; nở trong cái phũ phàng của đời đầy mưa gió.
90
Cái đẹp toát ra từ bông hoa đời - An đã khiến cậu học trò Nguyễn Huệ -
thông tuệ trong tiếp thu kiến thức mỗi lần tiếp xúc đều trở nên vụng dại
"điều ghi dấu đậm sâu vào cảm quan của cậu, khiến cậu gần như sững sờ,
như bất kỳ kẻ "trồng cây si" nào. Lại nữa " cậu đau khổ công nhận giữa cái
đẹp xa lạ ấy và mình có hố cách biệt trang nghiêm; cậu không thể nói gì
thêm, không thể phác một cử chỉ nhỏ, vì bất cứ hành động nào của cậu cũng
trở thành vụng về, thừa thãi trước vẻ đẹp toàn bích ấy. Và lần đầu tiên trong
đời, cậu cảm thấy lúng túng, thất vọng cho sự vụng dại của mình" (trang
101). Sự thông tuệ, dấu hiệu của một thiên tài phải "đau khổ", "không thể
nói gì thêm, không thể phác một cử chỉ nhỏ". nếu có sẽ trở thành "vụng về,
thừa thãi"; để chấp nhận "lúng túng, thất vọng cho sự vụng dại". Xây dựng
nhân vật An, tác giả không dùng nhiều lời miêu tả mà để nhân vật Huệ cảm
nhận về cái đẹp, bộc lộ tâm trạng về cái đẹp. Thông tuệ, dấu hiệu của một
thiên tài không giúp gì cho Huệ truyền tải tiếng nói của con tim. Trái tim
Huệ lên tiếng nói làm mờ năng lực trí tuệ, hay chính vẻ đẹp của An như một
thứ uy lực khiến Huệ dại khờ, tội nghiệp. Thể hiện vẻ đẹp của An, thông
qua tâm trạng nhân vật Huệ, Nguyễn Mộng Giác đã thành công trong sự
bình dân hoá một vẻ đẹp mà vẫn rất đẹp. Đồng thời vẻ đẹp của An qua tâm
trạng của nhân vật Huệ như là sự tri ngộ giữa anh hùng và giai nhân. Người
đẹp An trong tác phẩm là sản phẩm của cảm hứng nhân đạo "có thể xem
cảm hững nhân đạo chủ nghĩa là cảm hứng chính trong tiểu thuyết "Sông
Côn mùa lũ" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn) . Cũng vì thế mà nhân vật An
dường như càng lam lũ kiếm sống nơi góc chợ xóm núi An Thái, càng đẹp
ra. Cái đẹp theo ý nghĩa trọn vẹn để An như điểm đồng quy của hai ngả tình
yêu: Huệ, Lợi. Thời thiếu nữ của An có những quãng ngày hạnh phúc: yêu
và được yêu. Huệ đến với An như là một đối ảnh với Lợi.
Mối tình câm đi suốt mùa lũ sông Côn giữa Huệ và An đẹp như một
tính yêu lý tưởng, vì đây là tình yêu giữa anh hùng và giai nhân. Những tình
91
cảm Huệ dành cho An là tình cảm của một tình yêu cao thượng không cất
thành lời. An đón nhận thứ tình cảm ấy là sự ngưỡng mộ, vươn tới cái tầm
lớn lao của con người anh hùng. An là người đẹp được người anh hùng
ngưỡng mộ. Trở về An Thái sau khi đoàn quân khởi nghĩa đã tràn xuống từ
Tây Sơn Thượng, An xúc động khi hồi hương cùng với sự rung động của
con tim trước tình yêu. Có lẽ tác giả tỉnh táo trước lịch sử mà mối tình
không thể đi xa hơn được. Huệ gặp An sau mỗi lần trận mạc trở về. Mỗi lần
gặp Huệ, An như càng bị đẩy xa hơn trong quan hệ - mối tình câm. Trong
tình cảm Huệ, An không chỉ là hiện thân của cái đẹp có sức cuốn hút bởi bề
ngoài "Cái bếp hơi thấp, nơi có một người con gái mắt sáng, cổ cao và
trắng, mặc chiếc áo có vết rách ở cùi chỏ"(đã dẫn). Sự cuốn hút mộc mạc
thanh khiết toả ra từ nơi An, trong nhãn quan, cảm quan của Huệ nó thuần
khiết, trong trẻo không vướng một tý nhục dục nào. Huệ muốn An không
chỉ đẹp và cuốn hút bởi cái bề ngoài của một giai nhân đã được dân dã hoá
mà còn phải đẹp cả tâm hồn. Huệ tặng An tập thơ Đỗ Phủ - đây là kỷ vật
duy nhất Huệ tặng An để bày tỏ hoài vọng về một mối tình câm. An đón
nhận với sự trân trọng, ngưỡng vọng, "em quý nó lắm chứ. Em đọc mà cứ
sợ bụi bám vào, giở hé rồi cất đi" (đã dẫn). An thật thà, mà có lẽ trái tim
yêu muôn thuở không nói dối, chỉ có kẻ vờ yêu mới dối được, nhưng là cái
dối ở cửa miệng chứ không phải con tim. Với tập thơ Đỗ Phủ, Huệ hoài
vọng, ước mong nó là vật trao duyên, thay lời thì An lại đặt tập thơ vào một
tình huống "Quyển sách đẹp lắm" "Anh biết không, Thọ Hương hỏi em đói
thì đổi được mấy bát gạo
Huệ hơi xẵng
- Rồi cô trả lời sao
An cười đáp
- Em bảo chẳng được bát nào cả" (đã dẫn). Giữa Huệ và An có những
điểm không gặp gỡ, không ăn nhịp trong sự đồng điệu của tâm hồn. Huệ
92
đau khổ vì không có tri kỷ hơn là một tình yêu. Đến ngày An "lên xe hoa",
những tình cảm, những lãng đãng về một tình yêu với Huệ được đặt dấu
chấm hết. An coi Huệ như một người anh, một người bạn, một người có
một thời để nhớ. Những lúc gia đình gặp nguy biến, Huệ là cứu tinh cho gia
đình An. Huệ - An không thành đôi lứa bởi lẽ đời anh hùng nuốt hận vì
thiếu vắng giai nhân và tri kỷ, hay bởi vạch cấm chỉ của lịch sử, hay bởi tại
một nguyên lý câm giữa đời: Cái đẹp, quyền lực luôn hướng tới song không
bao giờ quyền lực có được cái đẹp như một sự sở hữu. Cái đẹp của sự toàn
bích thường bị gió bụi cuộc đời nhuốm bẩn vì thế đời mới thêm những dòng
lệ giai nhân rơi trong đời, rơi trong tác phẩm văn chương. An giữ chừng
mực với Huệ trong quan hệ vợ của kẻ thuộc hạ với thượng cấp. Nhân vật
An đầy tự trọng trong quan hệ với Huệ khi Huệ đã ở ngôi vị Hoàng đế. Mối
tình Huệ - An hay đúng hơn là tình câm giữa hai nhân vật thuộc hai lãnh
địa: tiểu thuyết và lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử như cái nụ hoa không nở
thành hoa được. Mặt khác, nhân vật Huệ, tác giả không chỉ dừng ở mức độ
phản ánh lịch sử thông thường vô cảm mà thêm vào đó sự tôn kính nhân
vật anh hùng lịch sử, nên tình yêu có điểm dừng ở cả hai phía. Huệ tôn
trọng An - người anh hùng tôn trọng giai nhân. Điều này khác hẳn việc sử
dụng An như một phương tiện của nhu cầu chính trị như Nguyễn Nhạc.
Nhạc gần như ép ông giáo Hiến gả An cho Lợi. Việc làm này đem lại cho
Nhạc một việc đạt hơn một mục đích: vừa gia ân cho thuộc hạ, tăng mối
giàng buộc giữa những con người ít nhiều có sự gắn bó, cho thiên hạ thấy
việc làm "nhân nghĩa" cao cả, mặc dù đám cưới như là sự nhân thể trong lễ
đón nhận ấn kiếm của của chúa Trịnh. An bị xem là một phương tiện hữu
hiệu của mục đích chính trị. Có lẽ vì Nguyễn Nhạc "gian hùng nhiều hơn
anh hùng" (lời cuối sách). Thông qua tình yêu Huệ - An, tác giả bày tỏ thiện
cảm với nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ trong quá trình thế sự hoá nhân vật
mà hư cấu như vậy.
93
*
* *
Một "con đường" khác đến với tình yêu của An là Lợi. Bên cạnh một
Nguyễn Huệ thông tuệ, dấu hiệu của anh hùng, vĩ nhân lịch sử là nhân vật
Lợi bình thường - thảo dân theo nghiệp nhà Nguyễn Tây Sơn trở thành nhân
vật trung gian. Giữa Huệ - chàng trai mà An luôn "ngưỡng mộ", thấy mình
không ăn nói rành rẽ "chẳng đâu vào đâu cả", với Lợi - chàng trai mà An
cảm thấy gần gũi như có sự đồng cảm, mặc dù An biết Lợi tầm thường bên
cạnh Huệ. Lợi lấy An là sự hợp lô gíc kết cấu của tác phẩm vì cả hai nhân
vật là sản phẩm của tiểu thuyết, của lao động nghệ thuật. Một kẻ tầm
thường như Lợi nhất là chất người cơ hội, chất người tầm thường, từ săn
đón gia đình An chu đáo, thường xuyên từ tĩn mắm, đến chén sứ Tàu chỉ
mua được ở ngoài cửa Hội . Lợi không ngờ lại được Nhạc tác thành với An
nên vợ nên chồng. Đêm tân hôn với Lợi, An như "đào tiên đã vướng tay
phàm". Tất cả các giác quan của Lợi đều thức tỉnh sự "tham lam" nhất là
đôi tay. An bẽ bàng trong đêm tân hôn trước những cử chỉ xô bồ của Lợi, bẽ
bàng trao sự trong trắng cho Lợi và trao cả cái bí mật kinh nguyệt cho Lợi
nữa. Hạnh phúc chăn gối lùi lại sau đêm tân hôn. An quen dần việc sinh
hoạt chăn gối với Lợi. Một thiếu nữ An thực sự đã chết, thành một An thiếu
phụ, chinh phụ. Lợi lo chuyển quân lương, lo cấp phát nhu yếu phẩm cho
nghĩa binh, không mấy khi có nhà, An vò võ nuôi con một mình. Đứa con
trai đầu lòng của An "thằng bé... nó bị lở khắp mình khóc không ra hơi nữa"
(trang 615), An không phải lo đói ăn vì tài xoay xở của Lợi thì lại lâm vào
cảnh đói ngủ. Vừa nuôi con lại vừa phụng dưỡng cha già, bao nhiêu công
việc không tên trong gia đình đổ lên đầu An. Đã thế, An lại phải làm vừa
lòng lớp quý tộc mới - bầu đoàn thê tử của những con người vừa bước lên
đài vinh quang chiến thắng. Họ học đòi thêu thùa, học đòi trang điểm để
đáng mặt với những chức danh mới: Phu nhân, Công chúa, Hoàng hậu. Một
94
nhóm người thực sự đã được đổi đời. Không kể đến hạng cùng, dưới đáy ,
nhân vật An cũng chỉ được hưởng cái quyền là được nương cửa vương
quyền. Dường như An chỉ được xem như là cái bút tô vẽ cho khuôn mặt
"khả kính" của vợ con thiên tử và những tướng lĩnh. An trở thành một nạn
nhân "êm dịu" của thói đời - học đòi của những kẻ vừa mới hôm qua với An
là đồng cảnh là những nạn nhân của đêm đời, mưa đời. Mới hôm qua, bậc
đấng quý tộc còn là hạng người xiêu bạt cùng hội cùng thuyền với An và
bao người khác nữa. Lịch sử như một dòng sông đời cứ trôi chảy mãi, sự
phân định thứ bậc của con người chỉ trong một gây lát của dòng chảy lịch
sử . Dòng sông Côn đang mùa lũ, mỗi một cuộc đời dân đen bị "mưa đời",
"đêm đời" ban phát từ thể chế chúa Nguyễn đều góp phần vào dòng lũ sông
Côn. Trong lẽ được mất của một đời người, họ chẳng được gì cả vì dân là
vạn đại. An không chỉ là người phụ nữ cụ thể mà còn là đại diện cho cả một
thế hệ phụ nữ trong mùa lũ sông Côn, trong cơn vật vã của lịch sử để tân
tạo. Lẽ được mất của An coi như là con số không, vì nếu không có chuyển
dòng của lịch sử, bị nắn bởi "lũ sông Côn", thì An sống với góc chợ An
Thái lần hồi đủ ăn. Nay cùng khơi nguồn lũ, nắn dòng chảy để rồi, An ở đất
phủ Quy Nhơn với: nâng khăn, sửa túi cho mệnh bà, quý cô. Có lẽ thông
qua quãng đời chinh phụ và những việc làm của An ở Quy Nhơn, Nguyễn
Mộng Giác viết "Sông Côn mùa lũ" không chỉ gửi gắm tâm trạng qua giai
tầng trí thức mà còn gửi gắm tâm trạng qua hình tượng người phụ nữ, mà
xem ra nó còn nặng căn hơn cả cái chủ ý của cuốn thiểu thuyết. Không có
sự đổi đời hay nói cho đúng hơn, người phụ nữ thông qua nhân vật An,
trước những thành quả của khởi nghĩa được đổi thay công việc "buôn thúng
bán mẹt" thành con người gọi dạ, bảo vâng nơi cửa vương quyền. Không
chỉ thế An sống trong cái bấp bênh, nơm nớp vì Lợi là con người cơ hội, lại
có điều kiện tiếp xúc với cơ hội xà xẻo kiếm chác. Đến một ngày kia cha
thất sủng, Lợi vào tù vì biển thủ công quỹ, bớt xén quân lương, An trở
95
thành vợ của phạm nhân. Cảnh An đi thăm Lợi được miêu tả với những
dòng cảm động. Tác giả dẫn dắt khá chi tiết. Lợi bị bắt đóng gông trước
mắt An "Lợi bị đóng gông dẫn đi rồi chị vẫn còn ngồi trân người trên cái
chõng tre, y như một cái xác bất động (cuối 698 đầu 699). Lợi bị bắt là sự
trả thù cá nhân của Phạm Ngạn, vì Lợi trót nói trong niềm vui quá đà, để
làm đẹp lòng hoàng hậu về sự kém hiểu biết nghệ thuật chạm khắc gỗ của
quan nội hầu. Tội danh cũ đã khép lại, hồ sơ không tra cứu nữa lại được sử
dụng. Vì thương anh rể, thương chị gái, Lãng chủ động xin với Nguyễn Huệ
để Lợi được ân chuẩn, hy vọng Lợi sẽ được giúp đỡ, Lãng nói với chị và
được đáp lại - "An cáu kỉnh hỏi:
- Sao lại đi báo cho người ta ?
- Em nghĩ chỉ có anh ấy là có thể... có thể... An to tiếng, bực tức:
- Có thể... có thể làm gì " người ta là em rể. Họ đã trở thành sui gia
của nhau. Dĩ nhiên ông Nhật phải báo cho người ta biết hoặc đã bàn bạc với
nhau chán mới ra lệnh bắt. sao mày ngây thơ thế ! Mày van xin năn nỉ
người ta à ?" (trang 702). Tức giận lại thêm tự trọng, An khước từ tất cả
những cố gắng vận động của Lãng với Huệ "đến... đến mức này mà em còn
u mê ! còn chưa thấy lòng dạ người ta. Họ toan tính, toa rập với nhau từ lâu
để loại bỏ cha, rồi bây giờ đến lượt anh Lợi..." (trang 705). Không nhờ vả,
van xin, An tự thảo đơn khiếu oan cho chồng. An đàng hoàng "đem son
phấn cũ ra trang điểm. Chị lục tìm bộ quần áo thật đẹp may từ ngày cưới..."
(trang 706); đến thẳng dinh quan Hình bộ với tất cả sự tự tin toát ra giọng
nói "Tôi cần gặp quan Hình bộ". Cách ăn mặc, nói năng của An đã có tác
dụng nhất định. Đơn được chấp nhận kèm theo một lời hứa đầy hy vọng
"lúc nào xét xong có người đến báo tận nhà". Hy vọng tiêu tan vì lời hứa
kia là sự đuổi khéo. Bặt vô âm tín, mười ngày sau, An trở lại bộ Hình thì
được trả lời: hồ sơ đã chuyển sang bộ Hộ, đến bộ Hộ được trả lời: hồ sơ đã
được chuyển sang bộ Công. Sự đùn đẩy vòng vo, có đi, càng đi cũng chỉ vô
96
ích, vì An đã được người lính nói cho biết sự thật "Vụ anh Lợi chuyển từ bộ
Hình qua bộ Hộ, từ bộ Hộ chuyển quan bộ Công rồi chắc chắn bộ Công lại
trả về bộ Hình...". Hy vọng khiếu oan cho chồng hoàn toàn tiêu tan, An phải
chờ đến ngày lễ vu lan - rằm tháng bảy viết đơn để được thăm Lợi. Để được
chấp thuận đơn, An đã vất vả, được gặp chồng qua mấy lần cửa phải có tiền
lót tay: viết tên chồng "chỉ tốn một quan thôi" (trang 715), để đến được
hàng rào gần Lợi hơn "muốn nhìn được mặt thì phải tốn thêm hai quan nữa"
(trang 715). Vất vả, tủi nhục, uất hận, thì ra bấy lâu nay, An và cả những
sinh linh thấp cổ bé miệng chỉ là phương tiện, là nấc thang xây vinh quang
cho kẻ khác mà kẻ ấy vừa mới hôm qua là đồng hành với An, với gia đình
ông Giáo. Bao nhiêu máu đổ, đầu rơi để có được một thể chế mới, thì chính
những con người làm nên sự nghiệp của thể chế đó chỉ vì tư thù mà thoắt
trở thành nạn nhân khốn khổ, sầu thương và uất hận. Tiếng nói tố cáo, một
trong những nội dung hợp thành giá trị nhân đạo của tác phẩm, thêm một
lần nữa, người đọc ghi nhận cảm hứng nhân đạo của tác giả khi viết "Sông
Côn mùa lũ". Như phần đã bàn, nhân vật Lợi sống trong cơ hội, sống chung
với cơ hội và luôn săn tiền, săn vật chất bằng cơ hội. Chồng vì "đi đêm gặp
ma", An đi thăm chồng giữa thanh thiên bạch nhật gặp cả ma lẫn quỷ: ma
gác cổng, quỷ công đường, quỷ coi ngục và những con ma đói khát bởi thân
tù đầy đến độ tàn tạ. Từ tủi nhục trong thân phận vợ của phạm nhân và cũng
chỉ một lần gặp cả ma lẫn quỷ, An ngộ ra rằng mình đang sống với ma quỷ
mà không hay. Cũng chỉ một lần thăm chống, An dường như đã thành con
người khác, thích nghi hơn với các cuộc làm ăn của Lợi. Lợi được phóng
thích vì nhu cầu của chiến trường: đoàn kết, cần người thực tài đảm trách
việc chuyển quân lương, đóng tàu thuyền... cho cuộc Nam tiến. Ngoài Lợi
ra ít ai đảm trách được. Bị cuốn theo dòng lũ lịch sử sông Côn, Lợi hăm hở
ở vị thế cũ được phục hồi, theo đoàn quân Nam tiến thắng lợi. Như được
hồi sinh, Lợi nhận trọng trách ra Phú Xuân theo kế hoạch chia rẽ hàng ngũ
97
địch, tham gia đánh chiếm Phú Xuân thắng lợi, thừa cơ Bắc tiến vào Thăng
Long. An lại sống những ngày tháng chinh phụ. Lợi ca khúc khải hoàn, trở
về Phú Xuân. Bắc tiến của Nguyễn Huệ Thắng lợi, được vua anh quở trách
thay cho liên hoan báo tiệp. Các tướng lĩnh theo Huệ không thoát khỏi bị
trách mắng công khai. ở Quy Nhơn, sợ bị khủng bố, An trốn ra Phú Xuân
tìm Lợi. Thế là từ buổi thiếu thời đến khi làm mẹ, An đã trải qua hai lần
trốn chạy khỏi liên luỵ: trước là luỵ cha, sau là luỵ chồng; trước xuôi Nam,
sau ngược Bắc. Mà cái thân trốn chạy thì kể sao cho xiết nỗi cực nhọc, tủi
hổ, đói khát... Để đến được cửa Thuận trên chiếc thuyền buôn mắm, An đã
phải trả một giá đắt vì phải hối lộ qua các trạm trên sông "lên được cửa
Thuận thì bao nhiêu tư trang, tiền bạc này cháu xin biếu bác để bù vào tiền
phí tổn ra vào" (trang 1105). Thuyền không lên Phú Xuân được, An lại phải
đi thêm một chặng đò dọc, tiền hết phải trả giá tiền đò bằng cái áo luạ. Tủi
nhục hơn khi "người vợ chủ đò xem xét cái áo thật kỹ, rồi nhìn cách ăn mặc
dơ dáy lôi thôi của ba mẹ con nghi ngờ hỏi:
- Của chị đấy à ?
An nhìn xuống quần áo mình, đỏ mặt nói:
- Đi đường xa quá nên trông bẩn thỉu như ăn mày. Vâng, của tôi đấy.
Người vợ lại xem kỹ cái áo lụa, giơ lên mặt trời coi có bị vá hoặc bị
lỗ gián nào không. Chị có vẻ thích chiếc áo, nhưng vẫn hỏi lần nữa:
- Không phải của ăn cắp chứ ?
An cố nén giận đáp
- Không, của tôi mà !" (trang 1108)
Cuối chặng đường chạy trốn cùng cha, An đến điểm dừng chân là An
Thái, sống với những người dân núi, với vợ chồng cậu mợ và được họ bảo
bọc, cưu mang trong sự ấm áp của tình thân, của những con người nghèo
khó. Trốn chạy, tìm chồng, An dừng chân ở Phú Xuân, kinh đô của chúa
Nguyễn, được thưởng thức mùi phú quý "Ba mẹ con được họ trân trọng đưa
98
về tận cửa thành Phú Xuân, như những mệnh phụ, vương tôn giả trang vi
hành thăm dân trở về" (trang 1114). Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang,
Lợi bị Bùi Đắc Tuyên lợi dụng cơ hội lại tìm cách hãm hại. Một lần nữa An
lại giải cứu cho chồng. Lợi thoát nạn, lâm vào tâm thế hoang mang, định
trốn vào Nam theo Nguyễn ánh. An kịp thời can ngăn. Gia đình được sống
yên ổn thêm một thời gian nữa. Khi mọi cơ hội đã không hé mở với hạng
người cơ hội như Lợi thì hành động làm phản là một tất yếu. Lợi tham gia
đốt kho thóc giữa lúc Nguyễn Huệ chuẩn bị lên ngôi đế, chuẩn bị Bắc tiến,
tảo phạt quân Thanh, Lợi bị hành quyết. Một thoáng sang giàu, yên thân,
đoàn tụ sau những ngày chính phụ dài đằng đẵng, một ngày như ba năm. Sự
đắp đổi chưa được bao nhiêu, An hứng chịu cảnh goá bụa. Hạnh phúc lứa
đôi, gia đình tan vỡ. Linh cảm trước điều chẳng lành, một lần nữa, An lại
trốn chạy, chạy lộn trở vào Bến Ván - vùng giáp ranh lãnh địa giữa Nguyễn
Nhạc và Nguyễn Huệ. An sống trong cảnh xô bồ của vùng đất vô chính
phủ, song với khả năng thích ứng, quyền biến trong hoạn nạn, An tạm thời
có một cuộc sống yên ổn. Cuộc sống ở Bến ván của mẹ con An là cuộc trốn
chạy cuối cùng với mọi dạng thái thể chế. Trốn chạy khỏi thể chế chúa
Nguyễn theo cha, trốn chạy khỏi thể chế của vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc
tìm chồng, trốn chạy khỏi thể chế Bắc Bình Vương - Nguyễn Huệ - Quang
Trung; để dừng chân ở vùng đất không thuộc loại hình kiến trúc vĩ mô nào.
An và những thành viên trong gia đình ông giáo Hiến dự vào việc khơi
nguồn lũ sông Côn chảy tràn vào trang sử, như dòng thác thực ngoài đời,
dòng thác của sức mạnh vùng lên đổi đời mang tên dòng sông miền sơn
cước Tây Sơn - Sông Côn. Dòng lũ sông Côn đã cuốn phăng cái thể chế cũ,
thu giang sơn về một mối - hạ huyệt cho cảnh Nam Bắc phân tranh, quét
sạch quân Thanh ra ngời bờ cõi. Sự nghiệp vinh quang này được xây bằng
biết bâo xương máu của những con người vô danh để có một nhà Tây Sơn
hữu danh trong sử sách. An và các thành viên gia đình ông giáo Hiến thuộc
99
những con người vô danh ấy. Đặt tên cho mỗi con người trong gia đình ông
giáo Hiến, thực chất là Nguyễn Mộng Giác đã đặt tên cho một vài anh hùng
vô danh trong ngàn vạn anh hùng vô danh. Vượt khỏi tên tuổi cụ thể: Kiên,
Chinh, Lãng, An là sự đại diện cho những tầng lớp người mà thân xác đã
nát cùng cây cỏ. Ông giáo Hiến không chỉ là trí thức cụ thể mà còn là người
cha trong lớp anh hùng vô danh. Kiên, Chinh, Lãng, An không chỉ những
con trai con gái ông giáo Hiến mà còn là thế hệ trẻ vô danh trong mùa lũ
sông Côn. Nhân vật An là con người vô danh đại diện cho người phụ nữ
trong sự vận hành của cuộc khởi nghĩa, An vừa là người dự vào khơi nguồn
lũ đời sông Côn lại vừa nạn nhân của thành quả mà dòng lũ đã thiết lập, đã
tân tạo. Nhân vật An được hư cấu mang tính đại diện, tính điển hình; vì thế
tất cả những gì là An, thuộc về An đều có tính đại diện, tính điển hình. Đặt
An trong thế được mất của một đời người mà cũng là được mất của người
phụ nữ trong sự vận hành đặc biệt của một quãng thời gian lịch sử - cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn, người đọc dễ nhận thấy: An hay chính là người phụ nữ
gánh chịu nhiều nhất những tác động của lịch sử, của dấy nghiệp cho cuộc
thay đổi thể chế. Nhưng suốt dọc chiều dài của mùa lũ sông Côn, An
"được" duy nhất một điều là được đặt trong những tình thế buộc phải phân
thân . Một An Vĩ Giạ thượng trốn chạy cùng cha đến An Thái, hơn chục
tuổi đầu (14 tuổi) sớm trở thành cô hàng xáo góc chợ núi An Thái, đỡ cha
chống lại cái đói thường nhật. Một An vượt lên cái lam lũ đời thường, đẹp
như bông hoa đầy sắc hương nở ra trong nghiệt ngã để yêu và được yêu.
Một An biến thành vật hy sinh cho mưu đồ chính trị của vương quyền, một
An chinh phụ, một An mệnh phụ phu nhân, một An goá bụa, một An bươn
chải nuôi con nơi Bến Ván vô chính phủ. Những thăng trầm, phân thân của
nhân vật An là sự nói khác đi của những mất mát quá lớn đối với người phụ
nữ. Có thể xem, nhân vật An ví như cao trào đỉnh điểm của bản nhạc mang
nội dung nhân đạo vì "... có thể xem cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa là cảm
100
hứng chính trong tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ"" (Phan Cự Đệ-tài liệu đã
dẫn). Nhân vật An khép lại bộ truyện bằng việc trốn ra Phú Xuân, với cái
cớ đi tìm Lãng, dự đám tang Nguyễn Huệ một cách vô danh. Bộ truyện đã
khép lại, điểm dừng trong lựa chọn thời điểm lịch sử của tác giả đã dừng,
song việc làm của An một lần cuối toả sáng cái ân nghĩa ở đời. Với Nguyễn
Huệ, An có một thời tuổi thơ để nhớ, một thời tuổi hoa, tuổi yêu ngưỡng mộ
và hơn một lần đau khổ vì con tim mách bảo lời yêu mà suốt đời câm lặng.
Với Nguyễn Hụê, An dự tang là tiễn đưa một người anh, một người bạn trai
cho dù hiện tại con người ấy ở góc độ quan hệ thế nào với cái tổ ấm của Lợi
- An đã trở thành tổ lạnh từ chính quyền lực trong tay Nguyễn Huệ. Việc dự
tang của An còn như là sự đáp lại cái ân cứu tinh hơn một lần với gia đình
Lợi - An. Có lẽ cũng qua việc An dự đám tang Huệ còn là sự đại diện cho
những đưa con ông giáo Hiến, kẻ còn người mất, đáp lại những cử chỉ cao
thượng của Huệ trong đám tang người cha, khiến cho hương hồn ông giáo
Hiến được mát mẻ nơi chín suối. Việc dự tang Huệ của An phải chăng là
thể hiện sự thuỷ chung của một mối tình câm. Thế nào chăng nữa, thì việc
dự đám tang Nguyễn Huệ của An một cách vô danh, vẫn gợi cho người đọc
những nghĩ suy , những xúc động không nhỏ. Đi suốt chiều dài bộ truyện,
nhân vật An hay chính là cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa được tác giả nhen
nhóm như ngọn lửa để nó bùng lên, cháy suốt, toả ánh sáng cho bộ truyện,
tạo nên sức hấp dẫn "xem được" của tác phẩm. Tác giả khép tác phẩm bằng
sự kiện: từ Phú Xuân trở về của An, Bến Ván đóng cửa sau đám tang
Nguyễn Huệ, Thái vĩnh biệt tuổi thơ (kinh nguyệt lần đầu). Hai thế hệ phụ
nữ sẽ về đâu? làm gì ? Khi Bến Ván xô bồ, vô chính phủ lại trở về nguyên
trạng vùng cát, vùng đất chết, về đâu, làm gì khi cỗ máy lịch sử vẫn còn
đang tiếp tục vận hành và sự nghiệp còn dang dở của nhân vật lịch sử -
Nguyễn Huệ vẫn còn tiếp diễn. "Sông Côn mùa lũ" được kết thúc mở -
những ngày tháng tiếp theo của mẹ con An khiến người đọc không khỏi
101
động lòng trắc ẩn, cảm thương tạo nên dư ba của bộ truyện - lời tận, ý bất
tận. Hai mẹ con người đàn bà goá bụa, trơ trọi nương tựa vào nhau ở cái nơi
mà chỉ nay mai thôi là vùng đất chết. An động viên con "Nhưng con ơi, con
còn có mẹ đây. Hãy chùi nước mắt đi ! Thái ngoan của mẹ !" (trang 1442).
Lời nói cứng cỏi, tự tin, từng trải của An khiến người đọc vơi đi phần nào
niềm thương cảm, ái ngại. Hai thân phận: An, Thái; hai mẹ con bơ vơ giữa
dòng đời sau lũ sông Côn. Lời An nói với con thể hiện thái độ ham sống,
một tinh thần cứng cỏi ở người quả phụ từng trải. Tiếng nói nhân đạo, cảm
hứng nhân đạo như ngọn lửa cháy và toả sáng từ mở đầu tác phẩm đến con
chữ cuối cùng tập trung vào nhân vật An, qua nhân vật An. Thứ ánh sáng
nhân đạo ấy như tấm lòng bỏ ngỏ, đợi chờ độc giả không ngợp trước mấy
ngàn trang sách để trao gửi như những người bạn tâm giao về một thời đã đi
vào quá vãng của lịch sử. Nhân vật An, cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa là sự
tập trung thể hiện của nội dung tác phẩm, đồng thời cũng là tâm điểm thành
công của "Sông Côn mùa lũ".
*
* *
Trong bình diện tiểu thuyết của "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng
Giác còn hư cấu đám dân chúng vô danh "chịu đựng những cơn lốc của lịch
sử" (lời tác giả - lời cuối sách) . Lại nữa " những nhân vận phụ xuất hiện
như những người bình thường bị lịch sử lôi kéo vào từng chặng của các
biến cố tiếp nối " ( lời tác giả ). Không chỉ thông qua lời tác giả, nếu đọc tác
phẩm, người đọc dễ nhận thấy đám dân chúng " hư cấu " chỉ giữ vai trò làm
nền, là sự chuyển tiếp của các sự kiện cũng như là làm nền cho sự xuất hiện
và hoàn thiện những nhân vật trung tâm. " Đám dân chúng " trong tác phẩm
dường như là thay lời dẫn dắt của tác giả, có tác dụng hoàn thiện một cách
lô gíc về kết cấu hơn là khắc hoạ về phương diện nội dung. Vì những lẽ trên
mà " đám dân chúng " không đề cập như là sự tìm kiếm để phân tích, để
102
cảm và hiểu trong bài viết này.
* *
*
Nội dung của "Sông côn mùa lũ " là điểm hội tụ và thành công với ba
nguồn cảm hứng lớn " cảm hứng phê phán, cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa
và cảm hứng sử thi " (Phan Cự Đệ - Tài liệu đã dẫn). Nội dung của
"Sông Côn mùa lũ" đã sinh động hoá một thời khắc lịch sử, hoành tráng hoá
một giai đoạn lịch sử bằng chất tiểu thuyết không lấn sân lịch sử. Viết tiểu
thuyết lịch sử theo kết cấu song tuyến của "Sông Côn mùa lũ": Lịch sử, tiểu
thuyết; Nguyễn mộng Giá đạt tới sự thành công " xem được " của tác phẩm.
Người đọc được dẫn theo trật tự tuyến tính của mỗi tuyến. Sự đan xen các
chủ đề, trong nội dung của "Sông Côn mùa lũ" là sự thành công của ba
nguồn cảm hứng như đã đề cập. Bên cạnh đó, hay cũng chính từ đó; cái
được lớn nhất của tác phẩm là đặt tên cho các nhân vật vô danh của lịch sử.
Vì mỗi nhân vật hư cấu trong tác phẩm là đại diện cho một lớp người đã lùi
rất xa vào lịch sử, tham dự vào lịch sử.
Có lẽ, những tiểu thuyết lịch sử chân chính, theo đúng nghĩa: tôn
trọng lịch sử, xuất phát từ lòng yêu nước, yêu dân tộc; đề cao giá trị con
người, đề cao nhân phẩm con người bằng cái tâm - nhất là "chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài" (Nguyễn Du), trong hư cấu nhân vật đặt vào lịch sử, có thể
tác giả sẽ tạo được bản hợp xướng "Chiêu hồn tử sĩ" bằng văn xuôi. Từ
những con người hữu danh, vì làm nên lịch sử một cách quả cảm, họ trở
thành vô danh. Những linh hồn mà thân xác đã nát cùng cỏ cây qua năm
tháng theo dòng thời gian, dòng lịch sử được tác giả đặt tên lại - tên chung
cho một lớp người. Người anh hùng vô danh trước khi ngã xuống là một con người hữu danh trong đội ngũ của lớp người ấy. Những con người anh
hùng vô danh không được lưu danh trong công việc của sử gia lại được lưu
danh trong tiểu thuyết lịch sử, lịch sử văn học - trong đời sống văn học.
Những con người ấy sẽ hiện hữu qua mọi thời đại, sống mãi cùng năm
103
tháng như một đạo lý cao cả của dân tộc "Uống nước nhớ nguồn".
Chương III
kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật
của "Sông Côn mùa lũ"
Công việc của người viết tiểu thuyết hội tụ những yếu tố, những biểu
hiện của năng lực, của lao động nghệ thuật nghiêm túc như được vắt ra từ
máu để kiến tạo thành những đứa con tinh thần. Những đưa con tinh thần ấy
có sức sống hay không phụ thuộc nhiều vào vấn đề nội dung mà nó truyền
tải tới người đọc. Mỗi đưa con tinh thần của nhà văn là sự tổng hoà, thống
nhất trong chỉnh thể nội dung và kết cấu nghệ thuật. Không thể có một nghệ
thuật kết cấu quá non kém mà có được một nội dung tốt, cũng như không
thể có một cấu trúc nghệ thuật tốt mà lại chuyển tải một nội dung quá non
kém (đương nhiên là không bàn tới những đứa con tinh thần lạc lõng với
cuộc sống của đại đa số quần chúng). "Sông Côn mùa lũ" là sự tổng hoà của
lớp nội dung và của lớp kết cấu nghệ thuật. Kết cấu tác phẩm là bộ khung
trụ đỡ cho mọi tiểu thuyết. Ngôn ngữ nghệ thuật là phương tiện để nhà văn
thể hiện nội dung của tác phẩm. "Nguyên tắc của nghệ thuật kết cấu là phải
làm sao cho tư tưởng chủ đề thấm sâu đến từng bộ phận của từng tác phẩm
và phải góp phần tích cực nhất vào việc xây dựng hệ thống tính cách nhân
vật" (Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại - Tập 2 1975 - Trang
266).
* * *
1. Kết cấu.
"Đặc trưng kết cấu của những bộ tiểu thuyết hiện đại là tính chất
nhiều tuyến, nhiều bình diện, sự luân phiên giữa các cảnh khác nhau, sự đan
chéo giữa những tuyến cá nhân và những tuyến lịch sử. Ehrenbourg đã có
một nhận xét: " Tiểu thuyết ở thời đại ta có nhiều chỗ khác với tiểu thuyết
của thế kỷ XIX, vốn được xây dựng trên lịch sử của một con người hay của
104
một gia đình. Trong tiểu thuyết hiện đại có nhiều nhân vật hơn, số phận của
họ đan chéo vào nhau, nhà văn thường đưa người đọc từ thành phố này
sang thành phố khác, đôi khi còn sang cả nước khác nữa, cách kết cấu khiến
ta nhớ đến những cảnh nối tiếp nhau trên màn ảnh, những đoạn cận cảnh
luân phiên với những cảnh quần chúng"". ( Những bút ký về nước Pháp -M.
1958 -Trang 68- Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại tập 2-1975-
trang 271). Trong phạm vi bài viết, chúng tôi không đề cập đến vấn đề kết
cấu như một nhận thức đầy đủ mà chỉ xem như là một tiêu chí để tìm hiểu
kết cấu của "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác. Từ những tiêu chí
trên, ta thấy, kết cấu nghệ thuật của tác phẩm được thể hiện ở các phần, các
chương, hệ thông tình tiết, chi tiết theo một trật tự nhất định, có thể xem đó
là khung kết cấu nội dung của mọi tác phẩm văn xuôi, nhất là đối với những
tác phẩm đạt tới độ dài trường thiên. Viết "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn
Mộng Giác đã thể hiện lớp kết cấu của tác phẩm đa dạng linh hoạt. Nhìn
nhận tổng thể có thể thấy hai tuyến: lịch sử và tiểu thuyết như là hiện tượng
song tuyến, song hệ thống trong tác phẩm. Mỗi tuyến độc lập tương đối vì
có sự tương tác, đan xen vào nhau. Để không viết lại lịch sử cũng như
không tiểu thuyết hoá lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đã tỉnh táo tới hai cấp độ,
nhà văn vừa trung thành với lịch sử vừa tỉnh táo để đi giữa cái chông chênh
giữa tiểu thuyết và lịch sử. ở tuyến lịch sử, Nguyễn Huệ là nhân vật trung
tâm đi suốt chiều dài tác phẩm. Mối quan hệ giữa lịch sử và tiểu thuyết
được gắn nối bằng mối tình câm: An - Huệ. Kết cấu song tuyến vì nội dung
lịch sử và nội dung hư cấu - tiểu thuyết đặt trong trật tự tuyến tính.
Tuyến nhân vật lịch sử được kết cấu như là sự song tuyến: sự kiện
lịch sử và nhân vật lịch sử. Những sự kiện lịch sử được tái hiện trung thành.
những nhân vật lịch sử được tái hiện bằng hai cấp độ có tính nhất quán: hư
cấu và chi tiết hoá tâm trạng của nhân vật. Nhân vật Nguyễn Huệ được tái
105
hiện bằng cả hư cấu và tâm trạng hoá. Nguyễn Nhạc được thể hiện bằng
tâm trạng hoá. Tuyến lịch sử và tuyến hư cấu như là hiện tượng song tuyến
đi suốt chiều dài tác phẩm.
Tuyến nhân vật hư cấu được xây dựng bằng hình thức cấu trúc linh
hoạt, uyển chuyển trong hệ thống. Gia đình ông giáo Hiến được coi như là
một tâm điểm tạo ra hệ thống của tuyến nhân vật hư cấu với những cấp độ
khác nhau, lan toả từ tâm điểm theo chủ ý ban đầu là viết về người trí thức
thời loạn "trong đó có một phần tâm trạng mình..." (lời tác giả). Vì lịch sử
phong trào Tây Sơn đa dạng phong phú nhiều biến động, chủ ý ban đầu "trở
thành chật hẹp" (lời tác giả). Mở rộng bình diện lịch sử, mở rộng tâm điểm
"trí thức thời loạn", khiến cho nhân vật ông Giáo Hiến trở thành tâm điểm
của tuyến hư cấu, cũng vì thế mà mở rộng cả mối quan hệ đan xen giữa lịch
sử và hư cấu trong bộ truyện. Từ tâm điểm là ông giáo Hiến, tác giả mở
rộng hệ thống là những con trai, con gái, con rể ông giáo Hiến. Hệ thống
này làm xuất hiện thêm những nhân vật có quan hệ với gia đình ông giáo ở
góc độ hư cấu, thế sự: vợ viên cai cơ với nhân vật Kiên. Một goá phụ hồi
xuân tai tiếng với Lãng. Mối quan hệ giữa An với công chúa Thọ Hương,
với Hoàng hậu các các mệnh phụ phu nhân quý tộc mới ở đất Quy Nhơn.
Mối quan hệ giữa Lợi với các nhân vật vô danh - người lính già trong việc
giao quân lương, với Bùi Đắc Tuyên, đặc biệt là Nguyễn Huệ và Nguyễn
Hữu Chỉnh - hai nhân vật lịch sử. Nhờ có kết cấu lan toả bình diện tiểu
thuyết được mở rộng và trở nên sống động ở bình diện đám dân chúng. Mối
quan hệ gia đình ông giáo Hiến với những người dân vùng Tây Sơn Thượng
- những tấm lòng cưu mang, đùm bọc của những con người nghèo khổ.
Tính hệ thống còn được thể hiện bằng công việc đan xen các chủ đề:
cuộc nổi dậy của quần chúng bị áp bức quét sạch các tập đoàn phong kiến
trong nước, đánh tan ba vạn quân Xiêm ở phương Nam - Rạch Gầm, Xoài
106
Mút, đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược. Trên cái nền lịch sử ấy,
hình tượng trí thức với những tâm trạng đã được xây dựng thành điển hình
tạo nên giao thoa về thế cuộc giữa trí thức trong lịch sử với trí thức hiện tại.
Tác giả tạo nên sự đồng điệu, cảm thông như là sự soi mình trước tấm
gương lịch sử, tự vấn mình của một trí thức thời hiện tại. Đó là sự đan xen
có tính "ôn cố tri tân". Sự đan xen chủ đề lịch sử với thân phận người phụ
nữ tạo nên một tiếng nói nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm. Xuyên suốt tác
phẩm số phận người đàn bà trong chiến tranh phong kiến hứng chịu mọi nỗi
cực nhọc, mọi nỗi đau mà nỗi đau nhất là cô quả. Nguyễn Mộng Giác xây
dựng hình tượng người phụ nữ trong chiến tranh như một thông điệp bỏ ngỏ
vì không có lời bình. Chiến tranh là mất mát, là tàn khốc, là những gì mà
một kiếp người đáng lẽ phải có bị cướp đi. Từ kết cấu này tác phẩmbộc lộ
những ý nghĩa nhân đạo, nhân văn sâu sắc.
2. Phương thức kết cấu
Những nhân vật trong lãnh địa hư cấu còn được thể hiện qua cấu trúc
phân nhánh: An trong mối quan hệ với nhân vật hư cấu và nhân vật lịch sử.
Những đứa con ông giáo Hiến được phân thành những nhánh khác nhau: về
tính cách thì Kiên liêm cẩn đến nhút nhát, Chinh thì sức mạnh dồn lên cả cơ
bắp, An và Lãng có chút tâm hồn nghệ sĩ yêu thơ và thích thơ Đỗ Phủ. Sự
phân nhánh còn thể hiện rất rõ ở mỗi đứa con ông giáo Hiến trong việc khơi
nguồn dòng lũ sông Côn: Kiên chán chường cảnh chết chóc nơi chiến địa,
an phận với vợ goá viên cai cơ; Chinh nhập cuộc, say bao hành và chết
thảm; Lãng tham dự vào Nam tiến, Bắc tiến với chức danh sử quan không
chính thức, với tâm hồn nghệ sĩ cuối cùng bị đào thải sống buông thả, lãng
tử; An đứng ngoài lịch sử, không nhập vào lịch sử chấp nhận cảnh sống
trong cảnh goá bụa. Lợi - con rể nhập cuộc, cơ hội bị loại khỏi chính
107
trường, làm phản và bị hành quyết.
Tuyến nhân vật lịch sử, tuyến nhân vật hư cấu được đặt trong trật tự
tuyến tính của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, gia đình ông giáo Hiến di chuyển
theo chiều cuốn của cuộc khởi nghĩa được đặt trong thời gian lịch sử. Đặt
các tuyến nhân vật trong trật tự tuyến tính tạo ra sự liền mạch của cốt truyện
vừa có giá trị trung thành với lịch sử, vừa tạo ra sức cuốn hút và dễ tiếp cận
tác phẩm đối với người đọc. Trật tự tuyến tính tạo nên lối viết truyện theo
kết cấu truyền thống của các tác phẩm thuộc thể loại văn xuôi.
Để gắn nối giữa hai tuyến: nhân vật lịch sử và nhân vật tiểu thuyết,
Nguyễn Mộng Giác còn sử dụng hình thức đan xen. Đan xen giữa sự kiện
hư cấu với sự kiện lịch sử. Có thể thấy sự đan xen ấy qua sự xuất hiện của
gia đình ông giáo Hiến với anh em họ Nguyễn Tây Sơn, ở An Thái, ở Tây
Sơn thượng trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa. Sự đan xen bằng tình cảm
giữa hư cấu và lịch sử - giữa Huệ và An bằng tình yêu câm lặng. Sự đan
xen giữa những năm tháng trận mạc của Huệ với sự trở về thăm thầy- ông
giáo Hiến, thăm An một nhân vật giai nhân. Hình thức đan xen trong cấu
trúc làm nên sự gắn bó lô gíc giữa hai tuyến của tác phẩm, đồng thời sự đan
xen ấy còn tạo nên chất anh hùng ca hoà quyện với chất tình ca trong tác
phẩm. Đan xen còn làm cho tác phẩm sống động, làm cho giữa lịch sử với
hư cấu, giữa việc trung thành với lịch sử và hư cấu trong tiểu thuyết nhập
chung vào dòng chảy của nội dung một cách hợp lý.
Sự thể hiện đa dạng của lớp cấu trúc nhằm hoàn thiện khung kết cấu
của tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác còn sử dụng hình thức kết cấu có tính đối
ảnh. Trong việc xây dựng nhân vật, để tạo tính cách điển hình nổi bật, tác
giả xây dựng nền bằng các nhân vật khác để làm nổi bật nhân vật chính.
Nhân vật Lợi có lối sống cơ hội, được sống trong điều kiện có cơ hội để
trục lợi và trục lợi hữu hiệu, trái lại hai nhân vật: Kiên và Lãng được tham
dự ở những vị trí không thiếu cơ hội kiếm chác, trục lợi nhưng lại thờ ơ,
108
dửng dưng. Kiên dành nhiều thời gian giúp đỡ người vợ không chính thức -
vợ viên cai cơ - bán hàng. Lãng sống như một nghệ sĩ, như một lãng tử, khi
thất sủng với hai bàn tay trắng, vô nghề nghiệp. Đối ảnh còn được tác giả
thể hiện qua việc đan xen giữa nhân vật ông đồ - ông giáo Hiến, nhân vật
hư cấu cố cựu, bảo thủ, tụt hậu bị loại khỏi cuộc chơi chính trường với ông
đồ Trần Văn Kỷ - nhân vật lịch sử cách tân, hợp thời.
Một hình thức cấu trúc khác được Nguyễn Mộng Giác thể hiện là
hình thức xâu chuỗi tạo nên sự liền mạch cho tác phẩm. Để xây dựng hình
tượng người phụ nữ, tác giả xây dựng ba nhân vật: Bà giáo Hiến - An - Thái
như là cuộc chạy tiếp sức song song với lịch sử. Sự chuyển tiếp, bàn giao
thế hệ càng làm nổi bật hình tượng người phụ nữ có số phận nghiệt ngã như
là sự truyền kỳ, truyền kiếp. Lũ sông Côn đã tác động tới ba thế hệ phụ nữ,
tạo thành tiếng nói nhân đạo, giá trị nhân đạo ngưng tụ bởi cảm hứng nhân
đạo. Sự xâu chuỗi trong tác phẩm còn được thể hiện qua việc xây dựng tính
cách và số phận của nhân vật An: một An vị thành niên, đến một An thiếu
nữ, đến một An làm mẹ, một An chinh phụ, một An mệnh phụ phu nhân,
một An quả phụ. Sự xâu chuỗi này đặt trong trật tự tuyến tính tạo nên sự
hấp dẫn của câu chuyện thông qua nhân vật hư cấu trung tâm. Nhân vật trí
thức thời loạn cũng được xây dựng theo lối kết cấu xâu chuỗi: ông giáo
Hiến - Trần Văn Kỷ - sĩ phu Bắc Hà. Sự xâu chuỗi này tạo nên sự gắn nối
giữa nhân vật trí thức hư cấu và nhân vật trí thức lịch sử.
Như trên đã trình bày, qua "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác
đã sử dụng một cách đậm nét những hình thức cấu trúc: phân nhánh, lan
toả, trật tự tuyến tính, đan xen, đối ảnh, xâu chuỗi; có thể xem đây là những
yếu tố quan trọng có tính quyết định trong việc thể hiện nội dung của tác
phẩm. Hơn thế nữa, tác giả còn sử dụng mối quan hệ lô gíc để tái hiện cuộc
sống, tái hiện lịch sử bằng sự thống nhất giữa không gian lịch sử và không
109
gian sáng tạo; giữa thời gian lịch sử và thời gian sáng tạo. Sự đồng nhất này
tạo lên sự thành công về phương diện nội dung của "Sông Côn mùa lũ" cả
lịch sử và tiểu thuyết trong tiểu thuyết lịch sử.
3. Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ là chất liệu duy nhất của mọi tác phẩm văn chương nghệ
thuật, vì thế có nhiều ý kiến cho rằng: " Văn học là bộ môn khoa học - nghệ
thuật của ngôn từ". Phan Cự Đệ viết: "Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên, là vũ
khí cơ bản của nhà văn. Nhà văn phải tạo cho mình một hệ thống và một
phong cách ngôn ngữ riêng. Những nhà tiểu thuyết lớn đều là những nghệ sĩ
bậc thầy về tiếng nói" (Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại - Tập 2 - 1975
trang 319). Chẳng những thế, để tạo nên sức sống cho " một xã hội thu
nhỏ", nhà văn sử dụng ngôn ngữ qua giọng kể, giọng miêu tả. " Ngôn ngữ
trong tiểu thuyết phải là một thứ ngôn ngữ giàu tính tạo hình, đập ngay vào
giác quan của người đọc. Tuy nhiên những hình tượng phải là kết quả của
quá trình quan sát, so sánh trong thực tiễn chứ không phải là do đầu óc
tưởng tượng của nhà văn bịa đặt ra". ( Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại - tập 2, trang 324).
Khi viết tiểu thuyết lịch sử, nhà tiểu thuyết sẽ gặp những cái khó
không nhỏ, lại ở nhiều phương diện, trong đó có cái khó nhất là ngôn ngữ
của nghệ thuật kể chuyện (ngôn ngữ trần thuật) và ngôn ngữ nhân vật. Điều
này được Nguyễn Mộng Giác tâm sự "viết một chuyện xảy ra hai thế kỷ
trước, viết làm sao đây? cho nhân vật sống và nói theo thời cổ, dĩ nhiên phải
thế. Nhưng thế nào là cổ ? Họ phải nói với nhau như trong tuồng cổ, như
các vua quan trong phường hát bội của Đào Tấn ? Họ phải "văn hoa" như
các nhà Nho của "Lều chõng", ngược đường Trường Thi ? hay ít ra phải
viết và nói theo kiểu biền ngẫu như thời Nguyễn Bá Học, Phạm Quỳnh,
Nhất Linh (trong Nho phong và Người quay tơ). Tôi băn khoăn không biết
110
dùng thứ ngôn ngữ nào, cuối cùng mừng rỡ tìm ra một câu trả lời: ngôn ngữ
truyện Kiều, cái người ta gọi là ngôn ngữ cổ thật ra chỉ là ngôn ngữ viết.
Còn ngôn ngữ nói hai thế kỷ trước thì đọc truyện Kiều có thấy cách ăn nói
khác với bây giờ bao nhiêu đâu! Vả lại tôi lý luận (có thể là nguỵ biện)
mình viết cho người đời nay đọc chứ có viết cho người xưa đọc đâu..." (lời
tác giả - thay lời cuối sách). Lời tâm sự của tác giả xuất phát từ thực tế sinh
động: vừa là người tán thành, vừa là người thẩm định hợp lý. Viết "Sông
Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác có cái khó chung của người viết tiểu
thuyết lịch sử về phương diện ngôn ngữ cùng với rất nhiều những khó khác.
Thể hiện nhân vật theo ngôn ngữ nào khi mà hình thái xã hội đã lùi vào lịch
sử trên hai thế kỷ. Những con người của quá khứ ấy nói với nhau theo chất
giọng ngôn từ nào? Quan hệ giao tiếp bằng ngôn ngữ trực tuyến thế nào? Là
những khó khăn không nhỏ. Chọn giải pháp ngôn ngữ truyện Kiều của tác
giả chưa hoàn toàn thoả đáng vì ngôn ngữ trong Kiều đành rằng là ngôn
ngữ viết, ngôn ngữ văn chương, song nó là ngôn ngữ của thơ chứ đâu phải
ngôn ngữ văn xuôi . Đành rằng trong cái khó khăn muốn chọn một giải
pháp tối ưu cho ngôn ngữ tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác đã chọn đúng.
Thông qua tác phẩm, ngôn ngữ mà tác giả dùng cũng có sự đồng điệu với
ngôn ngữ tại thời điểm sáng tác. ở Nguyễn Mộng Giác ngôn ngữ nhân vật
được sử dụng thế nào khi tác giả là người miền Trung cũng là cái khó
không nhỏ. Vấn đề khó khăn thứ hai này đã được hoá giải, xem như là tối
ưu " cho nên tôi bắt buộc phải viết theo tiếng Bắc là ngôn ngữ cho đến giờ
mặc nhiên được xem là ngôn ngữ chuẩn của văn chương Việt " (lời tác giả -
thay lời cuối sách ). Ngôn ngữ trần thuật của tác giả, ngôn ngữ nhân vật là
hai yếu tố nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào công việc cấu tạo tác phẩm,
góp phần vào sự thành công của cả bộ truyện, nhất là ngôn ngữ người kể
chuyện và ngôn ngữ các nhân vật mang tính tạo hình và đa thanh. Có thể
nói trong "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác đã sử dụng thành công
111
ngôn ngữ ở những cấp độ khác nhau: ngôn ngữ chuẩn, thống nhất, không
rơi vào ngôn ngữ địa phương thuần tuý. Trong "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn
Mộng Giác đã sử dụng ngôn ngữ người kể chuyện giàu tính tạo hình bằng
các cấp độ: Miêu tả cảnh, ngôn ngữ nhân vật. Trong dựng cảnh, với bút
pháp miêu tả đặc sắc phù hợp với tâm trạng nhân vật, Nguyễn Mộng Giác
đã dàn dựng cảnh đêm trước quyết định ra Bắc của Nguyễn Huệ. Một màn
đêm được miêu tả vừa thực vừa thơ mộng vừa linh thiêng "Trăng thượng
tuần lờ mờ. ánh trăng non chiếu lên các mặt lá ướt sương bóng nhẫy, gợi
hình ảnh một sức sống trầm lặng nhưng nao nao hạnh phúc. Tháp canh in
bóng đen trên nền trời xám đậm. Xa xa vọng về tiếng mõ cầu cứu và tiếng
chó sủa hốt hoảng" ( trang 947). Để tạo tính cách nhân vật, Nguyễn Mộng
Giác chú trọng miêu tả những nét dáng vẻ bề ngoài bằng ngôn ngữ tạo hình.
Đây là bề ngoài của nhân vật Nguyễn Nhạc " dưới cặp lông mày thưa, đôi
mắt xếch quá mức bình thường, khiến ánh nhìn đầy vẻ nghi kỵ, diễu cợt và
khinh bạc (trang 88). Nhân vật Nguyễn Huệ, nhân vật lịch sử lại được tác
giả thể hiện bằng một sự phác hoạ gương mặt có mớ tóc quăn " mồ hôi ướt
cả trán Huệ. Cậu đưa lưng bàn tay phải gạt mớ tóc quăn đang phủ mất một
bên mắt" (trang 110). " Một mớ tóc quăn phủ lên góc trán cao, miệng hình
như đang mỉm cười" ( trang 1075). "Mảng tóc quăn rũ xuống che mất con
mắt phải mà Nguyễn Huệ vẫn không buồn vuốt lên" ( trang 1120). " Theo
thói quen, ông lại đưa ngón tay quệt ở đầu mũi, rồi vuốt lại mảng tóc quăn
ở góc trán" ( trang 1124 ). Mớ tóc quăn được sử dụng để phác hoạ gương
mặt Nguyễn Huệ " đập vào giác quan của người đọc" tới hơn một lần ghi
dấu ấn về gương mặt của một vĩ nhân lịch sử. Phải trăng, Nguyễn Mộng
Giác đã căn cứ vào một tài liệu nào đó để phác hoạ gương mặt Nguyễn Huệ
với mớ tóc quăn. Phải trăng, đây là dấu hiệu nhân tướng của một thiên tài.
Ngôn ngữ tạo hình được Nguyễn Mộng Giác thể hiện sinh động, linh hoạt.
Miêu tả bề ngoài với những nét như phác hoạ: Nguyễn Nhạc với đôi lông
112
mày xếch quá mức, An với khuôn mặt bầu bĩnh, nước da trắng, cái cổ cao,
áo có vết rách ở cùi trỏ. Sự thể hiện nội tâm nhân vật với những hình thức
uyển chuyển. Nội tâm nhân vật Huệ trước tình yêu, tình thầy trò. Nội tâm
nhân vật ông Giáo trước cuộc khởi nghĩa, những mâu thuẫn giữa sách vở
với thực tế.
"Các hình thức ngôn ngữ trong một cuốn tiểu thuyết, có 3 hình thức
chủ yếu: Ngôn ngữ người kể chuyện. Ngôn ngữ cá thể hoá của các loại
nhân vật khác nhau. Ngôn ngữ không hoàn toàn trực tiếp, chuyển lời tác giả
vào nhân vật một cách kín đáo (những đoạn độc thoại nội tâm khám phá ra
"phép biện chứng tâm hồn" của nhân vật, đặc biệt là những đoạn độc thoại
song thanh hoặc đối thoại bên trong của các nhân vật trong tiểu thuyết
Đôtxtôiepxki ). Trong loại ngôn ngữ không hoàn toàn trực tiếp này, có một
sự thống nhất, một sự tổng hợp khéo léo ngôn ngữ của ngôi thứ nhất và
ngôn ngữ của ngôi thứ 3 trong sự trần thuật" ( Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại - Tập 2 - 1975- Trang 331). Ngôn ngữ tác phẩm được tác
giả sử dụng qua các hình thức thể hiện tạo ra khả năng tái hiện cuộc sống
trong bình diện lớn, tổng thể của tiểu thuyết. Tác giả vừa là người sáng tạo
vừa là người thẩm định các nhân vật của tiểu thuyết. Vì "trong một cuốn
tiểu thuyết, tất cả những ngôn ngữ không gắn trực tiếp với tính cách nhân
vật đều thuộc về ngôn ngữ người kể chuyện. Ngôn ngữ của người kể
chuyện tổ chức tất cả những yếu tố từ vựng khác nhau trong tác phẩm lại
thành một cơ cấu hoàn chỉnh thống nhất. Người kể chuyện không những chỉ
tổ chức một ngôn ngữ mà có khi còn đóng một vai trò quan trọng cả về kết
cấu" (Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại - Tập 2 - 1975 - Trang
331- 332). Tính đa thanh trong ngôn ngữ tiểu thuyết thể hiện qua sự đan
xen giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật, giữa giọng của
nhân vật này đan lẫn vào giọng của nhân vật khác. Đây là cuộc đối thoại
giữa hai chị em An -Lãng (trong hoàn cảnh Lợi bị bắt giam).
113
" Lãng giận quá giọng cáu kỉnh:
- ... Thú thật, em không nhận ra chị nữa. Chị xem mọi người giống
như những bọn mã phu lưu manh và bọn con buôn lừa đảo hàng ngày bu
quanh chị như đàn ruồi.
An bĩu môi chua chát:
- Phải. Mày nói đúng. Tất cả mọi người, kể cả tao và mày, kể cả cái
bọn mặc áo lụa đi kiệu mà mày xem như là thần thánh đều là ruồi nhặng
tất... Tao nhìn thấy tim đen của mọi người. Chúng nó cần gì trước tiên?
( An hốt một nắm tiền kẽm ném tứ tung trước mặt em). Đó, tiền. Tiền. Có
tiền trong tay, mày có thể vứt thẳng vào mặt chúng nó, chúng nó chẳng
những không dám giận mà còn hí hửng rối rít cám ơn mày nữa" (trang 748).
Cuộc đối thoại tiếp diễn.
"Lãng tức quá cãi lại:
- Đó là những điều xấu xa mà ở thời nào cũng có như nhà nào cũng
có rác...
An cười khinh bạc:
- Lý tưởng! Chân lý! Lý tưởng là thứ gì? Chân lý là thứ gì? Mày
muốn nghe bọn mã phu định nghĩa mấy cái chữ hào nhoáng loè loẹt đó
không? Lý tưởng là cái mình tưởng là có lý. Chân lý là cái lý có chân. Ha
ha! Bọn mã phu đúng là bọn thầy đời" (trang 749). Lời lẽ của An có cái
hằn học của bất mãn, bất lực. Lời nói của An đan xen ngôn ngữ người kể
chuyện - lời bọn mã phu trước những biểu hiện như một tất yếu - mặt trái
của một thể chế, hạn chế của cuộc khởi nghĩa. Đây là độc thoại nội tâm
nhân vật Nguyễn Huệ. Trở về Phú Xuân, Nguyễn Huệ đứng trước khúc
quanh của lịch sử - Trong đêm trắng, Nguyễn Huệ bộc lộ tâm trạng qua độc
thoại nội tâm " ta dừng lại chăng ? Ta bằng lòng đứng bên này Luỹ Thầy
nhìn ra phía Bắc như một kẻ ngoài cuộc, để mặc cho Nguyễn Hữu Chỉnh,
họ Lê, họ Trịnh, quận Thạc, quận Liễn cùng lũ quan thị sâu xé nhau giữa
114
một đất nước tan hoang? Như vậy, bấy nhiêu việc ta làm lâu nay chẳng hoá
ra vô ích sao? Cái gì đưa đẩy ta, thúc giục ta? Chính ta ra lệnh gióng trống
thúc quân nhưng cái gì thúc ta ra lệnh? Nhất định không phải là vua anh vì
nhà vua muốn ta dừng lại bên này Luỹ Thầy! Vậy thì cái gì? Hay là mệnh
trời ? Đúng có thể chính lòng trời muốn ta thực hiện lẽ công bằng khi đổ
quân ra Bắc" ( trang 1076). Trong ngôn ngữ nhân vật Nguyễn Huệ có đan
xen ngôn ngữ nhân vật Nguyễn Nhạc - vua anh - vì trước sau Nhạc chỉ
muốn dừng lại ở Phú Xuân để mặc phía Bắc cho vua Lê, chúa Trịnh.
Sự thành công của "Sông Côn mùa lũ" là kết quả của lao động nghệ
thuật nghiêm túc: Nghiên cứu lịch sử, hư cấu thế sự bằng lớp cấu trúc thể
hiện nội dung chặt chẽ, lô gíc, hợp lý, tạo nên sự thành công về nội dung
của " Sông Côn mùa lũ ". Sự thành công của tác phẩm đã truyền tải được ba
nội dung lớn " cảm hứng phê phán, cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa và cảm
hứng sử thi " (Phan Cự Đệ -Tài liệu đã dẫn). Đồng thời tác giả đã tạo ra
được một hình thức nghệ thuật - kết cấu tác phẩm phù hợp và ngang tầm
với giá trị nội dung mà tác phẩm vươn tới và đạt được. Xuất phát từ mục
đích chủ yếu tìm hiểu nội dung của "Sông Côn mùa lũ" như một tiểu thuyết
lịch sử nên chúng tôi không bàn nhiều về kết cấu và nghệ thuật tác phẩm.
Mặt khác, quá trình phân tích, giảng bình nội dung tác phẩm đã là một công
việc phải bóc tách lớp kết cấu, cảm hiểu kết cấu của tác phẩm và ngôn ngữ
nghệ thuật. Những gì thuộc về kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật nói đến như
115
là sự điểm lại, không bình thêm.
Đôi lời kết luận
Tiểu thuyết, một thể loại có ưu thế lớn nhất tạo nên sự đồ sộ, hoành
tráng của mỗi nền văn học. Sinh sau đẻ muộn so với nhiều loại hình khác
của văn học, tiểu thuyết xứng đáng là chiếc máy cái của mọi nền văn học.
Đồng thời vẫn còn đang phát triển - chưa định hình, chưa đông cứng. Tiểu
thuyết lịch sử được xem như là một thể tài của tiểu thuyết hướng tới đề tài
lịch sử. Những năm cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, tiểu
thuyết lịch sử phát triển tương đối mạnh mẽ với những tên tuổi: Hà Ân,
Thái Vũ, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Khắc Phục, Ngô
Văn Phú, Vũ Ngọc Đĩnh. ở ngoài nước với những tên tuổi: Nguyễn Mộng
Giác, Nam Dao... Dù viết ở trong hay ngoài nước, những tác phẩm đều tập
trung phản ánh lịch sử theo hai hướng chính: lịch sử là cứu cánh, lịch sử là
phương tiện. Cùng với tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết viễn tưởng
- sáng tạo ở thời tương lai - sẽ tạo nên sự phong phú, đa dạng sinh động cho
đời sống văn học. Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, những
phương tiện giải trí nghe, nhìn với nhiều hình thức, với thời lượng phát
sóng phủ sóng đủ đáp ứng nhu cầu giải trí của đại đa số quần chúng, thì
giải trí bằng tiểu thuyết, bằng văn học nói chung vẫn rất cần thiết. Mặt khác,
đời sống vật chất hiện nay được nâng lên rõ rệt, hơn nữa cường độ lao động
cũng phải gia tăng để phù hợp với thu nhập. Nhiều hình thức giải trí, du lịch
được cơ chế mở của chính sách tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, thu hút
quần chúng bạn đọc vào những hình thức giải trí như là sự ăn liền qua nghe
nhìn, như là sự thư giãn hoàn toàn qua du lịch. Vì lẽ trên, bạn đọc đối với
tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử có phần thưa vắng hơn trước là điều tất nhiên
và cũng là hợp với sự phát triển chung của hội nhập. Tiểu thuyết nói chung,
tiểu thuyết lịch sử nói riêng thường có độ dài dễ gây ngợp cho bạn đọc.
116
Mặc dù mặt bằng dân trí hiện nay đang được nâng lên tầm cao mới, song
sản phẩm mà tiểu thuyết trao cho độc giả là những con chữ im lặng trong
từng trang sách, đòi hỏi độc giả phải đối thoại với chính đối tượng chỉ biết
"im lặng", để tự tìm tòi, khám phá, Tiếp nhận tiểu thuyết không đơn thuần
là hình thức giải trí, nó là sự chiếm lĩnh một xã hội thu nhỏ trong tác phẩm.
Vì tiểu thuyết đòi hỏi văn hoá đọc ở một tầm cao, nên không là món ăn tinh
thần cho tất thảy mọi người, lại đặt bên cạnh nhiều hình thức giải trí nhất là
loại hình nghệ thuật thứ bẩy, bạn đọc tiểu thuyết ngày càng chọn lọc hơn.
Đời sống văn hoá đọc như trên đã đề cập, sẽ gây cho các nhà tiều thuyết
không ít những trăn trở về sự đón nhận tác phẩm của bạn đọc và cộng đồng
xã hội. Nhìn đơn thuần ở góc độ vật chất, nhà tiểu thuyết sáng tác không
phải vì tiền, không phải vì tác phẩm bị xem như là một loại hàng hoá, song
không thể không có ăn mà sống được. Mặt khác ở góc độ tinh thần tác
phẩm của nhà tiểu thuyết là đối thoại của tác giả với cuộc sống và là nhịp
cầu tâm giao với độc giả. Thiếu vắng độc giả, thiếu vắng tâm giao mà độc
giả là đồng tác giả, đây là một nỗi buồn khổ lớn nhất của các nhà tiểu thuyết
nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng.
Tiểu thuyết lịch sử là một hiện tượng văn học không mới. Trên văn
đàn Việt Nam đã hiện hữu vắt qua ba thế kỷ từ (Hoàng Lê Nhất Thống Chí
thế kỷ XVIII), tiểu thuyết lịch sử trong đời sống văn học hiện nay phát triển
theo hướng nào? Trong bối cảnh cơ chế thị trường, phương tiện giải trí
phong phú qua nghe nhìn, chất lượng tiểu thuyết nói chung dường như có
sự chững lại nhất là từ sau đất nước đổi mới, hội nhập, mở cửa. Tiểu thuyết
nói chung, tiểu thuyết lịch sử nói riêng phát triển với số lượng lớn song ít
tác phẩm hay, chất lượng cao, có hiện tượng chạy theo kinh tế thị trường,
mặc dù thể loại này đã được quan tâm về nhiều mặt của cơ chế, chính sách,
những cuộc vận động sáng tác theo các chủ điểm của đề tài chiến tranh cách
mạng, đề tài nông thôn... Mặt khác mặt bằng dân trí hiện nay có thể xem là
117
một đội ngũ bạn đọc "lý tưởng", sự chững lại của tiểu thuyết nói chung
trước một vận hội mới, lớn; theo chúng tôi nghĩ có lẽ là tín hiệu đáng mừng
vì đội ngũ bạn đọc có dân trí cao như hiện nay không phải là đội ngũ dễ tính
trong thưởng thức. Đội ngũ các nhà tiểu thuyết phải chăng đang chỉnh trang
lại mình bằng chính tài năng, để sáng tác, để có những tác phẩm hay không
chỉ hội nhập được trong thời đại bùng nổ của thông tin mà còn là sự hội
nhập văn học nói riêng, văn hoá nói chung trong cộng đồng các nước trong
khu vực và cộng đồng quốc tế. Tiểu thuyết lịch sử "Sông Côn mùa lũ" của
Nguyễn Mộng Giác là kết quả của lao động nghệ thuật nghiêm túc. Tác giả
tôn trọng lịch sử, hư cấu không làm phương hại đến lịch sử, dừng đúng
vạch cấm chỉ của lịch sử để có một tiểu thuyết lịch sử đi giữa cái khoảng
chông chênh: lịch sử và tiểu thuyết. Phần hư cấu của tác giả có thể nói là
thành công rõ rệt. Phần lịch sử viết về phương Nam phong phú, sinh động
có lẽ bởi tác giả tham khảo chi tiết và cụ thể: Đại Nam thực lục chính biên
và Đại Nam tiền biên liệt truyện cùng với các thư từ, ghi chép của các giáo
sĩ phương Tây. Phần viết về lịch sử miền Bắc, tác giả phụ thuộc vào Hoàng
Lê nhất thống chí nên có lẽ đuối hơn.
Tiểu thuyết lịch sử "Sông Côn mùa lũ " của Nguyễn Mộng Giác, có
mặt trong đời sống văn học là sự có mặt của bộ phận văn học ngoài nước.
Đất nước mở cửa, đón nhận những đứa con xa trở về, thể hiện quan tâm
lãnh đạo của Đảng thấu đáo ân tình về đời sống tinh thần và vật chất. Trong
vận hội mới của đất nước, của nhân loại ở thế kỷ XXI - thế kỷ của hợp tác,
của hội nhập, đất nước đang phát triển toàn diện, vững chắc. Đảng chủ
trương xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh với mục tiêu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chúng tôi tin tưởng rằng: văn học nói
chung; tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử nói riêng sẽ phát triển mạnh. Niềm tin
này có cơ sở vững chắc vì dưới sự lãnh đạo của Đảng; từ 1945 - 1975, văn
học 2 lần ra trận cùng đất nước, với sự góp mặt của tiểu thuyết, của văn học
118
nói chung đã góp phần không nhỏ vào thần tốc đại thắng mùa xuân 1975.
Các nhà tiểu thuyết đã làm tròn vai trò chiến sỹ trên mặt trận văn hoá tư
tưởng của một thời đánh giặc đã qua. Nhất định các nhà tiểu thuyết sẽ đồng
hành cùng đất nước với những đứa con tinh thần đáp ứng được sự mong
mỏi của nhu cầu văn hoá đọc của đội ngũ bạn đọc. Tiểu thuyết lịch sử đang
mong những nhà văn lớn - những nhà văn của một thời đánh giặc đang ở độ
tuổi vượt qua ngưỡng "tri thiên mệnh" vào cuộc. Những cây bút với độ
chín, độ từng trải cùng với nguồn tư liệu lịch sử phong phú, đầy đủ hơn như
hiện tại, nhất định tiểu thuyết lịch sử sẽ có những mùa bội thu. Các nhà tiểu
thuyết lịch sử nhất định sẽ xứng đáng với danh hiệu là "tiểu hoá công" của
cuộc đời và của đời sống văn học. Hơn nữa, một nguồn cung cấp đội ngũ
sáng tác lại rất dồi dào là sự trưởng thành của các hệ đào tạo chính quy, bài
bản, hiện đại của các trường đại học, của các khoá bồi dưỡng nhất định tiểu
thuyết, tiểu thuyết lịch sử sẽ có nhiều gương mặt mới, góp phần tạo nên
119
diện mạo mới của văn học Việt Nam ở thế kỷ XXI.
Thư mục tham khảo.
I - Những tài liệu kinh điển và lý luận
1- C Mác và Ăng-ghen 1958 - Về văn học và nghệ thuật - NXB Sự thật
3 - Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp
1963 - Bàn về văn hoá và văn nghệ - NXB Văn hoá nghệ thuật .
2 - Lê Nin 1958 - Bàn về văn hoá văn học - NXB Văn học
4 - Phan Cự Đệ - Về một nền lý luận phê bình Mác xít thế kỷ XX
(chuyên luận Thạc sỹ)
5 - Phan Cự Đệ 1974 - 1975 - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
tập I, tập II - NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.
7 - Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết luận đề- tạp chí Nhà văn tháng 8 - 2002.
6 - Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết lịch sử - tạp chí Nhà văn số 1 - 2003
8 - Phan Cự Đệ , Mã Giang Lân, Hà Văn Đức, Bùi Việt Thắng - 2004 -
Văn
học Việt Nam thế kỷ XX - NXB - Giáo dục.
9 - Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung,
Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức - 1999- Văn học Việt Nam 1900 - 1945
10 - Phan Cự Đệ - 1999 - Văn học lãng mạn Việt Nam - 1930 - 1945
NXB Giáo dục
NXB Giáo dục.
11 - Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung - 1992 -Văn học Việt Nam
1930-1945 tập I, tập II - NXB - ĐH và GD chuyên nghiệp.
12- Hà Minh Đức - 2000 - Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về văn
hoá văn nghệ - Văn hoá Việt nam, xã hội và con người - NXB Khoa học xã hội.
13 - Hà Minh Đức - 1974 - Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại
NXB - KHXH.
14 - Hà Minh Đức: Mác -Ăng ghen, Lê Nin và một số vấn đề lý luận
văn học (chuyên luận Thạc sỹ)
15 - Hà Văn Đức - Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
120
(bài giảng- chuyên luận Thạc sỹ)
16- Phạm Gia Lâm - Tiểu thuyết chiến tranh Nga Xô Viết - Những vấn
đề về thi pháp của thể loại (chuyên luận Thạc sỹ)
17 - Mã Giang Lân, Hà Văn Đức, Bùi Việt Thắng - 2000 - Quá trình hiện
đại hoá văn học Việt Nam 1900 - 1945 - NXB - Thông tin.
18 - Mã Giang Lân-2000 -Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam - NXB Giáo dục
19 - Mã Giang Lân - Thơ lãng mạn Việt Nam - 1930 - 1945
(bài giảng chuyên luận Thạc sỹ)
20 - Nguyễn Trường Lịch - Chất trữ tình và lãng mạn trong tiểu thuyết
21 - Phạm Quang Long-Mấy vấn đề thi pháp học-Chuyên luận bài giảng thạc sỹ.
Tuôc ghênhép (chuyên luận Thạc sỹ)
22 - Phạm Quang Long - Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực (Borix
Xuskôv) - Suy nghĩ về phương pháp sáng tác - Chuyên luận thạc sỹ
23 - Trần Ngọc Vương - Loại hình học tác giả - Chuyên luận thạc sĩ.
II - Tác phẩm.
1 - Phan Bội Châu - Trùng quang tâm sử (NXB Văn học.H.1971 tái bản
2 - Khái Hưng - Tiêu Sơn Tráng Sĩ - NXB Văn nghệ TPHCM tái bản 2000
3 - Nguyễn Mộng Giác-Sông Côn mùa lũ-tập I-NXB Văn học 2003 tái bản.
4 - Nguyễn Mộng Giác-Sông Côn mùa lũ-tập II-NXBVăn học 2003 tái bản.
5 - Nguyễn Xuân Khánh. - Hồ Quý Ly - NXB Phụ nữ HN - 2002.
6. Ngô Gia Văn Phái - Hoàng Lê nhất thống chí - NXB Giáo dục - sách nhà
trường - H. 1970
7 - Chu Thiên - Bóng nước Hồ Gươm - 1970 NXB Văn học
8 - Nguyễn Huy Thiệp- Kiếm Sắc. Vàng lửa. Phẩm tiết. (Như những ngọn
gió) NXB Văn học 1999 - tái bản.
9 - Nguyễn Huy Tưởng - An Tư 1944 - 1945.
121
6 - Milan Kundera - Sự bất tử. Chậm rãi. Bản nguyên. -NXB Văn học 1999.
122
123