ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN DANH PHÚ

Tiểu thuyết lịch sử Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác (từ góc độ thể loại) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2005

Phần mở đầu

Lời nói đầu - cấu trúc luận văn

I. Lời nói đầu

1. Lý do chọn đề tài, mục đích của đề tài.

Đất nước chuyển biến mạnh mẽ trên con đường đổi mới, nhất là từ

1986. Đảng chủ trương mở cửa, hội nhập với cộng đồng Quốc tế, nhanh

chóng đưa đất nước ra khỏi nguy cơ tụt hậu, đưa nền kinh tế phát triển theo

cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước. Trong đổi mới toàn diện của đất nước, những đứa

con xa đã trở về, trở về bằng cả con người và bằng cả những giá trị tinh

thần. Những năm cuối XX đầu XXI, đội ngũ kiều bào đã có những gương

mặt thành đạt và yêu nước, có những đóng góp đáng quý trong sự nghiệp

xây dựng đất nước. Trong không khí đó, đời sống văn học khởi sắc với sự

góp mặt của tiểu thuyết lịch sử trong và ngoài nước. Tiêu biểu là những tên

tuổi: Nam Dao với "Gió lửa"; Vũ Ngọc Đĩnh với "Bắn rụng mặt trời", "

Mười hai sứ quân", " Hào kiệt Lam Sơn"; Trần Đại Sĩ với "Nam quốc Sơn

Hà", "Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông", "Anh hùng Tiêu Sơn",

"Thuận thiên di sử", "Anh hùng Bắc Cương", "Anh linh thần võ tộc Việt" ...

(theo phụ san trang cuối tập II "Sông Côn mùa lũ". Nhiều tác phẩm đạt đến

độ trường thiên, viết về lịch sử bằng thể loại tiểu thuyết lịch sử, trong đó

phải kể đến "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác với bốn tập NXB

An Tiêm California 1991 được gửi qua Trung tâm văn hoá Quốc tế, được

xuất bản trong nước 2001 (4 tập) và tái bản 2003 (2 tập). Khi được sự bố trí

của khoa văn học làm luận văn tốt nghiệp với GS - VS Phan Cự Đệ với sự

gợi ý của GS-VS, tôi đề đạt nguyện vọng viết về "Sông Côn mùa lũ" (từ góc

1

độ thể loại) và được sự đồng ý.

Mục đích của luận văn với đề tài trên, bản thân chúng tôi không có

tham vọng bàn đến những vấn đề quá rộng lớn, mà chỉ dừng ở mức độ nhất

định, phạm vi nhất định trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp thạc sĩ:

- Xác định những nét đặc trưng của tiểu thuyết

- Xác định những nét đặc trưng của tiểu thuyết lịch sử

- Những nét tương đồng và dị biệt của tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch

sử

- Để tìm hiểu về tiểu thuyết lịch sử"Sông Côn mùa lũ" từ góc nhìn

thể loại: nội dung, kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật.

- Xác định tác giả viết theo cảm hứng nghệ thuật nào?

- Xác định tác giả viết theo cách nào: lịch sử là "cứu cánh" hay lịch

sử là "phương tiện" .

- Mối quan hệ giữa chất liệu tiểu thuyết và chất liệu lịch sử trong tác

phẩm.

Nói chung là từ xuất phát điểm giới thuyết về thể loại, phạm vi bài

viết chủ yếu tìm hiểu "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác.

2. Lịch sử vấn đề

Tiểu thuyết lịch sử có mặt trên văn đàn Việt Nam từ cuối XVIII đầu

XIX với "Hoàng Lê nhất thống chí". Tiểu thuyết lịch sử bốn mươi nhăm

năm đầu thế kỷ XX ở nước ta phát triển tương đối mạnh mẽ: Nguyễn Tử

Siêu có " Tiếng sấm đêm đông" (1928), "Đinh Tiên Hoàng" (1929), "Vua

Bố cái" (1929), "Lê Đại Hành" (1929), "Trần Nguyên chiến kỷ" (1935),

"Việt Thanh chiến sử" (1935), "Hai Bà đánh giặc" (1936); Đinh Gia Thuyết

có "Ngọn cờ vàng" (1934); Trần Trung Viên có "Cầu vồng Yên Thế", Tân

Dân Tử có "Giọt máu chung tình" (1926), Phạm Mạnh Kiên có " Việt Nam

Lý Thường Kiệt"; Trần Thanh Mại có "Ngô Vương Quyền"; Đào Trinh Nhất

có "Phan Đình Phùng" (1936); Chu Thiên có "Lê Thái Tổ" (1941); Ngô Tất

2

Tố có "Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ" (1935), "Vua Tây chúa

Nguyễn" (1937), "Lịch sử Đề Thám" (1935); Nguyễn Huy Tưởng có "An

Tư" (1944 - 1945)...

Những năm cuối thế kỷ XX, tiểu thuyết lịch sử xuất hiện những tác

phẩm ở trong nước, nổi bật là "Hồ Quý Ly" của Nguyễn Xuân Khánh, ở

ngoài nước với những tên tuổi: Nam Dao, Trần Sĩ Đại, Nguyễn Mộng Giác

với hàng chục trường thiên tiểu thuyết (tên tác phẩm đã nêu ở phần I - tác

phẩm đã và sẽ xuất bản trước và sau 2003). ở lĩnh vực phê bình, bàn về tiểu

thuyết lịch sử không phải là điều mới, vì ngay từ 1957 đã diễn ra cuộc tranh

luận về "Tiêu Sơn tráng sĩ". "Cuộc tranh luận năm 1957 xung quanh "Tiêu

Sơn tráng sĩ" tập trung vào vấn đề: các Đảng viên Tiêu Sơn là những người

yêu nước hay là những kẻ đi ngược lại xu thế của lịch sử". Nhiều cây bút đã

tham gia vào cuộc tranh luận như: Phan Cự Đệ, Trương Chính, Minh

Tranh, Trần Thanh Mại. (Thế nào là quan điểm lịch sử trong văn học - Văn

nghệ số 3, tháng 8/1957). Từ "năm 1966, trong cuốn Nguyễn Huy Tưởng

(viết chung với Hà Minh Đức), chúng tôi đã viết về sự khác biệt trong công

việc của nhà tiểu thuyết lịch sử và nhà sử học" (Phan Cự Đệ). Gần đây có

luận án tiến sĩ của tác giả Bùi Văn Lợi "Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam những

năm đầu thế kỷ XX đến 1945" (1999). Nhìn từ góc độ số lượng và thời gian

sáng tác, có thể thấy tiểu thuyết lịch sử xuất hiện đến nay đã trải hai thế kỷ.

Số lượng tác phẩm cũng không phải là ít, song dường như có hai khoảng

thiếu hụt: ở XIX và nửa cuối XX trong nền văn học cách mạng. Chỉ rộ lên ở

những năm cuối của XX. Về phê bình cũng có sự ngắt quãng cùng với sự

thiếu hụt của loại hình tiểu thuyết lịch sử.

3. Nhiệm vụ của luận văn:

Tổng hợp sơ lược giới thuyết về thể loại tiểu thuyết và tiểu thuyết

lịch sử, chỉ ra những khác nhau giữa nhà viết sử, nhà viết tiểu thuyết và nhà

3

viết tiểu thuyết lịch sử. Tập trung phân tích nội dung tác phẩm "Sông Côn

mùa lũ", xem thể loại tiểu thuyết lịch sử như là sự quy chiếu để thấy được

những vấn đề của tác phẩm: Nguyễn Mộng Giác viết "Sông Côn mùa lũ" từ

cảm hứng nghệ thuật nào? Mối quan hệ giữa chất liệu lịch sử và chất liệu

tiểu thuyết trong tác phẩm. Lịch sử là "cứu cánh" hay là "phương tiện" của

nhà văn.

4. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp tổng hợp phân tích

- Phương pháp so sánh văn học

- Phương pháp loại hình (loại hình tiểu thuyết lịch sử)

II. Cấu trúc luận văn

Phần mở đầu

I. Lời nói đầu: - Lý do chọn đề tài, mục đích của đề tài

- Lịch sử vấn đề

- Nhiệm vụ của luận văn

- Phương pháp nghiên cứu

II. Bố cục luận văn

Chương I:

Tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử: giới thuyết về thể loại, những

tương đồng và dị biệt.

1 - Tiểu thuyết, giới thuyết về thể loại:

- Đặc trưng của thể loại tiểu thuyết.

- Giới thuyết về hành trình của tiểu thuyết trong văn học.

- Vị trí, vai trò của tiểu thuyết với văn học và cuộc sống.

2 - Tiểu thuyết lịch sử, giới thuyết về thể loại.

- Đôi điều về thể loại tiểu thuyết lịch sử .

4

- Vấn đề phản ánh qua tiểu thuyết lịch sử.

3 - Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử, những tương đồng và dị biệt

- Nét tương đồng

- Dị biệt

Chương II

Nội dung "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác - nhìn từ

góc độ tiểu thuyết lịch sử

1 - Chất liệu lịch sử - nhân vật lịch sử trong" Sông Côn mùa lũ"

1.1. Chất liệu lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ".

1.2. Nhân vật lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ"

- Nguyễn Huệ

- Nguyễn Nhạc

- Nguyễn Lữ

2 - Chất liệu tiểu thuyết-nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ"

2.1 - Chất liệu tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ"

2.2 - Nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ".

- Trí thức thời loạn trong "Sông Côn mùa lũ".

- Nhân vật trung gian trong "Sông Côn mùa lũ".

- Hình tượng người phụ nữ trong "Sông Côn mùa lũ".

- Nhân vật thường dân trong "Sông Côn mùa lũ".

Chương III

Kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật của "Sông Côn mùa lũ"

1. Kết cấu.

- Tuyến lịch sử.

- Tuyến hư cấu.

5

- Kết cấu đan xen các chủ đề

2. Phương thức kết cấu

- Phân nhánh, lan toả, trật tự tuyến tính, đan xen, đối ảnh, xâu

chuỗi

3. Ngôn ngữ nghệ thuật

- Ngôn ngữ tác phẩm

- Ngôn ngữ nhân vật

- Ngôn ngữ tạo hình và đa thanh

Đôi lời kết luận

- Tiểu thuyết lịch sử với văn học, với văn hoá đọc nói chung

- Tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết hiện nay phát triển theo hướng

nào.

- Tiểu thuyết lịch sử "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác và

vấn đề - tính thời sự của văn học

Phần nội dung

Luận văn gồm ba chương (không kể phần mở đầu và đôi lời kết

luận)

Chương I

Tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử: giới thuyết về thể loại, những tương đồng

và dị biệt.

Chương II

Nội dung "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác

nhìn từ góc độ tiểu thuyết lịch sử

Chương III

6

Kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật của "Sông Côn mùa lũ".

Chương I

Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử:

Giới thuyết về thể loại, những tương đồng và dị biệt

I. Tiểu thuyết, giới thiệu về thể loại:

Thể loại tiểu thuyết trong sự phát triển lịch đại của văn học sinh sau

đẻ muộn. Sự ra đời và phát triển của một số thể loại của văn học rất sớm.

Có những thể loại ra đời tiền văn tự như: Sử thi cổ đại, các thể loại văn học

thuộc văn hoá dân gian - FOLKLORE. Nó tồn tại gắn liền với các hình thái

sinh hoạt dân gian và cả trong lễ hội. Sự chuyển dịch từ văn học dân gian

thành văn học thành văn là sự phát triển nhảy vọt của văn học. Nó chuyển

hẳn từ văn hoá nghe qua giọng kể, văn hoá nhìn qua biểu diễn thành văn

hoá đọc. Sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết trong văn học nâng tầm văn

hoá đọc lên một bước mới, một tầm cao mới. Có lẽ cũng vì thế mà tiểu

thuyết không phải là món ăn tinh thần cho tất thảy quảng đại quần chúng;

cho dù tác giả muốn hướng tới quần chúng đến mức cao nhất trong phản

ánh cuộc sống bằng thể loại đặc biệt này.

Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi không có tham vọng trình bày

những vấn đề về thể loại và thi pháp tiểu thuyết một cách đầy đủ mà ở đây

chỉ trình bày ở góc độ giới thuyết ( có giới hạn) như là những nét khái quát

về tiểu thuyết trong sự phát triển của văn học với tư cách là một thể loại đặc

biệt, như là một nhịp nối để bàn về tiểu thuyết lịch sử.

Hê ghen gọi tiểu thuyết là "Sử thi thị dân" điều này có nghĩa là tiểu

thuyết hiện đại phương Tây ra đời gắn liền với sự ra đời và phát triển của

yếu tố tư bản, với sự hình thành của giai cấp tư sản. Nhận định này của Hê

7

ghen còn giúp ta thấy cái mốc đã làm nảy sinh một thể loại văn học mới

mẻ là tiểu thuyết. Biê lin x ki cho rằng: " Sử thi của thời đại chúng ta là

tiểu

thuyết. Trong tiểu thuyết có tất cả những dấu hiệu thể loại quan trọng của

sử thi, chỉ có sự khác nhau là trong tiểu thuyết khống chế những yếu tố khác

và sắc màu khác"(Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại). Nói như

vậy có nghĩa là tiểu thuyết ra đời không tách rời sự vận động nội tại của văn

học. Bị chi phối bởi yếu tố khách quan là cuộc sống, song tiểu thuyết, một

sản phẩm tinh thần của con người có sự vận động nội tại để hoàn thiện. Khi

Biêlinxki nói rằng: " Trong tiểu thuyết có những sắc màu khác" thì chính là

sự phản ánh, miêu tả " cuộc sống hàng ngày". Cuộc sống đang diễn ra hôm

nay chứ không phải là cái quá khứ sử thi tuyệt đối. Vì thế, tiểu thuyết có thể

tái hiện cuộc sống bằng những nguồn đề tài khác nhau. Đề tài trong quá khứ

là lịch sử. Đề tài trong cuộc sống hiện tại là "tình trạng hiện tại của nó". Vì

thế, tiểu thuyết phải miêu tả cuộc sống như là nó vốn có. Tiểu thuyết hướng

tới cuộc sống, miêu tả cuộc sống của cộng đồng xã hội. Nhân vật của tiểu

thuyết vì thế mà sinh động như trong cuộc đời. "Bằng nghệ thuật điển hình

hoá, nhà tiểu thuyết nâng cái cá biệt, cái cụ thể lên chiều cao của sự khái

quát. Cái đích của tiểu thuyết mà cũng là phương tiện để thực thi hoàn

thành tiểu thuyết là hư cấu, song là hư cấu, từ chính cuộc sống hiện tại mà

tác phẩm phán ánh. Điều này khác hẳn với một số tiểu thuyết từ trước nửa

thế kỷ XVIII. Đó là sự hư cấu trên cơ sở những truyền thuyết thần thoại cổ

như kiểu Tristan Iseult của Josef Bedie'. Hoặc là tiểu thuyết kỵ sĩ thời phục

hưng sử dụng những hình tượng và những thủ pháp nghệ thuật của sử thi kỵ

sĩ trung thế kỷ để kể lại những cuộc du hành thám hiểm những khám phá

lớn lao về sức mạnh vạn năng của con người trong thế kỷ XVI. Như vậy là

mãi đến cuối thế kỷ XVIII và đặc biệt thế kỷ XIX người ta mới quan niệm

Roman như ta hiểu ngày nay, nghĩa là một tác phẩm "miêu tả cuộc sống với

8

tất cả tính chất văn xuôi của nó, một chuyện hư cấu về những việc có tính

chất xác thực của cuộc sống nhân loại" (Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại -

Phan Cự Đệ ). Sử thi hướng về cái quá khứ tuyệt đối với một " khoảng cách

sử thi " đầy tôn kính, còn tiểu thuyết là cuộc sống bình thường hàng ngày,

là một thể loại mang tính dân chủ (dân chủ với nhân vật, dân chủ với bạn

đọc ). Tiểu thuyết phát huy cao độ vai trò của hư cấu, thậm chí có những hư

cấu cao độ ( Don Qui chotte, Xuân Tóc Đỏ ), đến mức không thể tìm được

một nguyên mẫu đúng như thế trong cuộc đời. Tiểu thuyết hướng về cuộc

sống đương đại, về cái hiện thực đang vận động, đang phát triển, nên dù có

nói chuyện trung thế kỷ hay kể chuyện khoa học viễn tưởng thì chủ yếu

cũng phải giải quyết những vấn đề bức xúc của đương đại.

ở cái nôi văn hoá phương Đông, điển hình là Trung Quốc, tiểu thuyết

đã xuất hiện trong đời sống văn học từ rất sớm. Theo "Trung Quốc tiểu

thuyết sử lược" của Lỗ Tấn ,"Hán thư nghệ văn chí" cho rằng phái các nhà

tiểu thuyết là vốn xuất phát từ chức tỳ quan, chép những lời ngoài đường

ngoài ngõ. Những chuyện ngụ ngôn, những chuyện quái lạ, những giai

thoại, những chuyện hoang đường có tính chất lịch sử... là những chuyện

hết sức vụn vặt ngoài đường ngoài ngõ. Tiểu thuyết theo quan niệm trên là

những lời nói nhỏ - "tiểu thuyết" - vụn vặt được ghi chép. Như thế, theo

quan niệm này, " tiểu thuyết" chưa được coi là sự sáng tạo mang tính chất

văn học bác học, chưa thể xuất hiện tiểu thuyết gia sáng tác mà chỉ có tiểu

thuyết gia chí mà thôi. Cũng chính vì thuần tuý là ghi chép mà tiểu thuyết,

dưới cái nhìn của Nho gia cửa Khổng, sân Trình không phải là chính thư,

trái với đạo Nho. Tiểu thuyết ở đây còn có thể hiểu là tạp thuyết. Điều này

hoàn toàn khác với khái niệm tiểu thuyết mà Lỗ Tấn dùng sau này. Với

quan niệm "Văn dĩ tải đạo" của đạo Nho, văn học Trung Quốc một thời gắn

với lịch sử, dường như không tách rời lịch sử. Văn học là cái chí hướng tới

của người quân tử để lập ngôn nếu không lập nổi đức, lập nổi công, thì lưu

9

danh sử sách bằng " trước thư lập ngôn ". Vì lẽ đó mà một thời kỳ phát triển

đến tột đỉnh của thơ ca từ thời Đường, Tống, tiểu thuyết vẫn hầu như tránh

mặt trên văn đàn Trung Quốc. Mãi đến thời Minh -Thanh (Thế kỷ XIV đến

thế kỷ XVI), tiểu thuyết mới xuất hiện mà điển hình là: Tam Quốc Diễn

Nghĩa, Thuỷ Hử, Tây Du Ký và Hồng Lâu Mộng. Với bốn pho đại tiểu

thuyết này, văn học Trung quốc đã xuất hiện những tiểu thuyết gia lớn : La

Quán Trung, Thi Nại Am, Ngô Thừa Ân, Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc.

ở Việt Nam, tiểu thuyết hiện đại như ta quan niệm hiện nay thực sự

hiện hữu trên văn đàn từ những năm 20 của thế kỷ XX, với những tên tuổi:

Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình, Hoàng Ngọc Phách. Truyện ngắn đã xuất hiện,

trong văn học Việt nam khá sớm. Nó bắt nguồn từ các loại: thần tích, chí

quái, truyền kỳ. Quá trình phát triển của văn xuôi, cũng là quá trình tách rời

giữa lịch sử và văn học. Tính lịch sử, tính chất chí bớt đi và tính sáng tạo,

hư cấu nghệ thuật tăng lên. Cũng là quá trình đi lên từ chuyện lạ hoang

đường đến những chuyện bình thường hàng ngày trong cuộc sống. Có thể

nói, truyện ngắn Việt Nam được khai sinh từ nguồn gốc dân gian và lịch sử.

Vì lẽ đó, văn học thành văn của Việt Nam gắn liền với những chuyện kể

dân gian, các loại thần tích (Việt điện u linh), chí quái (Lĩnh Nam chích

quái), truyền kỳ (Truyền kỳ tân phả, Truyền kỳ mạn lục), truyện thơ nôm từ

truyện cổ tích (Thạch Sanh), truyện thơ nôm khuyết danh Phạm Công Cúc

Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa... Nguồn mạch và dòng chảy của văn học thành

văn của Việt Nam mãi đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX xuất hiện

những thiên ký sự, tuỳ bút, tiểu thuyết lịch sử (Thượng kinh ký sự, Vũ trung

tuỳ bút, Hoàng Lê nhất thống chí). Những năm 20 của thế kỷ XX, hiện

tượng Hồ Biểu Chánh với hơn 60 tiểu thuyết phản ánh cuộc sống Nam bộ,

đồng thời thể hiện quan niệm đạo đức tốt đẹp của ông đối với cuộc sống

đương thời. Hiện tượng Biểu Chánh - Hồ Văn Trung có thể xem là con

người tiên phong trong lĩnh vực tiểu thuyết văn xuôi, mang tính luận đề.

10

Hiện tượng Hoàng Ngọc Phách với "Tố Tâm" có thể xem là người đặt nền

móng cho tiểu thuyết mới với bút pháp lãng mạn. Hiện tượng Phạm Duy

Tốn với "Sống chết mặc bay"... có thể xem là người đặt nền móng cho

truyện ngắn mới với bút pháp hiện thực phê phán.

Tiểu thuyết có vị trí đặc biệt trong văn học như trên đã trình bày một

cách tóm tắt. Bên cạnh đó, tiểu thuyết có ưu thế tuyệt đối trong phản ánh

toàn vẹn cuộc sống với bình diện lớn, tổng thể. Tiểu thuyết hiện vẫn còn là

một thể loại chưa có hồi kết . Mối quan hệ, cách nhìn nhận, việc phản ánh

cuộc sống, tái tạo cuộc sống, các nhà văn đã làm nên những dòng chảy,

những chủ thuyết trong quá trình sáng tạo. ở phương Tây, tiểu thuyết cổ

điển phát triển mạnh ở thế kỷ XIX, đồng thời cũng làm bùng nổ những

dòng chảy, chủ thuyết về tiểu thuyết ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX:

chủ nghĩa tự nhiên của E'mile Zola, chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Satre,

Camus, Hiện tượng Milan Kundera đã đưa vào văn học đương đại tiểu

thuyết giả tưởng khi mà ông chủ trương " suy nghĩ về một câu chuyện".

Hiện tượng văn học Harry Potter được xem là một loại hình mới của văn

học hậu hiện đại phương Tây.

Giữa thế kỷ XX, phe xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển, đối

trọng với chủ nghĩa tư bản ở các nước phương Tây. Trong cộng đồng xã hội

chủ nghĩa, văn học được sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ

nghĩa, làm nảy sinh một hiện tượng văn học phát triển rực rỡ với những tên

tuổi như: Maxime Gorki; Alexis Tolstoi; Cholokhov; Fade'ev; Ehrenbourg;

Aimatov thuộc Liên bang Xô viết (cũ).

Từ những năm 30 của thế kỷ XX trên văn đàn Việt Nam, tiểu thuyết

phát triển mạnh trong tư trào văn học lãng mạn của tiểu thuyết Tự lực văn

đoàn. Tư trào này dường như cáo chung vào những năm 40. Từ sau Cách

mạng tháng Tám, văn học nói chung tiểu thuyết nói riêng phát triển mạnh

11

mẽ. Thể loại tiểu thuyết mang cảm hứng sử thi, mang hơi thở của hai cuộc

kháng chiến, chống Pháp và chống Mỹ kéo dài ngót 30 năm và xây dựng

chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gần mười năm (1955-1964). Chúng ta có một

di sản tiểu thuyết dù chưa tương xứng với tầm vóc lịch sử, song nó làm tròn

sứ mệnh của văn học là phản ánh một cách chân thật và hùng hồn cuộc sống

mới, con người mới theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão cùng với công

nghệ thông tin, đặc biệt là loại hình nghệ thuật thứ bảy đang tác động mạnh

đến mối quan hệ giữa tiểu thuyết với bạn đọc. Nếu tiểu thuyết khủng hoảng

thì có lẽ phải hiểu nó là sự chững lại như một lát cắt. Tiểu thuyết là một sản

phẩm mà thông qua nghệ thuật ngôn từ có giá trị phi vật thể rất lớn trong

đời sống tinh thần con người. Tiểu thuyết có chỗ đứng quan trọng trong văn

học và do chính cuộc sống (thế sự) tạo nên nó song nó vẫn tồn tại theo một

quy luật riêng. Một quy luật khách quan là mọi hiện tượng trong cuộc sống,

khi đã phát triển đến đỉnh điểm rực rỡ thì có sự chuyển hoá. Tiểu thuyết

không nằm ngoài quy luật nghiệt ngã đó. Nếu tiểu thuyết khủng hoảng thì

đây chính là một trong những nguyên nhân khách quan. Khoa học kỹ thuật

tiến bộ đẩy nhanh vòng xoáy của công việc lao động. Giờ làm giảm, cường

độ lao động tăng, con người tìm đến những hình thức giải trí bằng nhiều

hình thức khác. Từ đói phương tiện giải trí, văn hoá đọc là chính đã chuyển

sang văn hoá nghe nhìn phong phú và nhiều hình thức giải trí khác nữa. Vì

thế, bạn đọc tiểu thuyết cũng một phần bị thưa vãn. Mặt khác, ngay cả khi

nghèo phương tiện thông tin, phương tiện giải trí, tiểu thuyết vốn không

phải là điểm hẹn cho tất cả mọi người. Trong thời đại bùng nổ thông tin

hiện nay, nhiều hình thức giải trí có liên quan trực tiếp đến đời sống hàng

ngày. Tiểu thuyết thuộc phạm trù tinh thần, đảm trách trọng yếu chức năng

của văn học: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giao tiếp, dự báo, giải trí, lại

thiếu những gì thiết thực như nhu yếu của con người. Trong thế giới kim

12

tiền, một thế giới thù nghịch với nhiều ngành nghệ thuật chân chính, trong

đó có văn học, các tiểu thuyết gia buộc phải xem các tác phẩm của mình

như một hàng hoá trên thị trường. Sản phẩm tiểu thuyết có giá trị phi vật

thể, những giá trị nhân bản được sáng tạo bởi tài năng và thiên chức sáng

tác lại được định giá bằng tiền. Đồng tiền định giá giá trị tinh thần thì nhân

cách của nhà văn bị xúc phạm. Đây chính là sự mất tự do lớn nhất. Nếu

tiểu thuyết khủng hoảng thì đây là một tác nhân không nhỏ. Những năm gần

đây (thập kỷ IX của thế kỷ trước và những năm đầu của thế kỷ này), một

câu hỏi lớn đặt ra: "tiểu thuyết Việt Nam phát triển theo hướng nào", là một

trăn trở của giới cầm bút, của các tiểu thuyết gia và là sự chờ đợi về phía

độc giả. Nhìn ở góc độ khách quan, văn nghệ nói chung đã được "cởi trói",

đất nước đổi mới với chủ trương hội nhập là một vận hội mới cho tiểu

thuyết. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại, phải góp phần tạo nên một nền

văn học xứng đáng với tầm vóc Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác,

đội ngũ độc giả với mặt bằng dân trí như hiện nay cũng là một vận hội

không nhỏ đối với văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Câu hỏi trên

là sự mong đợi của độc giả, một đội ngũ được xem là đồng tác giả đối với

tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Từ đổi mới đến nay (1986 - 2005), những

tác phẩm văn học ở các thể loại khác như truyện ngắn phát triển mạnh, đặc

biệt là kịch bản phim truyện. Tiểu thuyết thì tuy có phát triển về số lượng

nhưng chưa nhiều những tác phẩm hay. Thành công tiêu biểu phải kể đến

"Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng), " "Thời xa vắng" (Lê Lựu),

"Bến không chồng" (Dương Hướng), "Mảnh đất lắm người nhiều ma"

(Nguyễn Khắc Trường), "Chim én bay" (Nguyễn Trí Huân) "Ăn mày dĩ

vãng" (Chu Lai), "Hồ Quý Ly" Nguyễn Xuân Khánh ... Tiểu thuyết Việt

Nam chuyển mình theo hướng nào là một thông điệp chung với tiểu thuyết

gia của đội ngũ độc giả.

13

2. Tiểu thuyết lịch sử, giới thuyết về thể loại:

Tiểu thuyết lịch sử không phải là mới vì nó đã hiện hữu ở Việt Nam

từ cuôí thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" (Ngô

Gia Văn Phái). Đồng thời cũng xuất hiện tiếp trên văn đàn không phải là hy

hữu với "Trùng Quang tâm sử" (Phan Bội Châu) (1925 - Trùng Quang tâm

sử đăng trên Binh sự tạp chí (The military magazine) từ tháng 1/1921 đến

Hữu dịch) NXB Văn hoá 1957, "Tiếng sấm đêm đông"(Nguyễn Tử Siêu), Tiêu

Sơn tráng sỹ (Khái Hưng)... vấn đề ở đây là quan niệm về tiểu thuyết lịch sử. Nói

như Goncourt, "Lịch sử là cuốn tiểu thuyết đã viết xong, tiểu thuyết là lịch sử có

thể diễn ra như thế" (Pierre Louis-Rey- Tiểu thuyết Hachette-Paris 1992, trang 11

(tiểu mục tiểu thuyết và lịch sử).Với lời khẳng định này ta thấy rằng: tiểu thuyết

và lịch sử có mối quan hệ đặc biệt. Lịch sử với sự ghi chép bằng văn bản là cuốn

tiểu thuyết đã hoàn tất. Tiểu thuyết là "cuốn sử" có thể diễn ra như thế, có thể

diễn ra theo giả thiết suy luận , là lịch sử chưa có hồi kết. Dù vậy, khi các tiểu

thuyết gia chọn đề tài lịch sử để viết tiểu thuyết lịch sử, thì những gì đã trở thành

"giấy trắng mực đen", tiểu thuyết gia không thể làm thay tạo hoá được nữa. Mọi

sáng tạo đều có quyền hư cấu, song với nhà tiểu thuyết lịch sử thì phần sáng tạo

chỉ là một đối trọng với lịch sử. Nó là một phần quan trọng thể hiện qua tác phẩm.

Tiểu thuyết lịch sử phải được coi là một loại thể trong phạm trù thể loại tiểu

thuyết nói chung. Do nhà văn chọn đề tài để đối thoại với cuộc sống mà có tiểu

thuyết tâm lý xã hội, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết lịch sử... Từ thái độ, cách thể

hiện đối thoại với cuộc sống của nhà văn theo một quan điểm nào đó mà tạo ra

các trường phái tiểu thuyết theo các chủ thuyết như: hiện thực, lãng mạn, hiện

sinh... tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa (thế kỷ XX) và hậu hiện đại. Những năm

cuối XX và đầu XXI có nhiều tiểu thuyết sáng tác theo các chủ thuyết trên tạo

thành sự phong phú đa dạng của tiểu thuyết phương Tây. Với khuôn khổ và mục

đích bài viết này chúng tôi không nói gì thêm về những chủ thuyết trên mà chỉ

14

tháng 4/1925 - xuất bản lần thứ nhất mang tên "Hậu Trần dật sử (Trần Lê

nêu ra với tư cách như là sự điểm danh của các chủ thuyết đó trong văn đàn. Tiểu

thuyết là kết quả của thiên chức sáng tác cùng với vốn sống, vốn hiểu biết và kinh

lịch trong cuộc sống của tác giả. Tác giả viết tiểu thuyết lịch sử phải am tường

lịch sử, sự kiện, tôn trọng những gì lịch sử đã hoàn tất. Lịch sử được phản ánh

trong tiểu thuyết lịch sử phải là sự thể hiện: am tường sự kiện, nhân vật, không

gian, thời gian, địa điểm lịch sử. Dựa vào lịch sử còn những "điểm trắng", nhà

tiểu thuyết lịch sử sáng tạo,

tái hiện những nhân vật không góp mặt trong tác phẩm của sử gia. Những

nhân vật này là gương mặt của cuộc sống thường nhật, chính loại nhân vật

này làm nên chất tiểu thuyết của tác phẩm. Bên cạnh đó, " những điểm

trắng " về nhân vật lịch sử, được các tiểu thuyết gia lịch sử thêm vào làm

cho nhân vật lịch sử thêm chất tiểu thuyết song không nhào nặn lại nhân

vật, không vi phạm vào tính chân thực của lịch sử, của cuốn lịch sử đã được

hoàn tất. Cái khó của nhà tiểu thuyết lịch sử là phải đảm bảo tính khách

quan, đòi hỏi tham khảo đến tường tận cứ liệu lịch sử, phải am tường về

những yếu tố địa lý, thổ nhưỡng, phong tục, tập quán... Muốn vậy phải điều

tra hồi cố các sự kiện, nhất là để phát hiện ra những điều mà vốn nó nằm

ngoài sự ghi chép của lịch sử. Hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử là tất yếu,

song hư cấu không thể vượt qua hai tiếng lịch sử. Nếu vượt qua, nó sẽ trở

thành tiểu thuyết dã sử, lấy lịch sử làm phương tiện, coi lịch sử là điều đang

diễn ra mà quyền nhào nặn của nhà văn như chính là tạo hoá. Như vậy, nhà

văn đã tiểu thuyết hoá lịch sử chứ không phải là viết một tiểu thuyết lịch sử.

Tóm lại: Tiểu thuyết lịch sử nằm trong phạm trù tiểu thuyết nói

chung nhưng viết về đề tài lịch sử. Vì những lẽ đó, tiểu thuyết lịch sử luôn

tồn tại hai hệ thống nhân vật: nhân vật lịch sử và nhân vật thuộc "điểm

trắng" của lịch sử - nhân vật sáng tạo của tiểu thuyết gia. Mặt khác, khi lấp

những điểm trắng" nghĩa là tạo ra những chi tiết bổ sung cho lịch sử, sáng

15

tạo những nhân vật phi lịch sử - những cuộc đời thường, nhà tiểu thuyết

phải tránh hiện đại hoá con người nhất là khi gắn nối giữa hai hệ thống nhân

vật: lịch sử và phi lịch sử. Để tạo ra một kết cấu tác phẩm lô gíc, nhà văn

cũng rất dễ hiện đại hoá mối quan hệ giữa người với người. Khi đã hiện đại

hoá mối quan hệ này thì cho dù tác phẩm có kết cấu lô gíc đến chừng nào,

người đọc cũng không dễ dàng cảm thông trong tiếp nhận. Mặt khác, khi

gắn nối hai hệ thống nhân vật trên nhà văn có thể làm cho nhân vật lịch sử

không còn là lịch sử nữa (hoặc thêm vào những nét cao thượng vốn đã đầy

ắp của nhân vật lịch sử hoặc là sẽ tầm thường hoá nhân vật lịch sử). Nếu

nhà văn rơi vào tầm thường hoá nhân vật lịch sử, hiện đại hoá mối quan hệ

giữa người với người trong tác phẩm sẽ tạo ra một dã sử được ghi chép

bằng tác phẩm văn học.

3. Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử - những tương đồng và dị biệt

Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử đều có chức năng tái hiện cuộc

sống. Tiểu thuyết tái hiện những gì đang diễn ra như chính cuộc sống đồng

đại với bạn đọc. Tiểu thuyết lịch sử tái hiện những gì đã diễn ra trong quá

khứ, những gì mà thượng đế không làm gì được nữa. Tiểu thuyết lịch sử có

sự gặp gỡ giữa tác giả với bạn đọc là sự giao tiếp về lịch sử, về quá khứ,

song nó không hoàn toàn là những gì thuộc công việc của sử gia, cũng

không hoàn toàn là tiểu thuyết. Công việc của nhà tiểu thuyết lịch sử là làm

sống lại phần cuộc sống đã bị "che khuất" để tạo nên bình diện tổng thể của

cuộc sống. Phần khuất lấp ấy - phần không là nét lớn, nét chính của sử gia -

khi tái hiện, tiểu thuyết gia lịch sử hoàn toàn có quyền hư cấu như chính các

tiểu thuyết gia. Thậm chí cả những yếu tố thuộc lịch sử mà còn các "điểm

trắng" thì khi lấp các "điểm trắng", nhà tiểu thuyết lịch sử có quyền hư cấu,

làm cho những gì thuộc lịch sử vẫn là lịch sử, song sinh động hơn, hấp dẫn

hơn. Nhà tiểu thuyết tái tạo cuộc sống bằng hư cấu để tạo ra những gương

16

mặt tiêu biểu của đời thường đang diễn ra; nhà tiểu thuyết lịch sử hư cấu để

tạo ra những gương mặt tiêu biểu của đời thường đã diễn ra trong quá khứ.

Khi hư cấu, nhà tiểu thuyết ít bị chi phối bởi tính niên đại. Khi hư cấu, nhà

tiểu thuyết lịch sử phải đặt bình diện phản ánh trong niên đại. Nhà tiểu

thuyết khi viết về cuộc sống đang diễn ra, đồng hành với nhà chép sử đồng

đại. Họ đều là " thư kí " của cuộc sống. Nhà tiểu thuyết lịch sử với sử gia là

tiếng nói đồng vọng của hôm nay với hôm qua, nối quá khứ với hiện tại,

giao thoa giữa hiện tại với quá khứ. Có sự khác biệt trong công việc của nhà

tiểu thuyết lịch sử và nhà viết sử, "việc nghiên cứ lịch sử là vô cùng cần

thiết đối với nghệ sỹ, nhưng sự nghiên cứu ấy không thể thay thế sự sáng

tạo. Có khi nhà nghệ sỹ chỉ cần vài khoảnh khắc trong đời sống của nhân

vật lịch sử, có khi nghệ sỹ đưa vào tác phẩm những điều phi lịch sử, không

quan trọng, thậm chí trong một chừng mực nào đó có quyền vi phạm sự

đúng đắn về sự kiện lịch sử, bởi vì tác giả chỉ cần " sự đúng đắn lý tưởng"

mà thôi" (Phan cự Đệ - Tiểu thuyết lịch sử - tạp chí Nhà văn số 1 2003,

trang 56).

Nhà tiểu thuyết, như ta quan niệm hiện nay, lấy những sự kiện đang

diễn ra hàng ngày, đối thoại với cuộc sống để sáng tạo cuộc sống trong tác

phẩm. Nó là những " chuyện ngoài đường ngoài ngõ ", những điều mà sử

gia phong kiến không ghi chép. Những con người ngày xưa được dùng

chung bằng một từ " bách tính" mà ngày nay được dùng là nhân dân, đồng

bào, các sử gia không ghi chép gương mặt cá thể trong phạm trù này. Nhà

viết sử không thể tạo ra tính cách toàn diện của nhân vật lịch sử trong lịch

sử. Nhà tiểu thuyết thì trái lại, sáng tạo cuộc sống thứ hai trong tác phẩm,

tạo ra những cá tính, những số phận, cả những buồn vui trong đời sống con

người. Tiểu thuyết lịch sử có thể ví như nhịp cầu nối giữa lịch sử và tiểu

thuyết. Nó chọn đề tài là lịch sử để sáng tác, vì thế vừa phải là tiểu thuyết

mang diện mạo tiểu thuyết, vừa phải là lịch sử như lịch sử đã diễn ra hoặc "

17

có thể diến ra như thế ". Tiểu thuyết là thế sự đang diễn ra, tiểu thuyết lịch

sử là thế sự đã khép lại nhưng nhà văn cũng có thể giả định, tiên đoán xu

thế phát triển của nó. Theo dòng chảy thời gian, cái hôm nay sẽ thành cái

hôm qua, cái ngày mai rồi sẽ là cái ngày nay, nghiã là thế sự rồi cũng đi vào

quá khứ, đi vào lịch sử. Những gì mà tiểu thuyết thế sự tạo ra là gương mặt

của những cuộc đời thường trong cuộc sống thường nhật hôm nay. Tiểu

thuyết lịch sử làm sống lại những gì mà thời gian đã đẩy vào dĩ vãng. Tiểu

thuyết lịch sử bị chi phối bởi khách quan là lịch sử. Dù sáng tạo chủ quan

đến mức cao nhất, tiểu thuyết gia lịch sử cũng không thể thế sự hoá lịch sử

mà chỉ có thể thêm vào trong tác phẩm những gì mà sử gia không làm như

thế. Tác giả chỉ có thể đưa vào tác phẩm những chi tiết chủ quan không làm

lệch lạc cái công việc của tạo hoá, không can thiệp công việc của tạo hoá

bằng chủ quan cá nhân. Nếu không, tiểu thuyết gia lịch sử đã lạm dụng, đã

thiên lệch tính tiểu thuyết để dã sử hoá lịch sử. Tiểu thuyết có sức hoành

tráng hoá một nền văn học, có sức thu nạp lớn nhất là cuộc sống đang diễn

ra, đang hiện hữu, tiểu thuyết gia có mặt chính trong thế sự đó. Thế sự đang

hiện hữu được các nhà tiểu thuyết hiện thực cổ điển thể hiện thành công ở

cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX ở Châu Âu với những tên tuổi lớn như

DicKens ( Anh), Balzac (Pháp ), Lev Tolstoi ( Nga )...ở Việt Nam là những

tên tuổi thời tiền chiến (thế kỹ XX): Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,

Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Thế sự trong tiểu thuyết lịch

sử là thế sự tái hiện bằng kết quả nghiên cứu lao động trí tuệ về nhiều

phương diện: văn hoá, lịch sử, địa lý...

Tiểu thuyết lịch sử đòi hỏi vấn đề phản ánh phải dừng trước vạch

cấm chỉ của lịch sử để tác phẩm đảm bảo tính chân thực lịch sử. Vượt qua

vạch cấm chỉ, tiểu thuyết lịch sử đã tiểu thuyết hoá lịch sử. Cái " có thể diễn

ra như thế" không thể là phương tiện để tiểu thuyết gia tạo dụng ý " bình cũ

rượu mới", chuyển hẳn nó sang tiểu thuyết luận đề, dã sử hoá lịch sử nhằm

18

thực hiện thiên kiến của tác giả, hoặc một biểu tượng hai mặt về cuộc sống

hiện tại. Như vậy tiểu thuyết lịch sử chỉ còn là một phương tiện (Gió lửa

của Nam Dao). Tiểu thuyết lịch sử muốn hay không, để nó đảm trách nhiệm

vụ lịch sử (Hystory) thì không gian, thời gian, địa điểm..., thể hiện trong tác

phẩm phải mang dấu ấn của thời điểm lịch sử mà tác phẩm phản ánh. Mặt

khác, tuyến nhân vật sáng tạo của tác giả - loại nhân vật không là đối tượng

của sử gia, khi được tái tạo phải là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử, không

thể hiện đại hoá con người trong quá khứ. Những nhân vật sáng tạo phải

mang dấu ấn lịch sử: Phong tục, tập quán, lời ăn tiếng nói, trang phục, nhất

là quan hệ giữa người với người. Nếu không, tác phẩm sẽ trở thành hai

mảng riêng biệt: lịch sử và thế sự không ăn nhập, không lô gíc. Như vậy,

tác giả đã mượn danh lịch sử để viết tiểu thuyết với dụng ý nào đó chứ

không phải là viết tiểu thuyết lịch sử.

Bàn về tiểu thuyết lịch sử, trong một chuyện luận cùng tên, giáo sư

Phan Cự Đệ đã đề cập đến những vấn đề có tính phổ quát về thi pháp tiểu

thuyết lịch sử khi dẫn những chính kiến của các lý luận gia tên tuổi các

nước: Anh, Pháp, Nga và của chính những cây bút tiểu thuyết lịch sử. Một

nhà phê bình vừa khen vừa chê Dumas như sau "Alexandre Dumas đã hiếp

dâm lịch sử mà đẻ ra những đứa con hoang sinh động hơn những đứa con

chính thức "(Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn). Nhưng nhà văn lãng mạn

Alexandre Dumas, người có biệt tài viết tiểu thuyết lịch sử (Ba người lính

Ngự lâm, Hai mươi năm sau, Hoàng hậu Margot, Ba tước Monte Cristo...)

đã đáp lại: " Lịch sử đối với tôi là gì ? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo cái

bức hoạ của tôi thôi" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn)

"Không tôn trọng sự chính xác lịch sử hoặc chỉ dùng quá khứ lịch sử

để ám chỉ những vấn đề hiện tại, đó là khuynh hướng đường như không

thể thay đổi của một số nhà lãng mạn. Trong "Những suy nghĩ về chân lý

19

nghệ thuật" ( 1827 ), vốn là Lời tựa của cuốn tiểu thuyết lịch sử Cing Mars

(1826 ) Alfred de Vigny nhấn mạnh rằng" chúng ta đang ở vào một thời đại

mà con người muốn biết và muốn tìm kiếm cái nguồn của mọi con sông"

Vuợt qua cái chân thật của sự kiện ", tiểu thuyết có thể vươn tới " chân lý

của nghệ thuật ", có nghĩa là đi qua bên ngoài huyền thoại để đưa ra " một ý

niệm về lịch sử ". Lu kacs cho rằng trong tiểu thuyết Cing Mars, Alfred de

Vigny đã trình bày một quan niệm về lịch sử ngược hẳn với chủ nghĩa lịch

sử của Walter Scott. Những tác phẩm của nhà văn Anh này được Lukacs

coi như hình thái cổ điển của tiểu thuyết lịch sử" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã

dẫn).

" ở một đoạn khác, Lu kacs lại viết: mối quan hệ sinh động với hiện

tại thể hiện ngay chính trong sự vận động được mô tả của lịch sử và tự nó

nói lên. Nhà tiểu thuyết không nên biến tác phẩm của mình thành luận văn

lịch sử mang tính giáo huấn và những quy chiếu lộ liễu về thời hiện tại, theo

Piere Louis - Rey, những tác phẩm như thế chỉ là những thứ xỉ giữa thế giới

tiểu thuyết" ( Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn).

Trong trào lưu lãng mạn Việt Nam thời tiền chiến của thế kỷ XX,

"khi viết "Tiêu Sơn tráng sĩ", Khái Hưng đã dựa vào "Hoàng Lê nhất thống

chí" của Ngô Gia văn phái và dựa vào cuộc đời của Phạm Thái, tác giả "Sơ

kính tân trang" , Khái Hưng đã căn cứ hoàn toàn vào "Hoàng Lê nhất

thống chí" để viết về những ngày cuối cùng của cuộc đời những " bề tôi

trung nghĩa" với nhà Lê như thượng thư bộ binh Nguyễn Đình Giản, trấn

thủ kinh bắc Trần Quang Châu, trạch trung hầu Phạm Đại, thiêm thư khu

mật viện Lê Ban; những người cha của các đảng viên Tiêu Sơn như Nhị

Nương, Quang Ngọc, Phạm Thái, Lê Báo. Cuộc đời và tính cách của thế hệ

trẻ trong đảng Tiêu Sơn là những nhân vật lãng mạn mang dáng dấp khách

chinh phu của Thế Lữ. Do hư cấu, sáng tạo, Khái Hưng chỉ căn cứ một

20

phần vào các sự kiện và cái không khí xã hội trong "Hoàng Lê nhất thống

chí ", " Sơ kính tân trang". Như thế có nghĩa là "lịch sử chỉ là cái đinh để

tôi treo các bức hoạ của tôi thôi " ( Dumas )."Tiêu Sơn tráng sĩ" là một cuốn

tiểu thuyết lịch sử nhưng rõ ràng đã ấp ủ nhiều điều tâm sự của con người

hiện đại. Vì Phạm Thái vừa mang giấc mộng anh hùng lại vừa có phong

thái của nghệ sĩ, vừa là khách chinh phu vừa là khách tình si. Lấy hai tác

phẩm: một tiểu thuyết lịch sử (Hoàng Lê nhất thống chí), một truyện thơ

(Sơ kính tân trang) làm tư liệu, Khái Hưng đã viết "Tiêu Sơn tráng sĩ" mang

đầy ý tưởng, tâm sự của tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam trước Cách mạng

tháng 8 năm 1945.

" Các nhà tiểu thuyết lịch sử không coi việc miêu tả quá khứ như một

mục đích tự tại. Họ kể một câu chuyện về qúa khứ nhưng các động từ vẫn

được chia ở thì hiện tại". Tiểu thuyết lịch sử còn nhiều tác dụng khác nữa

"nó có thể soi sáng những thời kỳ quá khứ của con người đã trải qua với

mục đích rõ ràng là gạn lọc những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hiện

tại. Nó giúp ta làm những bảng so sánh đối chiếu thời đại nọ với thời đại

kia... Tác giả tiểu thuyết lịch sử sử dụng quá khứ như một khí cụ để vẽ lên

những điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện tại và do đó làm sáng tỏ hiện

tại" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn).

Từ thực tế sáng tác, nhà viết tiểu thuyết lịch sử - Nam Dao nhấn

mạnh đến "vị thế hiện tại của chủ thể", điều này góp phần giúp ta hiểu thêm

về những yếu tố có tính mã hoá và giải mã tác phẩm tiểu thuyết lịch sử.

"Với một nhà văn, lịch sử không là những xác chết và những sự cố liên

miên, ù lì. Trong tiểu thuyết lịch sử, quá khứ lịch sử nhìn bởi nhà văn, nhà

văn như chủ thể . Đó là thứ tái chiếm hữu và tái tạo từ vị thế hiện tại của

chủ thể... Tiếp cận quá khứ từ vị thế hiện tại dĩ nhiên đèo bồng vào lịch sử

được tái tạo qua tiểu thuyết, những vấn nạn hiện tại. ở điểm này, đèo bồng

21

đó đến khi thì từ ý thức, khi vô thức nhưng ít hay nhiều đều nhằm truy

nguyên nguồn căn của các vấn nạn, vì lẽ hiện tại nào cũng là tổng hợp

những thành tựu và những thất bại trong quá khứ" (Phan Cự Đệ - Tài liệu

đã dẫn) . Nhà viết tiểu thuyết lịch sử có thể "đảo ngược và xoay quanh

những sự cố cũng như tính chất những con người trong quá khứ. Tưởng

tượng, Nguyễn Huệ không chết sớm, Minh Mệnh không tàn sát giáo dân,

Tự Đức nghe và làm theo điều trần của Nguyễn Trường Tộ... thì hôm nay

thế nào?". Với cách nhìn như vậy, hiện tại mang cái khả năng "khác được".

Lẫn vào quá khứ để chiếm hữu và tái tạo lịch sử, tiểu thuyết lịch sử hoá ra

là một tập hợp những dự phỏng về một tương lai có thể có được. Chính sự

khả hữu này làm đổ mồ hôi trong công việc viết văn và tiểu thuyết lịch sử.

Nói cho cùng, phải là máu cũng như nước mắt của người viết" (Phan Cự Đệ

- tài liệu đã dẫn). Nói như Nam Dao nghĩa là lịch sử được coi như một

phương tiện, nhà văn dắt quá khứ đặt vào hiện tại, đối thoại với lịch sử, đối

thoại với hiện tại nhằm "Phục sinh một hiện tại, cần tháo gỡ hầu thoát khỏi

những bế tắc tiêu vong" của hiện tại. Thế nghĩa là, tiểu thuyết lịch sử mang

mầu sắc luận đề, đặt ra những câu hỏi mà các chính trị gia hiện tại phải

nhăn trán. Có lẽ chính vì thế mà Nam Dao không gọi Gió lửa là tiểu thuyết

lịch sử mà gọi là tiểu thuyết dã sử. Là một cây bút tiểu thuyết lịch sử,

Nguyễn Mộng Giác lại nhấn mạnh "Tôi nghĩ, một cuốn tiểu thuyết lịch sử

đúng nghĩa luôn luôn phải là một cuốn tiểu thuyết thế sự. Bản chất của tiểu

thuyết là thế sự. Tiểu thuyết lịch sử mà thiếu thế sự thì hoặc là một thứ sử

thi giả dùng làm tài liệu tuyên truyền hoặc chỉ là một mớ tài liệu sử vô giá

trị. Một cuốn tiểu thuyết lịch sử chỉ minh hoạ lịch sử, từ đầu chí cuối chỉ

toàn các vua quan đi ra đi vào âm mưu hãm hại nhau, tranh giành quyền lực

còn đời sống của người dân thế nào, biến cố lịch sử đó ảnh hưởng đến

người dân đen ra sao tác giả không quan tâm.; tôi cho cuốn sách đó không

22

phải là tiểu thuyết theo đúng nghĩa. Thế sự là da thịt của tiểu thuyết lịch sử

cũng như lịch sử là xương cốt của tiểu thuyết lịch sử" ( trả lời phỏng vấn

giữa tác giả với Mai Quốc Liên - lời cuối sách).

Từ những điều đã trình bày ở trên dù chưa định được thật đầy đủ thật

đầy đủ những vấn đề mã hoá và giải mã tiểu thuyết lịch sử nhìn từ góc độ

thi pháp, nhưng ít nhất, ta cũng định được những kiểu, dạng của tiểu thuyết

lịch sử ở hai phương diện: nhận thức và thực tiễn sáng tác. Nói như chuyên

luận của Phan Cự Đệ: "Có thể tạm chia các nhà tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam thế kỷ XX thành hai nhóm. Một số nhà văn lấy việc tái hiện chính xác

sự kiện lịch sử, không khí lịch sử là chính như: Vũ ngọc Đĩnh, Thái Vũ,

Chu Thiên, ở đây lịch sử được coi là cứu cánh. Một số khác chỉ coi lịch sử

là chất liệu, thậm chí là phương tiện để viết tiểu thuyết. Họ tập trung vào

việc xây dựng nhân vật tiểu thuyết hoặc thông qua lịch sử đặt ra những vấn

đề cho hôm nay, cho mai sau. Trong nhóm thứ hai có thể kể: Hà Ân,

Nguyễn Xuân Khánh, Nam Dao, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Huy

Tưởng..."(Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn).

Tóm lại từ xuất phát điểm đến cái đích của một tiểu thuyết lịch sử

(như trên đã trình bày), ta có thể xác định được mối quan hệ giữa tiểu

thuyết với lịch sử như chính tên gọi của nó: lấy lịch sử làm cứu cách hoặc

lấy lịch sử làm phương tiện. Muốn bàn đến tiểu thuyết lịch sử cũng phải bắt

23

đầu từ chính mối quan hệ này.

Chương II

Nội dung "Sông côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác - Nhìn từ góc độ tiểu thuyết lịch sử

1. Chất liệu lịch sử - nhân vật lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ"

1.1 Chất liệu lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ"

Như đã trình bày ở trên, tiểu thuyết lịch sử thuộc phạm trù tiểu thuyết

nói chung, nhà tiểu thuyết lịch sử lấy lịch sử làm đề tài để sáng tác. Để trình

làng đứa con tinh thần, nhà tiểu thuyết hội tụ những yếu tố: vốn sống, vốn

kinh nghiệm, góc nhìn với thế sự, tâm tư, ý nguyện, thiên chức sáng tác...

Nhà tiểu thuyết lịch sử dù coi "lịch sử là phương tiện", "lịch sử là cái đinh"

thì vẫn phải am tường lịch sử, am tường những vấn đề thuộc văn hoá của

lịch sử đã được chọn làm đề tài. "Sông Côn mùa lũ", nhìn từ góc độ tiểu

thuyết lịch sử, trước hết, ta phải nhấn mạnh lại những vấn đề mang tính

chung nhất như là hệ quy chiếu để bàn về nó. Do tiểu thuyết lịch sử gắn với

lịch sử nên mọi tiểu thuyết lịch sử đều không có hồi kết mà chỉ có điểm

dừng của tác giả. Nó được hoàn tất theo sự lựa chọn của tác giả. "Sông Côn

mùa lũ" theo lời tác giả Nguyễn Mộng Giác - được viết ngoài chủ ý ban

đầu với thời gian sáng tạo (thời gian lựa chọn của tác giả) ngắn, hẹp và bình

diện thế sự (phần hư cấu) cũng có giới hạn trong giới trí thức thời loạn. "ý

định ban đầu như thế là "viết về tâm trạng trí thức thời loạn" nói chung

trong đó có một phần tâm trạng mình trong những năm nhiều biến chuyển

sau tháng 4/1975. Chọn thời gian Tây Sơn vì đấy là thời kỳ cũng có nhiều

biến động dữ dội, thời kỳ giới nho sĩ trí thức cả đàng Trong lẫn đàng Ngoài

đều bị đặt trước những thử thách sinh tử"(lời cuối sách). ý định của tác giả

thay đổi vì " lịch sử thời Tây Sơn quá đa dạng, phong phú và tầm nhìn của

tôi cũng mở rộng ra", "tâm trạng trí thức thời loạn" trở thành chật hẹp" (lời

24

cuối sách). Sự thay đổi ý định của tác giả cũng chính là sự thay đổi, trăn trở

giữa hai vấn đề lớn của cuốn tiểu thuyết lịch sử: lịch sử là "phương tiện"

hay lịch sử là "cứu cánh". Từ ý định ban đầu, Nguyễn Mộng Giác đã sử

dụng "lịch sử như một phương tiện" để bộc lộ "một phần tâm trạng của

mình trong những năm nhiều biến chuyển sau tháng tư năm 1975"(lời cuối

sách). Chọn thời kỳ Tây Sơn tức là chọn lịch sử, chọn thời gian để đặt "một

phần tâm trạng của mình", Nguyễn Mộng Giác đã thể hiện thế sự trên cái

nền của quá khứ lịch sử. Vấn đề sự kiện lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử, dù

viết trong tâm thế quan niệm lịch sử như thế nào, tác giả cũng không thể

phủ nhận sự thực của lịch sử. "Khái Hưng không thể qua "Tiêu Sơn tráng

sĩ" tầm thường hoá nhân vật vĩ đại trong lịch sử là Quang Trung. Dù chính

thống hoá cũng không thể không thể hiện Lê Chiêu Thống là " cái ông bụt

mục, cái ông tượng nát", "vận nhà Lê đến lúc cùng rồi". Dù yêu mến và thả

sức bút ca ngợi những đảng viên trong đảng Tiêu Sơn thì Khái Hưng cũng

không thể khoác lên đầu họ hào quang của chiến thắng" (Phan Cự Đệ - Tài

liệu đã dẫn). Viết " Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác không thể vượt

khỏi sự kiềm toả này. Vấn đề sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử trong tiểu

thuyết lịch sử, tác giả phản ánh thế nào mang tính quyết định đến bản mệnh

của chính tác phẩm. Hư cấu sự kiện, nhân vật lịch sử thực chất là tác giả đã

dã sử hoá lịch sử bằng quan niệm đương đại. Như vậy, tiểu thuyết lịch sử

không tránh khỏi thiên về tiểu thuyết luận đề. Hai tiếng lịch sử chỉ là cái cớ

để tác giả gửi gắm một thiên kiến chính trị, một quan niệm, một nhận thức

tư tưởng về chính trị, về cuộc sống mà tác giả đang hiện hữu. Thực trạng và

kết quả của sự hư cấu này, nhà văn sẽ tạo ra một cuộc sống đương đại bằng

những diện mạo nhân vật của quá khứ. Đành rằng, tiểu thuyết nói chung

không phải là thứ giải trí cho tất thảy mọi người vì nó là đỉnh cao của văn

hoá đọc, song kiểu hư cấu như vậy liệu độc giả có dễ dàng đồng hành với

tác giả để trở thành đồng tác giả hay không lại là một vấn đề khác. Nói như

25

Nam Dao "đảo ngược và xoay quanh" lịch sử để tưởng tượng: " Nguyễn

Huệ không chết sớm", "Minh Mệnh không tàn sát giáo dân", "Tự Đức nghe

và làm theo điều trần của Nguyễn Trường Tộ" . Nếu chỉ thế thôi phỏng có

ích gì khi mà tạo hoá đã đặt dấu chấm hết cho những con người và sự kiện

này vì " Lịch sử là cuốn tiểu thuyết đã viết xong" (Gon -court). Trong tiểu

thuyết lịch sử, dã sử là yếu tố nằm ngoài lịch sử (chính sử), song đây là lựa

chọn của tác giả chứ không phải là sáng tạo. Yếu tố dã sử có sức lấp điểm

trắng của lịch sử nhưng không được phương hại đến lịch sử mà tác phẩm đề

cập đến.

Nguyễn Mộng Giác mở rộng bình diện lịch sử, chọn thời Tây Sơn để

có sự " đồng điệu" về nhiều biến động tức là tác giả đã mở rộng thêm cả

bình diện hư cấu vì " thế sự là da thịt của tiểu thuyết lịch sử" (Nguyễn

Mộng Giác).

Viết tiểu thuyết lịch sử Việt Nam, tất cả các tiểu thuyết gia "lấy lịch

sử làm cứu cánh", gặp phải những khó khăn không nhỏ. Chức vụ sử quan ở

nước ta không có những bậc chết cho nghiệp bút để vua là vua, sử là sử. Vì

thế, sử gia "chấp kinh" mà phải "tòng quyền". Ngòi bút lựa theo quyền lực.

Mặt khác, triều đại sau thường xoá sạch dấu ấn của triều đại trước. Những

sử quan của triều đại sau tu sửa, chỉnh trang trên cơ sở những cứ liệu từ

những nguồn khác nhau vì thế rất có thể lẫn cả những "hạt sạn" là dã sử, là

truyền khẩu trong dân gian. Mặt khác, khi làm công việc lấp những điểm

trắng về nhân vật lịch sử, hư cấu thế sự, dù khách quan đến mấy, nhà văn

cũng không tránh khỏi cái chủ quan từ vị thế là một con người cụ thể, một

nhãn quan giai cấp cụ thể, thậm chí còn bị chi phối bởi đời sống chính trị,

kinh tế, tư tưởng thời đại mà nhà văn đang sống. Vì thế tác phẩm nhất định

phải mang dụng ý chủ quan. "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác

không nằm ngoài quy luật của những điều đã trình bày ở trên. Thông qua

26

tiểu thuyết lịch sử, nhà văn có thể xuất phát từ nhiều ý định chủ quan: Có

thể là lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lấy việc trò chuyện với lịch sử để làm

cầu nối giữa quá khứ với hiện tại. Cũng có thể đứng trước thế sự hiện tại,

nhà tiểu thuyết lịch sử muốn thông qua tác phẩm để "dự báo" một vấn đề

nào đó, có thể đồng tình hoặc không đồng tình với hiện tại.

Những ý kiến chung đúc trên có thể xem là những tiền đề tìm hiểu

tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ" nhìn từ góc độ thể loại. Có thể bài viết chưa

tập hợp đầy đủ những tiêu chí, góc độ, song coi như là xuất phát điểm có

tính định hướng chung để bàn về một bộ sách được phát hành ở hải ngoại

có chỗ đứng trong đời sống văn hoá đọc trong nước. Từ 1991, "Sông Côn

mùa lũ" được xuất bản ở California, ở trong nước 2001 và 2003 được in lần

thứ hai. Trong chuyên luận "Tiểu thuyết lịch sử" (Phan Cự Đệ- tài liệu đã

dẫn) viết: " Nguyễn Mộng Giác dường như viết "Sông Côn mùa lũ" với ba

nguồn cảm hứng lớn: cảm hứng phê phán, cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa và

cảm hứng sử thi". Đây là ý kiến có tính tổng quan, cùng với những ý kiến

chung đúc trên, ta có thêm những yếu tố hội tụ như là hệ quy chiếu để tìm

hiểu và bàn về "Sông Côn mùa lũ". Nhìn một cách khái quát, ta thấy"Sông

Côn mùa lũ" được xây dựng trên cơ sở chất liệu lịch sử và chất liệu thế sự

trong lớp nội dung.

1.2 Nhân vật lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ"

Từ những điều trên, ta thấy trong khi xây dựng nhân vật lịch sử trong

"Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác đã tôn trọng những điều mà sử gia

đã hoàn thiện. Nhân vật lịch sử của phong trào Tây Sơn được tác giả nhào

nặn, lấp những "điểm trắng" là ba nhân vật: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ,

Nguyễn Huệ. Khi lấp những điểm trắng" về nhân vật lịch sử, Nguyễn Mộng

Giác đã tuân thủ mục đích thế sự hoá nhân vật lịch sử. Sự "tình cờ" gặp gia

đình ông giáo Hiến ở An Thái, Nguyễn Nhạc đã gửi hai chú em: Lữ, Huệ

27

theo đòi học tập. Tuổi trẻ của Huệ dù ở nhà học ngắn ngủi, song nhân vật

lịch sử đã có những ngày tháng êm đềm. Tác giả một mặt chú trọng con

người quân sự, chính trị của nhân vật lịch sử, đồng thời chú trọng đến tư

cách một con người đời thường "lâu nay người ta xem Nguyễn Huệ là một

võ tướng tài ba, một anh hùng dân tộc chống ngoại xâm, nói chung tôn

trọng thiên tài quân sự của ông. ít ai quan tâm đến khía cạnh khác như

Nguyễn Huệ trong tư cách một nhà chính trị, trong tư cách một con người

đời thường trong gia đình, trong giao tiếp với kẻ thân, người sơ, kẻ hiền,

người dữ. Tôi muốn tái hiện Nguyễn Huệ như một con người trọn vẹn, vừa

là con người lịch sử vừa là con người thế sự hoà quyện vào nhau" (lời tác

giả cuối sách). Trong tác phẩm, tác giả đã thế sự hoá để có một Nguyễn

Huệ như một con người trọn vẹn. Một Nguyễn Huệ lịch sử và phi lịch sử.

Điều này có nghĩa là , tác giả thế sự hoá, cá tính hoá nhân vật lịch sử song

không vượt quá để lấn sân lịch sử. Nhân vật trung tâm của phong trào Tây

Sơn được ghi lại trong sử sách là Nguyễn Huệ, tác giả cũng dồn tâm lực

nhiều nhất để " thế sự hoá" nhân vật này. Xây dựng, "hư cấu" Nguyễn Huệ

trong tư thế người em út, người học trò, Nguyễn Mộng Giác "khắc hoạ"

nhân vật vừa là để "cắt nghĩa" cho một thực tế: sinh ra ở miền sơn cước,

Nguyễn Huệ tiếp xúc với tri thức từ nguồn nào mà trở thành thiên tài. Chính

trong vai trò người học trò, trọ học ngay trong nhà thầy - ông đồ trốn chạy

khỏi hoạ liên luỵ mới chân ướt, chân ráo đến An Thái, tác giả đã hoàn thiện

"một quãng" tiểu sử nhân vật lịch sử. Đây là một nét lớn trong cảm hứng

nhân đạo của tác giả - một mắt xích tạo nên tổng thể giá trị nhân đạo của tác

phẩm bằng những nhân vật hoàn toàn hư tưởng (sẽ đề cập ở phần sau). "Có

thể xem cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa là cảm hứng chính trong tiểu thuyết

"Sông Côn mùa lũ" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn). Chính từ công việc khắc

hoạ "nhân vật lịch sử" Nguyễn Huệ, tác giả đã tạo nên một Nguyễn Huệ

"thế sự" mà vẫn "lịch sử". Đây là điều ít thấy ở những tác phẩm trước đó.

28

Nguyễn Mộng Giác không dắt lịch sử đặt vào hiện tại mà nhảy vào vòng

lửa của lịch sử để thế sự hoá, làm cho nó sống động trước mắt người đọc.

Sáng tạo một lớp học, Nguyễn Mộng Giác đã chi tiết hoá gương mặt của

bảy học trò: hai anh em: Lữ, Huệ; Chinh, Lãng - hai con ông giáo; Thìn

con ông tri áp; Tiến con ông Chánh tổng và Khải con ông biện An Thái.

Sau buổi lễ khai tâm, lớp học có bảy học trò thì đã có tới năm bậc tuổi: 17,

16, 15, 14, 12 được coi là sàn sàn như nhau. Ông giáo nhanh chóng được

tiến hành dạy học. Sự phân loại mặt bằng kiến thức bước đầu tiến hành,

công việc này thể hiện tác giả am tường một lớp ghép của thầy đồ trong quá

khứ. Nhân vật Huệ với tư cách là em út của gia đình được tác giả "thể hiện"

ngay từ những buổi đầu. Huệ hiểu cái đưa mắt ngầm của Lữ, đi làm phận sự

của em út, học trò (đun nước , pha trà). Hai anh em ăn uống sinh hoạt tại

nhà thầy: riêng rẽ, không chung đụng. Huệ làm tròn bổn phận của người

em. "Hằng ngày, việc nấu nước pha trà và cơm nước, Huệ phải lo. Điều đó

tự nhiên, vì Huệ là em" (trang 100). Từ công việc thường ngày phải làm

trọn phận sự của em út, học trò, tác giả đặt Huệ vào một " tình huống" tế

nhị của tuổi vị thành niên khi gặp với An, (con gái thầy). Tạo ra tình huống

này, Nguyễn Mộng Giác đã thế sự hoá nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ bằng

một chi tiết rất đời thường. Con người thiên tài Nguyễn Huệ mà sử sách dù

bị bẻ cong bởi quyền lực cũng phải thừa nhận là có tài "thần xuất, quỷ nhập,

hăng tợn và giỏi cầm quân", "bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con", "giết

Vũ Văn Nhậm như giết con lợn". Người từng làm cho trang lịch sử dân tộc

sau bao năm Nam - Bắc phân tranh thu về một mối, người quét giặc Thanh

ra khỏi bờ cõi với lời hiệu

triệu, hồi kèn xung trận vang vọng mãi ngàn thu.

" Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để đen răng

Đánh cho nó chích luân bất phản

29

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn

(Lịch sử lớp 7- NXBGD-H.2003)

Đánh cho sử tri, Nam quốc anh hùng chi hữu chủ"

Tầm vóc vĩ nhân lịch sử, Nguyễn Huệ hiển hiện cái ngập ngừng rất

đời, rất thường trước người khác giới, "Huệ sang bếp nhà thầy nấu nhờ ấm

nước sôi từ sáng sớm. Cậu sợ làm phiền gia đình thầy. Cậu cũng sợ gặp con

gái thầy ở nhà bếp" (trang 100). Một tâm trạng của tuổi vị thành niên trước

một người khác giới ở Huệ, tác giả thể hiện một cách tế nhị, ngọt ngào.

Tâm trạng này không phụ thuộc vào thời gian, không phụ thuộc vào hai

tiếng xưa và nay. Bởi nó là chất người trong mỗi con người - cái rạo rực mơ

hồ của tuổi dậy thì. Chàng thiếu niên em út, học trò Nguyễn Huệ được tác

giả khắc hoạ bằng một tâm trạng "hư cấu", tạo ra một thời niên thiếu của

nhân vật lịch sử. Những trăn trở trong nội tâm nhân vật Huệ xem là một

thành công của Nguyễn Mộng Giác. Giọng văn là lời kể, cũng là lời độc

thoại nội tâm của nhân vật thể hiện khả năng tiểu thuyết của tác giả "Cho

đến một ngày Huệ gặp An. Điều ghi dấu đậm, sâu vào cảm quan của cậu,

khiến cậu gần như sững sờ, là cái dáng điệu uyển chuyển, nhịp nhàng, linh

động của An. Từ cách đưa ngón tay út lên vén nhẹ một mảng tóc loà xoà,

cho đến cách đưa lưỡi liếm nhẹ lên môi trên, cách rót một tách nước trà,

cách gật đầu nhận một lời chỉ bảo, tất cả, tất cả đều vừa độ cần thiết. Cử chỉ

biểu lộ sự thân mật dịu dàng, đồng thời cũng giữ riêng cho An một sự bí

mật tôn nghiêm. Huệ chưa bao giờ gặp sự hoà điệu như vậy giữa hai đòi hỏi

gần như mâu thuẫn là sự cởi mở thân tình và sự gói ghém kiêu hãnh nơi

một người con gái. Cậu cũng ngạc nhiên khi thấy cô gái có dáng điệu trang

nhã và thân mật ấy còn giữ nguyên nét trẻ thơ trên khuôn mặt. Nước da ửng

sáng trên đôi má bầu bĩnh. Cái môi trên mọng. Chỉ trừ đôi mắt buồn trước

tuổi. Huệ nghĩ có lẽ nhờ đôi mắt ấy mà khuôn mặt và cử chỉ của An hoà

hợp nhau, tiết ra một sức hấp dẫn đến lạ lùng. Cậu đau khổ công nhận giữa

30

cái đẹp xa lạ ấy và mình có hố cách biệt trang nghiêm; cậu không thể nói gì

thêm, không thể phác một cử chỉ nhỏ, vì bất cứ hành động nào của cậu cũng

trở thành vụng về, thừa thãi trước vẻ đẹp toàn bích ấy. Và lần đầu tiên trong

đời, cậu thấy lúng túng, thất vọng cho sự vụng dại của mình" (trang 101).

Tạo tình huống nghệ thuật, tình huống tiểu thuyết, tác giả chẳng những đã

sáng tạo mà cũng là sự nhấn mạnh một tuyên ngôn về cái đẹp trong lẽ

thường ở đời - Huệ và An, hai nhân vật: anh hùng và mỹ nhân. Sự rung

động trong tâm hồn Huệ là sự rung lên của thói đa tình. Sự vụng dại đến

"thất vọng" của Huệ như là một tất yếu không tránh khỏi vì "mỹ nhân tự cổ

như danh tướng". Huệ như bị hớp hồn trước vẻ đẹp thôn dã hoá của An.

Bản tình ca - tình yêu một phía, một sự "phải lòng" từ nơi Huệ và cũng

chính từ cái tình huống đặc biệt này. Tác giả đã xây dựng được mối quan hệ

đặc biệt giữa Huệ và An đến tận cùng của thiên truyện. Nguyễn Mộng Giác

đã khai thác mối quan hệ giữa anh hùng và người đẹp, tạo dựng, phát triển

nhằm thế sự hoá, tiểu thuyết hoá lịch sử mà vẫn rất lịch sử. Tình huống và

tâm trạng của Huệ qua đoạn văn được xem là đầy chất thơ, chất điệu tâm

hồn. Tác giả dụng ý xây dựng và dùng nhân vật An là sức hấp dẫn của thiên

truyện ... "là mối tình (tưởng tượng) giữa Nguyễn Huệ và cô con gái ông

giáo Hiến. Mối tình đó làm cho câu chuyện được thống nhất, lại qua đó tạo

thêm những quan hệ khác làm sườn cho bộ truyện. An là cứu cánh của thiên

truyện" (lời tác giả- cuối sách). Việc thế sự hoá nhân vật lịch sử Nguyễn

Huệ, tác giả đặt trong một trật tự tuyến tính về thời gian và đặt trong mối

quan hệ đời sống tình cảm và đạo nghĩa: tình yêu và tình thầy trò. Mặc dù

thế, thiên truyện không một chút vướng vào luận đề, giáo huấn. Có thể xem

nhân vật Nguyễn Huệ được tác giả thế sự hoá theo hai nhánh chính: tình

yêu, tình thầy trò đặt trong trật tự tuyến tính. Gia đình ông giáo Hiến là

điểm hội tụ của việc thế sự hoá. Hai nhánh tình yêu và tình thầy trò như

hiện tượng song tuyến. Tình thầy trò, đạo nghĩa thầy trò tạm kết thúc ở

31

chương 48 của thiên truyện. Trong tư cách là học trò, Nguyễn Huệ xuất sắc

trong nhận thức và tự tin. Trước câu hỏi của thầy "các anh đã nhớ và hiểu

hết chưa ?", Huệ trả lời rõ ràng dứt khoát "Dạ đã hiểu hết!". Học trò Huệ

được ông giáo Hiến "phát hiện" những dấu hiệu của một tài năng lớn, niềm

hy vọng lớn lao như là sự cứu cánh cho hoàn cảnh của ông. Ông hận

Trương Phúc Loan "Uy thế của quốc phó lớn quá, tiền tài và thế lực át cả

chúa". Mà đám con ông "Kiên đơn giản quá, ngoan ngoãn theo đường

thẳng, không thể đi cùng cha vào những chuyện phức tạp quanh co. Chinh

hời hợt quá, bao nhiêu tâm trí dồn cả lên bắp thịt. An và Lãng mẫn cảm quá,

ông chỉ thấy chúng thích thơ. Mãi đến nay, ông mới gặp được Huệ"(trang

104). Huệ được thầy coi như là người san sẻ, người gửi gắm những tâm sự,

những thiếu hụt như một tri kỷ "và vì mừng rỡ, ông giáo quên cả giới hạn

của tuổi tác và kinh nghiệm sống của Huệ. Ông bắt Huệ đọc "Sử ký"(trang

104). Nguyễn Mộng Giác đã học trò hoá một Nguyễn Huệ thiếu niên qua

bài giảng của thầy, dường như xuất phát từ một đạo lý của dân tộc "không

thầy đố mày làm nên", đạo lý "tôn sư trọng đạo" của dân tộc. Bài giảng "tựa

truyện du hiệp" trong sử ký, bài giảng mang ý nghĩa về chính đạo, lẽ hưng

phế, bậc chân nhân, lẽ tôi trung, tiết tháo nhà Nho..., đối lập với những oan

trái, những thực tại mà chính ông giáo Hiến đang hứng chịu. "Hoá ra bao

nhiêu tứ thư, ngũ kinh ông thuộc làu làu thời trai trẻ, lấy đó làm nền cho chí

hướng và hành động chẳng qua chỉ là thứ bài trí hoa hoè nơi dinh thự bọn

quyền thế. Tua chỉ điều cột nơi chuôi kiếm vấy máu của kẻ cướp lớn. Hạt

trân châu đính trên mũ của kẻ ngồi kiệu. Cái quạt hoa che giấu những cái

liếc mắt đĩ thoã... còn gì nữa... trời hỡi ! cái gì đẩy ta đến tận bờ vực của

phạm thượng thế này ! Không giật mình dừng lại kịp, ta sẽ lạc về đâu ? chỉ

vì giận tên Trương Tần Cối, uất cho cái chết thê thảm của bạn và cuộc đời

long đong bấy lâu nay mà ta nghi ngờ đến cả chân lý vĩnh cửu, quật đổ

nhân nghĩa hay sao? " (trang 105). Ông giáo Hiến tìm và coi Huệ như một

32

sự đồng điệu. Trước những trái ngang cuộc đời như mặt trái của sách vở,

ông giáo không bứt ra khỏi được cái vòng luẩn quẩn giữa cao thượng sách

vở với thấp hèn, đê mạt của thực tại. Song cũng chính ông tự "giật mình

dừng lại kịp". Chính cái giật mình để hành động theo lời sách vở đã tạo nên

một ông giáo Hiến bảo thủ, cố hữu với thuyết lý Nho gia trước vòng xoáy

của lịch sử. Nhân vật Huệ đã tiếp thu chính cái điểm mà người thầy không

dám vượt khỏi. Huệ xem xét lại cái chân lý sách vở với thực tiễn cuộc sống

đầy biến động của thời đại. Tác giả đã sáng tạo một Nguyễn Huệ vụt lớn

dậy trong nhận thức từ bài giảng "tựa truyện du hiệp", xem xét lại trật tự xã

hội, tầm nhìn chiến lược về thời cuộc khác hẳn với thầy, ông giáo Hiến -

con người của sách vở là nạn nhân của lý thuyết sách vở. Cuộc đời là mặt

trái của sách vở. Mặt trái ấy, đã làm xuất hiện trong ông giáo khối mâu

thuẫn không giải thoát được. Trái lại, khi tiếp xúc với sách vở, Huệ cứ trăn

trở mãi cái triết luận trong tựa truyện"Du hiệp" "ăn trộm lưỡi câu thì chết

chém... Ăn trộm nước người thì phong hầu. Cửa nhà hầu nhân nghĩa thiếu

gì đâu". Nhận thức của Huệ về thế cuộc thật đơn giản mà cũng thật lớn lao:

làm nên nghiệp lớn như là "kẻ trộm lớn" - "trộm nước người". Thiếu là

thiếu nghiệp lớn để ban phát nhân nghĩa mà trở thành "kẻ trộm lớn" chứ

không thèm ăn trộm lưỡi câu. "Thèm ăn cá mà chỉ dám ăn trộm lưỡi câu thì

tội nghiệp". Thế sự hoá nhân vật Huệ, Nguyễn Mộng Giác đã đặt nhân vật

trong tư thế học trò, trang bị cho nhân vật cách nhìn xa để đi xa hơn trong

tư thế của một nhân vật lịch sử lừng danh. Nguyễn Mộng Giác đã lấp

những "điểm trắng" của lịch sử về nhân vật lịch sử một cách hợp lý. Điều

đáng ghi nhận là sự hợp lý của "điểm trắng" lại rất hợp với cội nguồn của

đạo lý dân tộc - sự hiếu học, tôn sư trọng đạo. Vị thế được thế sự hoá -

Nguyễn Huệ học trò cũng nhanh chóng dừng lại vừa để đảm bảo tính cần và

đủ trong việc thế sự hoá nhân vật vừa là bám chắc chủ điểm - Sông Côn

đang mùa lũ. Việc học hành khép lại vì "lũ" đã tràn bờ, sông dâng nước.

33

Mọi việc đều gián đoạn vì "lũ" sông Côn.

*

* *

Nhân vật Huệ còn được tác giả thế sự hoá bằng mối quan hệ với nhân

vật hoàn toàn "hư cấu" là An. Mối quan hệ này xét về nội dung của bộ

truyện có tác dụng trữ tình hoá chất lịch sử của thiên tiểu thuyết lịch sử, nên

nó đòi hỏi sự cẩn trọng của nhà tiểu thuyết. Mối quan hệ trên đặt nhân vật

lịch sử, Nguyễn Huệ trong một tư thế mong manh và chông chênh như đi

trong cái ranh giới giữa thế sự và lịch sử. Nguyễn Huệ trong đời sống với tư

cách là một con người và một Nguyễn Huệ tầm vóc vĩ nhân lịch sử. Nhân

vật An hư cấu hoàn toàn thuộc về tiểu thuyết, nhân vật An có tính cách, có

số phận riêng. Xây dựng mối quan hệ Huệ - An đến độ "cá nước duyên ưa"

sẽ đẩy nhân vật Huệ trở thành sản phẩm được lãng mạn hoá bằng cảm quan

của người viết. Nhân vật An có số phận riêng còn có nghĩa là có đời sống

thật như một con người thật ngoài cuộc đời. Không tỉnh táo tác giả sẽ sa

vào cuộc tình tay ba: Huệ - An - Lợi mang màu sắc hiện đại hoá. Hoặc là,

tác giả tô đậm mối tình tay ba Huệ - An - Lợi trăn đi, trở lại trong tác phẩm.

Giữa Huệ và An, tác giả đã có điểm dừng trong mối quan hệ đặc biệt này.

Đây chính là độ "tỉnh táo" của tác giả. Huệ - An có mối quan hệ lãng đãng

một tình yêu không quá đậm, không quá nhạt. Nó vừa phải vì tác giả tỉnh

táo nên có điểm dừng để mối quan hệ Huệ - An đẹp mãi trong cái ban sơ

của tình yêu như gió mùa thổi mãi, như cái cây khát nắng. Một tình yêu đi

suốt mù lũ sông Côn, đi suốt thiên tiểu thuyết vẫn câm lặng vì chính tác giả

chưa "cho phép" hai nhân vật này một lần thao thức đến "bổi hổi bồi hồi".

Hoặc là, lời yêu mà trai gái vẫn trao gửi cho nhau. Hoặc là những "việc

làm" mà chỉ tình yêu mới có. Hoặc là những cử chỉ bộc lộ tình yêu đậm đà

thắm thiết. Những cử chỉ âu yếm dành cho tình yêu chỉ thoảng qua, giây lát.

Bởi thế, mối quan hệ Huệ - An đã góp phần thế sự hoá nhân vật Huệ thành

34

công trong thiên tiểu thuyết. Nguyễn Mộng Giác đi giữa khoảng cách hẹp:

lịch sử và tiểu thuyết đã tạo ra nhân vật Huệ đi trong sự mong manh và

chông chênh của tình yêu "tiểu thuyết" và tư thế vĩ nhân của lịch sử.

Sau cái buổi gặp An ở nhà bếp, mối quan hệ Huệ - An thêm gần hai

cái tết tác giả mới dàn dựng một "cuộc" trò chuyện. Nhưng xem ra, Huệ -

An không gần gũi hơn mà trái lại như là điểm nhấn của sự ngăn cách - sự

ngăn cách "tỉnh táo" của tác giả, sự ngăn cách của lịch sử. Lần này cuộc trò

chuyện được thể hiện qua hồi ức của An như là sự đối chiếu giữa Lợi,

người con trai mà An có cảm tình với Huệ là người mà An ngưỡng mộ.

"Một lần Huệ bắt gặp An đang ngồi may áo, và hoàn cảnh lúc đó không cho

phép một trong hai người giả lơ tránh mặt nhau, vì làm như vậy là đi quá

giới hạn cần thiết". Cuộc trò chuyện xoay quanh việc may áo - kiểu áo: nửa

kinh, nửa núi và được kết thúc chẳng đi xa hơn được tý gì về tình cảm. Có

chăng chỉ là một ấn tượng không vui vẻ.

"- Tôi chịu thua không hiểu nổi An, không hiểu nổi đàn bà. Thôi bỏ

qua mọi chuyện đi. Cái áo này may xong chưa ? Phải nhận An may đẹp

thật" (lời của Huệ)

"- An buông gọn hai tiếng cộc lốc:

- Cám ơn !" (trang 128)

Thông minh, sắc sảo trong tiếp thu kiến thức sách vở bao nhiêu, Huệ

vụng về bấy nhiêu trong tiếp xúc với người con gái mà bản thân không ít

cảm tình. Cuộc trò chuyện kết thúc bằng hai tiếng cộc lốc " Cám ơn"! " như

một dấu chấm câu trong chuỗi quan hệ giữa Huệ và An mà nội dung câu là

con số không. Thậm chí, còn tồi tệ hơn, cuộc trò chuyện mở đầu đầy thiện

cảm: "Còn An thì sao" và kết thúc "không ngờ tôi lặt vặt nhỏ nhen chứ gì

?"(trang 128). Giọng xưng hô giận hờn của An làm cho mối quan hệ lần thứ

hai này có điểm dừng "tỉnh táo" của tác giả. Vì An là "Tài sản" của tác giả,

Huệ là "Tài sản" của lịch sử . Phần I của thiên truyện với tựa đề "Về An

35

Thái", "thế sự" mà tác giả nhào nặn là cái "về" của gia đình ông giáo Hiến,

phiêu bạt trốn chạy khỏi liên luỵ. Cái "về" của nhân vật Huệ với vị thế của

người học trò, của một chàng trai trong quan hệ với người con gái mà Huệ

có cảm tình. Đây là hai nhánh chính đồng hành trong việc thế sự hoá nhân

vật Huệ . Vị thế học trò của Huệ được đặt dấu chấm hết bởi "lũ" sông Côn.

Lớp học, với bẩy học trò thành lớp học một thày với một trò duy nhất là

Huệ . Dòng sông đời, lũ đã dâng nạn đói hoành hành. Ông giáo thường đi

canh lúa đêm, học trò Huệ thức canh lúa cùng thầy. Gia đình Huệ ở Kiên

Thành bị đốt. Kiên- con cả ông giáo Hiến bị bắt lính. Huệ lên Tây Sơn

thượng. Chính trong đêm Huệ rời An Thái, tác giả đã thêm một lần để Huệ

đối mặt với An. Huệ chủ động gặp An. "Huệ trở ra qua lối cửa sau nhà bếp,

gặp An đang đứng ở đấy. Anh dừng lại. Bóng tối che giùm không cho hai

người trông thấy vẻ bối rối của nhau. An run run nói:

- Anh nhớ quấn khăn cổ . Không lại cảm.

Huệ cảm động, cả đời chưa được một người con gái nào ân cần dặn

dò như vậy nên cảm thấy hãnh diện, ngây ngất. Anh muốn nói với An một

câu gì thật âu yếm, thật đơn sơ mà chân thành như câu An vừa thốt ra.

Nhưng trong cơn lúng túng, tìm mãi không ra lời. Huệ cố dằn xúc động nói:

- Cảm ơn An

Huệ ngước lên nhìn An, thấy tất cả vẻ đẹp quyến rũ của một nụ cười

e ấp. Không tự chủ được mình, Huệ tiến tới định nắm lấy bàn tay An. An

rụt tay về, giọng hơi hốt hoảng:

Đừng , anh Huệ ! (cuối trang 173 dầu 174)

Nếu như An không rụt tay về thì quan hệ Huệ - An sẽ thế nào? Cái

rụt tay của An cũng chính là cái "lạnh lùng"của tác giả, là cái duyên cớ hấp

dẫn của tác phẩm. Người đọc sẽ bị hút theo mối quan hệ Huệ - An tiếp diễn

thế nào ở phần tiếp theo vì Huệ là nhân vật lịch sử?

Phần I của thiên truyện "Về An Thái" song kết thúc lại là đi khỏi An

36

Thái. "Mười ngày sau, Huệ vâng lời anh trở lại An Thái đưa gia đình thầy

trốn lên Tây Sơn thượng. Triều đình đã phát động một cuộc khủng bố, đàn

áp quy mô, tái lập trật tự, thu vét số thiếu thuế, kiểm soát đám dân xiêu bạt,

sống ngoài vòng pháp luật. Ông giáo sắp trở thành nạn nhân của cuộc

khủng bố thị uy ấy". (trang 174). Phần I là phần của "tiểu thuyết", của "thế

sự" có thể xem là sự thành công ngay từ cái đáng lẽ "vạn sự khởi đầu nan".

Phần này đã tạo ra được những cung bậc ngọt ngào làm nên chất tình ca toát

ra từ tình thày trò, từ tình cảm ban sơ của tình yêu giữa An - Lợi, hai nhân

vật của tiểu thuyết (sẽ đề cập sau) và Huệ - An: một nhân vật lịch sử, một

nhân vật tiểu thuyết. Tác giả đã gắn nối thành công hai mảng lịch sử và tiểu

thuyết trong tiểu thuyết lịch sử. Hai yếu tố này hoà quyện nhuần nhuyễn thể

hiện sự thành công, đồng thời cũng là sự cứng cáp của tác giả trong công

việc cầm bút.

ở phần I "về An Thái", nhân vật Huệ được thế sự hoá trong vị thế -

học trò, em út; trong vị thế một tình yêu chớm nở. Vị thế học trò đã chấm

dứt ở An Thái. Huệ đã thành niên, lớp học đã đóng cửa, vĩnh viễn khép lại

trong năm mất mùa, nạn đói hoành hành - Sông Côn dâng "nước lũ". Đến

phần II "Tây Sơn thượng", nhân vật Huệ được thế sự hoá ở những vị thế

khác: Huệ trong không khí chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa, trong quan hệ:

đàm đạo đại sự với thầy, trong quan hệ tình cảm với An. ở phần II này, tính

hư cấu của thiên truyện như là sự chảy tràn cảm hứng của tác giả từ phần I.

Trong những vị thế mới của Huệ, tác giả đã bắt đầu nhen lên không khí sử

thi của thiên truyện: khúc dạo đầu của bản anh hùng ca chiến trận đã cất lên

cùng với những giai điệu âm hưởng tình ca trong quan hệ Huệ - An tiếp tục

nảy nở trong sự "lạnh lùng" của lịch sử. Phần này, tác giả dường như chưa

bị chất lịch sử ước thúc cho nên dù là phần ngắn nhất của thiên truyện - chỉ

gồm 5 chương (từ chương 13 đến chương 17 - từ trang 177 - trang 262),

song góp phần quan trọng chuyển dịch nội dung truyện vào vòng xoáy

37

chính của "lũ" sông Côn. Trong vị thế một thành viên đầu não của cuộc

khởi nghĩa, Nguyễn Huệ đã được thế sự hoá trong một cuộc bàn thảo về dấy

nghiệp lớn. Tầm nhìn chiến lược, sắc sảo của Huệ được tác giả thể hiện qua

lời bàn về việc xây thành. Nguyễn Nhạc muốn xây thành để "tượng trưng

cho quyền uy vạn năng" thì Nguyễn Huệ cho rằng cái thành ấy chỉ "được

xây trên khói núi". Huệ nói bằng lời lẽ sắc bén và tầm nhìn chiến lược, đầy

thuyết phục " xây xong một thành nhỏ hơn thành Qui Nhơn một chút thì

phải mất bao nhiêu năm? Vả lại có cần phải xây thành không đã ? Để tạo

quyền uy ư?... thành quách lâu đài cao rộng như thành Phú Xuân có tạo

được chút uy nghi nào không, ngoài những lời xầm xì về trò dâm dật của

thằng bé con 12 tuổi ( Duệ Tôn ) và chứng tham lam của tên quốc phó. Để

phòng ngự ư? Quanh đây là núi, có thành nào cao cho bằng? Đèo An Khê

hiểm yếu có cửa thành nào vững cho bằng? Không xây thành vì Trời đã xây

sẵn cho ta cả toà thành hùng vĩ bảo vệ ôm ấp Tây Sơn thượng rồi " (trang

189). Nhận thức của Huệ đã đi xa, vượt khỏi tầm nhìn của dân núi, của một

cậu học trò ngày nào. Tác giả thế sự hoá Nguyễn Huệ ở phần II này như

một con người hoàn chỉnh từ nhận thức có tầm chiến lược đến những việc

làm có tầm chỉ huy, lãnh tụ. Nhân vật Huệ, qua tâm trí của ông giáo Hiến:

"ông là kẻ trốn nạn, anh em Huệ là người bao che. Hơn nữa, chính tại Tây

Sơn thượng,ông thấy Huệ giúp anh đảm nhiệm các công việc quản trị, điều

khiển, quyết định nhiều vấn đề trực tiếp thay đổi đời sống của nhiều người,

trong đó có gia đình ông"( trang 190). Dường như, tác giả chưa thấy thoả

đáng khi với dụng ý "xây dựng" Nguyễn Huệ ở tầm nhìn chiến lược, ở tầm

quản lý vĩ mô. Nguyễn Huệ còn được thể hiện ở góc độ của con người có

tầm tư tưởng lớn. Tác giả dàn dựng cuộc trao đổi giữa Nguyễn Huệ và ông

giáo Hiến, lúc này đã trở thành vị "quân sư " chưa chính thức của anh em

Nhạc, Lữ, Huệ. Bàn về lẽ hưng phế, ông giáo Hiến có cái nhìn cố cựu về

chúa Nguyễn - tám đời chúa như tám cái cột vững chắc, ví chế độ chúa

38

Nguyễn như ngôi nhà chỉ dột, chỉ hỏng rui mè; cái nền Nho vững chắc. Trái

lại, Nguyễn Huệ lại cho rằng "Người dân dốt nát không đọc được kinh

truyện, lại là kinh truyện khó hiểu từ bên Tàu đem sang, nên suốt đời nem

nép lo sợ. Đến một lúc nào đó, tình thế đẩy họ vào đường cùng, họ không

sợ hãi nữa mà hoá liều thì tám cây cột kia sẽ thế nào ? Người còn có một

mái nhà để về thì còn băn khoăn suy tính nên dọi mái hay thay kèo. Nhưng

đối với hạng cố cùng xiêu giạt nay đầu đường, mai xó chợ, bữa no, bữa đói,

chết còn sướng hơn sống thì những điều từ nãy đến giờ con với thầy nói với

nhau phỏng có ích gì ! Hỏi họ, họ sẽ đồng thanh đòi phá hết, làm lại hết"

(trang 224). Kết thúc buổi đàm đạo, Huệ chuyển lời Nhạc tới ông giáo, nhờ

ông giáo viết hịch "chỉ cần ngăn ngắn thôi", song sự sắc sảo của Huệ thêm

một lần được thể hiện " con nghĩ... con nghĩ ta nên viết bằng chữ Nôm. Đa

số dân chúng không đọc được chữ Hán, họ không hiểu " (trang 205). Nhân

vật có tầm vóc lịch sử - Nguyễn Huệ một lần nữa được đặt trong quan hệ

với An. Mối quan hệ được tác giả dàn dựng ở Tây Sơn thượng đi xa hơn

một bước nữa, nhưng chỉ dừng ở mức độ mơ hồ. Cuối cuộc đàm thế sự với

thầy, Huệ gặp An. Suốt chiều dài cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa Huệ và An dài

cả hai trang sách, tác giả để kết thúc bằng điểm dừng mơ hồ về tình yêu. An

gọi Huệ là anh, xưng em ngọt ngào nhưng nấc thang tình cảm dường như

vẩn vơ. "Em nói thật. Em không có tài ăn nói rành rọt, có đủ đầu đuôi như

anh. Nhiều hôm cha em bực, gắt lên "ăn nói chẳng ra đâu vào đâu cả!". Nói

chuyện với em chỉ rước cái bực mình vào thân mà thôi "(trang 227). Những

lời nói vẩn vơ chẳng có chủ ý của lời tình yêu nhưng Huệ đến với An và

cuộc trò chuyện làm cho không khí căng thẳng trong những ngày tị nạn của

những người " đồng cảnh " lại đang chuẩn bị mưu sự việc lớn chùng xuống.

Cuộc trò chuyện ví như nét hoa văn trên bức hoạ toàn cảnh cuộc sống tỵ

nạn vùng Tây Sơn thượng. Sau những lần tập kích như là sự tập dượt của sự

nghiệp dấy binh, một lần nữa, Huệ được thế sự hoá trong ý tưởng sắp được

39

về quê. Cái không khí, Huệ và Lãng (em An) cười đùa ồn ào về những câu

pha trò của nghĩa quân thật ấm áp, gần gũi. Huệ - Lãng hai người trẻ tuổi

vừa đi qua trận chiến, vui, tếu khó mà hình dung nổi đây là hai nghĩa binh

vừa trở về từ cái cảnh giành giật sự sống trong giao tranh ác liệt. Huệ -

Lãng là hai con người bình thuờng, trong mối quan hệ với những người về

tuổi tác có thể coi là cùng trang lứa. Một Nguyễn Huệ thật hiền, thật nhộn.

Đây cũng chính là một nét thành công trong thế sự hoá nhân vật Huệ. Tâm

trạng nhân vật Huệ rộn rã ý tưởng về quê. Những kỉ niệm về An Thái, tác

giả không đi quá xa hư cấu nhân vật lịch sử mà trái lại làm sống động nhân

vật lịch sử. Những tình cảm một thời của con người anh hùng kiệt xuất -

thời vị thành niên - thời để nhớ đã trở thành hoài niệm, tác giả đã sinh động

hoá nhân vật lịch sử - Nguyễn Huệ rất đời thường. Khái niệm quê hương,

khái niệm nguồn cội, tác giả thể hiện qua giọng nói của Huệ trước An "

Nhưng đâu mới là quê hương ta? Như gia đình tôi chẳng hạn. Nếu căn cứ

vào nguồn gốc tổ tiên, thì quê hương chúng tôi tận Hưng Nguyên ngoài

Nghệ. Gần hơn, nếu kể đến đời ông nội thì quê hương là đây... Đến đời cha

tôi, dời nhà xuống Kiên Thành thì quê hương là Kiên Thành. Cho nên quê

hương là chỗ để về, nơi có một mái nhà, có những người thân yêu, có

những kỉ niệm đẹp nhất của một đời. Nơi một hòn sỏi, một gốc cây cũng đủ

khiến người ta bồi hồi xúc động" (trang272). Từ khái niệm quê hương, Huệ

- An cùng có kỉ niệm về một thời đã qua, về cái cây gạo " thơm tho " mùa

hoa rụng, về cái miếu giữa đồng trống, những mùa gặt, chuyện vui buồn có

sức gia tăng sống động hoá nhân vật lịch sử. Quê hương, hai tiếng ngân nga

trong lòng An" An cảm động quá, bao nhiêu kỷ niệm dồn dập hiện về, cô

rơm rớm nước mắt, nhớ lại những vui buồn đã qua " (trang 272); trỗi dậy

trong lòng Huệ khiến :

" Giọng Huệ mừng rỡ :

40

Thế thì An Thái là quê hương của An đó! " (trang 272).

Tác giả đã thế sự hoá nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ trong mối quan

hệ với nhân vật hư cấu là An có cái đồng cảnh tị nạn, Có cái đồng giao về

một thời để nhớ. Tác giả đã trữ tình hoá tâm hồn nhân vật lịch sử làm vang

ngân chất tình ca của thiên tiểu thuyết lịch sử - làm nên sự đầy đủ của chất

sử thi: anh hùng ca chiến trận và tình ca: tình cảm quê hương, một tình yêu

ban sơ chập chờn giữa Huệ - An. Chính chất tình ca hư tưởng đã góp phần

dịu đi cái chất lịch sử mà loại hình tiểu thuyết lịch sử bị ràng buộc. Chất

tình ca làm sống động nhân vật lịch sử, tăng sức truyền cảm cho chất sử thi

của pho truyện. Nó loại bỏ cái tình thế sách lịch sử để tạo nên chất điệu văn,

chất điệu tâm hồn tác giả. Có lẽ đây không chỉ là sự thành công riêng của

"Sông Côn mùa lũ" mà còn là yếu tố làm nên thành công của loại thể tiểu

thuyết lịch sử .

Suốt chiều dài hai phần của thiên truyện : " Về An Thái " và " Tây

Sơn thượng " , tác giả đã thế sự hoá nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ. Công

việc này, tác giả giúp chúng ta thấy được một Nguyễn Huệ rất đời thường:

một Nguyễn Huệ em út, một Nguyễn Huệ học trò, một Nguyễn Huệ trong

tình cảm của chàng trai vị thành niên đến một Nguyễn Huệ bước đầu dấn

thân vào lịch sử. Nốt nhạc dạo đầu của bản anh hùng ca chiến trận cũng bắt

đầu vang lên. Huệ đảm trách một mũi hạ sơn và lập được chiến công. Đến

phần III của thiên truyện "Hồi Hương ", nhân vật Huệ tiếp tục được thế sự

hoá trong mối quan hệ với thầy dạy cũ và An, (con gái thầy). Đồng thời,

nhân vật Huệ thế sự, tác giả đã "tâm trạng hoá" một cách sinh động. Tác giả

thể hiện những sự kiện lịch sử gắn với nhân vật lịch sử gắn với việc trung

thành với các sử gia, song thông qua các sự kiến ấy, Nguyễn Huệ được khắc

hoạ một " thế giới " nội tâm - một thế giới mà sử gia không hề ghi trong

lịch sử dù chi tiết hoá đến mấy. ở phần III, Ngyễn Huệ vừa là con người thế

sự trong mối quan hệ đời thường thầy trò, quan hệ với An, đồng thời trong

41

mối quan hệ với sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử. Có thể nói, ở phần III,

Nguyễn Huệ đã được đa chiều hoá mối quan hệ. Nguyễn Huệ vừa là con

người của tiểu thuyết vừa là con người của lịch sử. Tác giả thế sự hoá nhân

vật mà không làm mất đi tính lịch sử của nhân vật và tính lịch sử của thiên

truyện. Điều này thể hiện, tác giả trung thành với hai tiếng " lịch sử ", thể

hiện một tấm lòng ngưỡng mộ với nhân vật lịch sử và một thái độ: lịch sử là

lịch sử chứ không phải là "... một cái đinh để tôi treo các bức hoạ của tôi

thôi" (Alexandre Dumas ). Như vậy, tác giả đã làm tăng giá trị hiện thực

của thiên truyện. Hồi hương, hai tiếng mang những ý nghĩa khác nhau cho

mỗi tâm trạng khi phải ly hương. Với Nguyễn Huệ, nhân vật lịch sử, tác giả

thế sự hoá bằng hai tiếng ấy và được thi vị hoá từ tình cảm giữa Huệ - An.

Huệ không chỉ dừng ở Kiên Thành, nơi đã hiện hữu gia đình Huệ tới hai

đời. Huệ tiến quân xuống tận An Thái, bất chấp lệnh của Nhạc - lệnh của

người chỉ huy cao nhất. Huệ đã thể hiện hành động của một anh hùng làm

vừa lòng người đẹp là An. Huệ không hứa hẹn nhưng có lẽ vì lời nói hôm

nào với An trong một tâm trạng :

" Giọng Huệ mừng rỡ:

Thế thì An Thái là quê hương của An đó "( trang 272 ). Nguyễn

Mộng Giác thế sự hoá nhân vật lịch sử đến một chi tiết " nhỏ nhặt", tế nhị

làm hiện hữu một Nguyễn Huệ đời thường, sống động. ít nhất, tác giả đã tạo

thêm sự hấp dẫn của tác phẩm. Cùng với sự hồi hương, Huệ có một trạng

thái tình cảm đặc biệt được thể hiện qua độc thoại nội tâm: "Kiên Thành

quê hương hay An Thái. Thế thì cái gì đã thúc đẩy ta trước? Chái nhà học ?

Ngôi nhà quay mặt về hướng tây, mái thấp loà xoà trên hai khuôn cửa sổ có

tấm phên chống nửa vời, dưới nắng chiều trông thật giống với một khuôn

mặt ngái ngủ? Cây gạo "thơm tho" ở bến sông? Cái miếu cô độc ở giữa

đồng trống? ánh đuốc canh lúa lập loè? cái bếp thấp, nơi một người con gái

mắt sáng, cổ cao và trắng, mặc chiếc áo có vết rách ở cùi chỏ? Bao nhiêu

42

công phu cho một cuộc chuyển quân nguy hiểm chỉ vì bao nhiêu hình ảnh

mờ nhạt tầm thường ấy sao ? Thực sự ta đã nghĩ gì ? ta muốn gì ?" (trang

296).

Tâm trạng của nhân vật Huệ, tác giả còn thể hiện liền mạch bằng

hình ảnh giàu chất thơ. "Huệ đứng bên cửa số nhìn những giọt lá me vàng

rơi đều, rơi đều, lòng bập bềnh bồi hồi. Buổi sáng qua mau trong cảm giác

bảng lảng đó của tâm hồn Huệ" (trang 296). Nguyễn Mộng Giác dàn dựng

nội tâm của nhân vật Huệ đến độ "thực sự ta đã nghĩ gì ? Ta muốn gì ?",

đến độ "Lòng bập bềnh bồi hồi", đến độ "cảm giác bảng lảng" tạo nên một

nội tâm chứa đầy chất thơ, giọng văn giàu chất trữ tình. Một nhân vật Huệ

giàu chất tiểu thuyết. Phải chăng vì "tỉnh táo" trước hai tiếng lịch sử, tác giả

đã để mối quan hệ tình cảm Huệ - An, dù đã hai lòng cùng ưa mà không nói

nên lời. Để nó dừng mãi ở mối tình câm từ hai phía. Để nó đẹp mãi là mối

tình đầu không lời. Nhân vật Huệ dường như ép xác trước tình yêu và muốn

người mình yêu phải có thêm những vẻ đẹp thơ mộng, vượt lên những gì

thuộc đời thường trước lũ dòng đời đã dâng. Huệ tặng An tập thơ Đỗ Phủ

có lẽ cũng khởi phát từ ý tưởng này. Tác giả đã thế sự hoá bằng đối thoại

Huệ - An ở Quy Nhơn, sau những tháng ngày chiến trận. Dòng tâm sự giữa

hai nhân vật là sự đan xen có dụng ý làm nên sự đồng hành của chất lịch sử

và chất tiểu thuyết, của chất anh hùng ca và chất tình ca trong chất sử thi

đầy đủ. Tình cảm giữa Huệ và An không đi xa hơn được. Hai người ghép

riêng cho mình chữ yêu thầm kín, càng muốn thổ lộ, thì trớ trêu lại càng

như đẩy đi xa hơn cái khoảng cách giữa hai người. Tác giả xây dựng một

Huệ rung động trước một vẻ đẹp thế sự nhưng không dám bứt khỏi lịch sử

để Huệ - An trở thành đôi lứa. Huệ khi thì như chú xã quê mùa trước tình

yêu, khi thì tỉnh tảo lẩn tránh những câu nói ý nhị của An. Nhân vật Huệ

thật tội nghiệp trong tư cách là một người tình. Bởi sự "tỉnh táo" của tác giả

trước hai tiếng lịch sử, trước tôn chỉ mục đích viết tiểu thuyết lịch sử -"Thế

43

sự là da thịt của tiểu thuyết lịch sử cũng như lịch sử là xương cốt của tiểu

thuyết lịch sử" (lời tác giả cuối sách). Nhân vật Huệ tội nghiệp trong tình

yêu vì tác giả không dám "hiếp dâm lịch sử" không coi lịch sử "là cái đinh"

như Alexandre Dumas. Trong cái lần gặp nhau như là lần cuối giữa Huệ và

An, tác giả đã buộc phải đẩy hai nhân vật xa nhau bằng sự tỉnh táo lịch sử:

- "à quên, em cảm ơn anh. Quyển sách đẹp lắm. Anh biết không, Thọ

Hương hỏi em nếu đói thì đổi được mấy bát gạo.

Huệ hỏi hơi xẵng:

- Rồi cô trả lời sao ?

An cười đáp:

- Em bảo chẳng được bát nào cả .

- An nói đúng. Quý giá gì đâu. Gửi An làm kỷ niệm cho vui thôi.

- Không phải thế. Em quý nó lắm chứ. Em đọc mà cứ sợ bụi bám

vào, giở hé rồi cất đi. Anh sao thế ?" (trang 450-451). Cuộc trò chuyện xem

như là lần cuối này giữa Huệ và An, tác giả dường như đã đặt tâm trạng

Huệ vào cái ghen của một thói thường, dù mờ và nhạt "trong khi lòng đau

nhói vì nhớ chuyện người ta kháo nhau rằng, lâu nay Lợi lấy của kho mang

tới cho An không thiếu thứ gì, từ đồ sứ Tàu đến hạt tiêu, cây tăm. Huệ đã

nghe chị dâu nói mãi, nói mãi về chuyện đó. Có đúng thế không ? Tại sao

nàng nhận của hắn ? của hắn ? có phải của hắn đâu ? Hắn lấy của làng làm

ơn cho xã, nàng không biết sao ?". (trang 450).

An là điểm trở về của Huệ, sau mỗi lần trận mạc. An là hậu phương

là khung trời xanh làm cho cuộc đời trận mạc của Huệ chùng xuống. Song

như trên đã đề cập, tác giả không dám vượt rào lịch sử. Huệ không thể đi xa

hơn trong quan hệ tình cảm với An để có một tình yêu. Tình cảm Huệ - An

đẹp như một tình yêu lý tưởng, một tình yêu cao thượng. Huệ không làm

theo lẽ thường khi tình yêu được đặt dấu chấm hết khi người yêu đi lấy

chồng là trả thù hoặc xót xa đau khổ tột cùng. Nhất là tình yêu ấy như nụ

44

hoa đang từ từ hé nở. Có chăng Huệ chỉ dằn vặt mình: tại sao An lại lấy Lợi

? Mà trong con mắt của Huệ, Lợi tầm thường, không xứng với An. Trở về

đột ngột, Huệ hay tin An sắp cưới, lễ cưới như là sự nhân thể, là một phần

của buổi lễ nhận ấn kiếm. Không thể nào khác được nữa, Huệ để cho nỗi

đau lặn vào trong. Huệ nói lảng sang chuyện khác khi nghe chính xác ngày

lên xe hoa của An". Gớm, đường bụi quá đi mất. Cháu bảo tụi nó đi múc

cho chú thau nước rửa mặt. Lấy thêm cho chú cái khăn nữa nhé !" (trang

517). Nỗi đau nén lại bằng lý trí, Huệ như hoá đá qua tin An đi lấy chồng.

"Huệ ngồi y chỗ cũ, mặt gục vào hai đầu gối như một pho tượng lính thú

nhớ nhà" (trang 517). Nhân vật Huệ trong tư cách là một con người của

cuộc đời thường là sự thành công của tác giả, là sự hấp dẫn của bộ truyện.

Cho chết yểu một tình yêu, tác giả như đã dằn lòng mình cùng nhân vật

Huệ. Trước khi đi trận mạc vào tận Gia định, Huệ chủ động đến thăm thầy,

thăm An. Ông giáo Hiến bị vòng xoáy của lũ sông Côn loại dần. Để rồi lịch

sử, dòng lũ sông Côn xếp ông vào sọt rác của lịch sử (sẽ nói ở phần sau).

Huệ vẫn ân cần, ngoan ngoãn như một cậu học trò: ân cần hỏi thăm thầy, lễ

phép bưng nước mời thầy, ân hận khi chén nước làm ướt phản từ tay thầy,

bố trí người xem bệnh bốc thuốc. Huệ trong đời thường là con người tôn sư

trọng đạo và ân nghĩa. Gặp lại An trong tình cảnh con An đang ghẻ lở đầy

mình, Huệ cảm thông, an ủi, động viên và giữ đúng chừng mực coi An như

"người bạn gái". Huệ với tư cách con người của cuộc đời thường với thầy,

với tình yêu được tác giả "hoàn toàn hư cấu". Huệ rất đời thường mà không

thường chút nào. Huệ không những là vĩ nhân của lịch sử mà còn là hiện

thân của đạo nghĩa thầy trò cao đẹp, một tình yêu cao thượng. Dường như,

tác giả muốn thông qua một Huệ đời thường để gửi một thông điệp gần như

đi suốt thời gian, không gian là: con người làm nên nghiệp lớn trước hết là

con người bình thường, có khác chăng chính là ở chỗ họ là những chuẩn

mực trong mối quan hệ: đạo nghĩa và tình yêu. Điều này làm cho tác phẩm

45

có sức sống động hoá nhân vật lịch sử mà vẫn rất lịch sử. Đau đớn cùng

nhân vật khi chính tự tay bút phải đặt dấu chấm hết cho tình yêu Huệ - An,

tác giả được cái lớn khác là đi giữa hai luồng: Lịch sử và thế sự trong tiểu

thuyết lịch sử mà không bị chao đảo. Một mối tình dường như tay ba Huệ -

An - Lợi được đặt dấu chấm hết trong tiệc cưới (chương 35 phần III),

chuyển hẳn sang một "tình bạn", một tình cảm giữa những người có một

thời để nhớ. Cũng vì những lẽ trên mà ngày ông giáo Hiến ra đi, ông ra đi

trong sự thất sủng, già nua và bệnh tật. Huệ đến, khi thầy vừa trút hơi thở

tàn cuối cùng "với đồ trận mạc còn lấm bụi, có lẽ vừa ở xa về" (trang 730).

Trước linh sàng thầy, Huệ không còn là một phụ chính "bách chiến, bách

thắng", Huệ là một học trò ân nghĩa, cao hơn như là một người con có hiếu.

Tình thầy trò thông qua tâm trạng Huệ, gây xúc động không nhỏ cho người

đọc. "Huệ tiến thẳng đến phía thầy nằm. Ông xúc động đến nghẹn ngào

trước thân thể ốm o biến dạng, đến nỗi khó mà nhận ra ông thầy thân yêu,

quắc thước ngày xưa. Đứng lặng một lúc lâu, đột nhiên ông quỳ xuống bên

gường thầy, hai tay nắm lấy hai bàn tay lạnh cóng của ông giáo. Tuy đôi

mắt người chết đã khép, nhưng ông có cảm giác phía sau cánh cửa huyền bí

vĩnh viễn đóng ập với sự sống ấy, thầy ông vẫn nhìn ông với đôi mắt nửa

trìu mến, nửa trách móc. Không tự chủ được ông gục mặt xuống giường

người chết, nghẹn lời chỉ thốt được mỗi một tiếng:

Thầy ! (trang 730-731)

Những cử chỉ của Huệ là những dấu chấm than (!), dấu chấm lửng

(...), với một người thầy từ buổi lễ khai tâm năm xưa, một vị quân sư, một

vị "thái sư" không chính thức vừa mới hôm qua của chính Huệ, nay ra đi

trong thất sủng, già nua, ốm đau. Ra đi trong sự né tránh của bạn bè thân

hữu của cả bản thân và quyến thuộc. Lịch sử hay chính là vòng xoáy của

mùa lũ sông Côn đã xô đẩy ông giáo Hiến, hay chính là sự hiện diện của cái

mớ lý thuyết trung quân cố hữu đã bị đẩy dạt sang lề, ra ngoài con đường

46

lịch sử đang vươn lên phía trước. Nỗi lòng Huệ đau đớn đến khó diễn tả,

hay chính là nỗi đau khi phải lìa xa một cái gì dù đã không còn hợp thời

nhưng đã gắn bó đến sâu nặng. Phải chăng, đây cũng chính là mảnh lòng

của Nguyễn Mộng Giác trong những năm tháng nhiều biến động sau tháng

4/1975.

Phần III Hồi hương - trở về quê, "... quê hương là chỗ để về, nơi có

một mái nhà, có những người thân yêu, có những kỷ niệm đẹp nhất của một

đời. Nơi một hòn sỏi, một gốc cây cũng đủ khiến ta bồi hồi xúc động" (lời

nhân vật Huệ trang 272). Hồi hương mà hoá ra là ly hương vì Huệ, An đang

ở Bằng Châu chứ đâu phải là Kiên Thành hay An Thái. Dòng "Sông Côn

mùa lũ" được chuyển thành dòng sông đời - lũ đã tràn bờ, dòng xoáy của nó

là dòng xoáy của lịch sử, của sự chuyển mình của một kỷ nguyên mới, cuốn

theo dòng chảy tất cả những cuộc đời, những số phận. Có những cuộc đời,

những số phận thuộc công việc của sử gia. Có những cuộc đời, những số

phận thuộc công việc của tiểu thuyết gia. Phần III, hồi hương cũng là phần

khép lại những trang sách mà chất "hư cấu", chất tiểu thuyết tràn trề nhất.

Tác giá khép lại chất tình ca tình yêu Huệ - An trong trường khúc sử thi của

cả cuốn truyện. Nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ là trung tâm, là đỉnh cao của

cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đồng thời cũng là nhân vật tác giả dày công nhào

nặn trong việc thế sự hoá nhân vật lịch sử này. Một Nguyễn Huệ đời thường

ân nghĩa, đạo lý, thuỷ chung mà vẫn rất lịch sử. Nguyễn Mộng Giác đã trữ

tình hoá nhân vật Hụê thành công mà cũng là thành công cho cả thiên

truyện. Việc "lấp điểm trắng" nhân vật Nhạc và Lữ, Nguyễn Mộng Giác đã

thành công không nhỏ song không vượt quá khuôn khổ làm sống động, chi

tiết hoá nhân vật mà sử sách đã hoàn tất một cách thiếu hụt. Nhạc, Lữ mờ

trong sử sách hơn Huệ đồng thời cũng mờ ngay cả trong thiên truyện bên

cạnh nhân vật Huệ. Trong phạm vi bài viết, nhân vật Nhạc, Lữ mờ trong thế

47

sự hoá, tiểu thuyết hoá, chúng tôi không đề cập nhiều vì những lẽ trên.

Nguyễn Nhạc là người khởi nghiệp của phong trào khởi nghĩa Tây

Sơn. Có thể khẳng định, không có Nguyễn Nhạc thì không có phong trào

Tây Sơn. Song tên tuổi của Nguyễn Nhạc bị lu mờ trong lịch sử trước người

em quá xuất sắc là Nguyễn Huệ, đồng thời cũng là những hạn chế của chính

con người này. Viết "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác có chủ ý "Về

các nhân vật lịch sử, tôi tôn trọng những gì lịch sử đã ghi về họ, không cố ý

" tái dựng họ..." (thay lời cuối sách). Sự tôn trọng lịch sử khi viết về nhân

vật Nguyễn Nhạc là một việc khó. Vì sử sách và cả trên thực tế Nguyễn

Nhạc lu mờ và hình như bị coi là một người có tội với lịch sử với dân tộc.

Suốt từ Bắc đến Nam không một tên phố, tên đường mang tên con người

lịch sử này. Mặt khác, khi giành được vương quyền, dòng họ Nguyễn Gia

Miêu đã trả thù nhà Nguyễn Tây Sơn khốc liệt nhất trong lịch sử, mà

Nguyễn Nhạc là tâm điểm của sự trả thù đó. Với độ tỉnh táo, khi "lấp những

điểm trắng" cho nhân vật lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đã tái hiện nhân vật

Nguyễn Nhạc ở chừng mực có thể và cần thiết, làm chủ ngòi bút để không

rơi vào tuỳ hứng, không làm lệch lạc nhân vật lịch sử và mục đích viết.

Như trên đã trình bày, phạm vi của bài viết, đồng thời cũng là sự "lu

mờ" trong tác phẩm của nhân vật Nguyễn Nhạc về phương diện hư cấu và

lịch sử trước nhân vật Nguyễn Huệ. Vì thế nhân vật Nguyễn Nhạc, chúng

tôi bàn đến như là chừng mực có thể và cần thiết. ở góc độ thế sự, Nguyễn

Mộng Giác đã hư cấu một số tình tiết về nhân vật Nguyễn Nhạc. Có lẽ với

mục đích "Tôi "xét lại" nhiều hơn khi viết về Nguyễn Nhạc. Người ta vẫn

thường xem Nguyễn Nhạc như một người gian hùng nhiều hơn anh hùng"

(lời cuối sách). Trong tác phẩm, Nguyễn Nhạc được khắc hoạ, hư cấu

dường như chỉ chú trọng đến "như một người gian hùng. Nguyễn Nhạc với

dáng vẻ bề được mô tả ngoài dường như là cái thần thái của thuật nhân

tướng học "Lợi dẫn đến nhà ông Giáo một người đàn ông chạc khoảng trên

48

ba mươi tuổi, thân hình ốm, da mặt hơi tái. Ông giáo chú ý ngay đến đôi

mắt của người lạ. Dưới cặp lông mày thưa, đôi mắt xếch quá mức bình

thường khiến ánh nhìn đầy vẻ nghi kỵ, giễu cợt và khinh bạc" (trang 87).

Ngay từ lần đầu gặp gỡ, ông giáo Hiến đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác

về Nguyễn Nhạc. Qua Lợi, ông hình dung Nhạc với diện mạo "do cái nghề

xông pha nguy hiểm từ đầu nguồn đến cuối sông, do trách vụ phức tạp khó

nhọc của một chức sắc thu thuế, khổ người phải đẫy đà, nước da rám nắng,

cử chỉ nghiêm túc, đĩnh đạc" (trang 88). Thì Nguyễn Nhạc lại là "một thanh

niên mặt trắng" (trang 88). Rồi đến cách ăn nói gãy gọn, rành rẽ "phải có

một cá tính mạnh mẽ chủ động mới có thể tự mình mạnh bạo nói về mình

và đặt người khác trước một sự đã rồi" (trang 88). Phải chăng đây là chủ ý

của tác giả xây dựng một Nguyễn Nhạc có cái vẻ bề ngoài - một Nguyễn

Nhạc mà người ta vẫn xem là con người gian hùng. Có lẽ vì thế mà sau một

thời gian ngắn, ông giáo Hiến đã chứng kiến việc làm của Nhạc đúng như

lời "người ta" hay chính là dụng ý của tác giả. Để tránh bất đồng Kinh -

Thượng, một người vô kỷ luật, tranh nguồn lợi buôn muối với người

Thượng bị chém trọng thương, gia cảnh còn mẹ già yếu, Nguyễn Nhạc đã

dựng tin và dựng luôn cả thuật phao tin; biến con người đáng thương kia

thành một con người hoàn toàn khác qua giọng nói của một bé trai khoảng

lên mười tuổi: "- Cướp. Bắt được nó rồi. Tên này hung dữ dễ sợ. Đã bị trói

ké bằng dây mây cỡ này, nó vung một cái đứt hết" (trang 191). Việc làm

này của Nguyễn Nhạc quả là có thua kém nhân vật Tào Tháo trong "Tam

quốc diễn nghĩa" - giết cả nhà Lã Bá Sa với phương châm "thà ta phụ người

chứ không để người phụ ta" - phương châm xử thế của gian hùng. Con

người vô kỷ luật đáng thương, thoắt trở thành vật hy sinh cho mưu đồ chính

trị - củng cố mối quan hệ giữa Kinh với Thượng. Khi đã nắm trong tay

vương quyền, Nguyễn Nhạc dường như phát huy cao độ cái chất gian hùng.

Ông giáo Hiến cố cựu, khơi nguồn lũ sông Côn cùng với Nhạc bằng lòng

49

nhân, Nguyễn Nhạc loại ra khỏi cuộc chơi chính trường đơn giản, không

bận tâm. Nguyễn Nhạc cho người đến tận nhà ông giáo, bóng gió, bắn tin

như việc làm của luật giang hồ, luật rừng. Kế đó, Nguyễn Nhạc loại ông

giáo bằng một hộp "nhân sâm quý của Tàu" vì "áy náy" trước "sức khoẻ của

thầy" không được tốt. Ông giáo Hiến bị loại khỏi chính trường, Nguyễn

Nhạc che đậy bằng một việc làm dễ mờ mắt thiên hạ - tác thành cho việc

thành hôn của An - Lợi. Nguyễn Nhạc sử dụng lễ cưới của An - Lợi được tổ

chức rất long trọng để đón tiếp, chiêu đãi tiệc với phái bộ của chúa Trịnh,

đây mới là đỉnh cao của thuật gian hùng. Nguyễn Mộng Giác đã dàn dựng

thành công chất "gian hùng" của Nguyễn Nhạc trong tác phẩm - vừa được

lòng phái bộ, lại vừa củng cố địa vị. Nếu cần phải bào chữa về quy thuận

chúa Trịnh của Nhạc - tiệc tùng gì, chỉ là dự đám cưới của một kẻ thuộc hạ

bình thường. Trước tình thế nguy ngập, con người gian hùng Nguyễn Nhạc

quyền biến chọn đúng phương án tối ưu cho hành động: hoà với Trịnh chiến

với Nguyễn, nhận làm tiên phong đánh Nguyễn cho Trịnh. Trịnh ngẫu

nhiên được lợi "toạ sơn quan hổ đấu", nên dễ chấp thuận, bất luận hơn thiệt

thế nào. Nguyễn Nhạc rút về Nam đột ngột trong đêm, cắt cái đuôi Nguyễn

Hữu Chỉnh là chất "gian hùng" được sử sách ghi lại.

Nhân vật lịch sử Nguyễn Nhạc lu mờ trong lịch sử, bởi có người em

quá xuất sắc là Nguyễn Huệ, đồng thời cũng là cái hạn chế trong tầm nhìn

chiến lược, trong sự điều hành, cai trị ở tầm vĩ mô của Nhạc. Điều này được

thể hiện rất rõ. Khi đã đuổi chúa Nguyễn dạt về phương Nam, Nguyễn

Nhạc xưng vương với sự thoả mãn: cai quản vùng đất từ Phú Xuân đến

Quy Nhơn. Khi đã cơ bản tiêu diệt tập đoàn chúa Nguyễn, Nguyễn Huệ Bắc

tiến thắng lợi, chúa Trịnh đã được dẹp. Nguyễn Nhạc chủ trương trả lại lãnh

địa đất Bắc cho họ Lê, để xưng đế từ đèo Cù Mông trở vào. Nguyễn Mộng

Giác để nhân vật Nguyễn Nhạc hơn một lần thốt ra câu nói gần như thành

ngữ "cái nhìn không qua ngạch cửa", thì chính Nguyễn Nhạc có cái tầm

50

nhìn ấy. Gian hùng làm sao tránh khỏi tàn bạo, bất nhân và vụn vặt. Nguyễn

Nhạc không xem Bắc tiến toàn thắng của Huệ là chiến công phi thường, có

sức vang dội trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Ông đã đem

tầm nhìn thấp, cầu an, thực dụng, vụ lợi bất chấp cả cái tâm; đem cái đầu óc

vụn vặt, vị kỷ, hẹp hòi, đố kỵ, để thưởng công bằng sự công khai giận lây

cả các tướng lĩnh đã theo Huệ, mà thực chất là theo dòng xoáy của lịch sử,

khúc quanh của lịch sử. Chính từ lòng vị kỷ hẹp hòi mà nguyên nhân sâu xa

là nguồn gốc ít học của một vị thế - biện Nhạc Vân Đồn, tụ tập và sử dụng

"bọn đầu trộm, đuôi cướp vô lại mà không để cho chúng cuốn theo để trở

thành cướp lớn" (lời cuối sách). Sự hiện hữu lu mờ của Nguyễn Nhạc trong

sử sách, Nguyễn Mộng Giác đã tôn trọng, nhưng tác giả đã khai thác lời

"người ta" mà "lấp điểm trắng" về nhân vật, để khắc hoạ nhân vật Nguyễn

Nhạc lu mờ cả trong "Sông Côn mùa lũ " - chí ít thì cũng là xuất hiện không

nhiều trong tác phẩm nhưng đã khắc hoạ thành công tính cách của nhân vật

bằng hai từ "gian hùng".

Sẽ là không đủ nếu không đề cập đến nhân vật Lữ, nhân vật tạo thành

bộ ba: Nhạc, Lữ, Huệ trong họ Nguyễn Tây Sơn, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn,

dòng lũ sông Côn. Nhân vật Lữ trong tác phẩm, được Nguyễn Mộng Giác

thể hiện như sự điểm danh lịch sử, để hoàn thiện chất lịch sử cho bộ truyện.

Ngay từ buổi đầu tầm sư học đạo, khi Huệ say sưa với "lời tựa truyện du

hiệp", Lữ lại thích thú, mơ tưởng, gây dựng một "trang - trại - y - như - của

- chú - Thung" (trang 109). Câu văn ngắt nhịp khác lạ, lại được đặt trong

ngoặc kép như trích dẫn lời của Lữ. ở tuổi mười bảy, Lữ ước mơ quá đơn

giản nhưng đầy đủ ý nghĩa về một cuộc sống cầu an. Mỗi một con chữ được

ngắt ra như một sự dằn mạnh dấu ấn trong tâm khảm của nhân vật. Sự dằn

mạnh tới bảy lần, phải chăng là sự nhấn mạnh của tác giả về nhân vật Lữ

với vai trò lịch sử mờ nhạt. Lữ tham dự khơi nguồn lũ sông Côn, được

phong vương, nhưng sớm nhận ra sự khốc liệt của chiến tranh. Lữ thờ ơ với

51

công việc vận chuyển quân lương, thờ ơ trong cương vị vương. Lữ tìm đến

Kiên để tìm lối thoát cho sự chán chường cảnh đâm chém, chết chóc tranh

giành quyền lực. Lữ tìm đến Kiên, tìm đến triết lý: "vạn vật hoà đồng", tìm

đến sự cứu rỗi linh hồn, coi Kiên như người đồng đạo và là người thầy

hướng đạo. Mà Kiên là hiện thân của "những điều không có đâu". Lữ như

người hoàn toàn mất hướng - đây là sự suy diễn của tác giả, Kiên là phương

tiện phát ngôn. Cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Kiên và Lữ, trước giờ Lữ bị

vĩnh quyết của tạo hoá, Kiên kể với An (em gái) "dĩ nhiên ông ấy không

dậy nổi, nhưng vẫn mấp máy môi giục anh nói ngay điều quan trọng cao cả

ấy là gì". Anh đáp "ngài đã sống đúng bản tính Trời cho, và đã hết sức cố

gắng. Những điều khác đều là thừa thãi cả thôi" (lời Kiên nói với An trang

1406). Kiên được mệnh danh Đức Thầy, như người cha đạo Kytô rửa tội

cho con chiên ngoan đạo là Lữ. Lữ qua đời trong vòng tay của Kiên - ông

đạo An Thái - Đức Thầy. Nguyễn Mộng Giác đã điểm danh, nhân vật Lữ có

mặt và có mặt chỉ như thế.

Viết "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác đã tham khảo lịch sử

một cách nghiêm túc và khá đầy đủ kỹ luỡng "tài liệu sử thời Tây Sơn, tôi

đọc được cũng khá nhiều nhưng giúp ích cho tôi nhiều nhất (về phương

diện tiểu thuyết) là Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái, Phủ

biên tạp lục của Lê Quý Đôn và các bài viết, thư từ của các giáo sĩ thiên

chúa giáo ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài thời đó" (lời tác giả- cuối sách). Vì

lẽ trên mà việc đề cập lại vấn đề lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ" xem là sự

lục vấn không cần thiết. Đã là tiểu thuyết thì phần trọng hơn cả vẫn là tiểu

thuyết. Sự trung thành với lịch sử tới mức nào không phải là thước đo tối

cần thiết cho mọi tác phẩm tiểu thuyết lịch sử."Sông Côn mùa lũ" có sự

hiện diện của lịch sử bằng chất tiểu thuyết song không tiểu thuyết hoá lịch

sử và cũng không lạm dụng lịch sử để gọi là tiểu thuyết. Nhân vật lịch sử,

sự kiện lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đã hoàn thiện một cách nghiêm túc cái

52

vạch cấm chỉ của lịch sử để tiểu thuyết dừng ở chỗ cần thiết nhất. Cùng là

nhân vật lịch sử: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ song Nguyễn

Mộng Giác đã dừng ở mức "tâm trạng hoá" Nhạc và Lữ, đã tiểu thuyết hoá,

trữ tình hoá nhân vật Huệ. Đây chính là nét thành công của thiên truyện

trong tái hiện nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử. Việc tiểu thuyết hoá,

trữ tình hoá nhân vật Huệ cũng tập trung dừng lại ở phần: về An Thái, Tây

Sơn thượng và Hồi hương, trong mối quan hệ với những nhân vật "hư cấu".

ở phần: Phương Nam, vượt đèo Hải Vân, Phú Xuân; nhân vật Huệ được đặt

trong những sự kiện lịch sử được xem là chân xác. Nhân vật Huệ chỉ còn là

chi tiết hoá, sống động trong "tâm trạng hoá" nhân vật lịch sử. Việc thế sự

hoá, công việc tạo nên tính cách nhân vật đắc lực đã bị "ước thúc" bởi lịch

sử. Có thể nói ở ba phần này là khoảng không gian, thời gian, tác giả chỉ

dành riêng cho lãnh địa của sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử vì thế dường

như chỉ được hư cấu bằng những "điểm trắng", thứ yếu cần và đủ. Có thể

nói ở ba phần này lịch sử được xem là "cứu cánh" của thiên truyện. Đương

nhiên không vì thế mà tính hấp dẫn, "xem được" của tác phẩm bị giảm đi.

2. Chất liệu tiểu thuyết - nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ"

2.1. Chất liệu tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ"

Viết "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác trả lời phỏng vấn "ý định ban

đầu, như thế, là "viết về tâm trạng mình trong những năm nhiều biến

chuyến sau tháng 4/1975. Chọn thời gian là thời Tây Sơn vì đấy là thời kỳ

cũng có nhiều biến động dữ dội, thời kỳ giới nho sĩ, trí thức cả đàng Trong

lẫn đàng Ngoài đều bị đặt trước những thử thách sinh tử. Khi định rõ được

chủ định của tác phẩm, tôi bắt đầu tìm đọc tất cả các tài liệu lịch sử liên

quan đến thời Tây Sơn. Càng đọc tôi càng thấy lịch sử thời Tây Sơn quá đa

dạng, phong phú và tầm nhìn của tôi cũng mở rộng ra. Chủ đích ban đầu là

"tâm trạng trí thức thời loạn" trở thành chật hẹp. Tôi muốn tái hiện toàn

cảnh giai đoạn lịch sử ấy, từ chốn triều đình đến thân phận những người dân

53

ở cùng đáy, từ lúc phong trào Tây Sơn khởi dấy cho đến lúc Nguyễn Huệ

mất". (lời cuối sách). Như thế là "Sông Côn mùa lũ" được khai sinh với một

diện mạo có quy mô rộng lớn, trong đó bình diện tiểu thuyết - chất sáng tạo,

hư cấu của tác phẩm được tác giả đặc biệt chú trọng. Có lẽ cũng vì thế mà

bàn tới "Sông Côn mùa lũ" có nghĩa là ta phải chú trọng bàn tới cái bình

diện hư cấu mang tính tiểu thuyết. Tuyến hư cấu của tác phẩm theo quan

niệm của tác giả "Tôi muốn tái hiện toàn cảnh giai đoạn lịch sử ấy, từ chốn

triều đình đến thân phận những người dân ở cùng đáy..."(lời tác giả-cuối

sách). Những nhân vật không góp mặt trong sách của sử gia sẽ được tác giả

"sáng tạo" hoàn toàn. Những nhân vật của sử gia sẽ được tác giả lấp những

điểm trắng, tiểu thuyết hoá ở mức độ "về các nhân vật lịch sử, tôi tôn trọng

những gì lịch sử đã ghi về họ" (lời tác giả). Chủ ý của tác giả ban đầu "tâm

trạng của trí thức thời loạn" qua trả lời phỏng vấn là một tâm điểm của tiểu

thuyết "Sông Côn mùa lũ". Tuyến nhân vật trí thức được tác giả thể hiện với

hai cấp độ: nhân vật trí thức trong bình diện lịch sử và trí thức trong bình

diện tiểu thuyết - hư cấu sáng tạo. Cấp độ bình diện tiểu thuyết - hư cấu,

thế sự, Nguyễn Mộng Giác đã hư cấu ông giáo Hiến. Cũng chính từ nhân

vật hư cấu này, tác giả đã cho xuất hiện những gương mặt ở những vị trí

khác nhau của lịch sử: những đứa con ông giáo Hiến, những quan hệ của

ông giáo Hiến với những nhân vật khác. Ông giáo Hiến là nhân vật của lao

động nghệ thuật, vì thế "tâm trạng của trí thức thời loạn" sẽ và phải được

tác giả gửi gắm, thông qua nhân vật này để thực hiện cái chủ ý ban đầu như

là nhất thành, bất biến. Trong tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác đã thể hiện trí

thức thời loạn như là sự phân nhánh: nhánh thế sự tiểu thuyết và nhánh lịch

sử như nó vốn có. Bàn về "Trí thức thời loạn" trong "Sông Côn mùa lũ" tức

là bàn về hai nhánh này. Tác giả trình bày hai nhánh trong tác phẩm như là

sự biệt lập. Nhánh hư cấu - tiểu thuyết dừng lại ở chương 48 phần III của

thiên truyện - cái chết của ông giáo Hiến. Nhánh lịch sử vươn xa hơn và

54

dừng lại ở chương 94. ở góc độ tiểu thuyết, ông giáo Hiến hoàn toàn là kết

quả lao động nghệ thuật. Những nỗi niềm của ông giáo Hiến cũng là sự gửi

gắm "nghệ thuật" và cả nỗi niềm, tâm sự của tác giả về thời gian quá khứ,

làm cầu nối qua nhân vật với hiện tại. Từ tâm điểm "trí thức thời loạn" với

nhân vật ông giáo Hiến, Nguyễn Mộng Giác đã làm nảy sinh những tâm

điểm khác, tạo nên những khía cạnh khác của chủ đề tác phẩm. Nhân vật

trung gian, hình tượng người phụ nữ, đám dân chúng là những chất tiểu

thuyết thể hiện sinh động "thế sự" của một thời quá vãng. Chất liệu tiểu

thuyết trong "Sông Côn mùa lũ" được Nguyễn Mộng Giác thể hiện như một

đối trọng với chất liệu lịch sử trong mối quan hệ đặc biệt "thế sự là da thịt

của tiểu thuyết lịch sử cũng như lịch sử là xương cốt của tiểu thuyết lịch sử"

(lời tác giả-cuối sách). Việc bàn "tâm trạng trí thức thời loạn" trong tác

phẩm đương nhiên là phải đề cập tới hai nhánh nhân vật trí thức như trên đã

trình bày. Chất "thế sự" đầy đủ của "Sông Côn mùa lũ", bên cạnh nhân vật

trí thức là những nhân vật trung gian, người phụ nữ, đám dân chúng ta

không thể không bàn tới.

2.2. Nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ".

Trước hết là "trí thức thời loạn"hoàn toàn hư cấu, sáng tạo, chất tiểu

thuyết triệt để trong tác phẩm - ông giáo Hiến. Ông giáo Hiến là nhân vật

của nghệ thuật tiểu thuyết. Tác giả xây dựng ông giáo Hiến là nạn nhân của

một trật tự xã hội đã mục ruỗng. Sự lộng hành, tàn bạo của Trương Phúc

Loan dẫn đến cái chết của của Trương Văn Hạnh, vì sợ liên luỵ mà ông

giáo Hiến đưa cả bầu đoàn thê tử trốn chạy khỏi Phú Xuân. Nguyễn Mộng

Giác đã căn cứ vào sự kiện lịch sử để đặt nhân vật ông giáo Hiến trong hoàn

cảnh xuất hiện hợp lý: lô gíc sự kiện lịch sử và thế sự. Từ Phú Xuân, ông

giáo xuôi về phương Nam - An Thái, về với người anh cùng cha khác mẹ

của bà giáo. Cả đời, họ chưa đến nhà nhau nên cái đích An Thái cũng như

55

là một điểm đến vô định, phù hợp với cảnh xiêu giạt, chạy trốn. Không

gian sáng tạo của tác giả đặt trong trời mưa tầm tã, các dòng sông trên

đường xuôi Nam đang bồi hồi dâng nước. Nước mưa trời hay chính mưa

của thời cuộc đang dâng nước làm phổng phao dòng sông đời báo hiệu

những dòng lũ sẽ tràn bờ. Xuyên qua màn mưa, vượt đèo, ngủ tạm vật vờ,

xuôi dòng cửa Hội, những chặng đường gia đình ông giáo Hiến đi qua, cảnh

tượng của cuộc sống diễn ra cũng chẳng một chút bình yên. Nào là cảnh

cấm đường theo lệnh quan quốc phó. Nào là cảnh thuế khoá đánh đò ngang,

đò dọc quá nặng. Đến nỗi, người chèo đò cũng hết đường sinh nhai. Cảnh

chụp giật của lũ đầu bếp nhà quan tả ngoại "chúng chụp ngay liễn mắm. cả

chợ lại cười, nghĩ các ngài hầu cận quan tả đùa dai. Mãi đến lúc chúng đi

rồi... mà ai ngờ đâu được là quan tả ngoại chỉ ăn được có món mắm vãnh hở

trời" (trang 17). Nào là cảnh ngăn sông "Chắc chắn cửa Mù U đóng" (trang

22). Trở đi rồi lại lộn trở về, đường thuỷ cấm ngặt, ông giáo cùng gia đình

vượt đèo Hải Vân vào Nam - Quy Nhơn. Song cái cảnh đường rừng cũng

nhộn nhạo không kém con đường thuỷ đầu sông cuối bãi "ngay ở dưới chân

đèo, có một xóm dân chài độ vài chục nóc nhà... đột nhiên cả xóm lao xao

náo loạn. Người này ơi ới đi gọi người kia. mẹ hớt hải khóc mếu đi tìm con.

Đàn ông vác những cái bọc cột sẵn chạy ra phía bờ biển ! Không đầy một

khắc cả xóm đã trở thành một bãi hoang vu như có một cơn lốc dữ dội thổi

qua vậy. Cửa sổ, liếp ở các ngôi nhà lá đều chống lên, bên trong đồ đạc

không còn gì." (trang 28). Cảnh nhốn nháo ấy vì có "đám bụi mù trên

đường quan" là do "công sai đã về đấy". "Quan dịch đi đông, bắt phu không

đủ, người ta phải vào lùng bắt từng nhà. Nếu không có người thì trong nhà

có thứ gì, quan đều tịch thu hết" (trang 28). Giữa thanh thiên bạch nhật, dân

sợ quan hơn sợ phường lục lâm, thảo khấu. Nơi bìa rừng Ngãi Lĩnh, thâm

sơn, cùng cốc, dân cũng không yên ổn. Ông giáo Hiến còn có An Thái xa

xôi để trốn chạy. Những người dân nơi chân núi, bìa rừng đành phải sống

56

"ngày đêm chỉ lo chui rúc giấu mình như lũ chuột"(trang 28). Nơi bìa rừng,

chân núi đã thế, đỉnh đèo cũng chẳng yên ổn hơn. Thấy bóng người, những

người dân vô tội phải trốn chạy vì sợ quan dịch đến bắt phu, bắt lính, cướp

bóc. Qua giọng nói vẫn còn chưa hết hẳn sợ hãi. "- Phải lo xa các ông ạ!

Mới buổi sáng đây, các "ngài" cần thêm người khiêng võng. Có đứa xấu

miệng mách lẻo cho các ngài biết thằng Mười còn sống chung với hai vợ

chồng già chúng tôi. Thế là,... các ông thấy đấy cái quầy mất đi một

chân"(trang 32). Cảnh tượng trên đường xuôi Nam của ông giáo Hiến và cả

ông nữa là kết quả của lao động nghệ thuật, là sáng tạo của tác giả. Đối

thoại với lịch sử, tác giả dàn dựng cảnh khốn cùng của một ông đồ bị cái vạ

liên luỵ, của những người dân vô tội bị "thần cùng", "thần khó" đẩy đến

cuối con đường đói khổ lại thêm quan dịch hoành hành, khiến cho dân sợ

quan hơn sợ cướp rừng, cướp biển. Người dân không được sống yên thân.

Mở đầu tác phẩm, điểm xuất phát của cả thiên truyện, tác giả bắt đầu bằng

cái nhìn nhân đạo, cảm thông trước những thân phận thấp cổ bé miệng.

Ông giáo và dân đen là đồng nạn nhân của một chế độ hà khắc, chế độ quan

lại lộng hành, coi mạng dân không bằng cỏ rác. Dù là đối thoại với quá khứ

và là sự hư cấu song ngay từ mở đầu tác phẩm, nhà văn đã thể hiện thái độ

phê phán dù không có một lời bình nào. Phải chăng xây dựng cảnh khốn

cùng của đám dân đen cũng không được sống yên để gặm nhấm nỗi nghèo,

Nguyễn Mộng Giác chuẩn bị cho những trận mưa đời xối xả bằng nước

mắt, bằng sự khốn cùng để có một dòng sông đời dâng lũ, dòng sông Côn

chuyển nghĩa. Lũ đời phải dâng lên để cuốn đi những gì mà lẽ đời đơn giản

cũng không thể chấp nhận được.

Cuối nẻo đường trốn chạy về phương Nam của gia đình ông giáo

Hiến là An Thái, địa danh đầy cầu mong: sự yên ổn, thái bình. Đặt chân tới

An Thái, gia đình ông giáo Hiến lâm ngay vào cảnh túng quẫn: tiền sắp hết,

bà giáo ốm nặng, đông miệng ăn, không thước đất cắm dùi, vô nghề nghiệp.

57

Lại thêm nạn cướp cạn ban ngày: ông xã trưởng muốn mua rẻ "hoặc biếu

không càng tốt một cái quạt tàu"(trang 63), một xã trưởng khác " Hắn bằng

lòng không nghi ngờ gì nữa, nếu ông giáo bằng lòng bán cái áo đoạn cho

hắn"(trang 64) Rồi đến chánh tổng thừa hành quan tri huyện đến lấy đi cái

chăn nhiễu lục vì "... Bà huyện không ăn, không ngủ nổi, nếu không thấy

được cái chăn nhiễu lục nó sang, nó đẹp đến mức nào" (trang 64). Còn sót

lại một chút tanh tao, ruồi đã đổ đến. Mất của lại bị xỉ nhục bởi sự phách lối

của xã trưởng, chánh tổng, ông giáo Hiến còn phải chuốc thêm "... dân An

Thái hối hận đã đến cất giùm nhà cho ông giáo" (trang 63). Ông giáo - trí

thức là nạn nhân tội nghiệp của lũ cướp ngày, giữa cái buổi được coi là

"thái bình", chưa có loạn ly, song những cơn lốc đời luôn nổi lên khiến

những thân phận xiêu vẹo trong vị thế xã hội luôn phải oằn mình hứng

chịu. Cái nhìn nhân đạo của tác giả thật đáng ghi nhận. Vừa đi qua những

cơn lốc đời, gia đình ông giáo tạm ổn, thì lại lâm vào cảnh thương tâm - sự

ra đi của bà giáo - cảnh tử biệt. Sự ra đi của bà giáo khép lại một kiếp

người, người đàn bà không tên được bù lại bằng nghề nghiệp của chồng - bà

giáo. Cô hàng cơm hến năm xưa làm vợ, làm mẹ, làm kiếp người lam lũ,

tần tảo, đi ra từ cõi hư vô, làm tròn bổn phận của một kiếp phù sinh rồi trở

về cõi hư vô. Bữa cơm chia buồn với tang quyến diễn ra trong cái ồn ào: lời

kể, lời bàn tán về vụ cướp giàn truyền thống với hai cái chết thương tâm:

một bị dập lá lách, một bị vỡ đầu. "Bữa cơm trưa có nhiều tiếng cười hể hả

và đám đàn bà sống giữa vùng đất chuộng võ từ tấm bé, không hiểu nổi sự

quyến rũ của bạo lực, nhìn đám mâm chén ngả nghiêng với đôi mắt chịu

đựng và khoan thứ" (trang 80). Rồi việc an táng bà giáo "cử hành" "ngay

buổi chiều hôm ấy", vội vã như chôn cất thi hài của dịch bệnh, của người

quá cố vì tai nạn rủi ro. Đám tang của bà giáo dường như được Nguyễn

Mộng Giác thực hiện một điểm nhấn về vị thế của trí thức trong cái thời

buổi nhiễu nhương - "mùa lũ". Cái đau của kẻ bụng đầy chữ mà chẳng làm

58

được gì cho người bạn đời của mình mát mặt cả đến tận lúc: nhắm mắt

xuôi tay. Ông giáo không chỉ được sáng tạo trong cái thế: trốn chạy khỏi

liên luỵ mà còn được đặt trong cái nghèo, cái tủi. Trong đầu người có học,

trong nhân cách, những điều này không dễ gì nguôi ngoai được. Tồi tệ hơn,

nó sẽ không gặm nhấm mà trái lại luôn dằn vặt, cồn cào, dữ dội, giằng xé.

Trước những cơn lốc đời, mưa đời, màn đêm đời, kẻ ít học bị đè nén, bóc

lột, bần cùng hoá chỉ có một nỗi đau mưu sinh, miếng cơm manh áo; kẻ có

học "trí thức" còn có thêm một nỗi đau: nhân cách và lương tâm bị xúc

phạm, bị xỉ nhục. Đây phải chăng là cái đồng giao, đồng cảm của tác giả

với lớp người mang danh trí thức mà thực chất là nạn nhân khốn nạn nhất

của thế cuộc (đương nhiên là thế cuộc trong quá khứ lịch sử). Sau cái chết

của bà giáo, con ông giáo lớn có: Kiên đã 21 tuổi; bé có "Đứa thứ nhì mới

15 . Đứa thứ ba con gái. Đứa thứ tư mới 11 tuổi, nó đứng kia kìa. Cháu nhỏ

nhất còn bé, mới lên ba" (trang 63), thì ông vẫn lâm vào "cảnh gà trống

nuôi con", vì lớn không nghề nghiệp, bé cần nuôi dưỡng. Xem ra, gia cảnh

quá éo le, ông giáo đã bị thần cùng gõ cửa và truy đuổi rồi. Vừa mới hứng

chịu cảnh tử biệt, ông giáo lại hứng thêm cái hoạ sinh ly. Vì gia cảnh quá

neo đơn, lại chưa ổn cư, ông giáo trì hoãn việc "đầu binh" của Kiên, gửi con

lên Tây Sơn thượng. Thế là, bốn tiếng đáng sợ nhất của đời người đã đổ

sập xuống đầu ông giáo - tử biệt, sinh ly. Bị chà xát bởi miếng cơm manh

áo thường nhật, bị đau đớn đến tột cùng về tinh thần: nhân cách, nhân

phẩm, lương tâm bị xúc phạm, bị xỉ nhục bởi cường quyền, bởi "số mệnh"

bị dòng đời xô đẩy, song với thiên chức làm thầy, ông giáo Hiến vui vẻ

nhận dạy cho đám học trò chỉ vẻn vẹn bảy đứa, trong đó đã có hai đứa là

con ông. Tâm ông trong buổi lễ khai tâm vẫn toả sáng một nhân cách của

một trí thức nho học chân chính "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng

di, uy vũ bất năng khuất" (Mạnh Tử), của một bậc sĩ quân tử theo đòi cửa

Khổng, sân Trình. Phải chăng đây là một lần nữa, Nguyễn Mộng Giác

59

muốn nhấn thêm: người trí thức trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù cuộc sống

bị dồn nén, truy đuổi đến tình thế đường cùng, ngõ cụt vẫn luôn lấp lánh

một cái tâm sáng mà người xưa gọi là "tiết tháo". Trong lễ khai tâm trang

nghiêm ,"lòng ông tự nhiên hồi hộp. Ông nhớ đến cái cảm giác khinh khoái

rộn rã những lần ông đứng như thế này trong đời. Lòng tin ở Đấng vạn thế

sư biểu mạnh mẽ đến nỗi ông nghĩ, vào giờ phút khai tâm thiêng liêng ấy,

cửa minh đức sẽ mở, đời có thêm vài bậc quân tử và bớt đi vài tên tiểu

nhân" (trang 98). Từ cõi sâu thẳm của tâm thức, ông giáo Hiến luôn hướng

tới một cái gì tốt đẹp, một tiêu chí có tính chuẩn mực về nhân cách, nhân

phẩm, lương tâm. Ông có một niềm tin vào những thuyết giáo của đạo Nho.

Đây cũng chính là điểm tựa của lòng trung. Trước dòng thời cuộc, chính

những gì thuộc về ông, của ông trong hiện tại đã khiến ông bước đầu có

những trăn trở. Dù chưa hẳn là lòng trung đã lung lay song nó không đơn

thuần, một chiều nữa "ông đọc nhỏ lời khấn quen thuộc, nhưng đến giữa

chừng, lại cảm thấy một cách chua chát cái bất lực của chữ nghĩa. Những

cậu học trò ông khai tâm hôm nay sẽ đi theo con đường ông đã đi, sẽ học

những sách vở ông đã học. Mà ông đã đi đến đâu ? Mê sách thánh hiền như

bạn Ngô - Thế - Lân của ông mà cuối cùng làm được gì ngoài việc dâng

một bản thái bình sách không ai thèm đọc. Mắt ông lạc thần, ông lạy thêm

bốn lạy, lui ra" (trang 98). Giữa sách vở kiến thức, những tiêu chí đạo đức

là mặt phải là lẽ sống mà giới trí thức, có học luôn trân trọng và vươn tới,

với thực tế cuộc sống lại ít khi đồng hành, thông thường nó là mặt trái. Ông

giáo Hiến đang sống với tâm thức: mặt phải và mặt trái như thế. Đây là

những tín hiệu đầu tiên như là sự dàn dựng một ông giáo Hiến đầy mâu

thuẫn giữa cái nền chung giáo lý sách vở, lòng trung với những gì thuộc

dòng xoáy của mùa lũ sông Côn. Phải chăng, đây chính là nhân vật mà tác

giả muốn gửi gắm nhiều nhất về "tâm trạng trí thức thời loạn". Suốt dọc

chiều dài xuất hiện: từ mở đầu thiên truyện đến sự chấm dứt ở chương 48,

60

nhân vật ông giáo Hiến được xây dựng trong mối mâu thuẫn mà tác giả đã

dàn dựng. Ông giáo Hiến hư cấu của tác giả là đại diện trung tâm nhất của

giới trí thức trong tác phẩm, nhân vật của mâu thuẫn, nhân vật của bi kịch,

là sự thành công của tác giả trong chất tiểu thuyết của "Sông Côn mùa lũ".

Mặt trái là thế sự là cuộc đời thực, mặt phải là kiến thức sách vở với những

ước vọng tiến thân của ông giáo. Giữa "Cái giấc mộng được dự vào sử quán

chỉ là bước chùng của một người hiếu động mà không gặp thời, cho đến khi

gặp được ý đức hầu, ông cố tìm cách thực hiện một số suy nghĩ của mình về

cách trị nước. ý đức hầu, bạn ông có nghe theo lời ông giáo, nhưng mọi kế

sách đều bị quan quốc phó Trương Phúc Loan bác bỏ cả"(trang 104). Một

học vị "ông giáo", kết hôn với cô hàng cơm hến, ông giáo Hiến "có những

suy nghĩ về cách trị nước" là những biểu hiện của con người có hoài bão, có

lý tưởng. Hoài bão, lý tưởng ấy sớm gặp cái gia cảnh chẳng khấm khá gì, cô

hàng cơm hến cũng đau yếu luôn, lại mắn đẻ, đẻ nhiều. Cơm áo đời thường

của cặp vợ chồng ông giáo - cô hàng cơm hến với hoài bão và lý tưởng cao

xa - "trị nước" vốn đã mâu thuẫn rồi. Phải chăng thông qua sự bất cập này.

Nguyễn Mộng Giác muốn nói đến một thực tại dễ gặp: ước mơ viển vông

xa vời thường thấy ở tầng lớp "trí thức". Ông giáo Hiến, với một bi kịch cá

nhân được dàn dựng lô gíc khiến nhân vật này có cá tính, có số phận. Việc

dạy bẩy đứa trẻ, ông tâm niệm: khai tâm, mở đức, làm sáng đạo Nho mong

có bậc quân tử "trí quân trạch dân" hoặc ít ra cũng bớt cho đời "mấy tên tiểu

nhân", song ở nơi thâm sơn cùng cốc, họ chuộng một thế võ hiểm để phòng

thân hơn là chữ thánh hiền. Mặt khác, ông muốn người học trò sáng dạ nhất

là Nguyễn Huệ hướng theo chính đạo thì lại hướng người học trò này đọc

và học bài "Tựa truyện du hiệp trong sử ký". Mâu thuẫn chưa giằng xé

trong con người ông giáo nhưng không có phương cách nào dẹp được. Cái

xu thế mặt trái - hiện tại, cuộc sống ở gia đình ông đã có lúc có sức lung lay

cái chân đế " chân đế của đời ông gần như sắp rạn nứt, sụp đổ không phải

61

trong nhà học, mà sụp đổ trong những buổi chiều làm ruộng như hôm nay"

(trang 110). Những cú sốc đến với ông giáo như là một quy luật phổ biến

"hoạ vô đơn chí". Lớp học như là chỗ, là công việc tạm gọi là yên thân thì

hay tin Kiên, con trai cả bị hành hung ở Tây Sơn thượng. Lớp học tạm đóng

cửa, ông đi thăm và nuôi con, đưa Kiên trở lại An Thái. Lớp học được mở

lại chỉ còn lại một thầy, một trò- Nguyễn Huệ . Ông phải hạ mình trước

cường quyền: đem hối lộ viên tri áp cái nghiên mực bằng đá quý. Mà rồi,

ông cũng chẳng được yên thân. Kiên bị bắt vì tội trốn lính. Gia đình ông về

An Thái để rồi đi khỏi An Thái lên Tây Sơn thượng. Nơi dung thân thâm

sơn, cùng cốc, ông giáo cũng không được yên. Lên với Tây Sơn thượng,

ông không còn là người bình thường được nữa. Vì nơi ấy tập trung những

con người xiêu bạt, đường cùng và nhất là đi theo anh em biện Nhạc ở

trường trầu, khi nhà Nhạc ở Kiên Thành bị đốt, bị bao vây. Thế là từ chỗ

trốn chạy khỏi liên luỵ ở Phú Xuân, ông giáo tiếp tục trốn chạy lại thêm vào

cái tội a tòng kẻ có mưu đồ chống lại chế độ chúa Nguyễn. Vòng xoáy của

cơn lũ đời thực sự bắt đầu. Cây muốn lặng, gió chẳng đừng, ông giáo không

thể dừng lại ở một vị thế thường dân được nữa. Lên đến Tây Sơn thượng,

thằng út con ông chết yểu vì bệnh hen xuyễn không chống chọi được sơn

lam, chướng khí. Ông giáo thêm một nỗi đau tử biệt - lá xanh rụng trước lá

vàng. Trong hoàn cảnh ấy, ông giáo không thể là người ngoại sự của anh

em họ Nguyễn được nữa. Nếu ở An Thái, ông giáo chịu sự bảo học của Hai

Nhiều, của những người dân đen cam chịu thì ở Tây Sơn thượng, ông chịu

sự bảo bọc của những người dân đen nổi loạn, khởi nghĩa. Ông trở thành

một thành viên có học của đám dân đen này như là một tất yếu, như là một

khách quan bất khả kháng. Trong suốt chiều dài, tham dự vào mưu việc lớn

của: Nhạc - Lữ - Huệ, ông giáo Hiến đã bị thực tế cuộc sống khép chặt mọi

hy vọng muốn yên thân, cùng với những nỗi đau vì mất mát quá lớn, lại cả

bị xỉ nhục nữa. Nhưng cái " chân đế "trí quân trạch dân"chưa bị xoá trong

62

tâm thức ông. Chỉ cần thay một chữ trong bốn chữ: " trí " thay bằng "phế"

thì mọi vấn đề thuộc mâu thuẫn đã được rũ sạch, song dù đã ở hàng ngũ của

những người "phế quân", ông Giáo vẫn giữ cái chân đế mục nát kia. Ông

chủ trương khởi nghĩa phải lấy việc phò Hoàng tôn. Ông vẫn muốn vực lại

cái chính thể đã làm cho mọi chốn thâm sơn, cùng cốc cũng không có sự

yên ổn trong nghèo đói của lũ dân đen và cho cả chính ông và gia đình chỉ

là do quốc phó Trương Phúc Loan gây nên. Ông chủ trương diệt trừ quốc

phó là nêu cao ý trời. Sống giữa trung tâm cuộc khởi nghĩa - Tây Sơn

thượng, ông giáo vẫn mơ hồ về những biến cố lớn sắp xảy ra nay mai, mà

nơi đây là xuất phát điểm. "Những đêm nằm nghe tiếng bọn trai tráng reo

hò, luyện tập ở khu đất trống cách nhà không xa bao nhiêu, ông giáo thường

hoang mang với vô số câu hỏi. Quanh ông đang có những chuẩn bị rộn rã,

đòi hỏi từng người phải dốc hết sức mình. Dường như cả vạn vật cũng thao

thức, đêm đêm thoát khỏi cái vỏ vô tư, rì rầm khai hội. Nhịp sống nhanh

hơn, nô nức vươn cao quá tầm cho phép của tự nhiên. Ông giáo không thể

đứng ngoài nô nức chung, hơn nữa chính ông góp phần không nhỏ để đẩy

nhanh nhịp sống ấy. Nhiều hôm ông làm việc quên cả thời gian. Lúc ông

nghỉ ngơi, nằm một mình lắng nghe gió thổi bên kia mái lá, những câu hỏi

lại quấy nhiễu ông. Rộn rã chuẩn bị mọi mặt để làm gì đây ? Phải bước đi

đâu nữa?"(trang 216). Ông giáo là người trong cuộc hoàn toàn, chính ông

"cũng góp phần không nhỏ đẩy nhanh nhịp sống ấy", nhịp sống nổi loạn,

khởi nghĩa. Những con người bị dồn vào chân tường của cuộc sống, cái

sống không còn ý nghĩa nữa vì họ có thật là sống đâu: những trái ngang,

đói khát, xiêu giạt, ly gia, ly hương... từ nhiều ngả bất hạnh của cuộc đời mà

xuất phát là ách cường quyền, họ đang tính cuộc đổi đời. Những con người

tụ tập nơi đây,họ không nghĩ xa xôi, không nghĩ nhiều, với họ chỉ đơn giản:

sống hay là chết, sống phải đổi thay bằng hành động. Họ như thứ nhiên liệu

khô, nỏ dễ bắt lửa, dễ bùng lên khi có dịp bén lửa, ngọn lửa ấy bùng lên như

63

thế nào? ai châm lửa ? Đốt cháy duy nhất là cái chính thể đã, đang và sẽ còn

không cho họ con đường sống yên thân trong cái nghèo truyền kiếp. Họ đã

tìm được câu trở lời - họ Nguyễn Tây Sơn là người châm lửa. Ông giáo

đồng cảnh với họ, cùng hội, cùng thuyền với họ, nhưng học dài hơn, "trí

thức" hơn thì vẫn còn mơ hồ, quẩn quanh. Ông không "khô lên" được như

họ, ông khó bén thứ lửa vùng lên như họ. Khao khát cuộc sống bình yên,

khao khát thoát khỏi đói khát và cả tủi nhục và cả sự truy đuổi của cường

quyền, nhưng ông Giáo lại cầu mong sự bình yên ở chính kẻ đã tạo ra, đã

ban cho ông quá nhiều thứ "ân huệ" của sự khốn cùng. Ông muốn phò cái

đỉnh chóp của trật tự vốn từ lâu đã được xây bằng: máu, xương của đồng

loại để mà vinh quang để yên vị "thiên tử", để "thế thiên hành đạo" song

thực tế là đạo chích, đạo cướp ngày. Xây dựng nhân vật ông giáo Hiến với

một tâm trạng "mơ hồ", phải chăng Nguyễn Mộng Giác muốn nhắn nhủ với

bạn đọc: tầng lớp " trí thức" có cái sợ cố hữu là sợ thay đổi, sợ hành động,

sợ đổ máu. Sự đổi thay ví như ngọn lửa thì sự đổi thay bắt đầu bằng một

đốm lửa nhỏ mà muốn thắng lợi phải trả bằng máu. Trí thức cũng ví như

một thứ nhiên liệu nhưng là thứ nhiên liệu ẩm ướt khó bén lửa. Nếu vậy thì

trí thức như là thứ nhiên liệu hạng bét. Trong con người ông giáo Hiến có

khối mâu thuẫn cứ lớn dần và để rồi quẩn quanh, đương nhiên, ông không

giải thoát được, dẫn tới bi cảnh là sự đào thải tất yếu. "Sông Côn mùa lũ"

hay chính là dòng sông đời dâng lũ, nước lũ đời tràn bờ. Mỗi một số phận,

nạn nhân của chính thể chúa Nguyễn là trận mưa đời mà cơn mưa là sự bất

công là những gì cùng nhất quá dễ dãi ban phát từ nơi chúa. Nhiều trận mưa

góp lại thành mùa lũ sông đời, ông giáo chỉ là sự cuốn theo của lũ nguồn

mưa lớn, mưa dài thành mùa lũ. Hiểu biết "trí thức" nhưng ông Giáo do dự,

nhát sợ "... làm gì đây ?", "đi đâu nữa ?" .Thật quẩn quanh ! Chỉ là một bản

lĩnh của một ông giáo Hiến hay là bản lĩnh chung của giai tầng "trí thức"?!

"Làm gì đây ?" , "đi đâu nữa ?"là hiện thân của một sự lừng chừng, nửa vời.

64

cái thứ "bản lĩnh" nham nhở ở ông giáo Hiến nặng căn như một bản chất

"nan di". Ông như người cố tình chậm hiểu . "Làm gì đây" làm cái việc

động trời là nổi loạn là khởi nghĩa, cứu người và thay đời cho chính mình.

Làm cái việc "ăn trộm nước người" để được phong hầu chứ không "ăn trộm

lưỡi câu" để chịu chết chém. Hãy tạo dựng để ban ân cho thiên hạ chứ

không xin sự ban ơn của kẻ khác, "cửa nhà hầu nhân nghĩa thiếu gì đâu ?".

"Đi đâu nữa ?" - đi đến tận cùng, lên đến tột đỉnh của sự thành công, đổi

thay hoàn toàn chính thể mà vị thế của ông chỉ được phép tiến, không còn

đường thoái nữa. Quẩn quanh trong hai câu hỏi nan sự ấy, ông giáo Hiến đã

trở thành nửa vời, cố cựu. Thậm chí, ông có cái nhìn phiến diện về thế cuộc,

áp đặt cả những thiên kiến cá nhân. Khi nghe Nguyễn Nhạc tuyên bố xuống

núi, gióng trống mở cờ, khơi "lũ nguồn" tràn xuống, ông giáo Hiến trong

tâm trạng "Mối hận canh cánh bao năm đột nhiên vùng dậy, khiến mắt ông

giáo hoa. Máu nóng rần rật trong người ông. Dứt khoát không. Ông nhớ đến

cái chết của quan nội hữu Trương Văn Hạnh, bạn ông, nghĩ đến những âm

mưu nhơ nhuốc ở kinh thành. Thật đúng là một cuộc soán vị bỉ ổi." (trang

218). Được tham dự cuộc họp đặc biệt - cuộc họp quyết định khởi nghĩa,

ông giáo trỗi dậy một chủ ý: vừa được trả thù cho người tri kỷ vừa giúp

chúa để sáng đạo chữ thánh hiền. Một hành động rất sách vở, rất Nho học,

phò minh chúa, chết cho tri kỷ - thật đáng mặt sĩ quân tử. "Tâm đắc một ý

niệm", ông giáo hấp tấp nói:

" Lòng dân đều giận tên quốc phó Trương Phúc Loan. Giương cờ diệt

trừ tên loạn thần đó ai mà không mừng rỡ chào đón. Xưa nay những bậc

anh hùng đứng lên, diệt loạn thần, phò minh chúa, sử sách còn ghi cho đến

đời sau"(trang 218). Một chủ ý hành động rất sách vở, khuôn mẫu. Thể hiện

tâm trạng và chủ ý này của ông giáo Hiến, Nguyễn Mộng Giác đã thành

công trong việc thể hiện " tâm trạng trí thức thời loạn "một cách sắc nét và

bản chất. Ông Giáo - tri thức cũng khốn cùng như bất kỳ kẻ khốn cùng nào;

65

cũng khát vọng giản đơn như bất kỳ kẻ ít học nào về sự yên thân; yêu nước

bằng sự chấp nhận thể chế của chính thể, chỉ tin vào chúa, sợ hành động,

ông không dám đập tan cái khuôn mẫu cố cựu, sặc mùi sách vở. Không chỉ

dừng ở diễn tả một tâm trạng, nét bản chất của giai tầng "trí thức", dường

như vượt khỏi không gian, Nguyễn Mộng Giác phê phán tác hại của những

biểu hiện cố cựu, cố chấp thông qua cuộc trao đổi với người học trò yêu -

Nguyễn Huệ. Ông giáo muốn có mái nhà chung vững chắc không để gió thu

tốc mái theo ý thơ của Đỗ Phủ đời Đường chỉ lo " gió thu tốc mái nhà ".

Ngôi nhà lý tưởng ấy là hiện thân của lòng nhân sách vở. Thực tế ngôi nhà

chung ấy đã quá dột nát, hư hỏng lại đang trong tay kẻ khác. Nhà dột, chỉ lũ

dân đen mới ướt lạnh, mới hết chỗ dung thân, còn những kẻ chủ nhân thì có

sao đâu. Sửa sang lại ư? Chắp vá ư? đều là những quyết sách khó thực hiện

được. Chưa kể, ngôi nhà chung dột nát ví như đục nước thì béo cò, quan

tham, lại nhũng cũng nhờ vào những con cò thế cuộc mà yên vị, hưởng lạc.

Thế mà, ông giáo ví tám vị chúa như tám cái cột của ngôi nhà vững chắc -

bát trụ được đặt trên cái nền " đạo Nho giúp cho trung hiếu được phổ biến

đến hang cùng ngõ hẹp, thềm chúa càng thêm vững chắc " ( trang 224 ). Từ

tâm thức có tính bản chất của một giai tầng là " trí thức ", ông giáo Hiến

không thể vượt khỏi " cái ngạch cửa " của thế cuộc. Chính vì thế, ông thảo

hịch khởi nghĩa chỉ vì " giận quốc phó ra lòng bội thượng... ". Cái tầm nhìn

ấy bị dẹp sang một bên. Vì văn vẻ cầu kỳ, lạ hoắc với những người dân đen

hạng cùng, họ đói ăn và đói cả chữ truyền kiếp. Họ chẳng biết quốc phó là

ai, ở đâu và bội thượng với ai. Trước giọng đọc thao thao, bài hịch được

đáp lại " vài đứa trẻ bắt đầu khóc. Mẹ chúng sợ hãi dỗ dành, tiếng lao xao

nổi lên đây đó, rồi dần dà trở thành tiếng ồn ào" (trang 235 ). Trước những

thắng lợi dồn dập như thế của dòng lũ - lũ quét thượng nguồn - Tây Sơn

thượng, ông giáo Hiến như cố tình không thấy được cái thế của dòng lũ mà

chính ông được " mời " tham gia khơi dòng, ông vẫn giữ cái vai trò của

66

người bị cuốn theo. Lũ đã quét sạch hạng tham quan, lại nhũng rác rưởi cả

một vùng rộng lớn. Đáng lẽ phải mừng, phải phấn khích, khơi dòng lũ trào

dâng mãnh liệt hơn, ông giáo lại sợ cái tân tạo sau cơn lũ. Ông buồn rầu,

đau khổ khi người ta đem chúa ra đùa một cách tục tĩu " cái thằng không có

cu" - Hoàng Tôn Dương - Chị Dương. Nghĩ, tâm niệm và làm như ông giáo

thì chẳng khác gì một việc làm kỳ quặc. Ông không hiểu được rằng: lũ tham

quan lại nhũng kia với kẻ được mệnh danh là chúa là hình và bóng, chỉ xoá

bỏ cái bóng thôi thì phỏng có ích gì khi hình vẫn còn. Mâu thuẫn trong con

người ông giáo như thứ bệnh nan y mà căn bệnh đã phát triển thành mãn

tính. Vì lẽ đó, ông cho rằng khát vọng vùng dậy khởi nghĩa của những

người chân lấm, tay bùn ít học chỉ vì cái niêu cơm, họ chưa có dịp được

nhìn xa quá cái niêu cơm ". Ông cho rằng họ thích thú vì "một niêu cơm

đầy", họ phẫn nộ vì "kẻ đập vỡ niêu cơm của họ". Ông không thể nhìn xa

hơn được mặc dù thực tế đã dẫn ông đi rất xa rồi. Vì lẽ đó, ông không hiểu

rằng "với những kẻ vô gia cư, bị đẩy đi lang bạt nơi đầu đường, xó chợ như

đa số anh em nghĩa quân, thì đốt hay không đốt không còn bận tâm. Họ sẽ

tìm một chỗ đất trống, xây hẳn một cái nhà mới". ( trang 374 ).

Tác giả xây dựng nhân vật ông giáo qua tâm trạng, bằng tâm trạng rất

bản chất của tầng lớp tri thức: hiểu biết, cố cựu, sợ hành động, lòng nhân

theo quan niệm " tiền nhân " đối lập với thực tại, để có sự hiện diện của

mâu thuẫn ngày càng tăng. Xem ra, ông giáo sớm muộn sẽ bị dạt sang bên

lề của dòng lũ, đào thải tất nhiên của lịch sử. Nguyễn Mộng Giác đã thế sự

hoá thành công nhân vật này và còn tiếp tục xây dựng để đặt dấu chấm hết

cho vai trò của ông giáo đối với sự đổi thay toàn diện của trật tự mới đối

với trật tự cũ, của chính thể mới với chính thể cũ. Đồng thời, tác giả dường

như cũng muốn làm sáng lên cái tất yếu của quy luật: Bánh xe lịch sử đã

vận hành, nếu không cuốn theo mà lừng chừng thì không tránh khỏi sự đào

thải, cản đường tất sẽ bị nghiền nát. Đối thoại với lịch sử để bộc lộ, nhìn

67

nhận về "trí thức" như thế, nếu không đồng thuận thì độc giả cũng ít tìm ra

cái cớ để chê bai. Dấu hiệu ông giáo Hiến là hiện thân của cố cựu, của trí

thức bị xô dạt sang lề của lũ sông Côn lịch sử, bị đào thải khỏi đội ngũ của

những người khơi nguồn, nắn dòng lũ, tác giả thể hiện qua một đoạn văn

giàu chất thơ, giàu chất "ý tại ngôn ngoại". Đó là cảnh trời đêm, một màn

đêm yên tĩnh trong chiến tranh không có nghĩa là bình yên mà nó như trời

ngưng gió để rồi gió sẽ thổi những trận cuồng phong. Trong màn đêm ấy,

hai thầy trò đi bên nhau (ông giáo - Huệ). Ông giáo thi vị hoá những đêm

canh lúa vì nạn đói " ông nhớ lại những đêm hai thầy trò ngồi canh lúa, bên

con cúi rơm leo lét giữa khuya, chung quanh là đồng mênh mông và gió se

lạnh. Ông tiếc bao nhiêu, những đêm tâm sự ấy. Hai thầy trò cùng ngồi

trong bóng tối, run cầm cập trước gió lạnh , ngửi mùi khói rơm pha lẫn mùi

bùn, mùi rạ mới... lúc đó lòng ông giáo ấm áp, vì chẳng những ông còn cảm

thấy an toàn về vị trí nhà Nho của mình mà còn tìm được một tâm hồn bè

bạn thân ái" (trang 376). Một thực tế trong quá khứ, canh lúa đêm vì nạn

đói tràn lan mà khi hồi tưởng, ông thấy luyến nhớ, thấy ấm áp giản đơn

trong tình thầy trò. Xem ra, nhân vật ông giáo còn là con người thiếu thực

tế bên cạnh bao nhiêu cái căn bệnh khác của trí thức (đã nêu ở trên). Đi

trong đêm yên tĩnh của chiến tranh, học trò Huệ soi đường cho thầy bằng

ngọn đuốc, hình ảnh thật thơ "Họ đang đi tới. Điều oái oăm là trong cuộc

đăng trình này, chân ông giáo đã mỏi. Người cầm đuốc soi giùm đường cho

ông tối nay chính là đứa học trò thân yêu". (trang 376). Ông giáo đã già hay

chính những gì đằng sau hình hài xương thịt ông đã già, già từ lâu rồi. Ngọn

đuốc kia đâu chỉ là ánh sáng theo nghĩa đuốc thông thường. Nó là ánh sáng

của ngọn đuốc phi vật thể, ánh sáng của con đường phía trước là sự đổi

thay, tân tạo. Những chỗ lầy trên đường cái hay chính là cái chỗ lầy trong

nhận thức mà ông giáo đã già về con người tinh thần không dễ gì vượt qua

được - sách vở và rất nhiều thứ bệnh thâm căn cố đế của trí thức. Ông giáo

68

Hiến là tác giả của "phò Hoàng Tôn Dương", đồng thời là nạn nhân của

chính "con đẻ tinh thần" ấy". Ông giáo không được mời lên hỏi han gì nữa"

(trang 476). "Ông giáo tìm đến Đường Thi, sách Phật - tiếng thở dài, xả hơi.

Điều đó nhắc nhở ông thấy rằng, tận chiều sâu của cuộc đời ông, đã có một

khúc quanh quan trọng trùng hợp với khúc quanh của lịch sử đất nước. Với

đôi chút nuối tiếc ngỡ ngàng, ông bắt đầu một cảm thức mới" (trang 476).

Thân thể già nua là quy luật nghiệt ngã của thời gian, già nua bởi mớ kiến

thức sách vở vốn đã quá xưa cũ lại không ngộ ra thì không hoàn toàn là

khách quan. Ông giáo bị loại khỏi vòng xoáy của thế cuộc là sự hợp lại của

cả hai cái già nua trên - thể xác và con người tinh thần. Nhân vật ông giáo

Hiến là phương tiện trọng yếu trong phát ngôn của tác giả về " trí thức thời

loạn " và gửi gắm tâm trạng của mình một phần trong tác phẩm. Cái dằn vặt

của ông giáo Hiến, cái mâu thuẫn trong nội tâm là sự bất cập giữa nhận thức

sách vở với thực tế, giữa hành động và vị thế của ông trong mùa lũ sông

Côn. Dù không đi đến tận cùng với mùa lũ đời để cùng với những người

khơi mùa lũ từ mưa đời, ông giáo Hiến là con người thất bại dễ cảm thông.

Ông chỉ có một sai lầm duy nhất là yêu kiếp người khốn cùng, thương cho

chính mình nhưng không đủ cam đảm để yêu theo đúng nghĩa. Ông không

dám thương đúng nghĩa, là đoạt lại cuộc sống từ chính những kẻ mà sách

vở đã thiên tử hoá, trật tự hoá. Cái thất bại ở ông giáo Hiến là thất bại của

sách vở với hiện tại, thế cuộc; giữa lòng "trung" và lòng "nhân" không hợp

thời. Là một thức giả, ông giáo Hiến ngộ ra và chấp thuận thực tại không

đến nỗi vật vã. Vì ở ông, những tham vọng cho mình không lớn, không

chụp giật như nhân vật Chỉnh (Nguyễn Hữu Chỉnh) "Tư Mã Thiên phát

biểu trong lúc tuyệt vọng phẫn chí, nghĩa là vẫn tin ở điều tối thiện nhưng

đau đớn vì chưa đạt tới được. Ngược lại, ông cống Chỉnh xem tất cả chỉ là

phương tiện để tư lợi và phủ lên sự thấp hèn ích kỷ ấy lớp khói thuyết lý"

(trang 533 - lời trò chuyện giữa ông giáo và Huệ). Sự thất bại, bị loại khỏi

69

vòng xoáy của thế cuộc, ông giáo Hiến chấp nhận thất bại trong danh dự -

tin vào "điều tối thiện" không phải ông thổ lộ mà lại chính là học trò ông -

Nguyễn Huệ nói ra và khẳng định. Cái an ủi đối với ông giáo, khiến ông

thanh thản đó là sự hiểu ông của người học trò, người bạn nhỏ mà vai trò

lịch sử là đại diện của một thế hệ. Ba hạng người đáng lên án muôn thuở đó

là bọn đầu trộm đuôi cướp vong mạng; bọn cơ hội; bọn cố chấp hẹp hòi.

Trong cái vật vã, đỡ đẻ của một trật tự mới; ông giáo không thuộc ba hạng

người này. Chính Nguyễn Huệ đã khẳng định vừa "minh oan" vừa ghi nhận

vai trò của ông giáo mà thực ra là vai trò của trí thức chân chính nhưng cố

cựu đem cái thiện, cái nhân bất biến để ứng phó với một thực tế vạn biến

sôi động. Ông giáo không thành công nhưng đã thành nhân như một bậc

chính nhân quân tử. Lời Nguyễn Huệ ghi nhận "trước sau gì bọn cơ hội tứ

phương cũng đánh hơi thấy mùi mật ngọt mà bu đến đây như một đàn ruồi.

Chúng còn đông hơn, nguy hiểm hơn bọn đầu trộm đuôi cướp, bọn du thủ,

du thực lâu nay nhan nhản xung quanh ta. Nguy hiểm hơn vì chúng thông

minh hơn bọn đầu trộm đuôi cướp, được việc hơn bọn vong mạng dốt nát,

ngoan ngoãn giỏi nịnh hơn bọn cố chấp hẹp hòi. Khó phân biệt được người

thiện chí và kẻ xu thời cầu cạnh." ( trang 533). Lời Nguyễn Huệ cũng chính

là lời tác giả - đây chính là lời khẳng định, trân trọng quy luật đào thải của

lịch sử đối với giai tầng trí thức đã lỗi thời. Ông Giáo được dùng thì không

thay đổi lòng trung, lòng nhân, không dùng thì chấp nhận "thanh thản" cái

vị thế ngoài lề thế cuộc. "Rồi mọi sự không đến nỗi bi quan như anh nghĩ

đâu. Trên đời lẽ thiện vẫn sáng và phải thắng, những gì buồn khổ, bất như ý

rồi cũng qua đi. Thời gian cuốn hết những thống khổ. Ông trời thật hay: vừa

cho người ta trí nhớ nhưng cũng cho người ta sự quên lãng. Ngày mai thức

dậy, tối hôm nay đã thành một kỷ niệm. Mà kỷ niệm nào cũng phải mờ như

một cái gương cũ" (trang 533). Ông giáo vẫn sáng một chữ "tâm" để thích

ứng với hoàn cảnh mới, dù rằng vẫn có cái gợn của hôm qua, của quá khứ

70

"phần ông giáo thì nửa tháng bận rộn giúp ông quên được những đau đớn

riêng. Ông có cái hăm hở của người vội vã gây dựng một cuộc đời mới sau

một thời gian bỏ phí thì giờ vào những chuyện không đâu" (trang 556).

Những năm tháng cuối đời khi tuổi tác đã ở chặng cuối, ông giáo vẫn bộc lộ

một lòng trung không đổi với nhà chúa; mặc dù vì nó mà ông không đồng

hành tới đích của dòng lũ đời - thất sủng, già nua, ốm đau và cả bị cô lập

nữa. Ông vẫn trông chờ Huệ nương tay với nhà chúa - cái chính thể mà ông

đã hứng chịu không ít những tai ương "tôi còn một điều khó nói nữa, anh

đừng vội chê tôi lẩm cẩm mà tội nghiệp. Tôi biết chuyến này, vào tận chỗ

ẩn náu của dòng họ Nguyễn - Gia - Miêu thế nào máu cũng đổ đầy sông,

đầy rạch của đất Gia Định. Đối với thân thuộc của chúa, đối với chính nhà

chúa, anh nên... "(trang 614). Lũ sông Côn dâng trào, người khơi nguồn lũ

đã đạt tới đích dòng nước ấy - dòng nước đời được sinh sản từ áp bức, bóc

lột, bất công, đói khát, máu và nước mắt, kiếp người bị dồn đến cái tận

cùng: sống không bằng chết đã phá tan cái "nhà cũ" của ông giáo Hiến - nhà

chúa. Người học trò cưng của ông - Nguyễn Huệ không thể làm khác được

bởi gió đã thổi mạnh thành đại cuồng phong - là dòng xoáy "lũ" và bão lốc

của cuộc đời và lịch sử. Cả hai chúa: Duệ Tôn và Tân Chính vương đều bị

bắt và hành quyết tại chùa Kim Chương cách nhau một tháng cùng năm.

Nơi mà lòng trung của ông giáo gửi gắm đã đặt dấu chấm hết, một cuộc tân

tạo bắt đầu, một chính thể mới ra đời. Ngôi nhà mới "trên nền đất trống" -

nói như học trò cưng của ông xuất hiện là một tất yếu của lịch sử. Lòng

trung của ông giáo đã hết nẻo đi về lại thêm vào cái chết của Chinh - con

ông đến với ông đồng thời; khiến ông, cả con người thân xác và con người

của giá trị tinh thần sụp đổ. Ông hô hoán mỉa mai "-Tụi bay khéo chọn chỗ

giết người ! ở chùa Kim Chương! Giết người ngay ở cửa phật ! Rồi tụi bay

vứt xác chúa dưới chân tượng bồ tát phải không ?"! (trang 659). Nghe Lãng

kể về cái chết của Chinh gần như cùng lúc với cái chết của hai chúa "... ông

71

giáo cúi mặt suy nghĩ thật lâu, bàng hoàng, hoang mang giữa yêu ghét,

khâm phục và căm giận." (trang 659). Tình trạng con người đầy đủ của ông

giáo được tác giả "khắc hoạ" tiếp theo trong một trạng thái hoảng loạn,

quẫn trí. Trang viết về hiện trạng này, tác giả thể hiện như một sự tóm lược:

"Những hôm tiếp theo, ông giáo trải qua những tâm trạng phức tạp, kỳ dị"

(trang 659). Rồi thì " chợp mắt được một lúc, tiếng đập ma quái loãng đi thì

lại đến lượt tiếng con vện sủa" (trang 660). Rồi thì "ban đầu ông nghĩ con

chó sủa doạ những đứa trẻ rắn mắt chui vào vườn hái ổi trộm" (trang 660).

Rồi thì "hay ông khách đã trở lại? Mà tại sao trở lại vào lúc đêm hôm và

đứng ngoài đường chứ không gọi cổng ? Ông ta là ai ? Ông ta muốn gì ?"

(trang 660). Rồi thì "Sáng hôm sau, ông giáo trách các con ngủ say quá, đến

nỗi chó sủa thâu đêm mà không ai hay biết gì cả" (trang 660). Rồi thì "Ông

nghi ngờ trí óc mình, hoang mang không hiểu mình đang mê hay tỉnh"

(trang 660). Rồi thì "ông lại nghe tiếng chó sủa y như đêm trước, và đâm sợ

hãi" (trang 660). Rồi thì "càng nghĩ ông giáo càng sợ ! Từ đó về sau, suốt

ngày ông đóng kín cửa nằm trong phòng nghe ngóng từng bước chân, từng

tiếng động nhỏ" (trang 660). Những âm thanh được lĩnh hội từ một trạng

thái hoảng loạn, quẫn trí đến không có thực vì " con vện rượng đực bỏ nhà

đi suốt mấy hôm mà ông giáo vẫn than phiền về tiếng chó sủa !" (trang

661). Tâm trí của ông giáo đang mấp mé giữa đời sống của một con người

và đời sống thực vật " mỗi lần xô cánh cửa hông lên gặp cha, An đều thấy

ông giáo tỏ vẻ lo lắng, hoặc sợ hãi. Phải một lúc lâu, ông mới nhận ra con

gái..." (trang 661). Tuổi tác, ốm đau, bệnh tật, tâm và não tổn thương, ông

giáo sống mê mê, tỉnh tỉnh. Đã đến lúc lẽ sinh tử đặt dấu chấm hết cho một

kiếp người hữu hạn "cuối năm Mậu tuất (1778), ông giáo lịm dần như ngọn

đèn hết dầu. Giữa tháng chạp, ông mất." (trang 729). Ông giáo Hiến, Giáo

Hiến nhân vật của chất tiểu thuyết trong tiểu thuyết lịch sử, con người thuộc

giai tầng trí thức vào cõi vĩnh hằng, sau khi đã không còn lý do gì nữa để

72

tồn tại, khi "mùa lũ" sông Côn vẫn còn dâng nước. Sự ra đi của ông cũng

như sự xuất hiện của ông, Nguyễn Mộng Giác chắc hẳn phải lao động nghệ

thuật vất vả vào bậc nhất đối với nhân vật này. Vì "ý định ban đầu, như thế,

là "viết về tâm trạng trí thức thời loạn" nói chung trong đó có một phần tâm

trạng mình trong những năm nhiều biến chuyển sau tháng tư 1975". (trang

1459 - tác giả trả lời phỏng vấn). Sau khi đọc "tất cả các tài liệu lịch sử liên

quan đến thời Tây Sơn", tác giả thấy "Chủ đích ban đầu "là tâm trạng trí

thức thời loạn" trở thành chật hẹp". Tức là mở rộng, lan toả chứ không phải

là bỏ rơi ý định ban đầu. Mặt khác theo lời giới thiệu của Mai Quốc Liên

"Gần đây Nguyễn Mộng Giác và chị Diệu Chi, vợ anh có về thăm quê nhà;

tôi mới gặp lại anh - một người có chất "thầy giáo" hơn tôi nhiều" (trang 8).

Chính chất "thầy giáo" cũng là một yếu tố quan trọng trong hư cấu ông giáo

Hiến trong tác phẩm. Mặt khác nữa, với sự gửi gắm tâm trạng của tác giả,

ông giáo Hiến không chỉ đơn thuần là một nhân vật mà còn đại diện cho

một giai tầng của lịch sử là ông giáo, là trí thức. Cái gì thuộc về ông, của

ông trong tác phẩm không chỉ đơn giản là cụ thể, là cá thể. Nó vượt khỏi

khuôn khổ đó để tạo thành sự đại diện, nó lời phát ngôn về thế sự trong việc

hoàn thiện chất tiểu thuyết, nhân vật tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Mộng

Giác. Nó cũng là việc làm tất yếu của bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khi

thực hiện tái tạo cuộc sống bằng lao động nghệ thuật như là một tiểu hoá

công. Hành trình của ông giáo Hiến trong tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ", ta

có thể chung đúc lại như thế này - sống chết vì bốn chữ: ân, nghĩa, tình, luỵ.

Phải chăng Nguyễn Mộng Giác đã khai thác bốn tiếng này để hoàn thiện

một nhân vật hư cấu. Ông giáo Hiến cũng chỉ như đám dân đen trong quá

trình "vận hành" của quyền lực. Từ dấy nghiệp đến xưng vương của một thế

chế, quyền lực sử dụng ông Giáo như một phương tiện, cần thì dùng không

cần loại bỏ không thương tiếc. Suốt chiều dài chặng đường của buổi ban

đầu dấy nghiệp, ông giáo vì luỵ mà theo: Nhạc, Lữ, Huệ lên Tây Sơn

73

thượng. Cái luỵ nhờ vả, cái luỵ liên luỵ khiến ông giáo bị cuốn theo như

một lẽ tất nhiên. Ngay từ buổi đầu, ông giáo tham chính trong cuộc khởi

nghĩa như một vị "quân sư" không chính thức: cần thì "được đến" hỏi,

không cần không"được đến". ở vị thế quyền lực, Nguyễn Nhạc đã sử dụng

ông giáo một cách tuỳ tiện vô lối ngay từ buổi đầu. Khốn khổ thay bậc trí

giả, vốn rộng lượng vị tha cứ đem: Cái ân, cái nghĩa, cái tình mà đối nhân

xử thế, càng nặng căn, bền cội hơn, khi xét thấy mình đối với người từng

phải luỵ (nhờ vả). Ông giáo bị loại khỏi "cuộc chơi" quyền lực đơn giản

như lẽ đời vốn có - mưu sự hiến kế không thành - bị nghi ngờ là kẻ phản bội

- đêm hôm khuya khoắt bị cho người đến "hỏi thăm" như luật giang hồ. Rồi

"mấy lúc gần đây thấy sức khoẻ thầy sa sút, tôi áy náy lắm. Có lẽ thầy nên

tĩnh dưỡng một thời gian, gác hết mọi lo nghĩ."(trang 475). Rũ bỏ một cách

không thương tiếc, Nguyễn Nhạc lại "bọc nhung" bằng lời nói vì sức khoẻ

thầy "sa sút" vì"áy náy". Thật là giả dối, thật là đạo đức giả - kẻ đại diện

cao nhất của "quyền lực" vẫn thường vậy sao? Bao nhiêu công lao, bao

nhiêu ân nghĩa tình luỵ (liên luỵ), ông Giáo chỉ nhận được " thầy lấy tạm

hộp nhân sâm này về dùng. Loại sâm quý của Tàu đấy"( trang 475 ). Như là

một sự trả công bỉ ổi. Trời ! Một hộp sâm quý của Tàu có giá trị lớn như

vậy sao ! Gớm thay quyền lực trong tay Nguyễn Nhạc ! Một hộp sâm cắt

đứt, một hộp sâm trả công cho người đã khai tâm: Lữ, Huệ; trả công cho

người cùng nhen nhóm một nghiệp lớn. Thì ra, với quyền lực Nguyễn Nhạc

hạ một bài tính đem lại lợi nhuận lớn nhất! Tối ưu nhất ! Hơn cả những nhà

kinh tế học! Quyền lực với Nguyễn Nhạc đã tạo ra cái vô lối trong sử dụng

con người cả tâm và lực đối với trí giả. Là nạn nhân, ông giáo Hiến đem cái

sức tàn của tuổi tác, vốn đã yếu vì một thời đèn sách trai trẻ "ông có cái

hăm hở của người vội vã gây dựng một cuộc đời mới, sau một thời gian bỏ

phí thì giờ vào những chuyện không đâu." (đã dẫn). Thật bản lĩnh! Xem

những ngày tháng từng nương cửa vương quyền, có cả công lao ít nhiều,

74

ông Giáo trở về với một hộp sâm như là "những chuyện không đâu" đã qua.

Ông giáo Hiến - nhân vật trí thức đáng bậc chính nhân. Ông vào trang sách

dưới mưa nguồn tầm tã, ông ra khỏi trang sách với "thân thể ốm o biến

dạng" thật bình tâm, thật đời thường. Không một di sản vật thể để lại,

không một lời trăng trối, ông Giáo đã để lại một đạo làm thầy và nhân cách

của bậc trí giả: không tư lợi, luôn tin vào sự "tối thiện"; không uốn lưỡi bẻ

cong chân lý sách vở, tri thức như những kẻ xu thời, nịnh thế vẫn làm. Ông

đối với thế cuộc bằng đạo làm người có học và chính học trò đã đối lại với

ông bằng thứ đạo đó. Nguyễn Huệ đến phúng viếng thầy với trang phục còn

đầy bụi đường trận mạc, cử đội tống chung nhà binh đến lo an táng,

khiến..." kẻ tò mò hai bên đường, căn cứ vào quân cách của lễ tang, đoán

non, đoán già đây là tang lễ của một vị tướng nào đó"(trang 732). Phải

chăng, khi xây dựng ông giáo Hiến trong tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác đã

gửi "tâm trạng mình" qua nhân vật này và gửi gắm như thế! Theo tác giả

"các nhân vật lịch sử khác thuộc tầng lớp nho sĩ trí thức đương thời, như

Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Trần Văn Kỷ, Nguyễn Hữu

Chỉnh... tôi đều theo sát các sử liệu để tái hiện họ"(lời cuối sách).Vì lẽ này

mà tuyến nho sĩ thuộc nhân vật lịch sử, chúng tôi không bàn thêm.

*

* *

Để tạo dựng một bình diện thế cuộc, tạo da thịt cho loại hình tiểu

thuyết lịch sử, Nguyễn Mộng Giác còn xây dựng thế sự bằng sự góp mặt

của nhân vật trung gian. Điển hình trong tác phẩm là nhân vật Lợi, con rể

ông giáo Hiến. Nhân vật trung gian được xem là sự thêm yếu tố sinh động,

đầy đủ diện mạo thế sự, chất tiểu thuyết trong tiểu thuyết lịch sử. Hạng

người trung gian là một phần của muôn mặt đời thường, của một thế chế

dần định hình của "Sông Côn mùa lũ". Kiểu người như Lợi đồng hành với

thế chế đó từ ban sơ đến mục ruỗng như một thứ sản phẩm tất yếu. "Lợi tiêu

75

biểu cho mẫu người cơ hội luôn luôn tìm cách lợi dụng các cơ hội lịch sử để

tìm lợi riêng, vừa hữu hiệu đối với mọi thứ chính quyền lại vừa là mầm

mống của sự sụp đổ, ruỗng nát của các chính quyền"( lời của tác giả- lời

cuối sách). Nhân vật Lợi thuộc hạng trung gian cơ hội "tiêu biểu cho mẫu

người cơ hội". Vì thế, nhân vật Lợi được xây dựng trong tác phẩm có tính

cách, sống động, có số phận. Lợi không thuộc hai nét đậm nhất của lịch sử

(thống trị và bị trị,) cũng không thuộc những nét đậm trong tác phẩm theo

chủ ý viết của tác giả: nhân vật lịch sử, tâm trạng trí thức thời loạn, loại

người thấp cổ bé họng, người phụ nữ. Song với sự hiện diện, nhân vật Lợi,

hạng người như Lợi trong tác phẩm đã góp phần không nhỏ tạo nên cuộc

sống thứ hai của lịch sử trong tác phẩm như là nó vốn có. Lợi có cái lợi

khẩu như là trời cho, cùng với sự nhanh nhẹn, cùng với tư cách như đệ tử

ruột của biện Nhạc trong việc buôn nguồn càng là tiền đề cho Lợi - Lê Tấn

Lợi dễ dàng có nhiều điều kiện tiếp xúc với mối lợi trong quá trình vận

hành của sự nghiệp nhà Tây Sơn để kiếm lợi thực sự. Dường như, tác giả

đặt tên cho nhân vật này từ ý định khai thác cái lợi vật chất đối với một

hạng người. Có lẽ cũng vì thế, nhân vật Lợi đã tận dụng những cơ hội: khi

thì như một vận may, khi thì xoay xở để "đón gió". Những mối lợi của Lợi

(sẽ đề cập sau), có lẽ cũng chẳng là gì cả so với những mất mát quá lớn của

một đời người. Theo Tây Sơn dấy nghiệp, Lợi đã để hoạ cho cho cả gia

đình: mẹ, anh chị phải chết một cách oan khốc. Trước khi bị giết "người mẹ

già yếu bị đem ra tra tấn","đến lượt hành hạ cô vợ" của anh; "chỉ cần một

cái phất tay: toàn gia đình bị đâm chết, nhà cửa bị vơ vét hết, sạch sành

sanh trước khi phóng hoả"(trang 212). Ngay từ buổi đầu tham gia dấy

nghiệp lớn với Tây Sơn, Lợi có mối thù quá lớn "tôi không có chỗ nào để

về nữa"(trang 213). Phải chăng, từ gia cảnh này của Lợi mà dù thấy nguyên

dạng của con người cơ hội, người đọc đỡ khinh ghét nhân vật, trái lại ít

nhiều có sự cảm thông khoan hoà. Những mối lợi mà Lợi kiếm chác được,

76

trước hết từ công việc đem lại như là một khách quan, thêm vào đó là sự

hoạt bát, trải nghiệp buôn "từ lâu, việc quản lý chi thu tính toán sổ sách,

xuất nhập kho - nghĩa là trăm nghìn thứ công việc đòi hỏi sự cẩn trọng và

kém hào hứng nhất - được ông Biện giao khoán cho Lữ và Lợi. Dĩ nhiên

Lợi chỉ đóng vai trò phụ tá... Dần dà Lữ chỉ còn cái chức hàm. Mọi việc

quản lý đều ở trong tay Lợi. Từ sợi chỉ cho đến con voi. Nắm giữ quyền

hành quyết định mọi sự, nhưng lại khéo léo giấu mình trong cái vẻ ngoan

ngoãn của thuộc cấp, dành cho cấp cao niềm hãnh diện được quyết định tối

hậu, bằng lòng ở hậu trường cho kẻ khác ra sân khấu, có lẽ bí quyết thành

công của Lợi là ở trong nghệ thuật xảo điệu đó"(trang 214). Xem ra, nhân

vật Lợi là nhân vật cơ hội nhưng là một con người thực tài trong công việc,

đồng thời có nghệ thuật sống, nghệ thuật cơ hội. Nghệ thuật của Lợi không

mang tính phổ biến đối với những kẻ cơ hội thông thường - nhân vật Lợi đã

được điển hình hoá bằng "nghệ thuật cơ hội". Nhân vật Lợi cơ hội và trong

con người ấy hội tụ đủ cái tàn nhẫn, bất lương của hạng tiểu nhân đắc chí.

Sự đã rồi, Lợi không tha thứ cho kẻ buộc phải lựa theo quyền lực mà vô

tình mắc tội. Vợ chồng chú Bẩy Thìn, vì cho quân phủ mượn dây gầu để

trói mẹ Lợi mà trở thành khổ chủ của Lợi. "Từ đó, mỗi lần về Xuân Huề,

Lợi thường ghé thăm nhà chú Bẩy. Số "anh em quen biết ân nghĩa" của Lợi

được dịp chè chén no say"(trang 307). Lợi đã phải trả giá cho lối trả thù tiểu

nhân, luật rừng bằng một bản án "vì dám xúc phạm đến vị chỉ huy khả kính

của mình, vì lơ là trong công tác. Lợi bị truất hết mọi quyền hành, không

được phụ trách quân lương nữa" (trang 313). Cái án được thử thách qua một

tháng "nếu Lợi phục thiện, sửa đổi tính nết", nên với khả năng như sinh ra

để sống chung với cơ hội, Lợi mau chóng được trở lại cương vị cũ. Đối với

Huyền Khê, người đã trực tiếp khiến cho Lợi bị huyền chức, Lợi sớm ngọt

ngào thân tình như mau quên, như không có gì xảy ra "Bác thấy không, bác

đi chắc cháu không có thì giờ để ăn nữa. Đầu tắt mặt tối, quần áo lấm lem

77

hết. Có dịp về đây liên lạc công việc, bác nhắn tin trước cho cháu đi đón,

bác nhé !"(trang 422). Một buổi xuất kho của Lợi trôi chảy, toan tính; vừa

nói chuyện với Huyền Khê - kẻ thù của mình, vừa làm việc, thể hiện Lợi

năng lực, năng động. Lợi được cả tình với Huyền Khê là sự giấu mình,

được cả vật chất "gạo loại nhì hết rồi à ? Không, loại nhất giành riêng đó.

Lấy gạo đỏ phát cho họ. Nhớ đừng đong già, hụt kho không lấy gì mà

bù..."(trang 421). Gạo kém, cân non, Lợi xà xẻo khẩu phần và chất lượng để

kiếm lợi. Xuất tám mươi bao muối thiếu hẳn hai mươi bao, bớt hẳn một

phần tư số lượng cần giao

"- Sao lại thiếu hai chục bao muối ?

Lợi cười đáp :

- Bác cứ chở bấy nhiêu, về ông ấy hiểu liền" (Lời thoại giữa Lợi và

người lính già lĩnh muối trang 422). Lợi móc nối, với tay đến tận cơ sở để

kiếm lợi một cách kín kẽ. Trong công việc, Lợi toan tính trục lợi. Trong đời

sống riêng tư, Lợi biết chiều lòng người đẹp An: Hai mươi quan vay cho

Chinh, tặng an cái chén đồ sứ giang Tây chỉ có thể mua được ở các thuyền

buôn Hội An thôi. Vay hộ và chu cấp cho Chinh (anh An), Lợi làm vừa

lòng người đẹp một cách khéo léo. Công danh và đời tư, Lợi được toại

nguyện: kiếm chác xuôn xẻ, cưới An theo sắp xếp của Nhạc. Song đi đêm

lắm tất gặp ma, Lợi bị tống ngục vì cạnh tranh mối lợi buôn gạo và bị tố

giác, nhưng sự maymắn mỉm cười với Lợi. Một phần do An nhờ vả Huệ

vừa "Lợi được giải thoát một phần nhờ cơn sốt đoàn kết ấy", cơn sốt mà

vua Thái Đức Nguyễn Nhạc muốn trấn an tình hình ở Quy Nhơn, sau một

loạt những biến động lớn. Lợi giảo hoạt trong công việc để kiếm lợi như

vận may, rồi gặp hoạ. Song vừa thoát nạn, Lợi như kẻ say tiền, săn tiền và

biết xoay sở để săn tiền. Qua việc trò chuyện với Chỉnh, phái bộ của chúa

Trịnh, tầm mắt của Lợi được mở rộng. Những mối lợi lớn hơn còn đang ở

phía trước. Phải lựa chiều gió thì mối lợi lớn mới có được: dàn hoà với Bùi

78

Văn Nhật, kết thân với Nguyễn Huệ mà cầu nối là An "Cái gì mà thấp phẩm

giá! Giữa gia đình ta với gia đình anh Huệ, giữa em với vợ anh Huệ, có phải

hoàn toàn xa lạ đâu mà giữ gìn khách sáo"( trang 806). Làm quen, thân với

Chỉnh, tin và theo lời khuyên của Chỉnh, Lợi đã tiếp cận được cơ hội mới

trong một tương lai gần "Lợi gật đầu, đôi mắt ngước nhìn Chỉnh biết

ơn"(trang 824). Con người cơ hội của Lợi được "khai tâm" bởi bậc thầy

"túc trí đa mưu" - Nguyễn Hữu Chỉnh. Từ kiếm lợi cụ thể, vặt vãnh, Lợi đã

được trang bị tầm nhìn, len lỏi trong chính trường kiếm lợi lớn hơn và leo

cao hơn. Lợi sử dụng tối đa mọi mối quan hệ, đặc biệt với Huệ - con người

đang dần trở thành tâm điểm của sự nghiệp nhà Nguyễn Tây Sơn. Bước

đầu, Lợi đã gặp may hay đúng hơn là hành động "đón gió" của Lợi đã gặp

đúng luồng gió. Lợi được giao nhiệm vụ ra Phú Xuân chia rẽ nội bộ địch,

dọn đường cho chiến dịch "vượt đèo Hải Vân". Đón đúng hướng gió, Lợi

được theo dòng thần tốc của đoàn quân Tây Sơn Bắc tiến vào kinh thành

Thăng Long. Lợi xả hơi trác táng cô đầu, nhà trò ở chốn kinh kỳ ngàn năm

văn hiến. Lợi đắc chí, thưởng thức thành quả, tự thưởng cho mình với tâm

trạng của kẻ gặp thời, "Lợi hứng chí rót đầy một chén rượu đến mời nàng...

càng uống da thịt nàng hồng và cái nhìn càng long lanh một vẻ thách đố

khinh bạc. Lợi van vỉ hỏi tên..."(trang 1029). Trở về Phú Xuân sau cuộc rút

lui về Nam đột ngột của Tây Sơn, Lợi ở một cương vị mới. Để tránh sự

trừng phạt của Nhạc với gia đình tướng lĩnh đã theo Huệ vượt lệnh Bắc tiến,

gia đình Lợi đoàn tụ ở Phú Xuân trong cảnh sang trọng. Đây là kết quả của

lý thuyết cơ hội bậc thầy mà Chỉnh đã hướng đạo cho Lợi, kết hợp với sở

trường, kinh nghiệm. "Lợi ở trong ngôi nhà ngói trước đây là tư dinh của

quan tả ngoại Trương Phúc Loan. Thời họ Trịnh chiến Phú Xuân, ngôi nhà

này dành cho viên phó đốc thị ở. Do đó, sự sang trọng đã vượt quá dự

tưởng của An"(trang 1114). Đi xa hơn, Lợi nhờ Lãng "nhắc nhở Chính Bình

Vương hợp thức hoá chức vụ của Lợi ở Bộ Hộ"(trang 1157). Từ một Lợi cơ

79

hội xà xẻo, bớt xén, gian lận trong cấp quân lương... Lợi đã chen chân và có

chỗ đứng trong chính trường. Một vị thế mới và những hiểm hoạ mới. Nếu

như trước đây chỉ là sự "xúc phạm tới vị chỉ huy khả kính của mình" và "lơ

là trong công tác", là tội biển thủ khi lo cấp lương cho việc xây thành; giờ

đây, Lợi bị khép vào tội mưu phản vì chính trường cũng như chiến trường(

Lợi bị tống giam vì tranh mối với Bùi đắc Tuyên và bị Tuyên vu khống

mưu phản). Nhờ An vận động, gặp Huệ xin, Lợi thoát nạn. Một lần nữa, lối

sống cơ hội của Lợi phải trả giá: lần trước chỉ một tháng, lần sau thoát nạn

một phần gặp may nhờ vận động và cả chủ trương đoàn kết, lần này cơ may

lại mỉm cười với Lợi. Có lẽ bởi chính sự rung động một thời An Thái còn

dư ba mà Huệ đã tha Lợi theo thỉnh cầu của An. Hạng người cơ hội ví như

đàn cá ăn nổi nhạy bén với thời cuộc, song một khi thời cuộc gợn sóng ví

như chà đã rung, cá nhảy loạn. Được thả song Lợi mất hết tất cả. Từ việc

"mưu phản" là sự vu khống, Lợi đã thành con người làm phản với ý định

trốn vào Gia Định theo Nguyễn ánh. Việc không thành bởi lời khuyên của

An mà cũng chính là ý định của tác giả sắp sửa hạ một dấu chấm sang dòng

cho nhân vật này, rút nhân vật khỏi cuộc chơi thế sự trong tác phẩm. Lợi

tham gia đốt kho thóc giữa lúc nước sôi lửa bỏng nhất - Huệ chuẩn bị lên

ngôi đế, chuẩn bị Bắc phạt quân Thanh. Lợi mắc trọng tội, không gì còn

cứu vãn được. Lợi bị hành quyết - khép lại cuộc đời, thân phận của một

nhân vật cơ hội điển hình. Số phận của những kẻ cơ hội không nằm ngoài

quy luật vốn ngặt ngòi và công bằng của lẽ đời " sinh nghệ, tử nghệ ", đi

đêm có ngày gặp ma. Từng bước đi, từng bước thăng trầm của nhân vật

Lợi, Nguyễn Mộng Giác thể hiện hợp lý, đặt vào sự kiện lịch sử để cá tính

hoá, điển hình hoá nhân vật. Vì thế Lợi không chỉ là một nhân vật, một con

người mà là một hạng người- hạng người cơ hội mà Lợi là những gì tụ hội

từ họ. Lợi bị hành quyết hay chính hạng người cơ hội bị hành quyết. Lợi bị

trừng phạt bởi tội danh làm phản hay chính cơ hội trong tay những kẻ cơ

80

hội làm phản với thể chế. Bọn cơ hội chen chân vào chính trường một cách

đắc chí, đắc ý là mầm hoạ, là sự mục ruỗng của thể chế đó,. Việc loại Lợi,

thể hiện sức mạnh đang đi lên của phong trào Tây Sơn dưới điều hành của

Nguyễn Huệ. Tác giả xây dựng nhân vật trung gian thành công, góp phần

thành công không nhỏ cho tác phẩm. Nhất là nhân vật trung gian không tẻ

nhạt, nhân vật trung gian cá tính như Lợi làm cho tác phẩm thêm sức cuốn

hút. Nhân vật Lợi ở vị thế trung gian theo nghĩa đầy đủ nhất: sự tham gia

vào sự kiện lịch sử, sự có mặt trong gia đình ông giáo Hiến với tư cách là

con rể. Đồng thời như trên đã nói, nhân vật Lợi được đặt tên theo đúng với

tinh thần của hạng cơ hội, có tác dụng làm mờ đi những nhân vật trung gian

khác trong thiên truyện. Kiên, Lãng (hai con ông giáo Hiến) có thể xem là

nhân vật trung gian bị cuốn theo dòng lũ sông Côn. Song hai con người này,

không lựa theo chiều lũ để kiếm lợi. Kiên như sinh ra để chịu những ngang

trái ở đời. Vì hoàn cảnh gia đình neo bấn, chưa hồi sức sau cuộc trốn chạy

từ Phú Xuân vào, bà giáo Hiến qua đời, công việc phục hoá gò Miễu còn

dang dở; ông giáo muốn hoãn lại việc của Kiên - đi lính. Kiên buộc phải lên

nương nhờ Tân Sơn thượng. Bản tính chu đáo, chân thật và mẫn cán trong

công việc, Kiên bị hành hung, may nhờ Chinh và Mẫm giải cứu. Trở về An

Thái, Kiên bị bắt lính, song bị giam trong nhà lao như một con tin sáng giá

vì Kiên là con ông giáo Hiến - người được anh em nhà Tây Sơn đặc biệt là

Nguyễn Huệ nể trọng. Giải phóng Quy Nhơn, Kiên được giải thoát, viên cai

cơ bị giết. Vì sự biệt đãi của gia đình viên cai cơ với Kiên trong những

ngày bị giam cầm, Kiên cưu mang mẹ con người đàn bà goá bụa. Kiên được

làm việc ở bộ phận quân lương, cơ hội biển thủ, làm giàu trong tầm tay

nhưng Kiên phụ giúp bán hàng cho người vợ không chính thức. Thời gian

rỗi rãi, Kiên tìm đến thuyết lý "vạn vật đồng nhất thể", việc làm của Kiên

thể hiện thái độ sống: xa lánh hiện thực, sống giữa đời mà đang trốn đời.

Kiên tìm cách riêng để cứu rỗi linh hồn trong dòng lũ đời sông Côn đang

81

mùa dâng ào ạt. Cha thất sủng, Kiên bị loại khỏi cỗ máy vận hành trong tay

Nguyễn Nhạc. Kiên chấp nhận thực tại và trở thành " đạo sĩ " có uy tín với

dân chúng Quy Nhơn. Sự yên phận của Kiên trong hai tiếng " ông đạo " ít

nhiều cũng có tác dụng làm dịu đi những bất hạnh của những bà mẹ, những

người vợ lính theo Nguyễn Huệ Bắc tiến bị Nguyễn Nhạc kết tội là " quân

phản bội " và trở thành liên lụy. Kiên đã an ủi họ " bằng những lời an ủi nhỏ

nhẹ đều đều như lời ru, hoặc những ví dụ đơn giản và cụ thể, Kiên giúp cho

họ thấy: họ không phải là kẻ độc nhất chịu đựng hết nỗi khổ cực rủi ro trên

đời, sự tạm bợ của tất cả nỗi vui buồn sướng khổ nếu so với thứ hạnh phúc

vĩnh hằng đích thực.... " (trang 1169). Sống tự cứu rỗi mình và cứu rỗi

những người dân bất hạnh, Kiên cũng chẳng được yên thân mãi. Liệu,

người nhà viên cai cơ từ Gia Định ra, đến ở chung với việc làm reo rắc

những lời " Sấm " nhằm do thám, dọn đường cho Nguyễn ánh. Sợ bị lôi

cuốn vào cái việc tạo phản tầy đình, Kiên trốn lên An Thái lập am nhưng

rồi cũng bị bắt. Nguyễn Lữ đã xin để Kiên được tha tội chết và trở thành

ông đạo ở đất An Thái heo hút, lánh đời. Trước em gái - An, Kiên thú thật

về việc " lừa đảo của mình " (lời tác giả- lời cuối sách). Nhân vật kiên -

trung gian mờ nhạt trong "Sông côn mùa lũ ", nhân vật bị cuốn theo song

không lựa theo dòng chảy kiếm lợi, sớm nhận ra oan khốc của cuộc chiến,

chấp nhận tất cả để yên thân. Nhân vật xuất hiện trong tác phẩm với mức độ

khiêm tốn (chương 10, 12, 24, 26, 53, 74, 79, và 98). Mờ nhạt, nhân vật

Kiên đi suốt dọc chiều dài 101 chương của tác phẩm như sự lướt qua. Đi

qua mùa lũ sông Côn, gia đình ông giáo Hiến tan tác chỉ còn lại Kiên độc

thân và An goá bụa.

Để xây dựng nhân vật Lợi - điển hình hoá trong nghệ thuật cơ hội

thuộc tầng lớp trung gian, bên cạnh xây dựng Lợi đầy đủ cá tính, Nguyễn

Mộng Giác còn làm nền cho nhân vật này bằng đối ảnh không chỉ với Kiên

mà còn cả Lãng ( hai con ông giáo Hiến ). Nhân vật Lãng dự cuộc chơi

82

chính trường với anh em họ Nguyễn Tây Sơn có pha chút nghệ sĩ. Lãng

theo Nguyễn Huệ với tư cách ghi nhật ký - chức danh "sử quan" không

chính thức thiên về miêu tả. Lãng thầm yêu Thọ Hương với tình yêu một

phía, câm lặng. Lãng yêu cô Cúc con gái Trần Văn Kỷ - thầy đồ được Huệ

tin dùng, thì được biết Cúc mắc bệnh nan y. Lãng làm phụ trách giáo

phường diễn vè chàng Lía bị khước từ. Thất sủng, Lãng sống buông thả với

người đàn bà goá hồi xuân đầy tai tiếng. Lãng tìm đến chùa Hà Trung học

kinh Phật, mê phong lan. Chiếu khuyến nông vừa thắp lên niềm an ủi với kẻ

bị đào thải không thương tiếc đã vụt tắt vì Lãng không còn đường về nữa.

Quê ư?" Vĩ Dạ Thượng " hay " An Thái "? Chiếu khuyến nông đã khép lại

đường sống yên thân của Lãng. Lãng tìm đến cửa thiền và mất hút trong

rừng già với một thông điệp để lại đi " tìm loại mặc lan hoa đen, bảo đó là

huyền thoại chưa chắc đã có thật. Anh giấu không muốn ai biết mình đi tìm

Lan Hồ Điệp " ( trang 1436 ). Nhân vật Lãng trung gian là nạn nhân của

cuộc chơi chính trường. Lãng từng vào Nam ra Bắc, từng được hưởng niềm

vui chiến thắng của cục diện dấy nghiệp. Rồi trở thành nạn nhân của " chiếu

khuyến nông " phát ra từ thể chế mà chính Lãng đã có công không nhỏ.

Lãng lữ hành trong thiên truyện như một lãng tử nhất là sự mất hút ở phần

kết từ (chương 100). Thế sự hoá lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đã tạo nên một

gương mặt của đời sống thường nhật. Đây là nét thành công lớn của tác

phẩm. Nhân vật trung gian mà phân loại, mà điển hình hoá, mà có đối ảnh,

điểm này Nguyễn Mộng Giác đã không viết như người khác đã viết.

*

* *

Hai nhân vật Kiên, Lãng là đại diện cho hạng "thấp cổ bé miệng"có

cơ hội trở thành nhân vật trung gian song với cái gốc "tính bản thiện",

không lựa chiều xoay sở nên kết cục chẳng khá hơn những nạn nhân khốn

cùng của cơn lũ - hạng dân đen rên xiết dưới thể chế nhà Nguyễn vì thuế, vì

83

lính, vì phu. Cuộc khởi nghĩa nổi lên những mong có cuộc đổi đời song

thực chất họ bị lợi dụng như một công cụ tranh giành quyền bính. Hình ảnh

"dân đen" trong tác phẩm được nhắc đến như là sự chuyển tiếp, tiếp nối đã

tạo nên tiếng nói lên án, tiếng nói nhân đạo của tác phẩm. Đám "dân đen" là

cái nền để tác giả thể hiện một cách nổi bật một hình ảnh "dân đen" mang

tính chất nhân đạo cao nhất - người phụ nữ. Nhìn một cách đại quát, hình

tượng người phụ nữ trong tác phẩm, dường như tác giả xây dựng với dụng

ý: ba thế hệ kế tiếp nhau - Bà giáo Hiến - An - Thái. Bà giáo Hiến như là sự

hiện hữu của một thời đã thành quá khứ, hiện tại cuộc sống của cô An goá

bụa, một tương lai của Thái là kết thúc mở của cuốn truyện như là một tất

yếu - điểm dừng của tác giả trong chọn thời điểm lịch sử. Cái đã qua là hình

ảnh bà giáo Hiến. Xuất thân cô hàng cơm hến, sánh duyên với thầy đồ tiếng

có miếng không, bà giáo Hiến vào trang sách bình dị không tên, đúng hơn

là tên chồng với nghề nghiệp của chồng. Với thiên chức làm mẹ, bà sinh

cho ông giáo tới bốn nam: Kiên, Chinh, Lãng, út và một gái: An. Với vị thế

của người vợ, bà đã ghé vai cùng chồng nuôi con tần tảo bằng gánh hàng

cơm. Bà là cứu tinh của ông giáo trước hoạ liên luỵ vì tình thâm với ý đức

hầu Trương Văn Hạnh. Bà là người vạch đường đi, chỉ điểm đến cho cuộc

trốn khỏi Phú Xuân của ông giáo và toàn thể gia đình. Ông giáo Hiến có nơi

ẩn nấp an toàn nhất là trái tim yêu thương của người vợ hiền, đảm đang.

Trên con đường xuôi Nam, điểm dừng chân có địa danh An Thái, nơi chưa

một lần, bà giáo ghé thăm, chưa một lần bà gặp mặt người anh cùng cha.

Nhưng ở nơi ấy có một niềm tin ở tình người, ở tình huyết thống. Niềm tin

ấy không bao giờ nhầm lẫn và sai lạc. Gia đình ông giáo Hiến được gia đình

Hai Nhiều đón tiếp không "tay bắt mặt mừng" có lý do nhất định "Phải

thông cảm cho vợ chồng Hai Nhiều, nếu họ không tiếp đón gia đình ông

giáo một cách nồng hậu, niềm nở hơn! Từ lâu, họ đã chủ trương nên thu

người lại, thu càng nhỏ càng tốt, lẩn mất trong cái vô danh để được yên ổn

84

mà sống" (trang 52). Dừng chân ở An Thái, được vợ chồng Hai Nhiều và bà

con giúp đỡ , gia đình ông giáo đã "cao chạy xa bay" khỏi tai hoạ. Như

hoàn thành sứ mệnh, bệnh bà giáo càng trầm trọng, bà qua đời trong cảnh

chân ướt, chân ráo của chồng con ở nơi đất lạ. Một kiếp người vất vả, một

cái chết vật vã trong bệnh tật "bà gầy xọp nhanh chóng, nằm dán lên cái

chõng tre lót chiếu, không động đậy... Lưng bà giáo nổi sần rồi lở loét phía

thắt lưng." (trang 76). Một kiếp phù sinh ngắn ngủi, bà giáo đổ bệnh trên

đường trốn chạy và qua đời ở đích của chặng đường. Đời người thật vô

nghĩa. Cái nợ đời lẽ thường vẫn còn đang chồng chất: nợ chồng con, nợ

người thân chưa trả, bà giáo đã lìa xa cõi phàm trần, để lại một gánh nợ đời

không nhỏ. Ông giáo oằn lưng mà xoay xở, mà chống đỡ. Phải chăng từ

một cái nhìn cảm thông, nhân đạo, tác giả chọn ngày ra đi của bà giáo trước

lễ vu lan một ngày - 14 tháng 7. Xây dựng nhân vật bà giáo, tác giả đã xây

dựng một kiếp người - người phụ nữ. Bà giáo không còn là một con người

cụ thể mà là đại diện cho một thế hệ với tư cách là mẹ. Bà là nạn nhân tội

nghiệp của những biến loạn thời cuộc. Bà giáo hiện hữu ít ỏi trong "thế sự"

của cả thiên truyện nhưng có lẽ chính bà làm cho người đọc ghi nhận một

nhánh thứ hai của lũ sông Côn. Nhánh một với dụng ý dòng lũ Sông Côn,

dòng lũ vùng lên khởi nghĩa, lớn dậy từ những kiếp ngườibị áp bức, xiêu

bạt... đã cuốn phăng đi cái thể chế Nam - Bắc phân tranh ngót nửa thế kỷ.

Nhánh hai là dòng lũ đời, cuộc đời của những kiếp phù sinh gang tấc luôn

bị quyền lực cồn cào dâng lũ dập vùi những sinh linh tội nghiệp trót được

sinh ra làm người. Đành rằng kiếp người là hư vô "hữu không như thuỷ

nguyệt", song sự hiện hữu của một kiếp người như bà giáo Hiến - người

phụ nữ, người mẹ không khỏi làm cho người đọc xúc động và ghi nhận sự

thành công của tác giả. Đó là cái nhìn nhân đạo, cảm quan nhân đạo. Sự

tỉnh táo của bà được dàn dựng trước giờ vĩnh quyết của tạo hoá, tác giả

dành hẳn cả trang 75 đã đẩy tiếng nói nhân đạo lên một cấp độ cao hơn. Bà

85

giáo nhìn khắp lượt những gương mặt thân thuộc; cố tìm và nhận ra gương

mặt của vợ chồng người anh lần đầu và cũng là lần cuối như là sự tri ân, tin

tưởng, nhờ cậy. Con người bà giáo - bà mẹ, ân nghĩa dồi dào cả lúc chỉ còn

chút xíu hơi thở tàn. Không nói nhiều, song tác giả đã phác hoạ thành công

những nét cơ bản: rõ, đậm về chân dung người mẹ Việt Nam trong một thời

khắc của lịch sử đã đi vào dĩ vãng: tần tảo, đảm đang, hy sinh vì chồng con

và trọn vẹn cái ân nghĩa ở đời. Nhất là dù cuộc sống bị dồn nén, đầy ải, đầy

nước mắt thì cuộc sống vẫn rất đáng yêu, đáng trân trọng. Sự tỉnh táo của bà

giáo hay chính là thái độ ham sống, tình yêu với cuộc sống hay đúng hơn và

sự hy sinh cho chồng con của người phụ nữ, người mẹ Việt Nam. Tình yêu

cuộc sống luôn là điểm khởi phát làm nên sức sống mãnh liệt, diệu kỳ qua

mọi không gian, mọi thời gian. Phải chăng Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng

nhân vật bà giáo Hiến với một dụng ý như vậy.

*

* *

"Tôi rất khâm phục các bà mẹ, bà vợ Việt Nam trong thời loạn. Họ là

cứu tinh thực sự của dân tộc ta" (lời tác giả). Thực ra, lời "tâm sự" của tác

giả trong "thay lời cuối sách" không mới, không lạ; nó chỉ như là lời nhấn

mạnh thêm, khẳng định thêm. Nhưng vì "rất khâm phục", xem "là cứu tinh

thực sự", tác giả đã khơi một nguồn mạch hư cấu để thế sự hoá tiểu thuyết

lịch sử bằng hình tượng người phụ nữ. Chính nguồn mạch này, tác phẩm đã

xây dựng thành công hình tượng người phụ nữ như một truyền kỳ: Bà giáo

Hiến - An - Thái. Ba nhân vật phụ nữ bình dân, thế sự có sự tiếp nối liền

mạch. An vĩnh biệt tuổi thơ đúng hôm bà giáo mất. Thái vĩnh biệt tuổi thơ

vào cái thời điểm mẹ An goá bụa, bươn chải... Dòng lũ đời sông Côn đã

giết chết cái chất người của cô An một thời xuân sắc, một thời yêu và được

yêu để sau mùa lũ chỉ còn lại một cô An thích nghi với lối sống xô bồ, hỗn

tạp ở bến Ván mà cũng chỉ đơn giản: lo miếng cơm manh áo đời thường. Ba

86

nhân vật: Bà giáo Hiến - An - Thái được cấu trúc chặt chẽ, lô gíc nhằm thể

hiện như một quá trình về một hình tượng trọn vẹn, xuyên suốt. Bà giáo

Hiến - mở đầu; An tiếp diễn và Thái ví như một lời kết cho hình tượng phụ

nữ truyền kỳ trong một quá trình. Nhân vật bà giáo Hiến mở đầu một quá

trình đã được đặt dấu chấm hết ở chương 4 (đã trình bày ở trên). Thái là

điểm cuối của quá trình tạo nên một kết thúc mở về hình tượng người phụ

nữ. Cuộc sống tiếp diễn, người phụ nữ không chỉ góp mặt trong cuộc sống

thường nhật mà còn góp mặt trong lịch sử. Nhân vật Thái lại lữ hành và sẽ

lữ hành như thế nào trong thời điểm tiếp theo của cuộc sống, của lịch sử ?

Tạo nên lời tận mà ý bất tận của thiên truyện; tạo nên dư ba của thiên

truyện.

*

* *

Nhân vật An, phần tiếp diễn - trung tâm của một truyền kỳ về hình

tượng người phụ nữ được thể hiện như một quá trình. Không chỉ là trung

tâm của "truyền kỳ" mà còn có một vị trí đặc biệt - xuyên suốt chiều dài bộ

truyện. Nhân vật An trong hệ thống "một dây chuyền khác ở tầm thấp hơn

là mối tình (tưởng tượng) giữa Nguyễn Huệ và cô con gái ông giáo Hiến.

Mối tình đó làm cho câu chuyện được thống nhất, lại qua đó tạo thêm

những mối quan hệ khác làm nền cho bộ truyện" (lời tác giả - thay lời cuối

sách). Là nhân vật hư cấu, An được xây dựng với một đời sống nội tâm,

một tính cách hội tụ những gì thuộc phẩm chất người, phẩn chất phụ nữ

"An là sự tổng hợp kỳ diệu của tất cả mọi thái độ, đại biểu cho vai trò người

phụ nữ trong thời loạn: lãng mạn mà thực tiễn, sức chịu đựng bền bỉ, tháo

vát, sáng suốt trước hoạn nạn. (lời tác giả - thay lời cuối sách). Nhân vật An

có lẽ được xây dựng từ nhiều góc độ cảm quan về người phụ nữ: anh hùng

và giai nhân, người phụ nữ bình dân trước dòng xoáy của lịch sử, người phụ

nữ hồng nhan bạc phận, người chinh phụ, người phụ nữ hy sinh cao nhất

87

cho chồng con... Hẳn vì thế mà "An là tổng hợp kỳ diệu...". Nhân vật An là

trục đỡ cho bộ truyện, đồng thời là bản tình ca trong chất sử thi của "Sông

Côn mùa lũ" là cung bậc cao nhất của tiếng nói nhân đạo, giá trị nhân đạo

"có thể xem cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa là cảm hứng chính trong tiểu

thuyết "Sông Côn mùa lũ"" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn). Bàn về nhân vật

An là bàn về tâm điểm của giá trị nhân đạo, bàn về nhân vật của chất tiểu

thuyết trong bộ truyện, bàn về nhân vật như một trục đỡ tác phẩm, một nhân

vật của lao động nghệ thuật. Sự hiện hữu của An trong "Sông Côn mùa lũ"

như một khách lữ hành, như một chứng nhân lịch sử về quá trình dấy

nghiệp của

nhà Nguyễn Tây Sơn. Có thể ghi nhận sự thành công của Nguyễn Mộng

Giác qua "Sông Côn mùa lũ" ở cả hai phương diện: tiểu thuyết và lịch sử

trong tiểu thuyết lịch sử. ở phương diện tiểu thuyết, nhân vật An được xây

dựng thành công và đậm nét nhất. Theo trật tự thời gian của dòng chảy lịch

sử, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn làm trọn vai trò lịch sử: cáo chung Nam - Bắc

phân tranh ngót nửa thế kỷ, quét sạch quân Thanh ra ngoài bờ cõi, đồng

thời cũng là sự lữ hành của nhân vật An trong bộ truyện. Nguyễn Mộng

Giác đã xây dựng nhân vật An như một đối trọng của cuộc khởi nghĩa Tây

Sơn. Từ Nguyễn Nhạc, ông biện Kiên Thành lên ngôi vua niên hiệu Thái

Đức, tác giả khắc hoạ An từ tuổi vị thành niên đến An - người vợ, An người

mẹ goá bụa nạ dòng. Nguyễn Huệ - tâm điểm của sự nghiệp Tây Sơn, tâm

điểm của lịch sử, đồng thời cũng là tâm điểm của nhân vật lịch sử trong

"Sông Côn mùa lũ" được hư cấu, thế sự hoá gắn với nhân vật An suốt chiều

dài bộ truyện. Với cảm quan "tỉnh táo", Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng

nhân vật An đi suốt mù lũ sông Côn, đi đến tận cùng của bản anh hùng ca,

bản tình ca của chất sử thi, chất tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ". Nhân

vật An "hội tụ", tâm điểm, chứng nhân lịch sử được thể hiện theo trật tự

tuyến tính - thời gian của một đời người. Có thể thấy bên cạnh sự dàn dựng

88

phong trào Tây Sơn từ khởi phát nghiệp lớn đến xưng Vương, xưng Đế của

anh em họ Nguyễn (Nhạc, Lữ, Huệ); nhân vật An được thể hiện trong tác

phẩm như là bằng niên biểu, song tuyến với lịch sử. Đây là nét đặc biệt của

tác phẩm mà cũng là sự thành công của tác giả. Tôn trọng dòng chảy của

lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đặt nhân vật, hư cấu An - trong cuộc chạy tiếp

sức: bà giáo Hiến - An - Thái song song với lịch sử. Nhân vật An không

nhập vào lịch sử. Vì những xuất phát điểm và những ghi nhận ở trên, có lẽ

những lời bàn về nhân vật An phải đặt trong sự song hành của nhân vật với

lịch sử. Nhân vật An - thân phận người phụ nữ được thể hiện bằng: An -

một thiếu niên, An - một thiếu nữ , An- một chinh phụ, An - một mệnh phụ

phu nhân, An - một quả phụ nạ dòng. Tác giả thể hiện và hoàn thiện tính

cách nhân vật qua các mốc thời gian trên. Mỗi một quãng thời gian của một

đời người - nhân vật An, tác giả lại như bồi thêm những nét đậm, riêng biệt

để có một An trọn vẹn một tính cách. Đi suốt mùa lũ sông Côn, từ một An

ngây thơ: yêu và được yêu, đến An - một quả phụ goá bụa. Điều đáng ghi

nhân ở đây là tác giả hoàn thiện tính cách An trong hoàn cảnh sống - hoàn

cảnh lịch sử. Phong trào Tây Sơn đi từ không đến có, đi từ "áo vải cờ đào"

đến dựng nghiệp Vương; tính cách nhân vật An như được "vận hành" trong

vận động này của lịch sử.

*

* *

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã đặt nhân vật An trong dòng chảy của

cảm xúc nghệ thuật mà cũng là dòng chảy của "Sông Côn mùa lũ" chuyển

nghĩa. An cùng cha mẹ, anh em trốn chạy khỏi Phú Xuân, xuôi về phương

Nam - một cuộc trốn chạy hư cấu. Tuổi niên thiếu, An bất hạnh trong cảnh

ly hương. Cuộc trốn chạy dưới màn đêm, trời mưa, đường thuỷ, đường bộ;

qua cảm quan nghệ thuật: màn đêm, trời mưa đều được chuyển nghĩa. Màn

đêm vũ trụ hay chính đêm đời. Trời mưa hay chính là mưa đời, mưa của bất

89

hạnh. An là nạn nhân bé bỏng của đêm đời, mưa đời. Cuộc trốn chạy kết

thúc ở An Thái, một địa danh mang ý nghĩa yên ổn, thái bình. Nếu như tên

đất đồng nhất với thực tại thì An Thái là miền đất hứa của An và gia đình

ông giáo Hiến. Song dù đã ở vị trí địa lý: thâm sơn, cùng cốc; An Thái mà

chẳng yên, chẳng thái bình. Màn đêm đời đã sập xuống, Đời đã mưa tầm tã

đâu bỏ sót một khung trời nào. Chân ướt, chân ráo đến An Thái, bà giáo

Hiến ốm nặng, thiếp đi triền miên, nhà đông miệng ăn, vốn liếng cạn, không

nghề nghiệp, không đất cắm dùi; nguy cơ không chết vì cường quyền của

hoạ liên luỵ thì chết đói đã hiển hiện. Vợ chồng Hai Nhiều, nơi nương tựa

của gia đình ông giáo Hiến cũng chẳng khá giả gì. Trước tình thế nan nguy,

An đã đem tuổi thiếu niên nhập vào dòng lũ đời kiếm sống bằng nghề hàng

xáo. Tuổi vị thành niên trong trắng cả thân xác và tâm hồn - tuổi hoa của

An sớm bị nhuốm màu thương trường: tranh mua, tranh bán, tính toán thiệt,

hơn và cả sự gian lận: đong già, đong non nơi góc chợ. An hay chính là một

thế hệ bị bức tử tuổi hoa bởi đêm đời, mưa đời. Đây là tiếng nói nhân đạo

đậm nét của tác phẩm. Trong khốn khó, hoạn nạn của gia cảnh, An thực sự

là cứu tinh. Cũng trong khốn khó, hoạn nạn, An như nụ hoa đời từ từ hé nở.

Bông hoa đời - An nở trong sự nghiệt ngã của dòng đời như thứ hoa dại với

sắc màu của tạo hoá mà hương thơm thuần khiết trời cho lan toả "Nước da

ửng sáng trên đôi má bầu bĩnh. Cái môi trên mọng. Chỉ trừ đôi mắt buồn

trước tuổi" (trang 101). Mỗi cử chỉ tự nhiên của An là sự làm duyên của cái

gì nguyên thuỷ, trời cho "cái dáng điệu uyển chuyển nhịp nhàng linh động

của An. Từ cách đưa ngón tay út lên vén nhẹ một mảng tóc loà xoà, cho đến

cách đưa lưỡi liếm nhẹ lên môi trên, cách rót một tách nước trà, cách gật

đầu nhận một lời chỉ bảo, tất cả, tất cả đều vừa độ cần thiết. Cử chỉ biểu lộ

sự thân mật dịu dàng, đồng thời cũng giữ riêng cho An một sự bí mật tôn

nghiêm" (trang 101). Xót thay bông hoa đời đẹp dường ấy mà lại nở trong

đêm, đêm của cường quyền; nở trong cái phũ phàng của đời đầy mưa gió.

90

Cái đẹp toát ra từ bông hoa đời - An đã khiến cậu học trò Nguyễn Huệ -

thông tuệ trong tiếp thu kiến thức mỗi lần tiếp xúc đều trở nên vụng dại

"điều ghi dấu đậm sâu vào cảm quan của cậu, khiến cậu gần như sững sờ,

như bất kỳ kẻ "trồng cây si" nào. Lại nữa " cậu đau khổ công nhận giữa cái

đẹp xa lạ ấy và mình có hố cách biệt trang nghiêm; cậu không thể nói gì

thêm, không thể phác một cử chỉ nhỏ, vì bất cứ hành động nào của cậu cũng

trở thành vụng về, thừa thãi trước vẻ đẹp toàn bích ấy. Và lần đầu tiên trong

đời, cậu cảm thấy lúng túng, thất vọng cho sự vụng dại của mình" (trang

101). Sự thông tuệ, dấu hiệu của một thiên tài phải "đau khổ", "không thể

nói gì thêm, không thể phác một cử chỉ nhỏ". nếu có sẽ trở thành "vụng về,

thừa thãi"; để chấp nhận "lúng túng, thất vọng cho sự vụng dại". Xây dựng

nhân vật An, tác giả không dùng nhiều lời miêu tả mà để nhân vật Huệ cảm

nhận về cái đẹp, bộc lộ tâm trạng về cái đẹp. Thông tuệ, dấu hiệu của một

thiên tài không giúp gì cho Huệ truyền tải tiếng nói của con tim. Trái tim

Huệ lên tiếng nói làm mờ năng lực trí tuệ, hay chính vẻ đẹp của An như một

thứ uy lực khiến Huệ dại khờ, tội nghiệp. Thể hiện vẻ đẹp của An, thông

qua tâm trạng nhân vật Huệ, Nguyễn Mộng Giác đã thành công trong sự

bình dân hoá một vẻ đẹp mà vẫn rất đẹp. Đồng thời vẻ đẹp của An qua tâm

trạng của nhân vật Huệ như là sự tri ngộ giữa anh hùng và giai nhân. Người

đẹp An trong tác phẩm là sản phẩm của cảm hứng nhân đạo "có thể xem

cảm hững nhân đạo chủ nghĩa là cảm hứng chính trong tiểu thuyết "Sông

Côn mùa lũ" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn) . Cũng vì thế mà nhân vật An

dường như càng lam lũ kiếm sống nơi góc chợ xóm núi An Thái, càng đẹp

ra. Cái đẹp theo ý nghĩa trọn vẹn để An như điểm đồng quy của hai ngả tình

yêu: Huệ, Lợi. Thời thiếu nữ của An có những quãng ngày hạnh phúc: yêu

và được yêu. Huệ đến với An như là một đối ảnh với Lợi.

Mối tình câm đi suốt mùa lũ sông Côn giữa Huệ và An đẹp như một

tính yêu lý tưởng, vì đây là tình yêu giữa anh hùng và giai nhân. Những tình

91

cảm Huệ dành cho An là tình cảm của một tình yêu cao thượng không cất

thành lời. An đón nhận thứ tình cảm ấy là sự ngưỡng mộ, vươn tới cái tầm

lớn lao của con người anh hùng. An là người đẹp được người anh hùng

ngưỡng mộ. Trở về An Thái sau khi đoàn quân khởi nghĩa đã tràn xuống từ

Tây Sơn Thượng, An xúc động khi hồi hương cùng với sự rung động của

con tim trước tình yêu. Có lẽ tác giả tỉnh táo trước lịch sử mà mối tình

không thể đi xa hơn được. Huệ gặp An sau mỗi lần trận mạc trở về. Mỗi lần

gặp Huệ, An như càng bị đẩy xa hơn trong quan hệ - mối tình câm. Trong

tình cảm Huệ, An không chỉ là hiện thân của cái đẹp có sức cuốn hút bởi bề

ngoài "Cái bếp hơi thấp, nơi có một người con gái mắt sáng, cổ cao và

trắng, mặc chiếc áo có vết rách ở cùi chỏ"(đã dẫn). Sự cuốn hút mộc mạc

thanh khiết toả ra từ nơi An, trong nhãn quan, cảm quan của Huệ nó thuần

khiết, trong trẻo không vướng một tý nhục dục nào. Huệ muốn An không

chỉ đẹp và cuốn hút bởi cái bề ngoài của một giai nhân đã được dân dã hoá

mà còn phải đẹp cả tâm hồn. Huệ tặng An tập thơ Đỗ Phủ - đây là kỷ vật

duy nhất Huệ tặng An để bày tỏ hoài vọng về một mối tình câm. An đón

nhận với sự trân trọng, ngưỡng vọng, "em quý nó lắm chứ. Em đọc mà cứ

sợ bụi bám vào, giở hé rồi cất đi" (đã dẫn). An thật thà, mà có lẽ trái tim

yêu muôn thuở không nói dối, chỉ có kẻ vờ yêu mới dối được, nhưng là cái

dối ở cửa miệng chứ không phải con tim. Với tập thơ Đỗ Phủ, Huệ hoài

vọng, ước mong nó là vật trao duyên, thay lời thì An lại đặt tập thơ vào một

tình huống "Quyển sách đẹp lắm" "Anh biết không, Thọ Hương hỏi em đói

thì đổi được mấy bát gạo

Huệ hơi xẵng

- Rồi cô trả lời sao

An cười đáp

- Em bảo chẳng được bát nào cả" (đã dẫn). Giữa Huệ và An có những

điểm không gặp gỡ, không ăn nhịp trong sự đồng điệu của tâm hồn. Huệ

92

đau khổ vì không có tri kỷ hơn là một tình yêu. Đến ngày An "lên xe hoa",

những tình cảm, những lãng đãng về một tình yêu với Huệ được đặt dấu

chấm hết. An coi Huệ như một người anh, một người bạn, một người có

một thời để nhớ. Những lúc gia đình gặp nguy biến, Huệ là cứu tinh cho gia

đình An. Huệ - An không thành đôi lứa bởi lẽ đời anh hùng nuốt hận vì

thiếu vắng giai nhân và tri kỷ, hay bởi vạch cấm chỉ của lịch sử, hay bởi tại

một nguyên lý câm giữa đời: Cái đẹp, quyền lực luôn hướng tới song không

bao giờ quyền lực có được cái đẹp như một sự sở hữu. Cái đẹp của sự toàn

bích thường bị gió bụi cuộc đời nhuốm bẩn vì thế đời mới thêm những dòng

lệ giai nhân rơi trong đời, rơi trong tác phẩm văn chương. An giữ chừng

mực với Huệ trong quan hệ vợ của kẻ thuộc hạ với thượng cấp. Nhân vật

An đầy tự trọng trong quan hệ với Huệ khi Huệ đã ở ngôi vị Hoàng đế. Mối

tình Huệ - An hay đúng hơn là tình câm giữa hai nhân vật thuộc hai lãnh

địa: tiểu thuyết và lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử như cái nụ hoa không nở

thành hoa được. Mặt khác, nhân vật Huệ, tác giả không chỉ dừng ở mức độ

phản ánh lịch sử thông thường vô cảm mà thêm vào đó sự tôn kính nhân

vật anh hùng lịch sử, nên tình yêu có điểm dừng ở cả hai phía. Huệ tôn

trọng An - người anh hùng tôn trọng giai nhân. Điều này khác hẳn việc sử

dụng An như một phương tiện của nhu cầu chính trị như Nguyễn Nhạc.

Nhạc gần như ép ông giáo Hiến gả An cho Lợi. Việc làm này đem lại cho

Nhạc một việc đạt hơn một mục đích: vừa gia ân cho thuộc hạ, tăng mối

giàng buộc giữa những con người ít nhiều có sự gắn bó, cho thiên hạ thấy

việc làm "nhân nghĩa" cao cả, mặc dù đám cưới như là sự nhân thể trong lễ

đón nhận ấn kiếm của của chúa Trịnh. An bị xem là một phương tiện hữu

hiệu của mục đích chính trị. Có lẽ vì Nguyễn Nhạc "gian hùng nhiều hơn

anh hùng" (lời cuối sách). Thông qua tình yêu Huệ - An, tác giả bày tỏ thiện

cảm với nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ trong quá trình thế sự hoá nhân vật

mà hư cấu như vậy.

93

*

* *

Một "con đường" khác đến với tình yêu của An là Lợi. Bên cạnh một

Nguyễn Huệ thông tuệ, dấu hiệu của anh hùng, vĩ nhân lịch sử là nhân vật

Lợi bình thường - thảo dân theo nghiệp nhà Nguyễn Tây Sơn trở thành nhân

vật trung gian. Giữa Huệ - chàng trai mà An luôn "ngưỡng mộ", thấy mình

không ăn nói rành rẽ "chẳng đâu vào đâu cả", với Lợi - chàng trai mà An

cảm thấy gần gũi như có sự đồng cảm, mặc dù An biết Lợi tầm thường bên

cạnh Huệ. Lợi lấy An là sự hợp lô gíc kết cấu của tác phẩm vì cả hai nhân

vật là sản phẩm của tiểu thuyết, của lao động nghệ thuật. Một kẻ tầm

thường như Lợi nhất là chất người cơ hội, chất người tầm thường, từ săn

đón gia đình An chu đáo, thường xuyên từ tĩn mắm, đến chén sứ Tàu chỉ

mua được ở ngoài cửa Hội . Lợi không ngờ lại được Nhạc tác thành với An

nên vợ nên chồng. Đêm tân hôn với Lợi, An như "đào tiên đã vướng tay

phàm". Tất cả các giác quan của Lợi đều thức tỉnh sự "tham lam" nhất là

đôi tay. An bẽ bàng trong đêm tân hôn trước những cử chỉ xô bồ của Lợi, bẽ

bàng trao sự trong trắng cho Lợi và trao cả cái bí mật kinh nguyệt cho Lợi

nữa. Hạnh phúc chăn gối lùi lại sau đêm tân hôn. An quen dần việc sinh

hoạt chăn gối với Lợi. Một thiếu nữ An thực sự đã chết, thành một An thiếu

phụ, chinh phụ. Lợi lo chuyển quân lương, lo cấp phát nhu yếu phẩm cho

nghĩa binh, không mấy khi có nhà, An vò võ nuôi con một mình. Đứa con

trai đầu lòng của An "thằng bé... nó bị lở khắp mình khóc không ra hơi nữa"

(trang 615), An không phải lo đói ăn vì tài xoay xở của Lợi thì lại lâm vào

cảnh đói ngủ. Vừa nuôi con lại vừa phụng dưỡng cha già, bao nhiêu công

việc không tên trong gia đình đổ lên đầu An. Đã thế, An lại phải làm vừa

lòng lớp quý tộc mới - bầu đoàn thê tử của những con người vừa bước lên

đài vinh quang chiến thắng. Họ học đòi thêu thùa, học đòi trang điểm để

đáng mặt với những chức danh mới: Phu nhân, Công chúa, Hoàng hậu. Một

94

nhóm người thực sự đã được đổi đời. Không kể đến hạng cùng, dưới đáy ,

nhân vật An cũng chỉ được hưởng cái quyền là được nương cửa vương

quyền. Dường như An chỉ được xem như là cái bút tô vẽ cho khuôn mặt

"khả kính" của vợ con thiên tử và những tướng lĩnh. An trở thành một nạn

nhân "êm dịu" của thói đời - học đòi của những kẻ vừa mới hôm qua với An

là đồng cảnh là những nạn nhân của đêm đời, mưa đời. Mới hôm qua, bậc

đấng quý tộc còn là hạng người xiêu bạt cùng hội cùng thuyền với An và

bao người khác nữa. Lịch sử như một dòng sông đời cứ trôi chảy mãi, sự

phân định thứ bậc của con người chỉ trong một gây lát của dòng chảy lịch

sử . Dòng sông Côn đang mùa lũ, mỗi một cuộc đời dân đen bị "mưa đời",

"đêm đời" ban phát từ thể chế chúa Nguyễn đều góp phần vào dòng lũ sông

Côn. Trong lẽ được mất của một đời người, họ chẳng được gì cả vì dân là

vạn đại. An không chỉ là người phụ nữ cụ thể mà còn là đại diện cho cả một

thế hệ phụ nữ trong mùa lũ sông Côn, trong cơn vật vã của lịch sử để tân

tạo. Lẽ được mất của An coi như là con số không, vì nếu không có chuyển

dòng của lịch sử, bị nắn bởi "lũ sông Côn", thì An sống với góc chợ An

Thái lần hồi đủ ăn. Nay cùng khơi nguồn lũ, nắn dòng chảy để rồi, An ở đất

phủ Quy Nhơn với: nâng khăn, sửa túi cho mệnh bà, quý cô. Có lẽ thông

qua quãng đời chinh phụ và những việc làm của An ở Quy Nhơn, Nguyễn

Mộng Giác viết "Sông Côn mùa lũ" không chỉ gửi gắm tâm trạng qua giai

tầng trí thức mà còn gửi gắm tâm trạng qua hình tượng người phụ nữ, mà

xem ra nó còn nặng căn hơn cả cái chủ ý của cuốn thiểu thuyết. Không có

sự đổi đời hay nói cho đúng hơn, người phụ nữ thông qua nhân vật An,

trước những thành quả của khởi nghĩa được đổi thay công việc "buôn thúng

bán mẹt" thành con người gọi dạ, bảo vâng nơi cửa vương quyền. Không

chỉ thế An sống trong cái bấp bênh, nơm nớp vì Lợi là con người cơ hội, lại

có điều kiện tiếp xúc với cơ hội xà xẻo kiếm chác. Đến một ngày kia cha

thất sủng, Lợi vào tù vì biển thủ công quỹ, bớt xén quân lương, An trở

95

thành vợ của phạm nhân. Cảnh An đi thăm Lợi được miêu tả với những

dòng cảm động. Tác giả dẫn dắt khá chi tiết. Lợi bị bắt đóng gông trước

mắt An "Lợi bị đóng gông dẫn đi rồi chị vẫn còn ngồi trân người trên cái

chõng tre, y như một cái xác bất động (cuối 698 đầu 699). Lợi bị bắt là sự

trả thù cá nhân của Phạm Ngạn, vì Lợi trót nói trong niềm vui quá đà, để

làm đẹp lòng hoàng hậu về sự kém hiểu biết nghệ thuật chạm khắc gỗ của

quan nội hầu. Tội danh cũ đã khép lại, hồ sơ không tra cứu nữa lại được sử

dụng. Vì thương anh rể, thương chị gái, Lãng chủ động xin với Nguyễn Huệ

để Lợi được ân chuẩn, hy vọng Lợi sẽ được giúp đỡ, Lãng nói với chị và

được đáp lại - "An cáu kỉnh hỏi:

- Sao lại đi báo cho người ta ?

- Em nghĩ chỉ có anh ấy là có thể... có thể... An to tiếng, bực tức:

- Có thể... có thể làm gì " người ta là em rể. Họ đã trở thành sui gia

của nhau. Dĩ nhiên ông Nhật phải báo cho người ta biết hoặc đã bàn bạc với

nhau chán mới ra lệnh bắt. sao mày ngây thơ thế ! Mày van xin năn nỉ

người ta à ?" (trang 702). Tức giận lại thêm tự trọng, An khước từ tất cả

những cố gắng vận động của Lãng với Huệ "đến... đến mức này mà em còn

u mê ! còn chưa thấy lòng dạ người ta. Họ toan tính, toa rập với nhau từ lâu

để loại bỏ cha, rồi bây giờ đến lượt anh Lợi..." (trang 705). Không nhờ vả,

van xin, An tự thảo đơn khiếu oan cho chồng. An đàng hoàng "đem son

phấn cũ ra trang điểm. Chị lục tìm bộ quần áo thật đẹp may từ ngày cưới..."

(trang 706); đến thẳng dinh quan Hình bộ với tất cả sự tự tin toát ra giọng

nói "Tôi cần gặp quan Hình bộ". Cách ăn mặc, nói năng của An đã có tác

dụng nhất định. Đơn được chấp nhận kèm theo một lời hứa đầy hy vọng

"lúc nào xét xong có người đến báo tận nhà". Hy vọng tiêu tan vì lời hứa

kia là sự đuổi khéo. Bặt vô âm tín, mười ngày sau, An trở lại bộ Hình thì

được trả lời: hồ sơ đã chuyển sang bộ Hộ, đến bộ Hộ được trả lời: hồ sơ đã

được chuyển sang bộ Công. Sự đùn đẩy vòng vo, có đi, càng đi cũng chỉ vô

96

ích, vì An đã được người lính nói cho biết sự thật "Vụ anh Lợi chuyển từ bộ

Hình qua bộ Hộ, từ bộ Hộ chuyển quan bộ Công rồi chắc chắn bộ Công lại

trả về bộ Hình...". Hy vọng khiếu oan cho chồng hoàn toàn tiêu tan, An phải

chờ đến ngày lễ vu lan - rằm tháng bảy viết đơn để được thăm Lợi. Để được

chấp thuận đơn, An đã vất vả, được gặp chồng qua mấy lần cửa phải có tiền

lót tay: viết tên chồng "chỉ tốn một quan thôi" (trang 715), để đến được

hàng rào gần Lợi hơn "muốn nhìn được mặt thì phải tốn thêm hai quan nữa"

(trang 715). Vất vả, tủi nhục, uất hận, thì ra bấy lâu nay, An và cả những

sinh linh thấp cổ bé miệng chỉ là phương tiện, là nấc thang xây vinh quang

cho kẻ khác mà kẻ ấy vừa mới hôm qua là đồng hành với An, với gia đình

ông Giáo. Bao nhiêu máu đổ, đầu rơi để có được một thể chế mới, thì chính

những con người làm nên sự nghiệp của thể chế đó chỉ vì tư thù mà thoắt

trở thành nạn nhân khốn khổ, sầu thương và uất hận. Tiếng nói tố cáo, một

trong những nội dung hợp thành giá trị nhân đạo của tác phẩm, thêm một

lần nữa, người đọc ghi nhận cảm hứng nhân đạo của tác giả khi viết "Sông

Côn mùa lũ". Như phần đã bàn, nhân vật Lợi sống trong cơ hội, sống chung

với cơ hội và luôn săn tiền, săn vật chất bằng cơ hội. Chồng vì "đi đêm gặp

ma", An đi thăm chồng giữa thanh thiên bạch nhật gặp cả ma lẫn quỷ: ma

gác cổng, quỷ công đường, quỷ coi ngục và những con ma đói khát bởi thân

tù đầy đến độ tàn tạ. Từ tủi nhục trong thân phận vợ của phạm nhân và cũng

chỉ một lần gặp cả ma lẫn quỷ, An ngộ ra rằng mình đang sống với ma quỷ

mà không hay. Cũng chỉ một lần thăm chống, An dường như đã thành con

người khác, thích nghi hơn với các cuộc làm ăn của Lợi. Lợi được phóng

thích vì nhu cầu của chiến trường: đoàn kết, cần người thực tài đảm trách

việc chuyển quân lương, đóng tàu thuyền... cho cuộc Nam tiến. Ngoài Lợi

ra ít ai đảm trách được. Bị cuốn theo dòng lũ lịch sử sông Côn, Lợi hăm hở

ở vị thế cũ được phục hồi, theo đoàn quân Nam tiến thắng lợi. Như được

hồi sinh, Lợi nhận trọng trách ra Phú Xuân theo kế hoạch chia rẽ hàng ngũ

97

địch, tham gia đánh chiếm Phú Xuân thắng lợi, thừa cơ Bắc tiến vào Thăng

Long. An lại sống những ngày tháng chinh phụ. Lợi ca khúc khải hoàn, trở

về Phú Xuân. Bắc tiến của Nguyễn Huệ Thắng lợi, được vua anh quở trách

thay cho liên hoan báo tiệp. Các tướng lĩnh theo Huệ không thoát khỏi bị

trách mắng công khai. ở Quy Nhơn, sợ bị khủng bố, An trốn ra Phú Xuân

tìm Lợi. Thế là từ buổi thiếu thời đến khi làm mẹ, An đã trải qua hai lần

trốn chạy khỏi liên luỵ: trước là luỵ cha, sau là luỵ chồng; trước xuôi Nam,

sau ngược Bắc. Mà cái thân trốn chạy thì kể sao cho xiết nỗi cực nhọc, tủi

hổ, đói khát... Để đến được cửa Thuận trên chiếc thuyền buôn mắm, An đã

phải trả một giá đắt vì phải hối lộ qua các trạm trên sông "lên được cửa

Thuận thì bao nhiêu tư trang, tiền bạc này cháu xin biếu bác để bù vào tiền

phí tổn ra vào" (trang 1105). Thuyền không lên Phú Xuân được, An lại phải

đi thêm một chặng đò dọc, tiền hết phải trả giá tiền đò bằng cái áo luạ. Tủi

nhục hơn khi "người vợ chủ đò xem xét cái áo thật kỹ, rồi nhìn cách ăn mặc

dơ dáy lôi thôi của ba mẹ con nghi ngờ hỏi:

- Của chị đấy à ?

An nhìn xuống quần áo mình, đỏ mặt nói:

- Đi đường xa quá nên trông bẩn thỉu như ăn mày. Vâng, của tôi đấy.

Người vợ lại xem kỹ cái áo lụa, giơ lên mặt trời coi có bị vá hoặc bị

lỗ gián nào không. Chị có vẻ thích chiếc áo, nhưng vẫn hỏi lần nữa:

- Không phải của ăn cắp chứ ?

An cố nén giận đáp

- Không, của tôi mà !" (trang 1108)

Cuối chặng đường chạy trốn cùng cha, An đến điểm dừng chân là An

Thái, sống với những người dân núi, với vợ chồng cậu mợ và được họ bảo

bọc, cưu mang trong sự ấm áp của tình thân, của những con người nghèo

khó. Trốn chạy, tìm chồng, An dừng chân ở Phú Xuân, kinh đô của chúa

Nguyễn, được thưởng thức mùi phú quý "Ba mẹ con được họ trân trọng đưa

98

về tận cửa thành Phú Xuân, như những mệnh phụ, vương tôn giả trang vi

hành thăm dân trở về" (trang 1114). Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang,

Lợi bị Bùi Đắc Tuyên lợi dụng cơ hội lại tìm cách hãm hại. Một lần nữa An

lại giải cứu cho chồng. Lợi thoát nạn, lâm vào tâm thế hoang mang, định

trốn vào Nam theo Nguyễn ánh. An kịp thời can ngăn. Gia đình được sống

yên ổn thêm một thời gian nữa. Khi mọi cơ hội đã không hé mở với hạng

người cơ hội như Lợi thì hành động làm phản là một tất yếu. Lợi tham gia

đốt kho thóc giữa lúc Nguyễn Huệ chuẩn bị lên ngôi đế, chuẩn bị Bắc tiến,

tảo phạt quân Thanh, Lợi bị hành quyết. Một thoáng sang giàu, yên thân,

đoàn tụ sau những ngày chính phụ dài đằng đẵng, một ngày như ba năm. Sự

đắp đổi chưa được bao nhiêu, An hứng chịu cảnh goá bụa. Hạnh phúc lứa

đôi, gia đình tan vỡ. Linh cảm trước điều chẳng lành, một lần nữa, An lại

trốn chạy, chạy lộn trở vào Bến Ván - vùng giáp ranh lãnh địa giữa Nguyễn

Nhạc và Nguyễn Huệ. An sống trong cảnh xô bồ của vùng đất vô chính

phủ, song với khả năng thích ứng, quyền biến trong hoạn nạn, An tạm thời

có một cuộc sống yên ổn. Cuộc sống ở Bến ván của mẹ con An là cuộc trốn

chạy cuối cùng với mọi dạng thái thể chế. Trốn chạy khỏi thể chế chúa

Nguyễn theo cha, trốn chạy khỏi thể chế của vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc

tìm chồng, trốn chạy khỏi thể chế Bắc Bình Vương - Nguyễn Huệ - Quang

Trung; để dừng chân ở vùng đất không thuộc loại hình kiến trúc vĩ mô nào.

An và những thành viên trong gia đình ông giáo Hiến dự vào việc khơi

nguồn lũ sông Côn chảy tràn vào trang sử, như dòng thác thực ngoài đời,

dòng thác của sức mạnh vùng lên đổi đời mang tên dòng sông miền sơn

cước Tây Sơn - Sông Côn. Dòng lũ sông Côn đã cuốn phăng cái thể chế cũ,

thu giang sơn về một mối - hạ huyệt cho cảnh Nam Bắc phân tranh, quét

sạch quân Thanh ra ngời bờ cõi. Sự nghiệp vinh quang này được xây bằng

biết bâo xương máu của những con người vô danh để có một nhà Tây Sơn

hữu danh trong sử sách. An và các thành viên gia đình ông giáo Hiến thuộc

99

những con người vô danh ấy. Đặt tên cho mỗi con người trong gia đình ông

giáo Hiến, thực chất là Nguyễn Mộng Giác đã đặt tên cho một vài anh hùng

vô danh trong ngàn vạn anh hùng vô danh. Vượt khỏi tên tuổi cụ thể: Kiên,

Chinh, Lãng, An là sự đại diện cho những tầng lớp người mà thân xác đã

nát cùng cây cỏ. Ông giáo Hiến không chỉ là trí thức cụ thể mà còn là người

cha trong lớp anh hùng vô danh. Kiên, Chinh, Lãng, An không chỉ những

con trai con gái ông giáo Hiến mà còn là thế hệ trẻ vô danh trong mùa lũ

sông Côn. Nhân vật An là con người vô danh đại diện cho người phụ nữ

trong sự vận hành của cuộc khởi nghĩa, An vừa là người dự vào khơi nguồn

lũ đời sông Côn lại vừa nạn nhân của thành quả mà dòng lũ đã thiết lập, đã

tân tạo. Nhân vật An được hư cấu mang tính đại diện, tính điển hình; vì thế

tất cả những gì là An, thuộc về An đều có tính đại diện, tính điển hình. Đặt

An trong thế được mất của một đời người mà cũng là được mất của người

phụ nữ trong sự vận hành đặc biệt của một quãng thời gian lịch sử - cuộc

khởi nghĩa Tây Sơn, người đọc dễ nhận thấy: An hay chính là người phụ nữ

gánh chịu nhiều nhất những tác động của lịch sử, của dấy nghiệp cho cuộc

thay đổi thể chế. Nhưng suốt dọc chiều dài của mùa lũ sông Côn, An

"được" duy nhất một điều là được đặt trong những tình thế buộc phải phân

thân . Một An Vĩ Giạ thượng trốn chạy cùng cha đến An Thái, hơn chục

tuổi đầu (14 tuổi) sớm trở thành cô hàng xáo góc chợ núi An Thái, đỡ cha

chống lại cái đói thường nhật. Một An vượt lên cái lam lũ đời thường, đẹp

như bông hoa đầy sắc hương nở ra trong nghiệt ngã để yêu và được yêu.

Một An biến thành vật hy sinh cho mưu đồ chính trị của vương quyền, một

An chinh phụ, một An mệnh phụ phu nhân, một An goá bụa, một An bươn

chải nuôi con nơi Bến Ván vô chính phủ. Những thăng trầm, phân thân của

nhân vật An là sự nói khác đi của những mất mát quá lớn đối với người phụ

nữ. Có thể xem, nhân vật An ví như cao trào đỉnh điểm của bản nhạc mang

nội dung nhân đạo vì "... có thể xem cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa là cảm

100

hứng chính trong tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ"" (Phan Cự Đệ-tài liệu đã

dẫn). Nhân vật An khép lại bộ truyện bằng việc trốn ra Phú Xuân, với cái

cớ đi tìm Lãng, dự đám tang Nguyễn Huệ một cách vô danh. Bộ truyện đã

khép lại, điểm dừng trong lựa chọn thời điểm lịch sử của tác giả đã dừng,

song việc làm của An một lần cuối toả sáng cái ân nghĩa ở đời. Với Nguyễn

Huệ, An có một thời tuổi thơ để nhớ, một thời tuổi hoa, tuổi yêu ngưỡng mộ

và hơn một lần đau khổ vì con tim mách bảo lời yêu mà suốt đời câm lặng.

Với Nguyễn Hụê, An dự tang là tiễn đưa một người anh, một người bạn trai

cho dù hiện tại con người ấy ở góc độ quan hệ thế nào với cái tổ ấm của Lợi

- An đã trở thành tổ lạnh từ chính quyền lực trong tay Nguyễn Huệ. Việc dự

tang của An còn như là sự đáp lại cái ân cứu tinh hơn một lần với gia đình

Lợi - An. Có lẽ cũng qua việc An dự đám tang Huệ còn là sự đại diện cho

những đưa con ông giáo Hiến, kẻ còn người mất, đáp lại những cử chỉ cao

thượng của Huệ trong đám tang người cha, khiến cho hương hồn ông giáo

Hiến được mát mẻ nơi chín suối. Việc dự tang Huệ của An phải chăng là

thể hiện sự thuỷ chung của một mối tình câm. Thế nào chăng nữa, thì việc

dự đám tang Nguyễn Huệ của An một cách vô danh, vẫn gợi cho người đọc

những nghĩ suy , những xúc động không nhỏ. Đi suốt chiều dài bộ truyện,

nhân vật An hay chính là cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa được tác giả nhen

nhóm như ngọn lửa để nó bùng lên, cháy suốt, toả ánh sáng cho bộ truyện,

tạo nên sức hấp dẫn "xem được" của tác phẩm. Tác giả khép tác phẩm bằng

sự kiện: từ Phú Xuân trở về của An, Bến Ván đóng cửa sau đám tang

Nguyễn Huệ, Thái vĩnh biệt tuổi thơ (kinh nguyệt lần đầu). Hai thế hệ phụ

nữ sẽ về đâu? làm gì ? Khi Bến Ván xô bồ, vô chính phủ lại trở về nguyên

trạng vùng cát, vùng đất chết, về đâu, làm gì khi cỗ máy lịch sử vẫn còn

đang tiếp tục vận hành và sự nghiệp còn dang dở của nhân vật lịch sử -

Nguyễn Huệ vẫn còn tiếp diễn. "Sông Côn mùa lũ" được kết thúc mở -

những ngày tháng tiếp theo của mẹ con An khiến người đọc không khỏi

101

động lòng trắc ẩn, cảm thương tạo nên dư ba của bộ truyện - lời tận, ý bất

tận. Hai mẹ con người đàn bà goá bụa, trơ trọi nương tựa vào nhau ở cái nơi

mà chỉ nay mai thôi là vùng đất chết. An động viên con "Nhưng con ơi, con

còn có mẹ đây. Hãy chùi nước mắt đi ! Thái ngoan của mẹ !" (trang 1442).

Lời nói cứng cỏi, tự tin, từng trải của An khiến người đọc vơi đi phần nào

niềm thương cảm, ái ngại. Hai thân phận: An, Thái; hai mẹ con bơ vơ giữa

dòng đời sau lũ sông Côn. Lời An nói với con thể hiện thái độ ham sống,

một tinh thần cứng cỏi ở người quả phụ từng trải. Tiếng nói nhân đạo, cảm

hứng nhân đạo như ngọn lửa cháy và toả sáng từ mở đầu tác phẩm đến con

chữ cuối cùng tập trung vào nhân vật An, qua nhân vật An. Thứ ánh sáng

nhân đạo ấy như tấm lòng bỏ ngỏ, đợi chờ độc giả không ngợp trước mấy

ngàn trang sách để trao gửi như những người bạn tâm giao về một thời đã đi

vào quá vãng của lịch sử. Nhân vật An, cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa là sự

tập trung thể hiện của nội dung tác phẩm, đồng thời cũng là tâm điểm thành

công của "Sông Côn mùa lũ".

*

* *

Trong bình diện tiểu thuyết của "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng

Giác còn hư cấu đám dân chúng vô danh "chịu đựng những cơn lốc của lịch

sử" (lời tác giả - lời cuối sách) . Lại nữa " những nhân vận phụ xuất hiện

như những người bình thường bị lịch sử lôi kéo vào từng chặng của các

biến cố tiếp nối " ( lời tác giả ). Không chỉ thông qua lời tác giả, nếu đọc tác

phẩm, người đọc dễ nhận thấy đám dân chúng " hư cấu " chỉ giữ vai trò làm

nền, là sự chuyển tiếp của các sự kiện cũng như là làm nền cho sự xuất hiện

và hoàn thiện những nhân vật trung tâm. " Đám dân chúng " trong tác phẩm

dường như là thay lời dẫn dắt của tác giả, có tác dụng hoàn thiện một cách

lô gíc về kết cấu hơn là khắc hoạ về phương diện nội dung. Vì những lẽ trên

mà " đám dân chúng " không đề cập như là sự tìm kiếm để phân tích, để

102

cảm và hiểu trong bài viết này.

* *

*

Nội dung của "Sông côn mùa lũ " là điểm hội tụ và thành công với ba

nguồn cảm hứng lớn " cảm hứng phê phán, cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa

và cảm hứng sử thi " (Phan Cự Đệ - Tài liệu đã dẫn). Nội dung của

"Sông Côn mùa lũ" đã sinh động hoá một thời khắc lịch sử, hoành tráng hoá

một giai đoạn lịch sử bằng chất tiểu thuyết không lấn sân lịch sử. Viết tiểu

thuyết lịch sử theo kết cấu song tuyến của "Sông Côn mùa lũ": Lịch sử, tiểu

thuyết; Nguyễn mộng Giá đạt tới sự thành công " xem được " của tác phẩm.

Người đọc được dẫn theo trật tự tuyến tính của mỗi tuyến. Sự đan xen các

chủ đề, trong nội dung của "Sông Côn mùa lũ" là sự thành công của ba

nguồn cảm hứng như đã đề cập. Bên cạnh đó, hay cũng chính từ đó; cái

được lớn nhất của tác phẩm là đặt tên cho các nhân vật vô danh của lịch sử.

Vì mỗi nhân vật hư cấu trong tác phẩm là đại diện cho một lớp người đã lùi

rất xa vào lịch sử, tham dự vào lịch sử.

Có lẽ, những tiểu thuyết lịch sử chân chính, theo đúng nghĩa: tôn

trọng lịch sử, xuất phát từ lòng yêu nước, yêu dân tộc; đề cao giá trị con

người, đề cao nhân phẩm con người bằng cái tâm - nhất là "chữ tâm kia mới

bằng ba chữ tài" (Nguyễn Du), trong hư cấu nhân vật đặt vào lịch sử, có thể

tác giả sẽ tạo được bản hợp xướng "Chiêu hồn tử sĩ" bằng văn xuôi. Từ

những con người hữu danh, vì làm nên lịch sử một cách quả cảm, họ trở

thành vô danh. Những linh hồn mà thân xác đã nát cùng cỏ cây qua năm

tháng theo dòng thời gian, dòng lịch sử được tác giả đặt tên lại - tên chung

cho một lớp người. Người anh hùng vô danh trước khi ngã xuống là một con người hữu danh trong đội ngũ của lớp người ấy. Những con người anh

hùng vô danh không được lưu danh trong công việc của sử gia lại được lưu

danh trong tiểu thuyết lịch sử, lịch sử văn học - trong đời sống văn học.

Những con người ấy sẽ hiện hữu qua mọi thời đại, sống mãi cùng năm

103

tháng như một đạo lý cao cả của dân tộc "Uống nước nhớ nguồn".

Chương III

kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật

của "Sông Côn mùa lũ"

Công việc của người viết tiểu thuyết hội tụ những yếu tố, những biểu

hiện của năng lực, của lao động nghệ thuật nghiêm túc như được vắt ra từ

máu để kiến tạo thành những đứa con tinh thần. Những đưa con tinh thần ấy

có sức sống hay không phụ thuộc nhiều vào vấn đề nội dung mà nó truyền

tải tới người đọc. Mỗi đưa con tinh thần của nhà văn là sự tổng hoà, thống

nhất trong chỉnh thể nội dung và kết cấu nghệ thuật. Không thể có một nghệ

thuật kết cấu quá non kém mà có được một nội dung tốt, cũng như không

thể có một cấu trúc nghệ thuật tốt mà lại chuyển tải một nội dung quá non

kém (đương nhiên là không bàn tới những đứa con tinh thần lạc lõng với

cuộc sống của đại đa số quần chúng). "Sông Côn mùa lũ" là sự tổng hoà của

lớp nội dung và của lớp kết cấu nghệ thuật. Kết cấu tác phẩm là bộ khung

trụ đỡ cho mọi tiểu thuyết. Ngôn ngữ nghệ thuật là phương tiện để nhà văn

thể hiện nội dung của tác phẩm. "Nguyên tắc của nghệ thuật kết cấu là phải

làm sao cho tư tưởng chủ đề thấm sâu đến từng bộ phận của từng tác phẩm

và phải góp phần tích cực nhất vào việc xây dựng hệ thống tính cách nhân

vật" (Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại - Tập 2 1975 - Trang

266).

* * *

1. Kết cấu.

"Đặc trưng kết cấu của những bộ tiểu thuyết hiện đại là tính chất

nhiều tuyến, nhiều bình diện, sự luân phiên giữa các cảnh khác nhau, sự đan

chéo giữa những tuyến cá nhân và những tuyến lịch sử. Ehrenbourg đã có

một nhận xét: " Tiểu thuyết ở thời đại ta có nhiều chỗ khác với tiểu thuyết

của thế kỷ XIX, vốn được xây dựng trên lịch sử của một con người hay của

104

một gia đình. Trong tiểu thuyết hiện đại có nhiều nhân vật hơn, số phận của

họ đan chéo vào nhau, nhà văn thường đưa người đọc từ thành phố này

sang thành phố khác, đôi khi còn sang cả nước khác nữa, cách kết cấu khiến

ta nhớ đến những cảnh nối tiếp nhau trên màn ảnh, những đoạn cận cảnh

luân phiên với những cảnh quần chúng"". ( Những bút ký về nước Pháp -M.

1958 -Trang 68- Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại tập 2-1975-

trang 271). Trong phạm vi bài viết, chúng tôi không đề cập đến vấn đề kết

cấu như một nhận thức đầy đủ mà chỉ xem như là một tiêu chí để tìm hiểu

kết cấu của "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác. Từ những tiêu chí

trên, ta thấy, kết cấu nghệ thuật của tác phẩm được thể hiện ở các phần, các

chương, hệ thông tình tiết, chi tiết theo một trật tự nhất định, có thể xem đó

là khung kết cấu nội dung của mọi tác phẩm văn xuôi, nhất là đối với những

tác phẩm đạt tới độ dài trường thiên. Viết "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn

Mộng Giác đã thể hiện lớp kết cấu của tác phẩm đa dạng linh hoạt. Nhìn

nhận tổng thể có thể thấy hai tuyến: lịch sử và tiểu thuyết như là hiện tượng

song tuyến, song hệ thống trong tác phẩm. Mỗi tuyến độc lập tương đối vì

có sự tương tác, đan xen vào nhau. Để không viết lại lịch sử cũng như

không tiểu thuyết hoá lịch sử, Nguyễn Mộng Giác đã tỉnh táo tới hai cấp độ,

nhà văn vừa trung thành với lịch sử vừa tỉnh táo để đi giữa cái chông chênh

giữa tiểu thuyết và lịch sử. ở tuyến lịch sử, Nguyễn Huệ là nhân vật trung

tâm đi suốt chiều dài tác phẩm. Mối quan hệ giữa lịch sử và tiểu thuyết

được gắn nối bằng mối tình câm: An - Huệ. Kết cấu song tuyến vì nội dung

lịch sử và nội dung hư cấu - tiểu thuyết đặt trong trật tự tuyến tính.

Tuyến nhân vật lịch sử được kết cấu như là sự song tuyến: sự kiện

lịch sử và nhân vật lịch sử. Những sự kiện lịch sử được tái hiện trung thành.

những nhân vật lịch sử được tái hiện bằng hai cấp độ có tính nhất quán: hư

cấu và chi tiết hoá tâm trạng của nhân vật. Nhân vật Nguyễn Huệ được tái

105

hiện bằng cả hư cấu và tâm trạng hoá. Nguyễn Nhạc được thể hiện bằng

tâm trạng hoá. Tuyến lịch sử và tuyến hư cấu như là hiện tượng song tuyến

đi suốt chiều dài tác phẩm.

Tuyến nhân vật hư cấu được xây dựng bằng hình thức cấu trúc linh

hoạt, uyển chuyển trong hệ thống. Gia đình ông giáo Hiến được coi như là

một tâm điểm tạo ra hệ thống của tuyến nhân vật hư cấu với những cấp độ

khác nhau, lan toả từ tâm điểm theo chủ ý ban đầu là viết về người trí thức

thời loạn "trong đó có một phần tâm trạng mình..." (lời tác giả). Vì lịch sử

phong trào Tây Sơn đa dạng phong phú nhiều biến động, chủ ý ban đầu "trở

thành chật hẹp" (lời tác giả). Mở rộng bình diện lịch sử, mở rộng tâm điểm

"trí thức thời loạn", khiến cho nhân vật ông Giáo Hiến trở thành tâm điểm

của tuyến hư cấu, cũng vì thế mà mở rộng cả mối quan hệ đan xen giữa lịch

sử và hư cấu trong bộ truyện. Từ tâm điểm là ông giáo Hiến, tác giả mở

rộng hệ thống là những con trai, con gái, con rể ông giáo Hiến. Hệ thống

này làm xuất hiện thêm những nhân vật có quan hệ với gia đình ông giáo ở

góc độ hư cấu, thế sự: vợ viên cai cơ với nhân vật Kiên. Một goá phụ hồi

xuân tai tiếng với Lãng. Mối quan hệ giữa An với công chúa Thọ Hương,

với Hoàng hậu các các mệnh phụ phu nhân quý tộc mới ở đất Quy Nhơn.

Mối quan hệ giữa Lợi với các nhân vật vô danh - người lính già trong việc

giao quân lương, với Bùi Đắc Tuyên, đặc biệt là Nguyễn Huệ và Nguyễn

Hữu Chỉnh - hai nhân vật lịch sử. Nhờ có kết cấu lan toả bình diện tiểu

thuyết được mở rộng và trở nên sống động ở bình diện đám dân chúng. Mối

quan hệ gia đình ông giáo Hiến với những người dân vùng Tây Sơn Thượng

- những tấm lòng cưu mang, đùm bọc của những con người nghèo khổ.

Tính hệ thống còn được thể hiện bằng công việc đan xen các chủ đề:

cuộc nổi dậy của quần chúng bị áp bức quét sạch các tập đoàn phong kiến

trong nước, đánh tan ba vạn quân Xiêm ở phương Nam - Rạch Gầm, Xoài

106

Mút, đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược. Trên cái nền lịch sử ấy,

hình tượng trí thức với những tâm trạng đã được xây dựng thành điển hình

tạo nên giao thoa về thế cuộc giữa trí thức trong lịch sử với trí thức hiện tại.

Tác giả tạo nên sự đồng điệu, cảm thông như là sự soi mình trước tấm

gương lịch sử, tự vấn mình của một trí thức thời hiện tại. Đó là sự đan xen

có tính "ôn cố tri tân". Sự đan xen chủ đề lịch sử với thân phận người phụ

nữ tạo nên một tiếng nói nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm. Xuyên suốt tác

phẩm số phận người đàn bà trong chiến tranh phong kiến hứng chịu mọi nỗi

cực nhọc, mọi nỗi đau mà nỗi đau nhất là cô quả. Nguyễn Mộng Giác xây

dựng hình tượng người phụ nữ trong chiến tranh như một thông điệp bỏ ngỏ

vì không có lời bình. Chiến tranh là mất mát, là tàn khốc, là những gì mà

một kiếp người đáng lẽ phải có bị cướp đi. Từ kết cấu này tác phẩmbộc lộ

những ý nghĩa nhân đạo, nhân văn sâu sắc.

2. Phương thức kết cấu

Những nhân vật trong lãnh địa hư cấu còn được thể hiện qua cấu trúc

phân nhánh: An trong mối quan hệ với nhân vật hư cấu và nhân vật lịch sử.

Những đứa con ông giáo Hiến được phân thành những nhánh khác nhau: về

tính cách thì Kiên liêm cẩn đến nhút nhát, Chinh thì sức mạnh dồn lên cả cơ

bắp, An và Lãng có chút tâm hồn nghệ sĩ yêu thơ và thích thơ Đỗ Phủ. Sự

phân nhánh còn thể hiện rất rõ ở mỗi đứa con ông giáo Hiến trong việc khơi

nguồn dòng lũ sông Côn: Kiên chán chường cảnh chết chóc nơi chiến địa,

an phận với vợ goá viên cai cơ; Chinh nhập cuộc, say bao hành và chết

thảm; Lãng tham dự vào Nam tiến, Bắc tiến với chức danh sử quan không

chính thức, với tâm hồn nghệ sĩ cuối cùng bị đào thải sống buông thả, lãng

tử; An đứng ngoài lịch sử, không nhập vào lịch sử chấp nhận cảnh sống

trong cảnh goá bụa. Lợi - con rể nhập cuộc, cơ hội bị loại khỏi chính

107

trường, làm phản và bị hành quyết.

Tuyến nhân vật lịch sử, tuyến nhân vật hư cấu được đặt trong trật tự

tuyến tính của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, gia đình ông giáo Hiến di chuyển

theo chiều cuốn của cuộc khởi nghĩa được đặt trong thời gian lịch sử. Đặt

các tuyến nhân vật trong trật tự tuyến tính tạo ra sự liền mạch của cốt truyện

vừa có giá trị trung thành với lịch sử, vừa tạo ra sức cuốn hút và dễ tiếp cận

tác phẩm đối với người đọc. Trật tự tuyến tính tạo nên lối viết truyện theo

kết cấu truyền thống của các tác phẩm thuộc thể loại văn xuôi.

Để gắn nối giữa hai tuyến: nhân vật lịch sử và nhân vật tiểu thuyết,

Nguyễn Mộng Giác còn sử dụng hình thức đan xen. Đan xen giữa sự kiện

hư cấu với sự kiện lịch sử. Có thể thấy sự đan xen ấy qua sự xuất hiện của

gia đình ông giáo Hiến với anh em họ Nguyễn Tây Sơn, ở An Thái, ở Tây

Sơn thượng trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa. Sự đan xen bằng tình cảm

giữa hư cấu và lịch sử - giữa Huệ và An bằng tình yêu câm lặng. Sự đan

xen giữa những năm tháng trận mạc của Huệ với sự trở về thăm thầy- ông

giáo Hiến, thăm An một nhân vật giai nhân. Hình thức đan xen trong cấu

trúc làm nên sự gắn bó lô gíc giữa hai tuyến của tác phẩm, đồng thời sự đan

xen ấy còn tạo nên chất anh hùng ca hoà quyện với chất tình ca trong tác

phẩm. Đan xen còn làm cho tác phẩm sống động, làm cho giữa lịch sử với

hư cấu, giữa việc trung thành với lịch sử và hư cấu trong tiểu thuyết nhập

chung vào dòng chảy của nội dung một cách hợp lý.

Sự thể hiện đa dạng của lớp cấu trúc nhằm hoàn thiện khung kết cấu

của tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác còn sử dụng hình thức kết cấu có tính đối

ảnh. Trong việc xây dựng nhân vật, để tạo tính cách điển hình nổi bật, tác

giả xây dựng nền bằng các nhân vật khác để làm nổi bật nhân vật chính.

Nhân vật Lợi có lối sống cơ hội, được sống trong điều kiện có cơ hội để

trục lợi và trục lợi hữu hiệu, trái lại hai nhân vật: Kiên và Lãng được tham

dự ở những vị trí không thiếu cơ hội kiếm chác, trục lợi nhưng lại thờ ơ,

108

dửng dưng. Kiên dành nhiều thời gian giúp đỡ người vợ không chính thức -

vợ viên cai cơ - bán hàng. Lãng sống như một nghệ sĩ, như một lãng tử, khi

thất sủng với hai bàn tay trắng, vô nghề nghiệp. Đối ảnh còn được tác giả

thể hiện qua việc đan xen giữa nhân vật ông đồ - ông giáo Hiến, nhân vật

hư cấu cố cựu, bảo thủ, tụt hậu bị loại khỏi cuộc chơi chính trường với ông

đồ Trần Văn Kỷ - nhân vật lịch sử cách tân, hợp thời.

Một hình thức cấu trúc khác được Nguyễn Mộng Giác thể hiện là

hình thức xâu chuỗi tạo nên sự liền mạch cho tác phẩm. Để xây dựng hình

tượng người phụ nữ, tác giả xây dựng ba nhân vật: Bà giáo Hiến - An - Thái

như là cuộc chạy tiếp sức song song với lịch sử. Sự chuyển tiếp, bàn giao

thế hệ càng làm nổi bật hình tượng người phụ nữ có số phận nghiệt ngã như

là sự truyền kỳ, truyền kiếp. Lũ sông Côn đã tác động tới ba thế hệ phụ nữ,

tạo thành tiếng nói nhân đạo, giá trị nhân đạo ngưng tụ bởi cảm hứng nhân

đạo. Sự xâu chuỗi trong tác phẩm còn được thể hiện qua việc xây dựng tính

cách và số phận của nhân vật An: một An vị thành niên, đến một An thiếu

nữ, đến một An làm mẹ, một An chinh phụ, một An mệnh phụ phu nhân,

một An quả phụ. Sự xâu chuỗi này đặt trong trật tự tuyến tính tạo nên sự

hấp dẫn của câu chuyện thông qua nhân vật hư cấu trung tâm. Nhân vật trí

thức thời loạn cũng được xây dựng theo lối kết cấu xâu chuỗi: ông giáo

Hiến - Trần Văn Kỷ - sĩ phu Bắc Hà. Sự xâu chuỗi này tạo nên sự gắn nối

giữa nhân vật trí thức hư cấu và nhân vật trí thức lịch sử.

Như trên đã trình bày, qua "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác

đã sử dụng một cách đậm nét những hình thức cấu trúc: phân nhánh, lan

toả, trật tự tuyến tính, đan xen, đối ảnh, xâu chuỗi; có thể xem đây là những

yếu tố quan trọng có tính quyết định trong việc thể hiện nội dung của tác

phẩm. Hơn thế nữa, tác giả còn sử dụng mối quan hệ lô gíc để tái hiện cuộc

sống, tái hiện lịch sử bằng sự thống nhất giữa không gian lịch sử và không

109

gian sáng tạo; giữa thời gian lịch sử và thời gian sáng tạo. Sự đồng nhất này

tạo lên sự thành công về phương diện nội dung của "Sông Côn mùa lũ" cả

lịch sử và tiểu thuyết trong tiểu thuyết lịch sử.

3. Ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ là chất liệu duy nhất của mọi tác phẩm văn chương nghệ

thuật, vì thế có nhiều ý kiến cho rằng: " Văn học là bộ môn khoa học - nghệ

thuật của ngôn từ". Phan Cự Đệ viết: "Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên, là vũ

khí cơ bản của nhà văn. Nhà văn phải tạo cho mình một hệ thống và một

phong cách ngôn ngữ riêng. Những nhà tiểu thuyết lớn đều là những nghệ sĩ

bậc thầy về tiếng nói" (Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại - Tập 2 - 1975

trang 319). Chẳng những thế, để tạo nên sức sống cho " một xã hội thu

nhỏ", nhà văn sử dụng ngôn ngữ qua giọng kể, giọng miêu tả. " Ngôn ngữ

trong tiểu thuyết phải là một thứ ngôn ngữ giàu tính tạo hình, đập ngay vào

giác quan của người đọc. Tuy nhiên những hình tượng phải là kết quả của

quá trình quan sát, so sánh trong thực tiễn chứ không phải là do đầu óc

tưởng tượng của nhà văn bịa đặt ra". ( Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam

hiện đại - tập 2, trang 324).

Khi viết tiểu thuyết lịch sử, nhà tiểu thuyết sẽ gặp những cái khó

không nhỏ, lại ở nhiều phương diện, trong đó có cái khó nhất là ngôn ngữ

của nghệ thuật kể chuyện (ngôn ngữ trần thuật) và ngôn ngữ nhân vật. Điều

này được Nguyễn Mộng Giác tâm sự "viết một chuyện xảy ra hai thế kỷ

trước, viết làm sao đây? cho nhân vật sống và nói theo thời cổ, dĩ nhiên phải

thế. Nhưng thế nào là cổ ? Họ phải nói với nhau như trong tuồng cổ, như

các vua quan trong phường hát bội của Đào Tấn ? Họ phải "văn hoa" như

các nhà Nho của "Lều chõng", ngược đường Trường Thi ? hay ít ra phải

viết và nói theo kiểu biền ngẫu như thời Nguyễn Bá Học, Phạm Quỳnh,

Nhất Linh (trong Nho phong và Người quay tơ). Tôi băn khoăn không biết

110

dùng thứ ngôn ngữ nào, cuối cùng mừng rỡ tìm ra một câu trả lời: ngôn ngữ

truyện Kiều, cái người ta gọi là ngôn ngữ cổ thật ra chỉ là ngôn ngữ viết.

Còn ngôn ngữ nói hai thế kỷ trước thì đọc truyện Kiều có thấy cách ăn nói

khác với bây giờ bao nhiêu đâu! Vả lại tôi lý luận (có thể là nguỵ biện)

mình viết cho người đời nay đọc chứ có viết cho người xưa đọc đâu..." (lời

tác giả - thay lời cuối sách). Lời tâm sự của tác giả xuất phát từ thực tế sinh

động: vừa là người tán thành, vừa là người thẩm định hợp lý. Viết "Sông

Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác có cái khó chung của người viết tiểu

thuyết lịch sử về phương diện ngôn ngữ cùng với rất nhiều những khó khác.

Thể hiện nhân vật theo ngôn ngữ nào khi mà hình thái xã hội đã lùi vào lịch

sử trên hai thế kỷ. Những con người của quá khứ ấy nói với nhau theo chất

giọng ngôn từ nào? Quan hệ giao tiếp bằng ngôn ngữ trực tuyến thế nào? Là

những khó khăn không nhỏ. Chọn giải pháp ngôn ngữ truyện Kiều của tác

giả chưa hoàn toàn thoả đáng vì ngôn ngữ trong Kiều đành rằng là ngôn

ngữ viết, ngôn ngữ văn chương, song nó là ngôn ngữ của thơ chứ đâu phải

ngôn ngữ văn xuôi . Đành rằng trong cái khó khăn muốn chọn một giải

pháp tối ưu cho ngôn ngữ tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác đã chọn đúng.

Thông qua tác phẩm, ngôn ngữ mà tác giả dùng cũng có sự đồng điệu với

ngôn ngữ tại thời điểm sáng tác. ở Nguyễn Mộng Giác ngôn ngữ nhân vật

được sử dụng thế nào khi tác giả là người miền Trung cũng là cái khó

không nhỏ. Vấn đề khó khăn thứ hai này đã được hoá giải, xem như là tối

ưu " cho nên tôi bắt buộc phải viết theo tiếng Bắc là ngôn ngữ cho đến giờ

mặc nhiên được xem là ngôn ngữ chuẩn của văn chương Việt " (lời tác giả -

thay lời cuối sách ). Ngôn ngữ trần thuật của tác giả, ngôn ngữ nhân vật là

hai yếu tố nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào công việc cấu tạo tác phẩm,

góp phần vào sự thành công của cả bộ truyện, nhất là ngôn ngữ người kể

chuyện và ngôn ngữ các nhân vật mang tính tạo hình và đa thanh. Có thể

nói trong "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn Mộng Giác đã sử dụng thành công

111

ngôn ngữ ở những cấp độ khác nhau: ngôn ngữ chuẩn, thống nhất, không

rơi vào ngôn ngữ địa phương thuần tuý. Trong "Sông Côn mùa lũ", Nguyễn

Mộng Giác đã sử dụng ngôn ngữ người kể chuyện giàu tính tạo hình bằng

các cấp độ: Miêu tả cảnh, ngôn ngữ nhân vật. Trong dựng cảnh, với bút

pháp miêu tả đặc sắc phù hợp với tâm trạng nhân vật, Nguyễn Mộng Giác

đã dàn dựng cảnh đêm trước quyết định ra Bắc của Nguyễn Huệ. Một màn

đêm được miêu tả vừa thực vừa thơ mộng vừa linh thiêng "Trăng thượng

tuần lờ mờ. ánh trăng non chiếu lên các mặt lá ướt sương bóng nhẫy, gợi

hình ảnh một sức sống trầm lặng nhưng nao nao hạnh phúc. Tháp canh in

bóng đen trên nền trời xám đậm. Xa xa vọng về tiếng mõ cầu cứu và tiếng

chó sủa hốt hoảng" ( trang 947). Để tạo tính cách nhân vật, Nguyễn Mộng

Giác chú trọng miêu tả những nét dáng vẻ bề ngoài bằng ngôn ngữ tạo hình.

Đây là bề ngoài của nhân vật Nguyễn Nhạc " dưới cặp lông mày thưa, đôi

mắt xếch quá mức bình thường, khiến ánh nhìn đầy vẻ nghi kỵ, diễu cợt và

khinh bạc (trang 88). Nhân vật Nguyễn Huệ, nhân vật lịch sử lại được tác

giả thể hiện bằng một sự phác hoạ gương mặt có mớ tóc quăn " mồ hôi ướt

cả trán Huệ. Cậu đưa lưng bàn tay phải gạt mớ tóc quăn đang phủ mất một

bên mắt" (trang 110). " Một mớ tóc quăn phủ lên góc trán cao, miệng hình

như đang mỉm cười" ( trang 1075). "Mảng tóc quăn rũ xuống che mất con

mắt phải mà Nguyễn Huệ vẫn không buồn vuốt lên" ( trang 1120). " Theo

thói quen, ông lại đưa ngón tay quệt ở đầu mũi, rồi vuốt lại mảng tóc quăn

ở góc trán" ( trang 1124 ). Mớ tóc quăn được sử dụng để phác hoạ gương

mặt Nguyễn Huệ " đập vào giác quan của người đọc" tới hơn một lần ghi

dấu ấn về gương mặt của một vĩ nhân lịch sử. Phải trăng, Nguyễn Mộng

Giác đã căn cứ vào một tài liệu nào đó để phác hoạ gương mặt Nguyễn Huệ

với mớ tóc quăn. Phải trăng, đây là dấu hiệu nhân tướng của một thiên tài.

Ngôn ngữ tạo hình được Nguyễn Mộng Giác thể hiện sinh động, linh hoạt.

Miêu tả bề ngoài với những nét như phác hoạ: Nguyễn Nhạc với đôi lông

112

mày xếch quá mức, An với khuôn mặt bầu bĩnh, nước da trắng, cái cổ cao,

áo có vết rách ở cùi trỏ. Sự thể hiện nội tâm nhân vật với những hình thức

uyển chuyển. Nội tâm nhân vật Huệ trước tình yêu, tình thầy trò. Nội tâm

nhân vật ông Giáo trước cuộc khởi nghĩa, những mâu thuẫn giữa sách vở

với thực tế.

"Các hình thức ngôn ngữ trong một cuốn tiểu thuyết, có 3 hình thức

chủ yếu: Ngôn ngữ người kể chuyện. Ngôn ngữ cá thể hoá của các loại

nhân vật khác nhau. Ngôn ngữ không hoàn toàn trực tiếp, chuyển lời tác giả

vào nhân vật một cách kín đáo (những đoạn độc thoại nội tâm khám phá ra

"phép biện chứng tâm hồn" của nhân vật, đặc biệt là những đoạn độc thoại

song thanh hoặc đối thoại bên trong của các nhân vật trong tiểu thuyết

Đôtxtôiepxki ). Trong loại ngôn ngữ không hoàn toàn trực tiếp này, có một

sự thống nhất, một sự tổng hợp khéo léo ngôn ngữ của ngôi thứ nhất và

ngôn ngữ của ngôi thứ 3 trong sự trần thuật" ( Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết

Việt Nam hiện đại - Tập 2 - 1975- Trang 331). Ngôn ngữ tác phẩm được tác

giả sử dụng qua các hình thức thể hiện tạo ra khả năng tái hiện cuộc sống

trong bình diện lớn, tổng thể của tiểu thuyết. Tác giả vừa là người sáng tạo

vừa là người thẩm định các nhân vật của tiểu thuyết. Vì "trong một cuốn

tiểu thuyết, tất cả những ngôn ngữ không gắn trực tiếp với tính cách nhân

vật đều thuộc về ngôn ngữ người kể chuyện. Ngôn ngữ của người kể

chuyện tổ chức tất cả những yếu tố từ vựng khác nhau trong tác phẩm lại

thành một cơ cấu hoàn chỉnh thống nhất. Người kể chuyện không những chỉ

tổ chức một ngôn ngữ mà có khi còn đóng một vai trò quan trọng cả về kết

cấu" (Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại - Tập 2 - 1975 - Trang

331- 332). Tính đa thanh trong ngôn ngữ tiểu thuyết thể hiện qua sự đan

xen giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật, giữa giọng của

nhân vật này đan lẫn vào giọng của nhân vật khác. Đây là cuộc đối thoại

giữa hai chị em An -Lãng (trong hoàn cảnh Lợi bị bắt giam).

113

" Lãng giận quá giọng cáu kỉnh:

- ... Thú thật, em không nhận ra chị nữa. Chị xem mọi người giống

như những bọn mã phu lưu manh và bọn con buôn lừa đảo hàng ngày bu

quanh chị như đàn ruồi.

An bĩu môi chua chát:

- Phải. Mày nói đúng. Tất cả mọi người, kể cả tao và mày, kể cả cái

bọn mặc áo lụa đi kiệu mà mày xem như là thần thánh đều là ruồi nhặng

tất... Tao nhìn thấy tim đen của mọi người. Chúng nó cần gì trước tiên?

( An hốt một nắm tiền kẽm ném tứ tung trước mặt em). Đó, tiền. Tiền. Có

tiền trong tay, mày có thể vứt thẳng vào mặt chúng nó, chúng nó chẳng

những không dám giận mà còn hí hửng rối rít cám ơn mày nữa" (trang 748).

Cuộc đối thoại tiếp diễn.

"Lãng tức quá cãi lại:

- Đó là những điều xấu xa mà ở thời nào cũng có như nhà nào cũng

có rác...

An cười khinh bạc:

- Lý tưởng! Chân lý! Lý tưởng là thứ gì? Chân lý là thứ gì? Mày

muốn nghe bọn mã phu định nghĩa mấy cái chữ hào nhoáng loè loẹt đó

không? Lý tưởng là cái mình tưởng là có lý. Chân lý là cái lý có chân. Ha

ha! Bọn mã phu đúng là bọn thầy đời" (trang 749). Lời lẽ của An có cái

hằn học của bất mãn, bất lực. Lời nói của An đan xen ngôn ngữ người kể

chuyện - lời bọn mã phu trước những biểu hiện như một tất yếu - mặt trái

của một thể chế, hạn chế của cuộc khởi nghĩa. Đây là độc thoại nội tâm

nhân vật Nguyễn Huệ. Trở về Phú Xuân, Nguyễn Huệ đứng trước khúc

quanh của lịch sử - Trong đêm trắng, Nguyễn Huệ bộc lộ tâm trạng qua độc

thoại nội tâm " ta dừng lại chăng ? Ta bằng lòng đứng bên này Luỹ Thầy

nhìn ra phía Bắc như một kẻ ngoài cuộc, để mặc cho Nguyễn Hữu Chỉnh,

họ Lê, họ Trịnh, quận Thạc, quận Liễn cùng lũ quan thị sâu xé nhau giữa

114

một đất nước tan hoang? Như vậy, bấy nhiêu việc ta làm lâu nay chẳng hoá

ra vô ích sao? Cái gì đưa đẩy ta, thúc giục ta? Chính ta ra lệnh gióng trống

thúc quân nhưng cái gì thúc ta ra lệnh? Nhất định không phải là vua anh vì

nhà vua muốn ta dừng lại bên này Luỹ Thầy! Vậy thì cái gì? Hay là mệnh

trời ? Đúng có thể chính lòng trời muốn ta thực hiện lẽ công bằng khi đổ

quân ra Bắc" ( trang 1076). Trong ngôn ngữ nhân vật Nguyễn Huệ có đan

xen ngôn ngữ nhân vật Nguyễn Nhạc - vua anh - vì trước sau Nhạc chỉ

muốn dừng lại ở Phú Xuân để mặc phía Bắc cho vua Lê, chúa Trịnh.

Sự thành công của "Sông Côn mùa lũ" là kết quả của lao động nghệ

thuật nghiêm túc: Nghiên cứu lịch sử, hư cấu thế sự bằng lớp cấu trúc thể

hiện nội dung chặt chẽ, lô gíc, hợp lý, tạo nên sự thành công về nội dung

của " Sông Côn mùa lũ ". Sự thành công của tác phẩm đã truyền tải được ba

nội dung lớn " cảm hứng phê phán, cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa và cảm

hứng sử thi " (Phan Cự Đệ -Tài liệu đã dẫn). Đồng thời tác giả đã tạo ra

được một hình thức nghệ thuật - kết cấu tác phẩm phù hợp và ngang tầm

với giá trị nội dung mà tác phẩm vươn tới và đạt được. Xuất phát từ mục

đích chủ yếu tìm hiểu nội dung của "Sông Côn mùa lũ" như một tiểu thuyết

lịch sử nên chúng tôi không bàn nhiều về kết cấu và nghệ thuật tác phẩm.

Mặt khác, quá trình phân tích, giảng bình nội dung tác phẩm đã là một công

việc phải bóc tách lớp kết cấu, cảm hiểu kết cấu của tác phẩm và ngôn ngữ

nghệ thuật. Những gì thuộc về kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật nói đến như

115

là sự điểm lại, không bình thêm.

Đôi lời kết luận

Tiểu thuyết, một thể loại có ưu thế lớn nhất tạo nên sự đồ sộ, hoành

tráng của mỗi nền văn học. Sinh sau đẻ muộn so với nhiều loại hình khác

của văn học, tiểu thuyết xứng đáng là chiếc máy cái của mọi nền văn học.

Đồng thời vẫn còn đang phát triển - chưa định hình, chưa đông cứng. Tiểu

thuyết lịch sử được xem như là một thể tài của tiểu thuyết hướng tới đề tài

lịch sử. Những năm cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, tiểu

thuyết lịch sử phát triển tương đối mạnh mẽ với những tên tuổi: Hà Ân,

Thái Vũ, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Khắc Phục, Ngô

Văn Phú, Vũ Ngọc Đĩnh. ở ngoài nước với những tên tuổi: Nguyễn Mộng

Giác, Nam Dao... Dù viết ở trong hay ngoài nước, những tác phẩm đều tập

trung phản ánh lịch sử theo hai hướng chính: lịch sử là cứu cánh, lịch sử là

phương tiện. Cùng với tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết viễn tưởng

- sáng tạo ở thời tương lai - sẽ tạo nên sự phong phú, đa dạng sinh động cho

đời sống văn học. Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, những

phương tiện giải trí nghe, nhìn với nhiều hình thức, với thời lượng phát

sóng phủ sóng đủ đáp ứng nhu cầu giải trí của đại đa số quần chúng, thì

giải trí bằng tiểu thuyết, bằng văn học nói chung vẫn rất cần thiết. Mặt khác,

đời sống vật chất hiện nay được nâng lên rõ rệt, hơn nữa cường độ lao động

cũng phải gia tăng để phù hợp với thu nhập. Nhiều hình thức giải trí, du lịch

được cơ chế mở của chính sách tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, thu hút

quần chúng bạn đọc vào những hình thức giải trí như là sự ăn liền qua nghe

nhìn, như là sự thư giãn hoàn toàn qua du lịch. Vì lẽ trên, bạn đọc đối với

tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử có phần thưa vắng hơn trước là điều tất nhiên

và cũng là hợp với sự phát triển chung của hội nhập. Tiểu thuyết nói chung,

tiểu thuyết lịch sử nói riêng thường có độ dài dễ gây ngợp cho bạn đọc.

116

Mặc dù mặt bằng dân trí hiện nay đang được nâng lên tầm cao mới, song

sản phẩm mà tiểu thuyết trao cho độc giả là những con chữ im lặng trong

từng trang sách, đòi hỏi độc giả phải đối thoại với chính đối tượng chỉ biết

"im lặng", để tự tìm tòi, khám phá, Tiếp nhận tiểu thuyết không đơn thuần

là hình thức giải trí, nó là sự chiếm lĩnh một xã hội thu nhỏ trong tác phẩm.

Vì tiểu thuyết đòi hỏi văn hoá đọc ở một tầm cao, nên không là món ăn tinh

thần cho tất thảy mọi người, lại đặt bên cạnh nhiều hình thức giải trí nhất là

loại hình nghệ thuật thứ bẩy, bạn đọc tiểu thuyết ngày càng chọn lọc hơn.

Đời sống văn hoá đọc như trên đã đề cập, sẽ gây cho các nhà tiều thuyết

không ít những trăn trở về sự đón nhận tác phẩm của bạn đọc và cộng đồng

xã hội. Nhìn đơn thuần ở góc độ vật chất, nhà tiểu thuyết sáng tác không

phải vì tiền, không phải vì tác phẩm bị xem như là một loại hàng hoá, song

không thể không có ăn mà sống được. Mặt khác ở góc độ tinh thần tác

phẩm của nhà tiểu thuyết là đối thoại của tác giả với cuộc sống và là nhịp

cầu tâm giao với độc giả. Thiếu vắng độc giả, thiếu vắng tâm giao mà độc

giả là đồng tác giả, đây là một nỗi buồn khổ lớn nhất của các nhà tiểu thuyết

nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng.

Tiểu thuyết lịch sử là một hiện tượng văn học không mới. Trên văn

đàn Việt Nam đã hiện hữu vắt qua ba thế kỷ từ (Hoàng Lê Nhất Thống Chí

thế kỷ XVIII), tiểu thuyết lịch sử trong đời sống văn học hiện nay phát triển

theo hướng nào? Trong bối cảnh cơ chế thị trường, phương tiện giải trí

phong phú qua nghe nhìn, chất lượng tiểu thuyết nói chung dường như có

sự chững lại nhất là từ sau đất nước đổi mới, hội nhập, mở cửa. Tiểu thuyết

nói chung, tiểu thuyết lịch sử nói riêng phát triển với số lượng lớn song ít

tác phẩm hay, chất lượng cao, có hiện tượng chạy theo kinh tế thị trường,

mặc dù thể loại này đã được quan tâm về nhiều mặt của cơ chế, chính sách,

những cuộc vận động sáng tác theo các chủ điểm của đề tài chiến tranh cách

mạng, đề tài nông thôn... Mặt khác mặt bằng dân trí hiện nay có thể xem là

117

một đội ngũ bạn đọc "lý tưởng", sự chững lại của tiểu thuyết nói chung

trước một vận hội mới, lớn; theo chúng tôi nghĩ có lẽ là tín hiệu đáng mừng

vì đội ngũ bạn đọc có dân trí cao như hiện nay không phải là đội ngũ dễ tính

trong thưởng thức. Đội ngũ các nhà tiểu thuyết phải chăng đang chỉnh trang

lại mình bằng chính tài năng, để sáng tác, để có những tác phẩm hay không

chỉ hội nhập được trong thời đại bùng nổ của thông tin mà còn là sự hội

nhập văn học nói riêng, văn hoá nói chung trong cộng đồng các nước trong

khu vực và cộng đồng quốc tế. Tiểu thuyết lịch sử "Sông Côn mùa lũ" của

Nguyễn Mộng Giác là kết quả của lao động nghệ thuật nghiêm túc. Tác giả

tôn trọng lịch sử, hư cấu không làm phương hại đến lịch sử, dừng đúng

vạch cấm chỉ của lịch sử để có một tiểu thuyết lịch sử đi giữa cái khoảng

chông chênh: lịch sử và tiểu thuyết. Phần hư cấu của tác giả có thể nói là

thành công rõ rệt. Phần lịch sử viết về phương Nam phong phú, sinh động

có lẽ bởi tác giả tham khảo chi tiết và cụ thể: Đại Nam thực lục chính biên

và Đại Nam tiền biên liệt truyện cùng với các thư từ, ghi chép của các giáo

sĩ phương Tây. Phần viết về lịch sử miền Bắc, tác giả phụ thuộc vào Hoàng

Lê nhất thống chí nên có lẽ đuối hơn.

Tiểu thuyết lịch sử "Sông Côn mùa lũ " của Nguyễn Mộng Giác, có

mặt trong đời sống văn học là sự có mặt của bộ phận văn học ngoài nước.

Đất nước mở cửa, đón nhận những đứa con xa trở về, thể hiện quan tâm

lãnh đạo của Đảng thấu đáo ân tình về đời sống tinh thần và vật chất. Trong

vận hội mới của đất nước, của nhân loại ở thế kỷ XXI - thế kỷ của hợp tác,

của hội nhập, đất nước đang phát triển toàn diện, vững chắc. Đảng chủ

trương xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh với mục tiêu

công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chúng tôi tin tưởng rằng: văn học nói

chung; tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử nói riêng sẽ phát triển mạnh. Niềm tin

này có cơ sở vững chắc vì dưới sự lãnh đạo của Đảng; từ 1945 - 1975, văn

học 2 lần ra trận cùng đất nước, với sự góp mặt của tiểu thuyết, của văn học

118

nói chung đã góp phần không nhỏ vào thần tốc đại thắng mùa xuân 1975.

Các nhà tiểu thuyết đã làm tròn vai trò chiến sỹ trên mặt trận văn hoá tư

tưởng của một thời đánh giặc đã qua. Nhất định các nhà tiểu thuyết sẽ đồng

hành cùng đất nước với những đứa con tinh thần đáp ứng được sự mong

mỏi của nhu cầu văn hoá đọc của đội ngũ bạn đọc. Tiểu thuyết lịch sử đang

mong những nhà văn lớn - những nhà văn của một thời đánh giặc đang ở độ

tuổi vượt qua ngưỡng "tri thiên mệnh" vào cuộc. Những cây bút với độ

chín, độ từng trải cùng với nguồn tư liệu lịch sử phong phú, đầy đủ hơn như

hiện tại, nhất định tiểu thuyết lịch sử sẽ có những mùa bội thu. Các nhà tiểu

thuyết lịch sử nhất định sẽ xứng đáng với danh hiệu là "tiểu hoá công" của

cuộc đời và của đời sống văn học. Hơn nữa, một nguồn cung cấp đội ngũ

sáng tác lại rất dồi dào là sự trưởng thành của các hệ đào tạo chính quy, bài

bản, hiện đại của các trường đại học, của các khoá bồi dưỡng nhất định tiểu

thuyết, tiểu thuyết lịch sử sẽ có nhiều gương mặt mới, góp phần tạo nên

119

diện mạo mới của văn học Việt Nam ở thế kỷ XXI.

Thư mục tham khảo.

I - Những tài liệu kinh điển và lý luận

1- C Mác và Ăng-ghen 1958 - Về văn học và nghệ thuật - NXB Sự thật

3 - Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp

1963 - Bàn về văn hoá và văn nghệ - NXB Văn hoá nghệ thuật .

2 - Lê Nin 1958 - Bàn về văn hoá văn học - NXB Văn học

4 - Phan Cự Đệ - Về một nền lý luận phê bình Mác xít thế kỷ XX

(chuyên luận Thạc sỹ)

5 - Phan Cự Đệ 1974 - 1975 - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại

tập I, tập II - NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.

7 - Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết luận đề- tạp chí Nhà văn tháng 8 - 2002.

6 - Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết lịch sử - tạp chí Nhà văn số 1 - 2003

8 - Phan Cự Đệ , Mã Giang Lân, Hà Văn Đức, Bùi Việt Thắng - 2004 -

Văn

học Việt Nam thế kỷ XX - NXB - Giáo dục.

9 - Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung,

Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức - 1999- Văn học Việt Nam 1900 - 1945

10 - Phan Cự Đệ - 1999 - Văn học lãng mạn Việt Nam - 1930 - 1945

NXB Giáo dục

NXB Giáo dục.

11 - Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung - 1992 -Văn học Việt Nam

1930-1945 tập I, tập II - NXB - ĐH và GD chuyên nghiệp.

12- Hà Minh Đức - 2000 - Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về văn

hoá văn nghệ - Văn hoá Việt nam, xã hội và con người - NXB Khoa học xã hội.

13 - Hà Minh Đức - 1974 - Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại

NXB - KHXH.

14 - Hà Minh Đức: Mác -Ăng ghen, Lê Nin và một số vấn đề lý luận

văn học (chuyên luận Thạc sỹ)

15 - Hà Văn Đức - Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

120

(bài giảng- chuyên luận Thạc sỹ)

16- Phạm Gia Lâm - Tiểu thuyết chiến tranh Nga Xô Viết - Những vấn

đề về thi pháp của thể loại (chuyên luận Thạc sỹ)

17 - Mã Giang Lân, Hà Văn Đức, Bùi Việt Thắng - 2000 - Quá trình hiện

đại hoá văn học Việt Nam 1900 - 1945 - NXB - Thông tin.

18 - Mã Giang Lân-2000 -Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam - NXB Giáo dục

19 - Mã Giang Lân - Thơ lãng mạn Việt Nam - 1930 - 1945

(bài giảng chuyên luận Thạc sỹ)

20 - Nguyễn Trường Lịch - Chất trữ tình và lãng mạn trong tiểu thuyết

21 - Phạm Quang Long-Mấy vấn đề thi pháp học-Chuyên luận bài giảng thạc sỹ.

Tuôc ghênhép (chuyên luận Thạc sỹ)

22 - Phạm Quang Long - Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực (Borix

Xuskôv) - Suy nghĩ về phương pháp sáng tác - Chuyên luận thạc sỹ

23 - Trần Ngọc Vương - Loại hình học tác giả - Chuyên luận thạc sĩ.

II - Tác phẩm.

1 - Phan Bội Châu - Trùng quang tâm sử (NXB Văn học.H.1971 tái bản

2 - Khái Hưng - Tiêu Sơn Tráng Sĩ - NXB Văn nghệ TPHCM tái bản 2000

3 - Nguyễn Mộng Giác-Sông Côn mùa lũ-tập I-NXB Văn học 2003 tái bản.

4 - Nguyễn Mộng Giác-Sông Côn mùa lũ-tập II-NXBVăn học 2003 tái bản.

5 - Nguyễn Xuân Khánh. - Hồ Quý Ly - NXB Phụ nữ HN - 2002.

6. Ngô Gia Văn Phái - Hoàng Lê nhất thống chí - NXB Giáo dục - sách nhà

trường - H. 1970

7 - Chu Thiên - Bóng nước Hồ Gươm - 1970 NXB Văn học

8 - Nguyễn Huy Thiệp- Kiếm Sắc. Vàng lửa. Phẩm tiết. (Như những ngọn

gió) NXB Văn học 1999 - tái bản.

9 - Nguyễn Huy Tưởng - An Tư 1944 - 1945.

121

6 - Milan Kundera - Sự bất tử. Chậm rãi. Bản nguyên. -NXB Văn học 1999.

122

123